GIÁO HỌ DIOM
hôm qua và hôm nay
Bước vào năm 2008, Giáo Họ Diom xây dựng nhà thờ cũng là dịp mừng kỷ niệm 50 năm hình thành và phát triển Giáo Họ, và đây cũng là nhà thờ thứ ba của Giáo Họ. Thực ra công trình xây dựng này chỉ là phục hồi ngôi nhà thờ đơn sơ nhỏ bé đã được cha Darricau (MEP) dựng từ năm 1958. Nói là phục hồi vì từ tháng 10 năm 1975, ngôi nhà thờ thứ hai đã bị đóng cửa khi các cha Tây bị trục xuất khỏi Việt Nam, và rồi nhà thờ cũng đã bị phá vỡ và khu vực đất nhà thờ cũng bị trưng dụng. Trước tình hình giáo dân mỗi ngày một gia tăng, Giáo Họ Diom đã kiếm đất mới và xin phép xây dựng nhà nguyện để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt phụng vụ của hơn 2500 tín hữu Nam sông Đanhim.
Từ một Giáo Điểm truyền giáo cho người Churu bên Nam sông Đanhim, nay đã trở thành Giáo Họ Diom với một quá trình 50 năm hình thành và phát triển.
I* BƯỚC ĐẦU TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI CHURU :
Người Churu hay người K’Ho đều có chung những bước khởi đầu truyền giáo và gắn liền với Giáo Phận Đà Lạt.
1* Những bước chân nhà truyền giáo đầu tiên vùng cao nguyên Lâm Viên :
Nói đến việc khám phá ra Đà Lạt, người ta thường nghĩ ngay đến công lao của bác sĩ Yersin, nhà thám hiểm, đã phải vất vả tìm kiếm một vùng đất có khí hậu mát mẻ để mở đầu cho một làn sóng di dân lên vùng cao. Tuy nhiên, bước chân người Tây Phương đầu tiên đặt chân đến vùng đất cao nguyên này lại là một nhà truyền giáo đang hoạt động ở Phan Rang. Đó là cha Gonzague Villaume, tên Việt thường gọi là cha cố Đề, một linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris, đang coi sóc ở họ đạo Phan Rang, ngày nay là Giáo Xứ Tân Hội, được xem là Kitô hữu đầu tiên đặt chân lên vùng đất cao nguyên Đà Lạt này. Nguyên do vào năm 1885, một nhóm Văn Thân quá khích nổi lên đốt phá các làng Công Giáo, khiến cha Cố Đề cùng thầy sáu Khiêm và hai chú giúp lễ đã phải trốn lên dãy núi phía Đơn Dương bây giờ (đèo Ngoạn Mục), rồi dọc theo con sông Đanhim qua các làng Thượng như Labouye, Diom, M’Lon để đến Finôm tìm đường về Di Linh. Cha đã phải băng rừng vượt suối hơn 500 cây số trong suốt 24 ngày mới về tới Sài Gòn.
Năm 1890, bác sĩ Yersin, một con người có óc mạo hiểm đã tìm đến cha cố Đề để hỏi đường lên cao nguyên nhưng chuyến mạo hiểm theo ngả Phan Rí lên Tam Bố bất thành vì ông bị sốt rét. Phải ba năm sau, năm 1893, bác sĩ Yersin cùng đoàn thám hiểm, trong đó có cha Robert, quản lý hội Thừa Sai tháp tùng, đã lên hết đèo Sông-Pha, lần theo sông Đa Nhim qua đất Diom ra Fi-Nôm lên Prenn rồi đến tận chân núi Lang Bian là đất của người Lạch, và có lẽ tên Đà Lạt bây giờ có nghĩa là đất nước của người Lạt (ĐÀ : tiếng K’Ho có nghĩa là nước; LẠT là dân Lat).
Nếu năm 1838 được coi là cột mốc đầu tiên của việc truyền giáo cho các dân tộc thiểu số ở các vùng Kon Tum, Plêiku, Buôn Ma Thuật với các vị thừa sai dưới thời Đức cha Cuénot Thể, thì tại vùng cao nguyên Đà Lạt chúng ta phải đợi đến năm 1927 mới được coi là mốc điểm truyền giáo cho người dân tộc thiểu số qua sự họat động của cha Gioan Cát-Sanh (Jean Cassaigne). Thực ra vào năm 1921 cha Céleste Nicolas, Quản Xứ nhà thờ Nicôla Đà lạt, đã có những cuộc tiếp xúc với anh chị em K’Ho, ngài đã mở nội trú cho các con em người Thượng nhưng chẳng được bao lâu thì đóng cửa vì người Thượng chưa thể làm quen bầu khí thành thị.
2* Đức cha Gioan Cát-Sanh, ông tổ của những vị truyền giáo người Thượng.
Năm 1918, ngôi nhà nguyện đầu tiên mọc lên giữa vùng cao nguyên này là nhà xứ Chánh Tòa Đà Lạt bây giờ. Các vị thừa sai đã nghĩ đến việc truyền giáo cho người Thượng vùng cao nguyên này nhưng phải đợi đến năm 1927 ý định mới thành hiện thực. Đức cha Isodore Dumortier, đại diện tông tòa Sài Gòn, đã cắt cử cha Gioan Cát-Sanh lên Di Linh (Djiring), nơi có đồn điền của người Pháp để lo việc truyền giáo cho người Thượng.
Tháng 10 năm 1926, Cha Gioan Cát-Sanh lên đường từ Sài Gòn qua ngả Phan Thiết tới ga Ma Lâm thì gặp bão lụt lại phải quay trở về Sài Gòn, nên ngài đãø xuống Cái Mơn để học tiếng Việt. Đầu năm 1927, cha lại lên Đà Lạt rồi xuống Di Linh cùng với một người bếp là ông Mừơi điếc, chú giúp lễ tên là Nhân và 2 giáo dân làm thành một cộng đòan tín hữu đầu tiên giữa vùng núi hoang sơ. Cuộc sống ban đầu thật khó khăn, ngài bị ngã nước, sốt rét hầu như kinh niên. Dù vậy ngài vẫn không quên nhiệm vụ truyền giáo là tiếp xúc và đặc biệt là chăm sóc cho những người Thượng phong cùi bị buôn làng cách ly. Sau gần một năm, tức là ngày 7/12/1927 ngài mới Rửa Tội cho một người Thượng đầu tiên là Maria K’Trut, một người đàn bà bị phong cùi trong lúc hấp hối đã nói với ngài: “Khi con về thiên đàng, con sẽ nhớ tới cha”. Cha bắt đầu học tiếng K’Ho, soạn và in tự điển K’Ho - Pháp, dạy học, dạy giáo lý và cả chữa bệnh. Cha lập làng cùi và được chính quyền hỗ trợ. Người con nào cha cũng thương, nhưng đứa con đau khổ thì thương hơn.
Cha Cát-Sanh còn gia tăng họat động truyền giáo ở vùng Bắc Hội, và người tín hữu K’Ho đầu tiên của vùng này là anh K’Brai chịu Thánh Tẩy ngày 19/3/1930 và đến lễ Giáng Sinh thì cả gia đình theo đạo. Cha còn hoạt động truyền giáo ở cả họ đạo Xuân Trường, Cầu Đất, xây dựng nhà thờ Công Hinh là nhà thờ Bảo Lộc bây giờ, rồi đến K’Long, Kala…
Năm 1941 cha Gioan Cát-Sanh được gọi về làm giám mục Sài Gòn, tới năm 1955 ngài xin từ chức để trở về với những người phong cùi ở Di Linh. Đức Cha Cát-Sanh luôn xác tín công cuộc truyền giáo cho đồng bào sắc tộc vùng cao nguyên này có sự phù trợ chuyển cầu của người đàn bà phong cùi đầu tiên theo đạo.
3* Những Kitô hữu Churu đầu tiên :
Trước khi cha Darricau đến làng Diom truyền giáo cho những người Churu theo đạo thì tại làng Diom đã có một vài Kitô hữu người Churu rồi. Đó là cô Hélène Touneh Hàn Đào, anh Lucien-Francois Touneh Hàn Thọ và cả anh Pierre Kil K’Seê. Cả ba người này là con của vị Già Làng Diom, Touneh Hàn Đăng, một người có uy thế trong chính quyền và có tiếng nói quyết định đối với người Churu.
