Theo tin CNA, sinh nhật lần thứ 95 của Đức Giáo Hoàng hưu trí Bênêđictô XVI, 16 tháng 4, 2022, rơi vào thứ Bẩy Tuần Thánh. Chính vì thế, Đức Đương kim Giáo Hoàng Phanxicô đã tới Đan viện Mater Ecclesiae, nơi cư trú chính thức của Đức Giáo Hoàng hưu trí, ngày 13 tháng 4, để chúc mừng ngài trước, dành thì giờ cử hành Tuần Thánh.
Theo Phòng Báo chí Tòa Thánh, “sau một cuộc chuyện vãn ngắn ngủi và thân tình, và sau khi cùng nhau cầu nguyện, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trở lại Casa Santa Marta [nơi cư trú của ngài]".
Nhân dịp này, CNA trích dẫn Nhật Ký của Đức Bênêđictô suy nghĩ về ngày sinh trùng với Thứ Bẩy Tuần Thánh: “sự kiện ngày sinh của tôi là ngày cuối cùng của Tuần Thánh và vọng Phục sinh luôn được ghi nhận trong lịch sử gia đình, vì nó được nối kết với sự kiện tôi được rửa tội ngay vào buổi sáng ngày sinh với nước vừa được thánh hiến trong ‘Lễ Vọng Phục Sinh’ cử hành vào buổi sáng lúc đó. Việc là người được rửa tội đầu tiên với nước mới được coi là một biến cố quan phòng có ý nghĩa”.
Ngài viết tiếp; “sự kiện đời tôi được tắm gội trong Mầu Nhiệm Phục Sinh ngay từ lúc khởi đầu cách này luôn tràn ngập lòng tôi một niềm biết ơn, vì đây chỉ có thể là dấu hiệu phước lành”.
“Đã đành — chưa phải là Chúa Nhật Phục Sinh, mà chỉ là Thứ Bẩy Tuần Thánh. Nhưng càng suy nghĩ lâu về nó, hình như tôi càng muốn sống phù hợp hơn với yếu tính của cuộc sống nhân bản của chúng ta, một cuộc sống vẫn còn đang chờ Phục sinh, chứ chưa được ở trong ánh sáng trọn vẹn, tuy vẫn tin tưởng hướng tới nó”.
Cũng nhân dịp này, Đức Hồng Y Kurt Koch, Chủ tịch Hội Đồng Cổ vũ Hợp nhất Kitô giáo, viết như sau trên trang mạng của Qũy Tagespost do Chính Đức Bênêđictô phát động: “tôi đội ơn Chúa đã ban cho chúng ta Joseph Ratzinger vào Thứ Bẩy Tuần Thánh 1927 như một người cao qúi, một Kitô hữu đạo đức sâu sắc, một thần học gia lỗi lạc, và một Giám Mục và Giáo Hoàng nhân hậu”.
Tuy nhiên, theo tạp chí Civiltà Catolica của các Cha Dòng Tên Ý, không lời chúc mừng nào ý nghĩa bằng lời phát biểu tự phát của Đức Đương Kim Giáo Hoàng trong buổi tiếp kiến các cha dòng Tên tại Malta ngày 3 tháng 4, 2022.
Trong buổi tiếp kiến này, các vị hiện diện tự do đặt câu hỏi để Đức Giáo Hoàng trả lời. Một vị hỏi ngài về Giáo Hội của tương lai, phải chăng nó sẽ nhỏ hẹp hơn, nhưng khiêm nhường hơn và chân chính hơn, Đức Phanxicô trả lời bằng cách nhắc ngay tới vị tiền nhiệm của ngài: “Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô là một tiên tri của Giáo Hội trong tương lai này, một Giáo Hội sẽ trở nên nhỏ bé hơn, sẽ mất nhiều đặc ơn, sẽ khiêm nhường và chân chính hơn và sẽ tìm được năng lực cho những điều yếu tính. Nó sẽ là một Giáo Hội tâm linh hơn, nghèo khó hơn và ít chính trị hơn: một Giáo Hội của những người bé nhỏ. Đức Bênêđíctô trong tư cách một Giám Mục từng nói điều này: chúng ta hãy tự chuẩn bị để trở thành một Giáo Hội nhỏ bé hơn. Đây là một trong các tầm nhìn thông sáng phong phú nhất của ngài”.
Nhận định về phát biểu trên, Hãng tin CNA cho rằng: Đức Phanxicô có ý nhắc đến bài phát biểu truyền thanh năm 1969 tại Đức, trong đó, nhà thần học Joseph Ratzinger suy nghĩ về tương lai của Giáo Hội. Tạp chí Aleteia (https://aleteia.org/2016/06/13/when-cardinal-joseph-ratzinger-predicted-the-future-of-the-church/) trích dẫn phần chính của bài phát biểu này như sau:
“Tương lai của Giáo hội có thể và sẽ phát sinh từ những người có cội nguồn sâu xa và những người sống sự viên mãn thuần khiết của đức tin. Nó sẽ không phát xuất từ những người chỉ thích ứng bản thân cho khoảnh khắc mau qua hoặc từ những người chỉ biết chỉ trích người khác và cho rằng bản thân họ là những thước đo không thể sai lầm; nó cũng không phát xuất từ những người đi trên con đường dễ dàng hơn, những người bỏ qua niềm đam mê đức tin, tuyên bố là sai lầm và lỗi thời, chuyên chế và theo chủ nghĩa pháp lý, tất cả những gì tạo nên yêu cầu đối với con người, làm họ tổn thương và buộc họ phải hy sinh bản thân mình. Nói điều này một cách tích cực hơn: Tương lai của Giáo hội, một lần nữa, như mọi khi, sẽ được định hình lại bởi các thánh, bởi những con người, tức là những người có tâm trí thăm dò sâu hơn những khẩu hiệu thời nay, những người nhìn thấy nhiều hơn những người khác, bởi vì cuộc sống của họ nắm được một thực tại rộng lớn hơn. Tính vị tha, đức tính làm con người tự do, chỉ đạt được thông qua sự kiên nhẫn từ những hành động từ bỏ bản thân nhỏ nhặt hàng ngày. Nhờ niềm đam mê hàng ngày này, chỉ có nó mới tiết lộ cho con người biết họ bị nô lệ bằng biết bao nhiêu cách bởi cái tôi của chính họ, nhờ niềm đam mê hàng ngày này và chỉ nhờ có nó, đôi mắt của một con người mới từ từ được mở ra. Họ chỉ nhìn theo phạm vi đã sống và chịu đựng. Nếu ngày nay chúng ta hầu như không còn có thể nhận thức được Thiên Chúa, đó là vì chúng ta thấy quá dễ dàng để trốn tránh chính mình, trốn chạy khỏi những chiều sâu thẳm của hữu thể chúng ta bằng sự mê hoặc của một thú vui nào đó. Vì vậy, các chiều sâu nội tâm của chúng ta vẫn đóng kín đối với chúng ta. Nếu đúng là con người chỉ có thể nhìn bằng trái tim, thì chúng ta quả mù quáng biết bao!
“Tất cả những điều này ảnh hưởng đến vấn đề mà chúng ta đang khảo sát ra sao? Nó có nghĩa là những lời bàn tán vĩ đại của những người nói tiên tri về một Giáo hội không có Thiên Chúa và không có đức tin đều là những lời bàn tán rỗng tuếch. Chúng ta không cần một Giáo hội cử hành sự sùng bái hành động trong các buổi cầu nguyện chính trị. Nó hoàn toàn dư thừa. Do đó, nó sẽ tự hủy hoại. Điều còn lại sẽ là Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô, Giáo Hội biết tin vào Thiên Chúa, Đấng đã trở thành con người và hứa cho chúng ta sự sống vượt trên sự chết. Loại linh mục không hơn một nhân viên xã hội có thể được thay thế bằng nhà trị liệu tâm lý và các chuyên gia khác; nhưng linh mục không phải là chuyên gia, không đứng bên lề, theo dõi trận đấu, đưa ra lời khuyên chính thức, nhưng nhân danh Thiên Chúa tự đặt mình để con người xử dụng, ở bên cạnh họ trong nỗi buồn của họ, trong niềm vui, niềm hy vọng và nỗi sợ hãi của họ, một linh mục như vậy chắc chắn sẽ cần đến trong tương lai.
