Mặc dù Ý không còn lệnh giới nghiêm 10 giờ tối như một phần trong các biện pháp ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, nhưng Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành “Thánh lễ Vọng Giáng Sinh” tại Đền Thờ Thánh Phêrô vào lúc 7:30 tối, như ngài đã làm từ năm 2020.
Đồng tế với Đức Thánh Cha có các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục và khoảng 7,000 tín hữu.
Trong khi Đức Thánh Cha và đoàn đồng tế đang tiến lên bàn thờ, ca đoàn cùng cộng đoàn hát bài “The First Noel - Noel đầu tiên” bằng tiếng Ý là “Nella notte”
Mùa Giáng Sinh đầu tiên, các thiên thần kể lại rằng
Là khi có một nhóm người chăn cừu nghèo trên cánh đồng
Nơi mà họ thường chăn dắt những chú cừu
Vào một đêm mùa đông lạnh giá
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Họ đã nhìn và thấy một ngôi sao
Rực chói cả bầu trời phương Đông xa kia
Và khi đó mặt đất bừng toả sáng
Thế là liên tục như vậy cả ngày và đêm
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Nhờ ánh sáng của ngôi sao ấy
Từ đất nước phương xa có ba người đàn ông đã đến
Vì mục đích tìm kiếm một vì vua
Thế là họ dõi theo ngôi sao ấy
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Ngôi sao kia di chuyển mãi gần đến hướngTây Bắc
đến vùng Bethlehem, nó dừng lại
Dừng và nghỉ hẳn tại nơi
Chính nơi đây, nơi Chúa Giêsu đã ra đời
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Và ba người đàn ông ấy bước đến
Họ cung kính quỳ xuống
Dâng lên vì vua của mình
Nào là vàng bạc, nhũ hương và mộc dược qúy giá
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Nào thì chúng ta cùng hợp tiếng
Ngợi ca Thiên Chúa
Đã làm cho Trời và Đất giao hoà
Với tất cả tình thương nhân loại
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Một ca trưởng đang hát bài công bố Tin Mừng Giáng Sinh, thường được gọi là Kalenda
Ngày thứ bảy trong tháng âm lịch. Nhiều thời đại đã qua kể từ khi Chúa tạo thành Trời Đất và hình thành nên con người theo hình ảnh của Người; nhiều thế kỷ đã trôi qua sau trận Đại Hồng Thủy, khi Đấng Chí Thánh đặt một cầu vồng trên trời như một dấu hiệu của giao ước và hòa bình;
Bao năm đã trôi qua sau cuộc di cư của Ápraham, là tổ phụ trong đức tin của chúng ta, từ miền Ur của người Chanđê, và hai mươi mốt thế kỷ sau đó là cuộc di cư của dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, dưới sự hướng dẫn của Môise, mười ba thế kỷ sau khi Ða-vít được xức dầu phong vương, một ngàn năm sau đó; trong tuần lễ thứ sáu mươi lăm theo lời tiên tri Ða-ni-ên; vào năm thứ một trăm chín mươi bốn triều Olympiad; sau khi thành Rôma được thành lập năm bảy trăm năm mươi hai, vào năm thứ 40 dưới thời cai trị của Caesar Octavian Augustus, khi toàn thế giới đang sống trong hòa bình: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.
Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Ðức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế.
Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người.
Đầu thánh lễ, Đức Thánh Cha đã đặt tượng ảnh Chúa Hài Đồng Giêsu vào trong máng cỏ, ở trên ngai nhỏ trước bàn thờ chính.
Khi bài ca Vinh Danh được xướng lên, tất cả các chuông của Đại Vương cung Thánh đường được đánh lên cùng với đàn phong cầm.
