1. Linh mục đòi công lý cho người anh em linh mục của mình
Các quan chức chính phủ Việt Nam đã nói rằng người đàn ông đã sát hại dã man Linh mục Giuse Trần Ngọc Thanh vào ngày 29 tháng Giêng là “tâm thần không ổn định”. Nhưng Cha Antôn Đặng Hữu Nam, Giáo phận Vinh, không tin đó là động cơ thực sự của Nguyễn Văn Kiên, kẻ sát nhân. Ngài đòi công lý cho Cha Giuse Thanh. Như hầu hết những người Công Giáo Việt Nam, ngài lo sợ rằng vụ giết người có thể nhằm mục đích cảnh báo, nhằm ngăn cản những nhà truyền giáo Công Giáo đến làm việc tại khu vực Tây Nguyên của đất nước.
Cha Antôn Đặng Hữu Nam được biết đến rộng rãi với công chúng vì đã lên tiếng phản đối việc phá hủy môi trường và lạm dụng nhân quyền ở Việt Nam. Năm 2016, khi làm chánh xứ Tân Yên. Cha Antôn Đặng Hữu Nam đã giúp những người dân có cuộc sống và sinh kế bị ảnh hưởng trực tiếp bởi việc đổ chất thải độc hại được cho là do công ty Đài Loan Formosa Plastics Group ở miền Trung Việt Nam gây ra, đệ trình 506 đơn kiện chống lại công ty này. Các yêu cầu bồi thường đã bị tòa án địa phương bác bỏ và các nguyên đơn liên tục bị quấy rối, đe dọa và tấn công thể lý. Cha Antôn Đặng Hữu Nam cũng bị côn đồ của chính phủ rình rập và hành hung.
Giáo dân đã nhiều lần ra tay cứu giúp, và bề trên của ngài, lúc đó là Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã từ chối áp đặt các hạn chế đối với Cha Antôn Đặng Hữu Nam theo yêu cầu của nhà cầm quyền tỉnh Nghệ An, cho phép Antôn Đặng Hữu Nam tiếp tục đấu tranh đòi công lý cho các nạn nhân của vụ đổ hóa chất và sau đó là cái chết thương tâm của 39 nạn nhân, nhiều người đến từ giáo phận của ngài vào ngày 23 tháng 10 năm 2019 tại Anh khi bị các nhóm buôn người đưa lậu vào Anh.
2. Nhật ký trừ tà số 177: Địa ngục của sự cố chấp, không tha thứ
Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài vừa có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #177: The Hell of Unforgiveness”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà số 177: Địa ngục của sự cố chấp, không tha thứ”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Giữa cuộc trừ tà, K bắt đầu kêu lên, “Tôi không thể thoát ra được! Anh ta không cho tôi ra ngoài”. Tôi hỏi, “Anh ta là ai?” Cô ấy trả lời, “Baphomet.” Cô ấy nói thêm, “Anh ấy nói rằng tôi đã phá thai và cổng địa ngục đã khóa lại.”
Baphomet là tên của một con quỷ được được các nhóm thờ Satan tôn thờ, sau đó được kết hợp vào nhiều truyền thống huyền bí và ma thuật khác nhau. Cái tên Baphomet xuất hiện trong các bản cáo trạng của Tòa án Dị giáo bắt đầu từ năm 1307. Nó lần đầu tiên được sử dụng phổ biến trong tiếng Anh vào thế kỷ 19 trong các tường trình liên quan đến các nhóm thờ Satan.
K đã phá thai nhiều năm trước và những con quỷ bây giờ đang sử dụng tội lỗi của cô ấy để chống lại cô ấy. Cô khóc nức nở nói rằng những con quỷ đang khiến cô cảm thấy, về mặt tình cảm và thể chất, giống như cô đang trải qua lần phá thai một lần nữa.
Hết lần này đến lần khác, cha cô nói với cô rằng cô đã được tha thứ. Ông nói yêu thương cô ấy và đã tha thứ cho cô ấy. Tôi nói với cô ấy rằng Chúa Giêsu đã tha thứ cho cô ấy và Thập tự giá của Chúa Kitô đã mở tung các cánh cổng. Nhưng, trong địa ngục, cô không thể nghe thấy điều đó. Cô ấy liên tục nói rằng cổng đã bị khóa và cô ấy không thể ra ngoài. Cô ấy đang hoảng sợ.
