Giáo Hội Công Giáo Trung đông gồm nhiều cộng đồng: Cốptích, Maronite, Hylạp-Menkít, Syria, Canđê, Ácmêni và Latinh phát xuất từ Ai Cập, Đất Thánh, Libăng, Syria, Giócđani, Iraq và các nước vùng vịnh Ảrập.
Tổng cộng có đến 125 đại biểu tham dự Phiên họp lục địa Trung Đông tại Harissa, Libăng, từ ngày 13-18 tháng Hai, năm 2023: gồm đủ Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và hàng ngũ giáo dân. Ngoài ra còn có sự tham dự của đại diện Giáo Hội chính thống và Thệ phản, người bất khả tri và Hồi giáo.
Trong bầu khí huynh đệ, tin tưởng, mạnh dạn và tinh thần trách nhiệm, các tham dự viên đã tập chú vào việc làm sáng tỏ câu hỏi nền tảng: “Làm thế nào Giáo Hội có thể trở thành đồng nghị hơn?”
I.”Người dựng lều giữa chúng ta” (Ga 1:14): Ngôi Lời Thiên Chúa ở giữa Dân Người
Sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể không ngừng hướng dẫn Phiên họp từ lúc khai mở cho tới lúc kết thúc. Các Giáo Hội Trung Đông luôn ý thức mình được mời gọi bước đi dưới sự hướng dẫn của Ngôi lời và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, giữa nhiều thách đố, thăng trầm và bất hạnh, được sinh động bởi niềm hy vọng được thấy thế giới này biến thành Vương Quốc Thiên Chúa, một vương quốc hoà bình, công lý và niềm vui, trong đó, tình yêu Thiên Chúa được ban cho mọi hữu thể nhân bản không phân biệt.
Thiên Chúa kêu gọi các Giáo Hội Trung Đông thành lập trước nhất một cộng đoàn duy nhất để lắng nghe Lời Người, để bước đi dưới sự hướng dẫn của Người và để biện phân những điều Lời Chúa mặc khải cho mình nhằm truyền bá Lời này khi Giáo Hội ra đi gặp gỡ mọi hữu thể nhân bản... Lên đường vào thế giới là lý do hiện hữu của Giáo Hội....
Trong suốt lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đồng hành với Dân Người và cống hiến cho họ Ngôi Lời của Người và Thánh Thần của Người, tóm lại, tất cả những gì Người có và tất cả những gì Người sở hữu. Nhưng trong Tân Ước, cuộc hành trình của Thiên Chúa với dân Người được thực hiện một cách chưa từng có nhờ việc Chúa Con nhập thể, một việc cho thấy sự gắn bó bất diệt và không thể phủ nhận của Thiên Chúa đối với con người. Giao ước vĩnh cửu, hiệp thông đời đời, vì nhờ Chúa Giêsu Kitô, sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người được hoàn tất một lần vĩnh viễn. Tính đồng nghị mà chúng ta khao khát sống trọn vẹn sẽ chỉ đạt tới cực điểm nhờ sự hiệp thông qua đó Thiên Chúa dẫn chúng ta, trong tư cách Dân của Người, vào sự sống Ba Ngôi thần linh của Người và trong sự hiệp thông của chúng ta với nhau, miễn là chúng ta quy tụ quanh lời và thân thể của Chúa phục sinh, và làm việc theo linh hứng của Chúa Thánh Thần, nhằm đạt được sự hiệp thông với thế giới thông qua việc loan báo Tin Mừng và gắn bó với chính nghĩa nhân phẩm.
II. Tính đồng nghị của Giáo Hội: bản chất và các dấu chỉ của nó
Tính đồng nghị không phải là chuyện ngẫu nhiên trong đời sống Giáo Hội, mà là dấu chỉ cố hữu đối với bản chất Giáo Hội. Đối với chúng ta, các chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô, tính đồng nghị chân thực là đồng nhất hóa với Chúa Kitô và bắt chước lối sống của Người... Người là Đường (Ga 14:6), nên các Kitô hữu tiên khởi được gọi là bạn đồng hành, người theo chân Chúa Giêsu (Sequela Jesu).
Từ bản chất, Giáo Hội vốn có tính đồng nghị vì Giáo Hội không phải chỉ là một cơ quan định chế và pháp lý, nhưng trước nhất là mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng hành động giữa và trong những người tin vào Người (Lumen Gentium, 1-5). Công trình này được bảo đảm bởi Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cho Giáo Hội vào ngày Lễ Ngũ Tuần để Người đồng hành với Giáo Hội trong sứ mệnh của Giáo Hội và “hướng dẫn Giáo Hội bằng nhiều ơn phúc đa dạng, cả phẩm trật lẫn đặc sủng (Lumen Gentium, 4).