Cạnh máng cỏ ở trước Bàn thờ Tuyên Xưng đức tin, có một ngai nhỏ trên đó có đặt một sách Tin Mừng, để nói lên rằng trong biến cố vĩ đại của đêm Giáng Sinh: Lời của Thiên Chúa đã làm người.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
“Một cuộc điều tra dân số trong khắp cả thiên hạ” (x. Lc 2:1). Đây là bối cảnh trong đó Chúa Giêsu được sinh ra, và Tin Mừng nhấn mạnh đến điều đó. Cuộc điều tra dân số có thể đã được đề cập thoáng qua nhưng thay vào đó lại được ghi chú cẩn thận. Và theo cách này, một sự tương phản lớn xuất hiện. Trong khi hoàng đế kiểm kê số lượng cư dân trên thế giới thì Chúa lại bước vào đó một cách gần như lặng lẽ. Trong khi những người thực thi quyền lực tìm cách đứng ngang hàng với những người vĩ đại trong lịch sử thì Vua lịch sử lại chọn con đường nhỏ bé. Không ai trong số những người có quyền lực để ý đến Ngài: chỉ có một số mục đồng, là những người bị đẩy ra bên lề đời sống xã hội.
Cuộc điều tra dân số nói về một cái gì đó khác. Trong Kinh Thánh, việc điều tra dân số có mối liên hệ tiêu cực. Vua David, bị cám dỗ bởi số lượng lớn và ý thức tự cung tự cấp không lành mạnh, đã phạm tội nặng nề khi ra lệnh điều tra dân số. Nhà vua muốn biết sức mạnh của mình đến mức nào. Sau khoảng chín tháng, ông biết có bao nhiêu người có thể sử dụng được một thanh kiếm (x. 2 Sam 24:1-9). Chúa nổi giận và dân chúng đau khổ. Tuy nhiên, vào đêm nay, Chúa Giêsu, “Con vua Đavít”, sau chín tháng trong lòng Đức Maria, đã hạ sinh tại Bêlem, thành phố của Đavít. Ngài không áp đặt hình phạt cho cuộc điều tra dân số, nhưng khiêm tốn cho phép mình được ghi danh là một trong số nhiều người. Ở đây chúng ta thấy, không phải là thần thịnh nộ và trừng phạt, mà là Thiên Chúa của lòng thương xót, Đấng nhập thể và bước vào thế giới trong sự yếu đuối, được báo trước bằng lời loan báo: “bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lc 2:14). Đêm nay, tâm hồn chúng ta hướng về Bêlem, nơi Vị Hoàng Tử Hòa Bình một lần nữa bị loại bỏ bởi logic vô ích của chiến tranh, bởi sự xung đột vũ khí mà ngày nay thậm chí còn ngăn cản Ngài tìm được chỗ đứng trong thế giới (x. Lc 2:7).
Tóm lại, cuộc điều tra dân số trong khắp cả thiên hạ thể hiện một sợi chỉ xuyên suốt lịch sử quá dựa vào sức người: đó là cuộc tìm kiếm quyền lực và sức mạnh thế gian, danh tiếng và vinh quang, đo lường mọi thứ bằng thành công, kết quả, con số và số liệu, một thế giới bị ám ảnh bởi thành tích. Tuy nhiên, cuộc điều tra dân số cũng thể hiện con đường của Chúa Giêsu, Đấng đến tìm kiếm chúng ta qua xác thịt. Ngài không phải là vị thần thành tựu mà là vị thần Nhập thể. Ngài không xóa bỏ sự bất công từ trên cao bằng sự phô trương quyền lực, mà từ bên dưới bằng sự thể hiện tình yêu thương. Ngài không xuất hiện với sức mạnh vô hạn, mà hạ cố giáng trần nơi những giới hạn chật hẹp của cuộc đời chúng ta. Ngài không xa lánh những yếu đuối của chúng ta mà biến chúng thành của riêng Ngài.
Thưa anh chị em, tối nay chúng ta có thể tự hỏi: Chúng ta tin vào Thiên Chúa nào? Thần nhập thể hay thần thành tựu? Bởi vì luôn có nguy cơ là chúng ta có thể cử hành Lễ Giáng Sinh trong khi nghĩ về Thiên Chúa theo thuật ngữ ngoại giáo, như một đấng quyền năng trên bầu trời; một vị thần gắn liền với quyền lực, thành công trần thế và sự tôn thờ chủ nghĩa tiêu dùng. Với hình ảnh giả tạo về một vị thần xa cách, nóng nảy, xử tốt với kẻ lành và thẳng tay với kẻ xấu; một vị thần được tạo ra theo hình ảnh và chân dung của chính chúng ta, có ích trong việc giải quyết các vấn đề và loại bỏ bệnh tật của chúng ta. Trái lại, Chúa không vẫy cây đũa thần; Ngài không phải là vị thần thương mại hứa hẹn “mọi thứ cùng một lúc”. Ngài không cứu chúng ta bằng cách nhấn nút, nhưng đến gần chúng ta để thay đổi thế giới của chúng ta từ bên trong. Tuy nhiên, quan niệm trần tục về một vị thần xa xôi, độc đoán, bất khuất và mạnh mẽ đã ăn sâu biết bao, người giúp chính mình chiến thắng những vị thần khác! Rất nhiều lần hình ảnh này đã ăn sâu vào tâm trí chúng ta. Nhưng không phải vậy: Thiên Chúa của chúng ta được sinh ra cho tất cả mọi người, trong một cuộc điều tra dân số trong khắp thiên hạ.
