LỜI KHUYÊN BẢO CỦA NGƯỜI MỤC TỬ
Ngày 13 tháng 4 năm 1967, Cha Phanxicô Xaviê NGUYỄN VĂN THUẬN đã được Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Nha Trang, thay thế Đức Cha Paul Raymond PIQUET, MEP. Ngày 24.06.1967, lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, tại Nhà thờ Chính Tòa Huế, Cha đã được thụ phong Đức Cha do Đức Cha Angelo Palmas, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Lào và Campuchia, chủ tế. Cha (xin phép dùng danh xưng ‘Cha’ trong bài nầy) đã chọn khẩu hiệu ‘Vui Mừng và Hy Vọng’ (Gaudium et Spes), tên của Hiến chế Mục vụ của Công Đồng Vatican II.
Ngày 10.07.1967, Cha đã nhận nhiệm vụ Giám mục Giáo phận Nha Trang và là Đức Giám Mục tiên khởi người Việt tại Giáo phận Nha Trang.
Sự nhậm chức Giám mục của Cha tuy thuần túy là một sự kiện thuộc Giáo Hội Công giáo, nhưng đã gây một sự chú ý đặc biệt trong giới chính trị Việt-Nam.
Thật vậy, lúc đó, gần bốn năm sau cuộc đảo chánh ngày 01.11.1963 và Tổng Thống Ngô đình Diệm bị thãm sát, Việt-Nam đã rơi vào khủng hoảng lãnh đạo… Quân Đội Cộng Hòa, anh dũng trong việc bảo vệ Tổ Quốc, đã bị cưỡng bách tham gia các cuộc binh biến tương tàn giữa các tướng tá. Thêm vào đó, sự hiện diện của Quân đội Hoa kỳ và Đồng minh, dù mang danh là bảo vệ Tự do cho Việt-Nam, nhưng cũng đã gây ra vô số tệ nạn xã hội và làm tổn thương Chính Nghĩa Dân Tộc.
Cuộc tiếp tân chào mừng Ðức Tân Giám mục tại trường Lasan Taberd Sàigòn đã là cơ hội để Cha tiếp xúc, đối thoại với các giới lãnh đạo quốc gia. Việt-Nam, trong thời gian đó, đang chuẩn bị cho hai cuộc tổng tuyển cử Tổng Thống và Nghị sĩ Thượng nghị viện ngày 02.09.1967, dự trù bởi Hiến pháp Ðệ Nhị Cộng hòa 01.04.1967. Cha đã dùng cơ hội nầy để thi hành điều 76 Hiến chế Gaudium et Spes ‘Giáo Hội, vì sứ mạng và chức năng mình, Giáo Hội không lẫn lộn với một cộng đồng chánh trị và không bị gắn liền với bất cứ hệ thống chánh trị nào’. Bởi thế ‘cộng đồng chánh trị và và Giáo Hội độc lập với nhau và tự trị trong lãnh vực chuyên biệt của mình''. Nhưng vì cả hai cùng được mời gọi hoàn tất sứ mạng riêng biệt phục vụ cùng một tập thể con người, sự phục vụ sẽ càng hữu hiệu nếu ‘cả hai thực hiện nhiều hơn nữa một sự hợp tác lành mạnh với nhau''. (trích thư Ðức Gioan Phaolô II đã viết và trao cho các Ðức Giám mục Việt-Nam ngày 22.01.2002).
Tiếc thay, lợi dụng thời gian hưu chiến nhân dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân, ngày 30.01.1968, Bắc Việt đã mở cuộc tổng công kích và các thị xã. Tại Sàigòn, cộng quân đã đánh vào cửa sau Dinh Độc Lập và xâm nhập Tòa Đại sứ Mỹ. Quân Lực Việt-Nam Cộng Hòa, tuy bị bất ngờ, nhưng đã anh dũng đánh bật các đơn vị cộng sản ra khỏi các vị trí bị chiếm đóng. Chiến tranh gây thiệt hại nặng nề cho Quốc Gia. Chính trị và quân sự ảnh hưởng đến xã hội.
Trước tình thế đó, ngày 19.03.1968, Lễ kính Thánh Giuse, Cha đã khẩn thiết kêu gọi qua Thư luân lưu đầu tiên ‘TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN’ :
- Tỉnh thức để nhận định, để hành động với trí óc, với sức lực của chúng ta: ‘Là công dân của nước Trời, người công giáo không quên mình cũng là công dân của nước trần thế. Phải quan tâm về cộng đồng chánh trị. Thái độ thoái thác, ỷ lại, dửng dưng ích kỷ trong giai đoạn nầy là đắc tội với Chúa và Tổ Quốc. Bức thông cáo Hội Đồng Giám Mục trong dịp Tết dể nhắc anh chị em điều đó.’
- Cầu nguyện để có Ơn Chúa giúp ta tự cứu thoát.
Để tuyên bố năm 1969 là Năm Đức Tin của Giáo phận, Cha đã cho phổ biến Thư luân lưu ‘VỮNG MẠNH TRONG ĐỨC TIN? TIẾN LÊN TRONG AN BÌNH’, đó là đường lối xây dựng và củng cố, phát triển một nền Hòa bình chân chính, trường cửu theo quan niệm Công giáo. Cha viết:
‘… Tỉnh thức trong bổn phận công dân, vì lúc này hơn bao giờ cả, người Công giáo phải theo ánh sáng của Công Đồng Vatican II, phải bỏ quan niệm chia đôi đời sống xã hội mà Công Đồng cho là sự sai lầm tai hại nhất của thời đại ta.
Tôi đã kêu gọi anh em cầu nguyện, chính vì thiếu cầu nguyện mà Giáo Sĩ, Tu Sĩ, Giáo Dân ngày nay gặp bao nhiêu khủng hoảng, bao nhiêu khó khăn. Thiếu cầu nguyện ta không biết chính bản thân ta nữa, ta sống ta phản ứng theo tinh thần thế tục…’
Cha nhắc lại lời dạy của Đức Thánh Cha Phaolô VI: ‘Đức Tin là vấn đề tiên quyết, vấn đề tối hệ, và chúng ta các Giám mục, chúng ta phải nhìn vấn đề này với tất cả mối quan hệ khẩn cấp của nó’. Tiếp theo, Cha nhận định:
‘… Chưa bao giờ Đức Tin phải nguy hiểm như ngày nay. Hiểm nguy bên ngoài do vật chất, vô thần. Hiểm nguy bên trong do sự bất tuân phục Hội Thánh gây khủng hoảng trong nội bộ dân Chúa.
Để anh chị em vững mạnh trong Đức Tin, đề phòng hai hiểm họa trên, tôi trình bày cho anh chị em hai điểm sau đây: Tin tưởng ở phẩm vị con người và Tin tưởng ở Hội Thánh…’.
Trong phần “Tiến Lên Trong An Bình”, Cha xác định: ‘Người Công giáo Yêu Chuộng Hòa Bình, nhưng người Công giáo không yêu chuộng Hòa Bình cách thơ ngây, quá lạc quan. Người Công giáo rất thận trọng. Hòa bình theo quan niệm Công giáo:
- Hòa bình không có nghĩa là không chiến tranh.
