HÀ NỘI - Những người theo đạo Tin Lành ở “Tây Nguyên, Nam Trường Sơn” và các người dân theo đạo Tin Lành ở “miền núi phía Bắc” được các cấp chính quyền từ trung ương xuống tới địa phương “hướng dẫn, giúp đỡ” để “thực hiện các hoạt động tôn giáo”.

Một bản chỉ thị về “Công tác đối với đạo Tin Lành” vừa được Phan Văn Khải, Thủ Tướng Việt Nam, đưa ra trong ngày Thứ Sáu mùng 04 Tháng Hai 2005 nói như vậy, trong đó có các điều kiện đối với người Thượng ở vùng Tây Nguyên nói rằng “sẽ được tạo điều kiện thuận lợi” cho sinh hoạt tôn giáo (Tin Lành) nếu “sinh hoạt tôn giáo thuần túy”.

Theo nghị định do Thủ Tướng Phan Văn Khải đưa ra và được phổ biến tóm tắt trên trang nhà của hãng thông tấn chính thức Việt Nam, Phan Văn Khải nói về trường hợp các người (ám chỉ người Thượng) theo đạo Tin Lành ở Tây Nguyên rằng: “Ðối với những nơi chưa đủ điều kiện để được công nhận lập chi hội, nếu đồng bào theo đạo ở đó có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo thuần túy, cam kết chấp hành các qui định của pháp luật, không hoạt động cho bọn phản động Fulro, không dính líu đến “Tin Lành Dega” (thực chất là bọn phản động Fulro) thì chính quyền xã, phường tạo điều kiện cho đồng bào thực hiện các sinh hoạt tôn giáo bình thường tại gia đình hoặc chấp thuận cho đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo tại địa điểm thích hợp trong buôn, làng.”

Ðối với những người theo đạo Tin Lành thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc (một số đông là người H’mong) thì bản chỉ thị nói trên cho biết: “Ðối với bộ phận đồng bào đã có thời gian theo đạo Tin Lành và có nhu cầu tín ngưỡng thực sự, trước mắt hướng dẫn cho đồng bào sinh hoạt tôn giáo tại gia đình, hoặc nơi nào có nhu cầu thì hướng dẫn cho đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo tại địa điểm thích hợp tại bản làng.”

Tiếp đó, chỉ thị lại có “chỉ đạo” khá khó hiểu là “đối với bộ phận đồng bào đã theo đạo, nay có nhu cầu trở lại với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc mình, cần tạo điều kiện, giúp đỡ để đồng bào thực hiện ý nguyện đó.”

Một số bản tin Tin Lành ở Hoa Kỳ phổ biến qua website “Compass” đã tố cáo kèm theo các hình ảnh và tài liệu chứng minh rằng người H’mong ở Lai Châu, Hà Giang, đã bị ép buộc ký giấy bỏ đạo Tin Lành nếu không muốn bị khủng bố sách nhiễu. Nhiều người đã bị công an đánh đến chết và thả trôi sông rồi nói rằng họ uống rượu say ngã xuống nước dù có nhiều nhân chứng tố cáo.

Tổ Chức Người Thượng Ở Hoa Kỳ cũng đưa ra nhiều dẫn chứng nói rằng người Thượng ở Tây Nguyên không những bị ép buộc ký giấy bỏ đạo, nhiều người còn bị ép uống rượu pha máu súc vật để thề bỏ đạo.

Tháng Chín 2004, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ra bản phúc trình đặc biệt về tự do tôn giáo trên thế giới đã xếp Cộng Sản Việt Nam vào danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt” cùng với Bắc Hàn, Cuba, Iran vì tiếp tục đàn áp tôn giáo có hệ thống. Tiếp đến vào giữa Tháng Mười Hai 2004, một phái đoàn của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đến Hà Nội đối thoại nhân quyền đã thông báo cho biết, trong vòng 3 tháng, Hoa Thịnh Ðốn sẽ có các biện pháp trừng phạt kinh tế nếu Việt Nam không có dấu hiệu tiến bộ về nhân quyền.

Có lẽ nhìn trước được các nhà tranh đấu nhân quyền và tự do tôn giáo, dù đã được thả ra khỏi các trại tù nhưng vẫn bị quản chế và cấm tuyên bố phát biểu ý kiến, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày mùng 01 Tháng Hai 2005 đã khuyến cáo Cộng Sản Việt Nam (sau khi trả tự do cho họ) phải để họ tự do hoàn toàn.

Cùng với việc phổ biến giới hạn chỉ thị của Thủ Tướng Phan Văn Khải trên website của Thông Tấn Xã Việt Nam và báo điện tử VNNet từ trong nước, Tòa Ðại Sứ Việt Nam ở Washington, DC, ngày mùng 04 Tháng Hai 2005, cũng đã phổ biến trên trang nhà Internet các lời khoe khoang về “cập nhật hóa các vấn đề tôn giáo và khu vực Tây Nguyên” trong đó đưa ra các con số về số các tôn giáo và các tín đồ trên cả nước cũng như số lượng tăng sĩ, tu sĩ mỗi ngày một nhiều hơn để chứng minh rằng ở Việt Nam có tự do tôn giáo.

Khi họp ở Hà Nội hồi Tháng Mười 2004, Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã gửi cho nhà cầm quyền trung ương Cộng Sản Việt Nam bức thư chỉ trích chế độ Hà Nội đã tảng lờ các đề nghị và khuyến cáo của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam khi đưa ra cái “Pháp lệnh tôn giáo tín ngưỡng” có hiệu lực từ ngày 15 Tháng Mười Một 2004. Trước đó, Ðức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã phê bình rằng cái pháp lệnh đó trói tôn giáo vào cái cơ chế “xin cho” chứng không phải là tự do tôn giáo nên “chẳng nên có thì hơn”.