Sáng ngày 01 tháng Hai, tức là ngày thứ hai trong chuyến tông du tại Cộng Hòa Dân Chủ Congo, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ trước sự tham dự của hơn một triệu tín hữu, tại phi trường Ndolo, của thủ đô Kinshasa. Thánh lễ này là thánh lễ cầu cho công lý và hòa bình, được cử hành bằng tiếng Pháp và tiếng Lingala thông dụng ở địa phương.
Đây là thánh lễ công cộng duy nhất Đức Thánh Cha cử hành trong ba ngày viếng thăm tại Cộng hòa Dân chủ Congo và là hoạt động đầu tiên trong ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm tại nước này.
Lúc 8 giờ 40 sáng, Đức Thánh Cha từ Tòa Sứ thần đến phi trường Ndolo, cách đó tám cây số rưỡi, và dành hơn nửa giờ đồng hồ tiến qua các lối đi ở sân bay để chào thăm các tín hữu, được phân phối trong 34 khu vực. Họ đến từ các nơi ở Congo và cả các nước láng giềng để tham dự thánh lễ duy nhất của Đức Thánh Cha, 34 năm sau cuộc viếng thăm của một vị Giáo hoàng. Nhiều tín hữu đến đây hàng giờ trước thánh lễ. Họ ca hát tưng bừng, với những cử điệu theo tiếng hát và tiếng trống. Có cả những người ngủ hai đêm trước đó tại sân cỏ của phi trường để được chỗ tốt. Để dân chúng có thể đến dự lễ, chính quyền Congo đã tuyên bố ngày 01 tháng Hai là lễ nghỉ toàn quốc. Các trường học và công xưởng, văn phòng đóng cửa.
Trong số những người hiện diện, có ông bà Tổng thống và nhiều giới chức trong chính quyền Congo. Phần thánh ca trong buổi lễ do một ca đoàn tổng hợp, gồm 700 ca viên đảm trách.
Đồng tế với Đức Thánh Cha, có hàng trăm Hồng Y và giám mục thuộc đoàn tùy tùng của Đức Thánh Cha, từ 48 giáo phận Congo và các nước láng giềng, cùng với hàng ngàn linh mục.
Đức Hồng Y Ambongo Besungu, Tổng giám mục Kinshasa đã đọc và cử hành các nghi lễ tại bàn thờ thay Đức Thánh Cha, khi ngài ngồi tại chỗ.
Esengo, niềm vui: được nhìn thấy và gặp gỡ anh chị em là một niềm vui lớn. Tôi đã rất mong chờ thời điểm này; chúng ta đã phải đợi sang một năm mới để gặp nhau! Cảm ơn anh chị em đã ở đây!
Tin Mừng vừa kể cho chúng ta rằng niềm vui của các môn đệ vào chiều Phục Sinh cũng rất lớn, và niềm vui này bùng nổ “khi họ thấy Chúa” (Ga 20:20). Trong bầu không khí hân hoan và kinh ngạc này, Chúa Giêsu Phục Sinh nói với họ. Ngài nói gì với họ? Thưa: Trên hết, bốn từ đơn giản: “Bình an cho anh em!” (câu 19). Một lời chào, nhưng hơn cả một lời chào: đó là một món quà. Bởi vì bình an, bình an đã được các thiên thần loan báo trong đêm Người Giáng Sinh tại Bêlem (x. Lc 2,14), bình an mà Chúa Giêsu đã hứa để lại cho các môn đệ (x. Ga 14,27), nay là bình an đầu tiên được trang trọng trao cho họ. Bình an của Chúa Giêsu, cũng được ban cho chúng ta trong mỗi Thánh Lễ, là bình an Phục Sinh: bình an đến từ sự phục sinh, vì trước tiên Chúa phải đánh bại kẻ thù của chúng ta là tội lỗi và sự chết, và hòa giải thế gian với Chúa Cha. Ngài đã phải cảm nghiệm sự cô đơn và bị bỏ rơi của chúng ta, địa ngục của chúng ta, đón nhận và xóa bỏ khoảng cách ngăn cách chúng ta với cuộc sống và hy vọng. Giờ đây, sau khi xóa bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người, Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ.
Chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của các môn đệ. Ngày hôm đó, họ hoàn toàn chết điếng trong lòng bởi tai tiếng thập giá, bị tổn thương nội tâm vì đã trốn chạy và bỏ rơi Chúa Giêsu, thất vọng trước cách cuộc đời của Người kết thúc và sợ rằng cuộc đời của họ cũng sẽ kết thúc một cách tương tự. Họ cảm thấy tội lỗi, thất vọng, buồn phiền và sợ hãi… Tuy nhiên, Chúa Giêsu đến và công bố bình an, ngay cả khi lòng các môn đệ của Ngài đang chán nản. Ngài công bố sự sống, ngay cả khi họ cảm thấy bị bao vây bởi cái chết. Nói cách khác, bình an của Chúa Giêsu đến vào chính thời điểm mà họ, một cách đột ngột và ngạc nhiên, cảm thấy dường như mọi sự đã trôi qua đối với họ, thậm chí không có lấy một tia bình an. Đó là điều Chúa làm: Ngài làm chúng ta ngạc nhiên; Ngài nắm lấy tay chúng ta khi chúng ta sa ngã; Ngài nâng chúng ta lên khi chúng ta đang chạm đáy. Anh chị em thân mến, với Chúa Giêsu, sự dữ không bao giờ chiến thắng, sự dữ không bao giờ có tiếng nói chung cuộc. “Vì Người là bình an của chúng ta” (Eph 2:14), và bình an của Người luôn chiến thắng. Do đó, chúng ta, những người thuộc về Chúa Giêsu, không bao giờ được khuất phục trước nỗi buồn; chúng ta không được cho phép thái độ cam chịu và chủ nghĩa định mệnh nắm giữ chúng ta. Mặc dù bầu không khí đó ngự trị xung quanh chúng ta, nhưng chúng ta không thể như thế. Trong một thế giới chán nản vì bạo lực và chiến tranh, tín hữu của Chúa Kitô phải giống như Chúa Giêsu. Như để nhấn mạnh điểm này, Chúa Giêsu nói với các môn đệ một lần nữa: Bình an cho anh em! (x. Ga 20:19, 21). Chúng ta được mời gọi để biến sứ điệp hòa bình bất ngờ và mang tính tiên tri của Chúa thành của chúng ta và công bố nó trước thế giới.
Đồng thời, chúng ta có thể tự hỏi: làm thế nào chúng ta có thể gìn giữ và vun trồng bình an của Chúa Giêsu? Chính ngài chỉ ra ba nguồn bình an, ba nguồn mà chúng ta có thể rút ra khi tiếp tục nuôi dưỡng hòa bình. Đó là sự tha thứ, cộng đồng và sứ mệnh.
Chúng ta hãy nhìn vào nguồn đầu tiên: sự tha thứ. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha” (c. 23). Tuy nhiên, trước khi trao quyền tha thứ cho các tông đồ, Người đã tha thứ cho họ, không phải bằng lời nói mà bằng một hành động, hành động đầu tiên của Chúa Phục Sinh. Tin Mừng cho chúng ta biết rằng, “Người cho họ xem tay và cạnh sườn Người” (c. 20). Chúa Giêsu cho họ thấy những vết thương của Người. Ngài cho họ thấy vết thương của mình, bởi vì sự tha thứ được sinh ra từ những vết thương. Nó được sinh ra khi vết thương của chúng ta không để lại vết sẹo hận thù, nhưng trở thành phương tiện để chúng ta nhường chỗ cho người khác và chấp nhận những điểm yếu của họ. Điểm yếu của chúng ta trở thành cơ hội, và sự tha thứ trở thành con đường dẫn đến hòa bình. Điều này không có nghĩa là chúng ta quay đi và hành động như thể không có gì thay đổi; thay vào đó, chúng ta mở lòng yêu thương người khác. Đó là những gì Chúa Giêsu làm: đối mặt với nỗi buồn và sự xấu hổ của những người đã chối bỏ Người và chạy trốn, Người cho thấy những vết thương của mình và mở ra nguồn mạch của lòng thương xót. Ngài không nói nhiều, nhưng mở rộng trái tim bị tổn thương của Ngài, để nói với chúng ta rằng Ngài luôn luôn bị tổn thương vì tình yêu dành cho chúng ta.
