Nữ Tử Bác Ái Hội Dòng Thánh Vinh Sơn trại phong Đakkia
Trại phong Đakkia được xây dựng dọc bờ suối Đakkia trên trục đường đi xã Ia Chiêm về phía Tây Bắc cách Thị Xã Kontum 6 km..

Đầu năm 1938, được Đức Cha Martial Jannin (Đức Cha Phước) Giám mục Giáo phận Kontum mời gọi phục vụ cho anh em dân tộc trên vùng Tây Nguyên, các Nữ Tử Bác Ái Hội Dòng Thánh Vinh Sơn đến phục vụ trên đất rừng thiêng nước độc Kontum. Vào đầu thập niên 40 thế kỷ trước, sau khi đến phục vụ năm 1939-1940 và tìm đất để xây dựng trại phong, từ năm 1941, nữ tu Bác Ái là Soeur Marie Louise khởi công xây dựng trại phong qui mô lớn trên địa bàn gần sông Đak-Kia với tổng diện tích 52 hecta đất, để xây dựng cơ sở phòng khám, phát thuốc, phòng điều trị, nhà ở, đất trồng trọt cây ăn trái và hoa màu phục vụ cho bệnh nhân. và gia đình của họ. Trại phong Đak-Kia trở thành ngôi làng thân thương trong đó tạo lập môi trường thích hợp đời sống gia đình cho anh em bị phong, nâng đỡ bằng tình nhân ái, có điều kiện chẳng những về mặt y tế, mà còn bao gồm mọi mặt khác như văn hoá, giáo dục nhân bản, đời sống tâm linh, tôn giáo.. . 1. NHÂN SỰ
Nhân sự gồm 8 soeurs phục vụ trong các ngành: Soeur Marie Louise - Bà Nhất, chuyên về y tế - xây cất nhà cửa. Một số soeur chuyên về : Giáo dục- cắt may- ban ẩm thực.
Cha sở Phương Hoà là cha Irigoyen (Hương) linh mục thừa sai MEP đến dâng lễ, ban các bí tích cho các bệnh nhân đa phần là người công giáo, cho các nữ tu cũng như các cán sự có đạo đang phục vụ và làm mục tại trại Phong.
Năm 1939 các Nữ Tử Bác Ái đến Kontum và chăm sóc các bệnh nhân tại trại cùi, số bệnh nhân được thu dụng lên 80 bệnh nhân.
Năm 1941 Có soeur Marie Louise Banet và soeur Maria Renée qua bắt đầu phá rừng, vì trại phong lúc đó là một khu rừng có 52 hecta đất.
Hai soeurs Pháp lên Kontum và hàng ngày đi ngựa qua đó để cùng với các người bệnh nhân chọn đất, đốn cây đem về dựng lên những nhà chòi cho họ ở và giúp khai thác đất làm nhà tranh theo kiểu dân tộc ở rừng.
Lúc đó cũng có 3 soeurs Việt cùng cộng tác với 2 soeurs Pháp về y tế và ban ẩm thực- đi chợ phục vụ bệnh nhân Trong suốt thời gian từ 1941 đến 1958. Soeur Marie Louise cùng với 3 soeurs Việt nam cùng cộng tác xây cất: chòi cho bệnh nhân - nhà nguyện - nhà bếp vv…
Trại bắt đầu hình thành: nhà cửa, đường, cây cối, được trồng có hàng ngũ, tuy già cỗi nhưn vẫn còn cho đến nay.
Năm 1956 xây cất bệnh xá 10 giường bệnh.
Năm 1958 các "Nữ Tử Bác Ái" ở hẵn tại trại để phục vụ bệnh nhân. Hằng tuần có Bác sỹ Việt Nam thuộc dân y viện Kontum đến khám bệnh cho bệnh nhân, số bệnh nhân thu dụng lên 120 giường.
Năm 1958, khi nữ tu Marie Laure được chuyển qua trại phong, Nhà thờ mới bắt đầu đặt viên đá đầu tiên, và có một nhòm thợ từ Sài gòn lên ở đó trong thời gian 6 năm để xây cất Nhà thờ và hoàn thành Trại phong.
Lúc đó bệnh nhân lên đến 900 nhân khẩu, và số soeurs lên đến 7 người, để săn sóc bệnh nhân và trẻ em.
Năm 1960 -1963 xây cất nhà gạch thay thế nhà tranh cho các bệnh nhân.
Xây dựng thêm Trung tâm gồm giọt sữa, nhà nội trú cho các em gái, vườn trẻ, trường tiểu học, xưởng mộc. Khi soeur Marie Louise đã hoàn thành nhiệm vụ ở Trại phong. Bề trên sai bà đi Thái lan, sau đó về Pháp.
