1. Ðức Hồng Y Pell hoan nghênh việc đưa phụ nữ vào hội đồng kinh tế của Vatican.
Ðức Hồng Y George Pell hoan nghênh việc đưa phụ nữ tham gia vào hội đồng kinh tế của Vatican, bởi vì những người nữ “sáng suốt” sẽ giúp những người nam “cảm tính” làm điều đúng đắn liên quan đến tài chính của Giáo hội.
Phát biểu tại hội thảo trên web ngày 14 tháng 01 năm 2021 về đề tài “Tạo một văn hóa minh bạch trong Giáo Hội Công Giáo”, Ðức Hồng Y nói đến việc làm thế nào để có được sự minh bạch về tài chính ở Vatican cũng như nơi các giáo phận và dòng tu Công Giáo. Theo Ðức Hồng Y, bước đầu tiên cần thiết để thay đổi là cần có những người có năng lực phụ trách các vấn đề tài chính, hướng đến một văn hóa có trách nhiệm giải trình và minh bạch hơn.
Ðức Hồng Y ca ngợi sự đóng góp của giáo dân, ở mọi cấp độ, từ giáo phận, đến tổng giáo phận và đến Roma. Ngài nói: “Tôi rất cảm kích khi thấy nhiều người có năng lực sẵn sàng cống hiến cách nhưng không thời gian của họ cho Giáo hội. Chúng ta cần các nhà lãnh đạo là giáo dân ở đó, những người hiểu biết những điều cơ bản về quản lý tiền bạc, những người có thể đặt câu hỏi đúng và tìm ra câu trả lời chính xác”.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế ca ngợi sáu nữ giáo dân được Ðức Thánh Cha bổ nhiệm vào Hội đồng Kinh tế Vatican, cơ quan giám sát tài chính của Vatican và công việc của Ban Thư ký Kinh tế trong tháng 8 năm 2020. Ngài nói họ là những phụ nữ có năng lực cao với nền tảng chuyên môn tuyệt vời, và hy vọng những phụ nữ này với đầu óc sáng suốt sẽ giúp những người nam “cảm tính” làm điều đúng đắn liên quan đến tài chính của Giáo hội.
Ðức Hồng Y cũng khuyến khích các giáo phận đừng chờ đợi Vatican luôn dẫn đầu trong việc ban hành cải cách tài chính. “Chúng tôi đã đạt được một số tiến bộ ở Vatican và tôi đồng ý rằng Vatican nên đi đầu - Ðức Thánh Cha biết điều đó và đang cố gắng thực hiện. Nhưng cũng giống như bất kỳ tổ chức nào, không phải lúc nào bạn cũng có thể làm cho mọi thứ diễn ra nhanh chóng như bạn muốn”, Ðức Hồng Y nói.
2. Một vài phản ứng đối với Tông thư dưới dạng Tự Sắc Spiritus Domini của Đức Thánh Cha Phanxicô
Tuần trước, chúng tôi đã giới thiệu với quý vị và anh chị em Tông thư dưới dạng Tự Sắc Spiritus Domini, nghĩa là “Thần Khí Chúa” của Đức Thánh Cha Phanxicô công bố ngày 11 tháng Giêng.
Tuần này, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị và anh chị em một vài phản ứng tiêu biểu.
Trong thông cáo đưa ra hôm 13 tháng Giêng, Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền dòng nữ đã cám ơn Ðức Thánh Cha và tất cả những người đã góp phần vào việc nghiên cứu để có bước tiến này về sự tham gia của nữ giới vào các thừa tác vụ của Giáo Hội, đồng thời gọi đây là “một dấu chỉ và là sự đáp lại năng động vốn là đặc tính của bản chất Giáo Hội, năng động này chính là của Chúa Thánh Linh, Ðấng liên tục kêu gọi Giáo Hội trong sự vâng theo mặc khải và thực tại”.
