1. Nhà ngoại giao hàng đầu của Vatican cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, kêu gọi chấm dứt các luận điệu thù hận
Thông tín viên Elise Ann Allen của tờ Crux, thường trú tại Rôma, có bài tường trình nhan đề “Top Vatican diplomat prays for pope, urges end to rhetoric of hate” nghĩa là “Nhà ngoại giao hàng đầu của Vatican cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, kêu gọi chấm dứt các luận điệu thù hận”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Đức Hồng Y Pietro Parolin người Ý, Quốc vụ khanh Vatican, đã cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho sức khỏe và sự phục hồi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cầu nguyện cho ngài sớm trở lại sau một tháng nằm bệnh viện.
Suy ngẫm về bài đọc Tin Mừng trong ngày trích từ Mát-thêu, Đức Hồng Y Parolin cũng lên án những gì ngài cho là lời lẽ thù hận giữa mọi người dẫn đến bạo lực, và kêu gọi ý thức hơn về tình anh em và hòa giải.
Người ta đã nói nhiều lần rằng, “để tìm kiếm hòa bình, trước hết chúng ta phải giải trừ vũ khí ngôn ngữ, không sử dụng ngôn ngữ hung hăng, xúc phạm trước mặt người khác… Chúa nhắc nhở chúng ta rằng, chiến tranh bắt đầu từ đó: Những lời khinh miệt và thù hận đối với người khác”.
Đức Hồng Y Parolin đã cử hành Thánh lễ ngày 14 tháng 3 bên trong nhà nguyện Pauline thuộc cung điện tông tòa của Vatican cùng với các thành viên của giáo triều và đoàn ngoại giao được Tòa thánh công nhận vì sức khỏe của Đức Giáo Hoàng Phanxicô khi ngài vẫn đang chiến đấu với căn bệnh hô hấp nghiêm trọng.
Đức Phanxicô đã được đưa vào Bệnh viện Gemelli của Rôma vào ngày 14 tháng 2 để điều trị nhiễm trùng đường hô hấp phức tạp và viêm phổi kép khiến ngài phải liên tục thở oxy cao.
Các bác sĩ cho biết Đức Giáo Hoàng được coi là đã qua khỏi nguy cơ tử vong ngay lập tức, tuy nhiên, vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy ngài có thể xuất viện.
Thứ năm, ngày 13 tháng 3, đánh dấu kỷ niệm 12 năm ngày Đức Phanxicô được bầu làm Đức Giáo Hoàng, một cột mốc mà ngài đã kỷ niệm tại Gemelli cùng với các nhân viên bệnh viện, những người đã bất ngờ tặng ngài một chiếc bánh và mười hai ngọn nến.
Trong bài giảng lễ của ngài vào thứ Sáu, Đức Hồng Y Parolin đã cầu xin cho Đức Giáo Hoàng “có thể hồi phục để sớm trở về với chúng ta”, và ngài cũng lưu ý việc kỷ niệm ngày bầu cử của Đức Phanxicô, nói rằng sự kiện này “khiến lời cầu nguyện của chúng ta thậm chí còn mãnh liệt và sống động hơn”.
Đức Hồng Y Parolin cho biết lời cầu nguyện này không hẳn là lời yêu cầu Thiên Chúa, “bởi vì Thiên Chúa đã biết chúng ta cần gì”, mà đúng hơn là một cơ hội để đặt mình vào vị trí lắng nghe tiếng Thiên Chúa, mà ngài nói “là cách tốt nhất để Người lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta… một trái tim rộng mở lắng nghe lời Người”.
Sau đó, ngài chuyển sang bài đọc Tin Mừng trong ngày, trong đó Chúa Giêsu đã cảnh cáo, “Các con đã nghe lời dạy của tổ tiên rằng: Chớ giết người; và bất cứ ai giết người sẽ bị đưa ra xét xử”.
“Nhưng Ta bảo các ngươi, ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra xét xử… và ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị lửa địa ngục thiêu đốt,” Chúa Giêsu nói trong đoạn văn, bảo các môn đồ rằng “nếu các ngươi dâng lễ vật lên bàn thờ, mà nhớ lại anh em mình có điều gì bất bình với mình, thì hãy để lễ vật lại đó, đi làm hòa với anh em mình trước, rồi hãy đến dâng lễ vật.”
Đức Hồng Y Parolin nói rằng trong việc theo đuổi công lý, “nếu các ngươi không vượt qua được luận lý học của con người khi tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa, thì các ngươi sẽ không bao giờ tìm thấy.”
Trước hết, điều này được áp dụng cho những người xung quanh chúng ta, ngài nói rằng các tín hữu phải xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa bằng cách xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với người khác.