Vậy chúng ta hãy nhìn lên “Thiên Chúa hằng sống và chân thật” (1Tx 1:9). Thiên Chúa vượt trên mọi sự tính toán của con người nhưng lại để mình bị tính toán theo cách tính toán của chúng ta. Thiên Chúa, Đấng cách mạng hóa lịch sử bằng cách trở thành một phần của lịch sử. Thiên Chúa tôn trọng chúng ta đến nỗi cho phép chúng ta khước từ Ngài; người xóa bỏ tội lỗi bằng cách tự mình gánh lấy nó; người không loại bỏ nỗi đau mà chuyển hóa nó; người không loại bỏ những vấn đề khỏi cuộc sống của chúng ta nhưng mang lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn hơn tất cả những vấn đề của chúng ta. Thiên Chúa rất mong muốn ôm lấy cuộc sống của chúng ta đến nỗi, dù Ngài là vô hạn, Ngài trở nên hữu hạn vì chúng ta. Trong sự vĩ đại của mình, Ngài chọn trở nên nhỏ bé; trong sự công chính của Ngài, Ngài phải chịu sự bất công của chúng ta. Thưa anh chị em, đây là điều kỳ diệu của Lễ Giáng Sinh: không phải là sự pha trộn giữa những cảm xúc vui vẻ và sự mãn nguyện trần thế, mà là sự dịu dàng chưa từng có của một Thiên Chúa cứu thế giới bằng cách nhập thể. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng Hài Nhi, chúng ta hãy chiêm ngưỡng máng cỏ, máng cỏ của Người, mà các thiên thần gọi là “dấu chỉ” cho chúng ta (x. Lc 2:12). Vì đó thực sự là dấu chỉ mạc khải cho chúng ta thiên nhan Chúa, khuôn mặt của lòng trắc ẩn và lòng thương xót, là Đấng mà sức mạnh của Người luôn được thể hiện và chỉ thể hiện chỉ trong tình yêu. Ngài tỏ ra gần gũi, dịu dàng và giàu lòng nhân ái. Đây là đường lối của Thiên Chúa: gần gũi, cảm thương, dịu dàng.
Anh chị em, chúng ta hãy ngạc nhiên trước sự kiện Người “đã trở nên xác phàm” (Ga 1:14). Xác phàm: chính từ này gợi lên sự yếu đuối của con người chúng ta. Tin Mừng dùng từ này để cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa đã hoàn toàn đảm nhận thân phận con người của chúng ta. Tại sao Ngài lại đi xa đến vậy? Thưa: Bởi vì Ngài quan tâm đến chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta đến mức coi chúng ta là quý giá hơn tất cả. Anh chị em thân mến, đối với Thiên Chúa, Đấng đã thay đổi lịch sử trong một cuộc điều tra dân số, anh chị em không phải là một con số mà là một gương mặt. Tên của anh chị em được viết trong trái tim Người. Nhưng nếu anh chị em nhìn vào trái tim mình, nghĩ về những bất cập của chính mình và thế giới đầy phán xét và không tha thứ này, anh chị em có thể cảm thấy khó tổ chức lễ Giáng sinh này. Anh chị em có thể nghĩ rằng mọi việc đang trở nên tồi tệ hoặc cảm thấy không hài lòng với những hạn chế, thất bại, vấn đề và tội lỗi của mình. Tuy nhiên, hôm nay xin hãy để Chúa Giêsu nắm quyền chủ động. Ngài nói với anh chị em: “Vì con, Ta đã hóa thành phàm nhân; vì con, Ta đã trở nên giống như con”. Vậy tại sao vẫn bị cuốn vào những rắc rối của anh chị em? Như những mục đồng đã bỏ đàn chiên của mình, hãy bỏ lại đằng sau ngục tù đau buồn của mình và đón nhận tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa đã trở thành một trẻ thơ. Hãy bỏ mặt nạ và áo giáp của anh chị em sang một bên; hãy trao mọi lo lắng của anh chị em cho Người và Người sẽ chăm sóc cho anh chị em (x. Tv 55:22). Người đã hóa thành nhục thể; Ngài không tìm kiếm những thành tựu của anh chị em mà tìm kiếm trái tim rộng mở và tin tưởng của anh chị em. Nơi Người, anh chị em sẽ tái khám phá ra mình thực sự là ai: đó là một người con yêu dấu của Thiên Chúa. Bây giờ anh chị em có thể tin điều đó, vì tối nay Chúa đã giáng sinh để soi sáng cuộc đời anh chị em; đôi mắt Người ánh lên tình yêu dành cho anh chị em. Chúng ta khó tin vào điều này, rằng đôi mắt của Thiên Chúa chiếu sáng tình yêu dành cho chúng ta.
Chúa Kitô không nhìn vào những con số mà nhìn vào những khuôn mặt. Tuy nhiên, ai có thể nhìn thấy Ngài giữa bao nhiêu phiền nhiễu và vội vã điên cuồng của một thế giới nhộn nhịp và thờ ơ? Ai đang nhìn thấy Ngài? Ở Bêlem, khi đám đông người ta bị cuốn vào sự phấn khích của cuộc điều tra dân số, đến và đi, chật kín các quán trọ và tham gia vào những cuộc trò chuyện nhỏ nhặt, một số người gần gũi với Chúa Giêsu: Đức Maria và Thánh Giuse, các mục đồng, và sau đó là các đạo sĩ.
Chúng ta hãy học hỏi từ họ. Họ đứng nhìn Chúa Giêsu với tấm lòng hướng về Ngài. Họ không nói, họ tôn thờ. Thưa anh chị em, đêm nay là thời gian thờ phượng, và tôn thờ.
Thờ phượng là cách đón nhận sự Nhập Thể. Vì chính trong thinh lặng mà Chúa Giêsu, Lời của Chúa Cha, trở nên xác thịt trong đời sống chúng ta. Chúng ta hãy làm như họ đã làm ở Bêlem, một thị trấn có tên là “Nhà Bánh”. Chúng ta hãy đứng trước Đấng là Bánh Sự Sống. Chúng ta hãy khám phá lại sự thờ phượng, vì thờ phượng không phải là lãng phí thời gian mà là biến thời gian của chúng ta thành nơi ở của Thiên Chúa. Đó là để cho hạt giống Nhập Thể nở hoa trong chúng ta; đó là cộng tác vào công việc của Chúa, Đấng, giống như men, thay đổi thế giới. Thờ phượng là cầu thay, đền tạ, để Thiên Chúa sắp xếp lại lịch sử. Như một người kể chuyện sử thi vĩ đại đã từng viết cho con trai mình, “Cha đặt trước mặt con một điều vĩ đại nhất để yêu mến trên trái đất: đó là Bí tích Thánh Thể… Ở đó con sẽ tìm thấy sự lãng mạn, vinh quang, danh dự, lòng chung thủy và con đường đích thực của mọi tình yêu của con trên trần gian ” (JRR TOLKIEN, Thư 43, tháng 3 năm 1941).
Anh chị em thân mến, đêm nay tình yêu sẽ thay đổi lịch sử. Lạy Chúa, xin làm cho chúng con tin vào sức mạnh tình yêu của Chúa, rất khác với sức mạnh của thế gian. Lạy Chúa, xin làm cho chúng con, giống như Đức Maria, Thánh Giuse, các mục đồng và các đạo sĩ, quy tụ quanh Ngài và tôn thờ Ngài. Khi Chúa khiến chúng con trở nên giống Chúa hơn bao giờ hết, chúng con sẽ làm chứng trước thế giới về vẻ đẹp trên gương mặt Chúa.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana