Tập Chỉ Dẫn Chuẩn Bị Lãnh Nhận Bí Tích Hôn Phối (5), Vatican 1996

C. Chuẩn bị kế cận

50. Một khi lộ trình thích hợp và các khóa học chuyên biệt đã được theo đuổi và đã diễn ra tốt đẹp trong giai đoạn chuẩn bị gần (xem số 32 và kế tiếp), thì mục tiêu của việc chuẩn bị kế cận sẽ bao gồm những điều sau đây: a) Tổng hợp giai đoạn chuẩn bị trước đặc biệt là nội dung học thuyết, luân lý và thiêng liêng, nhờ thế có thể hoàn tất những thiếu sót có thể có trong việc huấn luyện căn bản; b) Các kinh nghiệm cầu nguyện (cấm phòng, linh thao cho các cặp đính hôn) trong đó việc gặp gỡ với Chúa sẽ giúp họ khám phá ra chiều sâu và vẻ đẹp của đời sống thiêng liêng; c) chuẩn bị phụng vụ thích đáng nhằm để các cặp đính hôn tham dự tích cực vào đó, đặc biệt nên chú ý đến bí tích Hòa giải; d) Sử dụng tốt các buổi nói chuyện theo giáo luật được dự kiến với cha xứ, để mọi người tìm biết nhau tốt hơn. Những mục tiêu trên sẽ thực hiện được qua các buổi gặp gỡ có tính kỹ luỡng hơn.

51. Sự hữu ích của mục vụ và kinh nghiệm tích cực của các khoá dự bị hôn nhân cho thấy chúng chỉ nên được tổ chức vì những lý do nghiêm túc cân xứng. Cho nên, nếu có những cặp đến xin cử hành hôn phối khẩn cấp mà chưa được chuẩn bị gần, thì cha xứ và các cộng sự viên có trách nhiệm sẽ cung hiến cho họ cơ hội để học bù những kiến thức về các khía cạnh học thuyết, luân lý và bí tích đã dự bị cho giai đoạn chuẩn bị hôn nhân gần để rồi sau dó cho họ được chuẩn bị kế cận. Điều này được yêu cầu vì sự cần thiết phải bản thân hóa các lộ trình huấn luyện một cách thực tiễn, dùng mọi cơ hội để đào sâu ý nghĩa về những điều sẽ xẩy ra trong bí tích, mà không từ khước những người tỏ ra có tư chất về đức tin và bí tích chỉ vì họ vắng mặt trong một giai đoạn chuẩn bị nào đó.

52. Việc chuẩn bị kế cận để lãnh nhận bí tích Hôn phối phải tìm cơ hội thuận tiện để dẫn khởi cặp đính hôn vào chính nghi thức hôn phối. Trong việc chuẩn bị này, trong khi đào sâu học thuyết Kitô Giáo về hôn nhân và gia đình với chú trọng đặc biệt tới các bổn phận luân lý, cặp đính hôn phải được hướng dẫn để nắm phần hiểu biết và tích cực trong việc cử hành hôn phối, và hiểu được ý nghĩa các hành vi và các bản văn phụng vụ.

53. Việc chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hôn phối này phải là điểm kết thúc của giáo lý giúp các cặp đính hôn Kitô hữu dò lại được hành trình bí tích của họ một cách hiểu biết. Điều quan trọng là họ phải biết rằng họ đang kết hiệp với nhau nên một trong hôn nhân trong tư cách là những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô, nên họ phải cư xử phù hợp với Chúa Thánh Thần trong cuộc sống gia đình của họ. Như thế, quả là đúng nếu các cặp vợ chồng tương lai biết chuẩn bị sẵn sàng cho việc cử hành hôn phối sao cho nó được thành sự, xứng đáng và có kết quả, bằng cách lãnh nhận bí tích Hòa giải (xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, số 1622). Việc chuẩn bị phụng vụ để cử hành bí tích Hôn phối phải bao gồm phần lớn những yếu tố của nghi thức hiện hành. Để chỉ rõ mối liên hệ thân thiết giữa bí tích hôn nhân và mầu nhiệm vượt qua, việc cử hành hôn phối thường diễn ra trong cử hành Thánh Thể.