Anh chị em thân mến, khi cảm giác tội lỗi và nỗi buồn xâm chiếm chúng ta, khi mọi việc không suôn sẻ, chúng ta biết tìm kiếm ở đâu? Thưa: từ những vết thương của Chúa Giêsu, Đấng luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta bằng tình yêu thương vô biên của Người. Ngài biết vết thương của anh chị em; Ngài biết những vết thương của đất nước anh chị em, con người anh chị em, vùng đất của anh chị em! Chúng là những vết thương nhức nhối, liên tục bị nhiễm độc bởi hận thù và bạo lực, trong khi liều thuốc công lý và liều thuốc hy vọng dường như không bao giờ đến. Anh chị em ơi, Chúa Giêsu đau khổ với anh chị em. Ngài nhìn thấy những vết thương mà anh chị em mang trong mình, và Ngài mong muốn được an ủi và chữa lành cho anh chị em; Ngài trao cho anh chị em trái tim bị tổn thương của Ngài. Trong tâm hồn anh chị em, Thiên Chúa lặp lại những lời Người đã nói hôm nay qua ngôn sứ Isaia: “Ta sẽ chữa nó cho lành, sẽ dẫn nó đi và cho nó đầy tràn an ủi” (Is 57:18).
Cùng nhau, chúng ta tin rằng Chúa Giêsu luôn ban cho chúng ta khả năng được tha thứ và bắt đầu lại, cũng như sức mạnh để tha thứ cho chính mình, tha nhân và lịch sử! Đó là điều Chúa Kitô muốn. Người muốn xức dầu cho chúng ta bằng sự tha thứ của Người, ban cho chúng ta bình an và can đảm để đến lượt mình tha thứ cho người khác, can đảm ban cho người khác một đại xá trong lòng. Thật tốt biết bao khi chúng ta gột rửa tâm hồn mình khỏi sự tức giận và lòng oán ghét, khỏi mọi dấu vết của oán giận và thù địch! Anh chị em thân mến, xin cho hôm nay là thời gian ân sủng để anh chị em đón nhận và cảm nghiệm sự tha thứ của Chúa Giêsu! Cầu mong đây là thời điểm thích hợp cho những ai đang mang những gánh nặng trong lòng và mong mỏi chúng được trút bỏ để một lần nữa được thở phào nhẹ nhõm. Và ước gì đây là thời điểm tốt cho tất cả các anh chị em ở đất nước này, những người tự gọi mình là Kitô hữu nhưng lại tham gia vào bạo lực. Chúa đang nói với anh chị em: “Hãy hạ cánh tay xuống, ôm lấy lòng thương xót”. Đối với tất cả những người bị thương và bị áp bức của dân tộc này, Ngài đang nói: “Đừng ngại chôn vùi vết thương của anh em trong vết thương của Thầy”. Anh chị em, chúng ta hãy làm điều này. Đừng sợ lấy cây thánh giá khỏi cổ và trong túi ra, cầm lấy nó giữa hai tay và ôm nó vào lòng, để chia sẻ những vết thương của anh chị em với những vết thương của Chúa Giêsu. Sau đó, khi anh chị em trở về nhà, hãy lấy cây thánh giá trên tường và ôm lấy nó. Hãy cho Chúa Kitô cơ hội để chữa lành trái tim anh chị em, hãy trao quá khứ của anh chị em cho Ngài, cùng với tất cả những nỗi sợ hãi và vấn nạn của anh chị em. Thật là một điều đẹp đẽ biết bao khi mở cửa lòng anh chị em và ngôi nhà của anh chị em cho sự bình an của Ngài! Và tại sao không viết những lời đó của Ngài lên tường của anh chị em, viết những lời ấy trên quần áo của anh chị em, và đặt những lời ấy như một dấu hiệu trên các ngôi nhà của anh chị em: Bình an cho anh chị em! Hiển thị những từ này sẽ là một tuyên bố tiên tri cho đất nước của anh chị em, và một phước lành của Chúa cho tất cả những người anh chị em gặp. Bình an cho anh chị em: chúng ta hãy lãnh nhận sự tha thứ từ Thiên Chúa và đến lượt chúng ta cũng tha thứ cho nhau!
Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào nguồn hòa bình thứ hai: cộng đồng. Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ nói với một trong các môn đệ của Người; Ngài xuất hiện với họ trong một nhóm. Về điều này, cộng đồng Kitô giáo đầu tiên, Ngài ban bình an của mình. Không có Kitô giáo nếu không có cộng đồng, cũng như không có hòa bình nếu không có tình huynh đệ. Nhưng với tư cách là một cộng đồng, chúng ta đang hướng về đâu, chúng ta sẽ tìm thấy bình yên ở đâu? Chúng ta hãy nhìn lại các môn đệ. Trước lễ Phục sinh, họ đi sau Chúa Giêsu, nhưng vẫn tiếp tục suy nghĩ theo cách của con người: họ hy vọng vào một Đấng cứu thế chiến thắng, người sẽ đánh bại kẻ thù của mình, làm nên những điều kỳ diệu và phép lạ, đồng thời làm cho họ trở nên giàu có và nổi tiếng. Thế nhưng những ước muốn trần tục đó đã khiến họ trắng tay và cướp đi sự bình an của cộng đoàn, làm nảy sinh những tranh cãi và chống đối (x. Lc 9:46; 22:24). Chúng ta đối mặt với cùng một mối nguy hiểm: ở với người khác, nhưng lại đi con đường của riêng mình; trong xã hội, và ngay cả trong Giáo hội, chúng ta tìm kiếm quyền lực, sự nghiệp, tham vọng của riêng mình… Chúng ta đi theo con đường của riêng mình thay vì con đường của Chúa, và chúng ta kết thúc giống như các môn đệ: đằng sau những cánh cửa đóng kín, không có hy vọng, và đầy sợ hãi và thất vọng.. Tuy nhiên, vào Lễ Phục Sinh, một lần nữa họ tìm thấy con đường dẫn đến hòa bình, nhờ Chúa Giêsu, Đấng thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20:22). Nhờ Chúa Thánh Thần, họ sẽ không còn nhìn vào những gì chia rẽ họ, nhưng nhìn vào những gì liên kết họ. Họ sẽ đi ra thế giới không còn cho bản thân họ, mà cho những người khác; không phải để thu hút sự chú ý, mà để mang lại hy vọng; không phải để được chấp thuận, nhưng để sống cuộc đời của họ một cách vui vẻ cho Chúa và cho những người khác.
Thưa anh chị em, luôn luôn có mối nguy hiểm là chúng ta có thể đi theo tinh thần của thế gian thay vì Thánh Linh của Đấng Kitô. Làm thế nào chúng ta có thể cưỡng lại sự cám dỗ của quyền lực và tiền bạc và không đầu hàng trước sự chia rẽ, trước những cám dỗ của sự nghiệp làm xói mòn cộng đồng, và trước những ảo tưởng sai lầm về lạc thú và những trò phù thủy khiến chúng ta trở nên ích kỷ và tự cho mình là trung tâm? Một lần nữa, qua ngôn sứ Isaia, Chúa chỉ đường cho chúng ta. Ngài nói với chúng ta: “Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan nát,để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung, và ban sinh lực cho những cõi lòng tan nát” (Is 57:15). Cách thức của Ngài là chia sẻ với người nghèo: đó là liều thuốc giải độc tốt nhất chống lại những cám dỗ của sự chia rẽ và tính thế tục. Có can đảm để nhìn đến người nghèo và lắng nghe họ, bởi vì họ là thành viên của cộng đồng chúng ta và không phải là những người xa lạ bị giữ xa tầm mắt và lương tâm của chúng ta. Chúng ta hãy mở lòng với người khác, thay vì đóng kín trong những vấn đề của riêng mình hoặc những mối quan tâm hời hợt. Chúng ta hãy bắt đầu từ những người nghèo và chúng ta sẽ khám phá ra rằng tất cả chúng ta đều chia sẻ sự nghèo khó nội tâm, rằng tất cả chúng ta đều cần Thần Khí của Thiên Chúa để giải thoát chúng ta khỏi tinh thần thế tục, và rằng sự khiêm nhường là sự cao cả và tình huynh đệ là của cải đích thực của mọi Kitô hữu. Chúng ta hãy tin tưởng vào cộng đồng và, với sự giúp đỡ của Chúa, xây dựng một Giáo hội thoát khỏi tinh thần thế tục và tràn đầy Chúa Thánh Thần, không quan tâm đến việc tích trữ của cải và tràn đầy tình yêu anh em!