- Hòa bình không phải là thế quân bình giữa hai lực lượng đối lập.
- Hòa bình chân chính không phải là Hòa bình chiến lược.
- Hòa bình là con đường duy nhất đi đến tiến bộ nhân loại.
- Hòa bình phải được xây dựng trên nền tảng Chân lý, Công bằng, Tự do và Bác ái.
- Hòa bình phải được xây dựng trên tinh thần mới: Kích động đời sống cộng đồng các dân tộc.
- Hòa bình phải được xây dựng trên não trạng mới: Tôn trọng mối bang giao giữa các quốc gia, quí trọng tình huynh đệ giữa các dân tộc, cộng tác giữa các sắc tộc vì tiến bộ chung; nhìn nhận và tin tưởng các tổ chức Hòa bình quốc tế.
- Hòa bình phải được xây dựng trên sự tôn trọng và nhìn nhận những quyền lợi của con người và nền độc lập của mỗi quốc gia.
Nhân ngày Quốc tế Hòa bình 01.01.1970, Cha đã công bố Thư luân lưu ‘CÔNG LÝ và HÒA BÌNH’ với lời mở đầu:
‘Công lý và Hòa bình là hai danh từ mà anh chị em đều cảm thấy cao đẹp mọi dân tộc đều khao khát.
Công lý và Hòa bình là hai danh từ mà mấy tháng nay đã khiến cho nhiều người bỡ ngỡ, vì nó đưa ra một đường lối mới, nó trình bày một chủ trương, một cơ cấu mà anh chị em chưa quen thuộc.
Để đáp lại thiện chí của anh chị em mong muốn hiểu biết rõ ràng hầu cùng ưu tư, cùng khắc khoải, cùng cầu nguyện và hành động với Hội Thánh, tôi xin nhắc lại đây: con đường tiến của Hội Thánh trong lịch sử, nguyện vọng của Cộng Đồng Vatican II, sự thành hình, mục đích và hoạt động của Công lý và Hòa bình.’
Thưa Cha, đây có phải là sự quan phòng của Thiên Chúa để chuẩn bị cho Cha, vị Mục tử người Việt, trong chức vụ Phó Chủ tịch (24.11.1994) rồi Chủ tịch (24.06.1998) Hội đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình ?
Trong thời gian ngắn, gần 8 năm giữ sứ vụ Mục tử Giáo phận Nha Trang, ngoài ba Thư luân lưu nói trên, Cha còn cho luân lưu thêm ba Thư khác:
- Sứ mạng Chúa Kitô là sứ mạng của chúng ta (1971)
- Kỷ niệm 300 năm (1971)
- Năm Thánh Canh tân và Hòa giải (1973)
Vượt ranh giới Giáo phận và biên cương Tổ Quốc, Cha đã thuyết trình đề tài ‘CÁC VẤN ĐỀ CHÁNH TRỊ TẠI Á CHÂU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP LIÊN HỆ’ trước Hội nghị Giám mục Á châu họp tại Manila (Phi luật tân), ngày 24.11.1970. Trong đó, Cha lưu ý cử tọa: ‘Á châu là một lục địa vừa rộng lớn nhất vừa đông dân cư nhất trên thế giới. Những vấn đề nhiều biến tính và phức tạp của Á châu cũng là những vấn đề của toàn thể nhân loại.’
Ngày 23.04.1975, Cha được Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng giám mục phó tổng giáo phận Sàigòn với quyền kế vị.
Thưa Cha, Cha quyết định đi vào Sàigòn, noi gương Ðức Kitô đã phải đi Giêrusalem, dù Cha đã biết những gì mình sẽ phải gặp tại đó như Cha viết trong ‘NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ’ :
« Giờ đây, tôi phải đi vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Ðức Phaolô VI bồ nhiệm…
Ðêm ấy 07.05.1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha trang, tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang - vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Ðức Thánh Cha.
Tiếp đến là gian khổ, thử thách tại Sàigòn… »
Trong phiên họp ngày 27.06.1975, tại Dinh Độc lập, kéo dài từ 15 đến 19 giờ, Cha đã đối diện với ba Cán bộ cao cấp của Ủy Ban Quân Quản TP Hồ Chí Minh cùng các người Công giáo yêu nước. Đối với Chính quyền Cộng sản, sự thuyên chuyển độ một tuần trước khi họ tiếp thu Sàigòn vào ngày 30.04.1975, là bằng cớ âm mưu giữa Vatican và các Đế Quốc. Để trả lời sự cáo buộc đó, Cha chỉ xác nhận sự vâng lời của Cha đối với Bài Sai của Đức Thánh Cha.
Cách đây 29 năm, vào ngày 15.08.1975, Ủy Ban Quân Quản TP Hồ Chí Minh bắt giam Cha. Cha đã bị giam giữ nhiều nơi khác nhau, trong đó, có 9 năm bị biệt giam, cho đến ngày 23 tháng 11 năm 1988 ngài được thả tự do và bị quản chế tại Hà Nội. Trong thời gian 13 năm ở tù không bản án, bắt chước Thánh Phaolô, Cha đã viết thư cho các giáo đoàn về kinh nghiệm sống Ðức Tin, Mục vụ, Tu đức. Ðó là ba tập sách:
- Ðường hy vọng (1975);
- Ðường hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Cộng Đồng Vatican II (1979);
- Những người lữ hành trên Ðường Hy Vọng (1980).
Năm 1989, Cha được phép qua Roma chữa bệnh và được mời làm thành viên Ủy Ban Quốc Tế về Di Trú và Di Dân. Nhà Nước Việt-Nam đã không cho Cha trở lại Quê Hương.
Ngày 09 tháng 04 năm 1994, Đức Thánh Cha Ðức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Cha làm Phó chủ tịch Hội đồng giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình. Tiếp đến, ngày 24 tháng 6 năm 1998, Cha được bổ nhiệm là chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý Hòa bình, thay thế Đức Hồng Y Roger Etchegaray.
Trong tư cách đó, ngày 12.03.2000, Cha đã đọc lời sám hối về những lỗi lầm mà những thành viên của Giáo Hội đã phạm.
Trong Nhà Nguyện Mẹ Đấng Cứu Thế, từ chiều ngày 12 đến 18.03.2000, Cha đã giảng tĩnh tâm cho Đức Giáo Hoàng và Giáo Triều Rôma và đã được Đức Giáo Hoàng cám ơn như sau: «…Tôi đã ước mong rằng trong năm Đại Toàn Xá nầy, có một chỗ đặc biệt được dành cho chứng tá của những người đã chịu ‘đau khổ vì đức tin, đã trả bằng máu sự gắn bó của họ đối với Chúa Kitô và Giáo Hội, hoặc can đảm chịu đựng những năm thật dài cảnh tù ngục và thiếu thốn đủ loại’ (Tông sắc ‘Mầu nhiệm nhập thể’, số 13). Hiền Đệ đã chia sẻ chứng tá đó một cách nồng nhiệt và đầy xúc động, chứng tỏ rằng, trong toàn thể cuộc sống con người, tình thương xót của Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi lý luận của loài người, tại những phần đất khác nhau trên thế giới, đang tiếp tục phải trả giá thật đắt cho chính niềm tin của mình nơi Chúa Kitô… ». Những bài giảng tĩnh tâm nầy đã được in thành sách « CHỨNG NHÂN HY VỌNG », bằng nhiều thứ tiếng.