- Cô Touneh Hàn Đào là con cùng cha khác mẹ với anh Touneh Hàn Thọ. Già Làng Touenh Hàn Đăng là người Churu chính gốc, do chính sách Việt hóa các dân tộc thiểu số mà ông có thêm họ và tên Việt. Ông là một quan chức chính quyền từ thời vua Bảo Đại, ông kết hôn với một người Chăm tên là Lưu Thị Phung, sanh được hai người con trai là Touneh Hàn Tín và Touneh Hàn Định. Do quan hệ làm việc nay đây mai đó, ông đã có một người con ngoại hôn là Touneh Hàn Đào, gốc người Hoa. Sau khi bà vợ chết, ông Touenh Hàn Đăng đã cưới bà Nguyễn Thị Dung là người quê quán ở Huế. Bà Nguyễn Thị Dung sinh cho ông Touneh Hàn Đăng nhiều con trai nhưng không có người con gái nào. Đối với người Kinh, đàn ông phải có con trai nối dõi tông đường thì đối với người Thượng, gia đình phải có con gái mới là giữ nhà giữ cửa cho tổ tiên (chế độ mẫu hệ : gái bắt chồng). Vì thế, ông Touneh Hàn Đăng đã đưa cô Touneh Hàn Đào về nhà như là con nuôi để tránh tiếng với vợ và buôn làng. Cô Touneh Hàn Đào do được học ở các trường Công Giáo nên có cảm tình với đạo Công Giáo ngay từ bé, nhưng khổ nỗi bà mẹ nuôi (vợ Già làng Hàn Đăng) lại rất nghiêm ngặt, sách đạo cô đem về nhà đều bị bà đem đốt. Cuối cùng cô đã trốn mẹ nuôi, băng sông Đanhim tìm đến một nhà thờ gần nhất để được Rửa Tội. Cô đã đến nhà thờ Lạc Lâm vào cuối năm 1954 khi nhà thờ này mới hình thành sau đợt di cư từ Bắc vào Nam. Phụ trách di cư lúc ấy là cha Nguyễn Hữu Kỳ đã ban bí tích Thánh Tẩy cho cô với tên thánh là Hêùlêna, và người đỡ đầu là bà Hát ở gần nhà thờ Lạc Lâm. Do đang thời kỳ ổn định di cư nên không có sổ Rửa Tội và cũng không thể xác định chắc chắn cô được Rửa Tội ngày tháng nào.
- Anh Touneh Hàn Thọ, con của Già làng Touneh Hàn Đăng và bà Nguyễn Thị Dung, em cùng cha khác mẹ với cô Hàn Đào, đang khi theo học ở trường Lasan Adran đã xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo ngày 17/2/1955 tại Nhà thờ Nicôla Đà Lạt (bây giờ là Chánh Tòa Đà Lạt) với tên thánh là Lucien-Francois, sổ Rửa Tội số 5377bis, quyển số 9. Ông Lucien-Francois Touneh Hàn Thọ sau này có văn bằng Tiến sĩ Xã hội học tại nước Bỉ (rất tiếc luận án tiến sĩ của ông về đông bào sắc tộc sau năm 1975 đã bị bà Hàn Đào đốt sạch vì sợ liên lụy). Sau năm 1975, ông và gia đình đã định cư ở Mỹ và hiện đã qua đời.
- Anh Pierre Kil K’Seê, chồng cô Touneh Hàn Đào, người K’Ho, gốc ở Lạc Dương, học Giáo lý từ năm 1950 nhưng rồi bận đi lính nên mãi đến năm 1954 mới được cha Lefèvre Rửa Tội ở Trung Tâm Thượng Camly. Cha Lefèvre đã chứng hôn cho cặp vợ chồng Hélène Touneh Hàn Đào và Pierre K’Sé tại Trung Tâm thượng Camly năm 1955. Dân tộc K’Ho hay Churu đều theo chế độ mẫu hệ nên anh Pierre K’Se đã về làng Diom làm rể nhưng anh cũng ít có mặt ở Diom vì đang đi lính.
- Bé Maria Touneh Hàn Tuyết sinh ngày 22/9/1956, con đầu lòng của anh chị Hàn Đào và K’Seê, đã đuợc Rửa Tội ở Nhà thờ Nicôla Đà Lạt ngày 4/11/1956, sổ Rửa Tội số 6274, quyển số 10, người đỡ đầu là Maria Nguyễn Thị Đào (dựa vào chữ ký trong sổ Rửa Tội, cha Rửa Tội xin được phỏng đóan là cha Rôcô Trần Hữu Linh).
Đó là những Kitô hữu Churu đầu tiên của Đơn Dương và Đức Trọng, nói chung là Giáo Phận Đà Lạt (vì người Churu chỉ tập trung ở Đơn Dương dọc theo Nam sông Đanhim kéo dài đến Tahine), trước khi cha Darricau đến Thạnh Mỹ vào năm 1958 để thành lập Trung Tâm Thượng M’Lon, chính thức truyền giáo cho người Churu và K’Ho vùng Đơn Dương.
II* GIÁO ĐIỂM DIOM : CHIẾC NÔI TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI CHURU
Nĩi đến lịch sử truyền giáo Việt Nam phải nhắc đến một khuơn mặt đáng ghi nhớ là cha Alexandre de Rodhes (tên Việt gọi là cha Đắc Lộ) với việc hình thành chữ quốc ngữ; và nĩi đến lịch sử truyền giáo cho người Thượng trong Giáo Phận Đà Lạt phải kể đến cơng lao của Đức Cha Jean Cassaigne với sự kiện Rửa Tội tiên khởi cho một người đàn bà K’Ho bị phong cùi đang hấp hối ngày 7/12/1927, thì nĩi đến việc truyền giáo cho người Thượng vùng Đơn Dương phải nhắc đến cha Francois Darricau thành lập thí điểm truyền giáo đầu tiên ở M’Lon năm 1958.
1) Từ một khát mong ánh sáng :
Ngay từ năm 1954, cha Darricau đang phụ trách nhà thờ Dran cho ba cộng đồn người Việt thì một hơm trên đường từ Dran đến Finơm, cha gặp một nhĩm người Churu trẻ ở Diom chặn đường nĩi với Cha bằng tiếng Pháp về một ước mong cĩ một cha về buơn làng coi sĩc vì họ đang ở trong bĩng tối nên rất mong được ánh sáng. Cảm động vì tâm tình đơn sơ và khát mong chân chính của họ nhưng Cha khơng biết phải làm thế nào vì Cha chưa biết tí gì về ngơn ngữ Churu của họ. Cũng trong năm đĩ, cha Darricau lại đổi về Kala, Di Linh để truyền giáo và học tiếng K’Ho. Sau đĩ một số cha phĩ Đà lạt người Việt xuống tiếp cận với người Churu ở Diom để làm cơng tác miền Thượng như phân phát thực phẩm và thuốc men.
Duyên nợ lại đến vào cuối năm 1957 khi cha Darricau được sai đến M’Lon để thăm dị (chưa ở hẳn), thành lập thí điểm truyền giáo, khởi sự cơng việc truyền giáo cho người Thượng vùng Đơn Dương (Dran). Ngày 16/7/1958, Đức Cha Gioan Cát Sanh (Jean Cassaigne), đã về khánh thành Trung Tâm Thượng M’Lon (Centre Montagnard de M’Lon). Bận tâm đầu tiên của cha Darricau lúc này là tìm đến với anh chị em Churu ở buơn làng Diom, đáp lại lời thỉnh cầu năm nào : “Chúng con đang sống trong bĩng tối, rất mong ánh sáng !”. Cha Darricau đã dựng nhà thờ ở Diom để chiều thứ Bảy thì sang tập giúp lễ, tập hát bằng tiếng Latinh để sáng Chúa Nhật dâng lễ dù rằng ‘giáo dân’ thì chưa được Rửa Tội. Sau thánh lễ là Cha miệt mài trong việc giảng dạy Giáo lý cho bà con buơn làng Diom và các làng kế cận từ năm này sang năm khác mà khơng vội Rửa Tội ngay. Tuy nhiên, cha Darricau vẫn ưu tiên và đĩn nhận các em bé sơ sinh gia nhập Hội Thánh.
