Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI chọn năm thứ 150 ngày Cha Thánh Xứ Ars qua đời để mở Năm Linh Mục cho toàn thể Giáo Hội. Nói đến gương mẫu thánh thiện và gương sáng mục vụ, không ai có thể qua mặt vị Thánh đầy khiêm nhu này. Ngài quả là quan thầy mọi linh mục, dù cuộc sống linh mục hiện nay đã ra khác xa so với cuộc sống linh mục tương đối êm ả của hậu bán thế kỷ 19.
Thật vậy, các linh mục ngày nay vừa phải đấu tranh quyết liệt với bản thân vừa phải lao mình vào nhiều trận tuyến khốc liệt ngoài đời, ngoài xã hội, thuộc đủ mọi lãnh vực. Nói về các vị, không đơn giản như trước nữa. Một khuôn mặt linh mục có thể cho thấy cái tính phức tạp ấy hẳn phải là Thomas Merton.
Thomas Merton (1) là một nhà văn Công Giáo Mỹ thế kỷ 20, một đan sĩ Trappist tại Đan Viện Getsemani thuộc bang Kentucky, một thi sĩ, một nhà tranh đấu xã hội và là một người nghiên cứu tôn giáo học so sánh. Xem thế đủ biết người Mỹ này phức tạp hơn người ta nghĩ.
Một người ‘vô đạo’ chịu cầu nguyện
Thực ra, khởi thủy, Merton không phải là người Mỹ. Ông sinh tại Prades, Pháp, rửa tội trong Anh Giáo. Cha ông là Owen Merton, một họa sĩ người Tân Tây Lan, nhưng phần lớn sống tại Âu Châu và Mỹ. Mẹ ông là Ruth Jenkins, người Mỹ, theo đạo Quaker, và là một nghệ sĩ. Tháng 8 năm 1915, gia đình rời cư qua Mỹ. Mẹ chết lúc Thomas lên 6.
Năm 1925, hai cha con trở lại Pháp sống tại Saint-Antonin. Năm 1926, Thomas vào học nội trú tại Montauban, nơi Chúa Nhật nào cũng có Thánh Lễ Công Giáo, nhưng Thomas không bao giờ tham dự.
Năm 1928, hai cha con qua Luân Đôn sinh sống. Thomas được gửi học tại trường nội trú Ripley Court School, nơi Chúa Nhật nào cũng có giờ phụng vụ của Anh Giáo mà các học sinh buộc phải tham dự. Nhờ thế, Thomas bắt đầu biết cầu nguyện thường xuyên. Tuy nhiên, sau khi rời trường này, ông đã bỏ thói quen tốt lành ấy.
Cha ông qua đời năm 1931, ông được vị y sĩ của cha và là bạn học của cha từ ngày còn ở Tân Tây Lan, là Tom Bennett, nhận giám hộ. Năm 1933, trước khi vào học tại Clare College, Cambridge, ông qua Rome du lịch, một cuộc du lịch sẽ thay đổi hướng đi của đời ông. Ông cho biết trước đây, với nhãn quan của một người Anglo-Saxon, Rome chỉ có nghĩa là tàn tích lịch sử xấu xí, những ngọn đồi và khu ổ chuột. Nhưng sau khi đi thăm các địa điểm lịch sử của Rome, ông bỗng thấy mình bắt đầu thích lui tới các thánh đường, chính ông cũng không hiểu tại sao. Tại một thánh đường kia, ông bị thu hút bởi một ảnh ghép hình Chúa Giêsu Kitô. Bức hình như dán vào mắt ông và ở lại mãi trong tâm trí ông. Ông bắt đầu nhìn ra một Rome khác hẳn: một Rome của Kitô Giáo Byzantine.
Ông mua một cuốn Thánh Kinh Phổ Thông (Vulgate) bằng tiếng La Tinh và ngấu nghiến hết phần Tân Ước. Một ngày kia, tại ngay nhà trọ, ông có cảm nghiệm như cha ông đang hiện diện với ông trong ít phút. Cảm nghiệm lạ lùng ấy khiến ông thấy ra sự trống rỗng của đời mình và lần đầu tiên trong đời, ông thực sự cầu nguyện và sau khi đi thăm một tu viện Trappist ở Rome, ông tự nhủ: mình phải trở thành một đan sĩ dòng Trappist, dù chưa gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Năm 1933, bỏ Rome, Thomas đáp tầu từ Ý qua Mỹ thăm ông bà ngoại trước khi trở lại Luân Đôn. Thoạt đầu, ông còn lưu giữ được một chút tinh thần như lúc còn ở Rome, tiếp tục đọc Bản Thánh Kinh Phổ Thông bằng tiếng La Tinh, và muốn đi nhà thờ. Tuy nhiên, ông vẫn còn nhiều nghi ngại đối với Đạo Công Giáo, nên ông thử tới một nhà thờ Episcopal rồi một nhà thờ Quaker, nhưng không thoải mái với các nhóm tôn giáo này.
Rồi sau đó, bị cuộc sống xô bồ của Nữu Ước lôi kéo. Đến giữa mùa hè năm đó, Thomas Merton mất hết thích thú đối với các tôn giáo có tổ chức. Cuối mùa hè này, ông trở lại Luân Đôn học tại Clare College thuộc Đại Học Cambridge, lúc 18 tuổi. Cũng chính ở đây, ông trở thành cô độc, bắt đầu say sưa, nhậu nhiều hơn học và sống khá buông thả về tình dục. Có người tin rằng ông đã có một đứa con rơi trong thời gian ở Cambridge và được Tom Bennett bí mật dàn xếp về phương diện tố tụng. Và cũng chính vì thế, Bennett buộc Thomas phải qua Mỹ sống với ông bà ngoại.
Tháng Giêng năm 1935, Thomas Merton ghi danh học năm thứ hai (sophomore) tại Đại Học Columbia ở Manhattan. Những năm ở đây giúp Merton trưởng thành và ông khám phá ra Đạo Công Giáo một cách đúng nghĩa. Ở đây, ông cũng chú ý tới chủ nghĩa cộng sản và từng tham gia Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản; nhưng ông chỉ dự một buổi sinh hoạt duy nhất, sau đó bỏ luôn. Merton cũng tham gia các phong trào hòa bình tại địa phương, với chủ trương không ủng hộ bất cứ chính phủ nào tham chiến, và từng tham dự biểu tình ngồi tại Casa Italiana để phản đối việc Ý xâm lăng Ethiopia.
Tháng Hai năm 1937, nhờ đọc cuốn Tinh Thần Triết Học Trung Cổ của Etienne Gilson, Merton khám phá ra một lối giải thích về Thiên Chúa được ông coi vừa hợp luận lý vừa có tính thực tiễn. Ông mua cuốn này một phần vì lúc đó ông đang tham dự một lớp học về văn chương Pháp thời Trung Cổ, chứ không lưu ý tới hàng chữ “nihil obstat” (2) trong cuốn sách nói lên gốc gác Công Giáo của nó. Cuốn sách này hết sức chủ yếu trong việc dọn đường cho ông gặp gỡ Đạo Công Giáo. Ông cũng bắt đầu đọc cuốn Mục Đích Và Phương Tiện (3) của Aldous Huxley, một tác giả đã dẫn Merton vào huyền nhiệm học.