54. Để Giáo Hội trở nên hữu hình trong giáo phận và chỉ rõ điều đó trong giáo xứ, ta hiểu được việc tất cả các chuẩn bị mục vụ cũng như giáo luật để lãnh bí tích hôn phối phải được kết thúc trong giáo xứ và giáo phận. Như thế, càng phù hợp hơn nữa với ý nghĩa Giáo Hội của bí tích hôn phối khi nó thường được cử hành trong nhà thờ của cộng đoàn giáo xứ nơi cặp hôn phối là thành viên (CIC, điều 1115). Ước mong thay toàn thể cộng đồng giáo xứ tham dự vào việc cử hành này, chung quanh các gia đình và bằng hữu của cặp đính hôn. Nên dự liệu việc đó trong nhiều giáo phận, dù cần phải lưu ý đến các hoàn cảnh địa phương, nhưng phải nhất quyết ưu đãi các hành động mục vụ có tính Giáo Hội thực sự.

55. Những người sẽ tham dự tích cực vào phụng vụ cũng phải được mời chuẩn bị thích đáng lãnh nhận bí tích Hòa giải và Thánh thể. Cần phải giải thích cho các người làm chứng rằng họ không phải chỉ là những người bảo đảm cho một hành vi pháp lý, nhưng còn là đại diện của cộng đoàn Kitô hữu, là cộng đoàn, qua họ, dự phần vào một hành vi bí tích liên hệ đến chính mình, vì một gia đình mới chính là một tế bào của Giáo Hội. Vì đặc điểm có yếu tính xã hội của nó, hôn nhân kêu gọi sự tham dự của xã hội và điều này được diễn tả qua sự hiện diện của các người chứng.

56. Phù hợp với quyết định của Đấng Bản quyền và qua chức linh mục chung, gia đình là nơi thích hợp nhất trong đó cha mẹ có thể tiến hành một vài hành vi thánh và cử hành một vài á bí tích, như trong bối cảnh của Nghi thức Khai Tâm Kitô Giáo, trong những biến cố buồn vui của cuộc sống hàng ngày, trong việc đọc lời nguyện trước các bữa ăn. Phải dành chỗ đặc biệt cho việc gia đình cầu nguyện. Điều ấy sẽ tạo nên một bầu khí đức tin ngay bên trong tổ ấm và sẽ là phương thế sống thực một cách phong phú hơn tư cách làm cha làm mẹ đối với các con, dạy chúng cầu nguyện và dẫn đưa chúng vào việc khám phá ra dần dần mầu nhiệm Thiên Chúa và việc đối thoại bản thân với Ngài. Cha mẹ nên nhớ rằng họ thực thi sứ mệnh công bố Tin Mừng sự sống qua việc giáo dục con cái mình (xem EV, 92).

57. Chuẩn bị cận kề là cơ hội thuận tiện để bắt đầu công việc mục vụ liên tục về hôn nhân và gia đình. Từ quan điểm này, việc chuẩn bị cần được thi hành sao cho các cặp vợ chồng biết được sứ mệnh của họ trong Giáo Hội. Ở đây họ được sự trợ giúp phong phú từ các phong trào chuyên biệt về gia đình, ngõ hầu có thể vun sới được một linh đạo hôn nhân và gia đình và một cách thế chu toàn các trách vụ trong gia đình, trong Giáo Hội và trong xã hội.