Giáo Hội Đồng nghị là Giáo Hội của hợp nhất, của tính Công Giáo, của sự thánh thiện và của tính tông truyền. Bốn dấu chỉ này tạo nên Giáo Hội của Thiên Chúa tại một nơi, một “đất mùn” (humus) nghĩa là trong một lịch sử, một địa dư, một văn hóa, một ngôn ngữ, các thách đố, các truyền thống, một thi ca, các truyện kể v.v...Giáo Hội Đồng nghị của chúng tôi là Giáo Hội của Phương Đông Ả rập như đã được Cha Jean Corbon mô tả: một Giáo Hội loan báo mầu nhiệm Chúa Kitô và chứng nhân trung thành của Tin Mừng, cho đến phúc tử đạo. Đúng là Giáo Hội này mang kho tàng đức tin và truyền tải nó trong “những chiếc bình bằng đất sét” (2Cr 4:7), chịu đựng đau khổ, mỏng dòn và sợ hãi, tuy nhiên luôn duy trì tinh thần hy vọng. Điều không thể chối cãi được là tính đồng nghị củng cố sự hợp nhất, biểu lộ tính Công Giáo, dẫn tới sự thánh thiện và bảo tồn mối liên kết tông truyền và sứ mệnh. Điều này tự chứng thực trong việc cùng đồng hành của một dân tộc hợp nhất nhờ Lời Thiên Chúa, thánh ý và nhiệm cục thần linh của Người; một dân tộc được thánh hóa bởi sự tuôn tràn Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng đổi mới trong nó sự sống của Chúa Kitô phục sinh; một dân tộc tụ tập không phân biệt, vì “trong Chúa Giêsu Kitô không còn nô lệ lẫn người tự do” (Gl 3:28), vì toàn bộ nhân loại đã tạo nên gia đình Thiên Chúa; một dân tộc, qua nhiều thế kỷ, không ngừng thừa hưởng Tin Mừng từ các Tông đồ và các Giáo hội, truyền tải nó cho thế giới trong một tinh thần sáng tạo, phù hợp và thích ứng với các thay đổi của bối cảnh và hoàn cảnh. Tính đồng nghị cũng dựa trên công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng hiển dung chúng ta hic et nunc [ở đây và ngay lúc này] thành Dân mới của Thiên Chúa, Nhiệm Thể Chúa Kitô, Đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần.
Các Giáo hội của chúng tôi thấy mình ở trung tâm của cuộc đấu tranh sinh tồn và hiện diện tích cực, nhằm đáp ứng những thách thức hợp nhất trong một thế giới bị chia cắt và đầy mìn bẫy ích kỷ và rút lui vào chính mình; những thách thức thánh thiện trong một thế giới đã đánh mất các tiêu chuẩn thiêng liêng và nhân bản; những thách thức tính Công Giáo trong một thế giới bị chi phối bởi sự kỳ thị và có tác phong được đánh dấu bằng sự phân biệt chủng tộc đê hèn; những thách thức tính tông truyền trong một thế giới nơi mà việc truyền thông hóa quá mức [surmédiatisation] làm lu mờ các giá trị Tin Mừng về tình yêu, công lý và hòa bình. Những thách thức này tiếp thu một chiều kích cực kỳ nghiêm trọng ở Trung Đông, nơi đang gia tăng các xung đột vũ trang, bạo lực, hận thù và chiến tranh. Tuy nhiên, chỉ có việc đồng hành của các Giáo hội, trong tinh thần đồng nghị đích thực, mới có khả năng bảo đảm việc công bố Tin Mừng và Nước Thiên Chúa đang đến. Do đó, cách tiếp cận này đòi hỏi các hành trình chung của dân Chúa và sự cộng tác tích cực trong việc chữa lành các vết thương, sự an ủi trong đau khổ, tình liên đới trong thử thách, sự thanh tẩy ký ức, việc xây dựng tập thể các quyết định và việc thực hiện chúng.
III. Tính đồng nghị trong truyền thống thần học đông phương
Tài liệu nhấn mạnh đến việc nền thần học của các Giáo Hội Trung Đông luôn làm nổi bật tính đồng nghị trong việc tham chiếu nhiệm cục cứu rỗi, sự sống Ba Ngôi và việc hiệp thông trần thế với nhân loại, sự hiệp thông cụ thể hóa trong việc triệu tập Dân Thiên Chúa và huấn giáo của Người tụ họp nhau trong điều ngày xưa gọi là Kahal (*) trong tiếng Do Thái. Ngoại trừ Giáo Hội Latinh, các Giáo Hội Công Giáo Trung Đông khác đều được thiết lập theo cấu trúc thượng phụ và đồng nghị (xem Orientalium Ecclesiarum, 7-11).
Tuy nhiên, tính đồng nghị trước nhất được sống giữa lòng các Giáo Hội này trong Phụng vụ nghĩa là trong việc thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi: Thượng Hội Đồng nào cũng khai mạc và kết thúc bằng việc cử hành Thánh Thể, dấu hiệu hiệp thông và hợp nhất, trước sự hiện diện của Dân Thiên Chúa, người chấp thuận và minh nhiên tiếp nhận các nghị quyết đưa ra.