Năm 1938, Merton tốt nghiệp cử nhân Anh Văn tại ĐH Columbia. Ông quyết định tiếp tục học cao học tại trường này. Tháng Sáu năm ấy, ông được một người bạn giới thiệu gặp một tu sĩ Ấn Giáo, Mahanambrata Brahmachari, từ ĐH Chicago tới thăm. Ông rất cảm phục vị tu sĩ này, tưởng ông ta sẽ thuyết phục mình đi theo tôn giáo của ông ta, nhưng không ngờ, ông ta lại khuyên Merton nên khai thác chính truyền thống tôn giáo của mình, bằng cách đọc “Tự Thú” của Thánh Augustinô và Sách “Gương Phúc” của Thomas á Kempis. Nhờ đọc hai tác phẩm này, Merton bắt đầu cầu nguyện lại một cách thường xuyên. Và cũng từ đó, ông bắt đầu coi Đạo Công Giáo như một điều gì đó cần phải khám phá. Cuối cùng, vào tháng Tám năm đó, ông quyết định tham dự Thánh Lễ và tới Nhà Thờ Corpus Christi ở Nữu Ước, gần khuôn viên ĐH Columbia. Thánh Lễ xa lạ đối với ông nhưng ông lắng nghe một cách chăm chú. Cùng với cảm nghiệm này, danh mục các sách ông đọc càng ngày càng thiên về Công Giáo hơn.
Trở lại Công Giáo và ý định đi tu làm linh mục
Một buổi chiều tháng Chín, đang khi đọc một cuốn sách về việc Gerard Manley Hopkins (4) trở lại Đạo Công Giáo và sau đó làm linh mục, ông bỗng tha thiết muốn đi theo cùng một con đường như nhân vật kỳ diệu này. Ông mặc vội quần áo, lập tức tiến về phía nhà thờ Corpus Christi, gặp Cha George Barry Ford để xin gia nhập Giáo Hội. Ngày 16 tháng Mười Một năm 1938, Thomas Merton được rửa tội và rước lễ tại nhà thờ Corpus Christi.
Đầu năm 1939, ông tốt nghiệp M.A. tại Đ.H Columbia và quyết định ở lại trường để lấy Ph.D. Cũng thời gian này, ông theo một giảng khóa về Thánh Tôma Aquinô do Daniel Walsh giảng dậy và qua vị giáo sư này, ông làm quen với Jacques Maritain (5) và dự khóa giảng của triết gia này về Công Giáo Tiến Hành tại Câu Lạc Bộ Sách Công Giáo. Có điều lạ là Walsh lại thuyết phục được Merton tin rằng chủ thuyết Tôma không thích hợp với Merton.
Tháng Mười năm đó, nhân một đêm sinh hoạt tại câu lạc bộ nhạc Jazz, Merton cho bạn bè biết ý định làm linh mục của mình. Sau đêm đó, ông tìm gặp cha Ford tại nhà thờ Corpus Christi. Vị linh mục này khuyên ông nên làm linh mục triều, chứ dòng tu không thích hợp. Trái lại Walsh thì nghĩ khác. Theo ông, Merton nên làm linh mục dòng. Nhưng Dòng nào, Dòng Tên, Dòng Xitô hay dòng Phanxicô? Cảm tình đối với Thánh Phanxicô Assisi khiến Merton nghĩ tới Dòng Phanxicô trước nhất. Vị đại diện Dòng Phanxicô sẵn sàng chào đón ông, nhưng sau khi được ông thổ lộ hết ‘khúc nhôi’ dĩ vãng, đã cho rằng ông không thích hợp với ơn gọi của Dòng này.
Tuy vậy, sau đó ông đã nhận một chân dạy tại Đại Học Thánh Bonaventura vốn do Dòng Phanxicô điều khiển. Sở dĩ ông chọn ĐH này là vì ông vẫn muốn trở thành tu sĩ của Dòng này. Tháng Chín năm 1940, ông dọn vào ngụ tại ký túc xá của trường. Dù thời gian ngụ ở đây khá ngắn, nhưng đó là thời gian chủ yếu, giúp cuộc sống thiêng liêng của ông nở rộ, càng ngày càng đi sâu hơn vào cuộc đời cầu nguyện. Ông hoàn toàn từ bỏ uống rượu, hút thuốc lá, đi coi hát bóng và càng ngày càng chọn lựa cẩn thận các tài liệu để đọc. Theo một cách nào đó, ông quả đã từ khước hết mọi lạc thú trần đời. Tháng Tư năm 1941, ông dự tĩnh tâm Tuần Thánh tại Đan Viện Đức Bà Gethsemani gần Bardstown, Kentucky. Ngay tức khắc, ông thấy mình hoàn toàn bị nơi này cuốn hút, thấy tinh thần của mình lên cao hẳn.
Không biết nên chọn con đường tu trì nào, ông bèn nghĩ ra cách như người Việt Nam ta thường bói Kiều: nhưng thay vì Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, ông dùng cuốn Thánh Kinh Vulgate đã mua từ Ý năm 1933 làm ‘sách bói’. Đến lần thử thứ hai, ngón tay ông đụng vào câu của Phúc Âm Luca “Này, ngươi nên giữ im lặng”. Ông hiểu đó là ‘điềm’ Chúa muốn ông nhập Dòng Xitô.
Tuy thế, ông vẫn chưa có quyết định dứt khoát. Tháng Tám năm 1941, ông tham gia Nhà Thân Hữu của Catherine de Hueck ở Harlem, chuyên lo cho người nghèo và bị rẫy bỏ của khu Da Đen này. Ông hết sức ngỡ ngàng thấy cảnh sống của họ. Cảm nghiệm này gây tác động lớn đối với ông khiến ông sau này hay nhắc đến nó trong các trước tác của mình. Nhưng mặc dù được Hueck mời làm hội viên toàn thời gian của Nhà Thân Hữu, ông từ chối, với lý do bị lôi cuốn vào giấc mơ làm linh mục nhiều hơn.
Nhập Dòng Khổ Tu
Ngày 10 tháng Mười Hai năm 1941, Merton trở lại Đan Viện Gethsemani và ở đó ba ngày tại nhà khách của Đan Viện, chờ được nhận vào Dòng. Vị trông coi tập sinh sẽ ra phỏng vấn Merton xem ông có đủ thành thật và điều kiện hay không. Trong khi chờ đợi, Merton được phân công đánh bóng sàn nhà và lau chùi chen dĩa. Ngày 13 tháng Mười Hai, ông được Viện Phụ là Dom Frederic Dunne nhận làm thỉnh sinh (postulant) của Dòng. Mấy ngày đầu không được xuông xẻ lắm vì lúc còn ở nhà khách, ông bị cảm cúm do việc ngồi ngay ở cửa sổ mở toang để chứng tỏ lòng thành thật của mình. Nhưng sau đó, ông đã hiến mình hoàn toàn để thích ứng với lối sống nhiệm nhặt, rất vui với việc thay đổi hẳn lối sống. Trong mấy tuần đầu, ông buộc phải học ngôn ngữ dấu hiệu rất phức tạp của Dòng Xitô cũng như công việc và thói quen cầu nguyện hàng ngày.