58. Việc chuẩn bị các cặp đính hôn phải được kèm theo với lòng sùng kính Đức Mẹ một cách chân thành và sâu sắc, vì Mẹ là Mẹ Giáo Hội, và là Nữ vương Gia đình. Phải dạy cho chính các cặp đính hôn biết nhìn nhận rằng sự hiện diện của Đức Mẹ trong gia đình, tức Giáo Hội tại gia, cũng sinh động như sự hiện diện của Người trong Giáo Hội nói chung. Cũng thế, phải dạy cho họ biết bắt chước các nhân đức của Đức Mẹ. Như thế, Thánh Gia, tức gia đình của Chúa Giêsu, của Đức Mẹ và Thánh Giuse, sẽ làm cho những người đính hôn khám phá ra rằng "việc giáo dục trong gia đình ngọt ngào và không thể thay thế được đến chừng nào" (Paul VI, Diễn Văn Tại Nazareth, 5-1-1964).

59. Việc chia sẻ với người khác bất cứ điều gì đã được đề nghị một cách đầy sáng tạo nơi các cộng đoàn để làm cho việc chuẩn bị gần và kế cận sâu sắc hơn và đầy đủ hơn sẽ là một quà tặng và một việc làm phong phú đối với toàn thể Giáo Hội.

Phần III: Cử hành hôn phối

60. Chuẩn bị hôn nhân dẫn tới cuộc sống lứa đôi xuyên qua việc cử hành bí tích, là chung cuộc của hành trình chuẩn bị mà hai người phối ngẫu đã thực hiện và là ngọn nguồn của đời sống vợ chồng. Do đó, việc cử hành không thể bị thu gọn lại chỉ trong một buổi lễ, vốn chỉ là sản phẩm của văn hóa và điều kiện hóa có tính xã hội học. Dù vậy, những tập tục đáng ca ngợi của những dân tộc hoặc các nhóm sắc tộc khác nhau có thể được đưa vào việc cử hành (xem Sacrosanctum Concilium 77; Familiaris Consortio, 67), miễn là trước hết chúng phát biểu được việc đến với nhau của hợp đoàn Giáo Hội như là dấu chỉ đức tin của Hội Thánh, biết nhìn nhận trong bí tích sự hiện diện của Chúa phục sinh có sức kết hiệp hai người phối ngẫu vào Tình Yêu Ba Ngôi.

61. Qua các ủy ban phụng vụ của giáo phận, các giám mục nên ra những chỉ thị chính xác và giám sát xem các chỉ thị ấy có được áp dụng trên thực tế hay không để, trong việc cử hành hôn phối, có thể đem ra thi hành điều đã được qui định tại khoản 32 Hiến Chế Mục Vụ ngõ hầu ngay từ bên ngoài sự bình đẳng của các tín hữu cũng được nhận ra rõ rệt và, đàng khác, bất cứ vẻ phù phiếm nào cũng phải tránh được. Bằng bất cứ cách nào cũng phải khuyến khích những người hiện diện tham dự một cách tích cực. Phải cung cấp các bản văn thích hợp để giúp họ hiểu và thưởng ngoạn được vẻ phong phú của nghi lễ.

62. Nên nhớ rằng hễ đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh Chúa Kitô (xem Mt 18:20), thì Ngài hiện diện nơi đó, cho nên dù là cử hành có tính hạn chế (điều nên tiếp tục trong những lễ lạc sau đó) cũng không những phải là một biểu thức của đức tin cộng đoàn, mà còn là nguyên động lực để ca tụng Chúa. Cử hành hôn phối trong Chúa và trước mặt Hội thánh có nghĩa là tuyên xưng rằng quà phúc ơn thánh được ban cho hai vợ chồng nhờ việc hiện diện và tình yêu của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đòi phải có sự đáp ứng thực tiễn, bằng đời sống thờ phượng trong tinh thần và chân lý ngay trong gia đình Kitô hữu, tức "Giáo Hội tại gia". Chính vì việc cử hành phải được hiểu không chỉ là hành vi pháp lý nhưng còn là một thời điểm trong lịch sử cứu độ của hai người phối ngẫu, và qua chức linh mục chung của họ, vì lợi ích của Giáo Hội và xã hội, cho nên cần phải giúp mọi người hiện diện tham dự tích cực vào chính việc cử hành.

