Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia Đình, Tập Chỉ Dẫn Chuẩn Bị Lãnh Nhận Bí Tích Hôn Phối (3), Vatican 1996
Phần II Các giai đoạn hoặc thời kỳ chuẩn bị
21. Các giai đoạn hay thời kỳ sẽ được thảo luận sau đây thực ra không có nghĩa cứng ngắc. Thực vậy, không thể định nghĩa chúng cả trong tương quan với tuổi người tham dự lẫn trong tương quan với thời gian ngắn dài của chúng. Tuy nhiên, quen thuộc với chúng như những lộ trình và dụng cụ làm việc, đặc biệt đối với nội dung truyền đạt, quả là điều ích lợi. Chúng được chia thành chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị kế cận.
A. Chuẩn bị xa
22. Chuẩn bị xa bao gồm lúc còn thơ, ấu nhi và thiếu niên và xẩy ra trước nhất trong gia đình, sau đó nơi học đường và các nhóm đào luyện như những trợ thủ có giá trị phụ với gia đình. Đây là thời kỳ trong đó, việc kính trọng mọi giá trị nhân bản chân chính cả trong các liên hệ liên bản ngã lẫn trong các liên hệ xã hội được truyền đạt và ghi khắc, với mọi điều bao hàm nhằm đào tạo tính khí, tự chủ và tự trọng, sử dụng đúng đắn các xu hướng của mình, và kính trọng người khác phái. Ngoài ra, đặc biệt đối với Kitô hữu, việc đào tạo vững chắc về tu đức và giáo lý cũng cần thiết (xem FC, 66).
23. Trong Thư Gửi Các Gia Đình Gratissimam Sane, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 nhắc đến hai chân lý căn bản trong trách vụ giáo dục: " thứ nhất, con người được mời gọi sống trong chân lý và yêu thương; và thứ hai, mọi người sẽ đạt được trọn hảo qua việc thành thực dâng hiến bản thân mình" (số 16). Như thế, việc giáo dục ấu nhi phải bắt đầu trước lúc sinh ra trong bầu khí chờ đợi và hoan nghênh sự sống mới đang đến, đặc biệt là qua các đối thoại đầy yêu thương của mẹ với đứa bé sắp sinh (xem Ibid. 16). Diễn trình ấy tiếp tục với tuổi ấu nhi vì giáo dục "trước nhất là việc dâng hiến lẫn nhau về phần cả hai cha mẹ: họ cùng nhau thông truyền nhân tính trưởng thành riêng của họ cho đứa bé mới sinh" (Ibid.). "Khi ban suối nguồn cho sự sống mới, cha mẹ nhìn nhận đứa con, vốn là hoa trái của tặng phẩm yêu đương lẫn nhau của họ, ngược lại lại là chính tặng phẩm được tặng lại cho họ, một tặng phẩm đã từ họ mà phát sinh" (EV 92).
Hiểu theo nghĩa toàn bộ, tức nghĩa bao hàm việc chuyển đạt và trưởng thành căn bản các giá trị nhân bản và Kitô Giáo, nền giáo dục Kitô Giáo, như Công đồng Vatican 2 đã quả quyết, "không những phát triển sự trưởng thành của nhân vị..., mà đặc biệt còn hướng về việc đảm bảo rằng những người đã được rửa tội, trong khi dần dà được dẫn khởi vào mầu nhiệm cứu chuộc, mỗi ngày sẽ biết quí trọng hơn quà phúc đức tin mà họ đã lãnh nhận... Cần phải huấn luyện để họ sống cuộc sống họ theo con người mới, con người đã được công chính và thánh hóa qua sự thật" (Gravissimam Sane, 2).
24. Trong thời kỳ này, không thể bỏ qua việc trung thành và can đảm giáo dục về khiết tịnh và tình yêu hiểu như cho mình đi. Khiết tịnh không phải là hành khổ tình yêu nhưng đúng hơn là một điều kiện của yêu thương đúng nghĩa. Thực vậy, nếu ơn gọi của tình yêu phu phụ là một ơn gọi cho mình đi trong hôn nhân, thì người ta phải thành công trong việc làm chủ bản thân mình để có thể thực sự cho mình đi được.Về phương diện này, việc giáo dục sinh lý nhận được từ cha mẹ trong những năm đầu tuổi ấu thơ và thiếu niên rất quan trọng như đã đề cập trong tài liệu của Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình đã nhắc ở số 10 trên đây.