Khi ma quỷ xuất hiện, người đau khổ thường cảm thấy những gì ma quỷ cảm thấy và thường trải nghiệm thế giới đen tối của chúng. Vì vậy, họ trải nghiệm các khía cạnh của địa ngục. K đã ở trong địa ngục khi phải đối mặt với sự tàn phá của tội lỗi và sự vô vọng của cảm giác không được Chúa tha thứ. Cô ấy đang ở nơi khốn nạn đời đời.
Cả cha cô và tôi đều cảm thấy bất lực trong việc cố gắng thuyết phục cô ấy nhìn theo cách khác. Trong khi cô ấy đang ở trong “địa ngục” của mình, chúng tôi không thể. Thay vào đó, chúng tôi phải cố gắng vượt lên trước trong các phiên trừ tà, bất chấp những tiếng kêu la và hoảng sợ của cô ấy, và đuổi quỷ càng nhanh càng tốt. Một lễ trừ tà là một thứ rất gian nan.
Vào cuối buổi trừ tà, K quay trở lại với chúng tôi và lũ quỷ đã biến mất, ít nhất là tạm thời. Những lời đầu tiên của cô ấy là, “Tôi muốn đi xưng tội.” *
Kinh nghiệm của K có điều gì đó muốn nói với tất cả chúng ta. Hãy thú nhận tội lỗi của bạn khi bạn vẫn còn thời gian. Trong địa ngục, thời gian đã qua.
*K nói với cha cô rằng cô đã thú nhận tội lỗi trước đây nhưng muốn đi xưng tội lần nữa. Mặc dù những tội lỗi đã thú nhận thực sự được xóa bỏ trước mắt Chúa, nhưng kinh nghiệm của tôi với tư cách là một nhà trừ tà là ma quỷ quan sát hành vi tội lỗi trong quá khứ của chúng ta và có thể chế nhạo chúng ta, cố gắng khiến chúng ta tin rằng chúng ta không được tha thứ hoặc không thể thứ tha. Đây lại là một lời nói dối khác của ma quỷ.
Source:Catholic Exorcisms
3. Đức Giáo Hoàng tái cấu trúc Bộ Giáo Lý Đức Tin, cung cấp các tài nguyên để xử lý các trường hợp lạm dụng
Mục đích của cuộc cải cách là dành tầm quan trọng thích đáng cho phần giáo lý của Bộ Giáo lý Đức tin, và vai trò cơ bản của Bộ này trong việc thúc đẩy đức tin.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã sửa đổi cấu trúc nội bộ của Bộ Giáo lý Đức tin, gọi tắt là CDF, bằng cách thiết lập hai phần riêng biệt, một phần giáo lý và một phần kỷ luật, mỗi phần có thư ký riêng. Bây giờ, Đức Hồng Y tổng trưởng của Bộ sẽ có hai cấp phó. Vị tổng trưởng hiện nay là Đức Hồng Y Luis Francisco Ladaria Ferrer, 77 tuổi.
Những thay đổi được nêu ra trong một Tông Thư dưới dạng Tự Sắc có tiêu đề Fidem Servare, nghĩa là “Gìn Giữ Đức Tin” (xem 2 Timôthê 4: 7).
Mục đích của cuộc cải cách là nhằm nâng cao tầm quan trọng của phần giáo lý và vai trò cơ bản của Bộ Giáo Lý Đức Tin trong việc quảng bá đức tin, mà không làm giảm hoạt động kỷ luật của hội thánh. Điều này xảy ra sau nhiều thập kỷ, trong đó rất nhiều nỗ lực và nhân lực đã được đưa ra để xem xét các trường hợp lạm dụng tính dục của hàng giáo sĩ. Với cấu trúc mới, mỗi bộ phận, với một thư ký riêng, sẽ có quyền hạn và quyền tự chủ cao hơn.
CDF hiện có khoảng 50 nhân viên.