63. Bất cứ ai chủ toạ cũng phải có nhiệm vụ sử dụng mọi khả năng có thể có của sách nghi thức, nhất là ấn bản lần thứ hai do Bộ Phụng tự và Kỷ Luật Bí tích ban hành năm 1991, để làm nổi bật vai trò của những người cử hành bí tích, mà theo các Kitô hữu của Nghi lễ Latinh là chính hai người phối ngẫu, cũng như giá trị bí tích của việc cử hành của cộng đoàn. Với công thức trao đổi lời ưng thuận, hai vợ chồng luôn nhớ đến khía cạnh bản thân, Giáo Hội và xã hội của sự ưng thuận này đối với toàn bộ cuộc sống họ, như một dâng hiến của người này dành cho người kia cho đến ngày nhắm mắt. Nghi lễ Đông phương coi vị linh mục là người giữ vai trò cử hành bí tích. Dù gì đi nữa, theo luật Giáo Hội, sự hiện diện của một linh mục hoặc một thừa tác viên có thẩm quyền khác bao giờ cũng cần thiết để sự kết hợp hôn nhân thành hiệu và rõ ràng chỉ ra ý nghĩa công khai và xã hội của giao ứơc phu phụ, để phục vụ cả Giáo Hội lẫn xã hội phàm trần.

64. Cần nhớ rằng hôn phối thường được cử hành trong Thánh lễ (xem Sacrosanctum Concilium, 78; Familiaris Consortio, 57), nên đối với một hôn nhân giữa người Công Giáo và người đã rửa tội nhưng không phải là Công Giáo, phải cử hành tùy theo những dự liệu đặc biệt về phụng vụ và giáo luật (xem Ordo Celebrandi Matrimonium - OCM, 79-117).

65. Việc cử hành sẽ lôi cuốn người ta tham dự tích cực hơn nếu họ được dẫn nhập thích đáng về ý nghĩa của bản văn phụng vụ và nội dung của các lời nguyện. Tính cách đơn giản của những dẫn nhập này nên có để làm dễ dàng việc nhớ lại và hiểu biết tầm quan trọng của việc cử hành (xem OCM, 52, 59, 87, 93, 99), và tránh không biến việc cử hành thành bài học giáo khoa.

66. Chủ tế, người chủ toạ (5) và trình bày với cộng đoàn ý nghĩa Giáo Hội của cam kết hôn nhân, sẽ cố gắng tạo được sự chú tâm của những người kết hôn cũng như thân nhân và các người chứng ngõ hầu tất cả có thể nắm vững cấu trúc của nghi thức. Điều này đặc biệt phải được áp dụng cho những phần chủ yếu nhất như Lời Chúa, trao đổi và chuẩn nhận ưng thuận, làm phép những dấu chỉ biểu hiệu hôn phối (như nhẫn v.v...), chúc lành cho đôi tân hôn, nhắc đến đôi tân hôn trong Kinh Nguyện Thánh Thể. "Các nền phụng vụ khác nhau đều phong phú về các lời cầu nguyện chúc phúc và kêu cầu ân sủng và phép lành của Thiên Chúa trên cặp vợ chồng mới, nhất là trên người vợ" (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1624). Cũng cần phải giải nghĩa cử chỉ đặt tay trên "các chủ thể thừa tác viên" của bí tích. Việc đứng, chúc bình an cho nhau hoặc các nghi thức khác cũng cần được mọi người hiện diện chú tâm một cách thích đáng.

67. Để có được một phong thái cử hành vừa có tính hạn chế vừa có tính cách cao đẹp, bất cứ ai chủ lễ cũng phải được sự phụ giúp của các thừa tác viên phụ tá cũng như của các nhân viên làm sinh động và điều khiển cộng đoàn ca hát, dẫn các đáp ca và công bố Lơi Chúa. Bằng cách cụ thể đặc biệt chú ý đến chính những người sắp kết hôn và các hoàn cảnh riêng của họ, nhưng phải tuyệt đối tránh ưu đãi cá nhân, vị chủ tế phải thích ứng mình với các dấu hiệu sử dụng trong hành vi phụng vụ. Như thế, trong khi tiếp đón và chào mừng những người sắp kết hôn, cha mẹ họ nếu hiện diện, các người chứng và những người tham dự, vị này phải là phát ngôn viên sống động của cộng đoàn để chào đón những người sắp kết hôn.