Tài liệu nhận định rằng: điều bất hạnh là vì các lý do lịch sử, các Thượng Hội Đồng của các Giáo Hội phương đông đã trở thành các phiên họp hàng năm của các Giám Mục. Nay nhờ sáng kiến của Đức Phanxicô, các Giáo Hội này tìm lại được giá trị của nền thần học dân Chúa, tái lên sinh lực cho cảm thức đức tin và tái đảm nhiệm trách nhiệm tông đồ chung phù hợp hơn với chương hai của hiến chế Lumen Gentium (9-18).
Tài liệu nhắc lại lịch sử tính đồng nghị của Trung Đông mà ngày xưa gọi là Tiểu Á, cụ thể qua các công đồng hay Thượng Hội Đồng vùng ngay từ hạ bán thế kỷ thứ hai.
Tài liệu cho biết trong thế kỷ 19, đã có quyết định cho các giáo dân thành thành viên của Thượng Hội Đồng. Chỉ tiếc rằng, sau đó, vì chính trị xen vào và vì quyền lợi cá nhân, nên tư cách thành viên Thượng Hội Đồng của giáo dân đã bị hủy bỏ. Tài liệu quả quyết rằng với sáng kiến của Đức Phanxicô, các Giáo Hội Trung Đông hiểu rằng phải tái lập giá trị của vai trò có tính quyết định của mọi chi thể Giáo Hội và do đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng cụ thể tính đồng nghị trong mọi chiều kích của nó.
Tài liệu cho rằng trong các Thượng Hội Đồng phương đông, quyết định của vị đứng đầu cần có sự thuận ý của mọi người và thái độ của toàn thể các thành viên không mâu thuẫn với quyết định của vị đứng đầu. Nguyên tắc này được phản ảnh qua việc thành lập Hội Đồng Các Thượng phụ Công Giáo Đông Phương (năm 1991?).
IV. Kinh nghiệm Phiên họp Thượng Hội Đồng cấp Lục địa
Tài liệu nhìn nhận sự khó khăn truyền đạt trong bầu khí biến loạn, tranh chấp và chiến tranh ở nhiều quốc gia. Vì các ưu tiên dành cho việc sống còn và duy trì sự hiện diện Kitô giáo đã ảnh hưởng nhiều tới diễn trình Thượng Hội Đồng, nhất là đối với những người ở ngoài lề sinh hoạt Giáo Hội. Trận động đất tàn phá một phần Thổ Nhĩ Kỳ và Syria làm đau lòng và tinh thần của nhiều thành viên của Phiên họp.
Tuy thế, Phiên họp đã làm sống lại niềm hy vọng sẽ có một lực đẩy mới đem lại khả thể cùng nhau đồng hành để làm chứng và hoàn thành sứ mệnh chung, nhất là trong bối cảnh có sự hiện hữu chung của các nền văn hóa khác nhau, của nhiều tôn giáo, nhiều luồng tư tưởng khác nhau và những điều kiện riêng của từng quốc gia, từng xã hội, từng dân tộc.
Các bản tổng hợp được khai triển và trình bầy trong Phiên họp cũng như các nghị bàn của các nhóm đã đồng thanh nhấn mạnh tầm quan trọng chủ yếu của các vấn đề sau đây:
1.Hợp nhất trong đa dạng: nguồn phong phú hay đá vấp ngã?
Tài liệu cho rằng ngay từ lúc khai sinh, Giáo Hội Antiôkia đã biết đến tính đa dạng của các phong cách sinh hoạt Giáo Hội và phụng vụ; Giáo Hội này đã nổi tiếng cởi mở đối với các nền văn minh của các dân tộc cư trú ở đó, đối với ngôn ngữ và các truyền thống của họ. Cũng thế các Giáo Hội trong vùng hiện nay cũng sống sự hợp nhất trong tính đa dạng của họ khi đặt mình phục vụ việc loan báo Tin Mừng và làm chứng cho đức tin.
Hợp nhất không có nghĩa là độc dạng; đúng hơn là thực sự chia sẻ sự thiện chung, một đáp ứng đồng lòng đối với các vấn đề nêu ra, và cùng biến thành của chung các thách đố gặp phải. Nền tảng của sự hợp nhất này là phép rửa chung, là sự hiệp thông trong cùng nhiệm thể Chúa Kitô, và lời kêu gọi đến cùng một sứ mệnh.
Sự hợp nhất trên thấy rõ trong các cơ chế như Hội đồng các Thượng phụ và Giám Mục Công Giáo cũng như Hội đồng các Thượng phụ Công Giáo Đông phương với mục tiêu tạo điều kiện cho sự hợp tác trong lãnh vực mục vụ chung để phục vụ cùng một việc loan bào Tin Mừng. Tuy nhiên, mỗi Giáo Hội duy trì căn tính riêng và truyền thống xưa và sáng chói của mình.