“Trước hết, chúng ta được kêu gọi tìm kiếm mối quan hệ với Thiên Chúa nơi những người khác, những người xung quanh chúng ta,” ngài nói, và nói rằng các mối quan hệ của Kitô hữu “phải được xây dựng trên lòng bác ái. Chúng ta biết rằng lòng bác ái, tình yêu thương người khác, là bằng chứng cho tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa.”
Ngài chất vấn những người tham dự, hỏi rằng, “làm sao chúng ta có thể yêu Thiên Chúa mà chúng ta không nhìn thấy nếu chúng ta không yêu anh em mình, người mà chúng ta nhìn thấy?”
Đức Hồng Y Parolin lưu ý rằng trong Tin mừng, Chúa Giêsu đặt sự thù hận và lăng mạ người khác ngang hàng với giết người, nói rằng điều này có vẻ “nghịch lý” và “hơi cực đoan”, nhưng đây là cách xung đột thường bắt đầu.
“Những cuộc chiến bùng nổ trên thế giới” không phải sinh ra trên chiến trường, mà “sinh ra ở đây, trong trái tim”, ngài nói, và thêm rằng sự hòa giải và lòng bác ái đối với người khác mà Chúa Giêsu khuyến khích trực tiếp chống lại “thái độ thù hận và thù địch”.
Đối với các Kitô hữu, có một “bổn phận hòa giải” trước khi đến dâng lễ vật lên Thiên Chúa, ngài nói, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng đối với các tín hữu trong việc hòa giải với những người đã làm tổn thương hoặc lăng mạ họ, hoặc với những người mà họ có thể đã “xúc phạm, phán xét tệ hại, ngược đãi”.
Đức Hồng Y Parolin nói rằng việc cố gắng dâng mình cho Thiên Chúa mà không hòa giải với người khác là “một hành động đạo đức giả”, và hỏi rằng, “Ai trong chúng ta không cần phải cầu xin sự tha thứ của ai đó hoặc nói lời xin lỗi với ai đó?”
Ngài lưu ý rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nói rằng những từ “làm ơn, cảm ơn và xin lỗi” thường khó nói, nhưng lại rất cần thiết để sống bác ái.
Mặc dù có vẻ như là “một điều gì đó cực đoan”, nhưng ngài cho biết, các Kitô hữu phải “gạt sang một bên mọi chiến lược đối đầu để đón nhận những tình cảm tốt đẹp”.
Đức Hồng Y Parolin cho biết, các Kitô hữu không thể tự mình làm điều này, nhưng may mắn thay, “có một bàn tay giúp chúng ta từ trên cao.”
Ngài kết thúc bài giảng của mình một lần nữa bằng lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, nói rằng, “lời cầu nguyện của chúng ta cho sức khỏe của Đức Giáo Hoàng mang đến cho chúng ta một động lực mới hướng đến Chúa của mọi điều tốt lành.”
2. Niềm vui tại Giáo phận Công Giáo Yola của Nigeria sau khi “giải cứu” thành công hai linh mục bị bắt cóc khỏi Nhà xứ
Linh mục Matthew David Dutsemi và Linh mục Abraham Saummam bị bắt cóc vào ngày 22 tháng 2 tại Giáo phận Công Giáo Yola ở Nigeria đã được giải cứu, Đức Giám Mục địa phương của Giáo phận Nigeria đã xác nhận.
Trong một tuyên bố chia sẻ với ACI Africa vào Chúa Nhật, ngày 9 tháng 3, Đức Cha Stephen Dami Mamza đã tuyên bố với “trái tim tràn đầy niềm vui và lòng biết ơn đối với Chúa toàn năng” về việc giải cứu hai Linh mục Công Giáo bị bắt cóc khỏi Nhà xứ của các Linh mục ở Gweda-Mallam, thuộc Khu vực chính quyền địa phương Demsa, Tiểu bang Adamawa, Nigeria.
“ Việc giải cứu các ngài diễn ra sau nỗ lực chung của Sở An ninh Nhà nước, gọi tắt là DSSS và nhóm dân phòng địa phương”, và nói thêm: “Hai linh mục đã được đoàn tụ với cộng đoàn Công Giáo và các thành viên trong cộng đồng địa phương”.
Ngài nhắc nhớ lại nỗi đau sau vụ bắt cóc hai giáo sĩ vào ngày 22 tháng 2.
“Vụ bắt cóc các Linh mục của chúng tôi là một sự kiện vô cùng đau buồn, nhưng tình yêu thương và sự quan tâm mà các nhân viên an ninh, chính quyền địa phương, cá nhân, cộng đồng tôn giáo và các tổ chức trong giáo phận của chúng tôi và hơn thế nữa thể hiện không chỉ giúp chúng tôi tiếp tục tiến bước mà còn nhắc nhở chúng tôi rằng chúng tôi không đơn độc trong những cuộc đấu tranh của cuộc sống”, ngài chia sẻ.