68. Việc công bố Lời Chúa phải do những ngưòi thích hợp và được chuẩn bị kỹ đảm nhiệm. Họ có thể được chọn trong số các người hiện diện, đặc biệt là các người chứng, người trong hai gia đình, bạn bè, nhưng xem ra không thích đáng khi chính cô dâu hoặc chú rể phải làm việc đó.Thực vậy, họ là những người hàng đầu tiếp nhận Lời Chúa đang được công bố. Tuy nhiên, việc lựa chọn các bài đọc có thể được làm với sự thoả thuận của hai vợ chồng trong giai đoạn chuẩn bị kế cận. Nhờ cách đó, họ sẽ dễ dàng ghi nhớ Lời Chúa trong lòng và đem ra thực hành trong đời sống.

69. Bài dẫn giảng, là bài bắt buộc phải có, phải đặt trọng tâm vào việc trình bày "mầu nhiệm cao cả" đang được cử hành trước mặt Chúa, trước mặt Giáo Hội và xã hội. "Thánh Phaolô dùng một thuật ngữ rất chính xác nhắc đến cuộc sống gia đình: nó là mầu nhiệm cao cả (Eph. 5:32) "; (Gratissimam Sane, 19). Bắt đầu với bản văn vừa được công bố về Lời Chúa cũng như các kinh nguyện phụng vụ, nên tập trung dẫn giải về bí tích, và từ đó minh họa các hậu quả đối với cuộc sống của hai vợ chồng và gia đình họ. Nên tránh không trực tiếp nhắc đến bản thân hai vợ chồng.

70. Nếu nghi thức hôn phối diễn ra trong Thánh lễ, của lễ nên được chính cặp tân hôn đem lên bàn thờ. Dù gì đi nữa, lời nguyện giáo dân đã được chuẩn bị kỹ không nên quá dài hoặc thiếu nội dung cụ thể. Khi mục vụ xem ra thích hợp, Việc Hiệp Lễ nên được thực hiện dưới cả hai Hình Mình và Máu Thánh.

71. Cần phải thận trọng để các chi tiết của việc cử hành hôn phối phải có đặc điểm của một phong thái hạn chế, đơn giản và chính xác. Sắc thái lễ lạc không nên có hình thức phô trương thái quá.

72. Việc long trọng chúc lành cho đôi tân hôn nhắc ta nhớ rằng trong bí tích hôn phối, ta khẩn khoản cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn. Nhờ ơn này, hai vợ chồng sẽ kiên trì trong sự hoà thuận hỗ tương và được nâng đỡ về phương diện thiêng liêng trong khi thi hành sứ mệnh của họ, cũng như trong những lúc khó khăn trong đời sống tương lai. Trong khung cảnh của việc cử hành này, điều chắc chắn thích hợp là trình bày Thánh Gia Nazareth như là mẫu gương sống cho các cặp vợ chồng Kitô hữu.

73. Nói về các giai đoạn chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị kế cận, tuy việc tổng hợp các kinh nghiệm thực tại để đem lại thay đổi lớn trong não trạng và các tập tục liên hệ tới việc cử hành là điều tốt, nhưng các nhân viên mục vụ phải cẩn trọng tuân theo và làm cho người ta thấu hiểu những gì hiện đã được ấn định và thiết lập trong nghi thức phụng vụ. Hiển nhiên một điều là việc thấu hiểu ấy tùy thuộc hoàn toàn vào diễn trình chuẩn bị và mức độ trưởng thành về Kitô Giáo của cộng đoàn.

