CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN NĂM B : MC 1,14-20
Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói : “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông : “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người.
Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.
HẾT THẢY CHÚNG TA ĐỀU ĐƯỢC GỌI
Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê và bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Nội dung lời rao giảng đó là TC nay can thiệp trong lịch sử của nhân loại nhờ Người. Lời rao giảng của Người (tóm kết nơi c.15) gồm có 3 phần :
1) Thời kỳ đã mãn : các ngôn sứ chia thời gian làm hai : thời kỳ hiện tại và thời kỳ sẽ đến. Đức Giê-su loan báo thời kỳ hiện tại đã kết thúc và một thời mới, thời cánh chung đã khai mạc. Đây là thời kỳ TC hoàn tất các lời Người đã hứa.
2) Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần : Cựu Ước nói đến Vương quyền của Thiên Chúa đối với dân riêng của Người (x. Is 6,1-3; 43,15; Tv 47,93,96,99). Nhưng sau thời Lưu đày, tình trạng vương quyền trần gian vắng bóng làm cho dân Ít-ra-en hy vọng chính TC sẽ bày tỏ Vương quyền của Người tại Xi-on và trải rộng quyền đó trên địa cầu (x. Is 24,23; 52,7; Gr 3,17; 8,19; Ed 20,33…). Ở đây, Đức Giê-su khẳng định : nơi Người, Triều đại Thiên Chúa đã đến, Người là “Triều-đại-Thiên-Chúa-bằng-xương-bằng-thịt” (Origène).
3) Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng : sám hối là thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới mẻ.
Để thực hiện đại cuộc này, Đức Giê-su đã kêu gọi các Tông đồ, ban đầu là bốn ông. Nhưng không chỉ từng ấy. Người còn muốn kêu gọi những ai tự nguyện làm môn đệ Người cũng hãy tham gia vào đại cuộc.
1. Kêu gọi các Tông đồ
“Thấy Si-môn và An-rê, Người bảo họ: Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức hai ông đi theo Người”. Không thể đọc điều này mà không “tưởng tượng”. Bờ hồ, cái nhìn của Đức Giê-su, tiếng gọi của Người, và chữ “lập tức” năng được lập lại nơi Mác-cô, khiến cuốn Tin Mừng của ông thành một lời thôi thúc, gần như dồn dập. Nhờ Tin Mừng Gio-an, ta biết Đức Giê-su đã quen với bốn anh em này từ trước, thành thử ở đây họ không đứng lên đi theo một kẻ xa lạ, nhưng là một Đấng mà họ đã khởi sự đón nhận sứ điệp rồi. Mác-cô nhấn mạnh hai điểm : một là vai trò chủ động của Đức Giê-su trong ơn gọi, hai là tính chất triệt để của lời đáp trả. Người mời bốn anh em “theo Người”, có nghĩa là làm môn đệ, tiếp bước chân Người, dù tới đâu thì tới. Và trong thực tế, họ chỉ thực sự theo Người khi loan truyền Tin Mừng đến với lương dân và hy sinh mạng sống vì Người.
“Lưới người như lưới cá” là một lối chơi chữ rất giàu ý nghĩa. Muốn hiểu nó, phải nhớ rằng đối với dân Do-thái, biển sâu chính là nơi quy tụ các mãnh lực của sự dữ và sự chết. Đức Giê-su ở đây được khẳng định như là Đấng đến để lôi kéo loài người anh em thoát khỏi các mãnh lực nầy. Và nếu Người đã có ý tuyển chọn các ngư phủ làm những môn đệ đầu tiên, là bởi vì Người thấy được mối liên hệ biểu tượng giữa nghề nghiệp hiện tại của họ và sứ mạng Người sẽ giao cho họ sau này : “đánh bắt” những con người để đem họ vào trong Nước Thiên Chúa mà Người đã đến để lập nên, hầu họ đi từ cõi chết sang cõi sống. Các ông thành thử là hạt nhân nảy sinh Giáo Hội và trở thành một thứ đội quân tiên phong của một dân tộc mới mẻ.
