1. Tổng kết số nạn nhân một năm sau ngày 07 tháng Mười năm 2023

Ngày 07 tháng Mười này, hưởng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Hồng Y Pizzaballa, Thượng phụ Công Giáo Latinh ở Giêrusalem, rất nhiều cộng đồng Giáo hội ở các nơi cử hành ngày ăn chay và cầu nguyện cho hòa bình, đặc biệt tại Trung Đông cũng như nhiều nơi khác trên thế giới.

Theo tin chính thức của Israel, từ sau vụ tấn công khủng bố của Hamas vào Israel, phía Israel, có 1.546 người bị thiệt mạng, kể cả một số công dân nước ngoài, kể cả hơn 1.200 người, phần lớn bị giết trong ngày 07 tháng Mười hoặc liền sau đó. Con số những người chết vừa nói bao gồm cả 346 binh sĩ Israel bị thiệt mạng tại Gaza hoặc dọc theo biên giới với Israel, từ đầu cuộc hành quân trên mặt đất, trong khi có đó 2.284 người bị thương. Cũng trong cuộc tấn công ngày 07 tháng Mười, Hamas đã bắt giữ 250 con tin, và cho đến nay chỉ còn khoảng 100 người còn sống.

Về phía người Palestine và Arập, có gần 42.000 người Palestine, hay 41.878, bị chết vì bom đạn của Israel và và gần 97 người bị thương, hay 96.794.

Các cuộc tấn công của Israel chống Hezbollah ở Liban đã làm cho hơn 2.000 người bị thiệt mạng. Hàng trăm ngàn người phải di tản, đặc biệt là những người tị nạn chiến tranh Syria chạy sang Liban, nay họ chạy về nguyên quán của họ.

2. “Tính Đồng Nghị” của Đức và Giáo hội Hoàn vũ

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “German ‘Synodality’ and the World Church”, nghĩa là “‘Tính Đồng Nghị’ của Đức và Giáo hội Hoàn vũ”.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với The Pillar, Tiến sĩ Frank Ronge, một viên chức Công Giáo kỳ cựu người Đức, là người điều phối Tiến trình Công nghị Đức, đã mô tả lý lẽ và công việc của Synodaler Weg. Nhiều người tham gia sâu sắc vào Tiến trình Công nghị tưởng tượng nó như một mô hình cho Giáo hội thế giới—hoặc ít nhất là những phần của Giáo hội thế giới không tụt hậu chút nào so với đường cong văn hóa như những người Đức khai sáng hiểu. Do đó, đáng để đặt ra một số câu hỏi về trải nghiệm của Đức về “tính đồng nghị”, với mục đích xem trải nghiệm đó có thể gợi ý gì về những con đường đổi mới trong các hoàn cảnh giáo hội khác—hoặc về con đường mà Thượng hội đồng 2024 tại Rôma sẽ thực hiện trong tháng này.

Câu hỏi đầu tiên liên quan đến nguồn gốc của Synodaler Weg hay Tiến Trình Công Nghị, mà Tiến sĩ Ronge cho biết, đã được bắt đầu như một phản ứng trước những tiết lộ về việc lạm dụng tình dục trẻ em của giáo sĩ Đức - là những tiết lộ khiến việc công bố phúc âm trở nên “bất khả thi”. Có đúng thế không? Đánh giá theo mức độ thực hành Công Giáo giảm mạnh trên khắp nước Đức kể từ những năm 1960, khách quan mà nói việc công bố phúc âm đã lâm vào tình trạng nguy tử từ lâu lắm rồi, cả nửa thế kỷ, trước khi cuộc khủng hoảng lạm dụng nổ ra ở Đức vào năm 2010.

Hơn nữa, và với tất cả nỗi đau, sự bối rối và sự gián đoạn mà cuộc khủng hoảng lạm dụng gây ra ở Hoa Kỳ, ta có thể thấy một cách khách quan rằng việc công bố phúc âm vẫn tiếp tục ở Hoa Kỳ, và cuộc khủng hoảng đã thúc đẩy những cải cách nghiêm chỉnh, không chỉ ở các chủng viện. Điều đó chẳng lẽ không khả thi ở Đức sao? Hay thực ra, một số người Công Giáo Đức đã lợi dụng cuộc tấn công của các phương tiện truyền thông vào việc che đậy sự gian ác trắng trợn của một số ít cá nhân trong hàng giáo phẩm Công Giáo để biến cuộc khủng hoảng lạm dụng thành vũ khí, biến nó thành lý lẽ để tạo ra một Giáo hội theo Mô hình Mới có thể dễ được “chấp nhận” hơn đối với xã hội và văn hóa hậu hiện đại?