Đức Giám Mục Mamza bày tỏ lòng biết ơn trước sự đoàn kết về mặt tinh thần của dân Chúa, ngài nói rằng: “Những lời cầu nguyện của anh chị em là ngọn hải đăng hy vọng và ánh sáng dẫn đường cho chúng tôi vượt qua thời khắc đen tối do vụ bắt cóc anh em chúng tôi vô cớ này gây ra”.
Trong một tuyên bố sau vụ bắt cóc Cha Matthew và Cha Abraham, Đức Cha Mamza đã kêu gọi mọi người cầu nguyện cho “sự trở về an toàn” của hai vị.
“Giáo phận Công Giáo Yola tha thiết cầu nguyện cho các linh mục được trở về an toàn,” ngài đã kêu gọi trong tuyên bố ngày 23 tháng 2, trong đó ngài giải thích cách “những kẻ bắt cóc có vũ trang đã đến Nhà xứ vào sáng sớm thứ Bảy 22 tháng 2, được trang bị vũ khí tấn công và bắt cóc các giáo sĩ.”
Tình trạng mất an ninh đang lan tràn ở Nigeria, nơi nạn bắt cóc, giết người và các hình thức đàn áp khác đối với người theo Kitô giáo vẫn diễn ra tràn lan ở nhiều nơi tại quốc gia Tây Phi này, đặc biệt là ở phía bắc.
Vào ngày 5 tháng 3, Cha Sylvester Okechukwu thuộc Giáo phận Công Giáo Kafanchan đã bị sát hại, một ngày sau vụ bắt cóc vào ngày 4 tháng 3.
Vào ngày Cha Sylvester bị bắt cóc, Giáo phận Công Giáo Auchi ở Nigeria cũng đã gửi lời kêu gọi cầu nguyện để giải thoát cho một Linh mục và một Chủng sinh lớn đã bị bắt cóc khỏi Nhà xứ Giáo xứ vào ngày hôm trước. Hai người vẫn đang mất tích.
Việc giải cứu Cha David, một thành viên của Giáo sĩ Giáo phận Yola, và Cha Abraham thuộc Giáo phận Công Giáo Jalingo của Nigeria diễn ra sau một loạt vụ giết người và bắt cóc nhắm vào các Linh mục ở quốc gia đông dân nhất Phi Châu.
Vào ngày 6 tháng 2, Cha Cornelius Manzak Damulak, một thành viên của Giáo sĩ Giáo phận Công Giáo Shendam và là sinh viên tại Đại học Veritas Abuja ở Nigeria đã bị bắt cóc và sau đó đã trốn thoát khỏi nơi giam cầm.
Sau đó, vào ngày 19 tháng 2, Cha Moses Gyang Jah của Giáo xứ St. Mary Maijuju thuộc Giáo phận Shendam đã bị bắt cóc cùng với cháu gái của mình và Chủ tịch Hội đồng Giáo xứ, ông Nyam Ajiji. Chủ tịch Hội đồng Giáo xứ được cho là đã bị giết. Cha Jah và cháu gái của ông vẫn chưa được giải thoát.
Nigeria đã trải qua tình trạng mất an ninh kể từ năm 2009 khi cuộc nổi loạn của Boko Haram bắt đầu với mục đích biến đất nước thành một nhà nước Hồi giáo.
Source:ACIAfrica
3. Đội cận vệ Thụy Sĩ làm gì khi Đức Thánh Cha Phanxicô nằm bệnh viện?
Nhiệm vụ của Đội cận vệ Thụy Sĩ, quân đoàn quân sự lâu đời nhất trên thế giới, là bảo đảm an ninh cho Đức Giáo Hoàng và bảo vệ các Hồng Y khi ngai tòa của Thánh Phêrô bị bỏ trống. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi Đức Thánh Cha ở bên ngoài các bức tường của Vatican, như trường hợp hiện tại của Đức Thánh Cha Phanxicô đang trong bệnh viện?
Hiện nay, Đội cận vệ Thụy Sĩ do Đại tá Christoph Graf chỉ huy và các thành viên có trách nhiệm bảo vệ lối vào lãnh thổ Vatican, tháp tùng Đức Giáo Hoàng trong các chuyến tông du và duy trì trật tự và nghi thức trong các buổi lễ của Đức Giáo Hoàng và đón tiếp các quốc khách.
Ngày 10 tháng 3 đánh dấu 25 ngày kể từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô được đưa vào Bệnh viện đa khoa Agostino Gemelli ở Rôma. Vào ngày 14 tháng 2, ngài rời Nhà trọ Thánh Martha, nơi ngài thường trú, bị viêm phế quản sau đó phát triển thành viêm phổi kép.
Trong những tuần này, mặc dù Đức Giáo Hoàng vắng mặt, Đội Cận vệ Thụy Sĩ vẫn không rời khỏi vị trí của mình. Eliah Cinotti, nhà lãnh đạo phòng báo chí của Đội Cận vệ Thụy Sĩ Đức Giáo Hoàng, đã xác nhận với ACI Prensa, rằng “không có thay đổi nào trong hoạt động thông thường”.
