Cơ thể con người thay đổi liên tục. Dù có đồng í hay bất đồng, thay đổi vẫn liên tục diễn ra bởi đó là một phần của cuộc sống. Ảnh hưởng đến thay đổi là do kiêng khem gắt gao, và khắt khe trong việc thao luyện thân thể. Thực ra thay đổi cần thiết. Đối với trẻ em thì đó là hành trình trưởng thành, biến thành người lớn. Đối với người lớn thì đó là hành trình lão hoá. Ta thường nhận ra thay đổi từ bên ngoài; nhận biết thay đổi từ bên trong khó hơn nhiều.
Cuộc sống tâm linh cũng liên tục thay đổi. Thay đổi nội tâm đến hoặc là do ảnh hưởng ngoại cảnh, hoặc là do Lời Chúa tác động. Thay đổi do Lời Chúa tác động là thay đổi tốt. Một khi Kitô hữu đặt trong tâm cuộc sống qua thực hành Lời Chúa, đời sống Kitô hữu đó thiên về Thiên Chúa, thuộc về Chúa. Tâm linh người đó nhận ánh sáng từ Đức Kitô. Dù không ai cảm nhận được ánh sáng rực rỡ này, nhưng cá nhân Kitô hữu đó cảm thấy tâm hồn họ bình an, con tim họ thanh thản trong cuộc sống. Niềm vui từ trong tâm phát ra. Loại kinh nghiệm an vui, thanh thản này chính là điều tông đồ Đức Kitô cảm nghiệm khi các ngài trên núi thánh với Đức Kitô. Các ngài diễn tả cảm xúc an lạc đó với Đức Kitô,
'Thưa Thầy, chúng con rất vui được ở lại đây' Mt 17,4.
Các ông vui mừng đến độ muốn ở lại luôn trên núi thánh, và nếu được chấp thuận các ông tình nguyện lập lều trại. Đức Kitô cho biết các ông cần phải trở lại cuộc sống trần thế. 'Nơi rất vui, đầy hoan lạn này' chắc chắn thuộc về các ông, nhưng không phải bây giờ, bởi sứ mạng cứu độ nhân loại của Đức Kitô chưa hoàn tất.
Chúng ta nhớ lại lần Đức Kitô chịu cám dỗ. Hai trong ba cơn cám dỗ, ma qủy cố tình tạo nghi ngờ về nguồn gốc Đức Kitô bằng cách gây rối, hoang mang, chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã không chối bỏ, trái lại Ngài còn dùng Kinh Thánh nói rõ về Chúa Cha. Không để ma quỉ lừa gạt, Đức Kitô từ chối, không mặc khải cho ma quỉ biết nguồn gốc Ngài. Lần này, trên núi thánh, Đức Kitô tỏ cho môn đệ Ngài biết gốc tích Ngài.
'Dung nhan Ngài chói sáng như mặt trời, và y phục Ngài trắng hơn tuyết' Mt 17,3.
Đây là lần đầu trong đời môn đệ Đức Kitô được chiêm ngưỡng vinh quang sáng chói nơi Đức Kitô. Chính sự sáng chói lọi này mặc khải nguồn gốc Đức Kitô. Nguồn gốc này được nói rõ do tiếng từ trời cao vang dội. Mắt các môn đệ không thể nhìn được vẻ huy hoàng, rực rỡ nơi Chúa Cha, nhưng các ông được phép nghe lời khuyên dậy,
'Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy nghe Lời Ngài' Mt 17,6.
Riêng câu này cho biết ba tư tưởng rõ ràng. Thứ nhất, Đức Kitô không phải là người con bình thường mà là Người Con được đặc biệt sủng ái. Trong quá khứ Chúa đặt điều Giao Ước với dân Chúa qua tổ phụ Môisen và Elia. Ngày nay Chúa đặt điều Giao Ước với dân Chúa qua chính Con Một Chí Thánh là Đức Giêsu Kitô. Dân riêng Chúa bao gồm những ai chân thành đón nhận Đức Kitô và tuyên xưng Ngài là Chúa của họ. Lần đầu tiên lãnh đạo của hai lời Giao Ước, cũ và mới, diện kiến, gặp nhau trên núi thánh.
Thứ hai, lời kêu gọi, 'Lắng nghe Lời Ngài' cho biết sứ mạng cứu độ của Đức Kitô là chăm sóc và ban ơn cứu độ cho dân Chúa. Thứ ba, câu 'Ta hài lòng về Người' cho biết Chúa Cha luôn ở cùng Đức Kitô. Đức Kitô mang đầy đủ quyền phép Thiên Chúa. Thực ra chính Chúa Cha sinh hoạt qua Đức Kitô.
