Ngày 2 tháng 6 vừa qua, trong buổi triều yết chung tại quảng trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã có bài giáo lý sau đây về Thánh Tôma Aquinô, người mà Đức Thánh Cha cho hay được Giáo Hội gọi là Thánh Tiến Sĩ Chung (Doctor Communis).
Trích dẫn thông điệp “Đức Tin và Lý Trí” của vị tiền nhiệm là Đức Gioan Phaolô II, Đức GH Bênêđíctô XVI nói rằng “Giáo Hội rất có lý khi nhất quán tôn phong Thánh Tôma là bậc thầy của tư duy và là một mẫu mực cho việc nghiên cứu thần học cách đúng đắn” (số 43). Bởi thế, không ai ngạc nhiên khi Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trích dẫn Thánh Tôma đến 61 lần, chỉ sau Thánh Augustinô. Ngài cũng được xưng tụng là Tiến Sĩ Thiên Thần (Doctor Angelicus), có lẽ vì nhân đức của ngài, nhất là nét cao quí trong suy tư và nét trong trắng trong cuộc sống của ngài.
Thánh Tôma sinh giữa các năm 1224 và 1225 trong lâu đài mà gia đình qúi phái và giầu có của ngài sở hữu tại Roccasecca, ngoại ô Aquino và gần đan viện Montecassino nổi tiếng, nơi ngài được gửi tới để tiếp nhận nền giáo huấn đầu đời. Khoảng một năm sau, ngài được gửi tới Naples, thủ phủ Vương Quốc Sicily, nơi Frederick II từng lập một đại học nổi tiếng. Tại đó, ngài được học hỏi không giới hạn tư tưởng của Aristốt, một triết gia Hy Lạp. Ngài lãnh hội ngay được các giá trị vĩ đại của triết gia này.
Nhưng quan trọng hơn cả là trong thời gian ở Naples, ngài đã khám phá ra ơn gọi đi tu Dòng Đa Minh. Thực vậy, Thánh Tôma rất say mê lý tưởng của vị sáng lập ra Dòng này, một Dòng mới được Thánh Đa Minh lập cách đó không lâu. Tuy nhiên, khi mặc áo Dòng, ngài bị gia đình chống đối và buộc phải rời tu viện trở về sống với gia đình.
Năm 1245, lúc đã trưởng thành, ngài được tự do theo đuổi con đường đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Sau đó, ngài được gửi qua Paris học thần học dưới sự hướng dẫn của một vị thánh khác là Thánh Cả Albertô. Giữa hai vị nẩy sinh một tình bạn thâm giao đến độ khi được yêu cầu qua Cologne thiết lập một trung tâm nghiên cứu thần học, Thánh Albertô đã đem theo cả người học trò yêu qúi của mình là Tôma Aquinô. Nhờ sự hướng dẫn và giải thích của Thánh Albertô, Thánh Tôma đã nghiên cứu mọi công trình của Aristốt cũng như các công trình chú giải của các soạn giả Ả Rập.
Trong khoảng thời gian này, nền văn hóa của thế giới La Tinh đã được kích thích một cách sâu sắc nhờ gặp gỡ các công trình của Aristốt, những công trình từng bị lãng quên từ trước đến nay. Đây là những trước tác đề cập tới bản chất của nhận thức, tới các khoa học tự nhiên, tới siêu hình, tới linh hồn và đạo đức học, rất giầu thông tri và trực giác có giá trị và có sức thuyết phục. Chúng đem lại một thế giới quan hoàn bị lúc chưa có Chúa Kitô và trước thời Chúa Kitô, một thế giới quan chỉ dựa vào lý trí, và xem ra buộc lý trí phải nhận như là thế giới quan duy nhất; cho nên, giới trẻ hồi đó rất thích thú được đọc và được biết nền triết học này. Tuy nhiên, trong khi nhiều người say mê tiếp nhận kho tàng học thuật cổ xưa và vĩ đại này, say mê một cách nhiều khi thiếu cả phê phán, coi nó như có khả năng canh tân văn hóa một cách có lợi, và mở ra nhiều chân trời hoàn toàn mới mẻ, thì cũng có người sợ rằng tư tưởng ngoại đạo của Aristốt đi ngược lại đức tin Kitô Giáo, nên họ từ khước không học hỏi nghiên cứu gì về ông. Ở đây, có sự đụng độ của hai nền văn hóa: nền văn hóa tiền Kitô Giáo của Aristốt dựa hẳn vào lý tính, và nền văn hóa Kitô Giáo cổ điển.