Tuy nhiên, ông chỉ ra rằng vì Đức Thánh Cha Phanxicô “không có mặt trực tiếp” tại Vatican nên “chúng tôi có sự sụt giảm các hoạt động liên quan đến các buổi lễ đặc biệt, chẳng hạn như buổi tiếp kiến chung, các cuộc tiếp kiến dành cho tổng thống hoặc đại sứ, hoặc Thánh lễ”.
“Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn hỗ trợ một số sự kiện tại Vatican khi cần thiết, chẳng hạn như vào Chúa Nhật khi chúng tôi có mặt tại Thánh lễ mừng Năm Thánh của những người tình nguyện, mặc dù Đức Thánh Cha không thể tham dự”.
Trong cuộc gặp mới nhất với Lực lượng Vệ binh Thụy Sĩ tại Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh giá trị của việc các thành viên kết hôn, có gia đình và con cái, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của đời sống gia đình trong nghĩa vụ của họ.
“Tôi thích việc các vệ binh kết hôn; tôi thích việc họ có con, có gia đình. Điều này rất quan trọng, rất quan trọng. Khía cạnh này đã trở nên rất quan trọng, vì số lượng vệ binh kết hôn có con đã tăng lên, và phúc lợi của các gia đình có tầm quan trọng cơ bản đối với Giáo hội và xã hội,” ngài phát biểu vào ngày 18 Tháng Giêng tại Điện Tông tòa Vatican.
Cinotti nhấn mạnh rằng Đội cận vệ Thụy Sĩ “cầu nguyện và tin tưởng rằng Đức Thánh Cha sẽ sớm bình phục để có thể trở về Vatican sớm nhất có thể”.
Source:Catholic News Agency
4. Để Mùa Chay không trôi qua vô ích, hãy nghe Đức Hồng Y Cantalamessa nói về tội lớn nhất của Giuđa Iscariốt
Trong các ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, Dòng Anh Em Hèn Mọn, Giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng, luôn là người thuyết giảng trước Đức Thánh Cha và giáo triều Rôma.
Trong chương trình hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị và anh chị em một bài giảng xuất sắc của ngài về Giuđa Iscariốt.
Mở đầu bài giảng, ngài nói:
“Giuđa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ” (Ga 18:5)
Lịch sử Thiên Chúa – loài người trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu bao gồm nhiều câu chuyện nhỏ về những người nam nữ tham gia vào những mảng sáng, tối của biến cố này. Câu chuyện bi thảm nhất là câu chuyện của Giuđa Iscariot. Đây là một trong số ít các sự kiện được đề cập với cùng một mức nhấn mạnh như nhau bởi cả bốn sách Phúc Âm và phần còn lại của Tân Ước. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã suy tư rất nhiều về sự kiện này và chúng ta thật là bất cẩn nếu không làm như thế. Câu chuyện này có nhiều điều để nói với chúng ta.
Giuđa đã được lựa chọn ngay từ đầu trong Nhóm Mười Hai. Khi đưa tên ông ta vào trong danh sách các tông đồ, Thánh Sử Luca viết “Giuđa Iscariot, người trở thành (egeneto) một kẻ phản bội” (Lc 6:16). Như thế, Giuđa đã không phải là một kẻ phản bội từ lúc lọt lòng mẹ, và cũng chẳng phải là một kẻ phản bội lúc Chúa Giêsu chọn ông; sau này ông mới trở thành một kẻ phản bội! Chúng ta đang đứng trước một trong những thảm kịch bi đát nhất của tự do con người.
Tại sao anh ta trở thành một kẻ phản bội? Cách đây không lâu, khi luận đề về “Chúa Giêsu cách mạng” đang cuốn hút nhiều người, người ta cố gắng để gán cho hành động phản bội của Giuđa những động cơ mang tính lý tưởng. Có người nhìn thấy trong tên của ông ta “Iscariot” một chút biến tướng của từ sicariot, nghĩa là anh ta thuộc về một nhóm cuồng tín cực đoan chuyên sử dụng một loại dao găm (sica) để chống lại người Rôma. Lại có những người khác nghĩ rằng Giuđa đã thất vọng với Chúa Giêsu về cách Ngài trình bày “vương quốc Thiên Chúa” và muốn buộc Ngài ra tay hành động chống lại các dân ngoại cả trên bình diện chính trị. Đây là Giuđa của vở nhạc kịch nổi tiếng Jesus Christ Superstar và của những bộ phim và tiểu thuyết khác được chào đời gần đây - một Giuđa giống như một kẻ nổi tiếng đã phản bội ân nhân mình, là Brutus, người đã giết Julius Caesar để cứu nền Cộng hòa Rôma!