Tại Vatican City, ngày 01.05.2000, Lễ kính Thánh Giuse Thợ, Cha đã ký Lời Tựa ban hành ‘SƯU TẬP NHỮNG BẢN VĂN CỦA HUẤN QUYỀN VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO’, gồm 11 chương về Bản chất Học Thuyết Xã hội Công giáo, Con Người, Gia Đình, Trật tự Xã hội, Kinh tế, Lao Động và Tiền Lương, Sự Nghèo đói và Đức Bác ái, Môi trường, Cộng Đồng Quốc tế và Chương Kết.
Ngày 21 tháng 1 năm 2001, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố tuyển chọn Cha vào Hồng Y Đoàn.
Sáng ngày 24.01.2002, trong Ngày Cầu Nguyện Liên Tôn cho Hòa Bình Thế Giới tại Assisi (Ý-đại-lợi), trước sự chứng kiến của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y đã đọc diễn từ khai mạc. Trước đó, để trả lời phỏng vấn dành cho nhật báo công giáo Ý, "Tương lai", số ra ngày 20/01/2002, Đức Hồng Y đã nói: trong Ngày Cầu nguyện tại Assisi tháng 10 năm 1986, Đức Hồng Y còn ở trong tù của chế độ cộng sản Việt Nam.
Ngày 03.05.2002, Cha đã diễn thuyết lần cuối cùng, một ngày trước khi nhập viện để chịu giải phẩu. Hôm đó, sau khi trình bày về sự thành hình, mục đích và hoạt động của Hội Đồng Giáo Hoàng Công lý và Hòa bình, với tư cách Chủ tịch Hội Đồng nầy trước các chính khách tại Padova, miền Bắc nước Ý. Sau đó, Cha đã nhấn mạnh: tôi chỉ phát biểu như một Mục tử khi Cha phát biểu về ‘TÁM MỐI PHÚC THẬT CHO CÁC CHÁNH TRỊ GIA’ :
1. Phúc cho những Chánh trị gia nào ý thức cao độ và hiểu biết sâu rộng về vai trò của mình. Công đồng chung Vatican II đã định nghĩa Chánh trị là một Nghệ thuật cao quý và khó khăn. Ngày nay, gần 40 năm sau, và giữa thời đại hoàn vũ hóa, định nghĩa nầy lại càng được cũng cố hơn khi chúng ta nhận thấy rằng người ta chỉ có thể đáp ứng sự yếu kém và mong manh của hệ thống kinh tế với kích thước toàn cầu bằng sức mạnh của Chánh trị hoàn vũ kiên cố và đặt nền tảng trên những giá trị được mọi người nhìn nhận.
2. Phúc cho Chánh trị gia nào biết phản ảnh uy tín qua nhân cách của chính mình. Trong thời đại chúng ta, chánh trị thế giới có biết bao tham nhũng, lạm quyền dính liền với chi tiêu quá cao trong các chiến dịch tranh cử. Tình trạng tiêu cực nầy ngày càng gia tăng khiến cho các nhà chánh trị ngày càng mất uy tín. Để lật ngược tình thế, cần phải đưa ra một trả lời vững chắc. Một câu trả lời bao gồm cả nổ lực canh tân và sửa đổi để phục hồi hình ảnh phải có của nhà Chánh trị.
3. Phúc cho Chánh trị gia nào biết hoạt động cho Công ích chứ không chỉ lo cho tư lợi. Để sống Phúc thật nầy, Chánh trị gia phải tự vấn lương tâm, tự hỏi tôi đang lo việc cho dân tộc hay cho riêng tôi. Tôi có đang làm việc cho Tổ quốc, cho văn hóa hay không? Tôi có đang làm việc để đề cao Luân lý, Đạo đức hay không? Tôi có phục vụ chân thành cho nhân loại hay không?
4. Phúc cho Chánh trị gia nào biết trung thành sống phù hợp với Niềm Tin của mình. Niềm Tin đi đôi với đời sống dấn thân hoạt động chính trị. Cần tôn trọng những điều mình đã hứa, lời nói đi đôi với việc làm.
5. Phúc cho Chánh trị gia nào thực hiện và bảo vệ sự Hiệp nhất bằng cách đặt Chúa Giêsu là trọng tâm. Chúa Giêsu vốn là trọng tâm Hiệp nhất. Sở dĩ, phải hành động như thế vì chia rẽ là tự hủy. Ở Pháp, người ta nói các tín hữu Công Giáo Pháp không bao giờ cùng đứng chung với nhau trừ lúc nghe đọc Phúc Âm. Theo tôi, câu nói bình dân nầy cũng có thể áp dụng cho nhiều dân tộc các nước khác được.
6. Phúc cho Chánh trị gia nào dấn thân thực hiện một cuộc thay đổi tận gốc rễ. Sự thay đổi như thế xảy ra khi người ta cố gắng tranh đấu chống lại sự sa đọa trí thức như nhất quyết không gọi là Thiện những gì là Ác. Không xếp Tôn giáo vào xó riêng của cuộc sống tư riêng, nhưng biết ý thức những ưu tiên trong những chọn lựa của mình dựa trên Đức Tin có một Đại Hiến chương là Phúc Âm.
7. Phúc cho Chánh trị gia nào biết lắng nghe. Biết lắng nghe tiếng dân trước, trong và sau cuộc bầu cử. Biết lắng nghe Lời Chúa qua kinh nguyện. Hoạt động của Chánh trị gia ấy sẽ đạt được nhiều chắc chắn, an ninh và hữu hiệu.
8. Phúc cho Chánh trị gia nào không sợ hãi. Trước hết, vị đó không sợ ở trong Chân lý. Đức Gioan Phaolô II đã nói: người ta không bầu Chân lý. Một Chánh trị gia chỉ nên sợ chính mình mà thôi, vì chỉ có mình biết mình. Chánh trị gia không nên sợ các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong cuộc phán quyết sau hết, Chánh trị gia sẽ phải trả lẽ hành động của mình trước Thiên Chúa, chớ không phải các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tuy công việc bề bộn, Cha đã viết và cho ấn hành một số sách và những bài giảng không những bằng Việt ngữ mà còn phiên dịch ra nhiều thứ tiếng khác như: Năm chiếc bánh và hai con cá, Sứ điệp Ðức Mẹ La-Vang, Cầu nguyện, How faith survived in a Communist prison (có đề tựa tiếng Việt là ‘Cảm nghiệm Quyền năng giải phóng của Thiên Chúa’), Niềm vui sống đạo…
Lúc 18 giờ, giờ Vatican, ngày 16.09.2002, Cha đã được Thiên Chúa gọi ra khỏi thế gian. Ngay khi hay tin Cha qua qua đời, Đức Giám Mục Giampaolo Crepaldi, Tổng Thư Ký Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình, đã tuyên bố với báo chí: "Một vị Thánh vừa qua đời".
