CÓ MỘT VÙNG QUÊ NHƯ THẾ...

(Ghi chép sau kỳ đại phúc tại giáo xứ Dân Trù)

Chúng tôi đến Dân Trù đúng dịp ngày mùa. Hai bên đường rơm rạ phơi phóng. Những nẻo đường thôn quê vốn yên ả nay nhộn nhịp khác thường. Từng đoàn người nối đuôi. Tiếng bánh xe lăn khô khốc. Tiếng gọi nhau ý ới, tiếng máy tuốt rào rào. Cảnh vật, con người dường như đổi khác, người ta vội vã hơn, vất vả hơn. Người ta bảo “năm nay mất mùa”. Nhà nông vất vả thật. Quanh năm trông vào cây lúa, vườn ngô, nhưng cũng phải trông trời có cho mưa thuận gió hòa hay không. Câu nói “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên” rất đúng với bà con nhà nông ở Dân trù.

Dân Trù là một thôn thuộc xã Yên Phương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Yên Lạc vốn là vựa thóc của tỉnh. Ngày xưa đã vậy bây giờ vẫn vậy. Đây là vùng đất được trời ban cho nhiều ưu đãi. Ngày đầu tiên tới Dân trù, chúng tôi đã được nghe kể nhiều về vùng đất này. Chuyện đời, chuyện đạo có lắm thứ để nghe.

Thời chống Pháp, Yên lạc là vùng “tề”. Thời cách mạng, Yên lạc là “vùng căn cứ”. Thời bình, Yên lạc là vùng “trọng điểm”. Tất cả những sự kiện ấy làm cho vùng đất này luôn phải đương đầu với những đổi thay.

Đó là chuyện đời. Chuyện đạo thì cũng vậy. Mỗi thời mỗi khác. Cách đây hơn trăm năm, đức tin đã được gieo xuống vùng đất này. Tiếng “Yên lạc”, “Yên Phương”, “Dân Trù”, “Phương Trù” chắc hẳn đã có một bề dày lịch sử. Nó gợi lại cho chúng tôi một ước nguyện của tiền nhân. Biết đâu đấy nó đã được khai sinh từ ngày vùng đất này đón nhận đức tin. Biết đâu đấy khi đón nhận đức tin, các bậc tiền nhân của vùng quê Yên lạc đã gửi gắm vào những địa danh một niềm tin và một niềm mơ ước cho vùng quê, cho con cháu luôn được yên bình, để dân tộc, để quê hương “được trù phú”, được hưng thịnh và trên tất cả là được bình an – sự bình an mà chỉ có trời mới ban được.

Chuyện “đạo” tại vùng đất này thật lạ. Hơn năm mươi năm trước, mọi người dân vùng này đều đã được thanh tẩy. Mấy ngày ở Dân trù, chúng tôi được nghe kể nhiều về “cái thời vàng son” của họ đạo. Người ta nhắc nhiều tới ông Quận Đề và đạo Quận Đề. Ông Quận người xứ Ngô Khê, Tiên Du, Bắc Ninh. Sau khi bắt cả làng Ngô Khê theo đạo, ông sang Yên Lạc. Tại vùng đất mới, ông lại theo đường lối cũ, lôi kéo mọi người theo đạo, khiến cả vùng cùng “theo đạo ông”. Chuyện về ông chỉ có vậy, nhưng nó đã trở thành một giai thoại khiến ngỡ ngàng. Người ta có thể nhớ ông, nhưng cũng có người thầm trách ông đã làm cho họ xa rời tổ tiên mình. Người ta có thể tôn vinh ông, nhưng cũng có nhiều người trách ông đã bất công khi bắt họ theo “tà đạo”.