Tháng Ba năm 1942, ông được chính thức nhận là đan sĩ tập viên của Dòng. Tháng Bẩy năm đó, Merton hết sức hân hoan khi em trai John Paul tỏ ý muốn trở lại Đạo Công Giáo và đã được rửa tội sau đó mấy ngày, trước khi lên đường nhập ngũ. Đó là lần cuối cùng hai anh em gặp nhau, vì John Paul tử trận ngày 17 tháng Tư năm 1943 khi máy bay của anh bị hỏng máy lúc đang bay trên Vịnh Anh Quốc. Ông có làm một bài thơ tặng em đăng ở cuối cuốn tự truyện The Seven Storey Mountain (6).
Nhà Văn
Merton viết nhật ký suốt thời gian ở Đan Viện Gethsemani. Thoạt đầu, ông thấy việc viết lách như không thích hợp với ơn kêu gọi của mình, lo lắng nó có thể khích lệ khuynh hướng tôn thờ cá nhân. Rất may, viện phụ Frederic nhận ra khả năng trí thức và năng khiếu viết văn của ông. Nên năm 1943, ông được trao nhiệm vụ phiên dịch các bản văn thánh cũng như viết tiểu sử các vị thánh cho đan viện. Ông hăng say thi hành nhiệm vụ này cũng giống như lúc làm việc tại nông trại của đan viện.
Ngày 19 tháng Ba năm 1944, ông được khấn tạm và chính thức được mặc áo dòng. Tháng Mười Một năm đó, cuốn thơ đầu tiên của ông được nhà New Directions xuất bản tựa là Ba Mươi Bài Thơ (7). Merton có cảm xúc lẫn lộn về việc xuất bản này, nhưng Dom Frederick vẫn cương quyết để Merton tiếp tục viết. Năm 1946, nhà New Directions in cuốn thơ thứ hai của Merton tựa là Một Người Trong Biển Phân Chia (8) được nhiều người hoan nghênh. Cùng năm đó, bản thảo cuốn tự truyện The Seven Storey Mountain được nhà Harcourt Brace & Company chấp nhận để xuất bản. Cuốn tự truyện này được viết tại Thư Phòng của đan viện trong hai giờ rảnh mỗi ngày.
Qua năm 1947, Merton thấy mình thoải mái hơn trong vai trò nhà văn. Tháng Ba năm đó, ông khấn trọn đời trong Dòng, tức cam kết suốt đời sống tại đan viện. Ngày 4 tháng Bẩy, tập san Công Giáo Commonweal cho đăng một khảo luận của Merton tựa là Thi Ca và Cuộc Sống Chiêm Niệm (9).
Chịu chức linh mục
Năm 1948, cuốn tự truyện The Seven Storey Mountain được xuất bản và được các giới phê bình văn học ca ngợi, thư từ của người mộ điệu ồ ạt gửi tới ông. Ngày 3 tháng Tám năm đó, viện phụ Frederic qua đời, để lại thiêng tiếc rất lớn cho Merton. Rất may, tân viện phụ là Dom James Fox vẫn khuyến khích ông viết văn. Đến lúc này, ông đã nổi tiếng ở bên ngoài đan viện. Ngày 21 tháng Mười Hai năm đó, ông chịu chức phụ phó tế.
Ngày 5 tháng Giêng năm 1949, ông đáp xe lửa đi Louisville nạp đơn xin nhập quốc tịch Mỹ. Cũng trong năm này, ông cho xuất bản các cuốn Seeds of Contemplation, The Tears of Blind Lions, The Waters of Siloe (10), và ấn bản Anh cuốn The Seven Storey Mountain dưới tựa đề Elected Silence (11).
Ngày 19 tháng Ba, Merton chịu chức phó tế trong Dòng và ngày 26 tháng Năm, nhằm lễ Thăng Thiên, ông thụ phong linh mục và cử hành thánh lễ đầu tiên vào hôm sau. Nhân ngày kỷ niệm 100 năm của đan viện vào tháng Sáu, Merton viết cuốn Gethsemani Magnificat (12) để kỷ niệm. Qua tháng Mười Một, ông bắt đầu dạy các tập sinh tại Gethsemani về thần học huyền nhiệm, một việc được ông rất yêu thích. Trong mấy năm tiếp theo, ông liên tiếp cho xuất bản nhiều tác phẩm khác và số độc giả của ông lên rất cao. Ông sửa lại cuốn Seeds of Contemplation nhiều lần, cho rằng lần xuất bản trước có nhiều lầm lỗi và non vụng. Chỗ đứng của người ta trong xã hội, quan điểm về đấu tranh xã hội, và các cách tiếp cận khác nhau đối với việc cầu nguyện và lối sống chiêm niệm trở thành các chủ đề thường hằng trong các trước tác của ông.
Tới thập niên 1960, ông đạt được một cái nhìn nhân bản khá rộng rãi, một cái nhìn biết quan tâm sâu sắc đối với thế giới và các vấn đề như hòa bình, khoan dung chủng tộc, và bình đẳng xã hội. Ông khai triển được cả một chủ nghĩa cấp tiến có tính bản thân mang lại nhiều hệ luận chính trị quan trọng nhưng không dựa trên ý thức hệ, mà trên hết bắt rễ từ bất bạo động. Ông cho rằng quan điểm của ông dựa trên tính “đơn giản” và sự nhậy cảm Kitô Giáo.
Đến lúc chịu chức linh mục, Merton đã rất nổi tiếng ở bên ngoài đan viện, cuốn tự thuật The Seven Storey Mountain của ông đã bán tới 150,000 bản. Suốt các năm sống tại đan viện Gethsemani, Merton thay đổi từ một đan sĩ trẻ hết sức say mê với cuộc sống nội tâm qua một nhà văn và một thi sĩ có tính chiêm niệm. Ông nổi tiếng về các cuộc đối thoại với các niềm tin khác và quan điểm bất bạo động của ông trong những cuộc nổi loạn chủng tộc và Chiến Tranh Việt Nam của thập niên 1960. Cuối cùng, Merton đã đạt ước nguyện được sống cô tịch trong một căn nhà ẩn tu ngay trong Đan Viện vào năm 1965. Trong những năm ấy, ông từng vận động để các vị viện phụ chịu để ông tự do ra ngoài đan viện, đáp ứng phần nào danh tiếng quốc tế và số lượng thư từ khổng lồ từ rất nhiều nhân vật nổi tiếng thời ấy. Cuối cùng, vị đan viện mới là Rev. Flavian Burns đã cho phép ông qua thăm Á Châu vào cuối năm 1968. Trong cuộc du hành này, ông đã gặp Đức Dalai Lama tại Ấn Độ. Ông cũng tới thăm Polonnaruwa, thuộc Tích Lan, nay là Sri Lanka. Tại đây, ông có một cảm nghiệm tôn giáo mạnh khi ngắm nhìn tượng Phật Thích Ca ở đó.