Chiều ngày 20.09.2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từ Castel Gandolfo trở về Vatican, để chủ sự Lễ An táng cho Cha trong Vương cung đại thánh đường Thánh Phêrô chiều hôm đó. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã nói :
"Niềm hy vọng của họ đầy sự bất tử" (Sap 3,4). Những lời này của sách Khôn Ngoan mời gọi chúng ta, trong ánh sáng hy vọng hãy dâng lời khẩn nguyện cho linh hồn ưu tuyển của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, người đã đặt trọn cuộc sống của mình dưới dấu chỉ hy vọng.
Dĩ nhiên sự qua đi của Đức Hồng Y gây đau buồn cho những người đã từng quen biết và yêu mến Đức Hồng Y và các thân nhân của Đức Hồng Y, đặc biệt là Bà Cố, mà tôi tái bày tỏ sự gần gũi quý mến. Rồi tôi cũng nghĩ tới Giáo Hội yêu quí tại Việt-Nam, đã sinh ra Đức Hồng Y trong Ðức Tin, và tôi cũng nghĩ tới toàn thể dân tộc Việt-Nam, mà Đức Hồng Y đích thị nhắc đến trong chúc thư tinh thần của Người, và quả quyết là luôn luôn yêu mến dân tộc Việt Nam. Tòa Thánh khóc thương Đức Hồng Y Văn Thuận, Đức Hồng Y đã dành những năm cuối cùng để phục vụ Tòa Thánh trong tư cách là Phó Chủ Tịch, rồi là Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình.
…
Chúng ta có thể tự hỏi từ đâu Đức Hồng Y đã rút ra được sự kiên nhẫn và can đảm làm cho Đức Hồng Y luôn luôn nổi bật như vậy. Về điểm này, Đức Hồng Y tâm sự rằng ơn gọi Linh mục của Người được gắn liền một cách tuy huyền nhiệm nhưng rất thực tế với máu của các vị Tử Ðạo đã ngã gục trong thế kỷ qua, trong khi rao giảng Tin Mừng tại Việt-Nam
…
"Đối với tôi sống là Chúa Kitô" (fil 1,21). Trung thành cho đến chết, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã nhận lấy lời trên đây của Thánh Phaolô làm của mình, lời mà chúng ta vừa nghe đọc. Người đã duy trì sự thanh thản đến độ vui tươi, cả trong thời kỳ điều trị lâu dài và đau đớn tại nhà thương. Trong những ngày cuối cùng, khi không còn nói được nữa, Đức Hồng Y nằm đó, mắt nhìn chăm chăm vào thánh giá Chúa chịu đóng đinh ở trước mặt, Đức Hồng Y cầu nguyện trong thinh lặng trong lúc chu toàn sự hy sinh tột cùng kết thúc một cuộc sống ghi đậm sự đồng hình dạng với Chúa Kitô trên Thánh giá. Những lời Chúa Giêsu nói trước khi chịu khổ nạn và phục sinh được áp dụng rất thích hợp với Đức Hồng Y: "Nếu hạt lúa miến rơi xuống đất không chết đi thì nó vẫn trơ trơ một mình, nhưng nếu chết đi, nó sinh ra nhiều bông hạt" (Gioan 12,24).
Chỉ khi nào hy sinh bản thân, Kitô-hữu mới góp phần vào việc cứu độ trần thế. Đó cũng là điều xảy ra với Đức Hồng Y, người anh em đáng kính của chúng ta. Người giã từ chúng ta, nhưng tấm gương của Người vẫn tồn tại. Đức Tin đoan quyết với chúng ta rằng Người không chết, nhưng bước vào ngày vĩnh cửu không bao giờ tàn lụi.
…
Trong chúc thư tinh thần, sau khi xin lỗi, Đức Cố Hồng Y cam đoan tiếp tục yêu mến tất cả mọi người. Đức Hồng Y quả quyết: "Tôi thanh thản ra đi, và tôi không giữ lòng oán hận nào đối với ai. Tôi dâng tất cả những đau khổ tôi đã trải qua cho Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Giuse". Chúc thư tinh thần kết thúc với ba lời nhắn nhủ: "Hãy yêu mến Đức Mẹ, hãy tín thác nơi Thánh Giuse, hãy trung thành với Giáo hội, hãy đoàn kết và yêu thương tất cả mọi người". Đây chính là tổng hợp trọn cuộc sống của ĐHY.
Giờ đây, ước gì cùng với Thánh Giuse và Mẹ Maria, Đức Hồng Y được đón nhận vào trong niềm vui của thiên đàng, chiêm ngắm tôn nhan rạng ngời của Chúa Kitô, Đấng trên trần thế đã nhiệt thành tìm kiếm như niềm Hy vọng duy nhất của mình. Amen!
Theo VietCatholic News, ngày 7/1/2003 về ‘Bài diễn văn của Cha Viện trưởng Viện Aston chia sẻ cảm tưởng về Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận’, Cha đã kết luận: “Ngày 20 tháng 9, tại thánh đường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Gioan Phao lồ II đã chủ tọa và giảng trong thánh lễ đám tang. Và bây giờ có thể đoan chắc là hồ sơ xin phong thánh cho Ngài đang đưọc mở ra tại Vatican.”
Tại Strathfield, Sydney, chiều ngày 05.09.2003, Đức Hồng Y George Pell, Tổng Giám Mục Sydney (Úc-đại-lợi), đã chủ tợa buổi giới thiệu quyển sách ‘PHÉP LẠ CỦA HY VỌNG’ - Cuộc Đời Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, do tác giả André Nguyễn Văn Châu. (The Miracle of Hope - Life of Francis Xavier Nguyễn Văn Thuận). Trong phần phát biểu, sau khi lược qua cuộc đời của Cha, Đức Tổng Giám Mục nói: "Đức Hồng Y là một vị thánh (a saint). Tôi hy vọng Ngài sẽ được phong Chân Phước và rồi tôn phong Thánh, như là một vị chứng nhân đã chết để tuyên xưng Ðức Tin. Vì lý do đó, tôi sẽ giữ lại trong hồ sơ các thơ từ Ngài gửi cho tôi.".
Nhân dịp kỵ giỗ lần thứ hai kính nhớ Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, ngày 16.09.2004, chúng tôi xin ghi lại những lời dạy bảo của Đấng Mục Tử đối với Dân Tộc, Giáo Hội Công giáo Việt-Nam và Hoàn vũ. Gương Đức Cố Hồng Y để lại là : Lời Nói Đi Với Việc Làm và Làm Cho Tới Cùng.