Cuối cùng, chúng ta đến với nguồn bình an thứ ba: truyền giáo. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20:21). Người sai chúng ta như Chúa Cha đã sai Người. Thế nhưng Chúa Cha đã sai Người đến thế gian như thế nào? Thưa: Chúa Cha đã sai Người đi phục vụ và hiến mạng sống vì nhân loại (x. Mc 10:45), để tỏ lòng thương xót với từng người (x. Lc 15) và tìm kiếm những người ở xa (x. Mt 9:13). ). Tóm lại, Chúa Cha đã sai Người đến với mọi người: không chỉ cho người công chính, mà còn cho tất cả mọi người. Về phương diện này, những lời của ngôn sứ Isaia một lần nữa vang vọng: “Bình an, bình an cho khắp xa gần, Chúa phán như thế,” (Is 57:19). Đầu tiên là những người ở xa, rồi đến những người ở gần: chứ không chỉ cho “riêng chúng ta”, mà là cho tất cả mọi người.
Thưa anh chị em, chúng ta được kêu gọi trở thành những nhà truyền giáo của hòa bình, và điều này sẽ mang lại hòa bình cho chúng ta. Đó là một quyết định mà chúng ta phải đưa ra. Chúng ta cần tìm chỗ trong trái tim mình cho mọi người; tin rằng sự khác biệt về sắc tộc, khu vực, xã hội, tôn giáo và văn hóa chỉ là thứ yếu và không phải là trở ngại; rằng những người khác là anh chị em của chúng ta, là thành viên của cùng một cộng đồng nhân loại; và hòa bình do Chúa Giêsu mang đến cho thế giới là dành cho tất cả mọi người. Chúng ta cần tin rằng Kitô hữu chúng ta được kêu gọi hợp tác với mọi người, để phá vỡ chu kỳ bạo lực, để phá bỏ những âm mưu thù hận. Vâng, các Kitô hữu, được Chúa Kitô sai đến, được gọi theo định nghĩa là lương tâm của hòa bình trong thế giới của chúng ta. Không chỉ đơn thuần là những lương tâm phê phán, mà chủ yếu là những chứng nhân của tình yêu. Không quan tâm đến quyền lợi riêng của họ, nhưng đến những quyền lợi của Tin Mừng, đó là tình huynh đệ, tình yêu và sự tha thứ. Không quan tâm đến công việc của mình, mà là những người truyền giáo về “tình yêu điên cuồng” của Thiên Chúa dành cho mỗi con người.
Bình an cho anh chị em, hôm nay Chúa Giêsu nói với mọi gia đình, cộng đồng, nhóm sắc tộc, khu phố và thành phố trên đất nước vĩ đại này. Bình an cho anh chị em! Xin cho những lời này của Chúa chúng ta vang vọng trong sự thinh lặng của trái tim chúng ta. Chúng ta hãy nghe những lời ấy nói với chúng ta và chúng ta hãy chọn trở thành chứng nhân của sự tha thứ, những người xây dựng cộng đồng, những người mang sứ mệnh hòa bình trong thế giới của chúng ta.
Moto azalí na matóyi ma koyóka Xin cho những ai có tai được nghe
Moto azalí na motéma mwa kondima Xin cho những tâm hồn được đồng thuận với nhau
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana