Theo tạp chí The Pillar ngày 7 tháng 12, 2022, một cuộc nghiên cứu do Hội đồng Giám mục Đức đồng tài trợ đã cho thấy sự khác biệt lớn về quan điểm của những người Công Giáo trên toàn thế giới đối với các mục tiêu của Con đường Đồng nghị Đức.
Thực vậy, hôm thứ Tư vừa qua, Hội đồng Giám mục Đức đã công bố kết quả ban đầu của một nghiên cứu nhằm đo lường sự hỗ trợ hoàn cầu đối với các mục tiêu của “Con đường Đồng nghị” vốn gây tranh cãi của đất nước.
Cuộc nghiên cứu, do Hội đồng Giám mục đồng tài trợ, nhằm đánh giá thái độ của người Công Giáo trên khắp thế giới đối với bốn chủ đề chính trong sáng kiến của Đức: quyền lực, chức tư tế, phụ nữ trong Giáo hội và tình dục.
599 người tham gia từ 67 quốc gia, được khảo sát trực tuyến vào tháng 4, là những người hiện tại hoặc trước đây đã từng nhận học bổng ở Đức, nhưng các nhà nghiên cứu kết luận rằng điều này “không có nghĩa là họ tự động tiếp nhận quan điểm của Đức, biểu lộ qua sự khác biệt đáng kể… trong các câu trả lời, đặc biệt là theo khu vực”.
Gần hai phần ba số người được hỏi — hơn 90% trong số họ là người Công Giáo — đồng ý mạnh mẽ với tuyên bố cho rằng “sự tham gia chung của giáo dân và giáo sĩ trong sứ mệnh của Giáo hội quả hữu ích đối với việc công bố sứ điệp”.
Nhưng chỉ có 44% ủng hộ mạnh mẽ việc bãi bỏ luật bắt buộc linh mục độc thân và 42% kiên quyết ủng hộ việc nhận phụ nữ vào chức phó tế và linh mục. Chưa đến 38% đồng ý mạnh mẽ rằng “Giáo Hội Công Giáo nên đánh giá lại quan điểm của mình về đồng tính luyến ái”.
Các nhà nghiên cứu ghi nhận sự khác biệt rõ rệt về quan điểm giữa những người được hỏi ở Châu Phi và Châu Mỹ Latinh, trong đó người Châu Phi có nhiều xác suất đồng ý rằng “tình dục chỉ có thể có chỗ đứng trong hôn nhân Công Giáo” và không đồng ý với lời kêu gọi đánh giá lại đồng tính luyến ái.
Kết quả của cuộc nghiên cứu được đưa ra vào thời điểm nhạy cảm đối với những người ủng hộ Con đường Đồng nghị, một dự án được khởi động vào năm 2019 nhằm tập hợp các giám mục Đức và một số giáo dân để thảo luận về các chủ đề nóng bỏng như nữ phó tế, linh mục đã kết hôn và đồng tính luyến ái.
Các viên chức Vatican đã chỉ trích mạnh mẽ sáng kiến này trong chuyến viếng thăm ad limina vào tháng 11 của các giám mục Đức tới Rôma. Họ đã kêu gọi một lệnh cấm, nhưng đa số các giám mục Đức bác bỏ đề nghị này.
Với việc Vatican bày tỏ sự dè dặt sâu xa, các nhà tổ chức Con đường Đồng nghị đã bắt đầu nhấn mạnh rằng những mối quan tâm của họ được chia sẻ rộng rãi ở bên ngoài nước Đức và nên được đưa lên hàng đầu trong chương trình nghị sự của hội nghị thượng hội đồng năm tới về tính đồng nghị ở Rome.
Phát biểu trước các Hồng Y của Vatican vào ngày 18 tháng 11, Chủ tịch hội đồng giám mục, Đức cha Georg Bätzing, nhấn mạnh rằng “các vấn đề chúng ta đang giải quyết trong bốn diễn đàn và tại các phiên nhóm đồng nghị cũng đang được thảo luận ở các thành phần khác trong Giáo hội”.
Irme Stetter-Karp, đồng chủ tịch của Con đường Đồng nghị cùng với Giám mục Bätzing, cho biết vào ngày 19 tháng 11 rằng lời kêu gọi tạm hoãn “cho tôi thấy điều quan trọng là chúng ta phải rõ ràng đưa chương trình nghị sự của mình đến thượng hội đồng hoàn cầu”.