Đây là những tái tạo lại câu chuyện phải được tôn trọng nếu như chúng có giá trị văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng không có bất kỳ cơ sở lịch sử nào. Những sách Phúc Âm là các nguồn đáng tin cậy duy nhất mà chúng ta có về nhân vật Giuđa đều đồng thanh nói về một động cơ rất trần tục: đó là tiền. Giuđa đã được giao phó giữ tiền của nhóm; khi bà Maria Mađalêna xức dầu thơm cho Chúa tại Bethany, Giuđa đã phản đối việc dùng dầu thơm quý giá để đổ lên chân Chúa không phải vì ông quan tâm đến người nghèo nhưng, như thánh Gioan lưu ý, “vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung.”(Ga 12:6 ). Đề nghị của ông với các thượng tế thật là rõ ràng: ‘Các ông định cho tôi bao nhiêu, nếu tôi giao nạp Người cho các ông? Và các thượng tế ấn định số tiền là 30 đồng bạc’” (Mt 26,15).
Nhưng tại sao người ta lại ngạc nhiên trước lời giải thích này, câu trả lời hiển nhiên quá mà? Chẳng phải chuyện như thế vẫn luôn xảy ra trong lịch sử và vẫn xảy ra ngày hôm nay sao? Mammon, thần tài, không chỉ là một ngẫu tượng trong số rất nhiều những ngẫu tượng: nhưng đó là thứ ngẫu tượng trỗi vượt nhất, đó là thứ “thần được người ta đúc lên” (xem Xh 34:17 ) Và chúng ta biết lý do tại sao. Khách quan mà nói ai là kẻ thù thực sự, là đối thủ của Thiên Chúa trong thế giới này? Không phải Satan sao? Chẳng ai quyết định phụng sự Satan mà không có một động cơ. Bất cứ ai quyết định làm như vậy đều tin rằng họ sẽ có được một số quyền thế hoặc lợi ích trần tục nào đó từ hắn ta. Ngoài Thiên Chúa ra, một số người lại có một ông chủ khác đối nghịch với Thiên Chúa, Chúa Giêsu nói với chúng ta rõ ràng người chủ khác ấy là ai: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được “(Mt 6:24 ). Tiền của là thứ “thần có thể nhìn thấy được” trái ngược với Thiên Chúa là Đấng vô hình.
Thần tài chống lại Thiên Chúa vì nó tạo ra nơi con người một vũ trụ tinh thần khác; nó thay đổi mục đích của nhân đức đối thần. Đức tin, hy vọng và lòng bác ái không còn được đặt vào Thiên Chúa nhưng vào tiền. Một đảo ngược nham hiểm của tất cả các giá trị xảy ra. Kinh Thánh nói: “ Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin “ (Mc 9:23), nhưng thế gian nói: “Có tiền mua tiên cũng được.” Và trên một bình diện nhất định, mọi thứ dường như là như thế thật.
Kinh Thánh nói: “Lòng yêu mến tiền bạc là căn nguyên của mọi tội lỗi” (1 Tim 6:10). Đằng sau mọi sự dữ trong xã hội của chúng ta là tiền bạc, hay ít nhất cũng có dính líu đến tiền. Chúng ta nhớ lại trong Kinh Thánh câu chuyện các thanh niên nam nữ đã phải hy sinh cho thần Mo-lóc (x. Gr 32:35 ) hay câu chuyện thần Aztec mà hàng ngày một số lượng nhất định dân chúng bị giết để lấy tim dâng lên thần. Những gì nằm phía sau nạn buôn bán ma túy phá hủy rất nhiều cuộc sống của con người, đằng sau hiện tượng mafia, đằng sau việc tham nhũng của các chính trị gia, đằng sau việc sản xuất và bán các loại vũ khí, và thậm chí đằng sau một điều thật khủng khiếp - khi phải đề cập đến - là việc bán nội tạng con người lấy từ trẻ em? Và còn cuộc khủng hoảng tài chính mà thế giới đã và đang trải qua cũng như đất nước này vẫn còn đang gánh chịu, không phải phần lớn là do “sự ham hố tiền của đáng nguyền rủa” của một số người sao? Giuđa đã bắt đầu nhón khỏi ví chung cuả cả nhóm. Còn một số các quản trị viên công quỹ thì sao?
Tuy nhiên, bên cạnh những tội phạm hình sự để có tiền, còn có cả những xì căng đan trong đó một số người kiếm được tiền lương và hưu trí đôi khi cao hơn so với những người làm việc cho họ 100 lần và họ ồn ào phản đối khi một đề nghị được đưa ra để giảm tiền lương của họ ngõ hầu xã hội có thể công bằng hơn?
