VINH QUANG VÀ SỰ TỰ HIẾN
(Chúa Nhật II Mùa Chay C)
Sự thường khi nghe nói đến hai từ vinh quang, người ta dễ liên tưởng đến hai từ quyền lực. Bởi chưng, chuyện như nhãn tiền, đó là khi có quyền lực thì vinh quang ào tới, nhất là do bởi “thói đời” thích khúm núm, quỵ lụy, tâng bốc, tung hô người có lực, có quyền.
Vào Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A, B, C, các bài tin mừng Giáo Hội dọn cho đoàn tín hữu đều tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu lên núi để cầu nguyện và việc thân xác Người biến đổi nên sáng láng là hệ quả kéo theo của việc kết hiệp và đón nhận thánh ý Chúa Cha là tự hiến dâng mạng sống vì nhân loại bằng khổ hình thập giá.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu Thiên Chúa luôn tròn đầy và hướng tha. Kitô hữu chúng ta tin nhận Ba Ngôi Thiên Chúa luôn hướng về nhau trong cùng một tình yêu hoàn hảo, viên mãn. Và tình yêu ấy đã tuôn tràn trên các loài thọ tạo cách vô cầu. Bài đọc thứ nhất trích sách Sáng Thế tường thuật khi ký kết giao ước với Abraham, Thiên Chúa đã một mình cam kết và nội dung bản giao ước là Abraham sẽ được một thửa đất lớn làm gia nghiệp và hậu duệ, cháu con sẽ đông đúc như sao trên trời. Theo nội dung giao ước thì chỉ mình tổ phụ Abraham hưởng nhận phúc lành còn phần phía Thiên Chúa thì không có gì. Tình yêu đích thực là vô điều kiện và thường là một chiều, chỉ vì người mình yêu.
“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Như bị thúc bách cách tất nhiên, Phêrô đã cất tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9,33). Dường như Phêrô quên mất chính mình cũng như hai bạn đồng môn. Lịch sử cho thấy những tâm hồn nào càng kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì càng quảng đại trao ban chính mình cho tha nhân bằng tình yêu không tính toán. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này nơi những con người được diễm phúc chiêm ngắm Chúa Giêsu, Mẹ Maria hiện ra đó đây theo dòng lịch sử. Có thể nói rằng tất thảy đều thay đổi cách diệu lạ, đều sống tự hiến cách phi thường. Và đây cũng là một trong những tiêu chí mà Giáo Hội dùng để kiếm tra các hiện tượng cho rằng Chúa, Mẹ hiện ra với người này, người kia. Hãy xem đời sống của những người ấy có đổi thay cách tích cực không, nghĩa là họ có quảng đại hiến thân vì tha nhân hơn không?
Chính khi tự hiến vì yêu thương thì vinh quang được hiển lộ. “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Khi Giuđa ra đi để thực hiện âm mưu nộp Thầy thì đó “là lúc Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31). Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định rằng khi Đức Kitô tự nguyện khước từ vinh quang danh dự của một vị Thiên Chúa, trở nên giống phàm nhân, mặc lấy thân nô lệ và hạ mình vâng lời chịu chết vì chúng ta thì được Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (x.Pl 2,6-11).
Nhân loại xưa lẫn nay đều vinh danh những con người biết xả thân tự hiến vì đồng loại. Đó là các bậc vĩ nhân, là các anh hùng dân tộc và đặc biệt là những thánh nhân. Cần thừa nhận rằng vẫn có đó nhiều vinh quang giả tạo, nhất thời. Đó là những vinh quang vắng bóng sự tự hiến. Tìm kiếm vinh quang mà không biết hiến thân thì chỉ là ảo vọng. Trái lại nếu chúng ta chủ ý tự hiến để kiếm tìm vinh quang thì nhiều khi cũng gặp thất bại, vì sự tự hiến ấy thiếu trong sáng trong ý hướng kiếm tìm. Như thế có thể nói vinh quang không phải là một tình trạng đến sau nhưng chính là ánh sáng huy hoàng của sự tự hiến. Đến đây chúng ta mới hiểu được vì sao “vinh quang của ta chính là thập giá Chúa Kitô”. Chúa Kitô đã được viên đại đội trưởng thi hành án nhìn nhận: “Người này đích thực là người công chính” ngay phút giây Người tắt thở trên cây thập giá (Lc 23,47). Và mầu nhiệm Phục Sinh không phải là sự vinh quang đến sau nhưng là một sự chứng thực cái vinh quang đã có nơi mầu nhiệm Tử Nạn.
Phận người, chúng ta vốn thường mong có được vinh quang sẽ đến trong thời gian tại thế, khi chúng ta hiến thân, sống hết tình vì tha nhân. Tuy nhiên ước mong này xem ra khó đạt với nhiều người, nếu nhìn vinh quang qua những dấu hiệu sáng láng, rực rỡ bên ngoài. Ước gì chúng ta không chỉ tin mà còn cảm nhận sự thật này đó là sự vinh quang đã có ngay trong chính hành vi tự hiến của chúng ta. Việc Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang của Người trước khi chịu khổ hình không chỉ để động viên các môn đệ vững tin bước theo Người lên Giêrusalem mà còn khẳng định rằng chính khi người chịu khổ hình là Người được vinh quang. Phúc thay người cảm nhận được sự vinh quang qua một chút hạnh phúc nào đó ngay trong sự tự hiến thì chắc chắn họ sẽ can đảm bước theo Chúa Kitô để sống yêu thương cho đến cùng.
