1. Tình trạng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô vẫn ổn định

Trưa Thứ Bẩy, 08 Tháng Ba, Ông Matteo Bruni, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, cho biết Đức Thánh Cha Phanxicô đã trải qua một đêm Thứ Sáu an giấc và đã thức giấc vào lúc 8h sáng Thứ Bẩy.

Ông cho biết bản tin y tế tiếp theo sẽ được phát vào tối thứ Bảy theo giờ địa phương Rôma.

Sau khi một thông điệp âm thanh chân thành từ Đức Giáo Hoàng được phát tại Quảng trường Thánh Phêrô vào tối thứ Năm, Ông Bruni giải thích rằng Đức Giáo Hoàng mong muốn ghi âm và phát lời chào để cảm ơn mọi người đang cầu nguyện cho ngài. Ông cho biết Đức Giáo Hoàng cảm thấy như mình đang được nâng đỡ bởi nhiều lời cầu nguyện.

Trong thông điệp âm thanh, Đức Thánh Cha không nói được nhiều, hơi thở có vẻ mệt nhọc khiến các phương tiện truyền thông đưa ra nhiều đồn đoán. Ông Bruni cho biết ông vừa cấp giấy chứng nhận cho hơn 500 ký giả đổ về Vatican. Con số này tuy vẫn là khiêm tốn so với các biến cố lớn trong đời sống Giáo Hội như Cơ Mật Viện bầu tân Giáo Hoàng. Tuy nhiên, nó cũng là con số khá đáng kể.

Cho đến nay, tình trạng của Đức Thánh Cha được ghi nhận là ổn định. Lo lắng trước mắt của các bác sĩ là hậu quả của 2 cơn co thắt do nuốt phải thức ăn từ dạ dày vào hệ hô hấp của Đức Giáo Hoàng. Các bác sĩ ngay lập tức “hút phế quản”, nghĩa là họ hút ra từ đường hô hấp những thứ mà ngài hít vào, và họ bắt đầu sử dụng NIV, hay thông khí không xâm lấn, mà các bác sĩ giải thích như là một bước giữa mặt nạ oxy thông thường và máy thở cơ học hoàn chỉnh trong đó bệnh nhân được đặt nội khí quản.

Tuy nhiên, họ đánh giá là rất nghiêm trọng và có thể khiến ngài có nguy cơ mắc một dạng viêm phổi khác gọi là “viêm phổi ab ingestis”, vì thông thường không thể hút hết mọi thứ ra ngoài và vi khuẩn có khả năng xâm nhập vào đường hô hấp thông qua thức ăn đã nuốt vào.

Các bác sĩ cho biết trong vài ngày tới, điều quan trọng là phải theo dõi xem cơn sốt của Đức Giáo Hoàng có quay trở lại hay không, vì đây có thể là dấu hiệu cho thấy ngài đã bị viêm phổi ab ingestis. Nếu ngài không bị sốt thì tình hình sẽ lạc quan hơn rất nhiều.

2. Lý luận về chính sách xoa dịu và chiến tranh chính nghĩa

Gilbert Meilaender là Giáo sư nghiên cứu cao cấp tại Đại học Valparaiso và là nhà nghiên cứu tại Trung tâm Đạo đức và Văn hóa Notre Dame. Ông đã giảng dạy Thần Học Luân Lý tại Đại học Virginia, Đại Học Oberlin và Đại học Valparaiso, nơi ông giữ chức Chủ tịch Duesenberg về Đạo đức Kitô giáo.

Trên tờ First Things, ông vừa có bài viết nhan đề “Appeasement and Just War Reasoning”, nghĩa là “Lý luận về chính sách xoa dịu và chiến tranh chính nghĩa”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy

Vào ngày cuối cùng của tháng 2, Tổng thống Zelenskiy của Ukraine đã bị phục kích và đuổi khỏi cuộc họp với Tổng thống Trump tại Tòa Bạch Ốc. Sự bất đồng của họ, theo một cách nào đó, đơn giản, nhưng cũng phức tạp. Ukraine đã bị Nga xâm lược, đã đấu tranh để chống lại, nhưng cần sự giúp đỡ đặc biệt từ chính phủ Hoa Kỳ nếu muốn tiếp tục cuộc kháng cự đó với một số hy vọng thành công. Chính quyền Trump, tin rằng Ukraine không thể thành công, họ muốn cuộc chiến dừng lại, ngay cả với kết quả là Nga thành công trong việc sáp nhập một phần của Ukraine.

Thành công có ý nghĩa gì đối với Ukraine? Đó là câu hỏi mà cuộc thảo luận tại Tòa Bạch Ốc đã đi vào bế tắc. Đối với người Ukraine, thành công có nghĩa là ngăn chặn và chấm dứt cuộc tấn công của Nga và giành lại lãnh thổ mà họ đã mất trong nhiều năm bị Nga xâm lược. Đối với nhiều người, đó có vẻ là một mô tả hợp lý về thành công.

Nhưng tất nhiên, điều đó cuối cùng có thể không thể xảy ra, và đặc biệt là không thể nếu Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, và đó chính xác là những gì chính quyền Tổng thống Trump đang có ý định thực hiện. Vậy thì thành công có nghĩa là gì trong mắt Donald Trump? Ông ta kêu gọi ngừng bắn, cắt giảm tổn thất, ngừng chiến đấu và tin rằng Nga sẽ hài lòng với lãnh thổ mà họ đã chiếm được cho đến nay sau nhiều năm chiến tranh. Hiển nhiên, ông ta giả vờ rằng tội ác xâm lược của Nga chưa bao giờ xảy ra, rằng việc ném bom các mục tiêu dân sự của Nga chưa bao giờ xảy ra; và đặt cược vào ý tưởng rằng các mục tiêu đế quốc của Nga sẽ được thỏa mãn với phần lãnh thổ Ukraine mà họ đã chiếm được cho đến nay.

Có phải đó là ý nghĩa của thành công ở đây không? Có thể là vậy. Có thể đó là điều mà một lập trường thực tế, cứng rắn sẽ khuyến nghị. Có thể sẽ quá tốn kém đối với lợi ích của Hoa Kỳ để tiếp tục hỗ trợ cho người dân Ukraine, cho dù có lẽ không phải là quá tốn kém đối với lý tưởng của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nếu vậy, chúng ta đừng nên che giấu đánh giá này bằng ngôn ngữ của lý luận chiến tranh chính nghĩa vì nó đã được định hình bởi sự hiểu biết của Kitô giáo. Lấy ví dụ, tôi nghĩ rằng thật sai lầm khi viết, như RR Reno rằng : “Có thể là dũng cảm khi chiến đấu với điều mà người ta biết là một trận chiến thua cuộc, nhưng theo lý thuyết chiến tranh chính nghĩa, làm như vậy phản ánh sự phù phiếm của người ngoại đạo, chứ không phải là sự phán đoán đạo đức của Kitô giáo.”

Trước tiên, hãy xem xét “sự phù phiếm của người ngoại đạo”. Một người bảo vệ đường lối của Donald Trump đối với Ukraine cần nhiều hơn một chút sự liều lĩnh để lên án sự phù phiếm của người ngoại đạo. Không nghi ngờ gì nữa, Ông Donald Trump là một tập hợp của những đức tính và những thói hư tật xấu. Chúng ta có thể ủng hộ đường lối của ông đối với cuộc chiến ở Ukraine. Chúng ta có thể bỏ phiếu cho ông như người đỡ tệ hơn trong số những người tồi tệ. Nhưng chúng ta sẽ mất uy tín nếu chúng ta dường như quên rằng “sự phù phiếm của người ngoại đạo” là một mô tả khá phù hợp về chính ông ta. Vì vậy, hãy gạt sang một bên ngay từ đầu quan niệm rằng chiến đấu trong một trận chiến mà người ta sợ sẽ thua là phù phiếm của người ngoại đạo. Dùng cụm từ “sự phù phiếm của người ngoại đạo” để gán cho người Ukraine là không đúng. Hơn nữa, chúng ta cần phải tự nhắc nhở mình rằng có những điều còn tồi tệ hơn sự phù phiếm của người ngoại đạo. Thật đáng để nhớ lại rằng, ngay cả khi đang chỉ trích mong muốn vinh quang của Rôma ngoại đạo, Thánh Augustinô vẫn không thể không ngưỡng mộ lòng dũng cảm của Marcus Regulus, người đã giữ lời hứa trở về với người Carthage, mặc dù biết rõ sự tra tấn đang chờ đợi mình. Thay vì mô tả điều này là sự phù phiếm của người ngoại giáo, Thánh Augustinô viết: “Đối phương của chúng ta chắc chắn có lý khi ca ngợi lòng dũng cảm đã vượt lên trên số phận khủng khiếp như vậy.”

Vậy thì chúng ta cần một cuộc kiểm tra nghiêm chỉnh hơn nhiều về tư duy chiến tranh chính nghĩa thay vì dễ dàng bác bỏ một cách hời hợt bằng cụm từ “sự phù phiếm của người ngoại đạo”. Chúng ta có ý gì nếu nói rằng chúng ta không nên tiến hành chiến tranh (hoặc tiếp tục một cuộc chiến đang diễn ra) trừ khi chúng ta có hy vọng hợp lý về thành công trong việc đạt được các mục tiêu chiến tranh của mình? Mọi thứ phụ thuộc vào mục tiêu đó là gì và chúng ta hiểu thế nào là thành công. Khi suy ngẫm về điều này, tôi đã quay lại với một trong những cuốn sách hay nhất được viết về tư duy chiến tranh chính nghĩa, “Just and Unjust Wars” nghĩa là “Các cuộc chiến tranh chính nghĩa và bất chính” của Michael Walzer. Walzer lưu ý rằng luôn có những lý do hấp dẫn để xoa dịu kẻ xâm lược: “Sự xâm lược thường diễn ra dưới hình thức một cuộc tấn công của một quốc gia hùng mạnh vào một quốc gia yếu thế... Sự kháng cự có vẻ thiếu thận trọng, thậm chí là vô vọng. Nhiều sinh mạng sẽ mất đi, và mục đích là gì?” Đó là lập luận thực dụng cho chính sách xoa dịu, và chúng ta nhận ra sức mạnh cám dỗ của nó, ngay cả khi chúng ta có thể cảm thấy xấu hổ khi đơn giản buông xuôi đầu hàng quyền lực.

Cần phải nhắc nhớ đến chính sách xoa dịu đáng xấu hổ dành cho Hitler tại Munich, một sự xoa dịu mà cuối cùng đã chứng minh là vô ích. Một trường hợp hữu ích hơn để chúng ta xem xét là trường hợp mà Walzer hướng sự chú ý của chúng ta đến: đó là trường hợp của Phần Lan, không lâu sau Munich. Trong trường hợp này, kẻ xâm lược không phải là Đức mà là nước Nga của Stalin. Điều mà Nga lo sợ không phải là người Phần Lan mà là người Đức. Họ muốn sáp nhập một số lãnh thổ của Phần Lan để có được vùng đệm chống lại cuộc tiến công có thể xảy ra của Đức vào Leningrad. Người Phần Lan phải quyết định xem có nên bảo vệ những gì chính đáng của họ hay nhường lãnh thổ để tránh chiến tranh. Cuối cùng, họ đã không nhượng bộ, và Walzer viết, “điều quan trọng là cố gắng hiểu được sự hài lòng về mặt đạo đức mà quyết định chiến đấu của họ được chào đón trên toàn thế giới”. Trên thực tế, nó được chào đón theo cách tương tự như cách mà phần lớn thế giới đã chào đón quyết định của Ukraine chống lại cuộc xâm lược gần đây của Nga.

“Các giá trị chung của chúng ta được khẳng định và nâng cao thông qua cuộc đấu tranh, trong khi sự xoa dịu, ngay cả khi đó là phần tốt hơn của sự khôn ngoan, làm suy yếu các giá trị đó và khiến tất cả chúng ta trở nên nghèo nàn”. Tôi nghĩ đó là điểm cốt yếu. Giả sử trong một khoảnh khắc rằng chính quyền Trump đúng khi cho rằng cuộc kháng cự liên tục của Ukraine là một sai lầm và rằng việc chấm dứt cuộc kháng cự của Ukraine là “phần tốt hơn của sự khôn ngoan”. Hãy thừa nhận tất cả những điều đó trong một khoảnh khắc và tự hỏi điều gì còn thiếu. Điều còn thiếu là tất cả những cảm giác cho thấy rằng việc gây áp lực buộc người dân Ukraine từ bỏ cuộc đấu tranh của họ sẽ “làm suy yếu” các giá trị của chúng ta và khiến chúng ta trở nên “nghèo nàn”. Chắc chắn, sự phù phiếm của người ngoại giáo sẽ là điều tồi tệ. Nhưng kiểu nghèo nàn này, vốn chỉ nghĩ về thế giới theo khía cạnh quyền lực và các thỏa thuận giữa các cường quốc, thì còn tệ hại hơn gấp bội phần.

Có nhiều cách khác nhau để đo lường thành công, như lý luận chiến tranh chính nghĩa luôn hiểu. Cuối cùng, Walzer lưu ý, các đường biên giới mà Phần Lan cuối cùng phải chấp nhận vào năm 1940 còn tệ hơn các đường biên giới đã được cung cấp cho họ trước đó. Và tất nhiên, hàng ngàn binh lính Phần Lan đã chết trong nỗ lực bảo vệ lãnh thổ Phần Lan. “Nhưng chống lại tất cả những điều này được minh oan bởi nền độc lập của Phần Lan.... Nếu cuộc chiến tranh của Phần Lan thường được coi là đáng giá, thì đó là vì độc lập không phải là một giá trị có thể dễ dàng đánh đổi.” Từ chối đánh đổi nó không phải là sự phù phiếm của người ngoại đạo. Đó là cam kết trở thành một dân tộc có chung lịch sử, văn hóa và cách sống. Với sự thận trọng như Walzer đã thể hiện, chúng ta có thể, tôn vinh cam kết đó. Với tôi, có vẻ đúng khi hy vọng rằng, nếu chúng ta cam kết duy trì sự vĩ đại của nước Mỹ; hoặc, có lẽ trong suy nghĩ của một số người, là giành lại sự vĩ đại của nước Mỹ, chúng ta sẽ đánh giá cao tầm quan trọng của những tình cảm tương tự đối với các dân tộc khác. Nếu người Ukraine tiếp tục kháng cự, như người Phần Lan đã làm, có lẽ nếu chúng ta không ủng hộ họ, thì ít nhất chúng ta cũng có thể tôn vinh họ.

Đây là lý do tại sao, bất kể chúng ta nghĩ như thế nào về phần khôn ngoan hơn dành cho người Ukraine trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại của họ, cuộc sống chung của chúng ta với tư cách là người Mỹ đã bị “làm nghèo nàn” bởi cuộc phục kích ngày 28 tháng 2.


Source:First Things

3. Vatican tái khẳng định việc bác bỏ những gì được cho là mạc khải tư về cuộc đời của Chúa Giêsu

Một tác phẩm đồ sộ – và được cho là lấy cảm hứng từ chính Chúa Giêsu Kitô: Nhà huyền môn người Ý Maria Valtorta đã viết hàng chục ngàn trang. Tác phẩm của bà vẫn còn phổ biến. Bây giờ Vatican một lần nữa đang cố gắng ngăn chặn nó.

Các tác phẩm của nhà thần bí người Ý Maria Valtorta, sinh năm 1897 và qua đời năm 1961, vẫn chưa được Giáo hội công nhận là những mặc khải siêu nhiên. Bộ Giáo lý Đức tin đã công bố vào hôm Thứ Ba, 04 Tháng Ba, rằng các “thị kiến”, “mặc khải” và “thông điệp” do bà công bố chỉ có thể được hiểu là các hình thức diễn đạt văn học mà tác giả dùng để kể lại cuộc đời của Chúa Giêsu theo cách riêng của bà. Theo thông cáo báo chí, việc làm rõ được thúc đẩy bởi thực tế là giáo sĩ và giáo dân đã nhiều lần hỏi bộ về đánh giá của Giáo hội đối với các tác phẩm, đặc biệt là câu chuyện về cuộc đời của Chúa Giêsu “Thiên Chúa-Con Người”.

Thánh bộ nhấn mạnh “Theo truyền thống lâu đời của mình, Giáo hội không chấp nhận các Phúc âm ngụy thư và các văn bản tương tự khác là có thẩm quyền, vì Giáo hội không công nhận nguồn cảm hứng thiêng liêng của chúng và tham chiếu đến truyền thống chắc chắn của các Phúc âm được truyền cảm hứng”. Trong các tác phẩm của mình, Valtorta đề cập đến các thị kiến mà chính Chúa Giêsu được cho là đã mặc khải cho bà. Bà tuyên bố đã nhận được các thị kiến của mình trong khoảng thời gian từ năm 1943 đến năm 1953. Tổng cộng bà đã viết khoảng 15.000 trang.

Tác phẩm chính của bà “The God-Man”, ban đầu có tựa đề “The Gospel as it was revealed to me”, được biên soạn bởi cha giải tội của bà dựa trên các ghi chú viết tay của bà. Năm 1959, tác phẩm này được đưa vào “Danh mục các sách bị cấm”, sau đó đã bị bãi bỏ. Năm 1960, tờ Quan Sát Viên Rôma mô tả tác phẩm này là “cuộc đời Chúa Giêsu bị người ta lãng mạn hóa tệ hại”. Năm 1985, khi đó là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, đã liên tục xác nhận lập trường tiêu cực trong một lá thư gửi cho Tổng giám mục Genoa.

Tháng 5 năm ngoái, Bộ Giáo lý Đức tin đã công bố những hướng dẫn mới để thẩm tra các hiện tượng và mặc khải siêu nhiên được báo cáo. Mục đích không còn là xác định chắc chắn bản chất siêu nhiên của một sự kiện. Thay vào đó, Bộ phân loại các sự kiện được thẩm tra thành các loại khác nhau, từ “Nihil obstat”, trong đó giá trị mục vụ của một sự kiện được công nhận, đến “Prohibetur et obstruatur”, trong đó tuy các khía cạnh quan trọng chiếm ưu thế nhưng việc tôn kính hiện tượng này bị cấm vì có những vấn nạn có khả năng gây ra những nhầm lẫn tai hại. Các tác phẩm của Valtorta không được phân loại rõ ràng, nhưng sự từ chối rõ ràng tương ứng với “declaratio de non supernaturalitate”, tuyên bố rằng hiện tượng này không được coi là siêu nhiên.

Kể từ khi công bố các hướng dẫn mới, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố một số đánh giá mới về các phép lạ được cho là cũng như các quyết định đã được đưa ra, ví dụ như quyết định về sự xuất hiện được cho là của “Đức Mẹ của mọi quốc gia” ở Amsterdam đã được thu hồi. Quyết định quan trọng nhất dựa trên các hướng dẫn mới cho đến nay là phán quyết tích cực về địa điểm hành hương Medjugorje, nơi xác định rằng không có gì cản trở việc tôn kính. (fxn)


Source:english.katholisch.de

4. Đức Hồng Y Koch: Truyền chức cho phụ nữ là một chướng ngại cản trở hiệp nhất

Đức Hồng Y Kurt Koch, Bộ trưởng Bộ Hiệp nhất các tín hữu Kitô, tuyên bố rằng truyền chức cho phụ nữ làm mục sư trong một số Giáo hội Tin lành là một chướng ngại cản trở sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Đức Hồng Y bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc phỏng vấn dành cho Đại học Công Giáo Valencia, bên Tây Ban Nha, và được hãng tin Ekai của Công Giáo Ba Lan, truyền đi hôm mùng 05 tháng Ba. Đức Hồng Y Koch, người Thụy Sĩ, nói: “Các tín hữu Công Giáo muốn tái khám phá sự hiệp nhất Kitô trong đức tin, các bí tích và các thừa tác vụ. Sự hiệp thông Thánh Thể đòi phải có sự nhìn nhận các thừa tác vụ, và đối với Giáo Hội Công Giáo việc truyền thánh chức cho phụ nữ là điều không có thể.”

Đức Hồng Y Koch nhắc lại rằng phong trào đại kết các tín hữu Kitô đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong những thập niên gần đây nhờ những văn kiện chủ yếu, như tuyên ngôn chung liên quan đến đạo lý về ơn công chính hóa năm 1999 và Văn kiện “Từ xung đột đến hiệp thông”, công bố năm 2016 do ủy ban hỗn hợp giữa Công Giáo và Tin lành Luther. Về văn kiện này, Đức Hồng Y nhận xét rằng nó được soạn thảo nhân dịp kỷ niệm cuộc cải cách của Tin lành và Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn kỷ niệm cùng với các tín hữu Luther, qua một cử chỉ chưa từng có trong lịch sử Giáo hội.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức Hồng Y Koch nhấn mạnh rằng vấn đề chính của cuộc đối thoại đại kết là thiếu một quan niệm chung về mục đích của Phong trào đại kết. Ngài nói: “Nếu bạn ở phi trường Valencia mà không biết bạn muốn đi đâu, thì không lạ gì nếu bạn đi tới Paris thay vì đến Roma”. Vì thế, cần phải xác định chung những mục đích để có thể có tiến bộ trên con đường dẫn đến hiệp nhất”.

Về mối tương quan giữa Công Giáo với Chính thống, Đức Hồng Y Bộ trưởng Bộ Hiệp nhất các tín hữu Kitô nhắc lại rằng Công đồng chung Vatican II đã giải vạ tuyệt thông cũ (hồi thế kỷ XI cho Tòa Thượng phụ Chính thống Constantinople) và qua đó, tạo điều kiện dễ dàng cho cuộc đối thoại giữa Công Giáo và Chính thống. Nhưng Đức Hồng Y nhìn nhận rằng những chia rẽ trong nội bộ của Chính thống giáo, đặc biệt giữa Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa và Constantinople là một chướng ngại cản trở hiệp nhất hiện nay.

Đức Hồng Y không quên nói đến “phong trào đại kết của các vị tử đạo”, cụ thể là sự bách hại các tín hữu Kitô ở nhiều nơi trên thế giới. Ngài nói: “Đức tin Kitô của chúng ta bị tấn công nhiều nhất và tất cả các Giáo hội Kitô đều có các vị tử đạo. Đó là lý do tại sao Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng máu các vị tử đó không chia rẽ nhưng hiệp nhất các tín hữu Kitô”.

Về trào lưu tục hóa ở Âu châu, Đức Hồng Y Koch nêu rõ cấp thiết cần tái truyền giảng Tin mừng cho xã hội đã mất mối tương quan với đức tin Kitô. Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu xã hội học, gọi tắt là CIS ở Tây Ban Nha, 40% người dân nước này không còn theo một tôn giáo nào và nơi những người trẻ, tỷ lệ này lên tới 57%. Trước tình trạng đó, việc loan báo Tin mừng phải là một ưu tiên mục vụ của Giáo hội.

Tóm lại, theo Đức Hồng Y Kurt Koch, cần liên kết “lòng yêu mến hiệp nhất” với “kiên nhẫn” trong các tiến trình đại kết, vì sự chia rẽ giữa các tín hữu Kitô đã ăn rễ sâu từ nhiều thế kỷ. “Tình thân hữu có thể bị đổ vỡ mau lẹ, nhưng cần phải nhiều năm mới tìm lại được sự hòa giải”.

5. Bờ Tây: “Thành thật mà nói? Việc ngừng bắn đã khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn”

Gaza hiện đang trải qua một nền hòa bình mong manh, nhưng một phái đoàn ACN đến thăm đã phát hiện ra rằng tình hình ở Bờ Tây vẫn chưa được cải thiện đối với các Kitô hữu, những người phải đấu tranh để tìm lý do để hy vọng vào tương lai.

Phải mất khoảng 20 phút lái xe từ Ain 'Arik đến Sân bay Ben Gurion nếu không có rào chắn đường. Trên thực tế người Palestine đã bị cấm sử dụng Ben Gurion kể từ khi bắt đầu cuộc chiến ở Gaza.

Hậu quả của những trở ngại này là rất thực tế đối với 85 thanh niên Kitô hữu Palestine đang có kế hoạch đến Rôma để tham dự Đại lễ Giới trẻ vào tháng 7 và tháng 8. Thay vì lái xe 20 phút đến phi trường, họ phải đi xe buýt qua đêm đến Jordan và chi phí tăng đáng kể.

Đây là trạng thái bình thường mới ở các vùng lãnh thổ Palestine tại Thánh Địa, Cha Louis Salman, người phụ trách mục vụ tuyên úy cho thanh thiếu niên ở toàn bộ Bờ Tây, Gaza và Giêrusalem, đã nói với một phái đoàn từ tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, gọi tắt là ACN đã đến thăm Thánh Địa. Các hạn chế đi lại khiến mọi người cảm thấy bị cô lập và mắc kẹt; thiếu cơ hội việc làm làm giảm triển vọng của họ; và việc liên tục phải tiếp xúc với bạo lực khiến họ bị chấn thương.

Với lệnh ngừng bắn mới có hiệu lực tại Gaza, tương lai có thể tươi sáng hơn một chút đối với các Kitô hữu trên khắp Thánh Địa không? “Thành thật mà nói ư? Đối với chúng tôi, ở Bờ Tây, lệnh ngừng bắn đã khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn”, Cha Louis cho biết. “Kể từ khi ngừng bắn, họ đã đóng nhiều con đường hơn nữa, khiến việc đi lại trở nên khó khăn hơn. Con đường từ Jifna đến Zababdeh trước đây mất khoảng hai giờ. Bây giờ, phải mất bốn giờ”, vị linh mục sinh ra ở Jordan giải thích. Thỏa thuận ngừng bắn chứng kiến Israel cam kết thả các tù nhân Palestine, nhiều người trong số họ đã trở về Bờ Tây. “Vì cuộc trao đổi tù nhân, họ đã thắt chặt an ninh”, Cha Louis cho biết.

Đức Hồng Y Pierbattista Pizzaballa, Thượng phụ La tinh của Giêrusalem, đã đồng ý trong một cuộc họp với ACN tại Giêrusalem. “Chắc chắn là mọi thứ ở Bờ Tây còn tệ hơn. Khi lệnh ngừng bắn bắt đầu ở Gaza, họ đã bắt đầu các hoạt động ở Bờ Tây, với hàng trăm trạm kiểm soát, và các hoạt động ở Jenin một thành phố lớn của Palestine.”

Sami El-Yousef, Tổng giám đốc điều hành của Tòa Thượng phụ La tinh Giêrusalem, đã ủng hộ những lập trường đó bằng các sự kiện. “Chúng tôi đã chứng kiến nhiều vụ sáp nhập đất đai hơn ở Bờ Tây, cũng như việc trục xuất khoảng 16.000 người khỏi các trại tị nạn ở Jenin, với cơ sở hạ tầng vật chất bị phá hủy, vì vậy họ không có nơi nào để trở về. Bờ Tây hiện đã bị chia cắt hoàn toàn với 185 cổng và hơn 900 trạm kiểm soát, nhưng vì những gì đã xảy ra ở Gaza, không có điều gì trong số này nhận được nhiều sự chú ý của quốc tế.”

