Nhật ký một chuyến đi
Từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 3 vừa qua, tôi có mặt ở Rôma để tham dự cuộc họp của Bộ Phụng Tự và lo một số công việc cho giáo phận nhà. Trong thời gian này, tôi được biết sức khoẻ của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có những dấu hiệu suy yếu khá trầm trọng, và ngài đã được đưa vào bệnh viện để điều trị. Dù biết thế nhưng lúc 3giờ 30 sáng Việt Nam ngày Chúa nhật 3.4.2005, khi hay tin Đức Giáo Hoàng vừa từ trần cách đó một giờ, tôi vẫn cảm thấy bàng hoàng như thể vừa mất mát một điều gì rất to lớn. Trong nhiều năm, Đức Gioan Phaolô II đã là nguồn cảm hứng cho tôi, cho đời sống cá nhân cũng như cho trách nhiệm làm giám đốc chủng viện và sau này làm giám mục. Mối quan hệ của tôi với ngài lại càng gần gũi hơn nữa khi ngài tín nhiệm trao Pallium cho tôi ngày 29.6.1998, và trao mũ và nhẫn Hồng Y cho tôi ngày 21 và 22.10.2003, cũng như qua những lần tiếp xúc cá nhân. Vì thế, sự ra đi của ngài để lại một khoảng trống không dễ lấp đầy. Cũng vì thế, vừa được tin ngài từ trần, tôi đã vội vã thu xếp công việc để lên đường sang Rôma, vừa để cùng với các Hồng Y lo việc tổ chức tang lễ cho Đức Cố Giáo Hoàng, vừa để chuẩn bị cho việc bầu vị Giáo Hoàng mới và dự lễ đăng quang của ngài.
Đây quả là những biến cố lớn trong đời sống Giáo hội vào những năm đầu của thế kỷ 21. Do đó, tôi muốn ghi lại đôi dòng về chuyến đi lịch sử này và gởi đến mọi người Công giáo Việt Nam, để anh chị em đồng cảm với Giáo Hội trong nỗi buồn cũng như niềm vui, âu lo cũng như hi vọng, và để tất cả chúng ta một lần nữa khám phá sự hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa trong Giáo hội cũng như trong thế giới.
GB. Phạm Minh Mẫn, Hồng y Tổng Giám Mục, Giáo phận TP. Hồ Chí Minh
Phần 1
ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II
Thứ Tư 6.4.2005
Sáng sớm ngày 6.4.2005, vừa tới phi trường Fiumicino, Rôma, tôi được thông báo là phải thay đổi chỗ trọ. Thay vì ở tại ngôi nhà quen thuộc với một số giám mục Việt Nam, tôi được đưa tới Trung Tâm Quốc Tế về Linh Hoạt Truyền Giáo (Centre International d’Animation Missionnaire, viết tắt CIAM) ngay sát Vatican, để có thể thường xuyên tham dự những cuộc họp hằng ngày của Hồng Y đoàn trong những ngày này. Không thể không nhắc đến ở đây sự quan tâm đặc biệt ân cần của Đức Hồng Y Sepe, Tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng. Chính ngài là người đã sắp xếp nơi ăn chốn ở, hơn thế nữa hằng ngày còn đích thân đánh xe đến đưa tôi đi họp.
Vừa ổn định chỗ trọ xong, tôi phải đi họp ngay vào lúc 10 giờ. Theo quy định của Giáo Hội, khi Đức Giáo Hoàng qua đời và Phủ Tông Toà trống ngôi, thì việc cai quản Giáo Hội cũng như quốc gia Vatican được thực hiện qua hai loại cuộc họp : (1) cuộc họp của Đức Hồng Y nhiếp chính (lần vừa rồi là Đức Hồng Y Eduardo Somalo Martinez) và 3 Hồng Y của 3 bậc Giám mục, Linh mục, và Phó tế; (2) các Hội Nghị (congrégation) do Đức Hồng Y Niên trưởng chủ toạ, cùng với sự tham dự của tất cả Hồng Y đoàn, kể cả các vị ngoài 80 tuổi. Những cuộc họp mà tôi tham dự là những hội nghị của tất cả Hồng Y đoàn. Những hội nghị này đã được bắt đầu từ ngày 4.4.2005, nhưng vì đến muộn, nên tôi chỉ bắt đầu tham dự kể từ ngày 6.4.2005, tức là Hội nghị IV. Tất cả các Hồng Y tham dự những cuộc họp này đều phải đặt tay lên Sách Thánh và đọc lời thề bằng tiếng La Tinh với nội dung chính là hứa sẽ giữ bí mật về các điều bàn thảo trong hội nghị. Văn phòng báo chí của Toà Thánh sẽ chỉ loan báo những tin tức được phép công bố mà thôi.