Cuộc sống bản thân
Theo cuốn The Seven Storey Mountain, lúc còn thanh niên, Merton rất thích nhạc jazz, nhưng khi bắt đầu đi dạy, ông đã bỏ cả chỉ nghe nhạc êm dịu mà thôi. Tuy nhiên sau này, bất cứ lúc nào được rời đan viện vì lý do sức khỏe hay lo việc cho đan viện, ông đều tìm dịp nghe nhạc jazz sống, cho bằng thích, đặc biệt ở Louisville và Nữu Ước.
Tháng Tư năm 1966, Merton phải giải phẫu để trị chứng đau lưng bất trị. Trong khi nằm dưỡng bệnh tại Bệnh Viện Louisville, ông si tình một nữ sinh viên y tá được chỉ định chăm sóc ông. Ông viết nhiều bài thơ tặng nàng và từng suy tư về mối liên hệ này trong “Nhật Ký Giữa Hè Cho M.” (13). Merton cố gắng duy trì các lời khấn của mình dù rất yêu người thiếu nữ này mà ông chỉ gọi tắt là “M”. Có thể đây là một thứ khủng hoảng nửa đời người của một tu sĩ tài hoa. Tuy nhiên, ông giữ được lời khấn độc thân, chưa bao giờ hoàn hợp mối liên hệ kia. Sau khi chấm dứt mối liên hệ ấy, ông lại tiếp tục cam kết sống các lời khấn của mình.
Buồn thay, chính trong cuộc du hành Á Châu trên, ông đã qua đời đột ngột tại Thái Lan, lúc đang tham dự cuộc hội thảo liên tôn tại đó, do vô tình đụng vào chiếc quạt máy bị mát điện. Xác ông được đưa về đan viện Gethsemani và được an táng ở đấy.
Tiếp xúc với Phật Giáo
Lần đầu tiên Merton biết đến và quan tâm tới các tôn giáo Đông Phương là lúc đọc cuốn Mục Đích Và Phương Tiện của Aldous Huxley vào năm 1937, một năm trước khi ông trở lại Đạo Công Giáo. Từ đó, song song với việc nghiên cứu khoa bảng và cuộc sống đan viện, ông tìm tòi về Phật Giáo, Lão Giáo và Ấn Giáo.
Ông không chú trọng tới học thuyết cũng như định chế của các tôn giáo này, mà chỉ quan tâm tới những điều họ nói về kinh nghiệm nhân bản. Điều ấy không hẳn có nghĩa các tôn giáo này không có những nghi lễ và thực hành có giá trị đối với ông cũng như các Kitô hữu khác, nhưng chỉ có nghĩa: về phương diện học thuyết, Merton hoàn toàn gắn bó với Kitô Giáo và đàng khác, ông cho rằng các tín hữu của các tôn giáo kia cũng gắn bó với các học thuyết riêng của họ đến nỗi bất cứ cuộc tranh luận nào về học thuyết cũng đều vô ích đối với mọi người liên hệ.
Ông tin rằng Kitô Giáo phần lớn đã đánh mất truyền thống huyền nhiệm của mình để tiếp nhận quan điểm của Descartes về việc “vật thể hóa ý niệm (14), ngẫu tượng hóa ý thức suy tư, trốn chạy hữu thể mà đi vào duy ngữ (15), toán học và thuần lý hóa”. Đối với Merton, các truyền thống Đông Phương hầu như không bị ố tạp bởi thứ suy tư ấy và do đó có nhiều điều để hiến tặng ta về phương diện phải suy tư và hiểu về mình ra sao.
Tuy nhiên, ông quan tâm và viết nhiều nhất về Thiền. Vốn nghiên cứu nhiều về các Giáo Phụ Sa Mạc cũng như các nhà huyền nhiệm Kitô Giáo khác, Merton hiểu rất rõ điều các vị này từng tìm kiếm và cảm nghiệm được. Ông thấy nhiều điểm song hành giữa ngôn ngữ của các nhà huyền nhiệm Kitô Giáo này và ngôn ngữ của triết lý Thiền học.
Năm 1959, Merton bắt đầu một cuộc đàm luận với D.T. Suzuki. Cuộc đàm luận này sau đó đã được in trong cuốn Zen and the Birds of Appetite (16) của Merton với tựa là “Wisdom in Emptiness” (17). Cuộc đàm luận này xẩy ra sau khi Merton đã hoàn tất cuốn The Wisdom of the Desert (18). Merton gửi một bản cho ông Suzuki, hy vọng ông ta sẽ nhận định về quan điểm của Merton cho rằng Các Giáo Phụ Sa Mạc và các thiền sư đều có những cảm nghiệm tương tự như nhau. Gần mười năm sau khi cho xuất bản cuốn Zen and the Birds of Appetite, Merton đã viết ở lời bạt rằng “bất cứ cố gắng nhằm xử lý Thiền bằng ngôn ngữ thần học nào đều sẽ chẳng đi đến đâu”. Ông thấy khó có thể hòa giải giữa khuynh hướng Tây Phương và Kitô Giáo lúc nào cũng muốn lên danh mục và phát biểu ra lời mọi cảm nghiệm bằng các ý niệm của nền thần học phủ định (19) và bản chất không thể diễn tả bằng lời của kinh nghiệm Thiền.
Đối với Merton, cần phải phân biệt một đàng là Phật Giáo Thiền Tông, một phát biểu của lịch sử và văn hóa, và Thiền. Theo ông, Phật Giáo Thiền Tông là một tôn giáo phát nguyên từ Trung Hoa và phát triển qua Nhật, với nhiều nghi lễ và định chế đi kèm. Thiền, trái lại, không bị cột vào một nền văn hóa, một tôn giáo hay một tín ngưỡng nào. Các trước tác sau này của Merton chịu ảnh hưởng của cái Thiền sau, một nền Thiền học không hẳn của Phật Giáo nhưng sẽ mang nhiều âm hưởng từ việc đào tạo đan viện trong truyền thống Kitô Giáo.
Chú thích
(1) 1915 –1968
(2) Không có gì trở ngại
(3) Ends and Means
(4) 1844-1889, thi sĩ Anh, trở lại đạo Công Giáo, đi tu làm linh mục Dòng Tên, nổi tiếng trong thế kỷ 20 khiến được xếp vào hàng các thi sĩ hàng đầu thời Victoria.
(5) 1882-1973, triết gia Công Giáo Pháp. Trở lại Công Giáo từ Thệ Phản năm 1906; tác giả hơn 60 cuốn sách, người chịu trách nhiệm phục hồi Thánh Tôma Aquinô cho thời đại mới và là người soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền nổi tiếng; bạn và là người dìu dắt cũ (mentor) của Đức Phaolô VI.
(6) Núi Bẩy Tầng
(7) Thirty Poems
(8) A Man in the Divided Sea
(9) Poetry and the Contemplative Life
(10) Hạt Giống Chiêm Niệm, Nước Mắt Sư Tử Mù, Nước Suối Siloe
(11) Im Lặng Tự Chọn
(12) Ngợi Khen Gethsemani
(13) A Midsummer Diary for M.