Năm 1966
Có soeur Anne Esnol qua thế chỗ Soeur Marie Louise Soeur tiếp tục công việc soeur Marie Louise để lại. Số bệnh nhân vẫn tiếp tục ở con số 900. Họ cũng canh tác, trồng trọt đất của trại và họ vẫn có gạo và thức ăn. Có tổ chức chợ tác xã trong trại. Họ làm việc có lương hàng tháng.
Trong lúc này cộng đoàn gồm có 11 soeurs, với một nữ tu người dân tộc là Yă Phương thuộc Hội Dòng Ảnh Phép Lạ giúp làm thuốc săn sóc bệnh nhân.
Năm 1967
Nữ Bác sỹ Pháp Christiane Granger tình nguyện đến chăm sóc 300 bệnh nhân phong và giúp xây cất thêm: nhà em trai, thành lập các phòng xã hội cho các bệnh nhân và gia đình họ.
Năm 1969 Bác sĩ Granger bị tử nạn mìn trên đường đi từ Kontum đến làng Kon H'ring. Nữ Bác sỹ Anne Marie Dutheih (Nữ Tử Bác Ái) cư ngụ tại Đàlạt tiếp tục đến chăn sóc bệnh nhân mỗi tuần một lần.
Từ năm 1968 đến năm 1975 có cha Marty ở làm mục vụ và dâng lễ cho bệnh nhân.
Năm 1972 Soeur Anne về Pháp thăm gia đình, lúc đó Soeur Marie Laure thế. Lúc này trại phong bị ngập do đại hồng thuỷ xảy đến nước dâng lên tới nhà. Cộng đoàn, nhà thờ, đồ đạc, dụng cụ cần thiếc đều bị chôn vùi trong xình lầy. Con vật : như gà… bị trôi không còn con nào. Các bệnh nhân đói vì không đi chợ được.
Đức Giám mục giáo phận, Đức Cha Paul Seitz đi trực thăng thả bánh mì xuống để chúng đỡ đói.
Sau trận lụt các nữ tu phải mất 3 tháng dọn nhà cửa nhưng cũng chưa được sạch sẽ.
Cũng trong năm 1972, Soeur Anne trở lại trại phong, nhưng vì soeur Francoise là Chị phụ trách Bến Sắn (Trại Phong) rớt máy bay, nên Bề trên gọi Soeur Anne về thế soeur Francoise ở trại phong Bến Sắn, lúc đó soeur Marie Laure lên thế soeur Anne phụ trách lo cho bệnh nhân và cộng đoàn. Hội Dòng Ảnh Phép lạ dần dần thay thế các Nữ tử Bác ái là các Yă: Yă Marie Baptiste, Yă Marie Génèviève, Marie Monique. Trong lúc đó cộng đoàn vẫn còn 11 soeurs để tiếp tục phục vụ bệnh nhân và trẻ em, nhưng vẫn ở trong lo âu sợ hãi. Tuy vậy, vẫn phó thác trong tay Chúa và Mẹ Maria.
Năm 1975
Cha Đại Diện Tỉnh lên gặp các chị và quyết định cho các soeurs trở về Sài Gòn. Còn lại 4 chị em lớn.
Tháng 3 năm 1975 con về Tĩnh tâm để lên đương đầu với biến cố sẽ xãy ra, nhưng Chúa lại có ý định khác.
Ngày 15-3-1975 Tĩnh tâm kết thúc, máy bay ngưng hoạt động, vì bị pháo kích nhiều. Bề trên không cho Soeur Marie Laure trở về. Vì đường bay Kontum không có, đành phải ở lại đi cứu trợ.
Trong lúc đó các chị ở Kontum được lệnh của Đức cha Paul Seizt phải rời khỏi Kontum, để cho các chị dòng Anh phép lạ qua hiện diện tại Trại phong - gồm các chị: Marie Baptiste, Marie Génèviève, Germaine, Marie Rose, Anne Marie, Marie Monique, Sabine, Justine, Domonique Marie, Francoise Régis - Nhưng ngờ đâu lính giải phóng ào vô trại phong chiếm nhà cửa, tịch thu của cải, bắt các chị Ảnh phép lạ quản thúc, đuổi về đời tục lấy chồng, có chị bỏ về gia đình. Một mình Yă Marie Génèviève trụ lại được cho đến ngày nay (2005) với bao hy sinh âm thầm và anh hùng sống giữa anh em dân tộc bệnh phong cùi của mình.
Sau cùng trại phong bị trưng dụng, nhà cửa đồ đạc trống trơn, chỉ còn Nhà thờ không bị phá, của cải bị chuyển đi hết, bệnh nhân bị đuổi về làng, chỉ còn các bệnh nhân tàn phế không đi được. Thời gian trôi qua.