25. Trong giai đoạn chuẩn bị xa này, cần đạt được một số mục tiêu chuyên biệt. Mặc dầu không thể đưa ra được một danh sách đầy đủ, nhưng như một cột mốc, ta cần ghi nhận rằng tất cả những việc chuẩn bị trên đây phải đạt được mục tiêu theo đó mỗi một tín hữu được mời gọi bước vào hôn nhân phải hiểu một cách hoàn toàn rằng dưới ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa, tình yêu con người phải đóng vai trò chính yếu trong luân lý học Kitô Giáo. Thực thế, như một ơn gọi và một sứ mệnh, sự sống con người được mời gọi bước vào tình yêu vốn bắt nguồn và kết thúc trong Chúa, "mà không loại bỏ khả thể hiến mình cho Chúa trong ơn gọi làm linh mục hay tu dòng" (FC, 66). Theo nghĩa này, cần ghi nhớ rằng ngay cả khi việc chuẩn bị xa bàn nhiều hơn đến nội dung lý thuyết của bản nhiên nhân chủng học, thì cũng cần đặt nó trong viễn tượng hôn nhân trong đó, tình yêu nhân loại được trình bày như một chia sẻ, cũng như một dấu chỉ, tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Cho nên, tình yêu phu phụ hiện tại hóa giữa nhân loại cũng một tình yêu của Chúa đã trở nên hữu hình trong mầu nhiệm cứu thế. Hành trình rời bỏ trình độ đức tin hời hợt bên ngoài và đôi chút mơ hồ, rất đặc trưng đối với nhiều người trẻ hôm nay, để hướng tới việc khám phá ra "mầu nhiệm Kitô Giáo" vừa có tính yếu tính vừa có tính quyết định: vì đó là một đức tin bao hàm hiệp thông Ơn Thánh và tình yêu với Chúa Kitô Sống Lại.
26. Việc chuẩn bị xa sẽ đạt được mục tiêu nếu nó khắc ghi được những nét yếu tính để càng ngày càng thu đạt được những thông số của một phán đoán đúng liên quan đến phẩm trật các giá trị cần cho việc chọn lựa điều tốt nhất xã hội có thể cung ứng, như lời khuyên của thánh Phaolô: "...hãy thử nghiệm mọi sự; và nắm chắc điều tốt" (1 Thessalonians 5:19). Không nên quên rằng, qua Ơn Thánh, tình yêu cũng phải được trân quí, củng cố và tăng cường qua các giá trị cần thiết liên hệ với cho đi, hy sinh, từ bỏ và quên mình. Trong giai đoạn đào tạo này, mục vụ phải đã hướng vào việc trợ giúp làm cho tác phong luân lý được nâng đỡ bởi đức tin. Gương sáng của cha mẹ, vốn là chứng tá thực sự cho những người sẽ kết hôn trong tương lai, phải kích thích, nâng đỡ và luôn có đó đối với lối sống Kitô Giáo đặc thù này.
27. Việc chuẩn bị này cũng không được lãng quên tầm quan trọng phải giúp người trẻ thủ đắc được khả năng phê phán liên quan đến các môi trường chung quanh của chúng, và lòng can đảm Kitô Giáo giúp biết hiện diện trong đời nhưng không thuộc về đời. Đây là điều ta đọc được trong Thư Gửi Diognetus, một văn bản đáng kính và chắc chắn là xác thực từ thời Kitô Giáo sơ khai: "Các Kitô hữu không khác biệt gì với những phần tử khác của nhân loại xét cả trên bình diện xứ sở, tiếng nói lẫn phong tục...Toàn bộ nếp sống của họ đã làm nó trở nên đáng ca ngợi và ai cũng phải nhìn nhận là phi thường... Họ cũng cưới vợ cưới chồng và sinh con đẻ cái như những người khác; nhưng họ không bỏ rơi con cái họ. Họ mở rộng bàn ăn cho mọi người, nhưng không mở rộng giường ngủ cho ai. Họ thấy họ trong thân xác, nhưng không sống theo thân xác" (V, 1, 4, 6, 7, 8). Việc đào tạo phải đạt tới một não trạng và một nhân cách có thể cưỡng lại các ý niệm đối nghịch với tính duy nhất và bền vững của hôn nhân, nghĩa là có thể phản ứng lại các cơ cấu của điều được gọi là căn tội xã hội (social sin) theo nghĩa "dù bạo hành nhiều hay ít, dù gây hại lớn hay nhỏ, mỗi tội đều gây vang dội nơi toàn bộ cơ cấu Giáo Hội và nơi toàn thể gia đình nhân loại" (Tông Huấn Reconciliatio et Paenitentia, 16). Đối diện với các ảnh hưởng tội lỗi và rất nhiều những áp lực xã hội như thế, cần phải đào tạo cho bằng được một lương tâm biết phê phán.
28. Một lối sống Kitô Giáo, được các gia đình Kitô hữu làm chứng, tự nó là một hình thức phúc âm hóa và là chính nền tảng của việc chuẩn bị xa. Thực thế, một mục tiêu khác của giai đoạn này là trình bày sứ mệnh giáo dục của các cha mẹ. Chính trong gia đình, Giáo Hội tại gia, các cha mẹ Kitô Giáo trở thành nhân chứng và nhà giáo dục trẻ em cả trong việc trưởng thành "đức tin, đức cậy và đức mến", và trong việc mỗi đứa trẻ khám phá ra ơn gọi riêng của nó. " Cha mẹ là các nhà giáo dục đầu hết và quan trọng nhất của chính các con cái mình, và họ cũng sở đắc khả năng thông thạo căn bản trong phạm vi này: họ là nhà giáo dục chỉ bởi vì họ là cha mẹ" (GS, 16). Để thực hiện việc này, các cha mẹ cần được giúp đỡ thích đáng và đầy đủ.
29. Trong số các giúp đỡ nói trên, giáo xứ có thể được liệt kê như nơi đầu tiên phục vụ việc đào tạo Kitô Giáo trong Giáo Hội. Chính tại giáo xứ ta học được lối sống với nhau như cộng đoàn (xem Sacrosanctum Concilium, 42). Ngoài ra, các trường học, các định chế giáo dục khác, các phong trào, các nhóm, các Hiệp hội Công Giáo và, đương nhiên, các hiệp hội gia đình Kitô Giáo cũng không nên bỏ qua.Giữ vai trò quan trọng trong diễn trình giáo dục thanh thiếu niên là các phương tiện truyền thông đại chúng. Các phương tiện này cần phải trợ lực sứ mệnh của các gia đình trong xã hội một cách tích cực chứ không được cản trở sứ mệnh ấy.
30. Diễn trình giáo dục này cũng phải được sự lưu tâm của các giảng viên giáo lý, các người cổ động mục vụ giới trẻ và ơn gọi và, trên hết, các mục tử là những vị sẽ dùng các bài dẫn giải khi cử hành phụng vụ và các hình thức phúc ấm hóa khác, các cuộc gặp gỡ tư riêng, và những phương cách dấn thân khác, để nhấn mạnh và làm nổi bật những điểm góp phần vào việc chuẩn bị hướng tới hôn nhân trong tương lai (xem Ordo celebrandi Matrimonium, 14).
31. Do đó, cần phải "phát minh” ra mọi cách thế và mọi phương tiện để liên tục đào tạo thanh thiếu niên trong thời kỳ trước đính hôn tức thời kỳ liền sau việc khai tâm Kitô Giáo. Việc trao đổi qua lại các tín liệu về các kinh nghiệm thích đáng nhất trong phạm vi này thật vô cùng hữu ích. Các gia đình liên kết với nhau trong các giáo xứ, trong các định chế cũng như trong các hình thức hiệp hội khác nhau sẽ giúp tạo được một bầu khí xã hội trong đó tình yêu trách nhiệm sẽ lành mạnh khỏe khoắn. Nơi nào tình yêu ấy bị băng hoại, thí dụ như do sách báo phim ảnh khiêu dâm chẳng hạn, họ có thể phản ứng dựa trên các quyền gia đình. Tất cả những điều này thuộc trong "sinh thái nhân bản" (xem Centesimus Annus, 38).