2) đem đến kết quả đầu tay :
Cuốn Sổ Rửa Tội của Trung Tâm Thượng M’Lon ghi số 1 và 2 là hai em bé người Việt ở M’Lon, và bắt đầu từ số thứ 3 là rất đơng các em bé người Churu ở Diom, B’Kè, B’Kăn, Tơnhiang, Diom B (Petit Diom), Kadơ rồi mới đến M’Lon, M’Răng, K’răng Go, Labouye …
Em bé số 1 cĩ tên là Maria Câu Thị Nhung sinh ngày 16/4/1958 và được Cha Darricau Rửa Tội ngày 7/9/1958 ở M’Lon. Em bé số 2 là Anna Nguyễn Thị Cường sinh ngày 11/4/1959 và được Cha Rửa Tội ngày 15/4/1959 tại M’Lon.
Em bé số 3 trong cuốn sổ Rửa Tội của cha Darricau là Pierre Touneh Phụng, con ơng Pierre Kil K’Se và bà Hélène Touneh Hàn Đào, sinh ngày 19/5/1959 và được cha Darricau Rửa Tội ngày 7/6/1959 tại Diom, và hiện nay đang định cư ở Hoa Kỳ. Cha mẹ em bé này hiện cịn đang sống ở Diom, và như đã nĩi ở trên, cha mẹ em bé này đã là tân tịng được 5 năm. Tiếp ngay sau đĩ, cũng trong năm 1959, cha Darricau Rửa Tội một loạt cho các em bé ở Tân Hiên (trong Sổ RT ghi là Tơnhiang), B’Kăn (Kan), Diom, B’Kè (N’Kệ), Dran-Nrai; và các làng này đều được Cha chú thích thêm trong ngoặc là Diom, nghĩa là Cha xem Diom là Giáo Điểm chính.
Mãi đến ngày 26/12/1959, một số người K’Ho đầu tiên vùng Đơn Dương mới được cha Darricau Rửa Tội tại M’Lon, và đây là những dự tịng thực thụ chứ khơng phải là trẻ sơ sinh như ở Diom. Đĩ là gia đình ơng Jean Ya Ta (SRT số 20 và ghi sinh ngày 28/7/1928, con ơng Ya Bo và bà M’Mun), bà vợ của ơng là Marie Jeanne H’Gung (SRT số 21, gốc Ban Me Thuột, sinh năm 1930, hiện đã về Ban Mê Thuật), và bốn người con của ơng bà (bà H’Gung và ba người con gái được bà Marie Francoise De Guenyvau đỡ đầu). Kế đến là gia đình ơng Michel Krơng (đã chết) cùng vợ là bà Marie Anne Ka-Del và bốn người con ở Da-Ding. Cũng trong ngày này (26/12/1959), Cha Rửa Tội cho cơ Marie-Marthe Ma Chuơng, 16 tuổi, và cơ này sau đĩ cùng chồng thường sang Diom đỡ đầu cho nhiều em bé. Thường làm việc mục vụ với cha Darricau ở Diom cĩ anh Joseph K’Sur (giúp bếp, hiện đang định cư ở Diom B), vợ chồng chị Ma Chuơng - Thomas K’Bài, sau này thêm anh Jean Ya Ta và anh Michel Krơng ở M’Lon.
Từ năm 1961, các cha thừa sai MEP đã trao vùng Nam sơng Đanhim cho các cha thuộc tu hội Vinh Sơn (Cartier, Dulucq, Déthune, Jacques Gros, Berset…), và năm 1962, Đức Cha Simon Hịa Nguyễn Văn Hiền đã về dâng thánh lễ ban phép Thánh Tẩy cho một vị Già Làng Churu ở Diom là ơng René Touneh Hàn Đăng (ơng nội của em bé Pierre Touneh Hàn Phụng, đối với người Việt là ơng ngoại). Vị Già làng này được chính cha René Dulucq đỡ đầu. Khoảng một năm sau, chính Già Làng này đã kéo theo năm làng cùng Rửa Tội (Sổ RT của M’Lon khơng ghi sổ những tân tịng này vì lúc này Giáo Điểm Diom đã thuộc trách nhiệm của các cha Lazaristes). Cánh đồng truyền giáo cho người Churu Nam sơng Đanhim từ Diom đến Tahine lại được các cha thuộc tu hội Vinh Sơn tiếp tục gieo trồng và gặt hái.
3) để cĩ một vài ghi nhận :
- Như vậy cĩ thể nĩi cha Darricau khởi sự truyền giáo cho người Churu trước tiên, dù sống ở M’Lon nhưng truyền giáo đầu tiên ở Diom vì cơng việc ở M’Lon thường được cha giao cho các soeur dịng Phan Sinh (1959); và em bé Pierre Touneh Hàn Phụng là Kitơ hữu người Thượng đầu tiên (7/6/1959) của Giáo Hạt Đơn Dương khởi sự từ cơng cuộc truyền giáo của cha Darricau. Em bé tiên khởi Pierre Touneh Hàn Phụng cũng là đại diện cho 3 dân tộc, vì em là người Churu cĩ bố là người K’Ho (Làc) và mẹ là người Kinh (nửa Churu nửa Hoa, con riêng của Touneh Hàn Đăng).
- Cĩ thể xem Diom là chiếc nơi đức tin của người Churu vùng Đơn Dương và cả Giáo Phận Đà Lạt, vì nhà truyền giáo tiên khởi là cha Darricau hay các cha Vinh Sơn tiếp nối đều hoạt động truyền giáo từ Diom rồi mới đến các buơn làng khác dọc theo Nam sơng Đanhim đến Tahine thuộc vùng Đức Trọng. Theo Già làng Touneh Hàn Đăng, tên gọi Diom cĩ lẽ bắt nguồn từ một ơng bà tổ (mị kêi pàng) ngày xưa cĩ họ hàng rất gần nhau (con cơ con cậu) mà lại bắt nhau. Đĩ là một xỉ nhục cho gia đình dịng tộc nên ơng bà đã phải sống ẩn dấu ở một khu rừng rậm là làng Diom bây giờ, tránh tiếng xấu cho gia đình và bản thân. Trong tiếng Churu, Diom hay Jơm cĩ nghĩa là tủ kín, lấy lá cây che lại. Cha Darricau đã phiên âm từ Jơm thành Diom, cịn dân Lạc Viên thường gọi Jơm là bên Dầm.
- Cha Darricau là người đầu tiên khởi sự cơng cuộc truyền giáo cho người Churu và K’Ho vùng Đơn Dương, và cũng là người xây dựng rất nhiều nhà thờ cho người Thượng. Cĩ tới 23 nhà thờ do cha Darricau khởi dựng; chung quanh Diom cũng cĩ tới mấy nhà thờ, dĩ nhiên chỉ là những nhà thờ nhỏ bé và rất khiêm tốn, đủ để thỉnh thoảng đến dâng lễ và truyền giáo.
III* GIÁO ĐIỂM DIOM SÁT NHẬP GIÁO XỨ LẠC VIÊN
Giáo Điểm Diom khởi sự từ cha Darricau dựng nhà thờ từ năm 1958, dạy Giáo lý dự tòng cho buôn làng Diom’A và các làng kế cận như B’Kăn, B’Kè, Diom’B và Tơnhiang đến năm 1961 thì chuyển giao cho các cha tu hội Vinh Sơn. Cha Cartier về Diom năm 1961 rồi cha Dulucq, cha Déthune, cha Jacques Gros và cuối cùng là cha Berset. Sau biến cố 30/4/1975, cha Berset vẫn bám trụ ở Diom cho đến tháng 10 năm 1975 thì bị trục xuất khỏi Việt Nam.