Các nữ Bề trên Tổng quyền cũng nhận xét rằng “trong nhiều vị trí, phụ nữ, đặc biệt những người nữ thánh hiến, theo chỉ dẫn của các Giám Mục, đang thi hành nhiều thừa tác vụ mục vụ, đáp lại nhu cầu loan báo Tin Mừng. Vì vậy, Tự Sắc của Ðức Thánh Cha, với đặc tính hoàn vũ, là một sự khẳng định con đường của Giáo Hội, trong việc nhìn nhận sự phục vụ của bao nhiêu phụ nữ đã và đang chăm sóc việc phục vụ Lời Chúa và Bàn Thánh”.
Ðức Tổng Giám Mục Ludwig Schick của giáo phận Bamberg bên Ðức, cũng là một nhà giáo luật, nhận định rằng việc chính thức cho phép phụ nữ thi hành đọc sách và giúp lễ là “một bước tiến quá nhỏ” nhưng đi đúng hướng là không phân biệt nam nữ.
Nữ ký giả Lucetta Scaraffia, là một nhà sử học, 73 tuổi, đã từng xa lìa đức tin và đấu tranh trong phong trào nữ quyền, nhưng sau đó trở lại. Bà viết cho nhiều báo Công Giáo và từng phụ trách phụ trương “Phụ nữ Giáo Hội Thế giới” từ 2011 cho đến khi bị mất việc vào năm 2019. Phản ứng về Tự Sắc mới của Ðức Thánh Cha, bà viết một bài ngắn với tựa đề:
“Khép cửa đối với phụ nữ muốn làm linh mục: Ðức Giáo Hoàng chẳng làm gì cho chúng tôi”. Bà than rằng trong Tự Sắc Ðức Thánh Cha Phanxicô lấy lại lập trường của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2: Giáo Hội không có năng quyền truyền chức linh mục cho phụ nữ. Bà cho rằng: “Ðức Giáo Hoàng đã khơi lên nhiều hy vọng trong chúng tôi, nhưng rồi ngài làm cho chúng tôi thất vọng. Vatican không mở ra con đường nào cho phụ nữ làm linh mục. Ðây thật là một sự thất vọng. Không phụ nữ nào vui mừng vì Tự Sắc này. Làm như vậy chỉ là khép kín cửa đối với vấn đề phó tế phụ nữ...”.
Nữ ký giả Franca Giansoldati của báo Il Messaggero, ở Rôma, viết một bài với tựa đề: “Tiến bộ nửa chừng của Ðức Giáo Hoàng: phụ nữ giúp lễ bàn thờ nhưng không làm lễ”. Bà nhận xét rằng: “Chắc chắn là các nữ thần học gia Ðức, Mỹ, Áo và Pháp thất vọng vì từ bao năm họ tranh đấu cho sự bình đẳng trong Giáo Hội. Ðức Giáo Hoàng chỉ loại bỏ chữ “nam giới” trong khoản giáo luật 320, triệt 1. Nhưng dầu sao đó cũng là một bước tiến, cho dù phụ nữ vẫn không được làm phó tế và linh mục.”
3. Người Công Giáo và người Do Thái ở Ba Lan đánh dấu Ngày Do Thái giáo bằng thánh vịnh, âm nhạc và lời cầu nguyện
Người Công Giáo và người Do Thái ở Ba Lan đã cử hành Ngày Do Thái giáo hàng năm bằng thánh vịnh, âm nhạc và lời cầu nguyện vào hôm Chúa Nhật 17 tháng Giêng.
Sự kiện này được diễn ra ở nhiều nơi hôm Chúa Nhật. Tuy nhiên, các sự kiện chính diễn ra tại Nghĩa trang Do Thái Bródno ở Warsaw, một trong những nghĩa trang Do Thái lớn nhất thế giới, nơi chôn cất khoảng 320,000 người.