Tài liệu đề cập tới các đặc sủng khác nhau của con cái các Giáo Hội Trung Đông mà các thẩm quyền Giáo Hội phải biện phân để mọi người lãnh nhận trách nhiệm chung trong các lãnh vực khác nhau của đời sống Giáo Hội. Về phương diện này, tài liệu đặc biệt nhắc đến thừa tác vụ của các linh mục có gia đình và tác động tích cực của nó đối với gia đình, con cái và giới trẻ. Có lời yêu cầu tái khảo sát các đòi hỏi liên quan đến việc chuẩn bị các người đàn ông có gia đình lãnh nhận các chức thánh và tái xem xét các khía cạnh thần học, pháp lý, mục vụ, nhân bản và xã hội của việc này.
Tuy nhiên, Tài liệu thừa nhận nhiều căng thẳng trong việc theo đuổi chính sách hợp nhất trong đa dạng. Như căng thẳng trong các mối tương quan giữa giáo dân và giáo sĩ, các lạm dụng và vi phạm đạo đức của hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân lo kiếm tìm cuộc sống xa hoa phú quí. Các tác phong này đang làm cho giới trẻ xa lìa Giáo Hội.
Nhiều tham dự viên tỏ bầy sự không hài lòng của họ đối với hiện trạng các thẩm quyền Giáo Hội đoạt quyền và ban hành các quyết định mà không hỏi ý kiến của các tín hữu hay hiện tượng thiếu phối trí và hợp tác giữa giáo sĩ và giáo dân.
2. Phụng vụ là sự sống
Phụng vụ là sự sống của các Giáo Hội Trung Đông; việc cử hành nó tạo nên chiếc trục nền tảng của sinh hoạt Giáo Hội. Cao điểm của Phụng vụ dĩ nhiên là Thánh Thể, vì nó xây dựng Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô.
Tuy nhiên Tài liệu đặc biệt lưu ý các căng thẳng trong lãnh vực này: đôi khi cử hành theo nghĩa đen các qui định phụng vụ truyền thống, việc xuất hiện các lòng sùng kính sai lạc và hiện tượng quá gắn bó không lành mạnh với các vụ hiện ra, nghi vấn mọi hình thức canh tân các mô hình phụng vụ truyền thống, tuổi trẻ thiếu xác tín các nghi thức và biểu tượng phụng vụ vì thiếu giáo dục phụng vụ. Cả vấn đề phong cách, nội dung và mục tiêu của bài giảng lễ, cách chọn các bài thánh ca.
Có lời yêu cầu từ bỏ việc quá nghiêm ngặt về nguyên tắc phụng vụ, cởi mở đối với diễn trình biến hóa các lời kinh phụng vụ và thích ứng chúng với hoài mong của tín hữu, nhất là của giới trẻ.
3. Kêu gọi một đại kết sáng tạo
Tài liệu nhận định rằng phong trào đại kết ở Trung Đông đã đóng góp vào việc xuất hiện thực tại đối thoại tạo điều kiện cho việc hợp tác và tương tác tích cực giữa các Giáo Hội Kitô giáo, nhất là trong việc phục vụ bác ái. Một số tham dự viên nhìn trong các cuộc hôn nhân hỗn hợp một nhân tố tích cực củng cố các tương quan giữa các Giáo Hội. Việc tham dự Phiên họp cấp lục địa của các tín hữu Hồi giáo và Thệ phản cũng góp phần thăng tiến chính nghĩa đại kết và liên tôn.
Tài liệu cũng đề cập đến các căng thẳng trong lãnh vực này: quá chú trọng tới bản sắc giáo phái, sợ hãi, trước các thực tại thay thế khác, thiếu minh bạch, việc lan tràn của chủ nghĩa cải đạo của một số cộng đoàn Tin Lành qua việc cung cấp viện trợ tài chánh, y tế và thực phẩm giữa thời khủng hoảng kinh tế. Thêm vào đó, còn có các căng thẳng giữa các Giáo Hội phương tây và các Giáo Hội phương đông. Phiên họp không ngần ngại nhắc đến việc bộ giáo luật bị giằng co giữa hợp nhất và tản quyền; việc can dự của chính trị vào vụ việc đại kết...
