1. Đức Giáo Hoàng chống lại tin giả khi cung cấp các chi tiết chưa từng có về tình trạng sức khỏe của ngài
Thông tín viên Elise Ann Allen của tờ Crux, thường trú tại Rôma, có bài tường trình nhan đề “Pope fights fake news with unprecedented detail about health status” nghĩa là “Đức Giáo Hoàng chống lại tin giả bằng các chi tiết chưa từng có về tình trạng sức khỏe của ngài”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.
Một câu nói cổ về Vatican nói rằng “Đức Giáo Hoàng không bao giờ bị bệnh cho đến khi ngài chết”, và quan điểm này vẫn đúng trong nhiều chu kỳ khủng hoảng sức khỏe của các vị Giáo Hoàng trong suốt lịch sử gần đây, cho đến mãi gần đây, khi Đức Thánh Cha Phanxicô phải nằm bệnh viện.
Trong suốt gần một tháng nằm bệnh viện của Đức Thánh Cha Phanxicô, một trong những yếu tố đáng chú ý nhất của thử thách này chính là mức độ chi tiết chưa từng có được cung cấp trong các bản tin y tế hàng ngày về tình trạng sức khỏe của ngài.
Kể từ khi Đức Giáo Hoàng được đưa vào Bệnh viện Gemelli ở Rôma vào ngày 14 tháng 2 để điều trị viêm phế quản, sau đó các bác sĩ chẩn đoán ngài bị nhiễm trùng đường hô hấp phức tạp và viêm phổi kép, mức độ minh bạch của Vatican về tình trạng bệnh của ngài đã gây ngạc nhiên cho nhiều quan sát viên lâu năm, những người nhớ lại rằng, thậm chí chỉ mới 20 năm trước, điều này gần như không thể tưởng tượng được.
Các bản tin y khoa của Vatican, do nhóm bác sĩ điều trị cho Đức Thánh Cha Phanxicô biên soạn và được chính Đức Giáo Hoàng chấp thuận xuất bản, đã công khai những chẩn đoán về tình trạng sức khỏe của ngài và những cuộc khủng hoảng thỉnh thoảng phát sinh.
Những chi tiết khó chịu như việc Đức Giáo Hoàng bị lên cơn hen suyễn khiến ngài hít phải chất nôn của chính mình, và co thắt phế quản do tích tụ nhiều chất nhầy, mỗi lần đều phải nhờ bác sĩ hút dịch đường hô hấp, là những chi tiết mới lạ và khiến những quan sát viên vốn quen với việc Tòa Thánh giữ bí mật về những vấn đề như vậy phải lấy làm ngạc nhiên.
Sức khỏe của Đức Giáo Hoàng là một chủ đề mà các quan chức Vatican thường phủ nhận và che giấu.
Ví dụ, vào ngày 19 tháng 8 năm 1914, tờ báo L'Osservatore Romano hay Quan Sát Viên Rôma của Vatican đã đăng một bài xã luận gay gắt lên án những nhà bình luận giấu tên đã đưa ra ý kiến một ngày trước đó rằng Đức Giáo Hoàng đương nhiệm lúc bấy giờ, là Đức Giáo Hoàng Piô thứ 10, đang bị cảm lạnh.
Trong vòng chưa đầy 24 giờ sau đó, Đức Piô thứ 10 đã qua đời.
Gần đây hơn, mặc dù có những đồn đoán bắt đầu xuất hiện vào giữa những năm 1990 rằng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có thể đang mắc các triệu chứng của bệnh Parkinson, Vatican chưa bao giờ chính thức xác nhận căn bệnh này cho đến ngay trước khi vị Đức Giáo Hoàng người Ba Lan qua đời vào năm 2005.
Ngay cả trong những năm cuối đời của Đức Gioan Phaolô II, nỗ lực khiến ngài có vẻ mạnh mẽ hơn thực tế vẫn được tiếp tục.
Điều này được chứng minh bằng một câu chuyện hiện đang rất nổi tiếng trong giới quan sát Vatican, trong đó, sau khi Đức Gioan Phaolô II trải qua ca phẫu thuật mở khí quản vào cuối tháng 2 năm 2005, một phát ngôn viên của Vatican vào thời điểm đó đã tuyên bố vào ngày hôm sau rằng Đức Giáo Hoàng đã ăn 10 chiếc bánh quy, tạo ra một tình huống khó xử cho các bác sĩ phải làm rõ sự thật; họ nói rằng một bệnh nhân có ống nội khí quản sẽ không thể nuốt được bánh quy, chứ đừng nói đến bất kỳ thứ gì rắn.