Ai cũng có thể nhận ra rằng trong tài liệu này, một ít yếu tố đã được đề nghị để chuẩn bị có hệ thống cho các tín hữu được mời gọi lãnh nhận bí tích Hôn phối. Đặc biệt trong năm năm đầu cuộc sống vợ chồng, điều đáng ước ao là nên theo dõi cặp mới kết hôn qua các khóa hậu hôn nhân, được tổ chức tại các giáo xứ hoặc giáo hạt, tùy theo qui định của Tập Hướng Dẫn Mục Vụ Gia Đình đã nhắc ở các số 14 và 15 trên đây, liên quan đến Tông Huấn Familiaris Consortio, số 66.

Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình xin trao gửi đến các Hội Đồng Giám Mục các chỉ dẫn này để họ soạn thảo các tập chỉ dẫn riêng của mình. Ưu tư mục vụ của các Hội Đồng Giám Mục cũng như của các cá nhân Giám Mục sẽ đảm bảo để các chỉ dẫn này được đem ra thi hành trong các cộng đoàn Giáo Hội. Nhờ thế, mọi tín hữu đều sẽ hiểu rõ hơn rằng bí tích Hôn phối, một mầu nhiệm cao cả (Eph. 5:21 và kế tiếp) là một ơn gọi đối với đại đa số Dân Chúa.

Thành Vatican, 13 Tháng 5 Năm 1996.

Hồng y Alfonso Lopez Trujillo Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình

Francisco Gil Hellin Thư Ký

Chú thích

(1) Đề tài đã được suy tư trong cuộc họp mặt quốc tế được Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình tổ chức từ 2-4 Tháng 6 năm 1993 với sự cộng tác của Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội.

(2) Các phương pháp tự nhiên này đưa ra một giải pháp hợp lệ khi hai vợ chồng gặp khó khăn nghiêm trọng, thí dụ về sức khỏe hay lý do kinh tế, và chúng cũng nên được đề nghị trong các chính sách có trách nhiệm và đáng kính về dân số. Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình đã tổ chức một cuộc gặp mặt quốc tế với những cổ động viên của các phương pháp tự nhiên từ 9-11 Tháng 12 Năm 1992. Các phúc trình và đóng góp của các chuyên gia đã được công bố trong một bản văn dưới tiêu đề: Các Phương Pháp Tự Nhiên Để Điều Hòa Sinh Nở: Giải Pháp Chân Chính (Metodi Naturali per la regolazione della fertilità: I'alternativa autentica). Các khoa học nhân bản giúp suy tư thần học nắm được và đào sâu"sự khác biệt, cả về nhân chủng lẫn luân lý học, giữa việc chống ngừa thai và phương pháp dùng nhịp độ chu kỳ" (FC, 32).

(3) Mục vụ sẽ gợi ra những cách thế và phương tiện để đạt mục tiêu này. Thí dụ, cần ít nhất trọn một tuần lễ hoặc 4 ngày cuối tuần, kể cả Thứ bẩy và Chúa nhật, hoặc mỗi tháng một buổi chiều trong trọn một năm.

(4) Thánh Bộ Học Thuyết Đức Tin dạy rằng hôn nhân giữa các Kitô hữu không thể được coi như một cái gì riêng tư và nhắc nhớ đến học thuyết và kỷ luật của Giáo Hội: "trung thành với lời nói của Chúa Giêsu Kitô, Giáo Hội xác quyết rằng một cuộc phối hiệp mới không thể được công nhận là thành hiệu nếu cuộc hôn nhân trước vẫn còn giá trị. Nếu những người ly dị tái kết hôn ngoài dân luật, họ sẽ ở trong tình trạng chống lại luật Chúa một cách khách quan. Hậu quả là, họ không được lãnh nhận Thánh Thể bao lâu tình trạng trên còn kéo dài." (Thánh Bộ Học Thuyết Đức Tin, Thư Gửi các Giám Mục trong Giáo Hội Công Giáo liên quan đến việc Rước lễ của những Tín hữu Ly dị và Tái kết hôn, số 4, 14 Tháng 9 Năm 1994).

(5) Xem OCM, 24; CIC, điều 1111; OCM, 2s và 118-151; CIC, điều 1112.2; 1108.2).