Xem hình ảnh
Đi dự lễ phong thánh:
Chúng tôi xuống bến Civitavecchia vào lúc 8:30 sáng và được người em của Sơ Maria Yến (Nguyễn) chở gấp về Rome, làm sao cho đến được Vatican trước 10:30 sáng là lúc bắt đầu buổi lễ phong thánh.
Sơ Yến cảnh báo rằng chúng tôi ít có hy vọng đến kịp giờ, tuy nhiên đây là cơ hội một đời chỉ có một lần mà bỏ qua thì uổng quá, cùng lắm là phải đứng ngoài mà thông công trên máy TV thì cũng đáng công lắm.
Người ta đã giới hạn di chuyển ở Rome từ lúc Cuối Tuần vì biến cố phong thánh, và tin tức cho biết nhiều người đã xếp hàng chờ vào công trường Th. Phêrô từ đêm hôm trước...
Tuy nhiên việc giới hạn cũng đem lại cho chúng tôi một cái may đó là số lượng xe cũng giảm, và nhờ đó mà chúng tôi đã đến điểm hẹn với Sơ Yến trước 10g rồi lập tức đi nhanh vào công trường Th. Phêrô.
Người ta nói “Phúc bất trùng lai – họa vô đơn chí” có nghĩa là cái may thì không đến 2 lần, nhưng vì hôm nay là ngày phong thánh cho nên có thể là qui luật trên không áp dụng chăng? Chúng tôi đã là cái đuôi khi xếp hàng đi qua cổng kiểm soát, nhưng các anh cảnh sát đã đón tiếp chúng tôi bằng những những nụ cười nhẹ nhõm, nghĩa là chỉ cần phất lên cái giấy mời là các canh ấy phất tay cho mình qua ngay.
Nói tới giấy mời thì những lần trước đây chúng tôi đã phải xin trước nhiều ngày, vậy mà lần này không rõ Sơ Yến có cái “chiêu thức bí mật” nào không mà chỉ mới bàn luận 2 ngày mà chúng tôi đã có đủ 6 ‘vé’ cho cả nhóm, không những vậy, chúng tôi còn được Sơ hướng dẫn tới một địa điểm có nhiều hy vọng thấy Đức Giáo Hoàng đi ngang lúc sau lễ...Kết quả là, ĐGH đã di qua nơi đó không những 1 lần, mà lại đi vòng trở lại lần thứ hai.
Lễ Phong Thánh:
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chủ trì Thánh lễ tuyên thánh cho 14 vị Thánh mới, gồm 11 vị tử đạo ở Syria vì đã từ chối không cải đạo qua Hồi Giáo để được tha mạng.
Trong bài giảng, ĐGH nói “Những vị thánh mới này đã sống theo cách của Chúa Giêsu là phục vụ.”
“Đức tin và hoạt động tông đồ mà họ thực hiện không để thỏa mãn những ham muốn trần tục và những khát vọng quyền lực, nhưng ngược lại, họ trở thành người phục vụ anh chị em mình, sáng tạo trong việc làm điều thiện, kiên định trong khó khăn và quảng đại đến cùng”, Đức Thánh Cha nói.
Đức Giáo Hoàng lưu ý rằng chứng tá của họ mời gọi các Kitô hữu chú ý đến lời mời gọi phục vụ của Chúa Giêsu, chứ không phải tìm kiếm vinh quang.
'Các ngươi có thể uống được chén mà Ta uống không?'
Lấy ý từ đoạn Phúc âm theo thánh Mác Cô, Đức Giáo Hoàng mời gọi Ki tô hữu suy ngẫm về những câu hỏi sâu sắc mà Chúa Giêsu đã hỏi các tông đồ Giacôbê và Gioan: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" và "Các con có thể uống chén Thầy sắp uống không?" Đức Thánh Cha giải thích rằng thông qua những câu hỏi này, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta tiến tới mối quan hệ sâu sắc hơn với Ngài.
Ngài nói rằng Giacôbê và Gioan, mặc dù là những môn đồ trung thành, đã đến với Chúa Jesus với những kỳ vọng bắt nguồn từ vinh quang trần gian, tìm kiếm danh dự và địa vị quyền lực.
Họ khao khát một vị trí bên phải và bên trái của Chúa trong vinh quang, tưởng tượng một Đấng Messiah chiến thắng sẽ trị vì với quyền năng. Nhưng, Đức Giáo Hoàng tiếp tục, sự hiểu biết của họ có sai sót.
“Chúa Giêsu không dừng lại trước lời yêu cầu của họ,” Đức Giáo Hoàng nói, “Người đào sâu hơn, tiết lộ những mong muốn đằng sau lời nói của họ. Người thách thức họ, cũng như Người thách thức chúng ta, để nhìn xa hơn tham vọng của con người.”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc lại rằng Đấng Messia đích thực không phải là một vị vua quyền lực và thống trị mà là một vị Vua Tôi Tớ đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, thậm chí đến mức hiến dâng mạng sống mình trên thập giá.
"Bên phải và bên trái Ngài sẽ không có ngai vàng, nhưng có hai tên trộm bị đóng đinh bên cạnh Ngài, cùng chịu đau khổ và chết với Ngài trong sự ô nhục."
Đức Giáo Hoàng nói rằng cái chết này chính là chén mà Chúa Giêsu nói đến - một cuộc sống yêu thương, một phép rửa trong đau khổ và phục vụ.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô chỉ ra rằng con đường đích thực của người môn đệ không phải là tìm cách thống trị mà là học cách phục vụ.
“Những ai theo Chúa Kitô, nếu muốn trở nên vĩ đại, thì phải phục vụ,” ngài nói.
Đức Giáo Hoàng kết luận bằng cách nêu bật tấm gương của 14 vị thánh mới, họ là những người nam và nữ không sống vì vinh quang của riêng mình mà vì vinh quang của Chúa, biến mình thành người phục vụ cho anh chị em mình.
Nhửng vị Thánh mới:
Mẹ Elena Guerra (1835–1914)
Được biết đến như là “tông đồ của Chúa Thánh Thần”, Chân phước Elena Guerra đã góp phần thuyết phục Đức Giáo Hoàng Leo XIII khuyên nhủ tất cả người Công Giáo cầu nguyện chín ngày với Chúa Thánh Thần trước Lễ Hiện Xuống năm 1895.
Mẹ Guerra sáng lập Dòng Tận hiến Chúa Thánh Linh (Oblates of the Holy Spirit,) một hội dòng nữ tu được Giáo hội công nhận vào năm 1882 và hiện vẫn tiếp tục hoạt động ở Châu Phi, Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ.
Là bạn của Giáo hoàng Leo XIII và là giáo viên của Thánh Gemma Galgani, Mẹ Guerra được nhớ đến vì các tác phẩm tâm linh và lòng sùng kính nồng nhiệt đối với Chúa Thánh Thần.
Cha Giuseppe Allamano (1851–1926)
Chân phước Giuseppe Allamano suốt đời chỉ là một linh mục giáo phận ở Ý nhưng đã để lại di sản toàn cầu bằng cách thành lập hai dòng tu truyền giáo — Dòng Truyền giáo Consolata và Dòng Nữ tu Truyền giáo Consolata — tiếp tục truyền bá Phúc âm ở Kenya, Ethiopia, Brazil, Đài Loan, Mông Cổ và hơn hai chục quốc gia khác.
Cha Allamano nói với các linh mục trong dòng của ngài rằng họ cần phải “trước tiên là những vị thánh, sau đó mới là những nhà truyền giáo”.
Ngài chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần của các tu sĩ Salêdiêng và Thánh Gioan Bosco, là cha linh hướng của ngài.
Mẹ Marie-Léonie Paradis (1840–1912)
Nữ tu người Canada, Chân phước Marie-Léonie Paradis, là người sáng lập Dòng Tiểu muội Thánh gia.
Sinh ra tại vùng Acadian của Quebec, Mẹ Paradis đã thành lập 1 học viện với mục đích hợp tác và hỗ trợ các tu sĩ dòng Thánh Giá trong công tác giáo dục vào năm 1880 tại New Brunswick.
Trước khi thành lập dòng tu, Mẹ Paradis cũng đã dành tám năm ở New York để phục vụ Cô nhi viện St. Vincent de Paul vào những năm 1860 trước khi chuyển đến Indiana vào năm 1870 để dạy tiếng Pháp và thêu kim tại Học viện St. Mary.