Những điều đó khiến ta ước muốn cầu nguyện cho có nhiều người nam nữ đáp lại tiếng Chúa gọi : “Này bạn, hãy đến, bạn sẽ là linh mục; này bạn, hãy đến, bạn sẽ là tu sĩ”. Chắc chắn đó là một cách đọc bản văn thật đúng, nó đã được viết để đánh thức các ơn gọi chuyên biệt và kêu mời chúng ta suy nghĩ về những lời nói việc làm của chúng ta trong tương quan với ơn thiên triệu linh mục hay tu sĩ.
2. Kêu gọi các môn đệ
Nhưng quả là thiệt hại nếu không thấy đó cũng là tiếng Đức Giê-su gọi môn đệ, nghĩa là mọi Ki-tô hữu. Dấu chỉ thứ nhất của việc mở rộng nhãn quan là vị trí mà Mác-cô dành cho trình thuật kêu gọi môn đệ này. Ông đặt nó ngay đầu Tin Mừng của mình để cho thấy rằng hành vi tiên khởi của Đức Giê-su là quy tụ thiên hạ quanh mình hầu tung ra cái phong trào vĩ đại sẽ trở thành Giáo Hội, dân mới của Thiên Chúa. Cùng tiếng gọi ấy tiếp tục và thấu đến chúng ta hôm nay.
Dấu chỉ thứ hai : hình thức lược đồ của trình thuật ơn gọi này. Đức Giê-su nhìn, gọi, và lập tức người ta đi theo. Điều này có giá trị cho mọi người không phân biệt. Khi nghe kể lại chi tiết ơn gọi của thánh Phan-xi-cô A-xi-di-ô, thánh Bê-na-đet-ta, mẹ Tê-rê-xa hay đơn giản của một linh mục, chúng ta cảm phục từ xa nhưng có thể tự nhủ : đó không phải là cho mình. Nhưng ở đây là cho chúng ta. Chúng ta đứng trước lược đồ kiểu mẫu về tiếng gọi của Đức Giê-su và lời đáp mà bất cứ Ki-tô hữu nào cũng phải đưa ra cả. Hết thảy đều được yêu cầu phải dành ưu tiên tuyệt đối cho Đức Giê-su.
Có lẽ chúng ta còn chưa ý thức rằng làm Ki-tô hữu, đó không chỉ là đọc kinh Tin kính, đi dự lễ và cố gắng sống đạo đức, song còn là theo Đức Ki-tô. Nghe thế chắc có người bảo : “Bạn lại nói đến “ơn gọi” ư? Lắm người đã từ bỏ mọi sự, nghề nghiệp, nhà cửa, gia đình. Tôi thì không thể làm được vậy”. Đừng lo ! “Theo Đức Giê-su” cũng có một ý nghĩa khác nữa. Ta thấy điều đó khi Đức Giê-su ngỏ với tất cả đám đông để yêu cầu họ tin vào Người. Theo Người, trước hết là như thế.
Trước khi biết điều Người sắp xin chúng ta, phải tin vào Đức Giê-su, bằng không chúng ta chẳng bao giờ chấp nhận các đòi hỏi của Người. Người có quyền nói, Người có quyền bảo chúng ta tại sao phải nghe và thành thử là theo Người, để cuộc đời chúng ta thành tựu, vì Người là Con Thiên Chúa. Duy mình Người vừa có thể đơn giản hóa cuộc sống chúng ta, vừa làm cho nó trở nên vô cùng đòi hỏi bằng cách chỉ cho ta một mệnh lệnh. Khi Người bảo tôi : “Phần anh, hãy theo Thầy !” tôi biết câu đó có nghĩa : “Phần anh, hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương”.
