Tập Chỉ Dẫn Chuẩn Bị Lãnh Nhận Bí Tích Hôn Phối (4), Vatican 1996

B. Chuẩn bị gần

32. Chuẩn bị gần xẩy ra trong thời kỳ đính hôn. Nó gồm những giảng khóa chuyên biệt và phải được phân biệt với việc chuẩn bị kế cận thường được tập trung vào những buổi gặp gỡ cuối cùng giữa các cặp đính hôn với với các nhân viên mục vụ trước khi cử hành bí tích. Trong lúc chuẩn bị gần này, thật là hữu ích nếu có thể kiểm nghiệm được sự chín mùi trong các giá trị nhân bản liên quan đến mối liên hệ bằng hữu và đối thoại vốn phải là đặc điểm của việc đính hôn. Để chuẩn bị cho bậc sống mới trong tư cách lứa đôi, cần cho họ cơ hội đào sâu cuộc sống đức tin, đặc biệt là các kiến thức về tính bí tích của Giáo Hội. Đây là giai đoạn phúc âm hóa quan trọng trong đó đức tin phải bao hàm các chiều kích bản thân và cộng đoàn cả của các cá nhân đính hôn lẫn của gia đình họ. Trong diễn trình này, cũng có thể nhận dạng các khó khăn trong việc sống cuộc sống Kitô hữu chính danh.

33. Thời kỳ huấn luyện gần trùng hợp với tuổi thanh niên. Do đó, nó bao gồm mọi điều liên quan đến mục vụ giới trẻ đúng nghĩa là mục vụ quan tâm đến sự trưởng thành toàn bộ của người tín hữu. Mục vụ giới trẻ không thể tách biệt khỏi khung cảnh gia đình như thể giới trẻ dựng nên một loại "giai cấp xã hội" biệt lập và độc lập. Nó nên củng cố cảm thức xã hội của người trẻ, trước tiên đối với các thành viên của chính gia đình họ, và qui hướng các giá trị của họ về gia đình tương lai mà họ sẽ có. Người trẻ phải đã được giúp nhận ra ơn gọi của mình qua các cố gắng bản thân, với sự trợ giúp của cộng đoàn, và trên hết của các mục tử. Sự nhận ra ơn gọi này phải xẩy ra trước khi bất cứ cam kết nào được thực hiện để đính hôn. Khi ơn gọi bước vào hôn nhân đã rõ ràng, nó phải được chống đỡ trước nhất bởi ơn thánh và sau đó bởi việc chuẩn bị đầy đủ. Mục vụ giới trẻ phải ý thức rằng, vì những khó khăn đủ loại như tình trạng "tuổi thiếu niên kéo dài " chẳng hạn khiến họ phải ở lại lâu hơn trong gia đình (một hiện tượng tương đối mới và đáng ngại), người trẻ hôm nay có khuynh hướng hoãn lại cam kết kết hôn trong một thời gian quá lâu.

34. Việc chuẩn bị gần nên đặt căn bản trước hết trên một nền giáo lý xây dựng trên việc lắng nghe Lời Chúa, được giải thích với sự hướng dẫn của Huấn quyền Giáo Hội, nhằm hiểu biết đức tin ngày một hơn và làm chứng cho đức tin ấy trong cuộc sống cụ thể. Việc giảng dạy phải được tiến hành trong bối cảnh một cộng đoàn đức tin giữa các gia đình, đặc biệt bên trong một giáo xứ, những người tham gia và làm việc trong việc đào luyện giới trẻ, theo các đặc sủng và vai trò riêng của họ, và mở rộng ảnh hưởng của mình tới các nhóm xã hội khác.