4. Cởi mở đối với người khác
Ở khu vực Trung Đông đang bị căng thẳng nghiêm trọng về chính trị, an ninh và xã hội, do cuộc xung đột Sunni-Shia ở Iraq, Yemen và Syria, và quyền bá chủ của các phong trào và tổ chức cực đoan ở một số quốc gia, các Kitô hữu linh cảm nguy cơ bị nhổ gốc, bị trục xuất và nguy cơ tiêu hủy di sản Kitô giáo. Các báo cáo do các Giáo Hội Công Giáo ở Trung Đông cung cấp và kết quả từ công việc của Thượng hội đồng nhấn mạnh đến sự xuất hiện của nhiều căng thẳng khác nhau: sợ hãi sự trỗi dậy của bạo lực, nguy cơ tan biến trong nền văn hóa chủ yếu có tính Hồi giáo, tác động của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo đối với sự hiện diện Kitô giáo, không có khả năng tạo ra các phương pháp và chiến lược mới để lắng nghe và xóa bỏ chướng ngại, thiếu môi trường thuận lợi cho đối thoại, thờ ơ tích lũy và mất hết quan tâm tới người khác, sự vô hiệu của nỗ lực đối thoại và nối lại quan hệ trong một số trường hợp, vấn đề hòa nhập người tị nạn Palestine và người Syria di cư vào đa số người Hồi giáo, dẫn đến tình trạng rối loạn chức năng liên quan đến trải nghiệm tự do tín ngưỡng nói chung và việc thực hành tự do và thường xuyên các nghi lễ Kitô giáo nói riêng.
Tuy nhiên, bất chấp tất cả những điều trên, vẫn đã có sự cởi mở của các Giáo hội địa phương đối với người khác, cả ở bình diện đức tin lẫn bình diện văn hóa hay quan niệm và lựa chọn. Nhấn mạnh cũng đã được đặt vào sự cần thiết phải lắng nghe, đối thoại và cùng tồn tại.
Khái niệm người khác không giới hạn ở các người nam nữ thuộc các Giáo Hội khác, cũng như các tôn giáo khác! Người khác đây có thể là người gần gũi nhất đối với mỗi người. Giáo hội thể hiện tình yêu của mình với mọi người không phân biệt hay kỳ thị. Sự tham gia của các tín hữu có nhu cầu đặc biệt, khuyết tật về thể chất và tinh thần, trong cầu nguyện hoặc trong các nhóm suy gẫm của Phiên họp này, là một biểu hiện hùng hồn làm chứng tầm rộng lớn của căn lều Giáo Hội.
Giáo hội sẽ trở nên đồng nghị hơn khi cố gắng cổ võ sự chung sống và đối thoại với các tôn giáo khác, nhằm biểu lộ khuôn mặt đích thực và độc đáo của Thiên Chúa. Lắng nghe là bước đầu tiên để chào đón người khác. Về khía cạnh này, các báo cáo và thảo luận của các nhóm làm việc đã vinh danh sáng kiến của Đức Phanxicô và Sheikh Ahmed Tayeb, những vị đã ký và công bố Tài liệu về Tình huynh đệ Nhân bản, cũng như các chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô tới các quốc gia Trung Đông.
Cơ hội đối thoại được tăng cường và củng cố khi tham gia các tổ chức và hội nghị ủng hộ sự hiểu nhau, trong các cuộc họp và các cuộc tụ họp tập hợp những người theo các tôn giáo khác nhau, và trong hợp tác với tất cả các tổ chức tôn giáo nhằm thiết lập các cơ sở chung cho đối thoại. Do đó, người ta nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huấn luyện về đối thoại, cổ vũ các sáng kiến cởi mở với tín đồ của các tôn giáo khác, cụ thể hóa tình huynh đệ nhân loại, tạo ra các phương pháp đối thoại mới.
5. Hiệp thông và hy vọng giữa đau khổ
Các Giáo Hội Trung Đông phát sinh giữa các đau khổ và bách hại, lịch sử của họ được viết trong máu. Truyện tử đạo chiếm phần lớn sách hạnh các thánh và trở thành nguồn linh hứng để các tín hữu múc được năng lực hy vọng để sống còn và kiên vững.
Nhưng không vì thế mà thiếu căng thẳng: đầu tiên là di cư, nhất là của người trẻ, làm các Giáo Hội mất đi các khả năng và nguồn lực và phân tán các gia đình.
Bất chấp các sáng kiến của Đức Phanxicô và của hàng giáo phẩm sở tại để duy trì sự hiện diện của Kitô giáo ở trong vùng, các lo sợ vẫn gia tăng trước việc tái xuất hiện các đợt duy toàn diện (intégisme) đầy bạo lực, việc gia tăng di cư, các thách thức tiếp đón người nhập cư và tản cư, theo phương cách duy trì căn tính, truyền thống và lễ nghi trong các nước họ phân tán, cũng như việc họ thuộc Giáo Hội của họ một đàng, đàng khác là mối liên hệ với Giáo Hội Latinh và việc họ hội nhập vào các nước chủ nhà. Chưa kể các căng thẳng như vũ trang, nghĩa vụ quân sự cũng như việc các Kitô hữu giữa vai trò lãnh đạo phải trung thành với các giá trị thiêng liêng trong việc thi hành chức vụ chính trị.