Năm 1989 Bác Sĩ xuống Sài-Gòn xin một số nữ tu trở về Kontum vô Trại phong lại và soeur Paul, Soeur M. Laure trở về Kontum giúp trại phong (bệnh nhân), nhưng chưa được 1 năm nhà nước bảo về vì không có hộ khẩu. Các chị đành ra đi để lại các bệnh nhân họ rất buồn, ra xã kêu gào trách móc, nhưng cũng vô ích. Chị M. Laure về lại cộng đoàn cũ canh tác rẫy. Năm 1996 Đức cha Phêrô Trần Thanh Chung biên thơ cho Bề trên mời lên lại, kỳ này nữ tu Marie Laure xung phong ra đi một mình, chị lên 1 năm là có chị M. Jose’ cùng lên đồng hành, hàng ngày nữ tu Marie Laure qua Trại giúp bệnh nhân, mở lớp huấn nghiệp cho các em thiếu nữ trong trại và các em trên làng cùi cùng xuống học nghề.
Hiện nay, có 2 chị em Nữ tử Bác ái và 1 soeur người dân tộc giúp và lo cho bệnh nhân - dệt thổ cẩm do Yă Génèviève (Yă Phương) thuộc Dòng Ảnh Phép Lạ hướng dẫn.
Hai Nữ Tu Bác Ái coi về giáo dục, dạy các em về nhân bản - về đời sống người Kitô hữu qua phim ảnh, dạy giáo lý, lời Chúa cho các giáo phu, giáo lý viên đảm trách.
Bệnh nhân đau yếu được các cha đến ban các Bí Tích.
Thánh lễ vào mỗi Chúa nhật hàng tuần, ngày thường không có.
2. PHƯƠNG THỨC CHỮA TRỊ
Trước hết tìm các bệnh nhân trong các làng xa đưa về trại điều trị một thời gian, khi khỏi bệnh thì cho về làng, nhưng có nhiều người chân tay rụn hết, mặt mũi không còn hình dạng, là con người cần ở lại trại thời gian lâu hơn, để được chửa trị, ăn uống, bồi dưỡng lâu dài cũng có thể đến suốt đời họ và cho đến chết.
Các bệnh nhân được chữa trị bằng Sulfon, nhất là ăn uống có chất lượng. Vì ở làng không có thức ăn bồi dưỡng nên bệnh ngày càng tăng lên.
3. PHƯƠNG THỨC THĂNG TIẾN
Trại còn có 208 em từ 1 tuổi - 18 tuổi, các em được đi học từ mẫu giáo đến cấp III, chưa kể có mấy em vào bậc Đại học.
Mẫu giáo và cấp I học tại trại phong. Có giáo viên của nhà nước vào dạy. Cấp II và III theo học các trường giáo dục của nhà nước được chia ra trong các trường khác nhau. + Nghề nữ công + Chăn nuôi + Đóng giày + Bác sĩ ( 2 em)
Hàng ngày các em đi học về được dùng bữa tại trại, các em được bồi dưỡng có chất lượng, được uống sữa đậu nành hoặc bánh ngọt- bữa ăn được thay đổi hàng ngày.
Các em được săn sóc về y tế: chữa và ngừa bệnh do bác sĩ - y tá lo - mỗi quý được kiễm tra về sức khoẻ.
Thăng tiến từ mẫu giáo đến đại học Trại có trên 208 em, có một số em cấp III, có 2 em học tới đại học. Hai em này tiếp tục thi để vào Bác sĩ, đó là: Y Nam và Y Nar, ở trại phong.
Có một thiếu nữ đã dự 8 năm khoá hướng nghiệp và đã thành công. Khi về gia đình các em mang theo một máy may để tiếp tục luyện nghề. Việc học tập được chia ra như sau:
a/- Lớp mầm non : Ngoài công tác lo cho những bệnh nhân cùi, các nữ tu còn giúp chăm sóc, tạo điều kiện cho hơn 210 (từ trẻ sơ sinh trở lên) con em bệnh nhân nữa.
b /- Đi học : 170 em (ba cấp 1,2,3) Cấp 1 : Từ 60 - 70 em. Cấp 2 : Chừng mười mấy em. Cấp 3 : Chừng mười mấy em. Đại học : 4 em. Trong đó có hai em đang học 1 Y tá và 1 Bác sĩ tại Hà Nội.
c/. Chương trình giáo dục các em từ cấp I, II, III
Các em được giáo dục về nhân bản Giáo lý: khai tâm- xưng tội- thêm sức- hôn nhân cho giới trẻ từ 15 tuổi-20 tuổi. Có nhóm trẻ Con Đức Mẹ. Có tổ chức tĩnh tâm hàng năm cho giới trẻ thanh thiếu niên Các bà mẹ Các gia trưởng.