35. Những người đã đính hôn phải được giảng dạy về những đòi hỏi tự nhiên của mối liên hệ liên bản ngã giữa đàn ông và đàn bà trong kế hoạch của Chúa về hôn nhân và gia đình: ý thức về tự do ưng thuận như là nền tảng làm nên sự phối hiệp của họ, tính đơn nhất và bất khả tiêu của hôn nhân, quan niệm đúng về việc sinh sản có trách nhiệm (responsible parenthood), các khía cạnh nhân bản về tính dục phu phụ, hành vi phu phụ với những đòi hỏi và mục đích của nó, và việc giáo dục con cái thích đáng. Tất cả những điều ấy nhằm để hiểu biết sự thật luân lý và huấn luyện lương tâm bản thân. Việc chuẩn bị gần chắc chắn phải xác quyết xem liệu những người đính hôn đã có được những yếu tố căn bản về bản chất tâm lý, sư phạm, luật lệ và y khoa của hôn nhân và đời sống gia đình chưa. Tuy nhiên, liên quan đặc biệt tới việc hiến mình toàn diện và sinh sản có trách nhiệm, việc huấn luyện về thần học và luân lý phải được trình bày một cách đặc biệt. Thực vậy, tình yêu vợ chồng là một tình yêu toàn diện, độc hữu, trung thành và sinh hoa trái (xem Humanae Vitae, 9).

Ngày nay, căn bản khoa học (2) của các phương pháp tự nhiên để điều hoà sinh sãn đã được nhìn nhận. Việc hiểu biết các phương pháp này là điều hữu ích. Khi có lý do chính đáng, việc sử dụng chúng không những chỉ là kỹ thuật thuộc tác phong nhưng còn được đưa vào sư phạm và diễn trình trưởng thành của tình yêu (xem EV, 97). Rồi đức khiết tịnh sẽ dẫn đưa vợ chồng đến việc thực hành tiết dục định kỳ (xem Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, các số 2366-2371).

Việc chuẩn bị này cũng phải đảm bảo để các Kitô hữu đã đính hôn có được những ý niệm đúng và một thái độ "cảm nhận với Giáo Hội" (sentire cum Ecclesia) một cách thành thực về chính hôn nhân, về những vai trò hỗ tương của đàn ông và đàn bà trong đời sống lứa đôi, về gia đình và xã hội, về tính dục và việc cởi mở đối với người khác.

36. Cũng cần phải giúp người trẻ ý thức được bất cứ thiếu sót nào về tâm lý và hoặc xúc cảm họ có thể có, đặc biệt là việc thiếu khả năng cởi mở đối với người khác, và bất cứ hình thức vị kỷ nào cản trở không cho họ hoàn toàn cam kết hiến thân. Việc trợ giúp này cũng phải nhắm giúp họ khám phá ra tiềm năng và nhu cầu trưởng thành về nhân bản và Kitô Giáo trong đời họ. Để đạt mục tiêu này, những người có trách nhiệm chuẩn bị hôn nhân cũng phải lưu tâm đến việc đào tạo một cách chắc chắn lương tâm luân lý của những người đã đính hôn để họ sẵn sàng chọn lựa hôn nhân một cách tự do và cương quyết thể hiện qua việc ưng thuận trao đổi lẫn cho nhau trước mặt Hội Thánh trong giao ước hôn nhân.

37. Trong giai đoạn chuẩn bị này, các cuộc gặp gỡ thường xuyên cần phải có trong một bầu không khí đối thoại, thân ái và cầu nguyện với sự tham dự của các mục tử và các giảng viên giáo lý. Các cuộc gặp gỡ này phải nhấn mạnh sự kiện này là "gia đình cử hành Phúc âm sự sống qua việc cầu nguyện hàng ngày, cả cầu nguyện cá nhân lẫn cầu nguyện gia đình. Gia đình cầu nguyện để vinh danh và cảm tạ Chúa dã ban quà phúc sự sống và khẩn cầu Ngài ban ánh sáng và sức mạnh để đương đầu với những lúc khó khăn và đau khổ mà không mất hy vọng" (EV, 93). Hơn nữa, những cặp vợ chồng từng cam kết làm tông đồ, trong viễn tượng lạc quan Kitô Giáo lành mạnh, có thể đóng góp vào việc làm sáng tỏ hơn cuộc sống Kitô Giáo trong bối cảnh ơn gọi hôn nhân cũng như trong bổ xung tính của mọi ơn gọi. Do đó, giai đoạn này không nên chỉ dành cho việc học lý thuyết mà thôi, còn cho việc đào luyện trong đó các cặp đã đính hôn, với sự trợ giúp của ơn thánh và xa lánh tội lỗi, sẽ chuẩn bị để hiến mình cho Chúa Kitô trong tư cách vợ chồng để Ngài nâng đỡ, tẩy sạch và thăng hoa cuộc đính hôn cũng như cuộc sống lứa đôi của họ. Bằng cách đó, đức khiết tịnh tiền hôn nhân có được đầy đủ ý nghĩa của nó và loại bỏ hẳn được việc sống chung, những liên hệ tiền hôn nhân và những tập tục khác như tập tục hôn nhân bất thành văn trong diễn trình tăng trưởng tình yêu.