Phần II Các giai đoạn hoặc thời kỳ chuẩn bị
21. Các giai đoạn hay thời kỳ sẽ được thảo luận sau đây thực ra không có nghĩa cứng ngắc. Thực vậy, không thể định nghĩa chúng cả trong tương quan với tuổi người tham dự lẫn trong tương quan với thời gian ngắn dài của chúng. Tuy nhiên, quen thuộc với chúng như những lộ trình và dụng cụ làm việc, đặc biệt đối với nội dung truyền đạt, quả là điều ích lợi. Chúng được chia thành chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị kế cận.
A. Chuẩn bị xa
22. Chuẩn bị xa bao gồm lúc còn thơ, ấu nhi và thiếu niên và xẩy ra trước nhất trong gia đình, sau đó nơi học đường và các nhóm đào luyện như những trợ thủ có giá trị phụ với gia đình. Đây là thời kỳ trong đó, việc kính trọng mọi giá trị nhân bản chân chính cả trong các liên hệ liên bản ngã lẫn trong các liên hệ xã hội được truyền đạt và ghi khắc, với mọi điều bao hàm nhằm đào tạo tính khí, tự chủ và tự trọng, sử dụng đúng đắn các xu hướng của mình, và kính trọng người khác phái. Ngoài ra, đặc biệt đối với Kitô hữu, việc đào tạo vững chắc về tu đức và giáo lý cũng cần thiết (xem FC, 66).
23. Trong Thư Gửi Các Gia Đình Gratissimam Sane, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 nhắc đến hai chân lý căn bản trong trách vụ giáo dục: " thứ nhất, con người được mời gọi sống trong chân lý và yêu thương; và thứ hai, mọi người sẽ đạt được trọn hảo qua việc thành thực dâng hiến bản thân mình" (số 16). Như thế, việc giáo dục ấu nhi phải bắt đầu trước lúc sinh ra trong bầu khí chờ đợi và hoan nghênh sự sống mới đang đến, đặc biệt là qua các đối thoại đầy yêu thương của mẹ với đứa bé sắp sinh (xem Ibid. 16). Diễn trình ấy tiếp tục với tuổi ấu nhi vì giáo dục "trước nhất là việc dâng hiến lẫn nhau về phần cả hai cha mẹ: họ cùng nhau thông truyền nhân tính trưởng thành riêng của họ cho đứa bé mới sinh" (Ibid.). "Khi ban suối nguồn cho sự sống mới, cha mẹ nhìn nhận đứa con, vốn là hoa trái của tặng phẩm yêu đương lẫn nhau của họ, ngược lại lại là chính tặng phẩm được tặng lại cho họ, một tặng phẩm đã từ họ mà phát sinh" (EV 92).
Hiểu theo nghĩa toàn bộ, tức nghĩa bao hàm việc chuyển đạt và trưởng thành căn bản các giá trị nhân bản và Kitô Giáo, nền giáo dục Kitô Giáo, như Công đồng Vatican 2 đã quả quyết, "không những phát triển sự trưởng thành của nhân vị..., mà đặc biệt còn hướng về việc đảm bảo rằng những người đã được rửa tội, trong khi dần dà được dẫn khởi vào mầu nhiệm cứu chuộc, mỗi ngày sẽ biết quí trọng hơn quà phúc đức tin mà họ đã lãnh nhận... Cần phải huấn luyện để họ sống cuộc sống họ theo con người mới, con người đã được công chính và thánh hóa qua sự thật" (Gravissimam Sane, 2).
24. Trong thời kỳ này, không thể bỏ qua việc trung thành và can đảm giáo dục về khiết tịnh và tình yêu hiểu như cho mình đi. Khiết tịnh không phải là hành khổ tình yêu nhưng đúng hơn là một điều kiện của yêu thương đúng nghĩa. Thực vậy, nếu ơn gọi của tình yêu phu phụ là một ơn gọi cho mình đi trong hôn nhân, thì người ta phải thành công trong việc làm chủ bản thân mình để có thể thực sự cho mình đi được.Về phương diện này, việc giáo dục sinh lý nhận được từ cha mẹ trong những năm đầu tuổi ấu thơ và thiếu niên rất quan trọng như đã đề cập trong tài liệu của Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình đã nhắc ở số 10 trên đây.