Các tín hữu vùng Diom như đoàn chiên tan tác không người chăn dắt, không tụ họp đọc kinh, không thánh lễ nhưng mãi rồi cũng phải tìm kiếm một nhà thờ nào gần nhất còn mở cửa để lãnh nhận các bí tích. Các tín hữu Diom B và B’Kè tìm đến nhà thờ Châu Sơn là gần nhất, còn tín hữu Diom A và B’Kăn lặn lội qua sông tìm đến nhà thờ Lạc Viên để xin gia nhập Giáo Xứ. Giáo Điểm Labouye thuộc sắc tộc K’Ho ở đầu làng Lạc Viên cũng sát nhập vào Giáo Xứ Lạc Viên. Diom và Lạc Viên không cách xa nhau lắm, chỉ vài cây số, duy chỉ làng Tơnhiang là phải mất hai tiếng đồng hồ đi bộ mới tới nhà thờ Lạc Viên. Tuy nhiên con sông Đanhim vẫn là trở ngại chính, mùa nắng lội bộ, còn mùa mưa chỉ có cách bơi bè, song rất nguy hiểm vì dòng sông xả lũ sắn sàng cuốn trôi tất cả.
Cha cố Phêrô Trần Bảo Thạch, Quản Xứ Lạc Viên, là người tiếp nhận làng Diom và B’Kăn gia nhập Giáo Xứ, song vì thời cuộc sau năm 1975 rất khó khăn, không thể có sự tiếp cận song cha vẫn chu đáo trong các trách vụ đối với anh chị em dân tộc. Mãi đến cuối năm 2004, Diom A, B’Kăn và Labouye mới chính thức trở thành ba Giáo Khu của Giáo Xứ Lạc Viên với quyền lợi và nghĩa vụ như các Giáo Khu khác.
IV* GIÁO ĐIỂM DIOM CÓ THÊM NGƯỜI KINH
Sau năm 1975, nhà nước phát động phong trào giãn dân sang kinh tế mới ở Nam sông Đanhim, nhiều người ở Lạc Viên đã sang sông khai khẩn đất đai khu đồi còn hoang sơ giữa Diom A và Diom B. Cuộc sống ban đầu thật khó khăn và vất vả, đã thiếu ăn lại còn thiếu an ninh, nhiều người đã bỏ về Lạc Viên hoặc đi lập cư ở nơi khác. Nhiều người vẫn bám lấy mảnh đất, nhặt từng viên đá, đào từng gốc cây và vun xới cho mảnh đất thêm màu mỡ. Khu vực kinh tế mới ngày càng đi dần vào ổn định và nề nếp. Số gia đình lập cư hiện nay là hơn 100 hộ, ngót 500 nhân khẩu. Tên gọi giãn dân đã trở thành quen thuộc đối với người Lạc Viên, và nó cũng đã trở thành tên riêng của vùng kinh tế mới với tên gọi : thôn Giãn Dân. Công việc làm ăn sinh sống ban đầu có nhiều khó khăn, còn bây giờ thì đã ‘hằng ngày dùng đủ’. Tuy nhiên về mặt tôn giáo còn nhiều khó khăn và rất nhiều phấn đấu. Người Giãn Dân phải lặn lội về Lạc Viên tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, trẻ em về học Giáo lý, người già thì về nhà người thân ở Lạc Viên vào cuối tuần để Chúa Nhật tham dự phụng vụ. Bà con Giãn Dân phải nỗ lực rất nhiều để dần dần tự lập : ban trắc, ban nhạc, ban kèn được hình thành từng bước cùng với các đoàn thể ban nhóm.
Gia đình ông Tuynh, ông Thịnh, ông Thục là những người đi kinh tế mới theo kế hoạch giãn dân của nhà nước, và đã khai phá được một số đất đai canh tác. Đây là những người có tâm huyết với các công việc chung và sẵn sàng dâng hiến đất cho Tòa Giám Mục để xây dựng nhà thờ Diom. Số đất dâng hiến của ba hộ này cho nhà thờ là 9.833 mét vuông. Sáu sào của gia đình ông Tuynh được thiết kế xây dựng nhà thờ và nhà xứ, ba sào của gia đình ông Thục dùng để xây dựng hội trường và các phòng giáo lý, còn một sào rưỡi của gia đình ông Thịnh dùng để mở một con đường rộng 6 mét từ đường nhựa vào nhà thờ.
Giáo Khu 5 hiểu rằng ngôi nhà thờ mọc lên trên phần đất của mình cũng nhằm để phục vụ anh chị em người Thượng sống bao quanh. Giáo Khu 5 đã bầu Ban điều hành xây dựng nhà thờ Diom, gồm các ông : ông Linh, ông Thục, ông Hiếu, ông Tiến, ông Thuận, ông Vĩnh và cô Ma Sa. Sau khi được UBND tỉnh Lâm Đồng giao đất, ban điều hành đã bắt tay vào việc san mặt bằng để chuẩn bị cho ngày lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng nhà thờ Diom.
V* GIÁO HỌ DIOM HÔM NAY.
Ngôi nhà thờ Diom đang khởi công xây dựng mang nét Gothique cổ kính của Giáo Hội đã có từ bao đời, và mãi mãi giữ được nét đẹp thiêng thánh mà không bị lỗi thời. Nhà thờ Diom theo kiến trúc Tây Phương, có một tháp nhọn cao vút giữa thinh không để tưởng nhớ và biết ơn các cha truyền giáo đã vất vả bước đầu gieo trồng, và hài hòa với một vài nét hoa văn dân tộc vùng cao để ghi ơn những bậc Già làng ngày xưa đã hăm hở đón nhận đức tin và truyền lại cho con cháu.
Mong ước có một ngôi nhà thờ bên khu vực Nam sông Đanhim không những là khát vọng của hơn 2500 tín hữu Kinh và Thượng mà còn là mong mỏi của toàn thể Giáo Xứ Lạc Viên, vì đường đi ngăn sông cách trở, vì nhu cầu phụng vụ của những tín hữu nghèo khổ và vì tâm tình bác ái truyền giáo của Giáo Xứ. Giáo Họ Diom bây giờ đã trưởng thành hơn nhiều trong việc đảm nhiệm dạy và học Giáo lý, giúp lễ và hát lễ bằng ngôn ngữ Churu, nhiệt thành tham gia các công tác chung của Giáo Xứ và xã hội.
Giáo Họ Diom là chiếc nôi đức tin và truyền giáo cho người Churu trong Giáo Phận Đà Lạt, giờ đây cũng đã cống hiến cho Giáo Hội những người con ưu tú, dâng hiến cuộc đời mình cho công cuộc truyền giáo. Đó là linh mục Phaolô Bơnahria Ya Tine, nối gót các vị truyền giáo thưở ban đầu của Diom trong tu hội Vinh Sơn. Thầy Bơnahria Ya In hiến mình trong đan viện Châu Sơn để cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo. Thầy Touneh Hàn Kim Tứ dâng mình trong dòng Chúa Cứu Thế để rao giảng Tin Mừng. Các chị như Touneh Nai Nguyệt và Touneh Nai Thiệp lại ươm trong mình hạt giống truyền giáo ở những vùng đất xa xôi khi gia nhập tu hội Nước Hằng Sống, và còn những hạt mầm khác nữa đang mọc lên…
Năm Mươi Năm truyền giáo cho người Churu khởi sự từ Diom đến hôm nay đã có gần 7000 tín hữu Churu Hạt Đơn Dương và gần 5000 tín hữu Churu Hạt Đức Trọng. Giáo Họ Diom có khoảng 2000 tín hữu Churu và một ít tín hữu K’Ho, Chăm… Sự hiện diện của anh chị em Churu trong Giáo Xứ Lạc Viên là một nét nổi bật, và cũng là một hồng ân Chúa ban tặng cho Giáo Xứ trong sứ vụ truyền giáo.
Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho Giáo Họ Diom và nhất là ngôi nhà thờ đang được phục hồi đem lại thiện ích cho bà con tín hữu. Giáo Xứ Lạc Viên rất mong mỏi được đón nhận những tấm lòng quảng đại của quý vị ân nhân để ngôi nhà thờ sớm đi vào sử dụng.