Người Công Giáo Ba Lan đã có truyền thống cử hành Ngày Do Thái giáo từ năm 1998. Năm nay, ngày này được đánh dấu bằng một buổi Phụng vụ Lời Chúa chung, sau đó là những diễn từ của các nhà lãnh đạo Công Giáo và Do Thái.
Các bài đọc được trích từ Sách Đệ Nhị Luật, vì chủ đề của năm nay được trích từ sách này “Coi đây, hôm nay Ta đưa ra cho các ngươi chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ” (Đnl 30:15).
Thánh Vịnh 130, một trong những Thánh Vịnh sám hối, cũng được cất lên tại buổi lễ, đầu tiên được đọc bằng tiếng Ba Lan và sau đó được hát bằng tiếng Do Thái. Cũng có thời gian để cầu nguyện trong im lặng.
Buổi cầu nguyện kết thúc bằng một buổi hòa nhạc. Âm nhạc của ban nhạc Symcha Keller được đan xen với những câu chuyện liên quan đến các thành viên của cộng đồng Do Thái Ba Lan trong lịch sử và ngày nay.
Đức Cha Romauld Kamiński, Giám Mục của Warszawa-Praga đã có mặt trong buổi lễ cùng với ông Michael Schudrich, Giáo sĩ trưởng của Ba Lan, người đã nói vào tuần trước: “ Ngày Do Thái giáo trong Giáo hội đối với tôi, một Giáo sĩ, là một ngày thánh”.
Theo một thông cáo báo chí từ Hội Đồng Giám Mục Ba Lan, Giáo sĩ Stas Wojciechowski lưu ý trong bài suy niệm của mình rằng đoạn văn trong sách Đệ Nhị Luật thường được đọc vào Tết của người Do Thái, đó là “thời điểm để tóm tắt cách chúng ta sử dụng tự do của mình, chọn sự sống hay cái chết”.
Tuyên bố cho biết thêm: “Vị giáo sĩ Do Thái nhấn mạnh rằng trong phụng vụ hội đường, những lời này được giải thích trong ngữ cảnh của sự cải đạo, tức là bất cứ khi nào một người còn sống, người đó có thể cải đạo”.
Đức Cha Kamiński liên hệ bài đọc với đại dịch coronavirus đang diễn ra và những suy nghĩ về sự sống và cái chết. Ngài nhấn mạnh rằng nghe Lời Thiên Chúa là một đặc ân, nhưng câu hỏi đặt ra: tôi có đang nghe Thiên Chúa nói với tôi không? Liệu Người có cơ hội tiếp cận tôi ngày hôm nay bằng lời của Người không? “
Ngày Do Thái giáo diễn ra vào đầu Tuần lễ Cầu nguyện cho Hiệp nhất Kitô Giáo, được tổ chức hàng năm từ ngày 18 đến 25 tháng Giêng. Tại Ba Lan, Giáo Hội Công Giáo cũng tổ chức Ngày của đạo Hồi vào cuối tuần lễ đại kết.
Được tổ chức bởi Hội Đồng Giám Mục Ba Lan, Ngày Do Thái giáo “nhằm mục đích đối thoại giữa các tôn giáo và giúp khám phá căn cội của Kitô Giáo”.
Source:Catholic News Agency
4. Lịch sử Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo
Năm 1908, Mục Sư Paul Wattson đang coi sóc một nhà thờ Anh giáo ở Graymoor, New York, đưa ra sáng kiến cử hành một tuần Tám Ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô Giáo với sự hỗ trợ của các giám mục Anh giáo và Công Giáo, trong đó có Đức Hồng Y William O'Connell của Boston. Tuần Tám Ngày này bắt đầu vào ngày 18 tháng Giêng, lúc bấy giờ là Lễ Ngai Tòa Thánh Phêrô ở Rôma, và kết thúc vào ngày 25 tháng Giêng, Lễ Thánh Phaolô Trở Lại.