6. Canh tân các cơ cấu để có một Giáo Hội đồng nghị hơn
Đối với Phiên họp, điều hiển nhiên là các Giáo Hội Trung Đông có cơ cấu đồng nghị. Nhưng để những cơ cấu này phục vụ hiệp thông, tham gia và sứ mệnh, chúng cần được canh tân không ngừng, nhất là kích hoạt chúng ở các bình diện khác nhau: Hội đồng mục vụ và giáo phận, Hội Đồng Toàn quốc các Thượng phụ và Giám Mục và Hội Đồng các Thượng phụ Công Giáo Trung Đông, để các cơ cấu này có tính đóng góp, chuyên nghiệp và minh bạch hơn và không gây trở ngại cho việc truyền tải sứ điệp đến cho mọi người.
Một số giáo dân nam nữ tỏ bầy ý muốn chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng sứ mệnh với các Giám Mục và linh mục. Họ muốn được giám sát việc làm của các ủy ban tài chánh và những người có trách nhiệm mang giúp đỡ tới cho những người thiếu thốn, người nghèo và người đau khổ.
Để có được một Giáo Hội đồng nghị hơn, phải tiếp nhận chủ nghĩa đa nguyên văn hóa với việc ý thức và quí mến người khác nhiều hơn. Việc thiếu minh bạch và độc đoán của một số giáo phẩm đã làm nhiều người ngần ngừ tham dự vào đời sống Giáo Hội. Cũng có người phê phán việc trổi vượt của đặc điểm định chế giữa lòng Giáo Hội làm lu mờ nền tảng phục vụ; của việc nhiều định chế Giáo Hội đôi khi sở đắc một khía cạnh tổ chức thiên về người giầu hơn là người nghèo.
Cũng có ý kiến muốn duyệt lại ý niệm lãnh đạo theo kịp với các nền tảng hiện đại của việc cai quản, phải canh tân các cơ cấu nhất là phải lưu ý mục vụ gia đình, mục vụ phụ nữ và mục vụ giới trẻ.
Mục vụ gia đình
Giáo dục gia đình biết dạy con cái cầu nguyện, đọc sách thánh, lắng nghe Lời Chúa. Trong nền giáo dục này, phải mạnh dạn đề cập tới các vấn đề đạo đức mới. Cần có các chương trình giáo dục chuyên biệt cho các cặp vợ chồng, các cặp đính hôn và đồng hành với các cặp này và các gia đình khi họ gặp khó khăn giữa tình huống có nhiều thay đổi văn hóa.
Có sự gia tăng số người ly dị cũng như phá thai, người đồng tính, chuyển giới, lý thuyết phái tính trên các phương tiện truyền thông và tác dụng của nó đối với tuổi trẻ.
Điều cần là phải định nghĩa ý niệm tính dục và các vấn đề liên hệ đến nó, cần tìm ra các cách mới mẻ để chuẩn bị bí tích hôn phối cách thỏa đáng, tìm cách thông đạt với các gia đình sống xa rời Giáo Hội, không nên loại trừ bất cứ ai ra khỏi diễn trình đồng nghị.
Ơn gọi và vai trò phụ nữ
Các Giáo Hội Trung Đông rất lưu tâm tới ơn gọi và vai trò của phụ nữ. Cụ thể, Giáo Hội Maronite đã thúc đẩy Văn phòng Mục vụ Phụ nữ của họ đưa ra đề nghị tổ chức một Thượng Hội Đồng về phụ nữ. Phiên họp thảo luận việc cộng tác của phụ nữ vào việc cai quản và thúc giục Giáo Hội đưa ra các sáng kiến rõ ràng và nhất quán về đề nghị này. Vấn đề thừa tác vụ phụ nữ cũng đã được thảo luận. Tuy nhiên, cần có một nền đào tạo về thần học, giáo hội và kỹ thuật cho các phụ nữ dấn thân, trước khi một số họ đảm nhận vai trò cai quản hay thừa tác vụ trong tư cách phó tế trong các công trình bác ái.
Mục vụ giới trẻ
Trước nhất có nhu cầu đồng hành với các nạn nhân bị lạm dụng tình dục, giúp họ đối đầu với các thách thức gặp phải. Sau là cần khuyến khích và nâng đỡ các sáng kiến mời gọi giới trẻ gặp nhau và cùng nhau làm việc để loan báo Tin Mừng: Mục vụ Đại Học, các buổi hạnh ngộ cầu nguyện theo linh đạo Taizé, ngày giới trẻ toàn quốc, Nhóm Nous Choisissons la Vie [Chúng tôi chọn sự sống] và nhóm La Fondation Pro Oriente [Qũy cho Phương Đông]...
Phiên họp tỏ ý ước mong sự hiện diện nhiều hơn của giới trẻ vào diễn trình đồng nghị hiện nay. Cũng như hàng giáo phẩm cần minh bạch và thành thực nhiều hơn để giới trẻ xây dựng lại niềm tin nơi các ngài.