Trong trại phong có nhiều gia đình được cho vay vốn để chăn nuôi: bò-heo-trồng trĩa: Bắp- mía…
4. Y TẾ
Các bệnh nhân cũng được săn sóc thuốc men, băng bó, đóng giày dép, thình thoảng đưa đi Qui nhơn để cưa chân. Được chữa lành- Sau khi hồi phục Trại phong đóng giày dép theo phần chân còn lại để họ được đi bình thường.
1/- Trạm xá : Có 14 nhân viên phục vụ cho 504 nhân khẩu và 30 người không nơi nương tựa. Số 30 bệnh nhân này là những người không có gia đình tại chỗ, và được cấp dưỡng hoàn toàn.
Hiện nay, tại Kontum, có gần 4000 bệnh nhân phong sống rải rác trong các làng xa, tựa như Ngọc Hồi, Komplong, v.v…
Các nhân viên : Phát thuốc, chữa bệnh, theo dõi. Nếu phát hiện sớm thì có thể chữa lành, còn nếu bệnh nhân để quá lâu, thì có nguy cơ tàn phế ! 2/ - Bảng thống kê ngày 04/04/2005

5. ĐỜI SỐNG TÂM LINH - TÔN GIÁO
Vì tình trạng thiếu Linh mục trầm trọng trong giáo phận, nên mỗi tuần Linh mục quản xứ đến dâng Thánh Lễ một lần vào ngày Chúa Nhật. Còn các ngày khác trong tuần, mọi người quy tụ đọc kinh trong ngôi Thánh Đường của Trại.
Chúa nhật, rất đông người tham dự thánh lễ, trong đó có những người vừa theo đạo.
6. SINH HOẠT THƯỜNG NGÀY CỦA BỆNH NHÂN :
Những ai còn khoẻ thì làm việc đồng áng như : cấy lúa, trồng mì, trồng ngô, và chăn nuôi. Còn những ai mắc bệnh nặng thì ở nhà làm những công việc nhẹ nhàng hơn : Dệt, may vá, làm giày dép, và các đồ thủ công.
7. CÁC CƠ QUAN GIÚP ĐỠ
Mỗi tháng cơ quan nhà nước giúp bệnh nhân 10kg gạo- nhu yếu phẩm.
Hàng tháng, mỗi gia đình được: 2kg thịt -mắm- muối- phát quần áo- chiếu mền hàng năm 1 lần- 2lần.
8. NGUỒN TÀI TRỢ (từ những năm qua)
Trại được các ân nhân gần xa đến, giúp đỡ bằng tiền hoặc vật chất. Không chính xác được, nhưng Chúa quan phòng vẫn có hằng ngày dùng đủ cho bệnh nhân và trẻ em.
Toà Giám mục, các cha cũng có chia sẻ niềm vui cho bệnh nhân và trẻ em.
Trong một năm có nhiều cơ quan thành phố đến giúp đỡ: thực phẩm, gạo, mắm…vv
Các chị nữ tu cố gắng hết mình phục vụ bệnh nhân theo tinh thần của Chúa Kitô và mục tiêu của Tu Hội là phục vụ Chúa Kitô nơi người nghèo, và người nghèo trong Chúa Kitô. NHƯ PHẦN KẾT.
Các nữ tu Hội Dòng Bác Ái thánh Vinh - Sơn và một nữ tu người dân tộc thuộc Hội Dòng Ảnh Phép Lạ là Yă Phương trong suốt mấy mươi năm qua đã chọn con đường “tình yêu, trái tim”, “đi tìm “, “ qui tụ” những người mắc bệnh phong cùi để phục vụ. Địa danh “Dak-Kia” – người kinh thường gọi là Đak Tía, do từ “tiơ, kiơ” (có nghĩa là “đi theo”) cũng bao hàm ý nghĩa tình yêu, một con sông gợi lên trong tiềm thức truyền thuyết của người dân tộc về đôi bạn trẻ “tìm nhau, theo nhau” vượt qua mọi trở ngại mong để sống bên nhau. Có lẽ vì thế từ những ngày đó, cách đây 65 năm, Trại phong nầy mang danh xưng là “Trại Phong Đak-Kia” bao hàm ý nghĩa “tình yêu” phục vụ bất chấp mọi trở ngại cản bước chân rao truyền tình yêu Tin Mừng của những người nữ tu. Hôm nay sau những năm tháng dài của cuộc đời dâng hiến cho Thiên Chúa và cho anh em nghèo khổ, cho những người phong cùi trong vùng đất Truyền giáo Kontum, Giáo phận xin tạ ơn Chúa và cảm ơn những con người đã và đang âm thầm phục vụ chỉ vì mến Chúa, hiện thân nơi anh em phong cùi tại Trại Phong Đak-Kia, Kontum vậy.
(Kontum, ngày 15 tháng 11 năm 2005)