Hội nghị ngày 6.4.2005 do Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, niên trưởng của Hồng Y đoàn, chủ toạ với sự tham dự của 116 Hồng Y. Trong hội nghị này, các Hồng Y được thông báo về việc các phái đoàn của các quốc gia, các cộng đoàn Kitô giáo khác cũng như các tôn giáo ngoài Kitô giáo sẽ đến dự lễ tang. Sau đó, chúng tôi bàn về Tuần Cửu nhật cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và nghe đọc chúc thư của ngài. Đồng thời, chúng tôi cũng xác định ngày bắt đầu Mật Viện (bầu Giáo Hoàng mới) sẽ là ngày 18.4.2005, với Thánh Lễ ban sáng cầu nguyện cho việc bầu Giáo Hoàng, sau đó sẽ đi vào Nhà nguyện Sixtina để tiến hành việc bầu Giáo hoàng.
Vào buổi chiều ngày 6.4.2005, tôi hướng dẫn phái đoàn các linh mục, tu sĩ Việt Nam đang tu học tại Rôma vào Đền Thánh Phêrô để viếng thi hài Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trong những ngày này, cả triệu người từ khắp nơi trên thế giới đổ về Rôma với ước mong được nhìn thấy Đức Thánh Cha lần cuối và để tham dự lễ tang của ngài. Vì thế, không những quảng trường Thánh Phêrô và đại lộ Hoà Giải (đường dẫn vào quảng trường) mà cả nhiều con đường khác tại Rôma đều chật kín khách hành hương. Người ta phải xếp hàng trung bình từ 8 đến 12 giờ mới vào được bên trong Đền Thờ, và cũng chỉ được đi chung quanh nơi quàn thi hài Đức Thánh Cha một lần, vừa đi vừa thầm thĩ cầu nguyện. Điều đặc biệt đáng nói là phần lớn khách hành hương lại là những người trẻ. Thế mới biết là Đức Cố Giáo Hoàng đã để lại dấu ấn lớn lao như thế nào trong tâm hồn các tín hữu, nhất là các bạn trẻ.
Được một Hồng Y chính thức hướng dẫn, phái đoàn Việt Nam không phải xếp hàng lâu nhưng được đi theo một lối riêng, và khi đã vào trong, lại được đứng tại chỗ lâu hơn để chiêm ngắm Đức Thánh Cha và cầu nguyện. Giây phút đó, quỳ gần bên thi hài Đức Thánh Cha, tôi nhớ đến lời ngài đã nói lần nào đó với một đoàn tín hữu Việt Nam : “Việt Nam ở trong trái tim của Cha.” Việt Nam ở trong trái tim Đức Gioan Phaolô II, nhưng bây giờ ngài đã ra đi thì Việt Nam ở đâu, tôi tự hỏi. Và tôi chợt nhận ra câu trả lời : Việt Nam đang ở đây, ở giữa Vaticanô, ở giữa lòng Giáo Hội. Rất tình cờ, những ngày này lại là dịp quy tụ nhiều anh chị em Việt Nam từ nhiều nơi đổ về : từ Âu châu, từ Mỹ châu, và từ Việt Nam. Họ đến để tham dự các khoá tu đức và thường huấn, không ngờ lại là dịp quy tụ để thay mặt cho cả Giáo hội Việt Nam, bày tỏ lòng quý mến và thương tiếc Vị Cha chung mới qua đời. Việt Nam đang ở đây, giữa lòng Giáo Hội, được chuyển máu từ trái tim của Mẹ Giáo Hội,hiệp thông chặt chẽ với Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô, và góp phần xây dựng Nhiệm Thể Chúa từng ngày. Xin tạ ơn Chúa về sự quan phòng kỳ diệu này.