7. Các phương tiện truyền thông, nền văn hóa kỹ thuật số và các đóng góp của chúng vào việc làm cho Giáo Hội có tính đồng nghị hơn
Tài liệu nhắc đến việc các Giáo Hội Trung Đông đi tiên phong trong việc tìm ra phương pháp, kỹ thuật và phương tiện truyền thông và thông tin để loan báo Tin Mừng Phục sinh: ngay từ thời xa xưa, các bản chép tay kinh thánh và các lời cầu nguyện đã xuất hiện như dụng cụ phổ biến và thông tin. Rồi các ảnh tượng như các cỗ xe chuyên chở các sự kiện kinh thánh. Sau đó, là việc dùng các nhạc điệu bình dân trong các Giáo Hội theo nghi lễ Syria và thay thế các bản văn của chúng bằng văn xuôi và thi ca của các giáo phụ, mà nhân vật nổi bật nhất là Thánh Êphrem người Syria, cây đàn của Chúa Thánh Thần.
Tại phiên họp lục địa, các quả quyết sau đây đã được nói đến: chứng tỏ tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông như dụng cụ truyền thông hữu hiệu để chuyên chở Tin Mừng; quả quyết rằng các chuyên gia Kitô hữu của các phương tiện truyền thông phải lãnh trách nhiệm làm chứng cho các nguyên tắc và giá trị Kitô giáo, khi đối đầu với các ý niệm và ý nghĩ xúc phạm tới nhân phẩm và nuôi dưỡng tinh thần xa rời Thiên Chúa và góp phần loan truyền việc sa đọa luân lý.
V. Làm thế nào để các Giáo Hội Trung Đông trở nên đồng nghị hơn?
Tài liệu liệt kê các đề xuất sau đây giúp làm cho các Giáo Hội Trung Đông đồng nghị hơn:
1.Mỗi người đã chịu phép rửa phải sống và tự nhận ra mình như thành phần của dân Chúa, bằng lời nói, việc làm, gương sáng và chứng từ.
2. Thừa nhận tính bổ túc giữa chức linh mục chung và chức linh mục thừa tác. Cả hai tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Giêsu.
3. Khẳng định rằng mỗi tín hữu đều hưởng “cảm thức đức tin”.
4. Canh tân sinh hoạt phụng vụ, quan tâm tới việc duy trì các điều cốt yếu của Thánh Truyền, trong khi lưu ý tới việc thích ứng phụng vụ theo nhu cầu thực sự của dân Chúa, tùy theo bối cảnh và hoàn cảnh riêng của các xứ và xã hội khác nhau.
5. Thanh tẩy thừa tác vụ linh mục khỏi mọi yếu đuối và thiếu sót hiện nay. Cần duyệt lại các phương tiện và tiêu chuẩn chọn ứng viên chịu chức phó tế, linh mục, Giám Mục, không chỉ căn cứ vào khả năng khoa học và thần học của họ hay tài quản trị mà phải chú trọng trước nhất đến khả năng của họ trong việc tôn trọng cam kết và sống cuộc sống đạo đức.
6. Dấn thân vào việc tái lập sự hợp nhất hữu hình của Giáo Hội và cổ vũ các mối liên hệ đại kết với các Giáo Hội và Cộng Đồng Giáo Hội tại Trung Đông. Trong phương diện này, Tài liệu đặc biết nhắc đến việc tìm cách thống nhất các ngày lễ, nhất là Lễ Phục Sinh.
7. Thừa nhận tính đa dạng tôn giáo, văn hóa và nhân bản trong vùng Trung Đông và củng cố việc sống chung với người Hồi giáo, Do Thái Giáo, tín hữu các tôn giáo khác, các người bất khả tri và những người vô tôn giáo, đặc biệt các luồng triết học hoặc ý thức hệ. Thanh tẩy ký ức và dấn thân đối thoại chân chính và mạnh dạn, dựa trên đức ái và việc tôn trọng hỗ tương.
8. Bãi bỏ mọi hình thức loại trừ phụ nữ tham gia vào đời sống Giáo Hội, nhất là trong các quyết định của Giáo Hội. Nên bắt đầu suy nghĩ về việc tái lập chức nữ phó tế.
9. Tin tưởng giới trẻ, các ơn phúc và khả năng đóng góp của họ vào các trách nhiệm khác nhau, nhất là việc loan báo Tin Mừng. Cũng nên tỏ tin tưởng nơi người khuyết tật, chào đón kinh nghiệm nhân bản và thiêng liêng của họ.
10. Tiếp nhận các phương pháp cai quản và minh bạch để quản trị các định chế Giáo Hội ở các lãnh vực khác nhau. Coi quyền hành như những biểu thức cụ thể của đức ái và phục vụ.
11. Tránh mặc cảm thiểu số và nỗi sợ liên kết với nó do bị bách hại, di dân và các hoàn cảnh khó khăn khác gây ra. Phải giúp các Kitô hữu tiếp tục hiện diện trên chính quê hương họ, ngăn cản diễn trình triệt tiêu sự hiện diện của Kitô hữu trong vùng.
VI. Các ưu tiên
Từ các kết luận trên, Tài liệu rút ra ba ưu tiên sau đây để Phiên họp thứ nhất của Thượng Hội Đồng tháng 10 năm 2023 xem xét:
1.Giúp các Giáo Hội đặc thù cổ vũ tính Công Giáo của Giáo Hội trong một tương quan hòa hợp giữa Hợp nhất và Đa dạng trong khi vẫn duy trì được tính Chuyên biệt của mỗi Giáo Hội. Trong chiều hướng này, đâu là vai trò của các Giáo Hội Công Giáo đông phương trong hiệp thông mọi Giáo Hội?
2. Định rõ các cơ cấu hiệp thông và các liên hệ pháp lý giữa các Giáo Hội Công Giáo Thượng Phụ và vị Kế nhiệm Thánh Phêrô trên tòa Rôma. Xem xét lại bản chất mối tương quan của họ với các thánh bộ Giáo triều, vốn giả thiết phục vụ việc hiệp thông giữa lòng Giáo Hội phổ quát.
3. Xác định và cổ vũ các cơ cấu và bộ máy thích hợp nhất để cụ thể hóa tính đồng nghị trong đời sống Giáo Hội, trong khi lưu ý tới tính đa nguyên và đa dạng của các bối cảnh tôn giáo và văn hóa-xã hội khắp thế giới.
Kết luận
Tài liệu kết luận nguyên văn như sau:
“Trong niềm vui cảm nhận được trước ý niệm về một cuộc gặp gỡ có thể cử hành Giáo Hội Duy Nhất, và bất chấp nỗi buồn trước sự mất mát của các nạn nhân trong trận động đất chết người ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria, chúng tôi đã được ban ân sủng để cử hành Thượng Hội đồng Lục địa của Các Giáo Hội Công Giáo ở Trung Đông và Vịnh Ả Rập. Chúng tôi đã cùng lắng nghe nhau và lắng nghe sứ điệp mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng tôi hôm nay. Tất cả những người tham gia Phiên họp này bày tỏ niềm vui và hy vọng của họ, cũng như những nỗi sợ hãi và thách thức mà họ phải đối diện. Điều này khuyến khích họ thực hiện những sáng kiến cụ thể mà họ đầu tư vào các Giáo hội tương ứng. Hơn thế nữa, sự tham gia của họ bảo đảm rằng tính đồng nghị là một trải nghiệm có thực chất và một không gian tự do phát biểu, đặc biệt đối với phụ nữ và thanh niên, cũng như đối với nhiều người không ai còn nghe thấy tiếng nói của họ; hoặc thậm chí đối với người khuyết tật; và cuối cùng, đối với tất cả những ai thấy mình đang ở bên lề của đời sống mục vụ. Kinh nghiệm Phiên họp Thượng hội đồng này đã tạo nên một loại phương thuốc cho nhiều tình huống khó khăn trong mỗi Giáo hội, và các mối liên hệ căng thẳng giữa các Giáo hội khác nhau. Phiên họp này đã thừa nhận rõ ràng hai chiều kích mà thiếu nó Giáo Hội sẽ đánh mất lý do hiện hữu và linh hồn của sự hiện hữu của nó ở phương Đông: chiều kích đại kết liên quan đến mối liên hệ với các Giáo Hội chị em; chiều kích đối thoại bảo đảm sự cởi mở và gặp gỡ với các tôn giáo khác.
“Rõ ràng là dân Chúa ở Trung Đông được hướng dẫn để làm chứng cho đức tin của họ, thông qua cuộc sống của họ và Hy vọng của họ, bất chấp sự phức tạp của bối cảnh hiện tại. Lời kêu gọi đổi mới, cùng nhau hành trình, đối thoại và phân định là lời kêu gọi khẩn cấp không chấp nhận trì hoãn. Gặt hái, không chậm trễ, thành quả của tính đồng nghị, được thực hiện liên quan đến cam kết không ngừng cùng nhau bước đi phía sau Chúa Kitô và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, như dân Chúa, được sinh động bởi ý muốn thăng tiến tình huynh đệ nhân loại. Đây là cách Các Giáo Hội Công Giáo Đông phương sẽ cố gắng đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, để đạt được điều Thiên Chúa muốn cho Giáo hội của Người trong thiên niên kỷ thứ ba: mang tính đồng nghị hơn”.
________________________________________________
(*) Kahal: cơ quan quản trị địa phương của các cộng đồng Do Thái, lo đủ mọi việc: tôn giáo, luật pháp, cộng đoàn.