Không cần phải nói, giới truyền thông lúc đó cũng không tin vào câu chuyện này.
Tuy nhiên, lần này, giới truyền thông đã tin chắc rằng thông tin về tình trạng của Đức Giáo Hoàng do nhóm y tế của ngài tại Bệnh viện Gemelli cung cấp là đúng sự thật, phần lớn là do các chi tiết cụ thể được đưa ra, bao gồm việc thừa nhận bị suy hô hấp, truyền máu và việc ngài phải nằm bệnh viện nhiều ngày.
Sự minh bạch mới lạ này về sức khỏe của Đức Giáo Hoàng đối với một thể chế cứng đầu chống lại sự thay đổi phần lớn là nhờ chính Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã đích thân cho phép công bố mọi thông tin về tình trạng sức khỏe của ngài.
Bác sĩ Sergio Alfieri, giám đốc khoa phẫu thuật nội khoa của Bệnh viện Gemelli ở Rôma và là nhà lãnh đạo nhóm bác sĩ của Đức Giáo Hoàng tại đó, cho biết trong cuộc họp báo ngày 21 tháng 2 rằng chính Đức Phanxicô là người đã quyết định minh bạch hóa tình trạng lâm sàng của mình và là người chọn cách thẳng thắn chia sẻ những diễn biến hàng ngày.
Alfieri cho biết, các bản tin y khoa của Đức Giáo Hoàng là sản phẩm của những quan sát chung của nhiều bác sĩ và chuyên gia điều trị cho Đức Giáo Hoàng và được đích thân Đức Thánh Cha Phanxicô chấp thuận trước khi được Văn phòng Báo chí Tòa thánh công bố.
Trong suốt thời gian nằm bệnh viện gần một tháng của Đức Giáo Hoàng, các bản tin y tế được xuất bản gần như hàng đêm, ngoại trừ những ngày gần đây, khi các bác sĩ cho rằng tình trạng của Đức Phanxicô đủ ổn định để chuyển sang phát hành bản tin mỗi hai đêm.
Quyết định này của Đức Thánh Cha Phanxicô có thể phần lớn là nhằm tránh những đồn đoán tràn lan và tin tức giả mạo về sức khỏe của ngài.
Đức Gioan Phaolô II đã từng nói một câu nổi tiếng khi được hỏi về sức khỏe của ngài rằng ngài không biết vì ngài chưa đọc báo.
Mọi nỗi lo về sức khỏe của Đức Giáo Hoàng đều là mảnh đất màu mỡ cho những suy đoán, và lần này đối với Đức Thánh Cha Phanxicô cũng không ngoại lệ. Ngay từ đầu, đã có tin đồn rằng ngài đã qua đời, và Vatican đã giữ bí mật, và vài ngày sau, các tiêu đề lan truyền rằng ngài chỉ còn 72 giờ để sống.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã vượt xa ngưỡng thời gian đó, và thực tế có vẻ đang hồi phục chậm nhưng ổn định, khi các bác sĩ hôm thứ Hai quyết định hủy bỏ dự đoán tổng thể “được cảnh báo” của ngài, nghĩa là họ coi ngài đã qua cơn nguy hiểm trước mắt, mặc dù tình trạng lâm sàng vẫn phức tạp.
Quyết định công bố thông tin chi tiết về tình trạng của mình cũng là một thông điệp gửi đến thế giới và chính tổ chức của ngài rằng ngài vẫn chưa ra đi, và khi thời điểm đó đến, ngài sẽ chỉ được các bác sĩ tuyên bố là đã chết, chứ không phải giới truyền thông hay chính giáo triều của ngài.
Một bản ghi âm cảm ơn thế giới vì những lời cầu nguyện của họ, được Đức Thánh Cha Phanxicô ghi âm từ phòng bệnh của mình và được phát trên loa phóng thanh vào ngày 6 tháng 3 cho các tín hữu tụ tập để cầu nguyện kinh Mân Côi cho ngài tại Quảng trường Thánh Phêrô, cũng là một tín hiệu cho thấy rằng dù buồn nhưng ngài vẫn không gục ngã.
Đối với nhiều người, mặc dù khó có thể nghe được bài phát biểu khó nhọc và đứt quãng của Đức Giáo Hoàng, nhưng thật an ủi khi được nghe giọng nói của ngài lần đầu tiên sau ba tuần.
Lựa chọn minh bạch này của Đức Thánh Cha Phanxicô đánh dấu một sự mới lạ nữa đối với một vị Đức Giáo Hoàng có tư tưởng cải cách, sẵn sàng thay đổi thể chế giáo triều và làm mọi việc theo cách riêng của mình, và điều này bảo đảm rằng ngài là người kiểm soát câu chuyện về sức khỏe của mình.
Ngài đã chứng minh rõ ràng quan điểm này ngay từ đầu khi ngài quyết định gửi một thông điệp tới những người trong giáo triều rằng ngài vẫn là người chịu trách nhiệm bằng cách bỏ qua hệ thống của chính mình để tổ chức một cuộc họp tại Bệnh viện Gemelli với Thủ tướng Ý Giorgia Meloni, người sau đó đã đưa ra một tuyên bố nhận xét về phong thái lịch sự và khiếu hài hước của Đức Giáo Hoàng.
Đức Thánh Cha Phanxicô luôn được cả những người chỉ trích và ủng hộ công nhận là một nhà chiến lược sắc sảo và khôn ngoan, và những hành động cũng như quyết định của ngài từ phòng riêng trên tầng 10 của Bệnh viện Gemelli đã chứng minh một lần nữa rằng ngay cả khi yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất, ngài vẫn là người có quyền kiểm soát rất lớn.
Source:Crux
2. 40 Bài Tĩnh Tâm Mùa Chay Thứ năm tuần thứ nhất Mùa Chay ngày 13 Tháng Ba, 2025
Es 4:17
Tv 137(138):1-3, 7-8
Mt 7:7-12
“Huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban những điều tốt lành cho những kẻ kêu xin Ngài sao?” (Mt 7:11)
Tôi không có con! Nhưng tôi có một đứa cháu trai và cháu gái dễ dàng bắt tôi chơi đủ trò điên rồ với chúng hoặc đọc to cho chúng nghe trong nhiều giờ liền.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng sự đáp trả khoan dung của chúng ta đối với những yêu cầu của trẻ em như một phép ẩn dụ về việc Thiên Chúa đối xử với chúng ta như thế nào. Niềm vui của chúng ta khi ban những điều tốt lành cho trẻ em trong cuộc sống của chúng ta là sự phản ánh niềm vui lớn hơn nữa của Thiên Chúa khi ban những điều tốt lành cho chúng ta—là con cái của Người.
Vậy, tại sao những lời cầu nguyện của chúng ta lại giống lời cầu xin của Esther trong bài đọc đầu tiên hơn là những lời khẳng định đầy tự tin mà cháu trai và cháu gái tôi nói với tôi? Tôi ngờ rằng phần lớn là vì cuộc sống đã dạy chúng ta rằng chúng ta không phải lúc nào cũng nhận được những gì mình muốn, hoặc từ người khác hoặc từ Chúa. Điều đó có nghĩa là một trong hai điều sau: hoặc Chúa không phải lúc nào cũng ban cho chúng ta những điều tốt đẹp khi chúng ta cầu xin Người, hoặc đôi khi có một điều tốt đẹp hơn những gì chúng ta cầu xin. Và khi chúng ta rất muốn một điều gì đó mà không nhận được, kinh nghiệm của tôi là khả năng đầu tiên trong số những khả năng này dễ tin hơn nhiều so với khả năng thứ hai.
Nhưng tôi cũng có kinh nghiệm không cho cháu trai, cháu gái tôi những thứ chúng yêu cầu khi tôi không nghĩ chúng sẽ tốt cho chúng! Hoặc khi có một bức tranh lớn hơn mà tôi có thể thấy, còn chúng thì không.
Lạy Cha, xin dạy con biết đến với Cha với lòng tin tưởng của một đứa con yêu dấu, và tin rằng những gì Cha ban cho luôn là điều tốt nhất - bất kể cảm giác thế nào! Amen.
3. Tiến sĩ George Weigel: Thờ ơ là vô trách nhiệm
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Indifference Is Irresponsible”, nghĩa là “Thờ ơ là vô trách nhiệm”.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Tôi có thể hiểu được tại sao nhiều người Mỹ có vẻ chán nản về các vấn đề thế giới. Mọi thứ thực sự là một mớ hỗn độn.
Tuy nhiên, điều tôi không thể hiểu được là cử tri xem ra đang thờ ơ đối với tình trạng hỗn loạn toàn cầu: sự thờ ơ thể hiện ở thất bại của quốc gia chúng ta trong việc yêu cầu những nhà lãnh đạo tương lai của chúng ta giải quyết tình trạng hỗn loạn mới của thế giới một cách nghiêm chỉnh, thay vì thốt ra những câu nói sáo rỗng và những khẩu hiệu mỉa mai (“chiến tranh bất tận”, “chủ nghĩa phiêu lưu”, “cảnh sát toàn cầu”, v.v.). Điều này là vô trách nhiệm về mặt chính trị và, tôi có thể nói, là vô trách nhiệm cả về mặt đạo đức. Lời răn của Chúa trong Luca 12:48 - “Ai đã được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi hỏi nhiều” - chủ yếu được nói với chúng ta như những cá nhân. Nhưng không thể xem là kéo dài văn bản Kinh thánh một cách quá đáng, khi gợi ý rằng điều đó cũng áp dụng cho quốc gia giàu có nhất, hùng mạnh nhất trên hành tinh.
Dù chúng ta có thích hay không, các đồng minh của chúng ta trên khắp thế giới đều trông chờ vào sự lãnh đạo của chúng ta, cũng như những kẻ muốn làm hại chúng ta trông chờ nơi chúng ta những dấu chỉ của sự yếu đuối. Đúng vậy, có thể nói rằng nước Mỹ đã gánh chịu nhiều hơn phần chia sẻ hợp lý của mình về gánh nặng tài chính và con người trong vai trò lãnh đạo một thế giới hậu Chiến tranh Lạnh. Nhưng liệu thế giới có trở thành một nơi an toàn hơn cho tất cả mọi người, kể cả chúng ta, nếu ẩn dụ của thế kỷ 21 về vai trò toàn cầu của nước Mỹ là Đại thảm họa Afghanistan - trong đó chúng ta đã bỏ rơi đồng minh và bỏ mặc phụ nữ và trẻ em gái Afghanistan cho lòng thương xót của Taliban cực kỳ ghét phụ nữ? Liệu thế giới có an toàn hơn nếu chúng ta từ bỏ Ukraine cho nước Nga của Putin và Đài Loan cho Trung Quốc của Tập Cận Bình, bằng chính sách cố ý hay bằng những hành động vô trách nhiệm? Một Iran có vũ khí hạt nhân có khiến thế giới trở nên tốt đẹp hơn không?
Có vẻ như rất khó có thể xảy ra.
Trong một khoảnh khắc hiếm hoi của sự nghiêm chỉnh lưỡng đảng, Quốc hội đã thành lập Ủy ban Chiến lược Quốc phòng Quốc gia vào năm 2022, với tám thành viên là người Mỹ xuất sắc, giàu kinh nghiệm từ cả hai đảng. Báo cáo mới công bố của Ủy ban, nói một cách nhẹ nhàng, là đáng cảnh tỉnh—đối với bất kỳ công dân chu đáo nào. Điểm cốt lõi của tài liệu dài này có thể được tìm thấy trong đoạn đầu tiên của bản tóm tắt:
Những mối đe dọa mà Hoa Kỳ phải đối mặt là những mối đe dọa nghiêm trọng nhất và thách thức nhất mà quốc gia này từng gặp phải kể từ năm 1945 và bao gồm cả khả năng xảy ra chiến tranh lớn trong tương lai gần. Lần cuối cùng Hoa Kỳ tham gia một cuộc xung đột toàn cầu là trong Thế chiến II, kết thúc cách đây gần 80 năm. Lần cuối cùng quốc gia này chuẩn bị cho một cuộc chiến như vậy là trong Chiến tranh Lạnh, kết thúc cách đây 35 năm. Ngày nay, chúng ta không chuẩn bị.
Báo cáo tiếp tục đưa ra những lời chỉ trích gay gắt đối với Bộ Quốc phòng (“Ủy ban nhận thấy rằng các hoạt động kinh doanh, nghiên cứu và phát triển (R&D) và hệ thống mua sắm phức tạp, sự phụ thuộc vào thiết bị quân sự đã có từ nhiều thập niên và văn hóa tránh rủi ro của Bộ Quốc phòng... không phù hợp với môi trường chiến lược hiện nay”). Tôi không lo lắng về tình hình tại Ngũ Giác Đài, vì các vị tổng thống và Quốc hội sẵn sàng giải quyết các vấn đề ở đó. Điều khiến tôi lo lắng hơn cả là văn hóa thờ ơ về các vấn đề thế giới trong công chúng nói chung. Bởi vì nếu không có cam kết công khai bền vững về việc sử dụng sức mạnh cứng và mềm của Hoa Kỳ trong việc định hình một môi trường quốc tế an toàn, thì sẽ không có tổng thống và Quốc hội nào thực hiện hành động quyết đoán cần thiết để ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới khác.
Trong cuốn sách đầu tiên trong bộ sử sáu tập của mình, The Second World War, Winston Churchill đã kể lại cuộc trò chuyện của ông với Tổng thống Franklin Roosevelt, ngay sau biến cố Trân Châu Cảng và lời tuyên chiến của Đức đã đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến đó một cách công khai. Roosevelt, người luôn chú ý đến quan hệ công chúng, đã tìm kiếm những gợi ý về việc nên gọi cuộc chiến này là gì và đã hỏi quan điểm của thủ tướng Anh. Churchill đã trả lời ngay lập tức, “Cuộc chiến không cần thiết”. Đó không phải là một biệt danh hấp dẫn mà người Mỹ (hoặc bất kỳ ai khác) có thể nhiệt tình ủng hộ. Tuy nhiên, điều đó là sự thật.
Việc Anh và Pháp từ chối tin vào lời Hitler, đặc biệt là về ý định địa chính trị của ông ta, đã góp phần gây ra Thế chiến II ở Âu Châu. Sự thờ ơ của công chúng và chính trị Hoa Kỳ đối với những gì đang diễn ra trên lục địa đó từ năm 1933 trở đi cũng vậy. Ngày nay, chúng ta có đang ở trong cùng một trạng thái phủ nhận, vô tư hay thờ ơ như thế không? Putin đã nói rõ rằng ông ta có ý định đảo ngược phán quyết của lịch sử trong Chiến tranh Lạnh, coi Ukraine chỉ là một món khai vị hay antipasto. Tập Cận Bình đã nói rõ rằng ông có ý định đáp trả những gì ông coi là “Thế kỷ nhục nhã” của Trung Quốc bằng cách biến nhà nước toàn trị của mình thành bá chủ thế giới. Các giáo sĩ Hồi giáo Iran coi trọng viễn cảnh về ngày tận thế của người Shiite, ngay cả khi những người theo chủ nghĩa thế tục trong Bộ Ngoại giao và các bộ ngoại giao khác coi họ là những kẻ viển vông thời trung cổ.
Việc phớt lờ những thực tế này là hành vi vô trách nhiệm nghiêm trọng về mặt đạo đức và chính trị, vì nó khiến một thảm họa, có sức tàn phá chưa từng có, có khả năng xảy ra cao hơn.
Source:First Things
4. Thứ Sáu Tuần Thánh 2024 – Bài giảng cảm động tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Kitô tại Vatican
“Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là TA LÀ” (Ga 8:28). Đây là lời Chúa Giêsu đã thốt ra khi kết thúc cuộc tranh cãi gay gắt với những người chống đối Người. Có một sự tiến bộ vượt bậc so với những câu “Ta Là” trước đó được Chúa Giêsu tuyên bố trong Tin Mừng Gioan. Ngài không còn nói: “Ta Là” điều này hay điều kia như bánh sự sống, ánh sáng thế gian, sự sống lại và sự sống, v.v. Ngài chỉ đơn giản nói “TA LÀ” mà không cần xác định thêm. Điều này mang lại cho lời tuyên bố của Ngài một chiều hướng siêu hình, tuyệt đối. Tuyên bố ấy cố tình nhắc lại lời được được viết trong sách Xuất Hành 3:14 và Isaia 43:10-12, trong đó chính Thiên Chúa đưa ra lời tuyên bố thần thánh “TA LÀ” của Ngài.
Tính mới lạ đáng kinh ngạc của lời khẳng định này trên miệng Chúa Kitô chỉ được khám phá nếu chúng ta chú ý đến những gì xảy ra trước lời khẳng định của Chúa Kitô: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết TA LÀ”. Như muốn nói: Tôi là gì - và do đó, Thiên Chúa là gì! - sẽ chỉ được biểu hiện trên thập tự giá. (Như chúng ta biết, trong Tin Mừng Thánh Gioan, cụm từ “bị treo lên” ám chỉ biến cố thập giá!)
Chúng ta đang phải đối mặt với sự đảo ngược hoàn toàn quan niệm của con người về Thiên Chúa và một phần quan niệm của Cựu Ước. Chúa Giêsu đến không phải để cải thiện và hoàn thiện quan niệm của con người về Thiên Chúa, nhưng, theo một nghĩa nào đó, để lật đổ nó và tỏ lộ dung nhan đích thực của Thiên Chúa. Đây là điều mà Thánh Phaolô là người đầu tiên hiểu được. Ngài đã viết:
Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. (1 Cr 1:21-24).
Hiểu theo cách này, lời Chúa Kitô mang một ý nghĩa phổ quát, thách thức những ai đọc nó, trong mọi thời đại và hoàn cảnh, kể cả thời đại chúng ta. Thực ra, sự đảo ngược quan niệm về Thiên Chúa luôn cần được đổi mới. Thật không may, trong tiềm thức của mình, chúng ta tiếp tục mang theo chính ý tưởng này về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến để thay đổi. Chúng ta có thể nói về một Thiên Chúa là Đấng có tinh thần thuần khiết, là đấng tối cao, v.v., nhưng làm sao chúng ta có thể nhìn thấy Ngài trong sự hủy diệt của cái chết trên thập giá? Chắc chắn Chúa là Đấng toàn năng, nhưng đó là loại quyền năng gì? Đối mặt với loài người, Thiên Chúa thấy mình không có khả năng gì, không chỉ khả năng áp đặt mà ngay cả khả năng tự vệ. Ngài không thể can thiệp bằng quyền lực để áp đặt mình lên họ. Ngài không thể không tôn trọng đến mức độ vô hạn trước những lựa chọn tự do của con người.
Và như vậy Chúa Cha mạc khải bộ dung nhan đích thật về quyền năng toàn năng của Người nơi Con của Người, Đấng quỳ gối trước các môn đệ để rửa chân cho các ông; nơi Đấng bị giảm thiểu đến mức bất lực triệt để nhất trên thập giá và tiếp tục yêu thương và tha thứ mà không lên án ai. Sự toàn năng của Thiên Chúa là sự toàn năng của tình yêu không có khả năng tự vệ.
Cần ít sức mạnh để phô diễn; nhưng phải mất rất nhiều sức mạnh để đặt mình sang một bên và che giấu bản thân. Chúa chính là sức mạnh vô hạn của sự tự che giấu này! Exinanivit semetipsum: Người đã trút bỏ chính mình (Philíp 2:7). Thiên Chúa đã phản kháng lại “ý chí quyền lực” của chúng ta bằng sự bất lực tự nguyện của Ngài.
Thật là một bài học cho chúng ta, những người ít nhiều có ý thức luôn muốn khoe khoang. Thật là một bài học cho các cường quốc trên trái đất! Hoặc ít nhất là đối với những người trong số họ thậm chí không nghĩ đến việc phục vụ mà chỉ nghĩ đến quyền lực vì sự khát khao quyền lực; đó là những kẻ – như Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng – là những kẻ “đàn áp dân chúng” và tệ hại hơn nữa, lại “tự coi mình là ân nhân” của họ (x. Mt 20:25; Lk 22:25).
* * *
Nhưng chẳng phải chiến thắng của Chúa Kitô trong sự phục sinh của Người đã lật đổ tầm nhìn này, khôi phục quyền toàn năng bất khả chiến bại của Thiên Chúa đó sao? Đúng, nhưng theo một nghĩa rất khác so với những gì chúng ta thường nghĩ. Rất khác với những “chiến thắng” được tổ chức khi hoàng đế trở về sau các chiến dịch thắng lợi, dọc theo con phố vẫn được gọi là “Via Trionfale” ở Rôma ngày nay.
Chắc chắn đã có một chiến thắng trong trường hợp của Chúa Kitô, và một chiến thắng vừa dứt khoát vừa không thể đảo ngược được về vấn đề đó! Nhưng chiến thắng này thể hiện như thế nào? Sự sống lại diễn ra một cách bí ẩn, không có nhân chứng. Cái chết của Ngài - chúng ta đã nghe trong trình thuật Cuộc Thương Khó - đã được một đám đông lớn nhìn thấy và có sự tham gia của các nhà chức trách tôn giáo và chính trị cao nhất. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu chỉ hiện ra với một số môn đệ, ngoài tầm chú ý.
Bằng cách này, Ngài muốn nói với chúng ta rằng sau khi chịu đau khổ, chúng ta không nên mong đợi một chiến thắng hữu hình bên ngoài, chẳng hạn như vinh quang trần thế. Chiến thắng được ban cho một cách vô hình và có đẳng cấp vô cùng cao hơn bởi vì nó là vĩnh cửu! Các vị tử đạo hôm qua và hôm nay là những ví dụ về điều đó.
Đấng Phục Sinh tự biểu hiện qua những lần hiện ra, đủ để cung cấp một nền tảng đức tin rất vững chắc cho những ai ngay từ đầu đã không từ chối tin. Nhưng đó không phải là hành động trả thù nhằm hạ nhục đối thủ của mình. Ngài không xuất hiện giữa họ để chứng minh họ sai hay chế nhạo cơn giận bất lực của họ. Bất kỳ sự trả thù nào như vậy sẽ không phù hợp với tình yêu mà Chúa Kitô muốn làm chứng trong cuộc khổ nạn của Người.
Như khi bị hủy diệt trên Đồi Can vê, Ngài cư xử khiêm tốn trong vinh quang của sự phục sinh. Mối quan tâm của Chúa Giêsu phục sinh không phải là làm cho kẻ thù của Người bối rối, nhưng là để trấn an các môn đệ đang thất vọng của Người, và trước họ, là những người phụ nữ chưa bao giờ ngừng tin vào Người.
* * *
Trong quá khứ, chúng ta sẵn sàng nói về “chiến thắng của Giáo hội Thánh thiện”. Mọi người cầu nguyện cho điều đó và những thành tựu cũng như lý do lịch sử đã sẵn sàng được ghi nhớ. Nhưng chúng ta đã nghĩ đến loại chiến thắng nào? Ngày nay chúng ta nhận ra kiểu chiến thắng đó khác với kiểu chiến thắng của Chúa Giêsu biết bao. Nhưng chúng ta đừng phán xét quá khứ. Luôn có nguy cơ không công bằng khi chúng ta đánh giá quá khứ từ góc độ hiện tại.
Đúng hơn, chúng ta hãy chấp nhận lời mời mà Chúa Giêsu gửi đến thế giới từ thập giá của Người: “Hãy đến với Ta, tất cả những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Nó gần như sẽ bị coi là mỉa mai và nhạo báng! Một người không có hòn đá để tựa đầu, một người bị dân mình ruồng bỏ, bị kết án tử hình, một người bị “bịt mặt để không nhìn thấy” (xem Is 53:3), dám nói với toàn thể nhân loại, ở mọi nơi và mọi thời, và nói: “Tất cả hãy đến với Ta, và Ta sẽ cho được nghỉ ngơi!”
Hãy đến với Ta, bạn là người già, bệnh tật và cô đơn, bạn là người mà thế giới bỏ mặc chết trong nghèo đói, hoặc trong khi bị bắn phá; bạn, những người đang mòn mỏi trong xà lim vì niềm tin vào Ta, hoặc vì cuộc chiến giành tự do của bạn, hãy đến với Ta, bạn là nạn nhân của bạo lực. Tóm lại, tất cả mọi người, không trừ ai: Hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi! Cha đã chẳng hứa với các con: “Khi Ta được treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta” đó sao? (Ga 12:32)
“Nhưng Ngài có thể cho chúng tôi phần còn lại nào, hỡi người đàn ông của thập giá, bị bỏ rơi và mệt mỏi hơn những người Ngài muốn an ủi?” “Vâng, hãy đến với Ta, vì TA LÀ! Ta là Chúa! Ta đã bác bỏ ý tưởng của ngươi về sự toàn năng, nhưng Ta vẫn giữ sự toàn năng của Ta, đó là sự toàn năng của tình yêu. Người ta viết rằng “sự yếu đuối của Thiên Chúa mạnh hơn sức mạnh của con người” (1 Cor 1:25). Ta có thể an ủi và cho ngươi nghỉ ngơi mà không làm biến mất đi sự mệt mỏi trên thế giới này. Hãy hỏi những người đã trải nghiệm nó!
Vâng, lạy Chúa chịu đóng đinh, với tâm hồn đầy lòng biết ơn, vào ngày chúng con tưởng nhớ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa, chúng con cùng với tông đồ Phaolô của Chúa lớn tiếng tuyên xưng:
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?[…] Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta. (Rm 8,35-39).