Người chăn dắt.

Người chăn dắt Israel, là một thuật ngữ quen dùng trong văn hoá người Do Thái, biểu tượng là người gìn giữ hoà bình, người của cõi thiêng mà đến.

Trong ngôn ngữ biểu tượng người chăn dắt là người đã từng trải băng những kinh nghiệm của mình, người trực giác nhìn thấy phía trước, dự đoán được tương lai gần những điều sắp đến. Người chăn dẫn cũng là người biết canh chừng, theo chức năng đó người chăn dắt luôn trau dồi thêm những tình huống cảnh giác. Người chăn dắt có nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho đoàn chiên của mình, anh ta là người biết nhìn trời, dự đoán qua trăng sao, tai lắng nghe và phân biệt được tiếng thú dữ và tiếng chiên lạc đàn thuộc bầy của mình. Chính anh ta là người không có chỗ dừng chân, không có một nơi gối đầu định cư, số phận anh ta tuỳ thuộc vào số phận của đoàn chiên. Đối với đoàn chiên, anh ta là đôi mắt là sự am hiểu thay cho đàn chiên, biết từng con chiên và bảo vệ từng con chiên trong đàn.

Sứ vụ của người chăn chiên đòi hỏi phải là người khôn ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ thương cảm. Con chiên nào đau bệnh, anh chữa trị, con nào lạc lối, anh tìm đưa về, con nào bước đi yếu ớt, anh cõng trên vai. Những con chiên khoẻ mạnh anh ta vỗ về…Từ những hình ảnh nhân hậu đó, người chăn chiên còn là biểu tượng của sự bình an cho đàn chiên. Người ta muốn bắt chiên, trước hết phải giết hại người chủ chiên.

Theo truyền thống Do Thái, Aben đại diện cho người theo văn hoá du mục, Cain đại diện cho nền văn hoá định cư. Người định cư rất quý mến người du mục, và thường ân cần tiếp đón họ. Theo khía cạnh nhìn của người định cư, người chăn chiên là người không thuộc về đất, người chăn chiên có một giá trị thiêng liêng và cao quý.

Nền văn minh Assyrie và Babylone, biểu tượng người chăn chiên gắn liền với ý nghĩa vũ trụ. Danh hiệu người chăn chiên được gán cho thần mặt trăng Tammuz, là người chăn dắt các tinh tú, vị thần của thực vật, chết đi và sống lại. Theo chu kỳ mặt trăng tuần tự sinh ra và rồi mất đi, cũng một chu kỳ liên tiếp được làm đi lập lại mỗi khi chiều về, buổi tối ập đến, người chăn cừu lại lùa đàn chiên vào nơi gìn giữ và sáng mai lại thả ra. Người chăn dắt trong đêm ngủ mê của đoàn chiên vẫn là người lắng nghe, người cầu nguyện cho sự an toàn của đàn chiên. Với hình ảnh đó, người chăn chiên là người trung gian giữa Đấng Tối Cao và thọ tạo.

Chúa Giêsu nói: “ Ta là mục tử tốt lành” (ga 10, 11); Vị Mục Tử tốt lành cụ thể chứ không còn là biểu tượng, người Mục Tử tốt lành đóng các vai trò của người chăn dắt cách thực thụ; những con chiên không còn là hình bóng nhưng là những con người bằng xương bằng thịt. Trong sứ vụ của Đấng Cứu Thế, Ngài đến để băng bó chữa lành, làm dịu những con người khổ đau. Vị Mục Tử nhân lành đúng nghĩa, Ngài không mong được đền đáp như câu chuyện người mở tiệc: “Anh hãy mời những người đau khổ, nghèo khó, họ không có gì để đáp lại, như vậy anh có một kho tàng vĩnh cửu trên trời” (Lc 14, 13 - 14), Ngài chỉ ước muốn cho con người được hạnh phúc và trong hạnh phúc đó con người nhận ra được lòng Chúa yêu thương. Đó là gia tài không hề mai một.

Đấng Chăn Dắt không muốn chiếm đoạt sở hữu nhưng mời gọi “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta”. Thuộc về Đấng Mục Tử nhân lành là một ý thức tự do, nên những con người được mời gọi thuộc về Ngài, không giới hạn biên giới quốc gia, không giới hạn chủng tộc, Ngài xác định: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10, 16). Ngài là Mục Tử tốt lành, Ngài chết thay cho muôn người, những người thuộc về Ngài cũng như những kẻ không thuộc về Ngài. Vị Mục Tử nhân lành chết thay cho những con người tội lỗi, những con người biết Ngài hay chưa biết Ngài, cho người công chính cũng như cho những người không ngay lành. Việc chết thay cho nhân loại là việc mua chuộc lại nhân loại khỏi tay kẻ dữ, thoát khỏi vòng vây tử thần, đánh tan tử thần bằng việc sống lại; “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được." (Ga 10, 17 -18).

Ngài là Mục Tử nhân lành, người Mục Tử, chăm sóc từng người, thấu suốt mọi tâm can, lên tiếng để con người tự do đáp lại: “Ai đón nhận Ngài thì được sống đời đời, còn ai không đón nhận thì không ở trong sự sống ấy” ( xem Ga 1, 11 -12).

Người Mục Tử nhân lành đến để thu họp đàn chiên tản mác, những con người đã bị thương tích, những con người đang đau khổ, hoặc những con người chưa bị xây xát. Tất cả đều được mời gọi bằng tiếng của Đấng Mục Tử.

Là người Mục Tử Nhân lành, Chúa Giêsu mang trái tim nhân hậu. Trái tim nhân hậu làm nên người Mục Tử Nhân Lành, như Gioan có lần định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình yêu”. Tình Yêu làm nên mọi sự, Tình Yêu hoán cải mọi sự, Tình Yêu vô biên là Tình Yêu làm mới lại tất cả. Chúng ta đón nhận Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa trong trái tim nhỏ bé này, nên muôn đời vẫn không ngừng đổ rót mà trái tim ta luôn không hề vơi.

L.m Giuse Hoàng Kim Toan