Paris, 16.09.2004
Ngày 13 tháng 4 năm 1967, Cha Phanxicô Xaviê NGUYỄN VĂN THUẬN đã được Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Nha Trang, thay thế Đức Cha Paul Raymond PIQUET, MEP. Ngày 24.06.1967, lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, tại Nhà thờ Chính Tòa Huế, Cha đã được thụ phong Đức Cha do Đức Cha Angelo Palmas, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Lào và Campuchia, chủ tế. Cha (xin phép dùng danh xưng ‘Cha’ trong bài nầy) đã chọn khẩu hiệu ‘Vui Mừng và Hy Vọng’ (Gaudium et Spes), tên của Hiến chế Mục vụ của Công Đồng Vatican II.
Ngày 10.07.1967, Cha đã nhận nhiệm vụ Giám mục Giáo phận Nha Trang và là Đức Giám Mục tiên khởi người Việt tại Giáo phận Nha Trang.Sự nhậm chức Giám mục của Cha tuy thuần túy là một sự kiện thuộc Giáo Hội Công giáo, nhưng đã gây một sự chú ý đặc biệt trong giới chính trị Việt-Nam.
Thật vậy, lúc đó, gần bốn năm sau cuộc đảo chánh ngày 01.11.1963 và Tổng Thống Ngô đình Diệm bị thãm sát, Việt-Nam đã rơi vào khủng hoảng lãnh đạo… Quân Đội Cộng Hòa, anh dũng trong việc bảo vệ Tổ Quốc, đã bị cưỡng bách tham gia các cuộc binh biến tương tàn giữa các tướng tá. Thêm vào đó, sự hiện diện của Quân đội Hoa kỳ và Đồng minh, dù mang danh là bảo vệ Tự do cho Việt-Nam, nhưng cũng đã gây ra vô số tệ nạn xã hội và làm tổn thương Chính Nghĩa Dân Tộc.
Cuộc tiếp tân chào mừng Ðức Tân Giám mục tại trường Lasan Taberd Sàigòn đã là cơ hội để Cha tiếp xúc, đối thoại với các giới lãnh đạo quốc gia. Việt-Nam, trong thời gian đó, đang chuẩn bị cho hai cuộc tổng tuyển cử Tổng Thống và Nghị sĩ Thượng nghị viện ngày 02.09.1967, dự trù bởi Hiến pháp Ðệ Nhị Cộng hòa 01.04.1967. Cha đã dùng cơ hội nầy để thi hành điều 76 Hiến chế Gaudium et Spes ‘Giáo Hội, vì sứ mạng và chức năng mình, Giáo Hội không lẫn lộn với một cộng đồng chánh trị và không bị gắn liền với bất cứ hệ thống chánh trị nào’. Bởi thế ‘cộng đồng chánh trị và và Giáo Hội độc lập với nhau và tự trị trong lãnh vực chuyên biệt của mình''. Nhưng vì cả hai cùng được mời gọi hoàn tất sứ mạng riêng biệt phục vụ cùng một tập thể con người, sự phục vụ sẽ càng hữu hiệu nếu ‘cả hai thực hiện nhiều hơn nữa một sự hợp tác lành mạnh với nhau''. (trích thư Ðức Gioan Phaolô II đã viết và trao cho các Ðức Giám mục Việt-Nam ngày 22.01.2002).
Tiếc thay, lợi dụng thời gian hưu chiến nhân dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân, ngày 30.01.1968, Bắc Việt đã mở cuộc tổng công kích và các thị xã. Tại Sàigòn, cộng quân đã đánh vào cửa sau Dinh Độc Lập và xâm nhập Tòa Đại sứ Mỹ. Quân Lực Việt-Nam Cộng Hòa, tuy bị bất ngờ, nhưng đã anh dũng đánh bật các đơn vị cộng sản ra khỏi các vị trí bị chiếm đóng. Chiến tranh gây thiệt hại nặng nề cho Quốc Gia. Chính trị và quân sự ảnh hưởng đến xã hội.
Trước tình thế đó, ngày 19.03.1968, Lễ kính Thánh Giuse, Cha đã khẩn thiết kêu gọi qua Thư luân lưu đầu tiên ‘TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN’ :
- Tỉnh thức để nhận định, để hành động với trí óc, với sức lực của chúng ta: ‘Là công dân của nước Trời, người công giáo không quên mình cũng là công dân của nước trần thế. Phải quan tâm về cộng đồng chánh trị. Thái độ thoái thác, ỷ lại, dửng dưng ích kỷ trong giai đoạn nầy là đắc tội với Chúa và Tổ Quốc. Bức thông cáo Hội Đồng Giám Mục trong dịp Tết dể nhắc anh chị em điều đó.’
- Cầu nguyện để có Ơn Chúa giúp ta tự cứu thoát.
Để tuyên bố năm 1969 là Năm Đức Tin của Giáo phận, Cha đã cho phổ biến Thư luân lưu ‘VỮNG MẠNH TRONG ĐỨC TIN? TIẾN LÊN TRONG AN BÌNH’, đó là đường lối xây dựng và củng cố, phát triển một nền Hòa bình chân chính, trường cửu theo quan niệm Công giáo. Cha viết:
‘… Tỉnh thức trong bổn phận công dân, vì lúc này hơn bao giờ cả, người Công giáo phải theo ánh sáng của Công Đồng Vatican II, phải bỏ quan niệm chia đôi đời sống xã hội mà Công Đồng cho là sự sai lầm tai hại nhất của thời đại ta.
Tôi đã kêu gọi anh em cầu nguyện, chính vì thiếu cầu nguyện mà Giáo Sĩ, Tu Sĩ, Giáo Dân ngày nay gặp bao nhiêu khủng hoảng, bao nhiêu khó khăn. Thiếu cầu nguyện ta không biết chính bản thân ta nữa, ta sống ta phản ứng theo tinh thần thế tục…’
Cha nhắc lại lời dạy của Đức Thánh Cha Phaolô VI: ‘Đức Tin là vấn đề tiên quyết, vấn đề tối hệ, và chúng ta các Giám mục, chúng ta phải nhìn vấn đề này với tất cả mối quan hệ khẩn cấp của nó’. Tiếp theo, Cha nhận định:
‘… Chưa bao giờ Đức Tin phải nguy hiểm như ngày nay. Hiểm nguy bên ngoài do vật chất, vô thần. Hiểm nguy bên trong do sự bất tuân phục Hội Thánh gây khủng hoảng trong nội bộ dân Chúa.
Để anh chị em vững mạnh trong Đức Tin, đề phòng hai hiểm họa trên, tôi trình bày cho anh chị em hai điểm sau đây: Tin tưởng ở phẩm vị con người và Tin tưởng ở Hội Thánh…’.
Trong phần “Tiến Lên Trong An Bình”, Cha xác định: ‘Người Công giáo Yêu Chuộng Hòa Bình, nhưng người Công giáo không yêu chuộng Hòa Bình cách thơ ngây, quá lạc quan. Người Công giáo rất thận trọng. Hòa bình theo quan niệm Công giáo:
- Hòa bình không có nghĩa là không chiến tranh.