Lm. Phaolô Phạm Công Phương
www.simonhoadalat.com
hôm qua và hôm nay
Bước vào năm 2008, Giáo Họ Diom xây dựng nhà thờ cũng là dịp mừng kỷ niệm 50 năm hình thành và phát triển Giáo Họ, và đây cũng là nhà thờ thứ ba của Giáo Họ. Thực ra công trình xây dựng này chỉ là phục hồi ngôi nhà thờ đơn sơ nhỏ bé đã được cha Darricau (MEP) dựng từ năm 1958. Nói là phục hồi vì từ tháng 10 năm 1975, ngôi nhà thờ thứ hai đã bị đóng cửa khi các cha Tây bị trục xuất khỏi Việt Nam, và rồi nhà thờ cũng đã bị phá vỡ và khu vực đất nhà thờ cũng bị trưng dụng. Trước tình hình giáo dân mỗi ngày một gia tăng, Giáo Họ Diom đã kiếm đất mới và xin phép xây dựng nhà nguyện để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt phụng vụ của hơn 2500 tín hữu Nam sông Đanhim.
Từ một Giáo Điểm truyền giáo cho người Churu bên Nam sông Đanhim, nay đã trở thành Giáo Họ Diom với một quá trình 50 năm hình thành và phát triển.
I* BƯỚC ĐẦU TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI CHURU :
Người Churu hay người K’Ho đều có chung những bước khởi đầu truyền giáo và gắn liền với Giáo Phận Đà Lạt.
1* Những bước chân nhà truyền giáo đầu tiên vùng cao nguyên Lâm Viên :
Nói đến việc khám phá ra Đà Lạt, người ta thường nghĩ ngay đến công lao của bác sĩ Yersin, nhà thám hiểm, đã phải vất vả tìm kiếm một vùng đất có khí hậu mát mẻ để mở đầu cho một làn sóng di dân lên vùng cao. Tuy nhiên, bước chân người Tây Phương đầu tiên đặt chân đến vùng đất cao nguyên này lại là một nhà truyền giáo đang hoạt động ở Phan Rang. Đó là cha Gonzague Villaume, tên Việt thường gọi là cha cố Đề, một linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris, đang coi sóc ở họ đạo Phan Rang, ngày nay là Giáo Xứ Tân Hội, được xem là Kitô hữu đầu tiên đặt chân lên vùng đất cao nguyên Đà Lạt này. Nguyên do vào năm 1885, một nhóm Văn Thân quá khích nổi lên đốt phá các làng Công Giáo, khiến cha Cố Đề cùng thầy sáu Khiêm và hai chú giúp lễ đã phải trốn lên dãy núi phía Đơn Dương bây giờ (đèo Ngoạn Mục), rồi dọc theo con sông Đanhim qua các làng Thượng như Labouye, Diom, M’Lon để đến Finôm tìm đường về Di Linh. Cha đã phải băng rừng vượt suối hơn 500 cây số trong suốt 24 ngày mới về tới Sài Gòn.
Năm 1890, bác sĩ Yersin, một con người có óc mạo hiểm đã tìm đến cha cố Đề để hỏi đường lên cao nguyên nhưng chuyến mạo hiểm theo ngả Phan Rí lên Tam Bố bất thành vì ông bị sốt rét. Phải ba năm sau, năm 1893, bác sĩ Yersin cùng đoàn thám hiểm, trong đó có cha Robert, quản lý hội Thừa Sai tháp tùng, đã lên hết đèo Sông-Pha, lần theo sông Đa Nhim qua đất Diom ra Fi-Nôm lên Prenn rồi đến tận chân núi Lang Bian là đất của người Lạch, và có lẽ tên Đà Lạt bây giờ có nghĩa là đất nước của người Lạt (ĐÀ : tiếng K’Ho có nghĩa là nước; LẠT là dân Lat).
Nếu năm 1838 được coi là cột mốc đầu tiên của việc truyền giáo cho các dân tộc thiểu số ở các vùng Kon Tum, Plêiku, Buôn Ma Thuật với các vị thừa sai dưới thời Đức cha Cuénot Thể, thì tại vùng cao nguyên Đà Lạt chúng ta phải đợi đến năm 1927 mới được coi là mốc điểm truyền giáo cho người dân tộc thiểu số qua sự họat động của cha Gioan Cát-Sanh (Jean Cassaigne). Thực ra vào năm 1921 cha Céleste Nicolas, Quản Xứ nhà thờ Nicôla Đà lạt, đã có những cuộc tiếp xúc với anh chị em K’Ho, ngài đã mở nội trú cho các con em người Thượng nhưng chẳng được bao lâu thì đóng cửa vì người Thượng chưa thể làm quen bầu khí thành thị.
2* Đức cha Gioan Cát-Sanh, ông tổ của những vị truyền giáo người Thượng.
Năm 1918, ngôi nhà nguyện đầu tiên mọc lên giữa vùng cao nguyên này là nhà xứ Chánh Tòa Đà Lạt bây giờ. Các vị thừa sai đã nghĩ đến việc truyền giáo cho người Thượng vùng cao nguyên này nhưng phải đợi đến năm 1927 ý định mới thành hiện thực. Đức cha Isodore Dumortier, đại diện tông tòa Sài Gòn, đã cắt cử cha Gioan Cát-Sanh lên Di Linh (Djiring), nơi có đồn điền của người Pháp để lo việc truyền giáo cho người Thượng.
Tháng 10 năm 1926, Cha Gioan Cát-Sanh lên đường từ Sài Gòn qua ngả Phan Thiết tới ga Ma Lâm thì gặp bão lụt lại phải quay trở về Sài Gòn, nên ngài đãø xuống Cái Mơn để học tiếng Việt. Đầu năm 1927, cha lại lên Đà Lạt rồi xuống Di Linh cùng với một người bếp là ông Mừơi điếc, chú giúp lễ tên là Nhân và 2 giáo dân làm thành một cộng đòan tín hữu đầu tiên giữa vùng núi hoang sơ. Cuộc sống ban đầu thật khó khăn, ngài bị ngã nước, sốt rét hầu như kinh niên. Dù vậy ngài vẫn không quên nhiệm vụ truyền giáo là tiếp xúc và đặc biệt là chăm sóc cho những người Thượng phong cùi bị buôn làng cách ly. Sau gần một năm, tức là ngày 7/12/1927 ngài mới Rửa Tội cho một người Thượng đầu tiên là Maria K’Trut, một người đàn bà bị phong cùi trong lúc hấp hối đã nói với ngài: “Khi con về thiên đàng, con sẽ nhớ tới cha”. Cha bắt đầu học tiếng K’Ho, soạn và in tự điển K’Ho - Pháp, dạy học, dạy giáo lý và cả chữa bệnh. Cha lập làng cùi và được chính quyền hỗ trợ. Người con nào cha cũng thương, nhưng đứa con đau khổ thì thương hơn.
Cha Cát-Sanh còn gia tăng họat động truyền giáo ở vùng Bắc Hội, và người tín hữu K’Ho đầu tiên của vùng này là anh K’Brai chịu Thánh Tẩy ngày 19/3/1930 và đến lễ Giáng Sinh thì cả gia đình theo đạo. Cha còn hoạt động truyền giáo ở cả họ đạo Xuân Trường, Cầu Đất, xây dựng nhà thờ Công Hinh là nhà thờ Bảo Lộc bây giờ, rồi đến K’Long, Kala…
Năm 1941 cha Gioan Cát-Sanh được gọi về làm giám mục Sài Gòn, tới năm 1955 ngài xin từ chức để trở về với những người phong cùi ở Di Linh. Đức Cha Cát-Sanh luôn xác tín công cuộc truyền giáo cho đồng bào sắc tộc vùng cao nguyên này có sự phù trợ chuyển cầu của người đàn bà phong cùi đầu tiên theo đạo.
3* Những Kitô hữu Churu đầu tiên :
Trước khi cha Darricau đến làng Diom truyền giáo cho những người Churu theo đạo thì tại làng Diom đã có một vài Kitô hữu người Churu rồi. Đó là cô Hélène Touneh Hàn Đào, anh Lucien-Francois Touneh Hàn Thọ và cả anh Pierre Kil K’Seê. Cả ba người này là con của vị Già Làng Diom, Touneh Hàn Đăng, một người có uy thế trong chính quyền và có tiếng nói quyết định đối với người Churu.