Ban Mê Thuột
(Chúa Nhật II Mùa Chay C)
Sự thường khi nghe nói đến hai từ vinh quang, người ta dễ liên tưởng đến hai từ quyền lực. Bởi chưng, chuyện như nhãn tiền, đó là khi có quyền lực thì vinh quang ào tới, nhất là do bởi “thói đời” thích khúm núm, quỵ lụy, tâng bốc, tung hô người có lực, có quyền.
Vào Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A, B, C, các bài tin mừng Giáo Hội dọn cho đoàn tín hữu đều tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu lên núi để cầu nguyện và việc thân xác Người biến đổi nên sáng láng là hệ quả kéo theo của việc kết hiệp và đón nhận thánh ý Chúa Cha là tự hiến dâng mạng sống vì nhân loại bằng khổ hình thập giá.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu Thiên Chúa luôn tròn đầy và hướng tha. Kitô hữu chúng ta tin nhận Ba Ngôi Thiên Chúa luôn hướng về nhau trong cùng một tình yêu hoàn hảo, viên mãn. Và tình yêu ấy đã tuôn tràn trên các loài thọ tạo cách vô cầu. Bài đọc thứ nhất trích sách Sáng Thế tường thuật khi ký kết giao ước với Abraham, Thiên Chúa đã một mình cam kết và nội dung bản giao ước là Abraham sẽ được một thửa đất lớn làm gia nghiệp và hậu duệ, cháu con sẽ đông đúc như sao trên trời. Theo nội dung giao ước thì chỉ mình tổ phụ Abraham hưởng nhận phúc lành còn phần phía Thiên Chúa thì không có gì. Tình yêu đích thực là vô điều kiện và thường là một chiều, chỉ vì người mình yêu.
“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Như bị thúc bách cách tất nhiên, Phêrô đã cất tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9,33). Dường như Phêrô quên mất chính mình cũng như hai bạn đồng môn. Lịch sử cho thấy những tâm hồn nào càng kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì càng quảng đại trao ban chính mình cho tha nhân bằng tình yêu không tính toán. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này nơi những con người được diễm phúc chiêm ngắm Chúa Giêsu, Mẹ Maria hiện ra đó đây theo dòng lịch sử. Có thể nói rằng tất thảy đều thay đổi cách diệu lạ, đều sống tự hiến cách phi thường. Và đây cũng là một trong những tiêu chí mà Giáo Hội dùng để kiếm tra các hiện tượng cho rằng Chúa, Mẹ hiện ra với người này, người kia. Hãy xem đời sống của những người ấy có đổi thay cách tích cực không, nghĩa là họ có quảng đại hiến thân vì tha nhân hơn không?
Chính khi tự hiến vì yêu thương thì vinh quang được hiển lộ. “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Khi Giuđa ra đi để thực hiện âm mưu nộp Thầy thì đó “là lúc Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31). Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định rằng khi Đức Kitô tự nguyện khước từ vinh quang danh dự của một vị Thiên Chúa, trở nên giống phàm nhân, mặc lấy thân nô lệ và hạ mình vâng lời chịu chết vì chúng ta thì được Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (x.Pl 2,6-11).
Nhân loại xưa lẫn nay đều vinh danh những con người biết xả thân tự hiến vì đồng loại. Đó là các bậc vĩ nhân, là các anh hùng dân tộc và đặc biệt là những thánh nhân. Cần thừa nhận rằng vẫn có đó nhiều vinh quang giả tạo, nhất thời. Đó là những vinh quang vắng bóng sự tự hiến. Tìm kiếm vinh quang mà không biết hiến thân thì chỉ là ảo vọng. Trái lại nếu chúng ta chủ ý tự hiến để kiếm tìm vinh quang thì nhiều khi cũng gặp thất bại, vì sự tự hiến ấy thiếu trong sáng trong ý hướng kiếm tìm. Như thế có thể nói vinh quang không phải là một tình trạng đến sau nhưng chính là ánh sáng huy hoàng của sự tự hiến. Đến đây chúng ta mới hiểu được vì sao “vinh quang của ta chính là thập giá Chúa Kitô”. Chúa Kitô đã được viên đại đội trưởng thi hành án nhìn nhận: “Người này đích thực là người công chính” ngay phút giây Người tắt thở trên cây thập giá (Lc 23,47). Và mầu nhiệm Phục Sinh không phải là sự vinh quang đến sau nhưng là một sự chứng thực cái vinh quang đã có nơi mầu nhiệm Tử Nạn.
Phận người, chúng ta vốn thường mong có được vinh quang sẽ đến trong thời gian tại thế, khi chúng ta hiến thân, sống hết tình vì tha nhân. Tuy nhiên ước mong này xem ra khó đạt với nhiều người, nếu nhìn vinh quang qua những dấu hiệu sáng láng, rực rỡ bên ngoài. Ước gì chúng ta không chỉ tin mà còn cảm nhận sự thật này đó là sự vinh quang đã có ngay trong chính hành vi tự hiến của chúng ta. Việc Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang của Người trước khi chịu khổ hình không chỉ để động viên các môn đệ vững tin bước theo Người lên Giêrusalem mà còn khẳng định rằng chính khi người chịu khổ hình là Người được vinh quang. Phúc thay người cảm nhận được sự vinh quang qua một chút hạnh phúc nào đó ngay trong sự tự hiến thì chắc chắn họ sẽ can đảm bước theo Chúa Kitô để sống yêu thương cho đến cùng.
Ban Mê Thuột