- Hòa bình không phải là thế quân bình giữa hai lực lượng đối lập.
- Hòa bình chân chính không phải là Hòa bình chiến lược.
- Hòa bình là con đường duy nhất đi đến tiến bộ nhân loại.
- Hòa bình phải được xây dựng trên nền tảng Chân lý, Công bằng, Tự do và Bác ái.
- Hòa bình phải được xây dựng trên tinh thần mới: Kích động đời sống cộng đồng các dân tộc.
- Hòa bình phải được xây dựng trên não trạng mới: Tôn trọng mối bang giao giữa các quốc gia, quí trọng tình huynh đệ giữa các dân tộc, cộng tác giữa các sắc tộc vì tiến bộ chung; nhìn nhận và tin tưởng các tổ chức Hòa bình quốc tế.
- Hòa bình phải được xây dựng trên sự tôn trọng và nhìn nhận những quyền lợi của con người và nền độc lập của mỗi quốc gia.
Nhân ngày Quốc tế Hòa bình 01.01.1970, Cha đã công bố Thư luân lưu ‘CÔNG LÝ và HÒA BÌNH’ với lời mở đầu:
‘Công lý và Hòa bình là hai danh từ mà anh chị em đều cảm thấy cao đẹp mọi dân tộc đều khao khát.
Công lý và Hòa bình là hai danh từ mà mấy tháng nay đã khiến cho nhiều người bỡ ngỡ, vì nó đưa ra một đường lối mới, nó trình bày một chủ trương, một cơ cấu mà anh chị em chưa quen thuộc.
Để đáp lại thiện chí của anh chị em mong muốn hiểu biết rõ ràng hầu cùng ưu tư, cùng khắc khoải, cùng cầu nguyện và hành động với Hội Thánh, tôi xin nhắc lại đây: con đường tiến của Hội Thánh trong lịch sử, nguyện vọng của Cộng Đồng Vatican II, sự thành hình, mục đích và hoạt động của Công lý và Hòa bình.’
Thưa Cha, đây có phải là sự quan phòng của Thiên Chúa để chuẩn bị cho Cha, vị Mục tử người Việt, trong chức vụ Phó Chủ tịch (24.11.1994) rồi Chủ tịch (24.06.1998) Hội đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình ?
Trong thời gian ngắn, gần 8 năm giữ sứ vụ Mục tử Giáo phận Nha Trang, ngoài ba Thư luân lưu nói trên, Cha còn cho luân lưu thêm ba Thư khác:
- Sứ mạng Chúa Kitô là sứ mạng của chúng ta (1971)
- Kỷ niệm 300 năm (1971)
- Năm Thánh Canh tân và Hòa giải (1973)
Vượt ranh giới Giáo phận và biên cương Tổ Quốc, Cha đã thuyết trình đề tài ‘CÁC VẤN ĐỀ CHÁNH TRỊ TẠI Á CHÂU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP LIÊN HỆ’ trước Hội nghị Giám mục Á châu họp tại Manila (Phi luật tân), ngày 24.11.1970. Trong đó, Cha lưu ý cử tọa: ‘Á châu là một lục địa vừa rộng lớn nhất vừa đông dân cư nhất trên thế giới. Những vấn đề nhiều biến tính và phức tạp của Á châu cũng là những vấn đề của toàn thể nhân loại.’
Ngày 23.04.1975, Cha được Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng giám mục phó tổng giáo phận Sàigòn với quyền kế vị.
Thưa Cha, Cha quyết định đi vào Sàigòn, noi gương Ðức Kitô đã phải đi Giêrusalem, dù Cha đã biết những gì mình sẽ phải gặp tại đó như Cha viết trong ‘NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ’ :
« Giờ đây, tôi phải đi vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Ðức Phaolô VI bồ nhiệm…
Ðêm ấy 07.05.1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha trang, tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang - vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Ðức Thánh Cha.
Tiếp đến là gian khổ, thử thách tại Sàigòn… »
Trong phiên họp ngày 27.06.1975, tại Dinh Độc lập, kéo dài từ 15 đến 19 giờ, Cha đã đối diện với ba Cán bộ cao cấp của Ủy Ban Quân Quản TP Hồ Chí Minh cùng các người Công giáo yêu nước. Đối với Chính quyền Cộng sản, sự thuyên chuyển độ một tuần trước khi họ tiếp thu Sàigòn vào ngày 30.04.1975, là bằng cớ âm mưu giữa Vatican và các Đế Quốc. Để trả lời sự cáo buộc đó, Cha chỉ xác nhận sự vâng lời của Cha đối với Bài Sai của Đức Thánh Cha.
Cách đây 29 năm, vào ngày 15.08.1975, Ủy Ban Quân Quản TP Hồ Chí Minh bắt giam Cha. Cha đã bị giam giữ nhiều nơi khác nhau, trong đó, có 9 năm bị biệt giam, cho đến ngày 23 tháng 11 năm 1988 ngài được thả tự do và bị quản chế tại Hà Nội. Trong thời gian 13 năm ở tù không bản án, bắt chước Thánh Phaolô, Cha đã viết thư cho các giáo đoàn về kinh nghiệm sống Ðức Tin, Mục vụ, Tu đức. Ðó là ba tập sách:
- Ðường hy vọng (1975);
- Ðường hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Cộng Đồng Vatican II (1979);
- Những người lữ hành trên Ðường Hy Vọng (1980).
Năm 1989, Cha được phép qua Roma chữa bệnh và được mời làm thành viên Ủy Ban Quốc Tế về Di Trú và Di Dân. Nhà Nước Việt-Nam đã không cho Cha trở lại Quê Hương.
Ngày 09 tháng 04 năm 1994, Đức Thánh Cha Ðức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Cha làm Phó chủ tịch Hội đồng giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình. Tiếp đến, ngày 24 tháng 6 năm 1998, Cha được bổ nhiệm là chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý Hòa bình, thay thế Đức Hồng Y Roger Etchegaray.
Trong tư cách đó, ngày 12.03.2000, Cha đã đọc lời sám hối về những lỗi lầm mà những thành viên của Giáo Hội đã phạm.
Trong Nhà Nguyện Mẹ Đấng Cứu Thế, từ chiều ngày 12 đến 18.03.2000, Cha đã giảng tĩnh tâm cho Đức Giáo Hoàng và Giáo Triều Rôma và đã được Đức Giáo Hoàng cám ơn như sau: «…Tôi đã ước mong rằng trong năm Đại Toàn Xá nầy, có một chỗ đặc biệt được dành cho chứng tá của những người đã chịu ‘đau khổ vì đức tin, đã trả bằng máu sự gắn bó của họ đối với Chúa Kitô và Giáo Hội, hoặc can đảm chịu đựng những năm thật dài cảnh tù ngục và thiếu thốn đủ loại’ (Tông sắc ‘Mầu nhiệm nhập thể’, số 13). Hiền Đệ đã chia sẻ chứng tá đó một cách nồng nhiệt và đầy xúc động, chứng tỏ rằng, trong toàn thể cuộc sống con người, tình thương xót của Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi lý luận của loài người, tại những phần đất khác nhau trên thế giới, đang tiếp tục phải trả giá thật đắt cho chính niềm tin của mình nơi Chúa Kitô… ». Những bài giảng tĩnh tâm nầy đã được in thành sách « CHỨNG NHÂN HY VỌNG », bằng nhiều thứ tiếng.
