Linh mục Raymond J. de Souza, chủ bút tập san Convivium, gọi đích danh vụ khởi tố Đức Hồng Y Pell là Bách Hại Tôn Giáo trong bài “Calling Cardinal Pell’s Prosecution What It Is: Religious Persecution”. Chỉ có như vậy người ta mới hiểu được sự vô lý của bản án.
Ngài viết như sau:
Đức Hồng Y Pell đã bị kết tội Tháng Mười Hai vừa qua vì tấn công tình dục 2 thiếu nam 13 tuổi năm 1996. Ngay từ đầu, diễn trình dẫn đến việc kết tội là một chiến thuật được nâng đỡ và tính toán nhằm làm hủ hóa hệ thống công lý hình sự để đạt các mục tiêu do chính trị giật dây.
Thế là nay Đức Hồng Y Pell đang ngồi tù, chờ ngày bị kết án vào đầu tháng Ba. Việc Đức Hồng Y Pell vào tù chẳng có chi là tủi nhục cả: nhưng tủi nhục hiển nhiên phải chính là tâm tình phải có của những kẻ đã đặt ngài vào đó.
Đức Hồng Y Pell từng bị cáo gian năm 2002, và trước ngài, Đức Hồng Y Joseph Bernardin của Chicago cũng từng bị cáo gian vào năm 1993. Cả hai vụ cáo gian đều được dàn xếp bằng cách chạy đến với cảnh sát hay tòa án.
Tuy nhiên, trường hợp của Đức Hồng Y Pell không phải là một vụ hoài thai công lý giống như một sai lầm. Nó được thực hiện với cảnh sát và công tố viên có ác ý từ trước.
Vụ kiện chống lại Đức Hồng Y Pell kỳ quái một cách lố bịch đến nỗi các công tố viên phải mất hai lần mới có được các lời kết tội. Phiên tòa đầu tiên, vào tháng 9, đã kết thúc bằng một bồi thẩm đoàn ngang ngửa, trong đó, 10 bồi thẩm viên bỏ phiếu vô tội trong khi có 2 người khăng buộc tội ngài.
Tuy không có thêm bất kỳ tố cáo nào mới từ nguyên cáo hay từ bất cứ người nào khác về bất cứ hành vi sai trái nào của ngài từ lần xử trước đến lần xử này; và đồng thời cảnh sát cũng bị chỉ ra là đã sơ suất trong việc điều tra hiện trường vụ án được cho là nơi xảy ra lạm dụng; thế mà bồi thẩm đoàn thứ hai đã bỏ phiếu 12-0 để kết tội ngài!
Thẩm phán phiên tòa cũng có vẻ ngạc nhiên khi nghe phán quyết. Trước tòa, mẹ của người được cho là nạn nhân thứ hai, nay đã chết, cho biết con bà đã nói với bà trước khi qua đời rằng anh ta chưa bao giờ bị lạm dụng tính dục.
Công tố viện buộc tội rằng Đức Hồng Y Pell, thay vì chào hỏi mọi người sau Thánh lễ, như thông lệ của ngài, lập tức rời bỏ mọi người, và đi vào phòng áo lễ không có ai đi cùng. Một mình vào phòng áo lễ, ngài thấy hai cậu bé ca viên đang uống trộm rượu lễ và tấn công tình dục hai cậu bé ấy.
Sự thật là lúc nào bên cạnh ngài cũng có vị trưởng ban nghi lễ Phụng Vụ đi kèm. Đức Ông Charles Portelli, vị phụ trách các nghi lễ Phụng Vụ của ngài, đã làm chứng rằng những cuộc tấn công không thể xảy ra bởi vì “Tôi đã ở bên ngài suốt thời gian ngài mặc áo lễ trong những ngày đó.”
Hơn thế nữa, phòng áo của nhà thờ chính tòa St. Patrick lúc nào cũng nhộn nhịp sau thánh lễ với ít nhất hàng chục người ra vào, dọn dẹp và thay áo. Ai đã từng đến nhà thờ này đều nhận ra phòng áo này lúc nào cũng mở toang sau thánh lễ và có thể quan sát từ nhiều phía.
Các điều được cáo buộc trên không thể nào xảy ra được. Hãy hỏi bất cứ linh mục của một giáo xứ có kích thước bình thường - huống hồ là một nhà thờ chính tòa - xem có thể cưỡng hiếp các cậu bé ca viên trong nhà thờ ngay sau Thánh lễ được không. Hãy hỏi bất cứ linh mục nào xem ngài có thường ở một mình trong phòng áo ngay sau Thánh lễ, trong khi vẫn còn người trong nhà thờ và thánh đường chưa được dọn sạch.
Hơn nữa không thể thực hiện việc cho là giao hợp khi mặc đầy đủ phẩm phục để cử hành Thánh lễ. Một lần nữa, hãy hỏi bất cứ một linh mục nào - huống chi là một tổng giám mục, người được mặc nhiều phẩm phục hơn - về sự lúng túng khi phải đến viếng nhà vệ sinh, nếu cần thiết, sau khi đã mặc phẩm phục. Nó đòi hỏi phải cởi phẩm phục, ít nhất một phần, hoặc phải xử lý vụng về các phẩm phục khác nhau, khiến việc sử dụng nhà vệ sinh trở nên khó khăn, nói chi đến việc tấn công tình dục.
Người khiếu nại nói rằng Đức Hồng Y Pell chỉ vạch phẩm phục của ngài sang một bên, một điều không thể có, vì áo anba không có các lỗ hổng như vậy.
Điều mà Đức Hồng Y Pell bị cáo buộc đã làm chỉ đơn giản là điều không thể có, ngay cả khi ngài điên rồ cách nào đó để thử làm như vậy. Hơn nữa, bất cứ người đàn ông nào cố gắng hãm hiếp các bé trai ở nơi công cộng với người ta đi qua đi lại hẳn phải là loại người phạm tội liều lĩnh, mà về họ, chắc chắn đã phải có cả một lịch sử lâu dài về hành vi đó. Tất nhiên, trong trường hợp này, không hề có một lịch sử như vậy.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi một bồi thẩm đoàn gồm 12 công dân bình thường có thể bị thuyết phục, trái với bằng chứng và lương tri, rằng Đức Hồng Y Pell đã phạm tội. Dù sao, hàng chục này đến hàng chục khác các cảnh sát và công tố viên được đào tạo và có kinh nghiệm đã quyết định rằng cựu tổng giám mục Sydney có tội ngay cả trước khi bất cứ cáo buộc nào được đưa ra. Đó là sự căm thù của Úc đối với Giáo Hội Công Giáo nói chung và Đức Hồng Y George Pell nói riêng.
Vào năm 2013, cảnh sát Victoria đã phát động “Cuộc Hành Quân Tethering” để điều tra Đức Hồng Y Pell, mặc dù không có khiếu nại nào chống lại ngài. Sau đó, một chiến dịch kéo dài bốn năm để tìm những người sẵn sàng cáo buộc lạm dụng tình dục, một chiến dịch bao gồm cảnh sát Victoria lấy quảng cáo trên báo yêu cầu người ta khiếu nại về lạm dụng tình dục tại nhà thờ chính tòa Melbourne - trước khi có bất cứ khiếu nại nào.