- Cô Touneh Hàn Đào là con cùng cha khác mẹ với anh Touneh Hàn Thọ. Già Làng Touenh Hàn Đăng là người Churu chính gốc, do chính sách Việt hóa các dân tộc thiểu số mà ông có thêm họ và tên Việt. Ông là một quan chức chính quyền từ thời vua Bảo Đại, ông kết hôn với một người Chăm tên là Lưu Thị Phung, sanh được hai người con trai là Touneh Hàn Tín và Touneh Hàn Định. Do quan hệ làm việc nay đây mai đó, ông đã có một người con ngoại hôn là Touneh Hàn Đào, gốc người Hoa. Sau khi bà vợ chết, ông Touenh Hàn Đăng đã cưới bà Nguyễn Thị Dung là người quê quán ở Huế. Bà Nguyễn Thị Dung sinh cho ông Touneh Hàn Đăng nhiều con trai nhưng không có người con gái nào. Đối với người Kinh, đàn ông phải có con trai nối dõi tông đường thì đối với người Thượng, gia đình phải có con gái mới là giữ nhà giữ cửa cho tổ tiên (chế độ mẫu hệ : gái bắt chồng). Vì thế, ông Touneh Hàn Đăng đã đưa cô Touneh Hàn Đào về nhà như là con nuôi để tránh tiếng với vợ và buôn làng. Cô Touneh Hàn Đào do được học ở các trường Công Giáo nên có cảm tình với đạo Công Giáo ngay từ bé, nhưng khổ nỗi bà mẹ nuôi (vợ Già làng Hàn Đăng) lại rất nghiêm ngặt, sách đạo cô đem về nhà đều bị bà đem đốt. Cuối cùng cô đã trốn mẹ nuôi, băng sông Đanhim tìm đến một nhà thờ gần nhất để được Rửa Tội. Cô đã đến nhà thờ Lạc Lâm vào cuối năm 1954 khi nhà thờ này mới hình thành sau đợt di cư từ Bắc vào Nam. Phụ trách di cư lúc ấy là cha Nguyễn Hữu Kỳ đã ban bí tích Thánh Tẩy cho cô với tên thánh là Hêùlêna, và người đỡ đầu là bà Hát ở gần nhà thờ Lạc Lâm. Do đang thời kỳ ổn định di cư nên không có sổ Rửa Tội và cũng không thể xác định chắc chắn cô được Rửa Tội ngày tháng nào.
- Anh Touneh Hàn Thọ, con của Già làng Touneh Hàn Đăng và bà Nguyễn Thị Dung, em cùng cha khác mẹ với cô Hàn Đào, đang khi theo học ở trường Lasan Adran đã xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo ngày 17/2/1955 tại Nhà thờ Nicôla Đà Lạt (bây giờ là Chánh Tòa Đà Lạt) với tên thánh là Lucien-Francois, sổ Rửa Tội số 5377bis, quyển số 9. Ông Lucien-Francois Touneh Hàn Thọ sau này có văn bằng Tiến sĩ Xã hội học tại nước Bỉ (rất tiếc luận án tiến sĩ của ông về đông bào sắc tộc sau năm 1975 đã bị bà Hàn Đào đốt sạch vì sợ liên lụy). Sau năm 1975, ông và gia đình đã định cư ở Mỹ và hiện đã qua đời.
- Anh Pierre Kil K’Seê, chồng cô Touneh Hàn Đào, người K’Ho, gốc ở Lạc Dương, học Giáo lý từ năm 1950 nhưng rồi bận đi lính nên mãi đến năm 1954 mới được cha Lefèvre Rửa Tội ở Trung Tâm Thượng Camly. Cha Lefèvre đã chứng hôn cho cặp vợ chồng Hélène Touneh Hàn Đào và Pierre K’Sé tại Trung Tâm thượng Camly năm 1955. Dân tộc K’Ho hay Churu đều theo chế độ mẫu hệ nên anh Pierre K’Se đã về làng Diom làm rể nhưng anh cũng ít có mặt ở Diom vì đang đi lính.
- Bé Maria Touneh Hàn Tuyết sinh ngày 22/9/1956, con đầu lòng của anh chị Hàn Đào và K’Seê, đã đuợc Rửa Tội ở Nhà thờ Nicôla Đà Lạt ngày 4/11/1956, sổ Rửa Tội số 6274, quyển số 10, người đỡ đầu là Maria Nguyễn Thị Đào (dựa vào chữ ký trong sổ Rửa Tội, cha Rửa Tội xin được phỏng đóan là cha Rôcô Trần Hữu Linh).
Đó là những Kitô hữu Churu đầu tiên của Đơn Dương và Đức Trọng, nói chung là Giáo Phận Đà Lạt (vì người Churu chỉ tập trung ở Đơn Dương dọc theo Nam sông Đanhim kéo dài đến Tahine), trước khi cha Darricau đến Thạnh Mỹ vào năm 1958 để thành lập Trung Tâm Thượng M’Lon, chính thức truyền giáo cho người Churu và K’Ho vùng Đơn Dương.
II* GIÁO ĐIỂM DIOM : CHIẾC NÔI TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI CHURU
Nĩi đến lịch sử truyền giáo Việt Nam phải nhắc đến một khuơn mặt đáng ghi nhớ là cha Alexandre de Rodhes (tên Việt gọi là cha Đắc Lộ) với việc hình thành chữ quốc ngữ; và nĩi đến lịch sử truyền giáo cho người Thượng trong Giáo Phận Đà Lạt phải kể đến cơng lao của Đức Cha Jean Cassaigne với sự kiện Rửa Tội tiên khởi cho một người đàn bà K’Ho bị phong cùi đang hấp hối ngày 7/12/1927, thì nĩi đến việc truyền giáo cho người Thượng vùng Đơn Dương phải nhắc đến cha Francois Darricau thành lập thí điểm truyền giáo đầu tiên ở M’Lon năm 1958.
1) Từ một khát mong ánh sáng :
Ngay từ năm 1954, cha Darricau đang phụ trách nhà thờ Dran cho ba cộng đồn người Việt thì một hơm trên đường từ Dran đến Finơm, cha gặp một nhĩm người Churu trẻ ở Diom chặn đường nĩi với Cha bằng tiếng Pháp về một ước mong cĩ một cha về buơn làng coi sĩc vì họ đang ở trong bĩng tối nên rất mong được ánh sáng. Cảm động vì tâm tình đơn sơ và khát mong chân chính của họ nhưng Cha khơng biết phải làm thế nào vì Cha chưa biết tí gì về ngơn ngữ Churu của họ. Cũng trong năm đĩ, cha Darricau lại đổi về Kala, Di Linh để truyền giáo và học tiếng K’Ho. Sau đĩ một số cha phĩ Đà lạt người Việt xuống tiếp cận với người Churu ở Diom để làm cơng tác miền Thượng như phân phát thực phẩm và thuốc men.
Duyên nợ lại đến vào cuối năm 1957 khi cha Darricau được sai đến M’Lon để thăm dị (chưa ở hẳn), thành lập thí điểm truyền giáo, khởi sự cơng việc truyền giáo cho người Thượng vùng Đơn Dương (Dran). Ngày 16/7/1958, Đức Cha Gioan Cát Sanh (Jean Cassaigne), đã về khánh thành Trung Tâm Thượng M’Lon (Centre Montagnard de M’Lon). Bận tâm đầu tiên của cha Darricau lúc này là tìm đến với anh chị em Churu ở buơn làng Diom, đáp lại lời thỉnh cầu năm nào : “Chúng con đang sống trong bĩng tối, rất mong ánh sáng !”. Cha Darricau đã dựng nhà thờ ở Diom để chiều thứ Bảy thì sang tập giúp lễ, tập hát bằng tiếng Latinh để sáng Chúa Nhật dâng lễ dù rằng ‘giáo dân’ thì chưa được Rửa Tội. Sau thánh lễ là Cha miệt mài trong việc giảng dạy Giáo lý cho bà con buơn làng Diom và các làng kế cận từ năm này sang năm khác mà khơng vội Rửa Tội ngay. Tuy nhiên, cha Darricau vẫn ưu tiên và đĩn nhận các em bé sơ sinh gia nhập Hội Thánh.
2) đem đến kết quả đầu tay :
Cuốn Sổ Rửa Tội của Trung Tâm Thượng M’Lon ghi số 1 và 2 là hai em bé người Việt ở M’Lon, và bắt đầu từ số thứ 3 là rất đơng các em bé người Churu ở Diom, B’Kè, B’Kăn, Tơnhiang, Diom B (Petit Diom), Kadơ rồi mới đến M’Lon, M’Răng, K’răng Go, Labouye …
Em bé số 1 cĩ tên là Maria Câu Thị Nhung sinh ngày 16/4/1958 và được Cha Darricau Rửa Tội ngày 7/9/1958 ở M’Lon. Em bé số 2 là Anna Nguyễn Thị Cường sinh ngày 11/4/1959 và được Cha Rửa Tội ngày 15/4/1959 tại M’Lon.
Em bé số 3 trong cuốn sổ Rửa Tội của cha Darricau là Pierre Touneh Phụng, con ơng Pierre Kil K’Se và bà Hélène Touneh Hàn Đào, sinh ngày 19/5/1959 và được cha Darricau Rửa Tội ngày 7/6/1959 tại Diom, và hiện nay đang định cư ở Hoa Kỳ. Cha mẹ em bé này hiện cịn đang sống ở Diom, và như đã nĩi ở trên, cha mẹ em bé này đã là tân tịng được 5 năm. Tiếp ngay sau đĩ, cũng trong năm 1959, cha Darricau Rửa Tội một loạt cho các em bé ở Tân Hiên (trong Sổ RT ghi là Tơnhiang), B’Kăn (Kan), Diom, B’Kè (N’Kệ), Dran-Nrai; và các làng này đều được Cha chú thích thêm trong ngoặc là Diom, nghĩa là Cha xem Diom là Giáo Điểm chính.
Mãi đến ngày 26/12/1959, một số người K’Ho đầu tiên vùng Đơn Dương mới được cha Darricau Rửa Tội tại M’Lon, và đây là những dự tịng thực thụ chứ khơng phải là trẻ sơ sinh như ở Diom. Đĩ là gia đình ơng Jean Ya Ta (SRT số 20 và ghi sinh ngày 28/7/1928, con ơng Ya Bo và bà M’Mun), bà vợ của ơng là Marie Jeanne H’Gung (SRT số 21, gốc Ban Me Thuột, sinh năm 1930, hiện đã về Ban Mê Thuật), và bốn người con của ơng bà (bà H’Gung và ba người con gái được bà Marie Francoise De Guenyvau đỡ đầu). Kế đến là gia đình ơng Michel Krơng (đã chết) cùng vợ là bà Marie Anne Ka-Del và bốn người con ở Da-Ding. Cũng trong ngày này (26/12/1959), Cha Rửa Tội cho cơ Marie-Marthe Ma Chuơng, 16 tuổi, và cơ này sau đĩ cùng chồng thường sang Diom đỡ đầu cho nhiều em bé. Thường làm việc mục vụ với cha Darricau ở Diom cĩ anh Joseph K’Sur (giúp bếp, hiện đang định cư ở Diom B), vợ chồng chị Ma Chuơng - Thomas K’Bài, sau này thêm anh Jean Ya Ta và anh Michel Krơng ở M’Lon.
Từ năm 1961, các cha thừa sai MEP đã trao vùng Nam sơng Đanhim cho các cha thuộc tu hội Vinh Sơn (Cartier, Dulucq, Déthune, Jacques Gros, Berset…), và năm 1962, Đức Cha Simon Hịa Nguyễn Văn Hiền đã về dâng thánh lễ ban phép Thánh Tẩy cho một vị Già Làng Churu ở Diom là ơng René Touneh Hàn Đăng (ơng nội của em bé Pierre Touneh Hàn Phụng, đối với người Việt là ơng ngoại). Vị Già làng này được chính cha René Dulucq đỡ đầu. Khoảng một năm sau, chính Già Làng này đã kéo theo năm làng cùng Rửa Tội (Sổ RT của M’Lon khơng ghi sổ những tân tịng này vì lúc này Giáo Điểm Diom đã thuộc trách nhiệm của các cha Lazaristes). Cánh đồng truyền giáo cho người Churu Nam sơng Đanhim từ Diom đến Tahine lại được các cha thuộc tu hội Vinh Sơn tiếp tục gieo trồng và gặt hái.
3) để cĩ một vài ghi nhận :
- Như vậy cĩ thể nĩi cha Darricau khởi sự truyền giáo cho người Churu trước tiên, dù sống ở M’Lon nhưng truyền giáo đầu tiên ở Diom vì cơng việc ở M’Lon thường được cha giao cho các soeur dịng Phan Sinh (1959); và em bé Pierre Touneh Hàn Phụng là Kitơ hữu người Thượng đầu tiên (7/6/1959) của Giáo Hạt Đơn Dương khởi sự từ cơng cuộc truyền giáo của cha Darricau. Em bé tiên khởi Pierre Touneh Hàn Phụng cũng là đại diện cho 3 dân tộc, vì em là người Churu cĩ bố là người K’Ho (Làc) và mẹ là người Kinh (nửa Churu nửa Hoa, con riêng của Touneh Hàn Đăng).
- Cĩ thể xem Diom là chiếc nơi đức tin của người Churu vùng Đơn Dương và cả Giáo Phận Đà Lạt, vì nhà truyền giáo tiên khởi là cha Darricau hay các cha Vinh Sơn tiếp nối đều hoạt động truyền giáo từ Diom rồi mới đến các buơn làng khác dọc theo Nam sơng Đanhim đến Tahine thuộc vùng Đức Trọng. Theo Già làng Touneh Hàn Đăng, tên gọi Diom cĩ lẽ bắt nguồn từ một ơng bà tổ (mị kêi pàng) ngày xưa cĩ họ hàng rất gần nhau (con cơ con cậu) mà lại bắt nhau. Đĩ là một xỉ nhục cho gia đình dịng tộc nên ơng bà đã phải sống ẩn dấu ở một khu rừng rậm là làng Diom bây giờ, tránh tiếng xấu cho gia đình và bản thân. Trong tiếng Churu, Diom hay Jơm cĩ nghĩa là tủ kín, lấy lá cây che lại. Cha Darricau đã phiên âm từ Jơm thành Diom, cịn dân Lạc Viên thường gọi Jơm là bên Dầm.
- Cha Darricau là người đầu tiên khởi sự cơng cuộc truyền giáo cho người Churu và K’Ho vùng Đơn Dương, và cũng là người xây dựng rất nhiều nhà thờ cho người Thượng. Cĩ tới 23 nhà thờ do cha Darricau khởi dựng; chung quanh Diom cũng cĩ tới mấy nhà thờ, dĩ nhiên chỉ là những nhà thờ nhỏ bé và rất khiêm tốn, đủ để thỉnh thoảng đến dâng lễ và truyền giáo.
III* GIÁO ĐIỂM DIOM SÁT NHẬP GIÁO XỨ LẠC VIÊN
Giáo Điểm Diom khởi sự từ cha Darricau dựng nhà thờ từ năm 1958, dạy Giáo lý dự tòng cho buôn làng Diom’A và các làng kế cận như B’Kăn, B’Kè, Diom’B và Tơnhiang đến năm 1961 thì chuyển giao cho các cha tu hội Vinh Sơn. Cha Cartier về Diom năm 1961 rồi cha Dulucq, cha Déthune, cha Jacques Gros và cuối cùng là cha Berset. Sau biến cố 30/4/1975, cha Berset vẫn bám trụ ở Diom cho đến tháng 10 năm 1975 thì bị trục xuất khỏi Việt Nam.