Các tông đồ chen vào cuộc đàm thoại đang diễn ra giữa Đức Kitô và Môisen cho biết các ông nghe mà không hiểu ngôn ngữ thiên quốc. Chúng ta cũng không biết cuộc đàm thoại bàn về vấn đề gì. Tuy nhiên nhìn vào việc làm của Đức Kitô chúng ta có thể đoán biết cuộc đàm thoại đó liên quan đến chương trình cức độ của Đấng Cứu Thế.
Đức Kitô cứu nhân loại theo cách riêng của Chúa Cha. Ngài dẫn dân Chúa chọn đi vào miền 'Đất Mới' ngày nay được hiểu như là 'Trong Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở' Gn 14,2.
dân Chúa chọn không có giới hạn. Bất cứ ai thành tâm đón nhận Đức Kitô và tuyên xưng Ngài là Chúa của họ đều thuộc về dân Chúa chọn. Trở thành thành viên của nước Thiên Chúa qua bí tích rửa tội. Đức Kitô hiểu ngôn ngữ thiên quốc bởi Ngài vừa là Chúa, vừa là người như chúng ta. Môn đệ Đức Kitô cũng như Kitô hữu chưa hiểu được ngôn ngữ thiên quốc, mà còn phải chờ cho đến khi hoàn tất cuộc hành trình dương thế.
Nghe tiếng vang vọng từ trời cao, các tông đồ khiếp sợ, cúi gầm mặt xuống đất. Đức Kitô chạm vào các ông phán dậy 'Chỗi dậy, đừng sợ' và dẫn các ông xuống núi. Trên đường đi xuống, Đức Kitô dặn các ông,
'Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy' Mt 17,9.
Lời phán bảo cuối này cho biết các ông không nên loan báo điều các ông chưa thấu hiểu. Các ông được phép chia sẻ thị kiến này, sau khi chứng kiến 'Con Người từ cõi chết chỗi dậy'.
TiengChuong.org
Changes
Whether we like it or not our physical body continues to change; because it is a natural part of living. We can't stop it, but persistence in diet and daily exercise would have some effect in changing. For children, change is needed because it is the process of growing; for adults, it is the process of maturing. We can see changes from the outer, not the inner. Our spiritual life also changes daily, and we don't recognize it because it is invisible for naked eye. When we take Jesus' teaching seriously, the change pulls us closer to God. When our life enjoins God, our spiritual life would reflect the brightness of God. It may be hidden from our eyes, but our hearts have peace, and minds at ease. The apostles had this kind of experience up in the mountain, and they joyfully expressed this state of blessed,
'It is wonderful for us to be here' Mt 17,4.
The apostles expressed their desire to stay in that moment forever. They were happy and volunteered to make tents to stay. Jesus asked them to return to the mission field. The 'wonderful place' is theirs, but not now, because Jesus' saving mission on earth has not yet been completed.
We recall the temptation of Jesus. In two out of three temptations, the devil tried to make Jesus doubt the existence of God. Jesus refused to reveal who He was. He now showed His true identity to His chosen apostles. He was transfigured,
'His face shone like the sun and his clothes became as white as the light' Mt 17,3.
This was the first time the apostles had experienced Jesus' majestic brightness. This brightness alone would reveal the true Jesus' identity. The apostles then heard the voice from the cloud which revealed their physical eyes could not perceive. The voice confirmed Jesus' true identity.
'This is my Son, the Beloved; he enjoys my favour. Listen to him' Mt 17,6.
Jesus is not simply an ordinary God's Son, but He is the Beloved Son. In the past, God made the Covenant with the chosen people through Moses and Elijah; today God made the New Covenant with God's chosen people through God's only Son; Jesus who is the New Covenant. The chosen people are those who confess Jesus is their Lord and God. The leaders of the New and the Old Covenant meet face-to-face for the first time.
The calling 'listen to him' implied that Jesus' mission is to care for God's chosen people, and the Father's favour rests on Him, which implies the Father would never leave Him alone in his mission. Jesus has the full divine authority status. The Father himself acts through Jesus.
The apostles seem to fail in understanding the heavenly language; they interrupted the conversation between Jesus and Moses. We don't know what the conversations were about, but through the work of Jesus, we believed they were talking about Jesus' mission. He had his own way of carrying out God's plan to save mankind. He led the people to the 'New Promised Land' which is now known as 'My Father's House'.
His chosen race has a universal implication that includes those who listen to his voice and act on them. Jesus understands the heavenly language because He is both divine and human.
Hearing God's voice, the apostles fell on their faces, overcome with fear. This implies we, humans, are not yet able to hear God's voice from on high; but must wait until we finish this earthly journey.