Với việc Úc đang trải qua một cuộc điều tra của ủy ban hoàng gia về lạm dụng tình dục - với việc Giáo Hội Công Giáo thu hút phần lớn sự chú ý - chỉ là vấn đề thời gian trước khi tìm thấy một ai đó có thể nói điều gì đó, hoặc nhớ điều gì đó, hoặc, nếu cần thiết, chế tạo nó hoàn toàn. Sau tất cả những nỗ lực như thế mà cảnh sát Victoria chỉ có thể tạo ra được một vụ án với những chứng cứ mỏng manh như vậy tự nó là một dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy Đức Hồng Y Pell hoàn toàn vô tội.
Trong các vụ lạm dụng tình dục ở Victoria, nạn nhân làm chứng tại tòa án kín, nên công chúng không biết và không thể đánh giá tính đáng tin cậy của những gì được nói ra.
Trong phiên tòa đầu tiên, người khiếu nại đã làm chứng trước bồi thẩm đoàn. Bồi thẩm đoàn đã bỏ phiếu không kết án. Trong phiên tòa thứ hai, người khiếu nại hoàn toàn không làm chứng, nhưng các ghi chép về lời khai của anh ta trong phiên tòa đầu tiên đã được đưa ra thay thế. Dường như bồi thẩm đoàn đầu tiên, những người được nghe người khiếu nại trực tiếp, thấy anh ta ít đáng tin hơn bồi thẩm đoàn thứ hai, những người không gặp anh ta trực tiếp.
Do đó, Đức Hồng Y Pell đã bị kết án dựa trên lời khai của một nhân chứng đã trình bày một câu chuyện không đáng tin, không có bằng chứng thêm (corroboration), không có bất cứ bằng chứng vật lý nào và không có bất cứ mẫu tác phong nào trước đó, trước sự kiên quyết nhất mực của người bị coi là thủ phạm rằng không có chuyện gì thuộc loại này xảy ra cả. Điều đó, gần như theo định nghĩa, đáp ứng các tiêu chuẩn của sự nghi ngờ hợp lý.
Càng ngạc nhiên hơn nữa, bồi thẩm đoàn kết án Đức Hồng Y Pell đã tấn công cậu bé thứ hai, mặc dù anh ta đã phủ nhận với chính gia đình mình rằng mình từng bị quấy rối. Người được cho là nạn nhân thứ hai đã chết năm 2014. Anh ta không bao giờ khiếu nại, không bao giờ được cảnh sát phỏng vấn và không bao giờ được kiểm tra tại tòa án.
Không có sự thù hận công cộng đối với Đức Hồng Y Pell, một trường hợp như vậy thậm chí sẽ không bao giờ được đưa ra tòa. Nhưng chỉ vì cảnh sát đã có người của họ trước khi họ có bất cứ cáo buộc hay bằng chứng nào, các công tố viên biết rằng họ có cơ hội tốt để có được một bồi thẩm đoàn quyết tâm kết án Đức Hồng Y Pell đến mức họ chỉ cần cho những người này cơ hội mà thôi.
Theo luật Victoria, một thẩm phán có thể ban hành lệnh cấm bất cứ và mọi tường trình về vụ án, khi họ nghĩ là cần thiết để bảo vệ một phiên tòa khỏi bị áp lực công cộng không đáng có. Lệnh cấm tường trình này, có nghĩa là ngay cả các cáo buộc chống lại Đức Hồng Y Pell cũng không được tiết lộ cho đến tuần này, hơn hai tháng sau khi bị kết án, rõ ràng là để bảo vệ các công tố viên khỏi phải thanh minh về sự yếu kém của họ trước tòa án công luận. Nếu chuyện này mà xảy ra gần hai năm trước, ít nhất sẽ có một chút áp lực đối với bộ trưởng tư pháp Victoria phải duyệt lại xem liệu công lý đám đông có đang xảy ra hay không, như năm ngoái tại Úc, nơi Đức Tổng Giám Mục Philip Wilson của thành phố Adelaide bị kết án vì che đậy một vụ lạm dụng tình dục.
Chỉ vài tháng sau, ngài được tha bổng khi chống án, với thẩm phán tòa phúc thẩm phán quyết rằng bồi thẩm đoàn kết án ngài có khả năng bị ảnh hưởng bởi cơn giận dữ công khai đối với Giáo Hội Công Giáo.
Việc ấy đã xảy ra một lần nữa.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Cụm từ “bách hại tôn giáo” mà cha Raymond J. de Souza dùng xem ra có vẻ lạ tai với nhiều người, vì ai cũng biết Úc là một quốc gia dân chủ tiên tiến.
Nếu muốn biết rõ hơn những nhận định của cha Raymond J. de Souza, và tìm ra chút ý nghĩa cho những chiến dịch phỉ báng hết đợt này đến đợt khác nhắm vào Đức Hồng Y Pell đã kéo dài từ gần 3 thập niên qua, mà đỉnh cao là vụ khởi tố này; cũng như những xung đột giữa Giáo Hội và chính quyền dân sự như việc bắt các linh mục vi phạm ấn tín giải tội, yêu sách đòi Giáo Hội bỏ luật độc thân linh mục, câu chuyện khởi tố Đức Cha Wilson của tổng giáo phận Adelaide… có lẽ ta nên đọc qua cuốn “God and Caesar” của chính Đức Hồng Y George Pell.
Ngay trong những dòng đầu tiên của cuốn sách, Đức Hồng Y, một tác giả viết rất nhiều, rất hay, nổi tiếng đến mức từng được coi là ứng viên Giáo Hoàng sáng giá trong Cơ Mật Viện 2013, sau khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 tuyên bố thoái vị, đã nói về nền dân chủ tại Úc, và cho biết rằng tại Úc đã có những thời tâm tình bài Công Giáo trắng trợn đến mức không hiếm những quảng cáo về công ăn việc làm ghi rõ “Người Công Giáo và Do Thái Giáo xin miễn nộp đơn.” Miễn nộp đơn không có nghĩa là khỏi cần nộp đơn, cứ ngang nhiên vào làm thẳng. Không. Miễn nộp đơn là “đi chỗ khác chơi đi”.
Trong những ngày này, người ta nghe và thấy nhan nhãn trên các đài truyền hình những tiếng hò reo và những biểu ngữ “Cút đi, đừng thống trị thế giới chúng tôi.” Trước đó, hơn một thập niên trước, sau khi cuốn “God and Caesar” của Đức Hồng Y được tung ra vào năm 2007, có những người như David Marr viết hàng chục cuốn khác, cũng như tổ chức hàng trăm buổi diễn thuyết để công kích ngài. Những điều này tiêu biểu cho sự cọ sát quyết liệt giữa Giáo Hội và chủ nghĩa thế tục cực đoan tại Úc.