(14) Reification of concepts
(15) Verbalism
(16) Thiền Và Những Con Chim Háu Ăn
(17) Khôn Ngoan Trong Trống Rỗng
(18) Khôn Ngoan Sa Mạc
(19) Apophatic theology/via negativa theology
(Còn một kỳ)
Thật vậy, các linh mục ngày nay vừa phải đấu tranh quyết liệt với bản thân vừa phải lao mình vào nhiều trận tuyến khốc liệt ngoài đời, ngoài xã hội, thuộc đủ mọi lãnh vực. Nói về các vị, không đơn giản như trước nữa. Một khuôn mặt linh mục có thể cho thấy cái tính phức tạp ấy hẳn phải là Thomas Merton.
Thomas Merton (1) là một nhà văn Công Giáo Mỹ thế kỷ 20, một đan sĩ Trappist tại Đan Viện Getsemani thuộc bang Kentucky, một thi sĩ, một nhà tranh đấu xã hội và là một người nghiên cứu tôn giáo học so sánh. Xem thế đủ biết người Mỹ này phức tạp hơn người ta nghĩ.
Một người ‘vô đạo’ chịu cầu nguyện
Thực ra, khởi thủy, Merton không phải là người Mỹ. Ông sinh tại Prades, Pháp, rửa tội trong Anh Giáo. Cha ông là Owen Merton, một họa sĩ người Tân Tây Lan, nhưng phần lớn sống tại Âu Châu và Mỹ. Mẹ ông là Ruth Jenkins, người Mỹ, theo đạo Quaker, và là một nghệ sĩ. Tháng 8 năm 1915, gia đình rời cư qua Mỹ. Mẹ chết lúc Thomas lên 6.
Năm 1925, hai cha con trở lại Pháp sống tại Saint-Antonin. Năm 1926, Thomas vào học nội trú tại Montauban, nơi Chúa Nhật nào cũng có Thánh Lễ Công Giáo, nhưng Thomas không bao giờ tham dự.
Năm 1928, hai cha con qua Luân Đôn sinh sống. Thomas được gửi học tại trường nội trú Ripley Court School, nơi Chúa Nhật nào cũng có giờ phụng vụ của Anh Giáo mà các học sinh buộc phải tham dự. Nhờ thế, Thomas bắt đầu biết cầu nguyện thường xuyên. Tuy nhiên, sau khi rời trường này, ông đã bỏ thói quen tốt lành ấy.
Cha ông qua đời năm 1931, ông được vị y sĩ của cha và là bạn học của cha từ ngày còn ở Tân Tây Lan, là Tom Bennett, nhận giám hộ. Năm 1933, trước khi vào học tại Clare College, Cambridge, ông qua Rome du lịch, một cuộc du lịch sẽ thay đổi hướng đi của đời ông. Ông cho biết trước đây, với nhãn quan của một người Anglo-Saxon, Rome chỉ có nghĩa là tàn tích lịch sử xấu xí, những ngọn đồi và khu ổ chuột. Nhưng sau khi đi thăm các địa điểm lịch sử của Rome, ông bỗng thấy mình bắt đầu thích lui tới các thánh đường, chính ông cũng không hiểu tại sao. Tại một thánh đường kia, ông bị thu hút bởi một ảnh ghép hình Chúa Giêsu Kitô. Bức hình như dán vào mắt ông và ở lại mãi trong tâm trí ông. Ông bắt đầu nhìn ra một Rome khác hẳn: một Rome của Kitô Giáo Byzantine.
Ông mua một cuốn Thánh Kinh Phổ Thông (Vulgate) bằng tiếng La Tinh và ngấu nghiến hết phần Tân Ước. Một ngày kia, tại ngay nhà trọ, ông có cảm nghiệm như cha ông đang hiện diện với ông trong ít phút. Cảm nghiệm lạ lùng ấy khiến ông thấy ra sự trống rỗng của đời mình và lần đầu tiên trong đời, ông thực sự cầu nguyện và sau khi đi thăm một tu viện Trappist ở Rome, ông tự nhủ: mình phải trở thành một đan sĩ dòng Trappist, dù chưa gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Năm 1933, bỏ Rome, Thomas đáp tầu từ Ý qua Mỹ thăm ông bà ngoại trước khi trở lại Luân Đôn. Thoạt đầu, ông còn lưu giữ được một chút tinh thần như lúc còn ở Rome, tiếp tục đọc Bản Thánh Kinh Phổ Thông bằng tiếng La Tinh, và muốn đi nhà thờ. Tuy nhiên, ông vẫn còn nhiều nghi ngại đối với Đạo Công Giáo, nên ông thử tới một nhà thờ Episcopal rồi một nhà thờ Quaker, nhưng không thoải mái với các nhóm tôn giáo này.
Rồi sau đó, bị cuộc sống xô bồ của Nữu Ước lôi kéo. Đến giữa mùa hè năm đó, Thomas Merton mất hết thích thú đối với các tôn giáo có tổ chức. Cuối mùa hè này, ông trở lại Luân Đôn học tại Clare College thuộc Đại Học Cambridge, lúc 18 tuổi. Cũng chính ở đây, ông trở thành cô độc, bắt đầu say sưa, nhậu nhiều hơn học và sống khá buông thả về tình dục. Có người tin rằng ông đã có một đứa con rơi trong thời gian ở Cambridge và được Tom Bennett bí mật dàn xếp về phương diện tố tụng. Và cũng chính vì thế, Bennett buộc Thomas phải qua Mỹ sống với ông bà ngoại.
Tháng Giêng năm 1935, Thomas Merton ghi danh học năm thứ hai (sophomore) tại Đại Học Columbia ở Manhattan. Những năm ở đây giúp Merton trưởng thành và ông khám phá ra Đạo Công Giáo một cách đúng nghĩa. Ở đây, ông cũng chú ý tới chủ nghĩa cộng sản và từng tham gia Liên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản; nhưng ông chỉ dự một buổi sinh hoạt duy nhất, sau đó bỏ luôn. Merton cũng tham gia các phong trào hòa bình tại địa phương, với chủ trương không ủng hộ bất cứ chính phủ nào tham chiến, và từng tham dự biểu tình ngồi tại Casa Italiana để phản đối việc Ý xâm lăng Ethiopia.
Tháng Hai năm 1937, nhờ đọc cuốn Tinh Thần Triết Học Trung Cổ của Etienne Gilson, Merton khám phá ra một lối giải thích về Thiên Chúa được ông coi vừa hợp luận lý vừa có tính thực tiễn. Ông mua cuốn này một phần vì lúc đó ông đang tham dự một lớp học về văn chương Pháp thời Trung Cổ, chứ không lưu ý tới hàng chữ “nihil obstat” (2) trong cuốn sách nói lên gốc gác Công Giáo của nó. Cuốn sách này hết sức chủ yếu trong việc dọn đường cho ông gặp gỡ Đạo Công Giáo. Ông cũng bắt đầu đọc cuốn Mục Đích Và Phương Tiện (3) của Aldous Huxley, một tác giả đã dẫn Merton vào huyền nhiệm học.