Tại Vatican City, ngày 01.05.2000, Lễ kính Thánh Giuse Thợ, Cha đã ký Lời Tựa ban hành ‘SƯU TẬP NHỮNG BẢN VĂN CỦA HUẤN QUYỀN VỀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO’, gồm 11 chương về Bản chất Học Thuyết Xã hội Công giáo, Con Người, Gia Đình, Trật tự Xã hội, Kinh tế, Lao Động và Tiền Lương, Sự Nghèo đói và Đức Bác ái, Môi trường, Cộng Đồng Quốc tế và Chương Kết.
Ngày 21 tháng 1 năm 2001, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố tuyển chọn Cha vào Hồng Y Đoàn.
Sáng ngày 24.01.2002, trong Ngày Cầu Nguyện Liên Tôn cho Hòa Bình Thế Giới tại Assisi (Ý-đại-lợi), trước sự chứng kiến của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y đã đọc diễn từ khai mạc. Trước đó, để trả lời phỏng vấn dành cho nhật báo công giáo Ý, "Tương lai", số ra ngày 20/01/2002, Đức Hồng Y đã nói: trong Ngày Cầu nguyện tại Assisi tháng 10 năm 1986, Đức Hồng Y còn ở trong tù của chế độ cộng sản Việt Nam.
Ngày 03.05.2002, Cha đã diễn thuyết lần cuối cùng, một ngày trước khi nhập viện để chịu giải phẩu. Hôm đó, sau khi trình bày về sự thành hình, mục đích và hoạt động của Hội Đồng Giáo Hoàng Công lý và Hòa bình, với tư cách Chủ tịch Hội Đồng nầy trước các chính khách tại Padova, miền Bắc nước Ý. Sau đó, Cha đã nhấn mạnh: tôi chỉ phát biểu như một Mục tử khi Cha phát biểu về ‘TÁM MỐI PHÚC THẬT CHO CÁC CHÁNH TRỊ GIA’ :
1. Phúc cho những Chánh trị gia nào ý thức cao độ và hiểu biết sâu rộng về vai trò của mình. Công đồng chung Vatican II đã định nghĩa Chánh trị là một Nghệ thuật cao quý và khó khăn. Ngày nay, gần 40 năm sau, và giữa thời đại hoàn vũ hóa, định nghĩa nầy lại càng được cũng cố hơn khi chúng ta nhận thấy rằng người ta chỉ có thể đáp ứng sự yếu kém và mong manh của hệ thống kinh tế với kích thước toàn cầu bằng sức mạnh của Chánh trị hoàn vũ kiên cố và đặt nền tảng trên những giá trị được mọi người nhìn nhận.
2. Phúc cho Chánh trị gia nào biết phản ảnh uy tín qua nhân cách của chính mình. Trong thời đại chúng ta, chánh trị thế giới có biết bao tham nhũng, lạm quyền dính liền với chi tiêu quá cao trong các chiến dịch tranh cử. Tình trạng tiêu cực nầy ngày càng gia tăng khiến cho các nhà chánh trị ngày càng mất uy tín. Để lật ngược tình thế, cần phải đưa ra một trả lời vững chắc. Một câu trả lời bao gồm cả nổ lực canh tân và sửa đổi để phục hồi hình ảnh phải có của nhà Chánh trị.
3. Phúc cho Chánh trị gia nào biết hoạt động cho Công ích chứ không chỉ lo cho tư lợi. Để sống Phúc thật nầy, Chánh trị gia phải tự vấn lương tâm, tự hỏi tôi đang lo việc cho dân tộc hay cho riêng tôi. Tôi có đang làm việc cho Tổ quốc, cho văn hóa hay không? Tôi có đang làm việc để đề cao Luân lý, Đạo đức hay không? Tôi có phục vụ chân thành cho nhân loại hay không?
4. Phúc cho Chánh trị gia nào biết trung thành sống phù hợp với Niềm Tin của mình. Niềm Tin đi đôi với đời sống dấn thân hoạt động chính trị. Cần tôn trọng những điều mình đã hứa, lời nói đi đôi với việc làm.
5. Phúc cho Chánh trị gia nào thực hiện và bảo vệ sự Hiệp nhất bằng cách đặt Chúa Giêsu là trọng tâm. Chúa Giêsu vốn là trọng tâm Hiệp nhất. Sở dĩ, phải hành động như thế vì chia rẽ là tự hủy. Ở Pháp, người ta nói các tín hữu Công Giáo Pháp không bao giờ cùng đứng chung với nhau trừ lúc nghe đọc Phúc Âm. Theo tôi, câu nói bình dân nầy cũng có thể áp dụng cho nhiều dân tộc các nước khác được.
6. Phúc cho Chánh trị gia nào dấn thân thực hiện một cuộc thay đổi tận gốc rễ. Sự thay đổi như thế xảy ra khi người ta cố gắng tranh đấu chống lại sự sa đọa trí thức như nhất quyết không gọi là Thiện những gì là Ác. Không xếp Tôn giáo vào xó riêng của cuộc sống tư riêng, nhưng biết ý thức những ưu tiên trong những chọn lựa của mình dựa trên Đức Tin có một Đại Hiến chương là Phúc Âm.
7. Phúc cho Chánh trị gia nào biết lắng nghe. Biết lắng nghe tiếng dân trước, trong và sau cuộc bầu cử. Biết lắng nghe Lời Chúa qua kinh nguyện. Hoạt động của Chánh trị gia ấy sẽ đạt được nhiều chắc chắn, an ninh và hữu hiệu.
8. Phúc cho Chánh trị gia nào không sợ hãi. Trước hết, vị đó không sợ ở trong Chân lý. Đức Gioan Phaolô II đã nói: người ta không bầu Chân lý. Một Chánh trị gia chỉ nên sợ chính mình mà thôi, vì chỉ có mình biết mình. Chánh trị gia không nên sợ các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong cuộc phán quyết sau hết, Chánh trị gia sẽ phải trả lẽ hành động của mình trước Thiên Chúa, chớ không phải các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tuy công việc bề bộn, Cha đã viết và cho ấn hành một số sách và những bài giảng không những bằng Việt ngữ mà còn phiên dịch ra nhiều thứ tiếng khác như: Năm chiếc bánh và hai con cá, Sứ điệp Ðức Mẹ La-Vang, Cầu nguyện, How faith survived in a Communist prison (có đề tựa tiếng Việt là ‘Cảm nghiệm Quyền năng giải phóng của Thiên Chúa’), Niềm vui sống đạo…
Lúc 18 giờ, giờ Vatican, ngày 16.09.2002, Cha đã được Thiên Chúa gọi ra khỏi thế gian. Ngay khi hay tin Cha qua qua đời, Đức Giám Mục Giampaolo Crepaldi, Tổng Thư Ký Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình, đã tuyên bố với báo chí: "Một vị Thánh vừa qua đời".