Bàn về hiện tượng này, Đức Hồng Y George Pell đã viết trong cuốn “God and Caesar”:
“Một trong những vấn đề then chốt vẫn tồn tại cho đến nay là tiến trình dân chủ có ý nghĩa gì và đâu là mức độ nó cho phép sự hội nhập các giá trị căn bản Kitô Giáo như cơ sở cho các luật cụ thể. Quan điểm đương đại và đang lan tràn cho rằng Giáo Hội không thể áp đặt các ý tưởng của mình trong một xã hội tự do thời nay. Tuy nhiên, cần phải chỉ ra những chỉnh lý cần thiết cho quan điểm đương đại và đang thịnh hành này, chẳng hạn như sự ngộ nhận của đa số dân chúng đối với lương tâm cá nhân, khuynh hướng đẩy lùi niềm tin và qua đó là các giáo huấn của Giáo Hội vào bầu khí cá nhân như thể các giáo huấn ấy không phản ảnh những sự thật cơ bản, tầm quan trọng của việc ta phải có thể khẳng định niềm tin của mình, và tiến trình dân chủ phải thực sự khích lệ một sự thảo luận mạnh mẽ về bản chất thực sự của việc tham gia vào tiến trình xây dựng dân chủ. Sự kiện đơn giản là Giáo Hội có một vai trò căn bản trong việc hình thành các giá trị của một quốc gia, đặc biệt thông qua các tranh luận một cách dân chủ. Bất cứ mưu toan nào nhằm làm câm nín vai trò thực sự này của Giáo Hội là một mối nguy hiểm cho xã hội đương đại.”
Bàn về nền dân chủ tại Úc; và vai trò của Kitô hữu trong thế giới đương đại trong việc phê phán và đối thoại với các tầng lớp khác trong Giáo Hội, Đức Hồng Y viết:
Nền dân chủ tại Úc là một thiện ích đối với cộng đoàn Công Giáo, những người trải rộng trên toàn thể lục địa này, nhưng chẳng chiếm được đa số ở bất cứ một địa phương nào.
Từ năm 1986, Công Giáo đã thay thế Anh Giáo trong vai trò là tôn giáo có đông tín hữu nhất quốc gia, với hơn một phần tư dân số một chút. Người Công Giáo đã hoan nghênh việc tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà nước, đầu tiên như một sự bảo vệ cho họ chống lại khối đa số Anh Giáo – Tin Lành, trong khi lặng lẽ lờ đi thông điệp Vehementer Nos của Đức Giáo Hoàng Piô thứ Mười công bố vào tháng Hai 1906, trong đó ngài gọi việc tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà nước là “một bất công nghiêm trọng” chống lại Thiên Chúa. Cũng như tại Hoa Kỳ, họ nhận thức rằng nền dân chủ của họ, về cơ bản, không nhằm chống lại Thiên Chúa cũng như tôn giáo của họ.
Nhiệt tình bài tôn giáo hiếm khi bùng lên tỏ tường tại Úc. Chẳng hạn, chưa từng có nhà thờ Công Giáo nào bị đốt bởi một nhóm côn đồ gây rối người Úc. Thực hành tôn giáo thấp hơn hầu hết mọi miền tại Hoa Kỳ, nhưng sự hung hăng thể hiện bằng bạo lực của chủ nghĩa thế tục cũng ít hơn. Người ta cho rằng người Úc bị cám dỗ để tầm thường hóa Chúa Kitô nhưng không đến mức đóng đinh Ngài. Chắc chắn là việc tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà nước không ngăn chặn những khoản trợ cấp của nhà nước cho vốn ban đầu và chi phí điều hành các trường học của các tôn giáo như các trường của Công Giáo, Tin Lành, Do Thái Giáo, Hồi Giáo và các tôn giáo khác.
Trong hầu hết các phần của thế giới nói tiếng Anh bên ngoài Anh quốc và Ái Nhĩ Lan, đức tin Công Giáo được gieo trồng bởi các di dân Ái Nhĩ Lan, là những người không có chút cảm tình nào với Hoàng Gia và cái hệ thống đã đối xử tệ bạc với họ hàng bao nhiêu thế kỷ tại Ái Nhĩ Lan. Do đó, khác với nhiều miền tại lục địa Âu Châu, người Công Giáo tại Úc không mặn mà chút nào với những gì liên hệ đến nữ hoàng, triều đình và thường bỏ phiếu cho đảng Lao Động hay đảng Dân Chủ. Điều này ngày nay đang thay đổi hay đã thay đổi.
Chủ nghĩa bè phái, lan tràn như một trận dịch tái đi tái lại nhiều lần trong lịch sử Úc cho đến sau Thế Chiến Thứ Hai, là một sự xung đột giữa người Anh và người Ái Nhĩ Lan, giữa người Tin Lành và người Công Giáo hơn là bất cứ cuộc chiến nào giữa chủ nghĩa thế tục và tôn giáo, mặc dù ngày nay căng thẳng xã hội đáng kể nhất là giữa chủ nghĩa tự do thế tục và một hình thức liên minh mới giữa Kitô Giáo và Do Thái Giáo, mà các thành viên tích cực là những người Công Giáo và người Tin Lành.
Úc không có một miền tương đương với miền New England của người Thanh Giáo vào thế kỷ thứ 17, ngay cả tại khu vực Nam Úc, và cũng không có một miền nào so sánh được với vùng vành đai Tin Lành (Bible Belt) đương đại tại các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ.
Sinh ra trong thời Thế Chiến Thứ Hai, kết thúc với thắng lợi của Đồng Minh trước khi tôi đủ trí khôn để nhận thức được cuộc xung đột này, tôi là một thiếu niên trong thập niên 50 đỉnh cao của cuộc chiến tranh lạnh, và rất ngưỡng mộ Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12, và các Hồng Y trong Giáo Hội Công Giáo như Wyszyński, Mindszenty, Stepinac, Beran, và Slipyj là những vị công khai dám đương đầu với chủ nghĩa cộng sản.
Ở tiểu bang quê hương tôi là Victoria ở miền đông nam Úc châu, đời sống người Công Giáo diễn ra dưới quyền cai quản của Đức Tổng Giám Mục Melbourne từ 1917 đến 1963 là Đức Tổng Giám Mục Daniel Mannix, một người Ái Nhĩ Lan. Ngài là người ái mộ Đức Giáo Hoàng Lêô thứ 13, và tin rằng người Công Giáo đã quá chậm lụt trong việc nắm lấy những cơ may của nền dân chủ mở ra trước mắt họ. Ngài cũng là người phê phán mạnh mẽ các “sacristy priests” (linh mục trong phòng thánh nhà thờ), là những vị cho rằng tôn giáo không nên vươn ra bên ngoài bốn bức tường nhà thờ. Cũng như Đức Hồng Y Moran của Sydney và Đức Tổng Giám Mục Duhig của Brisbane, ngài dấn thân trở thành một gương mặt của công chúng, và dùng điều đó như một phương tiện để khích lệ người Công Giáo tăng cường sự tham gia vào đời sống công cộng tại Úc.
Những ưu tiên chủ đạo của Đức Tổng Giám Mục Mannix là vấn đề tôn giáo, và khi ngài qua đời vào năm 1963, đàn chiên của ngài đã có một đức tin sâu sắc và việc thực hành đạo cao một cách hiếm thấy trong lịch sử Kitô Giáo. Ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến nở rộ. Khích lệ của ngài trong ngành giáo dục thể hiện nơi một hệ thống trường học kéo dài suốt 90 năm mà không cần bất cứ tài trợ nào của nhà nước, được điều hành thông qua các dòng tu, đã hình thành một tầng lớp trung lưu người Công Giáo so sánh được – và có lẽ vượt qua cả - những thành công tại Hoa Kỳ.
Khi ngài đặt chân đến đất Úc, nhan nhãn những quảng cáo về công ăn việc làm ghi rõ người Công Giáo và Do Thái Giáo xin miễn nộp đơn. Sự phân biệt đối xử và cô lập là rất thật, cho dù thường là nhẹ nhàng. Ngài khích lệ niềm tự tin và lòng trung thành với Chúa Kitô trong cộng đoàn chủ yếu là người Ái Nhĩ Lan của ngài với những lời bình luận và phê phán xã hội thường xuyên của ngài.