Mấy ngày ở Dân Trù, chúng tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người thuộc mọi thành phần trong xã hội đã một thời là “giáo dân cụ Quận”. Có những cụ già thời xưa đã từng là chú giúp lễ cho cha xứ Dân trù. Có người đã một thời là chú Nhà tràng theo giúp việc cho Đức cha Hoàng Văn Đoàn. Hầu hết những người chúng tôi gặp đều đã một thời là Nghĩa binh hay Con hoa trong giáo xứ. Nhiều cụ ông, răng chẳng còn, nhưng chẳng thể quên được những câu kinh, câu hát hay những lời xướng đáp trong các thánh lễ tiếng Latin: “Dominus Vobis cum!”. Chúa đã ở cùng họ như vậy. Họ vẫn nhớ như vậy. Nhưng chỉ có vậy. Đối với họ, “đạo nào cũng như đạo nào”, “đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành”. Có những bà cụ sau khi được hỏi tại sao không giữ đạo nữa, đã khẳng khái trả lời: “Chúng tôi là người lương. Ngày trước chúng tôi bị bắt theo “tà đạo”. Cách mạng về, chúng tôi là “lương” thì phải trở về làm người lương thôi!”

Cái cách họ trả lời mới lạ. Họ hãnh diện vì đã “bỏ đạo”. Họ “tự hào” vì đã tự mình tìm ra con đường giải thoát. Đối với họ, họ nhất định phải là “lương”, “giáo” chỉ là sản phẩm của đế quốc, của áp bức, của ngoại lai... Họ không theo giáo nữa, đó là “yêu nước”, là “thương nòi”, là “trung thành với dân tộc”, họ bảo vậy.

Có một điều lạ khác là cứ hễ nhắc tới chuyện đạo là mọi người từ từ bỏ đi, cứ như thể “đó là một món hàng quốc cấm”. Họ không vui khi nhắc tới đạo. Họ không hồ hởi khi nói chuyện đạo. Trong cách nói, họ hãnh diện vì “bỏ đạo”, nhưng trong thực tế, cứ có cái gì vương vấn, khó tả, khuôn mặt họ chùng xuống và thế là họ bỏ đi...

Tuy nhiên, một điều mà ai cũng thấy đó là khi nhắc tới thời còn “đi đạo”, ai cũng vui. Họ bảo thời ấy vui lắm. Mỗi tối, nhà thờ là nhà hội. Thánh đường là nơi tập hợp, là chốn công đường. Bên hông nhà thờ hiện còn một phòng giam nho nhỏ nơi cha xứ nhốt những “con chiên không trung thành, bài bạc, rượu chè”. Cả làng ngày trước có bốn nhà thờ. Bây giờ chỉ còn hai. Một ở thôn Phương Trù, một ở Dân Trù. Hai cái kia đã bị phá hủy khi cách mạng về và trên nền cũ người ta tái thiết đền thờ Phùng Hưng. Chuyện tái thiết ấy đã phải trả giá bằng “bốn mạng người”. Người ta bảo: “Chuyện đấy ai cũng biết”. Nhưng, lịch sử tiến nhanh quá, mạnh quá, nên dấu ấn không nhiều. Người ta đã một thời ào ào theo đạo, không ý thức, không thật tâm, thì cũng có lúc người ta bỏ đi không ý thức, nhưng lại đầy “thành tâm”: “Mình là lương thì phải trở về lương thôi!”

Vẫn là chuyện lương giáo đã một thời gây nên phong trào cấm đạo. Nhưng bây giờ, nó trở thành nguyên nhân khiến “người ta bỏ đạo”. Họ bị người đời đánh thức và đánh rất mạnh vào cái “tự tôn dân tộc”. Chuyện “bỏ đạo” ở Dân trù có cả một phong trào, “bỏ đạo một cách hệ thống”, nó khác xa với các vùng quê khác. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng có một nguyên nhân chẳng nói thì ai cũng biết... Mấy ngày ở Dân trù khi tiếp xúc với các tín hữu, chúng tôi được biết, vào những năm chiến tranh leo thang tại chiến trường Miền Nam, người Công giáo ở Yên lạc mơ ước “được đi bộ đội” mà cũng không được. Họ bảo, hồi ấy “được đi” là một ân huệ và là sự hãnh diện. Cái hãnh diện mà ở nơi khác người ta phải trốn tránh... Cái mơ ước ấy đau nhói khiến nhiều người phải tìm cách để đạt được ước mơ. Họ phải chọn lựa... Thôi thì đạo nào cũng “như đạo nào”, “làm người lương cũng tốt”, lại được tiếng “không phản bội tổ tiên”. Cách lập luận thật lôgích, hợp tình, hợp lý. Cứ thế một bài toán đã được giải mà đáp số là được “làm người dân” trong một quốc gia độc lập.