Chiều ngày 20.09.2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từ Castel Gandolfo trở về Vatican, để chủ sự Lễ An táng cho Cha trong Vương cung đại thánh đường Thánh Phêrô chiều hôm đó. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã nói :
"Niềm hy vọng của họ đầy sự bất tử" (Sap 3,4). Những lời này của sách Khôn Ngoan mời gọi chúng ta, trong ánh sáng hy vọng hãy dâng lời khẩn nguyện cho linh hồn ưu tuyển của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, người đã đặt trọn cuộc sống của mình dưới dấu chỉ hy vọng.
Dĩ nhiên sự qua đi của Đức Hồng Y gây đau buồn cho những người đã từng quen biết và yêu mến Đức Hồng Y và các thân nhân của Đức Hồng Y, đặc biệt là Bà Cố, mà tôi tái bày tỏ sự gần gũi quý mến. Rồi tôi cũng nghĩ tới Giáo Hội yêu quí tại Việt-Nam, đã sinh ra Đức Hồng Y trong Ðức Tin, và tôi cũng nghĩ tới toàn thể dân tộc Việt-Nam, mà Đức Hồng Y đích thị nhắc đến trong chúc thư tinh thần của Người, và quả quyết là luôn luôn yêu mến dân tộc Việt Nam. Tòa Thánh khóc thương Đức Hồng Y Văn Thuận, Đức Hồng Y đã dành những năm cuối cùng để phục vụ Tòa Thánh trong tư cách là Phó Chủ Tịch, rồi là Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình.
…
Chúng ta có thể tự hỏi từ đâu Đức Hồng Y đã rút ra được sự kiên nhẫn và can đảm làm cho Đức Hồng Y luôn luôn nổi bật như vậy. Về điểm này, Đức Hồng Y tâm sự rằng ơn gọi Linh mục của Người được gắn liền một cách tuy huyền nhiệm nhưng rất thực tế với máu của các vị Tử Ðạo đã ngã gục trong thế kỷ qua, trong khi rao giảng Tin Mừng tại Việt-Nam
…
"Đối với tôi sống là Chúa Kitô" (fil 1,21). Trung thành cho đến chết, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã nhận lấy lời trên đây của Thánh Phaolô làm của mình, lời mà chúng ta vừa nghe đọc. Người đã duy trì sự thanh thản đến độ vui tươi, cả trong thời kỳ điều trị lâu dài và đau đớn tại nhà thương. Trong những ngày cuối cùng, khi không còn nói được nữa, Đức Hồng Y nằm đó, mắt nhìn chăm chăm vào thánh giá Chúa chịu đóng đinh ở trước mặt, Đức Hồng Y cầu nguyện trong thinh lặng trong lúc chu toàn sự hy sinh tột cùng kết thúc một cuộc sống ghi đậm sự đồng hình dạng với Chúa Kitô trên Thánh giá. Những lời Chúa Giêsu nói trước khi chịu khổ nạn và phục sinh được áp dụng rất thích hợp với Đức Hồng Y: "Nếu hạt lúa miến rơi xuống đất không chết đi thì nó vẫn trơ trơ một mình, nhưng nếu chết đi, nó sinh ra nhiều bông hạt" (Gioan 12,24).
Chỉ khi nào hy sinh bản thân, Kitô-hữu mới góp phần vào việc cứu độ trần thế. Đó cũng là điều xảy ra với Đức Hồng Y, người anh em đáng kính của chúng ta. Người giã từ chúng ta, nhưng tấm gương của Người vẫn tồn tại. Đức Tin đoan quyết với chúng ta rằng Người không chết, nhưng bước vào ngày vĩnh cửu không bao giờ tàn lụi.
…
Trong chúc thư tinh thần, sau khi xin lỗi, Đức Cố Hồng Y cam đoan tiếp tục yêu mến tất cả mọi người. Đức Hồng Y quả quyết: "Tôi thanh thản ra đi, và tôi không giữ lòng oán hận nào đối với ai. Tôi dâng tất cả những đau khổ tôi đã trải qua cho Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Giuse". Chúc thư tinh thần kết thúc với ba lời nhắn nhủ: "Hãy yêu mến Đức Mẹ, hãy tín thác nơi Thánh Giuse, hãy trung thành với Giáo hội, hãy đoàn kết và yêu thương tất cả mọi người". Đây chính là tổng hợp trọn cuộc sống của ĐHY.
Giờ đây, ước gì cùng với Thánh Giuse và Mẹ Maria, Đức Hồng Y được đón nhận vào trong niềm vui của thiên đàng, chiêm ngắm tôn nhan rạng ngời của Chúa Kitô, Đấng trên trần thế đã nhiệt thành tìm kiếm như niềm Hy vọng duy nhất của mình. Amen!
Theo VietCatholic News, ngày 7/1/2003 về ‘Bài diễn văn của Cha Viện trưởng Viện Aston chia sẻ cảm tưởng về Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận’, Cha đã kết luận: “Ngày 20 tháng 9, tại thánh đường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Gioan Phao lồ II đã chủ tọa và giảng trong thánh lễ đám tang. Và bây giờ có thể đoan chắc là hồ sơ xin phong thánh cho Ngài đang đưọc mở ra tại Vatican.”
Tại Strathfield, Sydney, chiều ngày 05.09.2003, Đức Hồng Y George Pell, Tổng Giám Mục Sydney (Úc-đại-lợi), đã chủ tợa buổi giới thiệu quyển sách ‘PHÉP LẠ CỦA HY VỌNG’ - Cuộc Đời Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, do tác giả André Nguyễn Văn Châu. (The Miracle of Hope - Life of Francis Xavier Nguyễn Văn Thuận). Trong phần phát biểu, sau khi lược qua cuộc đời của Cha, Đức Tổng Giám Mục nói: "Đức Hồng Y là một vị thánh (a saint). Tôi hy vọng Ngài sẽ được phong Chân Phước và rồi tôn phong Thánh, như là một vị chứng nhân đã chết để tuyên xưng Ðức Tin. Vì lý do đó, tôi sẽ giữ lại trong hồ sơ các thơ từ Ngài gửi cho tôi.".
Nhân dịp kỵ giỗ lần thứ hai kính nhớ Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, ngày 16.09.2004, chúng tôi xin ghi lại những lời dạy bảo của Đấng Mục Tử đối với Dân Tộc, Giáo Hội Công giáo Việt-Nam và Hoàn vũ. Gương Đức Cố Hồng Y để lại là : Lời Nói Đi Với Việc Làm và Làm Cho Tới Cùng.
Paris, 16.09.2004