Hai vấn đề gây tranh cãi liên quan đến thời gian cai quản lâu dài của ngài là thành công của ngài trong việc chống lại chính sách bắt buộc thi hành quân dịch trong hai kỳ trưng cầu dân ý hồi Thế Chiến Thứ Nhất và việc ngài công khai ủng hộ các thành viên nghiệp đoàn có xu hướng chống cộng sản (là những người hoạt động trong “các nhóm kỹ nghệ” trong đảng Lao Động thường được gọi là “Groupers”). Bị trục xuất khỏi đảng Lao Động sau những chia rẽ từ 1954 đến 1955, những người này hình thành nên đảng Dân Chủ Lao Động. Trong cố gắng thứ hai này, Đức Tổng Giám Mục Mannix được sự ủng hộ của nhà văn và chính trị gia nổi tiếng người Melbourne B. A. Santamaria.
Tôi ngưỡng mộ Đức Cha Mannix và ông Santamaria khi còn là một thiếu niên, và ngày nay, sau 50 năm, tôi vẫn hết sức ngưỡng mộ các vị. Họ linh hứng trong tôi quyết tâm chống lại bất cứ mưu toan nào nhằm đẩy các giáo huấn Kitô và Công Giáo vào bầu khí riêng tư, và hình thành đáng kể trong tôi nền tảng tri thức cho tư duy của mình. Gương sáng và những bài viết của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng nâng đỡ và khích lệ tôi, và vô số những người khác, giúp tôi kiên trì trong các cuộc chiến về văn hóa, đặc biệt là trong cuộc chiến chống lại “nền văn hóa sự chết”. Thoạt đầu, tôi không thích từ này lắm, nghĩ rằng nó cường điệu quá, thậm chí là có vẻ gây hấn, nhưng khi tôi suy tư về sự lan tràn của nạn dịch phá thai (mà có lẽ một phần ba phụ nữ Úc là nạn nhân), khi tôi nghĩ đến nhiệt tình của công chúng đối với an tử và trợ tử, trào lưu đòi hợp pháp hóa ma túy và những hậu quả của nó, tình trạng suy thoái nhân khẩu học mọi nơi trong thế giới phương Tây, chúng ta phải thấy rằng thuật ngữ này là chính xác và có tính tiên tri.
Quan tâm chủ yếu của tôi là vấn đề tôn giáo. Những bài viết triết học này không phải là một sự thay thế cho lời mời gọi hoán cải, ăn năn và tin vào Tin Mừng của Chúa Kitô, nhưng như là một hệ quả tất yếu quan trọng của lời mời gọi ấy, là chúng ta phải đóng góp vào cuộc đối thoại với xã hội chung quanh chúng ta. Lịch sử và xã hội học chỉ ra rằng các tôn giáo lớn sản sinh ra một cách khác biệt đáng kể các xã hội và các nền văn hóa. Các tôn giáo không chân thật các loại có thể là thuốc độc, nhưng quan tâm của tôi là sự đóng góp của Kitô Giáo và Công Giáo vào đời sống xã hội phương Tây.
Có một vài xác tín cơ bản xuyên suốt những luận văn này. Căn cơ nhất là sự cam kết và kính trọng dành cho lý trí, với tin tưởng rằng trong nhiều trường hợp lý trí có thể giúp chúng ta nhận thức được chân lý. Không có xác tín này, việc bàn cãi về những khác biệt trở thành vô vị và thậm chí là nguy hiểm về lâu dài.
Trong diễn từ gây nhiều tranh cãi của ngài tại Đại Học Regensburg vào năm 2006, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã hùng hồn nhấn mạnh tầm quan trọng của lý trí trong truyền thống tư duy Công Giáo. Chúng ta được mời gọi đến với cuộc gặp gỡ giữa đức tin và lý trí, một cuộc gặp gỡ giữa sự khai sáng thực sự và tôn giáo, vì chính Thiên Chúa là hợp lý. Lý trí là cây cầu chung mà chúng ta bước đi với những người thuộc các tôn giáo khác và những ai không có niềm tin tôn giáo khi chúng ta hoạt động để duy trì và cải thiện các cộng đồng và xã hội chúng ta thông qua đối thoại và bàn cãi.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trong cuốn God and Caesar, Đức Hồng Y đã cố gắng xác định những đóng góp của các tín hữu Kitô cho đời sống dân chủ, những gì chưa được nhìn nhận và những gì đã được xác định, những gì được khích lệ và những gì bị người ta chống lại.
Ngài nói:
Trong một nền dân chủ, các Kitô hữu có quyền hoạt động để đa số trong xã hội chấp nhận quan điểm của họ cũng như đã và đang chấp nhận quan điểm của các công dân khác nhưng không phải được chấp nhận chỉ vì quan điểm ấy được diễn dịch từ các giá trị Kitô nhưng vì nó đóng góp cho sự thăng tiến của nhân loại. Chính trị là lãnh địa của người tín hữu giáo dân hơn là hàng giáo sĩ, đó là một hệ quả tốt từ việc tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà nước.
Các tín hữu Kitô tin rằng Thiên Chúa là một mầu nhiệm của tình yêu, rằng hai giới giới răn trọng nhất đòi buộc tình yêu dành cho Chúa và dành cho tha nhân. Tình yêu chân thật là tình yêu hoàn toàn tự do trao ban, và mọi xã hội tốt phải hoạt động để mang lại một cấu trúc cho tự do. Cái khó khăn ở đây là tự do chỉ có thể tìm thấy nơi sự thật. Tự do, lý trí, và tình yêu là một thể thống nhất ba ngôi vị và đây là lý do trọng tâm tại sao học thuyết xã hội Công Giáo không thể bị cho là công khai hay che đậy việc cổ vũ cho một nền chính trị thần quyền.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Đức Hồng Y cũng đã bàn về quan hệ giữa chân lý Kitô Giáo và các giá trị khác nhau trong các lãnh vực của cuộc sống phương Tây.
Theo ngài:
Dù cho có một ít các khoa học gia vẫn khăng khăng cho rằng tôn giáo đang héo tàn, vai trò của thần học và siêu hình học vẫn còn quan trọng trong đời sống Đại Học, quan trọng như cuộc đối thoại về sự tương hợp giữa Thiên Chúa và thuyết tiến hóa, về khả năng hay nhu cầu của một Đấng Hoạch Định Sáng tạo đằng sau sự sắp đặt trật tự thế giới.
Tính hợp lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa phải được đề cập thường xuyên, đặc biệt cho những người Công Giáo trầm lặng, cho dù tỉ lệ người vô thần có suy giảm đi chăng nữa, trong hoàn cảnh mà các quan điểm trái ngược về hôn nhân, gia đình, sự sống thường gắn bó với việc có niềm tin tôn giáo hay không vẫn tiếp tục khơi lên các xung đột chính trị tại Hoa Kỳ, Úc và các nơi khác.
Chính Chúa Kitô bảo chúng ta rằng “của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Lc 20:25) Điều này vẫn là điểm khởi đầu cho mọi suy tư về Kitô hữu và đời sống chính trị.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Một triết gia và một nhà tư tưởng lớn như Đức Hồng Y chắc chắn không thể phạm vào một tội lỗi như vậy. Xin lặp lại ở đây lời phản biện của Đức Hồng Y với những cáo buộc ngài: “Đó chỉ là những cáo buộc điên loạn”.