Trong những thập niên 1970 và 1980, tại Ý, để giải thích cho những thay đổi chính trị bất ngờ, những hành xử quyền lực bí ẩn, khủng bố, và tất cả các loại bí ẩn gây phiền hà cho cuộc sống dân sự, người ta bắt đầu đề cập đến ý tưởng bán thần thoại về sự tồn tại của một “Bố Già”, một nhân vật quỷ quyệt và quyền thế là kẻ đứng sau hậu trường giật dây cho tất cả mọi chuyện để đạt đến những mục tiêu chỉ mình hắn ta biết mà thôi. “Bố Già” quyền uy ngất ngưởng này thực sự tồn tại và chẳng phải là một huyền thoại đâu. Tên hắn ta là tiền!
Giống như tất cả các ngẫu tượng khác, thần tài quỷ quyệt gian ngoa: nó hứa hẹn an ninh nhưng thay vào đó nó lấy đi; nó hứa hẹn tự do nhưng thực tế lại phá hủy tự do. Thánh Phanxicô Assisi, với một mức độ nghiêm khắc không thường thấy nơi ngài, đã mô tả giờ phút kết thúc cuộc đời của một người đã sống chỉ để làm tăng “vốn liếng” của mình. Khi gần chết ông ta mời linh mục đến. Vị linh mục hỏi người sắp chết, “Ông có muốn được tha thứ tất cả tội lỗi của ông không?” Và ông trả lời: “Thưa có.” Linh mục hỏi tiếp: “Ông có sẵn sàng để sửa chữa những sai lầm ông đã gây ra, khôi phục lại những thứ ông đã lừa đảo của những người khác không? “người đàn ông sắp chết thều thào trả lời: “không, không thể được.” “Tại sao lại không thể được?” “Bởi vì tôi đã giao phó mọi sự trong tay của người thân và bạn bè của tôi.”. Như thế, ông ta chết đi mà không ăn năn hối cải, và trong khi thi hài ông bắt đầu lạnh dần người thân và bạn bè của ông tụ họp lại bên cạnh. Họ nói, “Thằng chết tiệt này! Lẽ ra nó nên kiếm nhiều tiền hơn để lại cho chúng ta mới phải chứ.”
Bao nhiêu lần trong thời buổi này chúng ta lẽ ra phải suy nghĩ lại một lần nữa tiếng Chúa Giêsu kêu lên với người phú hộ trong dụ ngôn về người cứ lo thu tóm của cải bất tận và nghĩ rằng phần còn lại của cuộc đời mình sẽ được an toàn: “Đồ ngu! Nội đêm nay, mạng ngươi bị đòi lại, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? “(Lc 12:20)
Những người có quyền chức tham ô đến nỗi hết nhớ nổi ngân hàng nào, thiên đường tài chính nào tàng trữ bao nhiêu tiền tham nhũng của mình đã nhận ra bản thân mình đang bị xét xử tại tòa án hoặc tại một nhà tù đúng ngay vào lúc họ tự nhủ với lòng mình: “Yên tâm mà hưởng đi, hồn tôi ơi.” Họ làm điều đó cho ai? Nó có đáng không? Phải chăng họ làm như thế vì lợi ích của con em và gia đình của họ, hoặc đảng phái của họ, nếu thực sự họ nghĩ như thế? Hay là chỉ hủy hoại bản thân và những người khác?
Sự phản bội của Giuđa vẫn tiếp tục xuyên suốt trong lịch sử, và người bị phản bội luôn luôn là Chúa Giêsu. Giuđa bán Đầu [ý chỉ Chúa Giêsu – chú thích của người dịch], trong khi những kẻ bắt chước ông bán phần thân mình, vì người nghèo là chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô, cho dù họ biết điều đó hay không. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy “ (Mt 25:40 ). Tuy nhiên, sự phản bội của Giuđa không chỉ tiếp tục trong phạm vi các nhân vật cao cấp các loại mà tôi vừa đề cập. Thật là an ủi cho chúng ta nếu được như thế, nhưng không phải vậy đâu. Bài giảng mà cha Primo Mazzolari vào Thứ Năm Tuần Thánh năm 1958, về “Anh Giuđa của chúng ta” vẫn còn rất nổi tiếng. Ngài nói với vài giáo dân ngồi trước mặt ngài, “Hãy để tôi suy nghĩ về cái tên Giuđa trong người tôi đây một lúc, về cái tên Giuđa, có lẽ cũng có cả bên trong anh chị em. “
Người ta có thể phản bội Chúa Giêsu để đổi lấy những thứ khác hơn là 30 đồng bạc. Một người đàn ông phản bội vợ mình, hoặc người vợ phản bội chồng, là phản bội Chúa Kitô. Các thừa tác viên của Chúa không trung thành với đấng bậc của mình trong cuộc sống, hoặc thay vì nuôi dưỡng những con chiên được giao phó cho ngài lại dùng những con chiên ấy như nguồn vỗ béo cho chính mình, là phản bội Chúa Giêsu. Bất cứ ai phản bội lương tâm của họ đều phản bội Chúa Giêsu. Thậm chí tôi có thể phản bội Ngài ngay lúc này đây- và điều này làm cho tôi run sợ - nếu như trong khi giảng về Giuđa tôi quan tâm đến sự đồng thuận của khán giả hơn là dự phần trong nỗi buồn bao la của Đấng Cứu Thế. Có một trường hợp giảm khinh trong trường hợp của Giuđa mà tôi không có. Ông ta không biết Chúa Giêsu là ai và chỉ coi Ngài là “một người công chính”; ông không biết rõ như chúng ta rằng Ngài là Con Thiên Chúa!
Mỗi năm khi Mùa Phục Sinh đến gần, tôi đều muốn nghe lại bản “Cuộc thương khó Chúa Kitô theo Thánh Matthêu” của Bach. Nó bao gồm một chi tiết khiến tôi rùng mình mỗi lần. “Ðang bữa ăn, Người nói: Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Mt 26:21). Khi Chúa Giêsu thông báo như thế, tất cả các tông đồ đều hỏi Chúa Giêsu : “Có phải con không, thưa Thầy?” Trước khi chúng ta nghe câu trả lời của Chúa Kitô, nhà soạn nhạc - xóa đi khoảng cách giữa biến cố và việc tưởng niệm biến cố ấy - thêm vào một hợp xướng bắt đầu như thế này: “Đó là con; Con là kẻ phản bội! Con cần phải đền bù tội lỗi con.” Giống như tất cả các hợp xướng thánh ca trong tác phẩm âm nhạc này, nó thể hiện tình cảm của những người đang lắng nghe. Nó cũng là một lời mời gọi chúng ta xưng thú tội lỗi mình.
Tin Mừng mô tả cái kết cục khủng khiếp của Giuđa: “Bấy giờ, Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan”. Nhưng họ đáp: ‘Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!’ Giuđa ném số bạc vào Ðền Thờ rồi lui ra và đi thắt cổ” (Mt 27:3-5). Nhưng chúng ta không nên đưa ra một phán quyết vội vàng ở đây. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi Giuđa, và không ai biết, sau khi ông treo mình lên cây với một sợi dây thừng quanh cổ, ông ta sẽ đi về đâu: trong tay của Satan hay trong bàn tay của Thiên Chúa. Ai có thể biết được điều gì đã loé lên trong tâm hồn ông trong những giây phút cuối cùng này? “Bạn” là từ cuối cùng mà Chúa Giêsu gọi ông, và ông không thể quên được, cũng giống như ông không thể quên ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn ông.
Đúng là khi nói chuyện với Chúa Cha về các môn đệ của Ngài, Chúa Giêsu đã nói về Giuđa, “không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng”(Ga 17:12). Nhưng ở đây, như trong rất nhiều trường hợp khác, Ngài đang nói từ quan điểm của thời gian và không phải vĩnh hằng. Tầm cỡ của sự phản bội này tự mình đã đủ, không cần phải tính đến sự thất bại đó là vĩnh cửu để giải thích một bản án đáng sợ khác nói về Giuđa: “Ðã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mc 14 : 21). Số phận đời đời của một con người là một bí mật bất khả xâm phạm được gìn giữ bởi Thiên Chúa. Giáo Hội bảo đảm với chúng ta rằng một người nam hay một người nữ được công bố là một vị thánh đang được nếm hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng Giáo Hội không biết chắc chắn rằng một người cụ thể nào đó đã phải sa hoả ngục hay không.
Dante Alighieri, là một nhà thơ, là người đã đặt Giuđa trong tầng cuối cùng sâu nhất của địa ngục trong tác phẩm Divine Comedy của mình, đã kể về việc hoán cải vào giờ phút cuối cùng của Manfred, con trai Hoàng Đế Frederick II và là vua xứ Sicily, người mà tất cả mọi người vào thời điểm đó đều coi y là đáng nguyền rủa vì ông đã chết trong vạ tuyệt thông. Bị thương chí mạng trong một trận chiến, Manfred tâm sự với nhà thơ rằng vào thời điểm cuối cùng của cuộc đời mình, “... trong than khóc, tôi đã phó linh hồn tôi cho Đấng đã sẵn sàng tha thứ” và ông đã gửi một tin nhắn từ Luyện Ngục về trái đất mà ngày nay vẫn còn có liên quan tới chúng ta:
Khủng khiếp là bản chất của tội lỗi tôi, nhưng lòng thương xót vô biên mở rộng vòng tay của mình cho bất kỳ người nào tìm kiếm nó.
Đây là điều mà câu chuyện về người anh em Giuđa của chúng ta nên khiến chúng ta phải làm: ấy là sấp mình trước Đấng sẵn lòng tha thứ cho chúng ta cách nhưng không, là ném mình tương tự như vậy vào cánh tay đang dang ra của Đấng chịu đóng đinh. Điều quan trọng nhất trong câu chuyện của Giuđa không phải là sự phản bội của ông ta nhưng là phản ứng của Chúa Giêsu đối với ông. Ngài biết rõ những gì đã phát triển trong trái tim người môn đệ mình, nhưng Ngài không phơi bày ra; Ngài muốn cho Giuđa cơ hội cho tới tận phút cuối cùng để quay trở lại, và gần như che chắn cho anh ta. Ngài biết lý do tại sao Giuđa đến vườn ô liu, nhưng Ngài không từ chối nụ hôn lạnh lùng của y và thậm chí còn gọi y là “bạn” (xem Mt 26:50 ). Ngài đã tìm ra Phêrô sau khi chối Chúa để tha thứ cho ông, vì vậy Ngài có thể đã tìm ra Giuđa tại chỗ nào đó trên đường lên núi Sọ! Khi Chúa Giêsu cầu nguyện từ trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng; vì chúng không biết việc chúng làm “(Lc 23:34), Chúa chắc chắn không loại trừ Giuđa trong số những người mà Ngài cầu nguyện cho.
Vì vậy, những gì chúng ta sẽ làm là gì? Ai là người mà chúng ta nên noi theo, Giuđa hay Phêrô? Phêrô đã hối hận vì những gì ông đã làm, nhưng chẳng phải Giuđa cũng đã hối hận đến mức bật khóc sao? “Tôi đã phản bội máu người vô tội!” Và ông đã trả lại ba mươi đồng bạc. Vậy đâu là sự khác biệt? Chỉ là một điều này thôi: đó là Phêrô thì tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa Kitô, còn Giuđa thì không! Tội lỗi lớn nhất của Giuđa không phải là phản bội Chúa Kitô nhưng là đã nghi ngờ lòng thương xót vô biên của Ngài.
Nếu chúng ta đã bắt chước Giuđa ít nhiều trong sự phản bội của ông, chúng ta đừng bắt chước ông trong sự thiếu niềm tin vào sự tha thứ. Có một bí tích mà qua đó chúng ta có thể kinh nghiệm chắc chắn về lòng thương xót của Chúa Kitô: đó là bí tích hòa giải. Bí tích này tuyệt vời là ngần nào! Thật là ngọt ngào để cảm nghiệm về Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa, nhưng thậm chí còn ngọt ngào hơn để cảm nghiệm Ngài là Đấng Cứu Thế, là Đấng lôi anh chị em ra khỏi vực thẳm, như Ngài đã kéo Phêrô khỏi chìm xuống biển, để cảm nghiệm Ngài là Đấng đã chạm vào anh chị em như Ngài đã làm với người bị bệnh phong, và nói với anh chị em, “Tôi muốn, anh sạch đi” (Mt 8:3).
Bí tích Hòa Giải cho chúng ta cảm nghiệm chính bản thân mình những gì Giáo Hội nói về tội lỗi của A Dong vào đêm Phục Sinh trong bài “Vinh Tụng Ca”: “Ôi tội hồng phúc vì đã đem đến một Đấng Cứu Chuộc vĩ đại và vinh quang” Chúa Giêsu biết làm thế nào để lấy đi tất cả tội lỗi của chúng ta, khi chúng ta có lòng ăn năn, và làm cho những tội lỗi này thành “tội hồng phúc”, những tội lỗi đó sẽ không còn được nhớ đến, chúng chỉ là dịp để chúng ta cảm nghiệm lòng thương xót và sự dịu dàng của Thiên Chúa.
Tôi có một mong muốn cho bản thân mình và cho tất cả những người cha, người anh, người chị, người em đáng kính: đó là cầu xin cho vào sáng Phục Sinh, chúng ta có thể thức giấc và để cho những lời của một người cải đạo vĩ đại trong thời hiện đại là Paul Claudel, vang vọng trong trái tim của chúng ta.
Thiên Chúa của con, con đã được hồi sinh, và con sống với Chúa một lần nữa!
Con đang mê ngủ, duỗi thẳng tứ chi như một người đã chết trong đêm. Chúa nói: “ Hãy có ánh sáng!” Và con tỉnh dậy òa khóc!
Cha của con, Chúa là Đấng đã ban cho con cuộc sống trước lúc rạng đông, con đặt bản thân con trong sự hiện diện của Chúa.
Con tim con tự do và miệng của con sạch sẽ; cơ thể và tinh thần của con đang chay tịnh. Con đã được xá khỏi tất cả các tội lỗi của con, những tội con đã thú nhận từng tội một.
Chiếc nhẫn cưới trên ngón tay con và khuôn mặt của con được rửa sạch. Con giống như một con người vô tội trong ân sủng mà Ngài ban cho con.
Đây là những gì lễ Vượt Qua của Chúa Kitô có thể làm cho chúng ta.