Phục Vụ Kho Tàng Đức Tin
Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích trong Tự Sắc Fidem Servare, “gìn giữ đức tin,” là “nhiệm vụ chính, cũng như tiêu chí cuối cùng phải tuân theo trong đời sống của Giáo hội”.
Phần Giáo lý “giải quyết các vấn đề liên quan đến việc quảng bá và bảo vệ giáo lý đức tin và đạo đức. Phần này cũng thúc đẩy các nghiên cứu nhằm tăng cường sự hiểu biết và truyền tải đức tin nhằm phục vụ cho việc truyền bá phúc âm hóa, để ánh sáng Tin Mừng có thể là tiêu chuẩn để hiểu ý nghĩa của sự tồn tại nhân sinh, đặc biệt khi đối mặt với những câu hỏi đặt ra bởi sự tiến bộ của khoa học và sự phát triển của xã hội”. Nó cũng kiểm tra các tài liệu được xuất bản bởi các giáo phái khác, cũng như các bài viết và ý kiến “có vẻ có vấn đề đối với đức tin đúng đắn, khuyến khích đối thoại với các tác giả và đề xuất các biện pháp khắc phục phù hợp.”
Phần này cũng được giao nhiệm vụ nghiên cứu các câu hỏi liên quan đến các giáo hạt tòng nhân của các cựu thành viên Anh giáo; và sự quản lý của Văn phòng Hôn nhân, là cơ quan liên quan điều gọi là “privilegium fidei” hay “đặc ân Đức Tin” và xem xét việc giải thể các cuộc hôn nhân giữa hai người chưa được rửa tội hoặc giữa một người đã được rửa tội và một người chưa được rửa tội.
Privilegium fidei hay đặc ân đức tin nghĩa là gì?
Khi hôn phối được thành lập hữu hiệu thì tạo nên dây ràng buộc không thể tháo gỡ, bất kỳ là hôn phối được cử hành theo thể thức Công Giáo hay ngoài Công Giáo như của Tin Lành hay của người lương. Tuy nhiên trong một số trường hợp, hôn nhân có thể được tháo gỡ bởi “đặc ân Thánh Phaolô” hay “đặc ân Đức Tin”. Đặc ân Thánh Phaolô, được ban theo những nguyên tắc luật, tháo cởi dây hôn phối giữa hai người lương, nghĩa là giữa hai người không được rửa tội, khi một trong hai người ấy theo đạo Công Giáo. Đặc ân Đức Tin, được ban bởi Đức Giáo Hoàng, tháo cởi dây hôn phối mà ít nhất một trong hai người đã được rửa tội, ví dụ tháo cởi hôn nhân giữa hai người lương mà bên lương không chịu theo đạo, hoặc hôn nhân khác đạo đã cử hành hữu hiệu.
Đặc ân này có mục đích trợ giúp đức tin cho người tân tòng, dựa trên giáo huấn của Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gởi các tín hữu thành Côrintô:
Còn với những người khác, thì tôi nói, chính tôi chứ không phải Chúa: nếu anh em nào có vợ ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng rẫy vợ. Người vợ nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng bỏ chồng. Thật vậy, chồng ngoại đạo được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hóa nhờ người chồng có đạo. Chẳng vậy, con cái anh em sẽ là ô uế, trong khi thật ra chúng là thánh. Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia, thì cứ bỏ; trong trường hợp đó, chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân ràng buộc: Thiên Chúa đã kêu gọi anh em sống bình an với nhau! Chị là vợ, biết đâu chị chẳng cứu được chồng? Hay anh là chồng, biết đâu anh chẳng cứu được vợ? (1Cr 7:12-16)
Các tội phạm liên quan đến giáo luậtPhần Kỷ luật xử lý các tội phạm được dành cho phán quyết của Bộ Giáo Lý Đức Tin, được xét xử bởi Tòa án Tông đồ Tối cao được thành lập tại Bộ này.
Phần này có nhiệm vụ “chuẩn bị và thực hiện các thủ tục được dự đoán trước bởi các quy tắc giáo luật để Thánh bộ, thông qua các văn phòng khác nhau của mình (Tổng trưởng, Thư ký, Chưởng lý, Công nghị, các Phiên họp thường lệ, và khoáng đại để xem xét các kháng cáo trong các vấn đề liên quan đến các graviora delicta, tức là các lỗi phạm nghiêm trọng, ngõ hầu có thể thúc đẩy một nền hành chính công bằng đúng đắn.”