Chuyện đạo ở Dân trù là vậy. Nhưng không chỉ có vậy. Chúng tôi về Dân trù và gặp ở đó một “số sót”. Họ là những tín hữu rất trung thành, nhiệt huyết sống đạo. Họ tự hào vì mình là người công giáo. Đây là số những tín hữu mà cha ông họ có đạo trước thời “cụ Quận Đề”. Họ bảo “chúng con là đạo gốc”. Những tín hữu “đạo gốc” như họ thì không nhiều, chỉ chiếm khoảng 1/5 dân số. Hiện tại, cả ba giáo xứ: Dân Trù, Trung Xuân và Hòa Loan, tổng số tín hữu khoảng hơn 7.000, trong khi đó số người đã được rửa tội là trên 30.000. Họ quả là “số sót” của một thời vàng son.

Những ngày ở Dân trù, chúng tôi được nghe nhiều chuyện về họ. Cái cách họ sống đạo mới thật anh hùng. Nhiều bô lão khi kể lại những giai đoạn khó khăn, bị cấm cách mà đôi hàng lệ tuôn rơi. Năm mươi mốt năm giáo xứ không có chủ chăn là năm mươi mốt năm họ phải vật lộn để tồn tại. Đối với họ đó là thời gian đẹp nhất, nhưng cũng lắm gian truân nhất. Họ đã phải đấu tranh để thôn làng không bao giờ “vắng tiếng chuông” vào các buổi kinh nguyện. Họ đã phải đấu tranh để cho con em họ được ghi dấu đức tin dù có phải vất vả lao nhọc.

Về Dân trù, có những câu chuyện đã trở thành truyền thuyết. Có những mẩu chuyện đã trở nên giai thoại. Cái thời khó khăn ấy giờ đây khi nhắc lại mới thấy ơn Chúa thật rồi dào. Người ta bảo không hiểu sao lúc ấy lại làm được. Có những giai đoạn cả năm giáo đường vắng thánh lễ. Người ta phải tham dự thánh lễ tại Sơn Tây hay về Bắc Ninh. Nhiều hôm mưa bão, lái đò không đưa, họ phải ngồi bên này bờ sông để dự lễ ‘vượt qua”. Nhiều người bảo những kỷ niệm ấy làm sao quên được. Những kỷ niệm ấy là ơn Chúa, là nền cho những bước phát triển bây giờ và cả tương lai. Người khác thì lại bảo những ngày khó khăn hóa ra là phúc. Nó thanh tẩy, nó nhào nặn nên một thế hệ. Nó sàng sẩy những hạt sạn trong thúng gạo. Nó nhổ bỏ những thứ cỏ lùng. Thôi thì thời thế thế thời phải thế. Nhưng, hình như trong cái “thế ấy” của thời cuộc vẫn còn đấy những hạt mầm xinh tươi, sẵn sàng cho những thời kỳ gieo hạt và hôm nay nó đang chuẩn bị cho một mùa gặt mới.

Hóa ra, dù khó khăn thế nào thì vẫn cứ là “Dominus Vobis Cum”. Chúa vẫn ở cùng họ, vẫn đi bên họ. Cái số sót ấy bây giờ vẫn đang tiếp tục những lộ trình còn dang dở. Trên cái số sót ấy Chúa vẫn đang gieo hạt mầm đức tin, vẫn đang có những cuộc đâm hoa kết nụ. Ngày xưa, Chúa đã cứu Israel dựa trên số sót, thì ngày nay, người ta vẫn có quyền hy vọng, trên những người này, Chúa vẫn đang tiếp tục công trình thánh hóa của Người. Người vẫn đang làm cho cây ân huệ mỗi ngày một lớn, để bóng nó lan tỏa khắp nơi. Hôm đầu tiên chúng tôi tới Dân trù, đứng trên đê tả sông hồng nhìn hai ngọn tháp vút cao, nổi bật giữa một làng quê yên tịch, mới thấy hết nét đẹp của một vùng quê công giáo, mới thấy chứng từ đức tin còn đây, hiên ngang, mạnh mẽ.