Một số môi trường khiến người ta bác bỏ Aristốt. Các trình bày về nền triết lý này của các nhà chú giải Ả Rập như Avicenna và Averroes cũng góp phần vào viếc bác bỏ ấy. Thực ra, chính những nhà chú giải này đã lưu truyền nền triết học Aristốt cho thế giới La Tinh. Cụ thể, họ dạy rằng con người không có một trí hiểu có tính bản vị, mà chỉ có một trí hiểu phổ quát, một bản thể tâm linh chung cho mọi người. Một trí hiểu hành động trong mọi người như thể “chỉ là một”. Họ đã phi bản vị hóa con người. Một điểm gây tranh luận khác của các nhà chú giải Ả Rập là thế giới cũng vĩnh hằng như Thiên Chúa. Tất nhiên, nhiều tranh luận bất tận đã diễn ra trong đại học và các giới Giáo Hội. Triết học Aristốt vì thế phổ biến khắp nơi, cả trong giới bình dân.
Dưới sự hướng dẫn của Thánh Albertô, Thánh Tôma Aquinô đã tiến hành một công trình có tầm quan trọng căn để đối với lịch sử triết học và thần học, nói cách khác, đối với lịch sử văn hóa: ngài nghiên cứu Aristốt và các nhà chú giải ông một cách sâu sắc, tạo ra các bản La Tinh dịch từ nguyên bản Hy Lạp. Như thế, ngài không còn tùy thuộc các nhà chú giải Ả Rập nữa, mà đọc thẳng từ nguyên bản, và đích thân chú giải phần lớn các công trình của Aristốt, nhờ thế phân biệt được điều có giá trị và điều đáng hoài nghi hay cần phải bác bỏ, chứng minh được sự đồng thanh đồng khí với các biến cố của lịch sử mạc khải Kitô Giáo và sử dụng tư tưởng Aristốt một cách đầy đủ và sắc bén để trình bày các trước tác thần học do ngài biên soạn. Tóm lại, Thánh Tôma Aquinô cho ta thấy có một sự hài hòa tự nhiên giữa đức tin Kitô Giáo và lý trí. Đó là công trình vĩ đại của Thánh Tôma, người mà ở thời điểm giao thoa giữa hai nền văn hóa, thời điểm dường như đức tin phải đầu hàng lý trí, đã chứng minh được rằng chúng đi đôi với nhau, rằng điều xem ra lý trí không thể tương hợp với đức tin thực ra không phải là lý trí, và điều xem ra là đức tin không phải là đức tin bao lâu nó đi ngược lại lý tính chân thực; như thế, ngài đã tạo được một tổng hợp mới, một tổng hợp lên khuôn cho cả nền văn hóa của các thế kỷ về sau.
Nhờ có được những khả năng tri thức ngoại thường, Thánh Tôma được triệu về Paris giữ ghế giáo sư thần học do Dòng Đa Minh nắm giữ. Tại đây, ngài cũng bắt đầu cho xuất bản các trước tác của mình, một công việc được ngài theo đuổi tới lúc qua đời, một công việc tuyệt vời: các chú giải Thánh Kinh, vì trước nhất, giáo sư thần học là người phải giải thích Thánh Kinh, các chú giải các trước tác của Aristốt, những công trình lớn lao có tính hệ thống, trong đó trổi vượt hơn cả phải kể Bộ Summa Theologiae (Tổng Luận Thần Học), nhiều khảo luận và giảng khóa về nhiều vấn đề khác nhau. Trong khi trước tác, ngài được một số thư ký giúp đỡ, trong đó có Thầy Reginald thành Piperno, người đã trung thành đi theo ngài và kết tình huynh đệ thâm hậu, hết dạ tin tưởng và tín thác nhau. Đây cũng là một đặc điểm của các vị thánh: kết tình bằng hữu, vì đây là một trong những biểu hiện cao thượng nhất của trái tim con người và chính trong biểu hiện này, ta cũng thấy một điều gì đó hết sức thần thiêng. Chính Thánh Tôma đã giải thích điều này trong Tổng Luận Thần Học khi viết: “Bác ái là tình bằng hữu của con người trước nhất với Thiên Chúa, rồi với những hữu thể thuộc về Người” (II, q.23, a.1).
Ngài không lưu lại Paris lâu và đều đặn. Năm 1259, ngài tham dự Tổng Hội Dòng Đa Minh tại Valenciennes trong đó, ngài là thành viên ủy ban thiết lập ra chương trình học tập của Dòng. Rồi từ năm 1261 tới năm 1265, Thánh Tôma sống tại Orvieto. Đức GH Urban IV, vị GH rất qúi mến ngài, ủy nhiệm cho ngài việc soạn thảo các bản văn phụng vụ cho Lễ Mình Thánh Chúa, được thiết lập sau phép lạ Thánh Thể tại Bolsena. Thánh Tôma có một tâm hồn tuyệt diệu về Thánh Thể. Những thánh thi tuyệt vời mà phụng vụ Giáo Hội ca hát ngày nay để mừng kính mầu nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa thực sự hiện diện trong Phép Thánh Thể đã được gán cho lòng tin và sự khôn ngoan về thần học của ngài. Từ năm 1265 tới năm 1268, Thánh Tôma cư ngụ tại Rôma, nơi có lẽ ngài điều khiển cơ sở Studium tức Nhà Học Của Dòng và cũng là nơi ngài khởi sự viết bộ Tổng Luận Thần Học (Xem Jean Pierre Torrell, Thomas Aquinas: The Man and the Theologian, Casale Monf., 1994, pp. 118-184).
Năm 1269, ngài lại được triệu về Paris để bắt đầu vòng dạy học thứ hai. Các sinh viên dĩ nhiên rất hứng khởi đối với các giảng khóa của ngài. Một trong các cựu sinh viên của ngài cho hay con số các sinh viên dự các khóa giảng của ngài đông đến nỗi không có lớp học nào đủ chỗ cho họ. Anh còn nói thêm “đối với anh, được nghe ngài là một niềm hạnh phúc sâu xa”. Tuy nhiên, lối giải thích Aristốt của Thánh Tôma không phải ai ai cũng chấp nhận, có điều chính kẻ thù của ngài trong giới khoa bảng, như Goffredo di Fontaines, chẳng hạn, cũng phải nhìn nhận rằng học lý của Thầy Tôma cao hơn học lý của những người khác vì tính hữu dụng và giá trị của nó, nó được dùng để sửa sai các học lý của các bậc tiến sĩ khác. Có lẽ muốn tránh cho ngài khỏi những cuộc tranh luận sôi nổi ấy, các bề trên đã phái ngài tới Naples một lần nữa để phục vụ Vua Charles Đệ Nhất, người đang có dự định tái tổ chức việc học tại đại học.
Song song với việc nghiên cứu và giảng dạy, Thánh Tôma cũng dành nhiều thì giờ giảng thuyết cho giáo dân. Và giáo dân tới nghe ngài rất đông. Quả là một hồng ân lớn lao khi các thần học gia biết đơn sơ và sốt sắng nói truyện với người tín hữu bình dân. Ngược lại, thừa tác vụ giảng thuyết cũng giúp các học giả thần học biết được tính thực tại mục vụ lành mạnh và làm giầu hơn việc tìm tòi nghiên cứu của mình nhờ được kích thích.
Những ngày tháng sau cùng trong cuộc đời dương thế của Thánh Tôma đã được bao phủ bằng một bầu không khí đặc biệt, đúng hơn, một bầu không khí bí nhiệm. Thực vậy, tháng 12 năm 1273, thánh nhân cho gọi người bạn và thư ký riêng của mình là Thầy Reginald tới để báo cho thầy hay quyết định ngưng hết mọi việc lại vì trong khi đang cử hành Thánh Lễ, nhờ một mạc khải siêu nhiên, ngài hiểu ra rằng tất cả những gì ngài trước tác cho tới lúc đó đều chỉ là “một đống rơm”. Quả đây là một thời kỳ bí nhiệm, nó giúp ta hiểu không những tính khiêm nhường của Thánh Tôma, mà còn cả sự kiện này là mọi thành công của ta trong tư duy cũng như trong phát biểu về đức tin, dù cao xa và tinh ròng bao nhiêu, cũng còn xa vời vợi chưa nói được gì về sự cao cả và vẻ đẹp của Thiên Chúa, sự cao cả và vẻ đẹp ta chỉ được mạc khải đầy đủ trên Thiên Đàng mà thôi. Mấy tháng sau, lúc đang để hết tâm trí vào việc suy niệm như thường lệ, ngài qua đời trên đường đi Lyon để tham dự công đồng chung do Đức GH Grêgôriô X triệu tập. Ngài mất tại Đan Viện Dòng Xi Tô ở Fossanova, sau khi chịu Của Ăn Đàng một cách hết sức sốt sắng.
Có thể tóm tắt cuộc đời và giáo huấn của Thánh Tôma Aquinô vào câu truyện do các nhà viết tiểu sử hồi đó truyền lại. Vào một buổi sáng kia, khi đang cầu nguyện, như thói quen, trước tượng chịu nạn tại nhà nguyện Thánh Nicholas ở Naples, ông từ nhà nguyện, Domenico da Caserta, nghe thấy một cuộc đối thoại đang diễn ra. Thánh Tôma lo ngại lên tiếng hỏi xem những điều ngài viết về các mầu nhiệm của đức tin Kitô Giáo có đúng không. Thì Tượng Chịu Nạn trả lời: “Tôma ạ, con viết về Thầy hay lắm. Con muốn Thầy thưởng con điều gì?”. Câu trả lời của Thánh Tôma là điều hết thẩy chúng ta, bằng hữu và môn đệ của Chúa Kitô mọi thời, đều muốn thưa: “Lạy Thầy, không gì khác mà là chính Thầy!” (Đã dẫn, tr.320).
Trích dẫn thông điệp “Đức Tin và Lý Trí” của vị tiền nhiệm là Đức Gioan Phaolô II, Đức GH Bênêđíctô XVI nói rằng “Giáo Hội rất có lý khi nhất quán tôn phong Thánh Tôma là bậc thầy của tư duy và là một mẫu mực cho việc nghiên cứu thần học cách đúng đắn” (số 43). Bởi thế, không ai ngạc nhiên khi Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trích dẫn Thánh Tôma đến 61 lần, chỉ sau Thánh Augustinô. Ngài cũng được xưng tụng là Tiến Sĩ Thiên Thần (Doctor Angelicus), có lẽ vì nhân đức của ngài, nhất là nét cao quí trong suy tư và nét trong trắng trong cuộc sống của ngài.
Thánh Tôma sinh giữa các năm 1224 và 1225 trong lâu đài mà gia đình qúi phái và giầu có của ngài sở hữu tại Roccasecca, ngoại ô Aquino và gần đan viện Montecassino nổi tiếng, nơi ngài được gửi tới để tiếp nhận nền giáo huấn đầu đời. Khoảng một năm sau, ngài được gửi tới Naples, thủ phủ Vương Quốc Sicily, nơi Frederick II từng lập một đại học nổi tiếng. Tại đó, ngài được học hỏi không giới hạn tư tưởng của Aristốt, một triết gia Hy Lạp. Ngài lãnh hội ngay được các giá trị vĩ đại của triết gia này.
Nhưng quan trọng hơn cả là trong thời gian ở Naples, ngài đã khám phá ra ơn gọi đi tu Dòng Đa Minh. Thực vậy, Thánh Tôma rất say mê lý tưởng của vị sáng lập ra Dòng này, một Dòng mới được Thánh Đa Minh lập cách đó không lâu. Tuy nhiên, khi mặc áo Dòng, ngài bị gia đình chống đối và buộc phải rời tu viện trở về sống với gia đình.
Năm 1245, lúc đã trưởng thành, ngài được tự do theo đuổi con đường đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Sau đó, ngài được gửi qua Paris học thần học dưới sự hướng dẫn của một vị thánh khác là Thánh Cả Albertô. Giữa hai vị nẩy sinh một tình bạn thâm giao đến độ khi được yêu cầu qua Cologne thiết lập một trung tâm nghiên cứu thần học, Thánh Albertô đã đem theo cả người học trò yêu qúi của mình là Tôma Aquinô. Nhờ sự hướng dẫn và giải thích của Thánh Albertô, Thánh Tôma đã nghiên cứu mọi công trình của Aristốt cũng như các công trình chú giải của các soạn giả Ả Rập.
Trong khoảng thời gian này, nền văn hóa của thế giới La Tinh đã được kích thích một cách sâu sắc nhờ gặp gỡ các công trình của Aristốt, những công trình từng bị lãng quên từ trước đến nay. Đây là những trước tác đề cập tới bản chất của nhận thức, tới các khoa học tự nhiên, tới siêu hình, tới linh hồn và đạo đức học, rất giầu thông tri và trực giác có giá trị và có sức thuyết phục. Chúng đem lại một thế giới quan hoàn bị lúc chưa có Chúa Kitô và trước thời Chúa Kitô, một thế giới quan chỉ dựa vào lý trí, và xem ra buộc lý trí phải nhận như là thế giới quan duy nhất; cho nên, giới trẻ hồi đó rất thích thú được đọc và được biết nền triết học này. Tuy nhiên, trong khi nhiều người say mê tiếp nhận kho tàng học thuật cổ xưa và vĩ đại này, say mê một cách nhiều khi thiếu cả phê phán, coi nó như có khả năng canh tân văn hóa một cách có lợi, và mở ra nhiều chân trời hoàn toàn mới mẻ, thì cũng có người sợ rằng tư tưởng ngoại đạo của Aristốt đi ngược lại đức tin Kitô Giáo, nên họ từ khước không học hỏi nghiên cứu gì về ông. Ở đây, có sự đụng độ của hai nền văn hóa: nền văn hóa tiền Kitô Giáo của Aristốt dựa hẳn vào lý tính, và nền văn hóa Kitô Giáo cổ điển.
Một số môi trường khiến người ta bác bỏ Aristốt. Các trình bày về nền triết lý này của các nhà chú giải Ả Rập như Avicenna và Averroes cũng góp phần vào viếc bác bỏ ấy. Thực ra, chính những nhà chú giải này đã lưu truyền nền triết học Aristốt cho thế giới La Tinh. Cụ thể, họ dạy rằng con người không có một trí hiểu có tính bản vị, mà chỉ có một trí hiểu phổ quát, một bản thể tâm linh chung cho mọi người. Một trí hiểu hành động trong mọi người như thể “chỉ là một”. Họ đã phi bản vị hóa con người. Một điểm gây tranh luận khác của các nhà chú giải Ả Rập là thế giới cũng vĩnh hằng như Thiên Chúa. Tất nhiên, nhiều tranh luận bất tận đã diễn ra trong đại học và các giới Giáo Hội. Triết học Aristốt vì thế phổ biến khắp nơi, cả trong giới bình dân.
Dưới sự hướng dẫn của Thánh Albertô, Thánh Tôma Aquinô đã tiến hành một công trình có tầm quan trọng căn để đối với lịch sử triết học và thần học, nói cách khác, đối với lịch sử văn hóa: ngài nghiên cứu Aristốt và các nhà chú giải ông một cách sâu sắc, tạo ra các bản La Tinh dịch từ nguyên bản Hy Lạp. Như thế, ngài không còn tùy thuộc các nhà chú giải Ả Rập nữa, mà đọc thẳng từ nguyên bản, và đích thân chú giải phần lớn các công trình của Aristốt, nhờ thế phân biệt được điều có giá trị và điều đáng hoài nghi hay cần phải bác bỏ, chứng minh được sự đồng thanh đồng khí với các biến cố của lịch sử mạc khải Kitô Giáo và sử dụng tư tưởng Aristốt một cách đầy đủ và sắc bén để trình bày các trước tác thần học do ngài biên soạn. Tóm lại, Thánh Tôma Aquinô cho ta thấy có một sự hài hòa tự nhiên giữa đức tin Kitô Giáo và lý trí. Đó là công trình vĩ đại của Thánh Tôma, người mà ở thời điểm giao thoa giữa hai nền văn hóa, thời điểm dường như đức tin phải đầu hàng lý trí, đã chứng minh được rằng chúng đi đôi với nhau, rằng điều xem ra lý trí không thể tương hợp với đức tin thực ra không phải là lý trí, và điều xem ra là đức tin không phải là đức tin bao lâu nó đi ngược lại lý tính chân thực; như thế, ngài đã tạo được một tổng hợp mới, một tổng hợp lên khuôn cho cả nền văn hóa của các thế kỷ về sau.
Nhờ có được những khả năng tri thức ngoại thường, Thánh Tôma được triệu về Paris giữ ghế giáo sư thần học do Dòng Đa Minh nắm giữ. Tại đây, ngài cũng bắt đầu cho xuất bản các trước tác của mình, một công việc được ngài theo đuổi tới lúc qua đời, một công việc tuyệt vời: các chú giải Thánh Kinh, vì trước nhất, giáo sư thần học là người phải giải thích Thánh Kinh, các chú giải các trước tác của Aristốt, những công trình lớn lao có tính hệ thống, trong đó trổi vượt hơn cả phải kể Bộ Summa Theologiae (Tổng Luận Thần Học), nhiều khảo luận và giảng khóa về nhiều vấn đề khác nhau. Trong khi trước tác, ngài được một số thư ký giúp đỡ, trong đó có Thầy Reginald thành Piperno, người đã trung thành đi theo ngài và kết tình huynh đệ thâm hậu, hết dạ tin tưởng và tín thác nhau. Đây cũng là một đặc điểm của các vị thánh: kết tình bằng hữu, vì đây là một trong những biểu hiện cao thượng nhất của trái tim con người và chính trong biểu hiện này, ta cũng thấy một điều gì đó hết sức thần thiêng. Chính Thánh Tôma đã giải thích điều này trong Tổng Luận Thần Học khi viết: “Bác ái là tình bằng hữu của con người trước nhất với Thiên Chúa, rồi với những hữu thể thuộc về Người” (II, q.23, a.1).
Ngài không lưu lại Paris lâu và đều đặn. Năm 1259, ngài tham dự Tổng Hội Dòng Đa Minh tại Valenciennes trong đó, ngài là thành viên ủy ban thiết lập ra chương trình học tập của Dòng. Rồi từ năm 1261 tới năm 1265, Thánh Tôma sống tại Orvieto. Đức GH Urban IV, vị GH rất qúi mến ngài, ủy nhiệm cho ngài việc soạn thảo các bản văn phụng vụ cho Lễ Mình Thánh Chúa, được thiết lập sau phép lạ Thánh Thể tại Bolsena. Thánh Tôma có một tâm hồn tuyệt diệu về Thánh Thể. Những thánh thi tuyệt vời mà phụng vụ Giáo Hội ca hát ngày nay để mừng kính mầu nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa thực sự hiện diện trong Phép Thánh Thể đã được gán cho lòng tin và sự khôn ngoan về thần học của ngài. Từ năm 1265 tới năm 1268, Thánh Tôma cư ngụ tại Rôma, nơi có lẽ ngài điều khiển cơ sở Studium tức Nhà Học Của Dòng và cũng là nơi ngài khởi sự viết bộ Tổng Luận Thần Học (Xem Jean Pierre Torrell, Thomas Aquinas: The Man and the Theologian, Casale Monf., 1994, pp. 118-184).
Năm 1269, ngài lại được triệu về Paris để bắt đầu vòng dạy học thứ hai. Các sinh viên dĩ nhiên rất hứng khởi đối với các giảng khóa của ngài. Một trong các cựu sinh viên của ngài cho hay con số các sinh viên dự các khóa giảng của ngài đông đến nỗi không có lớp học nào đủ chỗ cho họ. Anh còn nói thêm “đối với anh, được nghe ngài là một niềm hạnh phúc sâu xa”. Tuy nhiên, lối giải thích Aristốt của Thánh Tôma không phải ai ai cũng chấp nhận, có điều chính kẻ thù của ngài trong giới khoa bảng, như Goffredo di Fontaines, chẳng hạn, cũng phải nhìn nhận rằng học lý của Thầy Tôma cao hơn học lý của những người khác vì tính hữu dụng và giá trị của nó, nó được dùng để sửa sai các học lý của các bậc tiến sĩ khác. Có lẽ muốn tránh cho ngài khỏi những cuộc tranh luận sôi nổi ấy, các bề trên đã phái ngài tới Naples một lần nữa để phục vụ Vua Charles Đệ Nhất, người đang có dự định tái tổ chức việc học tại đại học.
Song song với việc nghiên cứu và giảng dạy, Thánh Tôma cũng dành nhiều thì giờ giảng thuyết cho giáo dân. Và giáo dân tới nghe ngài rất đông. Quả là một hồng ân lớn lao khi các thần học gia biết đơn sơ và sốt sắng nói truyện với người tín hữu bình dân. Ngược lại, thừa tác vụ giảng thuyết cũng giúp các học giả thần học biết được tính thực tại mục vụ lành mạnh và làm giầu hơn việc tìm tòi nghiên cứu của mình nhờ được kích thích.
Những ngày tháng sau cùng trong cuộc đời dương thế của Thánh Tôma đã được bao phủ bằng một bầu không khí đặc biệt, đúng hơn, một bầu không khí bí nhiệm. Thực vậy, tháng 12 năm 1273, thánh nhân cho gọi người bạn và thư ký riêng của mình là Thầy Reginald tới để báo cho thầy hay quyết định ngưng hết mọi việc lại vì trong khi đang cử hành Thánh Lễ, nhờ một mạc khải siêu nhiên, ngài hiểu ra rằng tất cả những gì ngài trước tác cho tới lúc đó đều chỉ là “một đống rơm”. Quả đây là một thời kỳ bí nhiệm, nó giúp ta hiểu không những tính khiêm nhường của Thánh Tôma, mà còn cả sự kiện này là mọi thành công của ta trong tư duy cũng như trong phát biểu về đức tin, dù cao xa và tinh ròng bao nhiêu, cũng còn xa vời vợi chưa nói được gì về sự cao cả và vẻ đẹp của Thiên Chúa, sự cao cả và vẻ đẹp ta chỉ được mạc khải đầy đủ trên Thiên Đàng mà thôi. Mấy tháng sau, lúc đang để hết tâm trí vào việc suy niệm như thường lệ, ngài qua đời trên đường đi Lyon để tham dự công đồng chung do Đức GH Grêgôriô X triệu tập. Ngài mất tại Đan Viện Dòng Xi Tô ở Fossanova, sau khi chịu Của Ăn Đàng một cách hết sức sốt sắng.
Có thể tóm tắt cuộc đời và giáo huấn của Thánh Tôma Aquinô vào câu truyện do các nhà viết tiểu sử hồi đó truyền lại. Vào một buổi sáng kia, khi đang cầu nguyện, như thói quen, trước tượng chịu nạn tại nhà nguyện Thánh Nicholas ở Naples, ông từ nhà nguyện, Domenico da Caserta, nghe thấy một cuộc đối thoại đang diễn ra. Thánh Tôma lo ngại lên tiếng hỏi xem những điều ngài viết về các mầu nhiệm của đức tin Kitô Giáo có đúng không. Thì Tượng Chịu Nạn trả lời: “Tôma ạ, con viết về Thầy hay lắm. Con muốn Thầy thưởng con điều gì?”. Câu trả lời của Thánh Tôma là điều hết thẩy chúng ta, bằng hữu và môn đệ của Chúa Kitô mọi thời, đều muốn thưa: “Lạy Thầy, không gì khác mà là chính Thầy!” (Đã dẫn, tr.320).