38. Theo các nguyên tắc lành mạnh của sư phạm liên quan đến sự tăng trưởng bản thân một cách tiệm tiến và toàn diện, việc chuẩn bị gần không được sao lãng việc huấn luyện để những người sẽ có gia đình mới do hôn nhân mà ra có thể đảm nhiệm các trách vụ xã hội và Giáo Hội thích hợp với họ. Sự thân mật gia đình không được quan niệm như đóng kín trên chính nó, đúng hơn phải là khả năng nội tâm hóa các phong phú nhân bản và Kitô Giáo vốn có trong chính cuộc sống hôn nhân với viễn tượng để cho đi cho người khác nhiều hơn. Do đó, trong một quan niệm cởi mở hơn về gia đình, cuộc sống hôn nhân và gia đình đòi các cặp vợ chồng phải nhìn nhận họ như những chủ thể có quyền lợi nhưng cũng có trách nhiệm với xã hội và Giáo Hội. Về phương diện này, điều rất hữu ích là khích lệ việc đọc và suy tư các văn kiện sau đây của Giáo Hội vốn là nguồn phong phú và đầy khích lệ cung cấp túi khôn nhân bản và Kitô Giáo: Familiaris Consortio, Thư Gửi Các Gia Đình Gratissimam Sane, Hiến Chương Quyền Gia Đình, Phúc Âm Sự Sống, và các văn kiện khác.

39. Việc chuẩn bị gần cho người trẻ cần làm họ hiểu rằng cam kết mà họ đang lãnh lấy qua việc trao đổi ưng thuận "trước mặt Giáo Hội" khiến họ phải bắt đầu một con đường trung thành hai chiều với nhau ngay trong thời kỳ đính hôn. Nếu cần, bất kỳ thói quen nào đi ngược với với nó cần phải được loại bỏ ngay. Sự cam kết nhân bản này sẽ được tăng cường bởi các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần sẽ ban cho các cặp đính hôn nếu họ kêu cầu Ngài.

40. Vì tình yêu của Kitô hữu được tẩy sạch, được hoàn thiện và được nâng cao bởi tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội (xem GS, 49), nên các cặp đính hôn phải bắt chước mẫu mực này và khai triển ý thức của họ về việc hiến mình là điều luôn được nối kết với lòng kính trọng lẫn nhau cũng như từ bỏ mình đi, những đức tính giúp cho tình yêu kia lớn mạnh. Như thế, việc hiến mình cho nhau càng ngày càng hàm nghĩa phải trao đổi cho nhau những ơn phúc thiêng liêng và sự nâng đỡ tinh thần ngõ hầu làm cho tình yêu và trách nhiệm tăng trưởng lên. "Tính bất khả tiêu của hôn nhân phát sinh trước nhất từ chính yếu tính của sự trao tặng lẫn nhau ấy: sự trao tặng bản thân ngưòi này cho bản thân ngưòi kia. Sự hiến mình lẫn nhau này nói lên bản chất phu phụ của tình yêu" (Gratissimam Sane, 11).