Năm sau, mục sư Wattson và toàn thể cộng đoàn Anh Giáo của ngài gia nhập Giáo Hội Công Giáo, và vào năm tiếp theo, tức là năm 1910, cựu mục sư Wattson đã được thụ phong linh mục.
Sáng kiến cử hành một tuần Tám Ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô Giáo lan tràn nhanh chóng, và vào năm 1916, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 15, cổ vũ sáng kiến này trong toàn thể Giáo Hội và Tuần Tám ngày này chính thức mang tên Tuần Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo.
Năm 1964, Công Đồng Vatican II ban hành Sắc Lệnh Đại Kết (Unitatis Redintegratio), và ngày 30/5/1995, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành thông điệp Ut Unum Sint, gồm có ba chương với những tựa đề: Sự dấn thân của Giáo Hội Công Giáo vào công cuộc đại kết; các kết quả của tiến trình đối thoại; và đường còn xa lắm không? Thông điệp đã kiểm điểm những thành quả của tiến trình đối thoại; và phác họa những bước còn phải tiếp tục.
Đây là hai văn kiện làm nền tảng cho Tuần Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo.
5. Tiến sĩ George Weigel bàn về tương lai Hoa Kỳ.
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, nơi ông giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban William E. Simon về Các Nghiên cứu Công Giáo. 25 cuốn sách của ông bao gồm cuốn tiểu sử hai tập về Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Chứng Nhân Hy Vọng, là cuốn sách bán chạy nhất của New York Times đã dịch sang 14 ngôn ngữ.
Người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vừa có bài nhận định sau liên quan đến việc thay đổi chính quyền tại Hoa Kỳ với tựa đề “Những Suy Tư Về Sự Đổi Mới Của Hoa Kỳ Nhân Lễ Nhậm Chức”.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Hiền Hòa
Do cuộc tấn công ngày 6 tháng Giêng vào Điện Capitol của Hoa Kỳ bởi một đám đông, mà trong đó có các thành viên bạo lực tuyên bố rằng họ đã lấy hứng từ tổng thống thứ bốn mươi lăm của Hoa Kỳ, vị tổng thống thứ bốn mươi sáu sẽ được nhậm chức tại một thành phố trong đó các vị trí chính phủ và các quảng trường hoành tráng giờ đây gần giống với một kho vũ khí hơn là thủ đô của một nước cộng hòa dân chủ trưởng thành.
Ngay sau lễ nhậm chức, chính quyền của tổng thống mới sẽ bắt đầu một cuộc tấn công tổng lực vào quyền lương tâm của các chuyên gia y tế, quyền bất khả xâm phạm được sống từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên và quyền tự do tôn giáo, là điều mà người được đề cử làm tổng trưởng y tế và dịch vụ nhân sinh cho chính quyền mới tin tưởng rằng có thể giản lược thành sự bao dung cho phép của nhà nước đối với một số hoạt động giải trí cuối tuần nào đó.
Trong tình huống chưa từng có này, những dấn thân nào cần phải được tái khẳng định bởi những người muốn thúc đẩy một triết lý công cộng giầu thông tin về tôn giáo cho cuộc thử nghiệm của người Mỹ về quyền tự do trong trật tự? Đây là gợi ý của tôi.
Chúng ta nên khẳng định rằng Hoa Kỳ là một cộng đồng quốc gia có xác tín về đạo đức và chính trị, chứ không phải là một chính thể dựa trên huyết thống và thổ nhưỡng, sắc tộc hay chủng tộc.
Chúng ta nên khẳng định rằng nền dân chủ không thể tự duy trì trên cơ sở một ý tưởng sai lầm về con người trong đó giản lược những người nam, nữ đến mức đơn thuần chỉ là những bó ham muốn, mà thỏa mãn là chức năng chính của nhà nước. Chúng ta nên khẳng định rằng chủ nghĩa cá nhân được công khai thể hiện và bạn đi đôi với nó, là chủ nghĩa tương đối về đạo đức, không tương thích với sự tự quản dân chủ trong một thời gian dài. Và chúng ta nên cam kết nâng cao tầm nhìn chân thực hơn, tinh tế hơn về tình trạng con người, một cái nhìn dựa trên cả lý trí và mặc khải.