Thứ Năm 7.4.2005
Hội nghị V hôm nay có sự tham dự của 140 Hồng Y. Trong hội nghị này, Hồng Y đoàn đã trao cho Đức Hồng Y Edmund Casimir Szika trách nhiệm phát hành tiền và tem thư dịp Phủ Tông Toà trống ngôi, đồng thời bàn đến một số vấn đề liên hệ tới Thánh lễ An táng Đức Cố Giáo Hoàng và việc chôn cất ngài tại Hầm Mộ các Giáo Hoàng tại Đền thờ Thánh Phêrô. Ngoại giao đoàn đến chia buồn được các Hồng Y đón tiếp vào lúc 10 giờ ngày 13.4.2005. Hội nghị cũng xác định chương trình chi tiết ngày khai mạc Mật Viện : cử hành Thánh Lễ cầu cho việc bầu Giáo Hoàng mới lúc 10 giờ sáng; đến 16g30, các Hồng Y sẽ có mặt tại phòng Benedizione (thay vì Nhà nguyện Paolina) để từ đây rước kiệu tới Nhà nguyện Sixtina là nơi bầu Giáo Hoàng. Sau đó, các Hồng Y cũng bỏ phiếu để chọn hai vị sẽ hướng dẫn suy niệm về trách nhiệm nặng nề trong việc bầu Giáo Hoàng. Hai vị được chọn là cha Raniero Cantalamessa và Đức Hồng Y Toams Spidlik, S.J.
Chiều hôm nay 7.4.2005, lại một lần nữa, tôi hướng dẫn một phái đoàn Việt Nam đến viếng thi hài Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Phái đoàn gồm trên 50 linh mục, tu sĩ và giáo dân đến từ châu Mỹ, và theo lời đề nghị của tôi, tất cả đều mang khăn tang trắng. Hình ảnh một đoàn người mang khăn tang trắng trên vai đã gây ấn tượng lớn tại Đền Thờ Thánh Phêrô hôm đó. Các ống kính truyền hình tập trung vào đoàn Việt Nam, và hình ảnh này chắc chắn đã được truyền đến nhiều nơi trên thế giới. Trong văn hoá Việt Nam, khăn tang trắng diễn tả nỗi đau buồn của người còn sống khi người thân qua đời. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người Ba Lan chứ không phải Việt Nam nhưng ngài thực sự là người thân, rất thân, nói cho chính xác hơn nữa, ngài là một người Cha của mỗi tín hữu. Và như thế, ở tự nó, sự hiện diện của chiếc khăn tang trắng giữa lòng Đền Thánh Phêrô đã nói lên mầu nhiệm Giáo Hội, mầu nhiệm hiệp thông rộng lớn, vượt trên mọi biên giới của quốc gia, ngôn ngữ và chủng tộc. Đồng thời, sự hiện diện của những chiếc khăn tang trắng cũng nói lên dấu ấn của văn hoá Việt Nam trong đời sống của Giáo hội, một Giáo Hội phổ quát cho mọi dân tộc, nhưng cũng là một Giáo Hội ôm ấp lấy những giá trị và truyền thống văn hoá cao đẹp của mỗi dân tộc, làm nên vườn hoa sống động và tươi thắm của Nước Trời.
Thứ Sáu 8.4.2005
Thánh Lễ An Táng Đức Cố Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II
Sáng hôm nay, quảng trường Thánh Phêrô dường như là một thế giới thu nhỏ. Hầu hết đại diện cấp cao nhất của các quốc gia trên thế giới đều có mặt tại đây. Linh cữu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II - một cỗ quan tài hết sức đơn sơ và bình dị được đặt sát đất - đã trở thành điểm quy tụ của cả gia đình nhân loại. Còn hình ảnh nào đẹp hơn để diễn tả ý nghĩa của mầu nhiệm Giáo hội là dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự hiệp nhất giữa nhân loại với Thiên Chúa cũng như giữa nhân loại với nhau ! Còn chứng từ nào thuyết phục hơn để nêu cao sức mạnh yêu thương và hiệp nhất của Tin Mừng !
Trong bài giảng, dựa trên trình thuật Tin Mừng về cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và thánh Phêrô bên biển hồ Tibêria (Ga 21, 15-19), Đức Hồng Y Niên trưởng Ratzinger đã làm nổi bật chủ đề THEO CHÚA xuyên qua cuộc đời Đức Cố Giáo Hoàng.
Từ một chàng thanh niên say mê văn chương, thi ca và kịch nghệ, Karol Woyztyla đã can đảm giã từ tất cả để đáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu, tu học trong một giai đoạn hết sức khó khăn của đất nước, và cuối cùng lãnh nhận chức linh mục ngày 1.11.1946. Cuộc đời linh mục của cha Karol là lời đáp trả liên lỉ tiếng gọi của Thầy Chí Thánh để trở thành sứ giả Tin Mừng không mệt mỏi, đi đến mọi nơi và làm trổ sinh hoa trái trong triệu tâm hồn (x.Ga 15,16), và để trở thành mục tử tốt lành hiến mạng sống cho đoàn chiên (x. Ga 10,11). Sở dĩ sống được như thế là vì cha Karol đã “ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9), nhờ đó học được nghệ thuật yêu thương của Thầy Giêsu.
Đang lúc say mê với công việc nghiên cứu triết học và mục vụ giới trẻ, thì cha Karol Woyztyla lại một lần nữa chấp nhận giã từ những gì mình thích để đáp lại tiếng gọi của Thầy: trở thành giám mục. Quả thật, cha Karol đã sống theo Lời Chúa “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình thì sẽ giữ được” (Lc 17,33). Cha Karol đã không níu kéo gì lại cho mình nhưng hiến dâng tất cả cho Chúa Kitô, rồi Chúa cho ngài cảm nghiệm rằng chính những gì ngài tưởng như phải mất (văn chương, thi ca, kịch nghệ) thực ra lại đóng góp cách phong phú vào sứ vụ của ngài : rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Năm 1978, đáp lại câu hỏi của Thầy Giêsu : “Karol, con có yêu mến Thầy không ?” Đức Hồng Y Karol Woyztyla, Tổng giám mục Cracovia, đã trả lời : “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Và Thầy Giêsu nói : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (x. Ga 21,17). Tình yêu Chúa Kitô là sức mạnh lớn nhất trong cuộc đời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, và sức mạnh đó như một ngọn đuốc toả ra ánh sáng nồng ấm cuốn hút mọi người, nhất là các bạn trẻ.
“Hãy theo Thầy.” Đức Gioan Phaolô II đã theo Thầy suốt cả cuộc đời, và theo Thầy đến đỉnh thập giá. Trong những năm tháng cuối đời, ngài cảm nghiệm từng lời Chúa Kitô đã nói với Phêrô : “Khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21, 18). Tuy nhiên, Đức Gioan Phaolô II đã đón nhận mọi đau khổ trong sự hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô, và vì thế, chính những đau khổ đó lại trở thành sứ điệp hết sức thuyết phục và ích lợi cho toàn thế giới.
Đức Hồng Y Niên trưởng đã kết thúc bài giảng bằng một hình ảnh tuyệt vời : “Không ai trong chúng ta có thể quên rằng Chúa nhật Phục Sinh tuần trước, dù đau yếu, Đức Thánh Cha vẫn đến bên cửa sổ Phủ Tông Toà và một lần nữa ban phép lành cho toàn thế giới urbi et orbi. Chúng ta có thể chắc chắn rằng Đức Giáo Hoàng yêu quý của chúng ta giờ đây đang đứng bên cửa sổ Nhà Cha trên trời để nhìn chúng ta và chúc lành cho tất cả chúng ta. Vâng, thưa Đức Thánh Cha, xin Ngài chúc lành cho chúng con.”
Cả quảng trường oà lên tiếng vỗ tay vì hạnh phúc. Một kết thúc tuyệt đẹp của hành trình THEO CHÚA.
(còn tiếp...)
Từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 3 vừa qua, tôi có mặt ở Rôma để tham dự cuộc họp của Bộ Phụng Tự và lo một số công việc cho giáo phận nhà. Trong thời gian này, tôi được biết sức khoẻ của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có những dấu hiệu suy yếu khá trầm trọng, và ngài đã được đưa vào bệnh viện để điều trị. Dù biết thế nhưng lúc 3giờ 30 sáng Việt Nam ngày Chúa nhật 3.4.2005, khi hay tin Đức Giáo Hoàng vừa từ trần cách đó một giờ, tôi vẫn cảm thấy bàng hoàng như thể vừa mất mát một điều gì rất to lớn. Trong nhiều năm, Đức Gioan Phaolô II đã là nguồn cảm hứng cho tôi, cho đời sống cá nhân cũng như cho trách nhiệm làm giám đốc chủng viện và sau này làm giám mục. Mối quan hệ của tôi với ngài lại càng gần gũi hơn nữa khi ngài tín nhiệm trao Pallium cho tôi ngày 29.6.1998, và trao mũ và nhẫn Hồng Y cho tôi ngày 21 và 22.10.2003, cũng như qua những lần tiếp xúc cá nhân. Vì thế, sự ra đi của ngài để lại một khoảng trống không dễ lấp đầy. Cũng vì thế, vừa được tin ngài từ trần, tôi đã vội vã thu xếp công việc để lên đường sang Rôma, vừa để cùng với các Hồng Y lo việc tổ chức tang lễ cho Đức Cố Giáo Hoàng, vừa để chuẩn bị cho việc bầu vị Giáo Hoàng mới và dự lễ đăng quang của ngài.
Đây quả là những biến cố lớn trong đời sống Giáo hội vào những năm đầu của thế kỷ 21. Do đó, tôi muốn ghi lại đôi dòng về chuyến đi lịch sử này và gởi đến mọi người Công giáo Việt Nam, để anh chị em đồng cảm với Giáo Hội trong nỗi buồn cũng như niềm vui, âu lo cũng như hi vọng, và để tất cả chúng ta một lần nữa khám phá sự hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa trong Giáo hội cũng như trong thế giới.
GB. Phạm Minh Mẫn, Hồng y Tổng Giám Mục, Giáo phận TP. Hồ Chí Minh
Phần 1
ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II
Thứ Tư 6.4.2005
Sáng sớm ngày 6.4.2005, vừa tới phi trường Fiumicino, Rôma, tôi được thông báo là phải thay đổi chỗ trọ. Thay vì ở tại ngôi nhà quen thuộc với một số giám mục Việt Nam, tôi được đưa tới Trung Tâm Quốc Tế về Linh Hoạt Truyền Giáo (Centre International d’Animation Missionnaire, viết tắt CIAM) ngay sát Vatican, để có thể thường xuyên tham dự những cuộc họp hằng ngày của Hồng Y đoàn trong những ngày này. Không thể không nhắc đến ở đây sự quan tâm đặc biệt ân cần của Đức Hồng Y Sepe, Tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng. Chính ngài là người đã sắp xếp nơi ăn chốn ở, hơn thế nữa hằng ngày còn đích thân đánh xe đến đưa tôi đi họp.
Vừa ổn định chỗ trọ xong, tôi phải đi họp ngay vào lúc 10 giờ. Theo quy định của Giáo Hội, khi Đức Giáo Hoàng qua đời và Phủ Tông Toà trống ngôi, thì việc cai quản Giáo Hội cũng như quốc gia Vatican được thực hiện qua hai loại cuộc họp : (1) cuộc họp của Đức Hồng Y nhiếp chính (lần vừa rồi là Đức Hồng Y Eduardo Somalo Martinez) và 3 Hồng Y của 3 bậc Giám mục, Linh mục, và Phó tế; (2) các Hội Nghị (congrégation) do Đức Hồng Y Niên trưởng chủ toạ, cùng với sự tham dự của tất cả Hồng Y đoàn, kể cả các vị ngoài 80 tuổi. Những cuộc họp mà tôi tham dự là những hội nghị của tất cả Hồng Y đoàn. Những hội nghị này đã được bắt đầu từ ngày 4.4.2005, nhưng vì đến muộn, nên tôi chỉ bắt đầu tham dự kể từ ngày 6.4.2005, tức là Hội nghị IV. Tất cả các Hồng Y tham dự những cuộc họp này đều phải đặt tay lên Sách Thánh và đọc lời thề bằng tiếng La Tinh với nội dung chính là hứa sẽ giữ bí mật về các điều bàn thảo trong hội nghị. Văn phòng báo chí của Toà Thánh sẽ chỉ loan báo những tin tức được phép công bố mà thôi.Hội nghị ngày 6.4.2005 do Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, niên trưởng của Hồng Y đoàn, chủ toạ với sự tham dự của 116 Hồng Y. Trong hội nghị này, các Hồng Y được thông báo về việc các phái đoàn của các quốc gia, các cộng đoàn Kitô giáo khác cũng như các tôn giáo ngoài Kitô giáo sẽ đến dự lễ tang. Sau đó, chúng tôi bàn về Tuần Cửu nhật cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và nghe đọc chúc thư của ngài. Đồng thời, chúng tôi cũng xác định ngày bắt đầu Mật Viện (bầu Giáo Hoàng mới) sẽ là ngày 18.4.2005, với Thánh Lễ ban sáng cầu nguyện cho việc bầu Giáo Hoàng, sau đó sẽ đi vào Nhà nguyện Sixtina để tiến hành việc bầu Giáo hoàng.
Vào buổi chiều ngày 6.4.2005, tôi hướng dẫn phái đoàn các linh mục, tu sĩ Việt Nam đang tu học tại Rôma vào Đền Thánh Phêrô để viếng thi hài Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trong những ngày này, cả triệu người từ khắp nơi trên thế giới đổ về Rôma với ước mong được nhìn thấy Đức Thánh Cha lần cuối và để tham dự lễ tang của ngài. Vì thế, không những quảng trường Thánh Phêrô và đại lộ Hoà Giải (đường dẫn vào quảng trường) mà cả nhiều con đường khác tại Rôma đều chật kín khách hành hương. Người ta phải xếp hàng trung bình từ 8 đến 12 giờ mới vào được bên trong Đền Thờ, và cũng chỉ được đi chung quanh nơi quàn thi hài Đức Thánh Cha một lần, vừa đi vừa thầm thĩ cầu nguyện. Điều đặc biệt đáng nói là phần lớn khách hành hương lại là những người trẻ. Thế mới biết là Đức Cố Giáo Hoàng đã để lại dấu ấn lớn lao như thế nào trong tâm hồn các tín hữu, nhất là các bạn trẻ.
Được một Hồng Y chính thức hướng dẫn, phái đoàn Việt Nam không phải xếp hàng lâu nhưng được đi theo một lối riêng, và khi đã vào trong, lại được đứng tại chỗ lâu hơn để chiêm ngắm Đức Thánh Cha và cầu nguyện. Giây phút đó, quỳ gần bên thi hài Đức Thánh Cha, tôi nhớ đến lời ngài đã nói lần nào đó với một đoàn tín hữu Việt Nam : “Việt Nam ở trong trái tim của Cha.” Việt Nam ở trong trái tim Đức Gioan Phaolô II, nhưng bây giờ ngài đã ra đi thì Việt Nam ở đâu, tôi tự hỏi. Và tôi chợt nhận ra câu trả lời : Việt Nam đang ở đây, ở giữa Vaticanô, ở giữa lòng Giáo Hội. Rất tình cờ, những ngày này lại là dịp quy tụ nhiều anh chị em Việt Nam từ nhiều nơi đổ về : từ Âu châu, từ Mỹ châu, và từ Việt Nam. Họ đến để tham dự các khoá tu đức và thường huấn, không ngờ lại là dịp quy tụ để thay mặt cho cả Giáo hội Việt Nam, bày tỏ lòng quý mến và thương tiếc Vị Cha chung mới qua đời. Việt Nam đang ở đây, giữa lòng Giáo Hội, được chuyển máu từ trái tim của Mẹ Giáo Hội,hiệp thông chặt chẽ với Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô, và góp phần xây dựng Nhiệm Thể Chúa từng ngày. Xin tạ ơn Chúa về sự quan phòng kỳ diệu này.Thứ Năm 7.4.2005
Hội nghị V hôm nay có sự tham dự của 140 Hồng Y. Trong hội nghị này, Hồng Y đoàn đã trao cho Đức Hồng Y Edmund Casimir Szika trách nhiệm phát hành tiền và tem thư dịp Phủ Tông Toà trống ngôi, đồng thời bàn đến một số vấn đề liên hệ tới Thánh lễ An táng Đức Cố Giáo Hoàng và việc chôn cất ngài tại Hầm Mộ các Giáo Hoàng tại Đền thờ Thánh Phêrô. Ngoại giao đoàn đến chia buồn được các Hồng Y đón tiếp vào lúc 10 giờ ngày 13.4.2005. Hội nghị cũng xác định chương trình chi tiết ngày khai mạc Mật Viện : cử hành Thánh Lễ cầu cho việc bầu Giáo Hoàng mới lúc 10 giờ sáng; đến 16g30, các Hồng Y sẽ có mặt tại phòng Benedizione (thay vì Nhà nguyện Paolina) để từ đây rước kiệu tới Nhà nguyện Sixtina là nơi bầu Giáo Hoàng. Sau đó, các Hồng Y cũng bỏ phiếu để chọn hai vị sẽ hướng dẫn suy niệm về trách nhiệm nặng nề trong việc bầu Giáo Hoàng. Hai vị được chọn là cha Raniero Cantalamessa và Đức Hồng Y Toams Spidlik, S.J.
Chiều hôm nay 7.4.2005, lại một lần nữa, tôi hướng dẫn một phái đoàn Việt Nam đến viếng thi hài Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Phái đoàn gồm trên 50 linh mục, tu sĩ và giáo dân đến từ châu Mỹ, và theo lời đề nghị của tôi, tất cả đều mang khăn tang trắng. Hình ảnh một đoàn người mang khăn tang trắng trên vai đã gây ấn tượng lớn tại Đền Thờ Thánh Phêrô hôm đó. Các ống kính truyền hình tập trung vào đoàn Việt Nam, và hình ảnh này chắc chắn đã được truyền đến nhiều nơi trên thế giới. Trong văn hoá Việt Nam, khăn tang trắng diễn tả nỗi đau buồn của người còn sống khi người thân qua đời. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người Ba Lan chứ không phải Việt Nam nhưng ngài thực sự là người thân, rất thân, nói cho chính xác hơn nữa, ngài là một người Cha của mỗi tín hữu. Và như thế, ở tự nó, sự hiện diện của chiếc khăn tang trắng giữa lòng Đền Thánh Phêrô đã nói lên mầu nhiệm Giáo Hội, mầu nhiệm hiệp thông rộng lớn, vượt trên mọi biên giới của quốc gia, ngôn ngữ và chủng tộc. Đồng thời, sự hiện diện của những chiếc khăn tang trắng cũng nói lên dấu ấn của văn hoá Việt Nam trong đời sống của Giáo hội, một Giáo Hội phổ quát cho mọi dân tộc, nhưng cũng là một Giáo Hội ôm ấp lấy những giá trị và truyền thống văn hoá cao đẹp của mỗi dân tộc, làm nên vườn hoa sống động và tươi thắm của Nước Trời.Thứ Sáu 8.4.2005
Thánh Lễ An Táng Đức Cố Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II
Sáng hôm nay, quảng trường Thánh Phêrô dường như là một thế giới thu nhỏ. Hầu hết đại diện cấp cao nhất của các quốc gia trên thế giới đều có mặt tại đây. Linh cữu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II - một cỗ quan tài hết sức đơn sơ và bình dị được đặt sát đất - đã trở thành điểm quy tụ của cả gia đình nhân loại. Còn hình ảnh nào đẹp hơn để diễn tả ý nghĩa của mầu nhiệm Giáo hội là dấu chỉ và khí cụ xây dựng sự hiệp nhất giữa nhân loại với Thiên Chúa cũng như giữa nhân loại với nhau ! Còn chứng từ nào thuyết phục hơn để nêu cao sức mạnh yêu thương và hiệp nhất của Tin Mừng !
Trong bài giảng, dựa trên trình thuật Tin Mừng về cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và thánh Phêrô bên biển hồ Tibêria (Ga 21, 15-19), Đức Hồng Y Niên trưởng Ratzinger đã làm nổi bật chủ đề THEO CHÚA xuyên qua cuộc đời Đức Cố Giáo Hoàng.
Từ một chàng thanh niên say mê văn chương, thi ca và kịch nghệ, Karol Woyztyla đã can đảm giã từ tất cả để đáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu, tu học trong một giai đoạn hết sức khó khăn của đất nước, và cuối cùng lãnh nhận chức linh mục ngày 1.11.1946. Cuộc đời linh mục của cha Karol là lời đáp trả liên lỉ tiếng gọi của Thầy Chí Thánh để trở thành sứ giả Tin Mừng không mệt mỏi, đi đến mọi nơi và làm trổ sinh hoa trái trong triệu tâm hồn (x.Ga 15,16), và để trở thành mục tử tốt lành hiến mạng sống cho đoàn chiên (x. Ga 10,11). Sở dĩ sống được như thế là vì cha Karol đã “ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9), nhờ đó học được nghệ thuật yêu thương của Thầy Giêsu.Đang lúc say mê với công việc nghiên cứu triết học và mục vụ giới trẻ, thì cha Karol Woyztyla lại một lần nữa chấp nhận giã từ những gì mình thích để đáp lại tiếng gọi của Thầy: trở thành giám mục. Quả thật, cha Karol đã sống theo Lời Chúa “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình thì sẽ giữ được” (Lc 17,33). Cha Karol đã không níu kéo gì lại cho mình nhưng hiến dâng tất cả cho Chúa Kitô, rồi Chúa cho ngài cảm nghiệm rằng chính những gì ngài tưởng như phải mất (văn chương, thi ca, kịch nghệ) thực ra lại đóng góp cách phong phú vào sứ vụ của ngài : rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Năm 1978, đáp lại câu hỏi của Thầy Giêsu : “Karol, con có yêu mến Thầy không ?” Đức Hồng Y Karol Woyztyla, Tổng giám mục Cracovia, đã trả lời : “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Và Thầy Giêsu nói : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (x. Ga 21,17). Tình yêu Chúa Kitô là sức mạnh lớn nhất trong cuộc đời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, và sức mạnh đó như một ngọn đuốc toả ra ánh sáng nồng ấm cuốn hút mọi người, nhất là các bạn trẻ.
“Hãy theo Thầy.” Đức Gioan Phaolô II đã theo Thầy suốt cả cuộc đời, và theo Thầy đến đỉnh thập giá. Trong những năm tháng cuối đời, ngài cảm nghiệm từng lời Chúa Kitô đã nói với Phêrô : “Khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21, 18). Tuy nhiên, Đức Gioan Phaolô II đã đón nhận mọi đau khổ trong sự hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô, và vì thế, chính những đau khổ đó lại trở thành sứ điệp hết sức thuyết phục và ích lợi cho toàn thế giới.
Đức Hồng Y Niên trưởng đã kết thúc bài giảng bằng một hình ảnh tuyệt vời : “Không ai trong chúng ta có thể quên rằng Chúa nhật Phục Sinh tuần trước, dù đau yếu, Đức Thánh Cha vẫn đến bên cửa sổ Phủ Tông Toà và một lần nữa ban phép lành cho toàn thế giới urbi et orbi. Chúng ta có thể chắc chắn rằng Đức Giáo Hoàng yêu quý của chúng ta giờ đây đang đứng bên cửa sổ Nhà Cha trên trời để nhìn chúng ta và chúc lành cho tất cả chúng ta. Vâng, thưa Đức Thánh Cha, xin Ngài chúc lành cho chúng con.”
Cả quảng trường oà lên tiếng vỗ tay vì hạnh phúc. Một kết thúc tuyệt đẹp của hành trình THEO CHÚA.
(còn tiếp...)