Năm 1938, Merton tốt nghiệp cử nhân Anh Văn tại ĐH Columbia. Ông quyết định tiếp tục học cao học tại trường này. Tháng Sáu năm ấy, ông được một người bạn giới thiệu gặp một tu sĩ Ấn Giáo, Mahanambrata Brahmachari, từ ĐH Chicago tới thăm. Ông rất cảm phục vị tu sĩ này, tưởng ông ta sẽ thuyết phục mình đi theo tôn giáo của ông ta, nhưng không ngờ, ông ta lại khuyên Merton nên khai thác chính truyền thống tôn giáo của mình, bằng cách đọc “Tự Thú” của Thánh Augustinô và Sách “Gương Phúc” của Thomas á Kempis. Nhờ đọc hai tác phẩm này, Merton bắt đầu cầu nguyện lại một cách thường xuyên. Và cũng từ đó, ông bắt đầu coi Đạo Công Giáo như một điều gì đó cần phải khám phá. Cuối cùng, vào tháng Tám năm đó, ông quyết định tham dự Thánh Lễ và tới Nhà Thờ Corpus Christi ở Nữu Ước, gần khuôn viên ĐH Columbia. Thánh Lễ xa lạ đối với ông nhưng ông lắng nghe một cách chăm chú. Cùng với cảm nghiệm này, danh mục các sách ông đọc càng ngày càng thiên về Công Giáo hơn.
Trở lại Công Giáo và ý định đi tu làm linh mục
Một buổi chiều tháng Chín, đang khi đọc một cuốn sách về việc Gerard Manley Hopkins (4) trở lại Đạo Công Giáo và sau đó làm linh mục, ông bỗng tha thiết muốn đi theo cùng một con đường như nhân vật kỳ diệu này. Ông mặc vội quần áo, lập tức tiến về phía nhà thờ Corpus Christi, gặp Cha George Barry Ford để xin gia nhập Giáo Hội. Ngày 16 tháng Mười Một năm 1938, Thomas Merton được rửa tội và rước lễ tại nhà thờ Corpus Christi.
Đầu năm 1939, ông tốt nghiệp M.A. tại Đ.H Columbia và quyết định ở lại trường để lấy Ph.D. Cũng thời gian này, ông theo một giảng khóa về Thánh Tôma Aquinô do Daniel Walsh giảng dậy và qua vị giáo sư này, ông làm quen với Jacques Maritain (5) và dự khóa giảng của triết gia này về Công Giáo Tiến Hành tại Câu Lạc Bộ Sách Công Giáo. Có điều lạ là Walsh lại thuyết phục được Merton tin rằng chủ thuyết Tôma không thích hợp với Merton.
Tháng Mười năm đó, nhân một đêm sinh hoạt tại câu lạc bộ nhạc Jazz, Merton cho bạn bè biết ý định làm linh mục của mình. Sau đêm đó, ông tìm gặp cha Ford tại nhà thờ Corpus Christi. Vị linh mục này khuyên ông nên làm linh mục triều, chứ dòng tu không thích hợp. Trái lại Walsh thì nghĩ khác. Theo ông, Merton nên làm linh mục dòng. Nhưng Dòng nào, Dòng Tên, Dòng Xitô hay dòng Phanxicô? Cảm tình đối với Thánh Phanxicô Assisi khiến Merton nghĩ tới Dòng Phanxicô trước nhất. Vị đại diện Dòng Phanxicô sẵn sàng chào đón ông, nhưng sau khi được ông thổ lộ hết ‘khúc nhôi’ dĩ vãng, đã cho rằng ông không thích hợp với ơn gọi của Dòng này.
Tuy vậy, sau đó ông đã nhận một chân dạy tại Đại Học Thánh Bonaventura vốn do Dòng Phanxicô điều khiển. Sở dĩ ông chọn ĐH này là vì ông vẫn muốn trở thành tu sĩ của Dòng này. Tháng Chín năm 1940, ông dọn vào ngụ tại ký túc xá của trường. Dù thời gian ngụ ở đây khá ngắn, nhưng đó là thời gian chủ yếu, giúp cuộc sống thiêng liêng của ông nở rộ, càng ngày càng đi sâu hơn vào cuộc đời cầu nguyện. Ông hoàn toàn từ bỏ uống rượu, hút thuốc lá, đi coi hát bóng và càng ngày càng chọn lựa cẩn thận các tài liệu để đọc. Theo một cách nào đó, ông quả đã từ khước hết mọi lạc thú trần đời. Tháng Tư năm 1941, ông dự tĩnh tâm Tuần Thánh tại Đan Viện Đức Bà Gethsemani gần Bardstown, Kentucky. Ngay tức khắc, ông thấy mình hoàn toàn bị nơi này cuốn hút, thấy tinh thần của mình lên cao hẳn.
Không biết nên chọn con đường tu trì nào, ông bèn nghĩ ra cách như người Việt Nam ta thường bói Kiều: nhưng thay vì Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, ông dùng cuốn Thánh Kinh Vulgate đã mua từ Ý năm 1933 làm ‘sách bói’. Đến lần thử thứ hai, ngón tay ông đụng vào câu của Phúc Âm Luca “Này, ngươi nên giữ im lặng”. Ông hiểu đó là ‘điềm’ Chúa muốn ông nhập Dòng Xitô.
Tuy thế, ông vẫn chưa có quyết định dứt khoát. Tháng Tám năm 1941, ông tham gia Nhà Thân Hữu của Catherine de Hueck ở Harlem, chuyên lo cho người nghèo và bị rẫy bỏ của khu Da Đen này. Ông hết sức ngỡ ngàng thấy cảnh sống của họ. Cảm nghiệm này gây tác động lớn đối với ông khiến ông sau này hay nhắc đến nó trong các trước tác của mình. Nhưng mặc dù được Hueck mời làm hội viên toàn thời gian của Nhà Thân Hữu, ông từ chối, với lý do bị lôi cuốn vào giấc mơ làm linh mục nhiều hơn.
Nhập Dòng Khổ Tu
Ngày 10 tháng Mười Hai năm 1941, Merton trở lại Đan Viện Gethsemani và ở đó ba ngày tại nhà khách của Đan Viện, chờ được nhận vào Dòng. Vị trông coi tập sinh sẽ ra phỏng vấn Merton xem ông có đủ thành thật và điều kiện hay không. Trong khi chờ đợi, Merton được phân công đánh bóng sàn nhà và lau chùi chen dĩa. Ngày 13 tháng Mười Hai, ông được Viện Phụ là Dom Frederic Dunne nhận làm thỉnh sinh (postulant) của Dòng. Mấy ngày đầu không được xuông xẻ lắm vì lúc còn ở nhà khách, ông bị cảm cúm do việc ngồi ngay ở cửa sổ mở toang để chứng tỏ lòng thành thật của mình. Nhưng sau đó, ông đã hiến mình hoàn toàn để thích ứng với lối sống nhiệm nhặt, rất vui với việc thay đổi hẳn lối sống. Trong mấy tuần đầu, ông buộc phải học ngôn ngữ dấu hiệu rất phức tạp của Dòng Xitô cũng như công việc và thói quen cầu nguyện hàng ngày.