Vì mục đích này, phần kỷ luật “thúc đẩy các sáng kiến đào tạo thích hợp,” được cung cấp cho các Giám mục và những luật gia, “nhằm thúc đẩy sự hiểu biết đúng đắn và áp dụng các quy tắc giáo luật liên quan đến thẩm quyền của mình.”
Theo thông tin từ I.MEDIA, bộ phận kỷ luật sử dụng khoảng 20 người và giải quyết hơn 1,000 trường hợp lạm dụng mới do các giáo sĩ thực hiện mỗi năm. Theo một nguồn tin nội bộ, vào năm 2020, khoảng 60% các trường hợp được cứu xét bởi bộ phận kỷ luật liên quan đến các hành vi lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên, và những trường hợp này chủ yếu đến từ các khu vực mà hiện tượng lạm dụng đã trở nên phổ biến hơn - như Bắc Mỹ, Mỹ Latinh và Âu Châu.
Tự Sắc được xây dựng dựa trên quá trình bắt đầu vào năm 2001
Bằng cách trao quyền tự chủ cho từng phần, Tự Sắc mới này tiếp tục một quá trình bắt đầu vào năm 2001, dưới triều đại giáo hoàng của Thánh Gioan Phaolô II, để đối phó theo luật pháp với cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục do các giáo sĩ gây ra.
Với Tự Sắc “Sacramentorum Sanctitatis Tutela”, nghĩa là “Bảo Vệ Các Bí Tích Thánh Thiện”, được công bố vào năm 2001, hành vi lạm dụng tình dục của một giáo sĩ đối với trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi đã được CDF đưa vào danh sách các các lỗi phạm nghiêm trọng được giải quyết bởi CDF. Việc tập trung hóa các vụ việc ở Rôma là nhằm bù đắp cho những điểm yếu của các cơ quan tài phán địa phương.
Việc mở rộng nhiệm vụ của CDF được thúc đẩy bởi Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, lúc đó là Tổng Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, Ngài đã xuất bản vào ngày 18 tháng 5, 2001, một bức thư có tựa đề Deophitis Gravioribus, nghĩa là “Về Những Tội Lỗi Nghiêm Trọng” đưa ra các quy tắc xử lý nghiêm minh của mình về những vấn đề này.
Đức Bênêđíctô XVI đã sửa đổi các điều khoản này vào năm 2010, đáng chú ý là ngài kéo dài thời hiệu tố cáo lên 20 năm, thay vì 10 năm như trước đó. Tội mua, sở hữu hoặc phân tán nội dung khiêu dâm trẻ em cũng được đưa vào danh sách các tội lỗi nghiêm trọng.
Những cải cách mới nhất của Đức Thánh Cha Phanxicô
Ngày 7 tháng 12 năm 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cập nhật các quy tắc này, một vài tháng sau khi sửa đổi Quyển VI của Bộ Giáo luật, trong đó giới thiệu, trong số những điều khác, một điều khoản cụ thể về tội ác đối với trẻ vị thành niên.
Sự phát triển này theo sau hai Tự Sắc của Đức Giáo Hoàng Á Căn Đình, Vos estis lux mundi - 2019, bao gồm các quy tắc về trách nhiệm của các giám mục - và Come una madre amorevole - 2016.
Kho lưu trữ của Bộ Giáo Lý Đức Tin
Cuối cùng, Bộ Giáo Lý Đức Tin sở hữu một Kho lưu trữ để “bảo quản và tham khảo các tài liệu”, cũng là nơi lưu giữ các văn kiện lịch sử của thánh bộ trước đây.
Các quy định của Tông thư Fidem Servare có hiệu lực khi được công bố trên tờ Quan Sát Viên Rôma vào ngày 14 tháng 2 năm 2022. Văn bản của Tự Sắc sau đó sẽ được xuất bản trên Acta Apostolicae Sedis – Công báo Tòa Thánh.
Source:Aleteia