“Tôi không biết làm sao chúng tôi vẫn đứng vững được. Mọi thứ đang chống lại chúng tôi rất nhiều,” El-Yousef nói. Tuy nhiên, ông đã cố gắng tìm ra một tia hy vọng cho toàn bộ tình hình. “Là một Giáo hội, chúng tôi cảm thấy mình mạnh mẽ hơn so với một năm rưỡi trước, đặc biệt là vì những đóng góp của chúng tôi cho xã hội nói chung. Chúng tôi có thể duy trì các dịch vụ của mình, mở rộng chúng tại một số thời điểm và phục vụ các cộng đồng ở Gaza và Bờ Tây bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi chiến tranh, và chúng tôi đang chuẩn bị để phục vụ nhiều hơn sau chiến tranh.”

Ví dụ, ngài giải thích, sau khi Đức Thượng phụ Pizzaballa bày tỏ lo ngại rằng người dân Gaza đang phải chịu cảnh thiếu nông sản tươi, Tòa Thượng phụ Latinh Giêrusalem đã cố gắng bảo đảm nguồn cung cấp trái cây và rau quả cho Gaza trong nhiều tháng, và không chỉ cho cộng đồng Kitô hữu nhỏ bé vẫn đang sống trong các khu nhà Công Giáo và Chính thống giáo.

“ Cho đến ngày hôm nay, mọi người vẫn nói về cách Giáo hội đứng về phía họ. Theo nguyện vọng của Đức Thượng phụ, chúng tôi đã mở rộng lòng hảo tâm của mình đến những người hàng xóm. Chúng tôi rất tự hào vì đã làm được những gì chúng tôi đã làm trong giai đoạn này”, El-Yousef nói.

Phần lớn công việc này chỉ có thể thực hiện được nhờ sự hỗ trợ của ACN, một thực tế mà Tổng giám đốc điều hành của Tòa Thượng phụ La tinh đề cập đến với lòng biết ơn sâu sắc. “Một năm rưỡi qua đã củng cố điều mà chúng ta, các Kitô hữu, đã biết, rằng chúng ta có bạn bè trên khắp thế giới, những người giúp chúng ta không chỉ về tiền bạc, mà còn về mặt tinh thần”, ông nói.

Trong khi đó, môi trường ở Thánh Địa khiến Cha Salman quyết tâm hơn trong việc giới thiệu những người trẻ theo Kitô giáo đến với những trải nghiệm quốc tế như lễ kỷ niệm Năm Thánh sắp tới ở Rôma. “Sau một năm chiến tranh, hầu hết những người trẻ của chúng tôi đều tuyệt vọng, và ý tưởng là để nâng cao tinh thần của họ. Mục tiêu là có được trải nghiệm tâm linh sâu sắc, không chỉ để vui chơi. Về mặt tâm lý, điều quan trọng là tham gia vào các hoạt động quốc tế để hiểu rằng trên toàn cầu, họ không phải là thiểu số.”

Chủ đề của năm thánh năm nay là hy vọng, nhưng đối với nhiều Kitô hữu Palestine, hy vọng không tồn tại hoặc rất khan hiếm. Ngồi tại trụ sở của mục vụ Quê hương của Thanh niên Chúa Giêsu, được tân trang lại với sự giúp đỡ của ACN, Cha Salman giải thích rằng một phần sứ mệnh của ông với tư cách là nhà lãnh đạo mục vụ thanh thiếu niên là giải thích cho họ biết hy vọng thực sự nằm ở đâu. “Thật không may, ngày nay, không có hy vọng. Nhưng chúng tôi luôn muốn mang đến cho họ hy vọng, một hy vọng không đến từ chính trị, mà từ Chúa Giêsu. Và đó là lý do tại sao, với tư cách là những Kitô hữu từ quê hương của Chúa Giêsu, chúng ta có nhiệm vụ phải ở lại đây, nơi Người đã sống, nơi Người đã chết và nơi Người đã sống lại.”


Source:ACN