Chúng ta nên khẳng định bằng những điều kiện mạnh mẽ nhất có thể được rằng phương pháp thuyết phục là mệnh lệnh đạo đức và dân chủ, và chúng ta nên nhấn mạnh rằng bạo lực không phải là phương pháp phản đối chính trị có thể chấp nhận được trong một nền dân chủ.
Chúng ta nên khẳng định rằng không có nỗi sầu khổ nào hoặc ý thức hệ nào biện minh được cho một cuộc tấn công bạo lực vào con người hoặc các hành vi đập phá tài sản, công cộng hay tư nhân.
Chúng ta nên khẳng định rằng các quan chức nhà nước có nghĩa vụ nghiêm túc trong việc duy trì trật tự công cộng để có không gian công cộng rộng rãi, được bảo vệ nhằm tiến hành các cuộc tranh luận mạnh mẽ, thẳng thắn và văn minh vốn là mạch máu của nền dân chủ.
Chúng ta nên khẳng định rằng văn hóa loại trừ là sản phẩm phụ của ý tưởng hủy diệt về “sự khoan dung áp chế” và không có chỗ đứng trong một nước cộng hòa dân chủ.
Chúng ta nên khẳng định rằng mọi quốc gia — và đặc biệt là một quốc gia “suy nghĩ chín chắn và nhiệt thành” như Hoa Kỳ — cần một câu chuyện có thật về bản thân mình để hiểu được gốc rễ của những thách thức hiện tại, và do đó, sẵn sàng đáp ứng các nghĩa vụ của công lý trong một cộng đồng chính trị có trật tự đúng đắn. Do đó, chúng ta cần phải bác bỏ mọi sự xuyên tạc lịch sử nhân danh các ý thức hệ. Và vì điều đó, chúng ta phải khẳng định bổn phận của chúng ta là làm việc với đồng bào của mình để sự thật về nước Mỹ, một sự thật đầy đủ, được truyền dạy cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
Chúng ta nên khẳng định tính chất cấp bách của một nền chính trị dựa trên thực tại và bác bỏ các thuyết âm mưu dựa trên sự bóp méo thực tại cho phù hợp với ý thức hệ: bất kể những người theo thuyết âm mưu ấy là các nhà lãnh đạo tôn giáo hay các công chức, và bất kể những lý thuyết đó xuất hiện từ cơn sốt truyền thông xã hội hay được thúc đẩy bởi những thành kiến không thể phủ nhận của các phương tiện truyền thông chính thống. Đặc biệt, chúng ta nên bác bỏ các thuyết âm mưu được quảng bá bởi các chính trị gia quan tâm đến việc duy trì hoặc nắm giữ quyền lực hơn là sự thật. Những kẻ phá hoại như vậy xuất hiện ở từng điểm trên quang phổ các quan điểm chính trị, và tất cả đều nên bị bác bỏ bởi lý do là họ quá ám ảnh về bản thân mình, đến mức nhầm lẫn tư lợi với thiện ích chung.
Chúng ta nên khẳng định rằng chỉ có một dân tộc có đạo đức mới có thể duy trì thể chế dân chủ và kinh tế tự do. Chúng ta nên khẳng định rằng tự do không thể bị giản lược thành một điều tùy ý; tự do phải được gắn liền với chân lý và phải được thực hiện vì thiện ích chung nếu không tự do chỉ đơn thuần là giấy phép. Chúng ta nên khẳng định rằng từ “lựa chọn” không còn có thể được dùng để kết thúc mọi cuộc đối thoại và tranh luận trong đời sống công chúng Hoa Kỳ, vì một nền dân chủ trưởng thành là một thực thể trong đó người dân luôn phải vật lộn với câu hỏi thực sự quan trọng, đó là chọn cái gì?
