Stephen P. White, trên The Catholic Thing, ngày 6 tháng 3 năm 2025, có nhận định sau: Tôi nhớ rõ lần đầu tiên tôi nghe ai đó nói một cách nghiêm túc rằng Donald Trump có thể trở thành một tổng thống tốt. Đó là vào cuối mùa hè năm 2015 và tôi đang cắt tóc. Người phụ nữ cắt tóc cho tôi nói rằng cô ấy hy vọng Trump sẽ thắng cử vào năm sau vì cô ấy thích lập trường của ông ấy về vấn đề nhập cư. Tôi thấy điều này buồn cười vì hai lý do.
Đầu tiên, giống như hầu hết mọi người khác ở Capital Beltway vào thời điểm đó, tôi nghĩ rằng tư cách ứng cử viên mới vào nghề của Trump không thực sự nghiêm túc. Thứ hai, người phụ nữ đứng sau tôi với chiếc kéo ca ngợi những đức tính của đường lối cứng rắn của Trump về vấn đề nhập cư nói bằng giọng nước ngoài đặc sệt. Giống như mọi người phụ nữ khác đang cắt tóc trong tiệm cắt tóc ở trung tâm thương mại đó, cô ấy là một người nhập cư.
Vẫn ý thức được chiếc kéo, tôi nhẹ nhàng gợi ý rằng có một chút mỉa mai trong câu nói này. Không hề, cô nói! Cô đã nhập cư hợp pháp cách đây vài thập niên. Cô tự hào về đất nước đã nhận nuôi mình và biết ơn những cơ hội mà đất nước này mang lại cho cô và gia đình. Và cô đã nói rõ ràng rằng tình trạng nhập cư bất hợp pháp ồ ạt là không công bằng với người Mỹ, đặc biệt là với những người (như cô) đã "tuân thủ các quy tắc". Donald Trump đã hứa sẽ chấm dứt tình trạng đó, và đó là lý do tại sao cô nghĩ rằng ông sẽ trở thành một tổng thống tốt. Đơn giản vậy thôi.
Tôi thú nhận rằng tôi đã không rời khỏi tiệm cắt tóc đó với suy nghĩ Donald Trump sẽ trở thành một tổng thống tốt, hoặc thậm chí ông ấy sẽ trở thành tổng thống. Nhưng tôi đã rời đi với một lời nhắc nhở sâu sắc rằng những người phản đối tình trạng nhập cư ồ ạt, hoặc than thở về hậu quả của nó, không phải tất cả đều có động cơ ích kỷ, cũng như những người ủng hộ tình trạng nhập cư ồ ạt không phải lúc nào cũng bị thúc đẩy bởi lòng vị tha. Và đó là dấu hiệu đầu tiên trong số nhiều dấu hiệu cho thấy liên minh những người bất mãn của Trump có thể rộng lớn đến mức nào.
Làn sóng dân túy đã định hình lại nền chính trị Hoa Kỳ (thực tế là nền chính trị của nhiều nền dân chủ phương Tây) trong thập niên qua có nhiều nguyên nhân và nhập cư ồ ạt gần như đứng đầu danh sách. Nói chung, có sự bất mãn sâu sắc với cách mà "giới tinh hoa" chính trị và kinh tế - hoặc, nếu bạn thích, "giới tinh hoa" là "độc đảng", "giới quản lý chuyên nghiệp", v.v. - đã xử lý các triều đại trong vài thập niên qua.
Làm trầm trọng thêm sự bất mãn, và do đó thúc đẩy tình cảm dân túy, là thái độ thương hại nhìn xuống của kẻ cả mà sự thể hiện sự bất mãn đó đã được đáp lại bởi cùng một "giới tinh hoa" mà mọi người đều trở nên bất mãn. Những lời phản đối rõ ràng đối với hiện trạng và những "điều tốt hơn" về mặt văn hóa của người ta sẽ đoái hoài thông báo cho bạn rằng những lời phản đối như vậy xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về kinh tế, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, bài ngoại và không Ki-tô giáo nói chung. Thật không may, đôi khi chính những đại diện của Giáo hội lại là người chỉ trích.
Bây giờ, việc đổ lỗi cho "giới tinh hoa" hoặc "giới lãnh đạo" hoặc "giai cấp cai trị" hầu như luôn là một sự đơn giản hóa quá mức (và không hề có một chút gì giống Marx). Nhưng mục tiêu của tôi ở đây không phải là biện minh cho chủ nghĩa dân túy hay chôn vùi nó. Thay vào đó, vấn đề là nhấn mạnh rằng, bất kể người ta nghĩ gì về chủ nghĩa dân túy như một phương thuốc chữa lành những gì chúng ta đang đau khổ, thì những căn bệnh tiềm ẩn đã làm nảy sinh nó là có thật, cấp bách và không đi đến đâu cả.

Về vấn đề này, những thách thức của thế giới mới, toàn cầu hóa, dũng cảm của chúng ta không hoàn toàn khác với các cuộc khủng hoảng của thế kỷ 19, đã thúc đẩy Đức Lê-ô XIII viết Rerum novarum. Theo một số cách, những thách thức của ngày nay - đặc biệt là hậu quả và ý nghĩa của công nghệ của chúng ta - rất khác so với những thách thức của năm 1891. Nhưng giống như ngày nay, cuộc khủng hoảng mà Đức Lê-ô XIII đang ứng phó không chỉ là một cuộc khủng hoảng kinh tế, mà là sự định hình lại nhanh chóng của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội cùng một lúc.
Lời chỉ trích không khoan nhượng của Đức Lê-ô về chủ nghĩa tự do kinh tế thời của ngài được kết hợp với lời chỉ trích gay gắt về các giải pháp thay thế xã hội chủ nghĩa, sau đó được quảng bá như một phản ứng công bằng cho "vấn đề của người lao động", nhưng vẫn chưa hình thành như một nhà nước chính trị. Chủ nghĩa xã hội là một phản ứng sai lầm đối với một cuộc khủng hoảng thực sự. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II sau này đã viết, "Biện pháp [xã hội chủ nghĩa] sẽ chứng minh là tệ hơn cả căn bệnh".
Mặc dù Đức Lê-ô hiểu rằng chủ nghĩa xã hội không đưa ra giải pháp công bằng cho các vấn đề lớn của thời đại, nhưng ngài không hề nao núng khi thừa nhận những điều kiện bất công đang thúc đẩy sự lan rộng của những ý tưởng xã hội chủ nghĩa đó.
Đây chính là bài học cho thời đại của chúng ta. Nhiều người Công Giáo, không phải không có lý do, lo lắng rằng chủ nghĩa dân túy ngày nay có thể là một biện pháp chứng minh là tệ hơn cả căn bệnh, giống như chủ nghĩa xã hội vào thời của Đức Lê-ô. Nếu đúng như vậy, họ nên nỗ lực thừa nhận và sửa chữa những thất bại thực sự của chính quyền và chính sách đã tạo ra chính những điều kiện khiến rất nhiều nền dân chủ trở nên chín muồi cho chủ nghĩa dân túy. Không đủ để than thở về sự thay đổi hoặc hy vọng quay trở lại tình trạng trước đây.
Nhiều người Công Giáo khác, không phải không có lý do, hoan nghênh phong trào dân túy của ngày nay, hoặc ít nhất là một số yếu tố của họ. Giống như những người theo chủ nghĩa xã hội thời Đức Lê-ô, họ nhận ra những thất bại của hiện trạng và tha thiết hy vọng rằng những bất bình chính đáng cuối cùng sẽ được đền đáp sau nhiều thập niên bị bỏ bê. Nhưng ở đây, sự thận trọng cũng là cần thiết. Phá bỏ dễ hơn xây dựng. Và nhiều điều tốt đẹp có thể bị tổn hại hoặc phá hủy ngay cả trong một mục đích chính đáng.
Và tất cả những người Công Giáo sẽ làm tốt khi nhớ lại sự khôn ngoan của Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII, vào thời điểm đó rất giống và khác với chúng ta, người đã vạch ra một con đường cho toàn thể Giáo hội giữa tất cả những điều đó.
Chúng tôi khẳng định mà không do dự rằng mọi nỗ lực của con người sẽ vô ích nếu họ bỏ qua Giáo hội. Chính Giáo hội nhấn mạnh, dựa trên thẩm quyền của Tin Mừng, vào những lời dạy mà nhờ đó xung đột có thể được chấm dứt, hoặc ít nhất là ít cay đắng hơn nhiều; Giáo hội sử dụng những nỗ lực của mình không chỉ để khai sáng tâm trí mà còn để chỉ đạo cuộc sống và hành vi của mỗi người và tất cả mọi người bằng các giới luật của mình.
Giáo hội luôn nhấn mạnh rằng sứ mệnh của mình không bao giờ có thể thu gọn vào chính trị hay kinh tế. Nhưng nếu không có Giáo hội, mọi nỗ lực của chúng ta trong chính trị, kinh tế và văn hóa sẽ vô ích.