The calling to listen to Jesus means we hear the divine voice through the human voice of Jesus. Listening to Jesus means listening to the Father. Jesus touched the apostles and told them 'Do not be afraid', and led them down from the mountain. Jesus told them to
'say nothing about the vision until the Son of Man has risen from the dead' Mt 17,9.
This final instruction means to say nothing until they fully understand. This full understanding comes not before, but after
'The Son of Man has risen from the dead'.
Cuộc sống tâm linh cũng liên tục thay đổi. Thay đổi nội tâm đến hoặc là do ảnh hưởng ngoại cảnh, hoặc là do Lời Chúa tác động. Thay đổi do Lời Chúa tác động là thay đổi tốt. Một khi Kitô hữu đặt trong tâm cuộc sống qua thực hành Lời Chúa, đời sống Kitô hữu đó thiên về Thiên Chúa, thuộc về Chúa. Tâm linh người đó nhận ánh sáng từ Đức Kitô. Dù không ai cảm nhận được ánh sáng rực rỡ này, nhưng cá nhân Kitô hữu đó cảm thấy tâm hồn họ bình an, con tim họ thanh thản trong cuộc sống. Niềm vui từ trong tâm phát ra. Loại kinh nghiệm an vui, thanh thản này chính là điều tông đồ Đức Kitô cảm nghiệm khi các ngài trên núi thánh với Đức Kitô. Các ngài diễn tả cảm xúc an lạc đó với Đức Kitô,
'Thưa Thầy, chúng con rất vui được ở lại đây' Mt 17,4.
Các ông vui mừng đến độ muốn ở lại luôn trên núi thánh, và nếu được chấp thuận các ông tình nguyện lập lều trại. Đức Kitô cho biết các ông cần phải trở lại cuộc sống trần thế. 'Nơi rất vui, đầy hoan lạn này' chắc chắn thuộc về các ông, nhưng không phải bây giờ, bởi sứ mạng cứu độ nhân loại của Đức Kitô chưa hoàn tất.
Chúng ta nhớ lại lần Đức Kitô chịu cám dỗ. Hai trong ba cơn cám dỗ, ma qủy cố tình tạo nghi ngờ về nguồn gốc Đức Kitô bằng cách gây rối, hoang mang, chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã không chối bỏ, trái lại Ngài còn dùng Kinh Thánh nói rõ về Chúa Cha. Không để ma quỉ lừa gạt, Đức Kitô từ chối, không mặc khải cho ma quỉ biết nguồn gốc Ngài. Lần này, trên núi thánh, Đức Kitô tỏ cho môn đệ Ngài biết gốc tích Ngài.
'Dung nhan Ngài chói sáng như mặt trời, và y phục Ngài trắng hơn tuyết' Mt 17,3.
Đây là lần đầu trong đời môn đệ Đức Kitô được chiêm ngưỡng vinh quang sáng chói nơi Đức Kitô. Chính sự sáng chói lọi này mặc khải nguồn gốc Đức Kitô. Nguồn gốc này được nói rõ do tiếng từ trời cao vang dội. Mắt các môn đệ không thể nhìn được vẻ huy hoàng, rực rỡ nơi Chúa Cha, nhưng các ông được phép nghe lời khuyên dậy,
'Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy nghe Lời Ngài' Mt 17,6.
Riêng câu này cho biết ba tư tưởng rõ ràng. Thứ nhất, Đức Kitô không phải là người con bình thường mà là Người Con được đặc biệt sủng ái. Trong quá khứ Chúa đặt điều Giao Ước với dân Chúa qua tổ phụ Môisen và Elia. Ngày nay Chúa đặt điều Giao Ước với dân Chúa qua chính Con Một Chí Thánh là Đức Giêsu Kitô. Dân riêng Chúa bao gồm những ai chân thành đón nhận Đức Kitô và tuyên xưng Ngài là Chúa của họ. Lần đầu tiên lãnh đạo của hai lời Giao Ước, cũ và mới, diện kiến, gặp nhau trên núi thánh.
Thứ hai, lời kêu gọi, 'Lắng nghe Lời Ngài' cho biết sứ mạng cứu độ của Đức Kitô là chăm sóc và ban ơn cứu độ cho dân Chúa. Thứ ba, câu 'Ta hài lòng về Người' cho biết Chúa Cha luôn ở cùng Đức Kitô. Đức Kitô mang đầy đủ quyền phép Thiên Chúa. Thực ra chính Chúa Cha sinh hoạt qua Đức Kitô.
Các tông đồ chen vào cuộc đàm thoại đang diễn ra giữa Đức Kitô và Môisen cho biết các ông nghe mà không hiểu ngôn ngữ thiên quốc. Chúng ta cũng không biết cuộc đàm thoại bàn về vấn đề gì. Tuy nhiên nhìn vào việc làm của Đức Kitô chúng ta có thể đoán biết cuộc đàm thoại đó liên quan đến chương trình cức độ của Đấng Cứu Thế.