Tháng Ba năm 1942, ông được chính thức nhận là đan sĩ tập viên của Dòng. Tháng Bẩy năm đó, Merton hết sức hân hoan khi em trai John Paul tỏ ý muốn trở lại Đạo Công Giáo và đã được rửa tội sau đó mấy ngày, trước khi lên đường nhập ngũ. Đó là lần cuối cùng hai anh em gặp nhau, vì John Paul tử trận ngày 17 tháng Tư năm 1943 khi máy bay của anh bị hỏng máy lúc đang bay trên Vịnh Anh Quốc. Ông có làm một bài thơ tặng em đăng ở cuối cuốn tự truyện The Seven Storey Mountain (6).
Nhà Văn
Merton viết nhật ký suốt thời gian ở Đan Viện Gethsemani. Thoạt đầu, ông thấy việc viết lách như không thích hợp với ơn kêu gọi của mình, lo lắng nó có thể khích lệ khuynh hướng tôn thờ cá nhân. Rất may, viện phụ Frederic nhận ra khả năng trí thức và năng khiếu viết văn của ông. Nên năm 1943, ông được trao nhiệm vụ phiên dịch các bản văn thánh cũng như viết tiểu sử các vị thánh cho đan viện. Ông hăng say thi hành nhiệm vụ này cũng giống như lúc làm việc tại nông trại của đan viện.
Ngày 19 tháng Ba năm 1944, ông được khấn tạm và chính thức được mặc áo dòng. Tháng Mười Một năm đó, cuốn thơ đầu tiên của ông được nhà New Directions xuất bản tựa là Ba Mươi Bài Thơ (7). Merton có cảm xúc lẫn lộn về việc xuất bản này, nhưng Dom Frederick vẫn cương quyết để Merton tiếp tục viết. Năm 1946, nhà New Directions in cuốn thơ thứ hai của Merton tựa là Một Người Trong Biển Phân Chia (8) được nhiều người hoan nghênh. Cùng năm đó, bản thảo cuốn tự truyện The Seven Storey Mountain được nhà Harcourt Brace & Company chấp nhận để xuất bản. Cuốn tự truyện này được viết tại Thư Phòng của đan viện trong hai giờ rảnh mỗi ngày.
Qua năm 1947, Merton thấy mình thoải mái hơn trong vai trò nhà văn. Tháng Ba năm đó, ông khấn trọn đời trong Dòng, tức cam kết suốt đời sống tại đan viện. Ngày 4 tháng Bẩy, tập san Công Giáo Commonweal cho đăng một khảo luận của Merton tựa là Thi Ca và Cuộc Sống Chiêm Niệm (9).
Chịu chức linh mục
Năm 1948, cuốn tự truyện The Seven Storey Mountain được xuất bản và được các giới phê bình văn học ca ngợi, thư từ của người mộ điệu ồ ạt gửi tới ông. Ngày 3 tháng Tám năm đó, viện phụ Frederic qua đời, để lại thiêng tiếc rất lớn cho Merton. Rất may, tân viện phụ là Dom James Fox vẫn khuyến khích ông viết văn. Đến lúc này, ông đã nổi tiếng ở bên ngoài đan viện. Ngày 21 tháng Mười Hai năm đó, ông chịu chức phụ phó tế.
Ngày 5 tháng Giêng năm 1949, ông đáp xe lửa đi Louisville nạp đơn xin nhập quốc tịch Mỹ. Cũng trong năm này, ông cho xuất bản các cuốn Seeds of Contemplation, The Tears of Blind Lions, The Waters of Siloe (10), và ấn bản Anh cuốn The Seven Storey Mountain dưới tựa đề Elected Silence (11).
Ngày 19 tháng Ba, Merton chịu chức phó tế trong Dòng và ngày 26 tháng Năm, nhằm lễ Thăng Thiên, ông thụ phong linh mục và cử hành thánh lễ đầu tiên vào hôm sau. Nhân ngày kỷ niệm 100 năm của đan viện vào tháng Sáu, Merton viết cuốn Gethsemani Magnificat (12) để kỷ niệm. Qua tháng Mười Một, ông bắt đầu dạy các tập sinh tại Gethsemani về thần học huyền nhiệm, một việc được ông rất yêu thích. Trong mấy năm tiếp theo, ông liên tiếp cho xuất bản nhiều tác phẩm khác và số độc giả của ông lên rất cao. Ông sửa lại cuốn Seeds of Contemplation nhiều lần, cho rằng lần xuất bản trước có nhiều lầm lỗi và non vụng. Chỗ đứng của người ta trong xã hội, quan điểm về đấu tranh xã hội, và các cách tiếp cận khác nhau đối với việc cầu nguyện và lối sống chiêm niệm trở thành các chủ đề thường hằng trong các trước tác của ông.
Tới thập niên 1960, ông đạt được một cái nhìn nhân bản khá rộng rãi, một cái nhìn biết quan tâm sâu sắc đối với thế giới và các vấn đề như hòa bình, khoan dung chủng tộc, và bình đẳng xã hội. Ông khai triển được cả một chủ nghĩa cấp tiến có tính bản thân mang lại nhiều hệ luận chính trị quan trọng nhưng không dựa trên ý thức hệ, mà trên hết bắt rễ từ bất bạo động. Ông cho rằng quan điểm của ông dựa trên tính “đơn giản” và sự nhậy cảm Kitô Giáo.
Đến lúc chịu chức linh mục, Merton đã rất nổi tiếng ở bên ngoài đan viện, cuốn tự thuật The Seven Storey Mountain của ông đã bán tới 150,000 bản. Suốt các năm sống tại đan viện Gethsemani, Merton thay đổi từ một đan sĩ trẻ hết sức say mê với cuộc sống nội tâm qua một nhà văn và một thi sĩ có tính chiêm niệm. Ông nổi tiếng về các cuộc đối thoại với các niềm tin khác và quan điểm bất bạo động của ông trong những cuộc nổi loạn chủng tộc và Chiến Tranh Việt Nam của thập niên 1960. Cuối cùng, Merton đã đạt ước nguyện được sống cô tịch trong một căn nhà ẩn tu ngay trong Đan Viện vào năm 1965. Trong những năm ấy, ông từng vận động để các vị viện phụ chịu để ông tự do ra ngoài đan viện, đáp ứng phần nào danh tiếng quốc tế và số lượng thư từ khổng lồ từ rất nhiều nhân vật nổi tiếng thời ấy. Cuối cùng, vị đan viện mới là Rev. Flavian Burns đã cho phép ông qua thăm Á Châu vào cuối năm 1968. Trong cuộc du hành này, ông đã gặp Đức Dalai Lama tại Ấn Độ. Ông cũng tới thăm Polonnaruwa, thuộc Tích Lan, nay là Sri Lanka. Tại đây, ông có một cảm nghiệm tôn giáo mạnh khi ngắm nhìn tượng Phật Thích Ca ở đó.