Ngài viết như sau:
Đức Hồng Y Pell đã bị kết tội Tháng Mười Hai vừa qua vì tấn công tình dục 2 thiếu nam 13 tuổi năm 1996. Ngay từ đầu, diễn trình dẫn đến việc kết tội là một chiến thuật được nâng đỡ và tính toán nhằm làm hủ hóa hệ thống công lý hình sự để đạt các mục tiêu do chính trị giật dây.
Thế là nay Đức Hồng Y Pell đang ngồi tù, chờ ngày bị kết án vào đầu tháng Ba. Việc Đức Hồng Y Pell vào tù chẳng có chi là tủi nhục cả: nhưng tủi nhục hiển nhiên phải chính là tâm tình phải có của những kẻ đã đặt ngài vào đó.
Đức Hồng Y Pell từng bị cáo gian năm 2002, và trước ngài, Đức Hồng Y Joseph Bernardin của Chicago cũng từng bị cáo gian vào năm 1993. Cả hai vụ cáo gian đều được dàn xếp bằng cách chạy đến với cảnh sát hay tòa án.
Tuy nhiên, trường hợp của Đức Hồng Y Pell không phải là một vụ hoài thai công lý giống như một sai lầm. Nó được thực hiện với cảnh sát và công tố viên có ác ý từ trước.
Vụ kiện chống lại Đức Hồng Y Pell kỳ quái một cách lố bịch đến nỗi các công tố viên phải mất hai lần mới có được các lời kết tội. Phiên tòa đầu tiên, vào tháng 9, đã kết thúc bằng một bồi thẩm đoàn ngang ngửa, trong đó, 10 bồi thẩm viên bỏ phiếu vô tội trong khi có 2 người khăng buộc tội ngài.
Tuy không có thêm bất kỳ tố cáo nào mới từ nguyên cáo hay từ bất cứ người nào khác về bất cứ hành vi sai trái nào của ngài từ lần xử trước đến lần xử này; và đồng thời cảnh sát cũng bị chỉ ra là đã sơ suất trong việc điều tra hiện trường vụ án được cho là nơi xảy ra lạm dụng; thế mà bồi thẩm đoàn thứ hai đã bỏ phiếu 12-0 để kết tội ngài!
Thẩm phán phiên tòa cũng có vẻ ngạc nhiên khi nghe phán quyết. Trước tòa, mẹ của người được cho là nạn nhân thứ hai, nay đã chết, cho biết con bà đã nói với bà trước khi qua đời rằng anh ta chưa bao giờ bị lạm dụng tính dục.
Công tố viện buộc tội rằng Đức Hồng Y Pell, thay vì chào hỏi mọi người sau Thánh lễ, như thông lệ của ngài, lập tức rời bỏ mọi người, và đi vào phòng áo lễ không có ai đi cùng. Một mình vào phòng áo lễ, ngài thấy hai cậu bé ca viên đang uống trộm rượu lễ và tấn công tình dục hai cậu bé ấy.
Sự thật là lúc nào bên cạnh ngài cũng có vị trưởng ban nghi lễ Phụng Vụ đi kèm. Đức Ông Charles Portelli, vị phụ trách các nghi lễ Phụng Vụ của ngài, đã làm chứng rằng những cuộc tấn công không thể xảy ra bởi vì “Tôi đã ở bên ngài suốt thời gian ngài mặc áo lễ trong những ngày đó.”
Hơn thế nữa, phòng áo của nhà thờ chính tòa St. Patrick lúc nào cũng nhộn nhịp sau thánh lễ với ít nhất hàng chục người ra vào, dọn dẹp và thay áo. Ai đã từng đến nhà thờ này đều nhận ra phòng áo này lúc nào cũng mở toang sau thánh lễ và có thể quan sát từ nhiều phía.
Các điều được cáo buộc trên không thể nào xảy ra được. Hãy hỏi bất cứ linh mục của một giáo xứ có kích thước bình thường - huống hồ là một nhà thờ chính tòa - xem có thể cưỡng hiếp các cậu bé ca viên trong nhà thờ ngay sau Thánh lễ được không. Hãy hỏi bất cứ linh mục nào xem ngài có thường ở một mình trong phòng áo ngay sau Thánh lễ, trong khi vẫn còn người trong nhà thờ và thánh đường chưa được dọn sạch.
Hơn nữa không thể thực hiện việc cho là giao hợp khi mặc đầy đủ phẩm phục để cử hành Thánh lễ. Một lần nữa, hãy hỏi bất cứ một linh mục nào - huống chi là một tổng giám mục, người được mặc nhiều phẩm phục hơn - về sự lúng túng khi phải đến viếng nhà vệ sinh, nếu cần thiết, sau khi đã mặc phẩm phục. Nó đòi hỏi phải cởi phẩm phục, ít nhất một phần, hoặc phải xử lý vụng về các phẩm phục khác nhau, khiến việc sử dụng nhà vệ sinh trở nên khó khăn, nói chi đến việc tấn công tình dục.
Người khiếu nại nói rằng Đức Hồng Y Pell chỉ vạch phẩm phục của ngài sang một bên, một điều không thể có, vì áo anba không có các lỗ hổng như vậy.
Điều mà Đức Hồng Y Pell bị cáo buộc đã làm chỉ đơn giản là điều không thể có, ngay cả khi ngài điên rồ cách nào đó để thử làm như vậy. Hơn nữa, bất cứ người đàn ông nào cố gắng hãm hiếp các bé trai ở nơi công cộng với người ta đi qua đi lại hẳn phải là loại người phạm tội liều lĩnh, mà về họ, chắc chắn đã phải có cả một lịch sử lâu dài về hành vi đó. Tất nhiên, trong trường hợp này, không hề có một lịch sử như vậy.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi một bồi thẩm đoàn gồm 12 công dân bình thường có thể bị thuyết phục, trái với bằng chứng và lương tri, rằng Đức Hồng Y Pell đã phạm tội. Dù sao, hàng chục này đến hàng chục khác các cảnh sát và công tố viên được đào tạo và có kinh nghiệm đã quyết định rằng cựu tổng giám mục Sydney có tội ngay cả trước khi bất cứ cáo buộc nào được đưa ra. Đó là sự căm thù của Úc đối với Giáo Hội Công Giáo nói chung và Đức Hồng Y George Pell nói riêng.
Vào năm 2013, cảnh sát Victoria đã phát động “Cuộc Hành Quân Tethering” để điều tra Đức Hồng Y Pell, mặc dù không có khiếu nại nào chống lại ngài. Sau đó, một chiến dịch kéo dài bốn năm để tìm những người sẵn sàng cáo buộc lạm dụng tình dục, một chiến dịch bao gồm cảnh sát Victoria lấy quảng cáo trên báo yêu cầu người ta khiếu nại về lạm dụng tình dục tại nhà thờ chính tòa Melbourne - trước khi có bất cứ khiếu nại nào.