25. Trong giai đoạn chuẩn bị xa này, cần đạt được một số mục tiêu chuyên biệt. Mặc dầu không thể đưa ra được một danh sách đầy đủ, nhưng như một cột mốc, ta cần ghi nhận rằng tất cả những việc chuẩn bị trên đây phải đạt được mục tiêu theo đó mỗi một tín hữu được mời gọi bước vào hôn nhân phải hiểu một cách hoàn toàn rằng dưới ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa, tình yêu con người phải đóng vai trò chính yếu trong luân lý học Kitô Giáo. Thực thế, như một ơn gọi và một sứ mệnh, sự sống con người được mời gọi bước vào tình yêu vốn bắt nguồn và kết thúc trong Chúa, "mà không loại bỏ khả thể hiến mình cho Chúa trong ơn gọi làm linh mục hay tu dòng" (FC, 66). Theo nghĩa này, cần ghi nhớ rằng ngay cả khi việc chuẩn bị xa bàn nhiều hơn đến nội dung lý thuyết của bản nhiên nhân chủng học, thì cũng cần đặt nó trong viễn tượng hôn nhân trong đó, tình yêu nhân loại được trình bày như một chia sẻ, cũng như một dấu chỉ, tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Cho nên, tình yêu phu phụ hiện tại hóa giữa nhân loại cũng một tình yêu của Chúa đã trở nên hữu hình trong mầu nhiệm cứu thế. Hành trình rời bỏ trình độ đức tin hời hợt bên ngoài và đôi chút mơ hồ, rất đặc trưng đối với nhiều người trẻ hôm nay, để hướng tới việc khám phá ra "mầu nhiệm Kitô Giáo" vừa có tính yếu tính vừa có tính quyết định: vì đó là một đức tin bao hàm hiệp thông Ơn Thánh và tình yêu với Chúa Kitô Sống Lại.
26. Việc chuẩn bị xa sẽ đạt được mục tiêu nếu nó khắc ghi được những nét yếu tính để càng ngày càng thu đạt được những thông số của một phán đoán đúng liên quan đến phẩm trật các giá trị cần cho việc chọn lựa điều tốt nhất xã hội có thể cung ứng, như lời khuyên của thánh Phaolô: "...hãy thử nghiệm mọi sự; và nắm chắc điều tốt" (1 Thessalonians 5:19). Không nên quên rằng, qua Ơn Thánh, tình yêu cũng phải được trân quí, củng cố và tăng cường qua các giá trị cần thiết liên hệ với cho đi, hy sinh, từ bỏ và quên mình. Trong giai đoạn đào tạo này, mục vụ phải đã hướng vào việc trợ giúp làm cho tác phong luân lý được nâng đỡ bởi đức tin. Gương sáng của cha mẹ, vốn là chứng tá thực sự cho những người sẽ kết hôn trong tương lai, phải kích thích, nâng đỡ và luôn có đó đối với lối sống Kitô Giáo đặc thù này.
27. Việc chuẩn bị này cũng không được lãng quên tầm quan trọng phải giúp người trẻ thủ đắc được khả năng phê phán liên quan đến các môi trường chung quanh của chúng, và lòng can đảm Kitô Giáo giúp biết hiện diện trong đời nhưng không thuộc về đời. Đây là điều ta đọc được trong Thư Gửi Diognetus, một văn bản đáng kính và chắc chắn là xác thực từ thời Kitô Giáo sơ khai: "Các Kitô hữu không khác biệt gì với những phần tử khác của nhân loại xét cả trên bình diện xứ sở, tiếng nói lẫn phong tục...Toàn bộ nếp sống của họ đã làm nó trở nên đáng ca ngợi và ai cũng phải nhìn nhận là phi thường... Họ cũng cưới vợ cưới chồng và sinh con đẻ cái như những người khác; nhưng họ không bỏ rơi con cái họ. Họ mở rộng bàn ăn cho mọi người, nhưng không mở rộng giường ngủ cho ai. Họ thấy họ trong thân xác, nhưng không sống theo thân xác" (V, 1, 4, 6, 7, 8). Việc đào tạo phải đạt tới một não trạng và một nhân cách có thể cưỡng lại các ý niệm đối nghịch với tính duy nhất và bền vững của hôn nhân, nghĩa là có thể phản ứng lại các cơ cấu của điều được gọi là căn tội xã hội (social sin) theo nghĩa "dù bạo hành nhiều hay ít, dù gây hại lớn hay nhỏ, mỗi tội đều gây vang dội nơi toàn bộ cơ cấu Giáo Hội và nơi toàn thể gia đình nhân loại" (Tông Huấn Reconciliatio et Paenitentia, 16). Đối diện với các ảnh hưởng tội lỗi và rất nhiều những áp lực xã hội như thế, cần phải đào tạo cho bằng được một lương tâm biết phê phán.