41. Linh đạo phu phụ, khi bao gồm kinh nghiệm nhân bản là điều không bao giờ tách biệt khỏi đời sống tinh thần, có gốc rễ ngay trong Phép Rửa Tội và Phép Thêm Sức. Do đó, việc chuẩn bị cho các cặp đính hôn phải bao gồm việc lấy lại sinh lực từ các bí tích, nhất là vai trò đặc biệt của các bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Bí tích Hoà Giải vinh danh lòng từ bi của Chúa đối với sự đớn hèn của nhân loại và làm cho sức sống của Phép Rửa Tội và sinh lực của Phép Thêm Sức lớn mạnh. Nhờ đó, sư phạm của tình yêu cứu chuộc được củng cố để sự cao cả của lòng từ bi Chúa được khám phá ra trước thảm kịch con người, đã được Chúa dựng nên và cứu chuộc cách kỳ diệu. Khi cử hành việc tưởng niệm Chúa hiến mình cho Giáo Hội, Phép Thánh Thể khai triển tình yêu cảm tính là tình yêu đặc trưng của hôn nhân qua việc hàng ngày trao ban cho người bạn đời và con cái, mà không quên và không bỏ qua việc này là "việc cử hành đem lại ý nghĩa cho mọi hình thức cầu nguyện và phụng thờ khác tìm thấy ngay trong chính cuộc sống chung hàng ngày của gia đình, nếu đó là cuộc sống yêu đương và hiến mình" (EV, 93).

42. Đối với việc chuẩn bị nhiều mặt và hài hòa này, những người phụ trách cần được nhận dạng và huấn luyện đầy đủ. Điều hữu ích là thiết lập một nhóm, theo nhiều trình độ khác nhau, các nhân viên mục vụ có ý thức là mình được Giáo Hội sai đi. Nhóm này nên bao gồm cách riêng các cặp vợ chồng Kitô Giáo, và các chuyên viên có thể có trong các lãnh vực y khoa, luật pháp, tâm lý, với một linh mục đứng ra chuẩn bị họ cho các vai trò họ sẽ nắm giữ.

43. Các nhân viên mục vụ và các người phụ trách phải có được sự chuẩn bị vững chắc về học thuyết và một lòng trung thành tuyệt đối đối với Huấn Quyền của Giáo Hội ngõ hầu họ có thể chuyển giao các chân lý đức tin và các trách nhiệm liên hệ tới hôn nhân với sự hiểu biết sâu sắc đủ và chứng tá cuộc đời. Điều hiển nhiên là các nhân viên mục vụ này, trong tư cách là những nhà giáo dục, cũng phải có khả năng biết chào đón các cặp đính hôn bất kể nguồn gốc xã hội và văn hóa, vốn liếng tri thức và các khả năng cụ thể nào khác của họ. Đàng khác, việc làm chứng trung thành bằng đời sống và việc cho đi trong hân hoan là những điều kiện không thể miễn chước được trong việc chu toàn các trách vụ của họ. Căn cứ vào các kinh nghiệm sống trong đời cũng như các vấn đề nhân bản riêng của mình, họ có thể cung ứng nhiều khởi điểm để soi dẫn các cặp đính hôn tìm ra sự khôn ngoan Kitô Giáo.

44. Điều trên cho thấy nhu cầu phải có một chương trình huấn luyện đầy đủ dành cho các nhân viên mục vụ. Việc chuẩn bị huấn luyện các nhà lãnh đạo này phải giúp họ trình bày được những chỉ dẫn căn bản trong việc chuẩn bị hôn nhân mà chúng tôi đã nói trên đây với lòng gắn bó rõ ràng đối với Huấn Quyền của Giáo Hội, một phương pháp và một sự nhậy cảm mục vụ thích hợp, cũng như phải giúp họ có khả năng cung hiến những đóng góp chuyên biệt, tùy theo tài chuyên môn của họ, vào việc chuẩn bị cận kề (các số 50-59). Các nhân viên mục vụ cần được huấn luyện trong các Viện Mục Vụ đặc biệt và được Đức giám mục tuyển chọn cẩn thận.

45. Kết quả sau cùng của giai đoạn chuẩn bị gần này phải là việc ý thức rõ ràng các đặc điểm yếu tính của hôn nhân Kitô Giáo: tính đơn nhất, tính bất khả tiêu, tính mang hoa kết trái; ý thức đức tin liên quan đến sự ưu tiên của Ơn thánh nhiệm tích vốn liên kết hai vợ chồng, như là những chủ thể và thừa tác viên bí tích, vào tình yêu của Chúa Kitô, Chàng Rể của Giáo Hội; sẵn sàng thi hành sứ mệnh thích hợp của các gia đình trong các phạm vi giáo dục, xã hội và Giáo Hội.