Hóa ra, dù khó khăn thế nào thì trong cái khó vẫn có tình thương và trong cái khó, sự hy sinh lại trở nên cao đẹp. Người Dân trù luôn tự hào về cái gọi là “lương giáo đoàn kết”. Họ hồ hởi kể cho chúng tôi nghe về những cuộc giao lưu giữa các thôn làng, giữa “người lương” và “người giáo”, giữa bên đạo và bên chùa. Người ta kể về những lần hội ngộ trong các dịp lễ tết, trong những lúc nông nhàn. Tất cả đều thấm tình, một thứ tình cảm thân thương và dịu ngọt. Chẳng ai bảo, chẳng ai nhắc, nhưng hình như cái ý thức ‘một nhà’ không thể xóa nhòa dù cho năm tháng có phôi phai, dù cho lịch sử có đổi khác. Người ta bây giờ vẫn vậy. Cái khác hình như vẫn chỉ là chuyện “lương” với “giáo”, nhưng lại vẫn có cái chung ấy là chuyện “ăn ngay ở lành”.

Hóa ra, cái nét đẹp “Dân trù” chẳng thể mất được. Trái lại, nó đang được bồi đắp thêm. Gần hai mươi tháng trước (09-10-2005), giáo xứ “trúng số độc đắc” khi đón cha xứ mới. Nhiều người bảo vậy. Sau năm mươi mốt năm vắng bóng chủ chăn, Dân trù đã có cha xứ, một linh mục trẻ trung, năng động. Nhiều công trình vật chất đã được xây dựng. Ngôi nhà thiêng liêng cũng đang được trùng tu. Các sinh hoạt tôn giáo đang dần đi vào ổn định. Đời sống đức tin được củng cố. Một luồng sinh khí mới bắt đầu lan tỏa. Một tương lai mới đang mở ra.

Chúng tôi sắp rời Dân Trù. Câu chuyện của chúng tôi cứ dài ra bên ly trà, điếu thuốc. Cái được, cái mất đã rõ ràng. Nhưng có một cái không bao giờ được để mất đó là ơn đức tin. Cái ấy, Chúa đã gieo. Cái ấy không mất được. Cái khó là khơi lại, là thắp lên, là vun trồng. Nhưng, phải bắt đầu từ đâu? Câu hỏi ấy chẳng dễ trả lời, bởi đây là chuyện tâm linh. Người ta bảo xây mới thì dễ chứ xây lại từ một đống đổ nát thì thật khó. Điều này lại càng khó hơn khi phải xây lại từ những đổ nát của tâm hồn. Tuy nhiên, khó chứ không phải là không làm được, nhất là chuyện đức tin là chuyện của trời chứ không chỉ là chuyện của “người”. Có điều này chắc chắn, dấu ấn đức tin không bao giờ có thể tàn phai. Nhiều người chúng tôi gặp đã nói với chúng tôi: “Khi nào chết chúng tôi sẽ trở lại”.

Chúng tôi cũng sẽ trở lại... Chúng tôi mong sẽ có nhiều người trở lại. Nhưng, trên hết, chúng tôi mong có thật nhiều nhà hảo tâm hỗ trợ cho vùng đất này để biến giáo xứ Dân trù thành một “trung tâm văn hóa và tôn giáo”. Đấy mới là kế đồ lâu dài giúp tái sinh di sản đức tin đã bị chôn vùi của một thời dĩ vãng.

Dân trù đang mùa gặt. Có một mùa gặt thiêng liêng cũng đang được bắt đầu. Dẫu sao, thì “Mưu sự tại nhân, nhưng thành sự thì vẫn phải là ơn Chúa.”