Rồi, kế đó là tuyên bố của Tiến sĩ Ronge— như một tiếng vang của một chủ đề dai dẳng tại Thượng hội đồng 2023 vào tháng 10 năm ngoái—rằng việc họp thượng hội đồng, có thể nói như vậy, chỉ là vấn đề lắng nghe Chúa Thánh Thần. Tiến sĩ Ronge cho biết, người Công Giáo phải “bám chặt vào Chúa Thánh Thần” và nói rằng, “Chúa Thánh Thần, xin hãy dẫn dắt chúng con”. Tất nhiên, nhiều người Công Giáo cầu nguyện như vậy mỗi ngày, và Chúa Thánh Thần vẫn có khả năng làm chúng ta ngạc nhiên như khi những lưỡi lửa giáng xuống Phòng Tiệc Ly vào Lễ Ngũ Tuần đầu tiên của Kitô giáo. Nhưng tại sao Chúa Thánh Thần, khi nói ở Đức, lại luôn nói bằng ngôn ngữ của chủ nghĩa cấp tiến của Công Giáo Đức?

Liệu Chúa Thánh Thần có thực sự kêu gọi Giáo hội từ bỏ các cấu trúc quản trị giáo hội mà sự tiến hóa theo thời gian cho thấy đã được Chúa Thánh Thần truyền cảm hứng? Làm sao Chúa Thánh Thần có thể dạy chúng ta một điều về đạo đức của tình yêu con người và bản chất của hôn nhân trong hai thiên niên kỷ, rồi sau đó “làm chúng ta ngạc nhiên” bằng cách kêu gọi Giáo hội từ bỏ giáo lý đó vào thế kỷ 21? Liệu Chúa Thánh Thần có thể mâu thuẫn với Chúa Thánh Thần không?

Đối với mối quan hệ của Tiến Trình Công Nghị Đức với Giáo hội Hoàn vũ, Tiến sĩ Ronge lưu ý rằng trong số những câu hỏi “chúng tôi yêu cầu Đức Giáo Hoàng và toàn thế giới phân định” có những câu hỏi liên quan đến việc phong chức phó tế và linh mục cho phụ nữ: “Chúng tôi đã yêu cầu Đức Giáo Hoàng không đóng câu hỏi đó lại”. Nhưng Đức Giáo Hoàng thực sự đã nói rằng câu hỏi về chức phó tế đã đóng lại, vậy tại sao Tiến Trình Công Nghị Đức vẫn chưa nhận được bản ghi nhớ đó? (Câu hỏi tương tự cũng có thể được hỏi những người ở America Media, nơi đã vận động về câu hỏi về phụ nữ và chức phó tế trong những tuần trước Thượng hội đồng 2024, mặc dù Đức Giáo Hoàng đã loại bỏ nó khỏi chương trình nghị sự của Thượng hội đồng.)

Tiến sĩ Ronge nói rằng người Đức chỉ muốn thảo luận về những vấn đề này. Tuy nhiên, chúng đã được thảo luận trong nhiều thập niên và câu trả lời cho cuộc thảo luận đó đã được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đưa ra trong tông thư Ordinatio Sacerdotalis năm 1994, trong đó dạy một cách dứt khoát rằng Giáo hội không có thẩm quyền phong chức linh mục cho phụ nữ. Và nếu Thánh chức là một bí tích với ba cấp bậc (như Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo 1593 nêu rõ), thì việc Giáo hội không thể phong chức linh mục cho phụ nữ cũng phải mở rộng sang hai cấp bậc khác, là phó tế và giám mục.

Sự thật của vấn đề là Ordinatio Sacerdotalis là một trong nhiều giáo lý có thẩm quyền mà Giáo hội ở Đức và những giáo hội ở các nước khác chưa “tiếp nhận”—đó là cách nói lịch sự để tránh phải nói rằng họ “đã từ chối”. Tại sao không thừa nhận điều đó, mà lại kêu gọi một vòng “đối thoại” khác tương tự như mèo con đuổi theo đuôi của chúng? Tại sao không tiến hành thảo luận nghiêm chỉnh, tại sao không khẳng định phụ nữ trong nhiều vai trò của họ là những nhà truyền giáo, và đồng thời kêu gọi phải có cải cách trong sứ vụ của Giáo Hội ở những nơi trên thế giới mà vai trò truyền giáo của Giáo Hội ở đó đang bị kìm hãm?

Sẽ hữu ích hơn nếu có thêm thông tin thẳng thắn về động cơ của Tiến Trình Công Nghị Đức và tầm nhìn của Tiến Trình này về tương lai Công Giáo trong việc xác định xem con đường này có thể mang lại điều gì cho Giáo hội Hoàn vũ tại Thượng hội đồng 2024.


Source:First Things

3. Huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật

Chúa Nhật, 06 Tháng Mười, Giáo Hội trên toàn thế giới cử hành Chúa Nhật thứ 27 Mùa Quanh Năm.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật tốt lành!

Hôm nay, trong Tin Mừng phụng vụ (x. Mc 10:2-16), Chúa Giêsu nói với chúng ta về tình yêu hôn nhân. Như đã xảy ra trong một số dịp khác, một số người Pharisêu hỏi Người một câu hỏi khiêu khích về một vấn đề gây tranh cãi: việc ly dị vợ của một người chồng. Họ muốn kéo Người vào một cuộc cãi vã, nhưng Người không để họ làm vậy. Thay vào đó, Người hoan nghênh cơ hội thu hút sự chú ý của họ vào một cuộc thảo luận quan trọng hơn: đó là giá trị của tình yêu giữa một người đàn ông và một người phụ nữ.

Vào thời Chúa Giêsu, tình trạng của người phụ nữ trong hôn nhân bị thiệt thòi rất nhiều so với người đàn ông: người chồng có thể đuổi vợ mình đi, ly dị cô ấy, ngay cả vì những lý do tầm thường, và điều này sẽ được biện minh bằng những diễn giải theo luật pháp. Vì lý do này, Chúa đưa những người đối thoại của mình trở lại với những đòi hỏi của tình yêu. Ngài nhắc nhở họ rằng người phụ nữ và người đàn ông được Đấng Tạo Hóa muốn bình đẳng về phẩm giá và bổ sung cho nhau về sự đa dạng. Theo cách này, họ sẽ là người giúp đỡ, bạn đồng hành của nhau, nhưng họ cũng sẽ kích thích lẫn nhau và là một thách thức để phát triển (x. St 2:20-23).

Và để điều này xảy ra, ngài nhấn mạnh đến nhu cầu về sự trao tặng cho nhau của họ phải trọn vẹn, phải hấp dẫn, không “nửa vời” - đây là tình yêu - rằng đó là khởi đầu của một cuộc sống mới (x. Mc 10:7; St 2:24), được định sẵn để tồn tại không phải “cho đến khi mọi sự diễn ra tốt đẹp” mà là mãi mãi, chấp nhận nhau và sống hiệp nhất như “một xương một thịt” (x. Mc 10:8; St 2:24). Tất nhiên, điều này không dễ dàng, điều này đòi hỏi sự trung thành, ngay cả trong những khó khăn, nó đòi hỏi sự tôn trọng, trung thực, giản dị (x. Mc 10:15). Nó đòi hỏi phải cởi mở với sự đối đầu, đôi khi thậm chí là thảo luận, khi cần thiết, nhưng cũng phải luôn sẵn sàng tha thứ và hòa giải với người kia. Và tôi nói với anh chị em: vợ chồng, hãy chiến đấu bao nhiêu tùy thích, miễn là anh chị em luôn làm hòa, trước khi ngày kết thúc! Anh chị em có biết tại sao không? Bởi vì chiến tranh lạnh xảy ra vào ngày hôm sau là nguy hiểm. “Và thưa cha, hãy cho con biết, chúng con phải làm hòa như thế nào?” – “Một cái vuốt ve nhẹ nhàng như thế này là đủ”, nhưng đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa.

Chúng ta cũng đừng quên rằng, đối với những người phối ngẫu, điều thiết yếu là phải mở lòng đón nhận món quà sự sống, đón nhận món quà con cái, đó là hoa trái đẹp nhất của tình yêu, là phước lành lớn nhất từ Chúa, là nguồn vui và hy vọng cho mọi gia đình và toàn xã hội. Hãy có con! Hôm qua, tôi đã nhận được một niềm an ủi lớn lao. Đó là ngày của Đội Hiến binh, và một hiến binh đã đến cùng tám đứa con của mình! Thật tuyệt khi được nhìn thấy anh ta. Xin hãy mở lòng đón nhận sự sống, đón nhận những gì Chúa có thể gửi đến cho anh chị em.

Anh chị em thân mến, tình yêu là đòi hỏi, đúng vậy, nhưng nó đẹp, và chúng ta càng cho phép mình tham gia vào nó, chúng ta càng khám phá ra hạnh phúc đích thực trong nó. Và bây giờ, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình: Tình yêu của tôi thế nào? Nó có chung thủy không? Nó có hào phóng không? Nó có sáng tạo không? Gia đình chúng ta thế nào? Có cởi mở với sự sống, với món quà là con cái không?

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp đỡ những người phối ngẫu Kitô giáo. Chúng ta hãy hướng về Mẹ trong sự hiệp nhất thiêng liêng với các tín hữu tụ họp tại Đền Pompeii để cầu nguyện theo truyền thống với Đức Mẹ Mân Côi.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:

Anh chị em thân mến!

Ngày mai đánh dấu một năm kể từ cuộc tấn công khủng bố nhắm vào người dân Israel, những người mà tôi một lần nữa bày tỏ sự gần gũi của mình. Chúng ta đừng quên rằng vẫn còn nhiều con tin ở Gaza. Tôi yêu cầu họ được thả ngay lập tức. Kể từ ngày đó, Trung Đông đã rơi vào tình trạng đau khổ ngày càng gia tăng, với các hành động quân sự tàn phá tiếp tục tấn công người dân Palestine. Những người này đang phải chịu đựng rất nhiều ở Gaza và các vùng lãnh thổ khác. Hầu hết họ là thường dân vô tội, tất cả họ đều là những người phải nhận được mọi viện trợ nhân đạo cần thiết. Tôi kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức trên mọi mặt trận, bao gồm cả Li Băng. Chúng ta hãy cầu nguyện cho người dân Li Băng, đặc biệt là những người sống ở phía nam, những người buộc phải rời bỏ làng mạc của họ.

Tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế, hãy hành động để chấm dứt vòng xoáy trả thù và ngăn chặn các cuộc tấn công tiếp theo, giống như cuộc tấn công gần đây do Iran thực hiện, có thể khiến khu vực này rơi vào một cuộc chiến tranh lớn hơn. Tất cả các quốc gia đều có quyền tồn tại trong hòa bình và an ninh, và lãnh thổ của họ không được phép bị tấn công hoặc xâm lược, chủ quyền của họ phải được tôn trọng và bảo đảm thông qua đối thoại và hòa bình, không phải bằng hận thù và chiến tranh.

Trong tình hình này, cầu nguyện là điều cần thiết hơn bao giờ hết. Chiều nay, tất cả chúng ta sẽ đến Đền Thờ Đức Bà Cả để cầu xin sự chuyển cầu của Đức Mẹ. Ngày mai sẽ là ngày cầu nguyện và ăn chay cho hòa bình thế giới. Chúng ta hãy đoàn kết với sức mạnh của điều thiện chống lại những âm mưu chiến tranh ma quỷ.

Tôi cũng gần gũi với người dân Bosnia và Herzegovina, những người bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Xin Chúa đón nhận những người đã khuất, an ủi gia đình họ và hỗ trợ những cộng đồng này.

Tôi chào anh chị em, những người dân Rôma và những người hành hương từ Ý và nhiều quốc gia khác. Lời chào đặc biệt của tôi xin gửi đến ban nhạc từ Cabañas, El Salvador – chúng ta sẽ nghe họ chơi nhạc sau – đến các tín hữu Ba Lan từ Đền Đức Mẹ Thương Xót của giáo phận Radom, và những người đến từ Martinique. Tôi chào nhóm người hành hương từ Đền Đức Mẹ Khải Huyền tại Tre Fontane, những người sẽ mang tượng Đức Mẹ từ Đền Thờ Thánh Phêrô đến Đền Thờ Đức Bà Cả tại Rôma hôm nay, trong khi cầu nguyện cho hòa bình. Tôi chào các cựu chủng sinh của Tiểu chủng viện “Poggio Galeso” ở Taranto, Hiệp hội “Teatro Patologico” của Rôma, ban nhạc của trường “Thánh Gia” ở Cremona và những người tham gia biểu tình “Fiabaday” để xóa bỏ rào cản kiến trúc.

Và bây giờ, tôi vui mừng thông báo rằng vào ngày 8 tháng 12, tôi sẽ tổ chức một công nghị để tấn phong các Hồng Y mới. Nguồn gốc của các vị phản ánh tính phổ quát của Giáo hội, tiếp tục công bố tình yêu thương xót của Chúa cho tất cả mọi người. Sau đây là danh sách các tân Hồng Y:

1. Đức Tổng Giám Mục Angelo Acerbi, người Ý, 89 tuổi, cựu Sứ thần Tòa Thánh.

2. Đức Cha Carlos Gustavo Mattasoglio, Tổng giám mục Giáo phận Lima, thủ đô Peru.

3. Đức Cha Vicente Bokalic Iglic, Tổng giám mục Santiago del Estero, Giáo chủ Công Giáo Á Căn Đình.

4. Đức Cha Cabrera Gerardo Herrera, Tổng giám mục Giáo phận Guayaquil, Ecuador.

5. Đức Cha Natalio Chomalí Garib, Tổng giám mục Giáo phận Santiago de Chile.

6. Đức Cha Tarcisio Isao Kikuchi, Dòng Ngôi Lời, Tổng giám mục Giáo phận Tokyo, Nhật Bản.

7. Đức Cha Pablo Virgilio Siongco David, Giám mục Giáo phận Kalookan, Philippines.

8. Đức Cha Ladislav Nemet, Tổng giám mục Giáo phận Belgrade, thủ đô Serbia.

9. - Đức Cha Ignace Jaime Spengler, Dòng Phanxicô, Tổng giám mục Giáo phận Porto Alegre, Brazil.

10. Đức Cha Ignace Bessi Doglo, Tổng giám mục Giáo phận Abidjan, Côte d’Ivoire.

11. Đức Cha Jean-Paul Vesco, Dòng Đa Minh, Tổng giám mục Giáo phận Alger, thủ đô Algérie.

12. Đức Cha Paskalis Bruno Syukur, Giám mục Giáo phận Bogor, Indonesia.

13. Đức Cha Joseph Mathieu, Tổng giám mục Giáo phận Teheran Isparan, Iran.

14. Đức Cha Roberto Repole, Tổng giám mục Giáo phận Torino bắc Ý.

15. Đức Cha Baldassare Reina, Phó Giám quản Roma, từ nay là Tổng Đại diện Giáo phận Roma.

16, Đức Cha Francis Leo, Tổng giám mục Giáo phận Toronto, Canada.

17. Đức Tổng Giám Mục Rolandas Makrickas, người Lituani, Phó Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả.

18. Đức Cha Mykola Bychor, 44 tuổi, Giám mục Giáo phận thánh Phêrô và Phaolô ở Melbourne, của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương.

19. Cha Timothy Peter Radcliffe, 80 tuổi, người Anh, thần học gia, nguyên Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh.

20. Cha Fabio Baggio, Dòng Scalabrini, Phó Tổng thư ký Bộ Phát triển nhân bản toàn diện.

21. Đức ông George Jacob Koovakad, người Ấn Độ, chức sắc tại Phủ Quốc vụ khanh, đặc trách tổ chức các cuộc viếng thăm của Giáo hoàng.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị tân Hồng Y, để khi xác nhận sự cam kết của mình với Chúa Kitô, Vị Thượng tế nhân từ và trung tín, các ngài có thể hỗ trợ tôi trong sứ vụ của mình với tư cách là Giám mục Rôma vì lợi ích của dân thánh Chúa.

Chúc mọi người một ngày Chúa Nhật tốt lành. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng và xin chào tạm biệt.


Source:Holy See Press Office