28. Một lối sống Kitô Giáo, được các gia đình Kitô hữu làm chứng, tự nó là một hình thức phúc âm hóa và là chính nền tảng của việc chuẩn bị xa. Thực thế, một mục tiêu khác của giai đoạn này là trình bày sứ mệnh giáo dục của các cha mẹ. Chính trong gia đình, Giáo Hội tại gia, các cha mẹ Kitô Giáo trở thành nhân chứng và nhà giáo dục trẻ em cả trong việc trưởng thành "đức tin, đức cậy và đức mến", và trong việc mỗi đứa trẻ khám phá ra ơn gọi riêng của nó. " Cha mẹ là các nhà giáo dục đầu hết và quan trọng nhất của chính các con cái mình, và họ cũng sở đắc khả năng thông thạo căn bản trong phạm vi này: họ là nhà giáo dục chỉ bởi vì họ là cha mẹ" (GS, 16). Để thực hiện việc này, các cha mẹ cần được giúp đỡ thích đáng và đầy đủ.
29. Trong số các giúp đỡ nói trên, giáo xứ có thể được liệt kê như nơi đầu tiên phục vụ việc đào tạo Kitô Giáo trong Giáo Hội. Chính tại giáo xứ ta học được lối sống với nhau như cộng đoàn (xem Sacrosanctum Concilium, 42). Ngoài ra, các trường học, các định chế giáo dục khác, các phong trào, các nhóm, các Hiệp hội Công Giáo và, đương nhiên, các hiệp hội gia đình Kitô Giáo cũng không nên bỏ qua.Giữ vai trò quan trọng trong diễn trình giáo dục thanh thiếu niên là các phương tiện truyền thông đại chúng. Các phương tiện này cần phải trợ lực sứ mệnh của các gia đình trong xã hội một cách tích cực chứ không được cản trở sứ mệnh ấy.
30. Diễn trình giáo dục này cũng phải được sự lưu tâm của các giảng viên giáo lý, các người cổ động mục vụ giới trẻ và ơn gọi và, trên hết, các mục tử là những vị sẽ dùng các bài dẫn giải khi cử hành phụng vụ và các hình thức phúc ấm hóa khác, các cuộc gặp gỡ tư riêng, và những phương cách dấn thân khác, để nhấn mạnh và làm nổi bật những điểm góp phần vào việc chuẩn bị hướng tới hôn nhân trong tương lai (xem Ordo celebrandi Matrimonium, 14).
31. Do đó, cần phải "phát minh” ra mọi cách thế và mọi phương tiện để liên tục đào tạo thanh thiếu niên trong thời kỳ trước đính hôn tức thời kỳ liền sau việc khai tâm Kitô Giáo. Việc trao đổi qua lại các tín liệu về các kinh nghiệm thích đáng nhất trong phạm vi này thật vô cùng hữu ích. Các gia đình liên kết với nhau trong các giáo xứ, trong các định chế cũng như trong các hình thức hiệp hội khác nhau sẽ giúp tạo được một bầu khí xã hội trong đó tình yêu trách nhiệm sẽ lành mạnh khỏe khoắn. Nơi nào tình yêu ấy bị băng hoại, thí dụ như do sách báo phim ảnh khiêu dâm chẳng hạn, họ có thể phản ứng dựa trên các quyền gia đình. Tất cả những điều này thuộc trong "sinh thái nhân bản" (xem Centesimus Annus, 38).