Lúc đó, đúng thế, nếu tôi muốn thật sự sống điều ấy, tôi buộc lòng phải “từ bỏ mọi sự”. Bỏ hoàn cảnh của tôi, nghề nghiệp của tôi, thân nhân của tôi sao? Không, kiểu nói “những kẻ lưới người” muốn nhắn gởi với chúng ta rằng chúng ta không bị bó buộc phải bỏ nghề nghiệp, khả năng của mình, song là hãy tỏ ra thành thạo trong sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa như lúc hành nghề của mình hay qua việc hành nghề của mình. Vấn đề là từ bỏ các tư tưởng thông thường, các cách hành động thông thường chẳng phù hợp với Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Không gì, tuyệt đối không gì được ngăn cản tôi nghe tiếng Đức Ki-tô và mến yêu Người trên hết mọi sự. Rồi làm cho quanh tôi biết Đức Ki-tô, “lưới người” (bắt các linh hồn) cho Đức Ki-tô. Cuộc mạo hiểm khởi sự từ đó và thế đó ! Như đối với Si-môn, An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an. Một cuộc mạo hiểm mãnh liệt và sáng ngời : “Ta là sự sống. Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không phải đi trong bóng tối” (Ga 8,12).
Trong cuốn “Chúa Ki-tô trên nẻo đường của con người”, cha Bosco đã thuật lại câu chuyện ngài chứng kiến tận mắt tại Lộ Đức như sau : Hôm ấy, tôi theo sau vị Giám mục kiệu MTC đi qua trước các bệnh nhân nằm trên cáng và ghế lăn. Quang cảnh thật cảm động. Trong số các bệnh nhân, tôi đặc biệt để ý đến một thiếu niên mặt nhợt nhạt nhưng thật hiền từ, hai tay em nắm chặt lại và đôi mắt nhìn về MTC. Sau cuộc rước, tôi đến quán trọ các bệnh nhân để tìm thăm em. Tôi thấy em đang nằm một mình trên cáng, dưới một tàng cây. Tôi hỏi : “Tên con là gì và từ đâu đến?” - “ Thưa Cha, con là Aelio và ở Rôma” - “Cha cũng ở Rôma, cha vui mừng được gặp con. Cha làm tuyên úy cho toán trợ giúp người bệnh.” Nghe thế, cậu bé đáp : “Con cũng muốn giúp các bệnh nhân mà không được, vì từ ba năm nay con bị liệt giường” - “Chính vì thế mà chúng ta đến đây để xin Đức Mẹ ban ơn. Cha sẽ cầu nguyện cho con. Vậy con đã cầu xin Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a chữa bệnh cho con chưa?” Nhìn tôi rồi nhìn quanh xem có ai nghe lén không, cậu chậm rãi đáp : “Thưa cha, con không cầu xin ơn khỏi bệnh. Vì có những điều quan trọng hơn con phải xin với Đức Mẹ.” Ngạc nhiên, tôi hỏi : “Những điều đó là gì thế?” Em bé đáp : “Thưa cha, con đã xin Đức Mẹ ba ơn này : trước hết, con cầu xin Đức Mẹ chữa lành những ai đang phải đau khổ nhiều hơn con. Thứ hai, con cầu xin cho các linh mục ngày càng trở nên thánh thiện. Sau cùng, con cầu xin cho kẻ có tội ăn năn trở lại để Chúa Giê-su khỏi đau lòng nữa.” Nghe những lời này của cậu thiếu niên, tôi ngỡ ngàng không nói được lời nào. Sau đó, tôi đến hang đá Đức Mẹ Lộ Đức một mình, và thưa với Mẹ : “Lạy Mẹ Thiên Chúa, con xin cám ơn Mẹ đã cho con mục kích được một phép lạ lớn lao, đó là thấy một em bé 13 tuổi, nhờ sự giúp đỡ và nụ cười của Mẹ, nay đã trở nên một anh hùng và một tông đồ.”
Ai bảo bệnh nhân thiếu niên này không được Chúa kêu gọi?