Đức Kitô cứu nhân loại theo cách riêng của Chúa Cha. Ngài dẫn dân Chúa chọn đi vào miền 'Đất Mới' ngày nay được hiểu như là 'Trong Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở' Gn 14,2.
dân Chúa chọn không có giới hạn. Bất cứ ai thành tâm đón nhận Đức Kitô và tuyên xưng Ngài là Chúa của họ đều thuộc về dân Chúa chọn. Trở thành thành viên của nước Thiên Chúa qua bí tích rửa tội. Đức Kitô hiểu ngôn ngữ thiên quốc bởi Ngài vừa là Chúa, vừa là người như chúng ta. Môn đệ Đức Kitô cũng như Kitô hữu chưa hiểu được ngôn ngữ thiên quốc, mà còn phải chờ cho đến khi hoàn tất cuộc hành trình dương thế.
Nghe tiếng vang vọng từ trời cao, các tông đồ khiếp sợ, cúi gầm mặt xuống đất. Đức Kitô chạm vào các ông phán dậy 'Chỗi dậy, đừng sợ' và dẫn các ông xuống núi. Trên đường đi xuống, Đức Kitô dặn các ông,
'Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy' Mt 17,9.
Lời phán bảo cuối này cho biết các ông không nên loan báo điều các ông chưa thấu hiểu. Các ông được phép chia sẻ thị kiến này, sau khi chứng kiến 'Con Người từ cõi chết chỗi dậy'.
TiengChuong.org
Changes
Whether we like it or not our physical body continues to change; because it is a natural part of living. We can't stop it, but persistence in diet and daily exercise would have some effect in changing. For children, change is needed because it is the process of growing; for adults, it is the process of maturing. We can see changes from the outer, not the inner. Our spiritual life also changes daily, and we don't recognize it because it is invisible for naked eye. When we take Jesus' teaching seriously, the change pulls us closer to God. When our life enjoins God, our spiritual life would reflect the brightness of God. It may be hidden from our eyes, but our hearts have peace, and minds at ease. The apostles had this kind of experience up in the mountain, and they joyfully expressed this state of blessed,
'It is wonderful for us to be here' Mt 17,4.
The apostles expressed their desire to stay in that moment forever. They were happy and volunteered to make tents to stay. Jesus asked them to return to the mission field. The 'wonderful place' is theirs, but not now, because Jesus' saving mission on earth has not yet been completed.
We recall the temptation of Jesus. In two out of three temptations, the devil tried to make Jesus doubt the existence of God. Jesus refused to reveal who He was. He now showed His true identity to His chosen apostles. He was transfigured,
'His face shone like the sun and his clothes became as white as the light' Mt 17,3.
This was the first time the apostles had experienced Jesus' majestic brightness. This brightness alone would reveal the true Jesus' identity. The apostles then heard the voice from the cloud which revealed their physical eyes could not perceive. The voice confirmed Jesus' true identity.
'This is my Son, the Beloved; he enjoys my favour. Listen to him' Mt 17,6.
Jesus is not simply an ordinary God's Son, but He is the Beloved Son. In the past, God made the Covenant with the chosen people through Moses and Elijah; today God made the New Covenant with God's chosen people through God's only Son; Jesus who is the New Covenant. The chosen people are those who confess Jesus is their Lord and God. The leaders of the New and the Old Covenant meet face-to-face for the first time.
The calling 'listen to him' implied that Jesus' mission is to care for God's chosen people, and the Father's favour rests on Him, which implies the Father would never leave Him alone in his mission. Jesus has the full divine authority status. The Father himself acts through Jesus.
The apostles seem to fail in understanding the heavenly language; they interrupted the conversation between Jesus and Moses. We don't know what the conversations were about, but through the work of Jesus, we believed they were talking about Jesus' mission. He had his own way of carrying out God's plan to save mankind. He led the people to the 'New Promised Land' which is now known as 'My Father's House'.
His chosen race has a universal implication that includes those who listen to his voice and act on them. Jesus understands the heavenly language because He is both divine and human.
Hearing God's voice, the apostles fell on their faces, overcome with fear. This implies we, humans, are not yet able to hear God's voice from on high; but must wait until we finish this earthly journey.
The calling to listen to Jesus means we hear the divine voice through the human voice of Jesus. Listening to Jesus means listening to the Father. Jesus touched the apostles and told them 'Do not be afraid', and led them down from the mountain. Jesus told them to
'say nothing about the vision until the Son of Man has risen from the dead' Mt 17,9.
This final instruction means to say nothing until they fully understand. This full understanding comes not before, but after
'The Son of Man has risen from the dead'.