Với việc Úc đang trải qua một cuộc điều tra của ủy ban hoàng gia về lạm dụng tình dục - với việc Giáo Hội Công Giáo thu hút phần lớn sự chú ý - chỉ là vấn đề thời gian trước khi tìm thấy một ai đó có thể nói điều gì đó, hoặc nhớ điều gì đó, hoặc, nếu cần thiết, chế tạo nó hoàn toàn. Sau tất cả những nỗ lực như thế mà cảnh sát Victoria chỉ có thể tạo ra được một vụ án với những chứng cứ mỏng manh như vậy tự nó là một dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy Đức Hồng Y Pell hoàn toàn vô tội.
Trong các vụ lạm dụng tình dục ở Victoria, nạn nhân làm chứng tại tòa án kín, nên công chúng không biết và không thể đánh giá tính đáng tin cậy của những gì được nói ra.
Trong phiên tòa đầu tiên, người khiếu nại đã làm chứng trước bồi thẩm đoàn. Bồi thẩm đoàn đã bỏ phiếu không kết án. Trong phiên tòa thứ hai, người khiếu nại hoàn toàn không làm chứng, nhưng các ghi chép về lời khai của anh ta trong phiên tòa đầu tiên đã được đưa ra thay thế. Dường như bồi thẩm đoàn đầu tiên, những người được nghe người khiếu nại trực tiếp, thấy anh ta ít đáng tin hơn bồi thẩm đoàn thứ hai, những người không gặp anh ta trực tiếp.
Do đó, Đức Hồng Y Pell đã bị kết án dựa trên lời khai của một nhân chứng đã trình bày một câu chuyện không đáng tin, không có bằng chứng thêm (corroboration), không có bất cứ bằng chứng vật lý nào và không có bất cứ mẫu tác phong nào trước đó, trước sự kiên quyết nhất mực của người bị coi là thủ phạm rằng không có chuyện gì thuộc loại này xảy ra cả. Điều đó, gần như theo định nghĩa, đáp ứng các tiêu chuẩn của sự nghi ngờ hợp lý.
Càng ngạc nhiên hơn nữa, bồi thẩm đoàn kết án Đức Hồng Y Pell đã tấn công cậu bé thứ hai, mặc dù anh ta đã phủ nhận với chính gia đình mình rằng mình từng bị quấy rối. Người được cho là nạn nhân thứ hai đã chết năm 2014. Anh ta không bao giờ khiếu nại, không bao giờ được cảnh sát phỏng vấn và không bao giờ được kiểm tra tại tòa án.
Không có sự thù hận công cộng đối với Đức Hồng Y Pell, một trường hợp như vậy thậm chí sẽ không bao giờ được đưa ra tòa. Nhưng chỉ vì cảnh sát đã có người của họ trước khi họ có bất cứ cáo buộc hay bằng chứng nào, các công tố viên biết rằng họ có cơ hội tốt để có được một bồi thẩm đoàn quyết tâm kết án Đức Hồng Y Pell đến mức họ chỉ cần cho những người này cơ hội mà thôi.
Theo luật Victoria, một thẩm phán có thể ban hành lệnh cấm bất cứ và mọi tường trình về vụ án, khi họ nghĩ là cần thiết để bảo vệ một phiên tòa khỏi bị áp lực công cộng không đáng có. Lệnh cấm tường trình này, có nghĩa là ngay cả các cáo buộc chống lại Đức Hồng Y Pell cũng không được tiết lộ cho đến tuần này, hơn hai tháng sau khi bị kết án, rõ ràng là để bảo vệ các công tố viên khỏi phải thanh minh về sự yếu kém của họ trước tòa án công luận. Nếu chuyện này mà xảy ra gần hai năm trước, ít nhất sẽ có một chút áp lực đối với bộ trưởng tư pháp Victoria phải duyệt lại xem liệu công lý đám đông có đang xảy ra hay không, như năm ngoái tại Úc, nơi Đức Tổng Giám Mục Philip Wilson của thành phố Adelaide bị kết án vì che đậy một vụ lạm dụng tình dục.
Chỉ vài tháng sau, ngài được tha bổng khi chống án, với thẩm phán tòa phúc thẩm phán quyết rằng bồi thẩm đoàn kết án ngài có khả năng bị ảnh hưởng bởi cơn giận dữ công khai đối với Giáo Hội Công Giáo.
Việc ấy đã xảy ra một lần nữa.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Cụm từ “bách hại tôn giáo” mà cha Raymond J. de Souza dùng xem ra có vẻ lạ tai với nhiều người, vì ai cũng biết Úc là một quốc gia dân chủ tiên tiến.
Nếu muốn biết rõ hơn những nhận định của cha Raymond J. de Souza, và tìm ra chút ý nghĩa cho những chiến dịch phỉ báng hết đợt này đến đợt khác nhắm vào Đức Hồng Y Pell đã kéo dài từ gần 3 thập niên qua, mà đỉnh cao là vụ khởi tố này; cũng như những xung đột giữa Giáo Hội và chính quyền dân sự như việc bắt các linh mục vi phạm ấn tín giải tội, yêu sách đòi Giáo Hội bỏ luật độc thân linh mục, câu chuyện khởi tố Đức Cha Wilson của tổng giáo phận Adelaide… có lẽ ta nên đọc qua cuốn “God and Caesar” của chính Đức Hồng Y George Pell.
Ngay trong những dòng đầu tiên của cuốn sách, Đức Hồng Y, một tác giả viết rất nhiều, rất hay, nổi tiếng đến mức từng được coi là ứng viên Giáo Hoàng sáng giá trong Cơ Mật Viện 2013, sau khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 tuyên bố thoái vị, đã nói về nền dân chủ tại Úc, và cho biết rằng tại Úc đã có những thời tâm tình bài Công Giáo trắng trợn đến mức không hiếm những quảng cáo về công ăn việc làm ghi rõ “Người Công Giáo và Do Thái Giáo xin miễn nộp đơn.” Miễn nộp đơn không có nghĩa là khỏi cần nộp đơn, cứ ngang nhiên vào làm thẳng. Không. Miễn nộp đơn là “đi chỗ khác chơi đi”.
Trong những ngày này, người ta nghe và thấy nhan nhãn trên các đài truyền hình những tiếng hò reo và những biểu ngữ “Cút đi, đừng thống trị thế giới chúng tôi.” Trước đó, hơn một thập niên trước, sau khi cuốn “God and Caesar” của Đức Hồng Y được tung ra vào năm 2007, có những người như David Marr viết hàng chục cuốn khác, cũng như tổ chức hàng trăm buổi diễn thuyết để công kích ngài. Những điều này tiêu biểu cho sự cọ sát quyết liệt giữa Giáo Hội và chủ nghĩa thế tục cực đoan tại Úc.
Bàn về hiện tượng này, Đức Hồng Y George Pell đã viết trong cuốn “God and Caesar”:
“Một trong những vấn đề then chốt vẫn tồn tại cho đến nay là tiến trình dân chủ có ý nghĩa gì và đâu là mức độ nó cho phép sự hội nhập các giá trị căn bản Kitô Giáo như cơ sở cho các luật cụ thể. Quan điểm đương đại và đang lan tràn cho rằng Giáo Hội không thể áp đặt các ý tưởng của mình trong một xã hội tự do thời nay. Tuy nhiên, cần phải chỉ ra những chỉnh lý cần thiết cho quan điểm đương đại và đang thịnh hành này, chẳng hạn như sự ngộ nhận của đa số dân chúng đối với lương tâm cá nhân, khuynh hướng đẩy lùi niềm tin và qua đó là các giáo huấn của Giáo Hội vào bầu khí cá nhân như thể các giáo huấn ấy không phản ảnh những sự thật cơ bản, tầm quan trọng của việc ta phải có thể khẳng định niềm tin của mình, và tiến trình dân chủ phải thực sự khích lệ một sự thảo luận mạnh mẽ về bản chất thực sự của việc tham gia vào tiến trình xây dựng dân chủ. Sự kiện đơn giản là Giáo Hội có một vai trò căn bản trong việc hình thành các giá trị của một quốc gia, đặc biệt thông qua các tranh luận một cách dân chủ. Bất cứ mưu toan nào nhằm làm câm nín vai trò thực sự này của Giáo Hội là một mối nguy hiểm cho xã hội đương đại.”
Bàn về nền dân chủ tại Úc; và vai trò của Kitô hữu trong thế giới đương đại trong việc phê phán và đối thoại với các tầng lớp khác trong Giáo Hội, Đức Hồng Y viết:
Nền dân chủ tại Úc là một thiện ích đối với cộng đoàn Công Giáo, những người trải rộng trên toàn thể lục địa này, nhưng chẳng chiếm được đa số ở bất cứ một địa phương nào.
Từ năm 1986, Công Giáo đã thay thế Anh Giáo trong vai trò là tôn giáo có đông tín hữu nhất quốc gia, với hơn một phần tư dân số một chút. Người Công Giáo đã hoan nghênh việc tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà nước, đầu tiên như một sự bảo vệ cho họ chống lại khối đa số Anh Giáo – Tin Lành, trong khi lặng lẽ lờ đi thông điệp Vehementer Nos của Đức Giáo Hoàng Piô thứ Mười công bố vào tháng Hai 1906, trong đó ngài gọi việc tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà nước là “một bất công nghiêm trọng” chống lại Thiên Chúa. Cũng như tại Hoa Kỳ, họ nhận thức rằng nền dân chủ của họ, về cơ bản, không nhằm chống lại Thiên Chúa cũng như tôn giáo của họ.
Nhiệt tình bài tôn giáo hiếm khi bùng lên tỏ tường tại Úc. Chẳng hạn, chưa từng có nhà thờ Công Giáo nào bị đốt bởi một nhóm côn đồ gây rối người Úc. Thực hành tôn giáo thấp hơn hầu hết mọi miền tại Hoa Kỳ, nhưng sự hung hăng thể hiện bằng bạo lực của chủ nghĩa thế tục cũng ít hơn. Người ta cho rằng người Úc bị cám dỗ để tầm thường hóa Chúa Kitô nhưng không đến mức đóng đinh Ngài. Chắc chắn là việc tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà nước không ngăn chặn những khoản trợ cấp của nhà nước cho vốn ban đầu và chi phí điều hành các trường học của các tôn giáo như các trường của Công Giáo, Tin Lành, Do Thái Giáo, Hồi Giáo và các tôn giáo khác.
Trong hầu hết các phần của thế giới nói tiếng Anh bên ngoài Anh quốc và Ái Nhĩ Lan, đức tin Công Giáo được gieo trồng bởi các di dân Ái Nhĩ Lan, là những người không có chút cảm tình nào với Hoàng Gia và cái hệ thống đã đối xử tệ bạc với họ hàng bao nhiêu thế kỷ tại Ái Nhĩ Lan. Do đó, khác với nhiều miền tại lục địa Âu Châu, người Công Giáo tại Úc không mặn mà chút nào với những gì liên hệ đến nữ hoàng, triều đình và thường bỏ phiếu cho đảng Lao Động hay đảng Dân Chủ. Điều này ngày nay đang thay đổi hay đã thay đổi.
Chủ nghĩa bè phái, lan tràn như một trận dịch tái đi tái lại nhiều lần trong lịch sử Úc cho đến sau Thế Chiến Thứ Hai, là một sự xung đột giữa người Anh và người Ái Nhĩ Lan, giữa người Tin Lành và người Công Giáo hơn là bất cứ cuộc chiến nào giữa chủ nghĩa thế tục và tôn giáo, mặc dù ngày nay căng thẳng xã hội đáng kể nhất là giữa chủ nghĩa tự do thế tục và một hình thức liên minh mới giữa Kitô Giáo và Do Thái Giáo, mà các thành viên tích cực là những người Công Giáo và người Tin Lành.
Úc không có một miền tương đương với miền New England của người Thanh Giáo vào thế kỷ thứ 17, ngay cả tại khu vực Nam Úc, và cũng không có một miền nào so sánh được với vùng vành đai Tin Lành (Bible Belt) đương đại tại các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ.
Sinh ra trong thời Thế Chiến Thứ Hai, kết thúc với thắng lợi của Đồng Minh trước khi tôi đủ trí khôn để nhận thức được cuộc xung đột này, tôi là một thiếu niên trong thập niên 50 đỉnh cao của cuộc chiến tranh lạnh, và rất ngưỡng mộ Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12, và các Hồng Y trong Giáo Hội Công Giáo như Wyszyński, Mindszenty, Stepinac, Beran, và Slipyj là những vị công khai dám đương đầu với chủ nghĩa cộng sản.
Ở tiểu bang quê hương tôi là Victoria ở miền đông nam Úc châu, đời sống người Công Giáo diễn ra dưới quyền cai quản của Đức Tổng Giám Mục Melbourne từ 1917 đến 1963 là Đức Tổng Giám Mục Daniel Mannix, một người Ái Nhĩ Lan. Ngài là người ái mộ Đức Giáo Hoàng Lêô thứ 13, và tin rằng người Công Giáo đã quá chậm lụt trong việc nắm lấy những cơ may của nền dân chủ mở ra trước mắt họ. Ngài cũng là người phê phán mạnh mẽ các “sacristy priests” (linh mục trong phòng thánh nhà thờ), là những vị cho rằng tôn giáo không nên vươn ra bên ngoài bốn bức tường nhà thờ. Cũng như Đức Hồng Y Moran của Sydney và Đức Tổng Giám Mục Duhig của Brisbane, ngài dấn thân trở thành một gương mặt của công chúng, và dùng điều đó như một phương tiện để khích lệ người Công Giáo tăng cường sự tham gia vào đời sống công cộng tại Úc.
Những ưu tiên chủ đạo của Đức Tổng Giám Mục Mannix là vấn đề tôn giáo, và khi ngài qua đời vào năm 1963, đàn chiên của ngài đã có một đức tin sâu sắc và việc thực hành đạo cao một cách hiếm thấy trong lịch sử Kitô Giáo. Ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến nở rộ. Khích lệ của ngài trong ngành giáo dục thể hiện nơi một hệ thống trường học kéo dài suốt 90 năm mà không cần bất cứ tài trợ nào của nhà nước, được điều hành thông qua các dòng tu, đã hình thành một tầng lớp trung lưu người Công Giáo so sánh được – và có lẽ vượt qua cả - những thành công tại Hoa Kỳ.
Khi ngài đặt chân đến đất Úc, nhan nhãn những quảng cáo về công ăn việc làm ghi rõ người Công Giáo và Do Thái Giáo xin miễn nộp đơn. Sự phân biệt đối xử và cô lập là rất thật, cho dù thường là nhẹ nhàng. Ngài khích lệ niềm tự tin và lòng trung thành với Chúa Kitô trong cộng đoàn chủ yếu là người Ái Nhĩ Lan của ngài với những lời bình luận và phê phán xã hội thường xuyên của ngài.