46. Do đó, như Tông huấn Familiaris Consortio đã ghi nhận, hành trình đào luyện những người trẻ đã đính hôn phải bao gồm: việc đào sâu đức tin bản thân và việc khám phá lại giá trị của các bí tích và kinh nghiệm cầu nguyện. Việc chuẩn bị chuyên biệt cho cuộc sống lứa đôi "sẽ trình bày hôn nhân như là mối liên hệ bản thân giữa một người đàn ông và một người đàn bà, một mối liên hệ phải luôn luôn được triển khai, và việc chuẩn bị này sẽ khích lệ những ai liên hệ phải học hỏi về bản chất tính dục phu phụ và việc sinh sản con cái có trách nhiệm, với các kiến thức chủ yếu về y khoa và sinh học liên hệ. Nó cũng phải giúp những người liên hệ quen thuộc với các phương pháp giáo dục con cái đúng đắn, và giúp họ thủ đắc các đòi hỏi cuả một đời sống gia đình có xếp đặt tốt" (FC, 66); "chuẩn bị để làm việc tông đồ gia đình, cho tình liên đới và hợp tác với các gia đình khác, để trở thành đoàn viên tích cực của các nhóm, các hiệp hội, các phong trào và các cam kết khác được thiết lập vì phúc lợi nhân bản và Kitô Giáo của gia đình" (Ibid.). Đàng khác, cần tiên phong giúp các cặp đính hôn học cách gìn giữ và vun sới tình yêu phu phụ sau này, cách đối thoại liên bản ngã và giữa vợ chồng với nhau, các nhân đức và các khó khăn của cuộc sống vợ chồng, và làm cách nào vượt qua những "cơn khủng hoảng" phu phụ không thể nào tránh được.

47. Tuy nhiên, trọng tâm của việc chuẩn bị này phải là suy tư trong đức tin về bí tích Hôn phối xuyên qua Lời Chúa và sự hướng dẫn của Huấn quyền Giáo Hội. Phải làm cho những người đã đính hôn ý thức rằng trở nên "một thân xác" (una caro) (Mt 19:6) trong Chúa Kitô, qua Chúa Thánh Thần trong hôn nhân Kitô Giáo, có nghĩa là đóng ấn hình thức mới của cuộc sống rửa tội trên cuộc hiện sinh của mình. Qua bí tích, tình yêu của họ sẽ trở nên biểu thức cụ thể của tình yêu Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người (xem LG, 11). Dưới ánh sáng của tính bí tích, chính các hành vi phu phụ, việc sinh sản có trách nhiệm, việc giáo dục, sự hiệp thông sự sống, và tinh thần tông đồ cũng như truyền giáo vốn liên hợp với đời sống của các cặp vợ chồng Kitô hữu phải được coi là những giờ phút trong kinh nghiệm Kitô Giáo. Dù chưa theo cách thế bí tích, Chúa Kitô cũng đã nâng đỡ và đi theo hành trình ơn thánh và trưởng thành của các cặp đính hôn để họ tham dự vào mầu nhiệm kết hiệp giữa Người với Giáo Hội.

48. Về việc soạn thảo Sách Hướng Dẫn trình bày đầy đủ các kinh nghiệm chuẩn bị hôn nhân tốt nhất, điều hữu ích là nhắc lại điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã tuyên bố trong bài diễn văn kết thúc Hội Nghị Khóang Đại của Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình họp từ 30 Tháng 9 đến 5 Tháng 10 năm 1991 rằng: "Điều chính yếu là phải dành thời gian và sự quan tâm cần thiết cho việc chuẩn bị về học thuyết. Sự an toàn về nội dung phải là trọng tâm và mục tiêu yếu tính của các khóa học trong viễn tượng làm cho các cặp vợ chồng ý thức hơn về việc cử hành bí tích Hôn phối và tất cả những gì từ nó phát sinh liên quan đến trách nhiệm gia đình. Các vấn đề liên quan đến tính đơn nhất và bất khả tiêu của hôn nhân, và tất cả những gì liên hệ đến ý nghĩa của sự kết hợp và sinh sản trong đời sống vợ chồng và chính hành vi chồng vợ, phải được bàn đến một cách trung thành và chính xác, theo giáo huấn rõ ràng của Thông Điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae, xem các số 11-12). Điều này cũng đúng đối với những gì liên hệ đến quà phúc sự sống là điều bậc cha mẹ phải chấp nhận một cách có trách nhiệm và hân hoan trong tư cách cộng tác viên của Chúa. Các khóa học không nên chỉ nhấn mạnh những gì liên quan đến sự tự do chín chắn và tỉnh táo của những ai muốn kết ước hôn nhân mà thôi, mà còn phải nhấn mạnh đến sứ mệnh riêng của họ trong tư cách là cha mẹ nữa, vì họ là những nhà giáo dục và phúc âm hóa đầu hết của con cái họ". Hội Đồng Giáo Hoàng này hoàn toàn thỏa mãn khi nhận thấy đang có khuynh hướng ngày một có nhiều cam kết và ý thức hơn về tầm quan trọng và phẩm giá của thời kỳ đính hôn. Thành ra, Hội Đồng khẩn khoản yêu cầu các khóa học chuyên biệt đừng nên quá ngắn đến độ thu gọn chúng thành những công thức cho có lệ. Trái lại, các khóa học ấy nên cung ứng đầy đủ thì giờ để trình bày tốt và rõ ràng những đề tài căn bản đã chỉ ra trên đây (3).

Khóa học có thể được diễn ra trong từng giáo xứ, nếu có đủ con số các cặp đính hôn và những cộng tác viên đã được chuẩn bị kỹ càng, trong các phủ Đại Diện Giám Mục hay các Phủ Đại diện có thẩm quyền, hoặc trong các cơ cấu phối hợp giáo xứ. Đôi khi các khóa học cũng có thể được điều hành bởi các người hữu trách các phong trào gia đình, các hiệp hội hay các nhóm tông đồ dưới sự hướng dẫn của một linh mục có khả năng. Đây là phạm vi nên được phối trí bởi một cơ cấu cấp giáo phận làm việc nhân danh Giám mục. Nội dung nên tập trung vào học thuyết tự nhiên và Kitô Giáo về hôn nhân, trong khi không quên những khía cạnh khác nhau của tâm lý học, của y khoa và của những khoa học nhân bản khác.

49. Đặc biệt ngày nay, trong giai đoạn chuẩn bị gần, các cặp đính hôn phải được huấn luyện và được củng cố các giá trị liên quan đến việc bảo vệ sự sống con người. Một cách đặc biệt, vì sự kiện họ sẽ trở thành Giáo Hội tại gia và "cung thánh sự sống" (EV, 91,92), nên họ sẽ trở nên thành phần theo lối mới thuộc tập thể "những người của sự sống và phò sự sống" (EV, 6, 101). Não trạng chống thụ thai đang rất thịnh hành ngày nay ở quá nhiều nơi, và những luật lệ buông thả được phát triển rộng khắp với tất cả những gì chúng bao hàm trong việc khinh bỉ mạng sống từ lúc thụ thai đến lúc từ trần đã tạo ra hàng loạt những cuộc tấn công vô kể mà các gia đình đang phải chịu đựng và bị thương tích ở những phần trọng yếu nhất trong sứ mệnh của mình, khiến cho việc phát triển theo các đòi hỏi của diễn trình trưởng thành nhân bản chân chính bị cản trở (xem Centesimus Annus, 39). Do đó, ngày nay hơn bao giờ hết, cần có sự huấn luyện về trí và tâm cho những phần tử của các gia đình mới để họ không đi theo cái não trạng đang thịnh hành ấy. Bằng cách đó, qua cuộc sống gia đình mới của mình, một ngày kia họ sẽ có thể góp phần vào việc tạo ra và phát triển được nền văn hóa sự sống qua việc tôn trọng và chào đón những cuộc đời mới trong tình yêu của họ, như chứng tá và biểu thức công bố, cử hành và phục vụ mọi sự sống (xem EV, 83-84, 86, 93).