Con đường Đồng nghị đã công bố một tạp chí dài 68 trang bằng tiếng Anh vào tháng 8, nhằm mục đích xây dựng sự ủng hộ cho sáng kiến ở bên ngoài nước Đức.
Viết trong phần giới thiệu, Giám mục Bätzing và Stetter-Karp nói rằng tạp chí nhằm mục đích cho thấy rằng các chủ đề của đường lối đồng nghị đang được “giải quyết – có lẽ theo những cách khác nhau, nhưng không kém phần rõ ràng – ở nhiều nơi khác nhau trong toàn thể Giáo hội Hoàn vũ”.
Trong một cuộc phỏng vấn được công bố vào ngày 2 tháng 12, một trong những kiến trúc sư của Con đường Đồng nghị nói rằng sáng kiến này đã “mở ra” các vấn đề như giáo sĩ đã kết hôn, nữ linh mục và đồng tính luyến ái, và chúng hiện đang được “thảo luận trên phạm vi quốc tế, không chỉ ở Đức”.
Thomas Sternberg, cựu chủ tịch Ủy ban Trung ương Công Giáo Đức (ZdK) nhiều quyền lực, gợi ý rằng Con đường Đồng nghị đang gây ảnh hưởng hoàn cầu bởi vì nó không phải là một Thượng Hội Đồng về mặt Giáo luật và do đó “ngay cả những luận bác phê phán tiền chế ở Rome cũng không đi đến đâu cả”.
Ông nói thêm rằng các nhà tổ chức đã sử dụng các chiến thuật rút ra từ thế giới chính trị, chẳng hạn như sử dụng “các diễn trình và sự phát triển để biến các chủ đề thành đáng được thảo luận ngay từ đầu” nhằm tạo áp lực thay đổi trong Giáo hội.
Cuộc nghiên cứu về thái độ hoàn cầu đối với Con đường Đồng nghị, được thực hiện bởi Cơ quan Trao đổi Học thuật Công Giáo (KAAD) và Viện Giáo hội và Truyền giáo Hoàn cầu (IWM), là một phần của dự án mang tên “Con đường Đồng nghị - Quan điểm của Giáo hội Thế giới”.
Nghiên cứu được chia thành hai phần: “giai đoạn định lượng” trước nhất, tiếp theo là “giai đoạn định phẩm”. Giờ đây, các nhà nghiên cứu sẽ hướng dẫn các nhóm tập chú theo khu vực để hiểu rõ hơn về các ý kiến khác nhau.
Suy nghĩ về kết quả của giai đoạn định lượng, họ nói: “Tóm lại, có thể nói rằng những người tham gia có xu hướng tích cực củng cố vai trò và ảnh hưởng của giáo dân trong Giáo hội nhằm đạt được sự phân bổ quyền lực tốt hơn, điều này có thể cũng giúp trong việc công bố thông điệp. Cả hai khía cạnh đều nhận được sự chấp thuận rõ ràng, cho thấy các giá trị cao nhất trong cuộc khảo sát và sự đồng thuận rõ ràng trong mẫu thăm dò”.
“Ngược lại, có những ý kiến mâu thuẫn về giá trị của đời sống độc thân và cách sống của các linh mục ngày nay. Tuy nhiên, những người tham gia cũng không đồng ý rõ ràng với việc để họ quyết định lối sống của họ trong tương lai”.
“Ngoài ra, vai trò của phụ nữ trong các giáo xứ đã được đánh giá rõ ràng; tuy nhiên những người được hỏi bày tỏ ý kiến lưỡng diện về ảnh hưởng của phụ nữ trong giáo xứ và cộng đồng của họ. Ý tưởng cho phép họ được nhận vào các chức vụ được tấn phong có vẻ vẫn còn gây tranh cãi”. Các nhà nghiên cứu kết luận: “Cuối cùng, hầu hết những người được hỏi đều đồng ý rằng Giáo hội nên quan tâm sâu xa đến vấn đề tình dục, tuy nhiên, ý kiến của họ về giáo huấn hiện tại của Giáo hội về tình dục, hôn nhân và đồng tính luyến ái còn nhiều tính lưỡng diện hơn”.
“Các phân tích về sai biệt giữa các nhóm theo biến số bối cảnh cho thấy rằng vùng xuất xứ rất khác nhau trong mọi trường hợp. Ngược lại, các biến số khác như giới tính, lối sống hoặc giáo phái chỉ quan trọng ở một số khía cạnh chuyên biệt”.