Hai vấn đề gây tranh cãi liên quan đến thời gian cai quản lâu dài của ngài là thành công của ngài trong việc chống lại chính sách bắt buộc thi hành quân dịch trong hai kỳ trưng cầu dân ý hồi Thế Chiến Thứ Nhất và việc ngài công khai ủng hộ các thành viên nghiệp đoàn có xu hướng chống cộng sản (là những người hoạt động trong “các nhóm kỹ nghệ” trong đảng Lao Động thường được gọi là “Groupers”). Bị trục xuất khỏi đảng Lao Động sau những chia rẽ từ 1954 đến 1955, những người này hình thành nên đảng Dân Chủ Lao Động. Trong cố gắng thứ hai này, Đức Tổng Giám Mục Mannix được sự ủng hộ của nhà văn và chính trị gia nổi tiếng người Melbourne B. A. Santamaria.
Tôi ngưỡng mộ Đức Cha Mannix và ông Santamaria khi còn là một thiếu niên, và ngày nay, sau 50 năm, tôi vẫn hết sức ngưỡng mộ các vị. Họ linh hứng trong tôi quyết tâm chống lại bất cứ mưu toan nào nhằm đẩy các giáo huấn Kitô và Công Giáo vào bầu khí riêng tư, và hình thành đáng kể trong tôi nền tảng tri thức cho tư duy của mình. Gương sáng và những bài viết của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng nâng đỡ và khích lệ tôi, và vô số những người khác, giúp tôi kiên trì trong các cuộc chiến về văn hóa, đặc biệt là trong cuộc chiến chống lại “nền văn hóa sự chết”. Thoạt đầu, tôi không thích từ này lắm, nghĩ rằng nó cường điệu quá, thậm chí là có vẻ gây hấn, nhưng khi tôi suy tư về sự lan tràn của nạn dịch phá thai (mà có lẽ một phần ba phụ nữ Úc là nạn nhân), khi tôi nghĩ đến nhiệt tình của công chúng đối với an tử và trợ tử, trào lưu đòi hợp pháp hóa ma túy và những hậu quả của nó, tình trạng suy thoái nhân khẩu học mọi nơi trong thế giới phương Tây, chúng ta phải thấy rằng thuật ngữ này là chính xác và có tính tiên tri.
Quan tâm chủ yếu của tôi là vấn đề tôn giáo. Những bài viết triết học này không phải là một sự thay thế cho lời mời gọi hoán cải, ăn năn và tin vào Tin Mừng của Chúa Kitô, nhưng như là một hệ quả tất yếu quan trọng của lời mời gọi ấy, là chúng ta phải đóng góp vào cuộc đối thoại với xã hội chung quanh chúng ta. Lịch sử và xã hội học chỉ ra rằng các tôn giáo lớn sản sinh ra một cách khác biệt đáng kể các xã hội và các nền văn hóa. Các tôn giáo không chân thật các loại có thể là thuốc độc, nhưng quan tâm của tôi là sự đóng góp của Kitô Giáo và Công Giáo vào đời sống xã hội phương Tây.
Có một vài xác tín cơ bản xuyên suốt những luận văn này. Căn cơ nhất là sự cam kết và kính trọng dành cho lý trí, với tin tưởng rằng trong nhiều trường hợp lý trí có thể giúp chúng ta nhận thức được chân lý. Không có xác tín này, việc bàn cãi về những khác biệt trở thành vô vị và thậm chí là nguy hiểm về lâu dài.
Trong diễn từ gây nhiều tranh cãi của ngài tại Đại Học Regensburg vào năm 2006, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã hùng hồn nhấn mạnh tầm quan trọng của lý trí trong truyền thống tư duy Công Giáo. Chúng ta được mời gọi đến với cuộc gặp gỡ giữa đức tin và lý trí, một cuộc gặp gỡ giữa sự khai sáng thực sự và tôn giáo, vì chính Thiên Chúa là hợp lý. Lý trí là cây cầu chung mà chúng ta bước đi với những người thuộc các tôn giáo khác và những ai không có niềm tin tôn giáo khi chúng ta hoạt động để duy trì và cải thiện các cộng đồng và xã hội chúng ta thông qua đối thoại và bàn cãi.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trong cuốn God and Caesar, Đức Hồng Y đã cố gắng xác định những đóng góp của các tín hữu Kitô cho đời sống dân chủ, những gì chưa được nhìn nhận và những gì đã được xác định, những gì được khích lệ và những gì bị người ta chống lại.
Ngài nói:
Trong một nền dân chủ, các Kitô hữu có quyền hoạt động để đa số trong xã hội chấp nhận quan điểm của họ cũng như đã và đang chấp nhận quan điểm của các công dân khác nhưng không phải được chấp nhận chỉ vì quan điểm ấy được diễn dịch từ các giá trị Kitô nhưng vì nó đóng góp cho sự thăng tiến của nhân loại. Chính trị là lãnh địa của người tín hữu giáo dân hơn là hàng giáo sĩ, đó là một hệ quả tốt từ việc tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà nước.
Các tín hữu Kitô tin rằng Thiên Chúa là một mầu nhiệm của tình yêu, rằng hai giới giới răn trọng nhất đòi buộc tình yêu dành cho Chúa và dành cho tha nhân. Tình yêu chân thật là tình yêu hoàn toàn tự do trao ban, và mọi xã hội tốt phải hoạt động để mang lại một cấu trúc cho tự do. Cái khó khăn ở đây là tự do chỉ có thể tìm thấy nơi sự thật. Tự do, lý trí, và tình yêu là một thể thống nhất ba ngôi vị và đây là lý do trọng tâm tại sao học thuyết xã hội Công Giáo không thể bị cho là công khai hay che đậy việc cổ vũ cho một nền chính trị thần quyền.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Đức Hồng Y cũng đã bàn về quan hệ giữa chân lý Kitô Giáo và các giá trị khác nhau trong các lãnh vực của cuộc sống phương Tây.
Theo ngài:
Dù cho có một ít các khoa học gia vẫn khăng khăng cho rằng tôn giáo đang héo tàn, vai trò của thần học và siêu hình học vẫn còn quan trọng trong đời sống Đại Học, quan trọng như cuộc đối thoại về sự tương hợp giữa Thiên Chúa và thuyết tiến hóa, về khả năng hay nhu cầu của một Đấng Hoạch Định Sáng tạo đằng sau sự sắp đặt trật tự thế giới.
Tính hợp lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa phải được đề cập thường xuyên, đặc biệt cho những người Công Giáo trầm lặng, cho dù tỉ lệ người vô thần có suy giảm đi chăng nữa, trong hoàn cảnh mà các quan điểm trái ngược về hôn nhân, gia đình, sự sống thường gắn bó với việc có niềm tin tôn giáo hay không vẫn tiếp tục khơi lên các xung đột chính trị tại Hoa Kỳ, Úc và các nơi khác.
Chính Chúa Kitô bảo chúng ta rằng “của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Lc 20:25) Điều này vẫn là điểm khởi đầu cho mọi suy tư về Kitô hữu và đời sống chính trị.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Một triết gia và một nhà tư tưởng lớn như Đức Hồng Y chắc chắn không thể phạm vào một tội lỗi như vậy. Xin lặp lại ở đây lời phản biện của Đức Hồng Y với những cáo buộc ngài: “Đó chỉ là những cáo buộc điên loạn”.