Cuộc sống bản thân
Theo cuốn The Seven Storey Mountain, lúc còn thanh niên, Merton rất thích nhạc jazz, nhưng khi bắt đầu đi dạy, ông đã bỏ cả chỉ nghe nhạc êm dịu mà thôi. Tuy nhiên sau này, bất cứ lúc nào được rời đan viện vì lý do sức khỏe hay lo việc cho đan viện, ông đều tìm dịp nghe nhạc jazz sống, cho bằng thích, đặc biệt ở Louisville và Nữu Ước.
Tháng Tư năm 1966, Merton phải giải phẫu để trị chứng đau lưng bất trị. Trong khi nằm dưỡng bệnh tại Bệnh Viện Louisville, ông si tình một nữ sinh viên y tá được chỉ định chăm sóc ông. Ông viết nhiều bài thơ tặng nàng và từng suy tư về mối liên hệ này trong “Nhật Ký Giữa Hè Cho M.” (13). Merton cố gắng duy trì các lời khấn của mình dù rất yêu người thiếu nữ này mà ông chỉ gọi tắt là “M”. Có thể đây là một thứ khủng hoảng nửa đời người của một tu sĩ tài hoa. Tuy nhiên, ông giữ được lời khấn độc thân, chưa bao giờ hoàn hợp mối liên hệ kia. Sau khi chấm dứt mối liên hệ ấy, ông lại tiếp tục cam kết sống các lời khấn của mình.
Buồn thay, chính trong cuộc du hành Á Châu trên, ông đã qua đời đột ngột tại Thái Lan, lúc đang tham dự cuộc hội thảo liên tôn tại đó, do vô tình đụng vào chiếc quạt máy bị mát điện. Xác ông được đưa về đan viện Gethsemani và được an táng ở đấy.
Tiếp xúc với Phật Giáo
Lần đầu tiên Merton biết đến và quan tâm tới các tôn giáo Đông Phương là lúc đọc cuốn Mục Đích Và Phương Tiện của Aldous Huxley vào năm 1937, một năm trước khi ông trở lại Đạo Công Giáo. Từ đó, song song với việc nghiên cứu khoa bảng và cuộc sống đan viện, ông tìm tòi về Phật Giáo, Lão Giáo và Ấn Giáo.
Ông không chú trọng tới học thuyết cũng như định chế của các tôn giáo này, mà chỉ quan tâm tới những điều họ nói về kinh nghiệm nhân bản. Điều ấy không hẳn có nghĩa các tôn giáo này không có những nghi lễ và thực hành có giá trị đối với ông cũng như các Kitô hữu khác, nhưng chỉ có nghĩa: về phương diện học thuyết, Merton hoàn toàn gắn bó với Kitô Giáo và đàng khác, ông cho rằng các tín hữu của các tôn giáo kia cũng gắn bó với các học thuyết riêng của họ đến nỗi bất cứ cuộc tranh luận nào về học thuyết cũng đều vô ích đối với mọi người liên hệ.
Ông tin rằng Kitô Giáo phần lớn đã đánh mất truyền thống huyền nhiệm của mình để tiếp nhận quan điểm của Descartes về việc “vật thể hóa ý niệm (14), ngẫu tượng hóa ý thức suy tư, trốn chạy hữu thể mà đi vào duy ngữ (15), toán học và thuần lý hóa”. Đối với Merton, các truyền thống Đông Phương hầu như không bị ố tạp bởi thứ suy tư ấy và do đó có nhiều điều để hiến tặng ta về phương diện phải suy tư và hiểu về mình ra sao.
Tuy nhiên, ông quan tâm và viết nhiều nhất về Thiền. Vốn nghiên cứu nhiều về các Giáo Phụ Sa Mạc cũng như các nhà huyền nhiệm Kitô Giáo khác, Merton hiểu rất rõ điều các vị này từng tìm kiếm và cảm nghiệm được. Ông thấy nhiều điểm song hành giữa ngôn ngữ của các nhà huyền nhiệm Kitô Giáo này và ngôn ngữ của triết lý Thiền học.
Năm 1959, Merton bắt đầu một cuộc đàm luận với D.T. Suzuki. Cuộc đàm luận này sau đó đã được in trong cuốn Zen and the Birds of Appetite (16) của Merton với tựa là “Wisdom in Emptiness” (17). Cuộc đàm luận này xẩy ra sau khi Merton đã hoàn tất cuốn The Wisdom of the Desert (18). Merton gửi một bản cho ông Suzuki, hy vọng ông ta sẽ nhận định về quan điểm của Merton cho rằng Các Giáo Phụ Sa Mạc và các thiền sư đều có những cảm nghiệm tương tự như nhau. Gần mười năm sau khi cho xuất bản cuốn Zen and the Birds of Appetite, Merton đã viết ở lời bạt rằng “bất cứ cố gắng nhằm xử lý Thiền bằng ngôn ngữ thần học nào đều sẽ chẳng đi đến đâu”. Ông thấy khó có thể hòa giải giữa khuynh hướng Tây Phương và Kitô Giáo lúc nào cũng muốn lên danh mục và phát biểu ra lời mọi cảm nghiệm bằng các ý niệm của nền thần học phủ định (19) và bản chất không thể diễn tả bằng lời của kinh nghiệm Thiền.
Đối với Merton, cần phải phân biệt một đàng là Phật Giáo Thiền Tông, một phát biểu của lịch sử và văn hóa, và Thiền. Theo ông, Phật Giáo Thiền Tông là một tôn giáo phát nguyên từ Trung Hoa và phát triển qua Nhật, với nhiều nghi lễ và định chế đi kèm. Thiền, trái lại, không bị cột vào một nền văn hóa, một tôn giáo hay một tín ngưỡng nào. Các trước tác sau này của Merton chịu ảnh hưởng của cái Thiền sau, một nền Thiền học không hẳn của Phật Giáo nhưng sẽ mang nhiều âm hưởng từ việc đào tạo đan viện trong truyền thống Kitô Giáo.
Chú thích
(1) 1915 –1968
(2) Không có gì trở ngại
(3) Ends and Means
(4) 1844-1889, thi sĩ Anh, trở lại đạo Công Giáo, đi tu làm linh mục Dòng Tên, nổi tiếng trong thế kỷ 20 khiến được xếp vào hàng các thi sĩ hàng đầu thời Victoria.
(5) 1882-1973, triết gia Công Giáo Pháp. Trở lại Công Giáo từ Thệ Phản năm 1906; tác giả hơn 60 cuốn sách, người chịu trách nhiệm phục hồi Thánh Tôma Aquinô cho thời đại mới và là người soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền nổi tiếng; bạn và là người dìu dắt cũ (mentor) của Đức Phaolô VI.
(6) Núi Bẩy Tầng
(7) Thirty Poems
(8) A Man in the Divided Sea
(9) Poetry and the Contemplative Life
(10) Hạt Giống Chiêm Niệm, Nước Mắt Sư Tử Mù, Nước Suối Siloe
(11) Im Lặng Tự Chọn
(12) Ngợi Khen Gethsemani
(13) A Midsummer Diary for M.
(14) Reification of concepts
(15) Verbalism
(16) Thiền Và Những Con Chim Háu Ăn
(17) Khôn Ngoan Trong Trống Rỗng
(18) Khôn Ngoan Sa Mạc
(19) Apophatic theology/via negativa theology
(Còn một kỳ)