1. Kitô hữu có thể tham dự cưới người đồng tính không?
Carl R. Trueman, là giáo sư Kinh Thánh và tôn giáo tại Đại Học Grove City và là thành viên tại Trung tâm Chính sách Công và Đạo đức. Ông vừa có bài viết nhan đề “Can Christians Attend Gay Weddings?”, nghĩa là “Kitô hữu có thể tham dự cưới người đồng tính không?”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Để cập nhật nhận xét nổi tiếng của Leon Trotsky, bạn có thể không quan tâm đến cuộc cách mạng tình dục, nhưng cuộc cách mạng tình dục lại quan tâm đến bạn. Một số người trong chúng ta vẫn có đủ đặc quyền để được che chở một phần khỏi cuộc cách mạng này. Tôi tự coi mình là một, cùng với những người mà việc tách rời khỏi các tình huống mục vụ trong đời thực dường như đủ điều kiện để họ bán phương pháp sư phạm chính trị cho người khác. Nhưng khi giai cấp chính trị tiến bộ thúc đẩy việc xóa bỏ tập tục tình dục truyền thống vẫn tiếp tục diễn ra, thì ngày càng khó tìm được một mục sư hoặc linh mục nào chưa phải đối mặt với những câu hỏi khó từ giáo dân về sự vâng phục đối với Kitô giáo và cuộc sống của họ. Chỉ mới tuần trước, một người bạn là cha sở kể cho tôi nghe về một thành viên trong nhà thờ của ngài, với tư cách là người quản lý một doanh nghiệp, đã được lệnh phải tích hợp các phòng tắm và hiện đang phải đối mặt với những lời phàn nàn từ các nhân viên nữ vì cảm thấy sự an toàn và riêng tư của họ bị xâm phạm. Thật dễ dàng để chỉ trích sự hù dọa của cánh hữu một cách trừu tượng, nhưng khó hơn nhiều khi đưa ra lời khuyên cho những người thực sự, những người phải đưa ra những quyết định có thể khiến họ phải trả giá bằng sự nghiệp của mình.Cuộc cách mạng tình dục đã cách mạng hóa mọi thứ, đến mức những câu hỏi từng có câu trả lời đơn giản giờ trở nên phức tạp. Ví dụ: câu hỏi “Tôi có thể tham dự đám cưới đồng tính không?” xuất hiện với tần suất ngày càng tăng và ngày càng tỏ ra khó trả lời hơn, như những đoạn kết thúc của Bethel McGrew trong chuyên mục “Thế giới gần đây” của cô ấy đã chỉ ra. Không khó để đoán những lý do mà một Kitô Hữu có thể đưa ra khi tham dự một đám cưới đồng tính: đó là mong muốn chứng tỏ cho cặp ấy thấy rằng mình không ghét họ, hoặc mong muốn tránh gây ra sự xúc phạm hoặc tổn thương. Nhưng nếu một trong hai điều trên có sức nặng quyết liệt như thế trong quyết định thì có điều gì đó không ổn. Đúng là việc từ chối tham dự có thể được thúc đẩy bởi sự căm ghét cặp đồng tính, mặc dù trong những trường hợp như vậy, một lời mời dường như là một sự kiện khó xảy ra. Tuy nhiên, không nhất thiết phải như vậy, có rất nhiều lý do không thể tham dự chứ không phải chỉ căm ghét mới không tham dự. Việc coi lời mời bị từ chối nhất thiết là dấu hiệu của sự căm ghét tức là chấp nhận khái niệm cho rằng “ghét” đồng nghĩa với một sự từ chối đơn thuần. Đó là cách hiểu của thời đại thế tục, chứ không phải của đức tin Kitô giáo. Việc từ chối tham dự cũng có thể gây ra sự xúc phạm, nhưng biến việc xúc phạm thành một phạm trù đạo đức là thay thế những phạm trù đạo đức về đúng sai bằng những phạm trù thẩm mỹ về sở thích. Cái sau phải luôn phụ thuộc vào cái trước trong lĩnh vực vấn đề đạo đức.
Cũng có những lý do rõ ràng tại sao một Kitô Hữu không bao giờ nên tham dự một đám cưới đồng tính. Nhiều lễ nghi trong đám cưới, bao gồm cả Sách Cầu nguyện chung, yêu cầu người cử hành phải hỏi sớm trong buổi lễ xem có ai có mặt biết lý do tại sao cặp đôi không nên kết hợp với nhau trong hôn nhân hay không. Vào thời điểm đó, một Kitô hữu buộc phải lên tiếng. Tôi có thể mạo hiểm đoán rằng sự can thiệp như vậy sẽ gây khó chịu hơn nhiều so với việc từ chối tham gia buổi cử hành.
Vấn đề cũng không thể tách rời khỏi câu hỏi rộng hơn về giới tính và bản chất con người. Nếu hôn nhân bắt nguồn từ sự bổ sung cho nhau giữa hai giới, thì bất kỳ cuộc hôn nhân đồng tính nào cũng đều là một thách thức sự hiểu biết của Kitô giáo về công trình sáng tạo. Thế giới thách thức là một chuyện. Việc Kitô hữu chấp nhận a dua theo lại là một điều hoàn toàn khác.
Hơn nữa, sự so sánh trong Kinh thánh giữa Chúa Kitô và Giáo hội có nghĩa là những cuộc hôn nhân giả tạo là sự nhạo báng chính Chúa Kitô. Tất nhiên, điều đó áp dụng cả trong các cuộc hôn nhân dị tính trái luật. Chẳng hạn, một cuộc hôn nhân liên quan đến một người chưa ly hôn với người phối ngẫu mà đã bước vào một mối quan hệ ngoại tình. Không một Kitô hữu nào nên cố ý tham dự một buổi lễ như vậy. Như Francesca Murphy đã tuyên bố tại First Things cách đây vài năm, việc đánh mất chiều kích tôn giáo của hôn nhân có nguy cơ khiến người ta “xúc phạm” bản thân và chống lại Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là người Kitô hữu có trách nhiệm đạo đức phải giữ vững lập trường về vấn đề này. Chúng ta tự lừa dối mình nếu nghĩ rằng cô dâu và chú rể với tư cách cá nhân là phần quan trọng nhất của bất kỳ đám cưới nào. Không phải như thế. Sự kết hợp của họ tượng trưng cho điều gì đó còn quan trọng hơn nhiều đối với Chúa Kitô và Giáo hội.
Bất kể lợi ích được cho là có thể đạt được bằng cách cho cặp đôi thấy một hình thức tình yêu vô định hình về mặt đạo đức hay bằng cách tránh gây khó chịu, thì cái giá phải trả cho việc tham dự là rất lớn. Tuyên bố gần đây của Đức Thánh Cha về việc chúc lành cho các cặp đồng tính đang gây ra những bối rối lan rộng hơn. Điều quan trọng đối với các cá nhân và Giáo Hội có thể là sự nhầm lẫn do không suy nghĩ rõ ràng về việc tham dự đám cưới đồng tính. Xét cho cùng, việc tham dự để thể hiện “tình yêu thương” hoặc tránh gây khó chịu là một hình thức chúc phúc, không được gọi đích danh.
Nói tóm lại, tham dự một đám cưới đồng tính bao gồm việc giữ im lặng khi lẽ ra phải lên tiếng. Nó liên quan đến sự nhượng bộ về giới tính thể xác, làm suy yếu bất kỳ nỗ lực nào nhằm giữ vững tầm quan trọng của sự phân biệt sinh học giữa nam và nữ. Và nó liên quan đến việc chấp thuận một buổi lễ mang tính chế nhạo giáo huấn trọng tâm của Tân Ước và chính Chúa Kitô. Đó là một cái giá rất cao để tránh làm tổn thương cảm xúc của ai đó. Và nếu Kitô hữu vẫn nghĩ rằng nó đáng phải trả thì tương lai của Giáo hội thực sự rất ảm đạm.
Source:First Things
2. Đức Hồng Y Parolin tái khẳng định rằng không gì có thể biện minh cho trào lưu bài Do thái.
Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, tái khẳng định rằng không gì có thể biện minh cho trào lưu bài Do thái.
Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí, hôm 24 tháng Giêng vừa qua, bên lề buổi cử hành tại nhà thờ Pantheon và sau đó tại nhà thờ thánh Marcelli ở đường Corso, ở trung tâm Roma để cầu nguyện cho Đức Hồng Y Ercola Consalvi, nhà ngoại giao nổi bật của Tòa Thánh, Đức Hồng Y Parolin đã trả lời câu hỏi của một ký giả về lời kêu gọi của Đức Thánh Cha vào cuối buổi tiếp kiến chung, về Ngày thế giới, 27 tháng Giêng tới đây tưởng niệm các nạn nhân cuộc diệt chủng và sự tái gia tăng những vụ bài Do thái do những biến cố ở Gaza, Đức Hồng Y nói: “Cần phải nhìn nhận những lý do của người Palestine, nhưng không có lý do nào có thể biện minh cho hiện tượng bài Do thái như thế. Chúng tôi lấy làm tiếc vì người ta không chấp nhận chủ trương hai quốc gia cho hai dân tộc, nhưng điều này tuyệt đối không biện minh cho phong trào bài Do thái”.
Do những biến cố ở Gaza, trào lưu bài Do thái tái gia tăng ở nhiều nơi, như tại Mỹ, những vụ bài Do thái tăng lên 350%.
3. Tòa Thánh tái khẳng định giải pháp hai quốc gia cho Israel và Palestine
Đại diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc ở New York, Đức Tổng Giám Mục Gabriele Caccia, tái khẳng định rằng giải pháp duy nhất có thể thực hiện được cho cuộc khủng hoảng hiện nay giữa Israel và Palestine, là hai quốc gia cho hai dân tộc, và một qui chế đặc biệt cho thành Giêrusalem được quốc tế bảo đảm.
Trong bài tham luận hôm 24 tháng Giêng vừa qua tại Liên Hiệp Quốc, Đức Tổng Giám Mục Caccia nhấn mạnh rằng đó cũng là điều Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhiều lần khẳng định về vấn đề Trung Đông. Đức Tổng Giám Mục nói: “Điều cơ bản là cộng đồng quốc tế, cùng với các vị lãnh đạo Palestine và Israel, theo đuổi giải pháp đó, với một quyết tâm mới mẻ, trong thời điểm tuyệt vọng và đố kị đang lan tràn”.
Đức Tổng Giám Mục Caccia nói đến mối quan tâm của Đức Giáo Hoàng đối với chiến tranh hiện nay và tái lên án cuộc tấn công ngày 07 tháng Mười năm 2023 chống nhân dân Israel, yêu cầu trả tự do cho các con tin ở Gaza, ngưng chiến trên mọi mặt trận và tạo điều kiện cho việc phân phối các đồ cứu trợ nhân đạo. “Những gì đang diễn ra hiện nay không phải là “cách thức để giải quyết những tranh chấp giữa các dân tộc”.
Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc cũng mô tả tình hình nhân đạo hiện nay ở Gaza là “cực kỳ trầm trọng”, gây ra đau khổ không thể tưởng tượng được, hơn 20.000 người bị giết và gần hai triệu người phải di tản.
Trong bài tham luận, Đức Tổng Giám Mục Caccia lên án sự kiện “các nhà thương, trường học, các nơi thờ phượng là nơi cuối cùng cho những người trốn tránh bạo lực ở Gaza, bị sử dụng vào những mục tiêu quân sự, và vì thế bị tấn công. Điều thiết yếu là tránh tình trạng toàn dân phải trả giá cho những hậu quả của một hành động khủng bố khốc liệt. Bất kỳ hành động tự vệ nào cũng phải được những nguyên tắc phân biệt và tương ứng hướng dẫn, và phải tôn trọng công pháp quốc tế về nhân đạo”.
Và Đức Tổng Giám Mục Caccia kêu gọi cộng đồng quốc tế gia tăng nỗ lực bảo vệ và áp dụng công pháp nhân đạo, là phương thế duy nhất để bảo đảm phẩm giá con người trong nhưng hoàn cảnh chiến tranh. Tại Israel cũng như ở Palestine, cũng như ở các nơi khác trên thế giới, “mỗi người, dù là Kitô, Do thái hay Hồi giáo, thuộc bất kỳ dân tộc và tôn giáo nào, đều là thánh thiêng, quý giá trước mắt Thiên Chúa và có quyền được sống trong hòa bình”.