Chúng ta nên khẳng định rằng tự do tôn giáo là một vấn đề liên quan đến các quyền được bảo vệ theo hiến pháp trong đời sống của các cộng đồng và thể chế, cũng như các quyền của lương tâm và niềm tin cá nhân.
Chúng ta nên khẳng định rằng các nghĩa vụ đạo đức quốc gia không chỉ dừng lại ở biên giới quốc gia, và một nền đạo đức tự cung tự cấp là điều không thể xảy ra trong thế giới thế kỷ 21 như trong trường hợp của nền kinh tế tự cung tự cấp. Vì vậy, chúng ta nên tái khẳng định chính sách hỗ trợ quốc tế mạnh mẽ đối với quyền tự do tôn giáo và các nhân quyền cơ bản khác.
Chúng ta nên khẳng định phẩm giá của công việc. Chúng ta nên khẳng định nghĩa vụ xây dựng một nền kinh tế trong đó đồng bào chúng ta có cơ hội làm việc, và do đó thực hiện khả năng sáng tạo và tiềm năng của họ. Chúng ta nên ủng hộ một cuộc tranh luận cởi mở, nghiêm túc và thấu đáo về việc tạo ra cơ hội trong thế giới hậu công nghiệp, trong một thế giới được lèo lái bởi công nghệ thông tin mà chúng ta đang sống, trong khi thừa nhận rằng thế giới đó sẽ không biến mất và sự xuất hiện của nó đã dẫn đến những vấn đề kinh tế và xã hội nghiêm trọng đối với nhiều người mà chúng ta có nghĩa vụ phải liên đới với họ.
Chúng ta nên khẳng định rằng nền giáo dục Hoa Kỳ phải được cải cách để chuẩn bị cho những người trẻ vào đời, làm việc hiệu quả và bổ ích — một cuộc cải cách sẽ bao gồm việc mở ra các cơ hội giáo dục cho trẻ em nghèo ngoài những cơ hội được cung cấp bởi các hệ thống giáo dục nhà nước thường xuyên rối loạn.
Chúng ta nên khẳng định rằng chúng ta không có câu trả lời cho mọi vấn đề về chính sách công đang gây tranh cãi — và cũng không ai có câu trả lời. Vì vậy chúng ta nên khẳng định khả năng rằng những người chúng ta thường xét thấy về mặt chính trị “khác” với chúng ta có thể có lý của họ, ngay cả khi chúng ta nhấn mạnh rằng những “người khác” cũng phải thừa nhận bổn phận chấp nhận giải pháp của chúng ta khi chúng ta có lý.
Chúng ta nên khẳng định rằng quản trị đòi hỏi cả chuyên môn và sự phán đoán chín chắn đến từ kinh nghiệm. Đồng thời, chúng ta nên tái khẳng định rằng “ý kiến chuyên gia” không phải là không thể sai lầm và những người chịu trách nhiệm quản trị phải lắng nghe tiếng nói của những người cảm thấy mình bị những người có quyền lực chính trị và kinh tế phớt lờ.
Và cuối cùng, chúng ta nên tái khẳng định niềm tin của mình vào năng lực đổi mới đất nước Hoa Kỳ. Chúng tôi khẳng định rằng chính trị luôn thoát thai từ văn hóa. Do đó, sự bất mãn của chúng ta cùng với sự bối rối của chúng ta trước tình trạng hiện tại, và bẩn thỉu của nền chính trị đòi hỏi chúng ta phải đi đến một quyết tâm mới: đó là xây dựng lại một nền văn hóa đạo đức công cộng có khả năng duy trì một nền chính trị dân chủ thúc đẩy được cả phúc lợi con người lẫn sự hiệp nhất xã hội.
Source:First Things