Theo yêu cầu của giám mục Montreal, Mẹ Paradis đã thành lập Dòng Tiểu Muội vào năm 1880. Một phần quan trọng trong linh đạo và đặc sủng của dòng là hỗ trợ các linh mục thông qua lời cầu nguyện liên tục và sốt sắng, nhưng cũng thông qua việc nấu ăn và giặt giũ trong các chủng viện và nhà xứ trong “sự phục vụ khiêm nhường và vui tươi” để noi gương “Chúa Kitô Người Tôi Tớ” đã rửa chân cho các môn đệ của mình.
Ngày nay, các nữ tu của dòng làm việc tại hơn 200 cơ sở giáo dục và truyền giáo ở Canada, Hoa Kỳ, Ý, Brazil, Haiti, Chile, Honduras và Guatemala.
Đức Giáo Hoàng John Paul II gọi Mẹ Paradis là “người khiêm nhường giữa những người khiêm nhường” khi ngài phong chân phước cho bà trong chuyến viếng thăm Montreal năm 1984, là lễ phong chân phước đầu tiên diễn ra trên đất Canada.
Những vị tử đạo ở Damascus, Syria (m. 1860)
Giáo hội cũng sẽ có thêm 11 vị thánh tử đạo bị giết vì từ chối cải đạo sang đạo Hồi. “Những vị tử đạo của Damascus” đã bị sát hại “vì lòng căm thù đức tin” tại Nhà thờ Thánh Phaolô của dòng Phanxicô ở Damascus, Syria, vào ngày 10 tháng 7 năm 1860.
Tám vị là tu sĩ dòng Phanxicô — sáu linh mục và hai tu sĩ khấn trọn — tất cả đều là những nhà truyền giáo đến từ Tây Ban Nha, ngoại trừ Cha Engelbert Kolland đến từ Salzburg, Áo.
Ba người khác là giáo dân cũng bị giết trong đêm đó: Francis, Mooti và Raphael Massabki, là các anh em trong một gia đình Công Giáo Maronite.
Francis Massabki, người anh cả, là cha của tám người con. Mooti là cha của năm người con, đến Nhà thờ St. Paul hàng ngày để cầu nguyện và dạy giáo lý. Người em út, Raphael, còn độc thân và được biết đến là dành nhiều thời gian cầu nguyện trong nhà thờ và giúp đỡ các tu sĩ.
Sự tử đạo của họ diễn ra trong cuộc đàn áp những người theo đạo Thiên chúa của người Hồi giáo và người Druze vào năm 1860, khiến hàng ngàn người thiệt mạng.
Vào đêm khuya, những kẻ cực đoan đã đột nhập vào tu viện Phanxicô, ở Thành phố cổ Damascus, và thảm sát các tu sĩ: Cha Manuel Ruiz, Cha Carmelo Bolta, Cha Nicanor Ascanio, Cha Nicolás M. Alberca y Torres, Cha Pedro Soler, Kolland, ThàyFrancisco Pinazo Peñalver và Thày Juan S. Fernández.
Ba anh em nhà Massabki, cũng có mặt tại nhà thờ vào đêm hôm đó: Những kẻ tấn công nói với Francis Massabki rằng mạng sống của anh và các em sẽ được tha với điều kiện là anh phải từ bỏ đức tin Cơ đốc và theo đạo Hồi, Francis trả lời: "Chúng tôi là những người theo đạo Cơ đốc, và trong đức tin của Chúa Kitô, chúng tôi sẽ chết. Là những người theo đạo Cơ đốc, chúng tôi không sợ những kẻ giết chết thân xác, như Chúa Jesus đã nói."
Sau đó, ông nhìn hai người em của mình và nói: “Hãy can đảm và đứng vững trong đức tin, vì vương miện chiến thắng đã được chuẩn bị trên trời cho những ai bền chí đến cùng.” Ngay lập tức, họ tuyên bố đức tin của mình vào Chúa Kitô bằng những lời này: “Chúng tôi là những người theo đạo Thiên Chúa, và chúng tôi muốn sống và chết như những người theo đạo Thiên Chúa.”
Đi dự lễ phong thánh:
Chúng tôi xuống bến Civitavecchia vào lúc 8:30 sáng và được người em của Sơ Maria Yến (Nguyễn) chở gấp về Rome, làm sao cho đến được Vatican trước 10:30 sáng là lúc bắt đầu buổi lễ phong thánh.
Sơ Yến cảnh báo rằng chúng tôi ít có hy vọng đến kịp giờ, tuy nhiên đây là cơ hội một đời chỉ có một lần mà bỏ qua thì uổng quá, cùng lắm là phải đứng ngoài mà thông công trên máy TV thì cũng đáng công lắm.
Người ta đã giới hạn di chuyển ở Rome từ lúc Cuối Tuần vì biến cố phong thánh, và tin tức cho biết nhiều người đã xếp hàng chờ vào công trường Th. Phêrô từ đêm hôm trước...
Tuy nhiên việc giới hạn cũng đem lại cho chúng tôi một cái may đó là số lượng xe cũng giảm, và nhờ đó mà chúng tôi đã đến điểm hẹn với Sơ Yến trước 10g rồi lập tức đi nhanh vào công trường Th. Phêrô.
Người ta nói “Phúc bất trùng lai – họa vô đơn chí” có nghĩa là cái may thì không đến 2 lần, nhưng vì hôm nay là ngày phong thánh cho nên có thể là qui luật trên không áp dụng chăng? Chúng tôi đã là cái đuôi khi xếp hàng đi qua cổng kiểm soát, nhưng các anh cảnh sát đã đón tiếp chúng tôi bằng những những nụ cười nhẹ nhõm, nghĩa là chỉ cần phất lên cái giấy mời là các canh ấy phất tay cho mình qua ngay.
Nói tới giấy mời thì những lần trước đây chúng tôi đã phải xin trước nhiều ngày, vậy mà lần này không rõ Sơ Yến có cái “chiêu thức bí mật” nào không mà chỉ mới bàn luận 2 ngày mà chúng tôi đã có đủ 6 ‘vé’ cho cả nhóm, không những vậy, chúng tôi còn được Sơ hướng dẫn tới một địa điểm có nhiều hy vọng thấy Đức Giáo Hoàng đi ngang lúc sau lễ...Kết quả là, ĐGH đã di qua nơi đó không những 1 lần, mà lại đi vòng trở lại lần thứ hai.
Lễ Phong Thánh:
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chủ trì Thánh lễ tuyên thánh cho 14 vị Thánh mới, gồm 11 vị tử đạo ở Syria vì đã từ chối không cải đạo qua Hồi Giáo để được tha mạng.
Trong bài giảng, ĐGH nói “Những vị thánh mới này đã sống theo cách của Chúa Giêsu là phục vụ.”
“Đức tin và hoạt động tông đồ mà họ thực hiện không để thỏa mãn những ham muốn trần tục và những khát vọng quyền lực, nhưng ngược lại, họ trở thành người phục vụ anh chị em mình, sáng tạo trong việc làm điều thiện, kiên định trong khó khăn và quảng đại đến cùng”, Đức Thánh Cha nói.
Đức Giáo Hoàng lưu ý rằng chứng tá của họ mời gọi các Kitô hữu chú ý đến lời mời gọi phục vụ của Chúa Giêsu, chứ không phải tìm kiếm vinh quang.
'Các ngươi có thể uống được chén mà Ta uống không?'
Lấy ý từ đoạn Phúc âm theo thánh Mác Cô, Đức Giáo Hoàng mời gọi Ki tô hữu suy ngẫm về những câu hỏi sâu sắc mà Chúa Giêsu đã hỏi các tông đồ Giacôbê và Gioan: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" và "Các con có thể uống chén Thầy sắp uống không?" Đức Thánh Cha giải thích rằng thông qua những câu hỏi này, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta tiến tới mối quan hệ sâu sắc hơn với Ngài.
Ngài nói rằng Giacôbê và Gioan, mặc dù là những môn đồ trung thành, đã đến với Chúa Jesus với những kỳ vọng bắt nguồn từ vinh quang trần gian, tìm kiếm danh dự và địa vị quyền lực.
Họ khao khát một vị trí bên phải và bên trái của Chúa trong vinh quang, tưởng tượng một Đấng Messiah chiến thắng sẽ trị vì với quyền năng. Nhưng, Đức Giáo Hoàng tiếp tục, sự hiểu biết của họ có sai sót.
“Chúa Giêsu không dừng lại trước lời yêu cầu của họ,” Đức Giáo Hoàng nói, “Người đào sâu hơn, tiết lộ những mong muốn đằng sau lời nói của họ. Người thách thức họ, cũng như Người thách thức chúng ta, để nhìn xa hơn tham vọng của con người.”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc lại rằng Đấng Messia đích thực không phải là một vị vua quyền lực và thống trị mà là một vị Vua Tôi Tớ đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, thậm chí đến mức hiến dâng mạng sống mình trên thập giá.
"Bên phải và bên trái Ngài sẽ không có ngai vàng, nhưng có hai tên trộm bị đóng đinh bên cạnh Ngài, cùng chịu đau khổ và chết với Ngài trong sự ô nhục."
Đức Giáo Hoàng nói rằng cái chết này chính là chén mà Chúa Giêsu nói đến - một cuộc sống yêu thương, một phép rửa trong đau khổ và phục vụ.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô chỉ ra rằng con đường đích thực của người môn đệ không phải là tìm cách thống trị mà là học cách phục vụ.
“Những ai theo Chúa Kitô, nếu muốn trở nên vĩ đại, thì phải phục vụ,” ngài nói.
Đức Giáo Hoàng kết luận bằng cách nêu bật tấm gương của 14 vị thánh mới, họ là những người nam và nữ không sống vì vinh quang của riêng mình mà vì vinh quang của Chúa, biến mình thành người phục vụ cho anh chị em mình.
Nhửng vị Thánh mới:
Mẹ Elena Guerra (1835–1914)
Được biết đến như là “tông đồ của Chúa Thánh Thần”, Chân phước Elena Guerra đã góp phần thuyết phục Đức Giáo Hoàng Leo XIII khuyên nhủ tất cả người Công Giáo cầu nguyện chín ngày với Chúa Thánh Thần trước Lễ Hiện Xuống năm 1895.
Mẹ Guerra sáng lập Dòng Tận hiến Chúa Thánh Linh (Oblates of the Holy Spirit,) một hội dòng nữ tu được Giáo hội công nhận vào năm 1882 và hiện vẫn tiếp tục hoạt động ở Châu Phi, Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ.
Là bạn của Giáo hoàng Leo XIII và là giáo viên của Thánh Gemma Galgani, Mẹ Guerra được nhớ đến vì các tác phẩm tâm linh và lòng sùng kính nồng nhiệt đối với Chúa Thánh Thần.
Cha Giuseppe Allamano (1851–1926)
Chân phước Giuseppe Allamano suốt đời chỉ là một linh mục giáo phận ở Ý nhưng đã để lại di sản toàn cầu bằng cách thành lập hai dòng tu truyền giáo — Dòng Truyền giáo Consolata và Dòng Nữ tu Truyền giáo Consolata — tiếp tục truyền bá Phúc âm ở Kenya, Ethiopia, Brazil, Đài Loan, Mông Cổ và hơn hai chục quốc gia khác.
Cha Allamano nói với các linh mục trong dòng của ngài rằng họ cần phải “trước tiên là những vị thánh, sau đó mới là những nhà truyền giáo”.
Ngài chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần của các tu sĩ Salêdiêng và Thánh Gioan Bosco, là cha linh hướng của ngài.
Mẹ Marie-Léonie Paradis (1840–1912)
Nữ tu người Canada, Chân phước Marie-Léonie Paradis, là người sáng lập Dòng Tiểu muội Thánh gia.
Sinh ra tại vùng Acadian của Quebec, Mẹ Paradis đã thành lập 1 học viện với mục đích hợp tác và hỗ trợ các tu sĩ dòng Thánh Giá trong công tác giáo dục vào năm 1880 tại New Brunswick.
Trước khi thành lập dòng tu, Mẹ Paradis cũng đã dành tám năm ở New York để phục vụ Cô nhi viện St. Vincent de Paul vào những năm 1860 trước khi chuyển đến Indiana vào năm 1870 để dạy tiếng Pháp và thêu kim tại Học viện St. Mary.
Theo yêu cầu của giám mục Montreal, Mẹ Paradis đã thành lập Dòng Tiểu Muội vào năm 1880. Một phần quan trọng trong linh đạo và đặc sủng của dòng là hỗ trợ các linh mục thông qua lời cầu nguyện liên tục và sốt sắng, nhưng cũng thông qua việc nấu ăn và giặt giũ trong các chủng viện và nhà xứ trong “sự phục vụ khiêm nhường và vui tươi” để noi gương “Chúa Kitô Người Tôi Tớ” đã rửa chân cho các môn đệ của mình.
Ngày nay, các nữ tu của dòng làm việc tại hơn 200 cơ sở giáo dục và truyền giáo ở Canada, Hoa Kỳ, Ý, Brazil, Haiti, Chile, Honduras và Guatemala.
Đức Giáo Hoàng John Paul II gọi Mẹ Paradis là “người khiêm nhường giữa những người khiêm nhường” khi ngài phong chân phước cho bà trong chuyến viếng thăm Montreal năm 1984, là lễ phong chân phước đầu tiên diễn ra trên đất Canada.
Những vị tử đạo ở Damascus, Syria (m. 1860)
Giáo hội cũng sẽ có thêm 11 vị thánh tử đạo bị giết vì từ chối cải đạo sang đạo Hồi. “Những vị tử đạo của Damascus” đã bị sát hại “vì lòng căm thù đức tin” tại Nhà thờ Thánh Phaolô của dòng Phanxicô ở Damascus, Syria, vào ngày 10 tháng 7 năm 1860.
Tám vị là tu sĩ dòng Phanxicô — sáu linh mục và hai tu sĩ khấn trọn — tất cả đều là những nhà truyền giáo đến từ Tây Ban Nha, ngoại trừ Cha Engelbert Kolland đến từ Salzburg, Áo.
Ba người khác là giáo dân cũng bị giết trong đêm đó: Francis, Mooti và Raphael Massabki, là các anh em trong một gia đình Công Giáo Maronite.
Francis Massabki, người anh cả, là cha của tám người con. Mooti là cha của năm người con, đến Nhà thờ St. Paul hàng ngày để cầu nguyện và dạy giáo lý. Người em út, Raphael, còn độc thân và được biết đến là dành nhiều thời gian cầu nguyện trong nhà thờ và giúp đỡ các tu sĩ.
Sự tử đạo của họ diễn ra trong cuộc đàn áp những người theo đạo Thiên chúa của người Hồi giáo và người Druze vào năm 1860, khiến hàng ngàn người thiệt mạng.
Vào đêm khuya, những kẻ cực đoan đã đột nhập vào tu viện Phanxicô, ở Thành phố cổ Damascus, và thảm sát các tu sĩ: Cha Manuel Ruiz, Cha Carmelo Bolta, Cha Nicanor Ascanio, Cha Nicolás M. Alberca y Torres, Cha Pedro Soler, Kolland, ThàyFrancisco Pinazo Peñalver và Thày Juan S. Fernández.
Ba anh em nhà Massabki, cũng có mặt tại nhà thờ vào đêm hôm đó: Những kẻ tấn công nói với Francis Massabki rằng mạng sống của anh và các em sẽ được tha với điều kiện là anh phải từ bỏ đức tin Cơ đốc và theo đạo Hồi, Francis trả lời: "Chúng tôi là những người theo đạo Cơ đốc, và trong đức tin của Chúa Kitô, chúng tôi sẽ chết. Là những người theo đạo Cơ đốc, chúng tôi không sợ những kẻ giết chết thân xác, như Chúa Jesus đã nói."
Sau đó, ông nhìn hai người em của mình và nói: “Hãy can đảm và đứng vững trong đức tin, vì vương miện chiến thắng đã được chuẩn bị trên trời cho những ai bền chí đến cùng.” Ngay lập tức, họ tuyên bố đức tin của mình vào Chúa Kitô bằng những lời này: “Chúng tôi là những người theo đạo Thiên Chúa, và chúng tôi muốn sống và chết như những người theo đạo Thiên Chúa.”