Các tín hữu vùng Diom như đoàn chiên tan tác không người chăn dắt, không tụ họp đọc kinh, không thánh lễ nhưng mãi rồi cũng phải tìm kiếm một nhà thờ nào gần nhất còn mở cửa để lãnh nhận các bí tích. Các tín hữu Diom B và B’Kè tìm đến nhà thờ Châu Sơn là gần nhất, còn tín hữu Diom A và B’Kăn lặn lội qua sông tìm đến nhà thờ Lạc Viên để xin gia nhập Giáo Xứ. Giáo Điểm Labouye thuộc sắc tộc K’Ho ở đầu làng Lạc Viên cũng sát nhập vào Giáo Xứ Lạc Viên. Diom và Lạc Viên không cách xa nhau lắm, chỉ vài cây số, duy chỉ làng Tơnhiang là phải mất hai tiếng đồng hồ đi bộ mới tới nhà thờ Lạc Viên. Tuy nhiên con sông Đanhim vẫn là trở ngại chính, mùa nắng lội bộ, còn mùa mưa chỉ có cách bơi bè, song rất nguy hiểm vì dòng sông xả lũ sắn sàng cuốn trôi tất cả.
Cha cố Phêrô Trần Bảo Thạch, Quản Xứ Lạc Viên, là người tiếp nhận làng Diom và B’Kăn gia nhập Giáo Xứ, song vì thời cuộc sau năm 1975 rất khó khăn, không thể có sự tiếp cận song cha vẫn chu đáo trong các trách vụ đối với anh chị em dân tộc. Mãi đến cuối năm 2004, Diom A, B’Kăn và Labouye mới chính thức trở thành ba Giáo Khu của Giáo Xứ Lạc Viên với quyền lợi và nghĩa vụ như các Giáo Khu khác.
IV* GIÁO ĐIỂM DIOM CÓ THÊM NGƯỜI KINH
Sau năm 1975, nhà nước phát động phong trào giãn dân sang kinh tế mới ở Nam sông Đanhim, nhiều người ở Lạc Viên đã sang sông khai khẩn đất đai khu đồi còn hoang sơ giữa Diom A và Diom B. Cuộc sống ban đầu thật khó khăn và vất vả, đã thiếu ăn lại còn thiếu an ninh, nhiều người đã bỏ về Lạc Viên hoặc đi lập cư ở nơi khác. Nhiều người vẫn bám lấy mảnh đất, nhặt từng viên đá, đào từng gốc cây và vun xới cho mảnh đất thêm màu mỡ. Khu vực kinh tế mới ngày càng đi dần vào ổn định và nề nếp. Số gia đình lập cư hiện nay là hơn 100 hộ, ngót 500 nhân khẩu. Tên gọi giãn dân đã trở thành quen thuộc đối với người Lạc Viên, và nó cũng đã trở thành tên riêng của vùng kinh tế mới với tên gọi : thôn Giãn Dân. Công việc làm ăn sinh sống ban đầu có nhiều khó khăn, còn bây giờ thì đã ‘hằng ngày dùng đủ’. Tuy nhiên về mặt tôn giáo còn nhiều khó khăn và rất nhiều phấn đấu. Người Giãn Dân phải lặn lội về Lạc Viên tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, trẻ em về học Giáo lý, người già thì về nhà người thân ở Lạc Viên vào cuối tuần để Chúa Nhật tham dự phụng vụ. Bà con Giãn Dân phải nỗ lực rất nhiều để dần dần tự lập : ban trắc, ban nhạc, ban kèn được hình thành từng bước cùng với các đoàn thể ban nhóm.
Gia đình ông Tuynh, ông Thịnh, ông Thục là những người đi kinh tế mới theo kế hoạch giãn dân của nhà nước, và đã khai phá được một số đất đai canh tác. Đây là những người có tâm huyết với các công việc chung và sẵn sàng dâng hiến đất cho Tòa Giám Mục để xây dựng nhà thờ Diom. Số đất dâng hiến của ba hộ này cho nhà thờ là 9.833 mét vuông. Sáu sào của gia đình ông Tuynh được thiết kế xây dựng nhà thờ và nhà xứ, ba sào của gia đình ông Thục dùng để xây dựng hội trường và các phòng giáo lý, còn một sào rưỡi của gia đình ông Thịnh dùng để mở một con đường rộng 6 mét từ đường nhựa vào nhà thờ.
Giáo Khu 5 hiểu rằng ngôi nhà thờ mọc lên trên phần đất của mình cũng nhằm để phục vụ anh chị em người Thượng sống bao quanh. Giáo Khu 5 đã bầu Ban điều hành xây dựng nhà thờ Diom, gồm các ông : ông Linh, ông Thục, ông Hiếu, ông Tiến, ông Thuận, ông Vĩnh và cô Ma Sa. Sau khi được UBND tỉnh Lâm Đồng giao đất, ban điều hành đã bắt tay vào việc san mặt bằng để chuẩn bị cho ngày lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng nhà thờ Diom.
V* GIÁO HỌ DIOM HÔM NAY.
Ngôi nhà thờ Diom đang khởi công xây dựng mang nét Gothique cổ kính của Giáo Hội đã có từ bao đời, và mãi mãi giữ được nét đẹp thiêng thánh mà không bị lỗi thời. Nhà thờ Diom theo kiến trúc Tây Phương, có một tháp nhọn cao vút giữa thinh không để tưởng nhớ và biết ơn các cha truyền giáo đã vất vả bước đầu gieo trồng, và hài hòa với một vài nét hoa văn dân tộc vùng cao để ghi ơn những bậc Già làng ngày xưa đã hăm hở đón nhận đức tin và truyền lại cho con cháu.
Mong ước có một ngôi nhà thờ bên khu vực Nam sông Đanhim không những là khát vọng của hơn 2500 tín hữu Kinh và Thượng mà còn là mong mỏi của toàn thể Giáo Xứ Lạc Viên, vì đường đi ngăn sông cách trở, vì nhu cầu phụng vụ của những tín hữu nghèo khổ và vì tâm tình bác ái truyền giáo của Giáo Xứ. Giáo Họ Diom bây giờ đã trưởng thành hơn nhiều trong việc đảm nhiệm dạy và học Giáo lý, giúp lễ và hát lễ bằng ngôn ngữ Churu, nhiệt thành tham gia các công tác chung của Giáo Xứ và xã hội.
Giáo Họ Diom là chiếc nôi đức tin và truyền giáo cho người Churu trong Giáo Phận Đà Lạt, giờ đây cũng đã cống hiến cho Giáo Hội những người con ưu tú, dâng hiến cuộc đời mình cho công cuộc truyền giáo. Đó là linh mục Phaolô Bơnahria Ya Tine, nối gót các vị truyền giáo thưở ban đầu của Diom trong tu hội Vinh Sơn. Thầy Bơnahria Ya In hiến mình trong đan viện Châu Sơn để cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo. Thầy Touneh Hàn Kim Tứ dâng mình trong dòng Chúa Cứu Thế để rao giảng Tin Mừng. Các chị như Touneh Nai Nguyệt và Touneh Nai Thiệp lại ươm trong mình hạt giống truyền giáo ở những vùng đất xa xôi khi gia nhập tu hội Nước Hằng Sống, và còn những hạt mầm khác nữa đang mọc lên…
Năm Mươi Năm truyền giáo cho người Churu khởi sự từ Diom đến hôm nay đã có gần 7000 tín hữu Churu Hạt Đơn Dương và gần 5000 tín hữu Churu Hạt Đức Trọng. Giáo Họ Diom có khoảng 2000 tín hữu Churu và một ít tín hữu K’Ho, Chăm… Sự hiện diện của anh chị em Churu trong Giáo Xứ Lạc Viên là một nét nổi bật, và cũng là một hồng ân Chúa ban tặng cho Giáo Xứ trong sứ vụ truyền giáo.
Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho Giáo Họ Diom và nhất là ngôi nhà thờ đang được phục hồi đem lại thiện ích cho bà con tín hữu. Giáo Xứ Lạc Viên rất mong mỏi được đón nhận những tấm lòng quảng đại của quý vị ân nhân để ngôi nhà thờ sớm đi vào sử dụng.
Lm. Phaolô Phạm Công Phương
www.simonhoadalat.com