“Chúng ta hãy bước một bước xa hơn. Từ cuộc khủng hoảng hôm nay, Giáo hội của ngày mai sẽ xuất hiện - một Giáo hội mất mát nhiều. Giáo Hội ấy sẽ trở nên nhỏ bé và ít nhiều sẽ phải bắt đầu lại từ đầu. Giáo Hội ấy sẽ không còn có thể sống trong nhiều dinh thự mà mình đã xây dựng trong thời kỳ thịnh vượng. Cùng với số lượng tín đồ của mình giảm dần, Giáo Hội ấy sẽ mất đi nhiều đặc quyền xã hội của mình. Ngược lại với thời đại trước đó, Giáo Hội ấy sẽ được coi là một xã hội tự nguyện, chỉ được tham gia bằng quyết định tự do. Là một xã hội nhỏ, Giáo Hội ấy sẽ đặt ra những yêu cầu lớn hơn nhiều cho sáng kiến của các thành viên cá thể của mình. Chắc chắn, nó sẽ khám phá ra những hình thức thừa tác vụ mới và sẽ phong chức linh mục cho những Kitô hữu được chấp thuận, những người theo đuổi một số nghề nghiệp. Trong những cộng đoàn nhỏ hơn hoặc trong các nhóm xã hội tự chủ, việc chăm sóc mục vụ thường sẽ được cung cấp theo cách này. Cùng với việc này, thừa tác vụ linh mục trọn thời gian vẫn sẽ không thể thiếu như trước đây. Nhưng trong tất cả những thay đổi mà người ta có thể đoán được, Giáo hội sẽ tìm được yếu tính của mình một cách mới mẻ và với niềm xác tín hoàn toàn vào điều luôn ở trung tâm của mình: đức tin vào Thiên Chúa ba ngôi, vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã làm người, với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần cho đến ngày tận thế. Trong đức tin và cầu nguyện, Giáo Hội sẽ lại nhìn nhận các bí tích như là việc thờ phượng Thiên Chúa chứ không phải là một chủ đề cho học thuật phụng vụ.
“Giáo hội sẽ là một Giáo hội tâm linh hơn, không đảm nhận một nhiệm vụ chính trị, không ve vãn cả Cánh tả lẫn Cánh hữu. Điều này sẽ rất khó khăn cho Giáo hội, vì quá trình kết tinh và làm sáng tỏ sẽ tốn phí rất nhiều năng lực quý giá của Giáo Hội. Nó sẽ khiến Giáo Hội trở nên nghèo nàn và khiến Giáo Hội trở thành Giáo hội của những người hiền lành. Diễn trình này sẽ càng khó khăn hơn, vì lòng hẹp hòi bè phái cũng như ý chí tự cao tự đại sẽ phải được trút bỏ. Người ta có thể dự đoán rằng tất cả những điều này cần phải nhiều thời gian. Diễn trình này sẽ kéo dài và mệt mỏi giống như con đường từ chủ nghĩa tiến bộ sai lầm trước Cách mạng Pháp - khi một giám mục có thể được cho là thông minh nếu ngài đùa cợt với các tín điều và thậm chí nói bóng nói gió rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa là điều không chắc chắn - đến sự đổi mới của thế kỷ XIX. Nhưng khi quá trình thử thách sàng lọc này qua đi, một sức mạnh to lớn sẽ đến từ một Giáo hội được tâm linh hóa và đơn giản hóa hơn. Trong một thế giới được lên kế hoạch hoàn toàn, con người sẽ thấy mình cô đơn không thể tả được. Nếu họ hoàn toàn không nhìn thấy Thiên Chúa, họ sẽ cảm thấy toàn bộ nỗi kinh hoàng trong sự nghèo nàn của họ. Rồi, họ sẽ khám phá ra một đoàn tín hữu nhỏ bé như một điều hoàn toàn mới mẻ. Họ sẽ khám phá ra nó như một niềm hy vọng được dành cho họ, một câu trả lời mà họ luôn tìm kiếm trong âm thầm.
“Và vì, đối với tôi, điều chắc là Giáo hội đang phải đối mặt với những thời kỳ rất khó khăn. Cuộc khủng hoảng thực sự mới chỉ bắt đầu. Chúng ta sẽ phải tính đến những biến động lớn. Nhưng tôi cũng tin chắc không kém về những gì sẽ còn lại sau cùng: không phải Giáo hội của giáo phái chính trị, nó đã chết rồi, mà là Giáo hội của đức tin. Giáo Hội này có thể không còn là quyền lực thống trị xã hội ở mức độ mà nó từng là cho đến gần đây; nhưng nó sẽ được hưởng một mùa nở hoa tươi tốt và được coi như căn nhà của con người, nơi họ sẽ tìm được sự sống và hy vọng vượt trên sự chết”.
Theo Phòng Báo chí Tòa Thánh, “sau một cuộc chuyện vãn ngắn ngủi và thân tình, và sau khi cùng nhau cầu nguyện, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trở lại Casa Santa Marta [nơi cư trú của ngài]".
Nhân dịp này, CNA trích dẫn Nhật Ký của Đức Bênêđictô suy nghĩ về ngày sinh trùng với Thứ Bẩy Tuần Thánh: “sự kiện ngày sinh của tôi là ngày cuối cùng của Tuần Thánh và vọng Phục sinh luôn được ghi nhận trong lịch sử gia đình, vì nó được nối kết với sự kiện tôi được rửa tội ngay vào buổi sáng ngày sinh với nước vừa được thánh hiến trong ‘Lễ Vọng Phục Sinh’ cử hành vào buổi sáng lúc đó. Việc là người được rửa tội đầu tiên với nước mới được coi là một biến cố quan phòng có ý nghĩa”.
Ngài viết tiếp; “sự kiện đời tôi được tắm gội trong Mầu Nhiệm Phục Sinh ngay từ lúc khởi đầu cách này luôn tràn ngập lòng tôi một niềm biết ơn, vì đây chỉ có thể là dấu hiệu phước lành”.
“Đã đành — chưa phải là Chúa Nhật Phục Sinh, mà chỉ là Thứ Bẩy Tuần Thánh. Nhưng càng suy nghĩ lâu về nó, hình như tôi càng muốn sống phù hợp hơn với yếu tính của cuộc sống nhân bản của chúng ta, một cuộc sống vẫn còn đang chờ Phục sinh, chứ chưa được ở trong ánh sáng trọn vẹn, tuy vẫn tin tưởng hướng tới nó”.
Cũng nhân dịp này, Đức Hồng Y Kurt Koch, Chủ tịch Hội Đồng Cổ vũ Hợp nhất Kitô giáo, viết như sau trên trang mạng của Qũy Tagespost do Chính Đức Bênêđictô phát động: “tôi đội ơn Chúa đã ban cho chúng ta Joseph Ratzinger vào Thứ Bẩy Tuần Thánh 1927 như một người cao qúi, một Kitô hữu đạo đức sâu sắc, một thần học gia lỗi lạc, và một Giám Mục và Giáo Hoàng nhân hậu”.
Tuy nhiên, theo tạp chí Civiltà Catolica của các Cha Dòng Tên Ý, không lời chúc mừng nào ý nghĩa bằng lời phát biểu tự phát của Đức Đương Kim Giáo Hoàng trong buổi tiếp kiến các cha dòng Tên tại Malta ngày 3 tháng 4, 2022.
Trong buổi tiếp kiến này, các vị hiện diện tự do đặt câu hỏi để Đức Giáo Hoàng trả lời. Một vị hỏi ngài về Giáo Hội của tương lai, phải chăng nó sẽ nhỏ hẹp hơn, nhưng khiêm nhường hơn và chân chính hơn, Đức Phanxicô trả lời bằng cách nhắc ngay tới vị tiền nhiệm của ngài: “Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô là một tiên tri của Giáo Hội trong tương lai này, một Giáo Hội sẽ trở nên nhỏ bé hơn, sẽ mất nhiều đặc ơn, sẽ khiêm nhường và chân chính hơn và sẽ tìm được năng lực cho những điều yếu tính. Nó sẽ là một Giáo Hội tâm linh hơn, nghèo khó hơn và ít chính trị hơn: một Giáo Hội của những người bé nhỏ. Đức Bênêđíctô trong tư cách một Giám Mục từng nói điều này: chúng ta hãy tự chuẩn bị để trở thành một Giáo Hội nhỏ bé hơn. Đây là một trong các tầm nhìn thông sáng phong phú nhất của ngài”.
Nhận định về phát biểu trên, Hãng tin CNA cho rằng: Đức Phanxicô có ý nhắc đến bài phát biểu truyền thanh năm 1969 tại Đức, trong đó, nhà thần học Joseph Ratzinger suy nghĩ về tương lai của Giáo Hội. Tạp chí Aleteia (https://aleteia.org/2016/06/13/when-cardinal-joseph-ratzinger-predicted-the-future-of-the-church/) trích dẫn phần chính của bài phát biểu này như sau:
“Tương lai của Giáo hội có thể và sẽ phát sinh từ những người có cội nguồn sâu xa và những người sống sự viên mãn thuần khiết của đức tin. Nó sẽ không phát xuất từ những người chỉ thích ứng bản thân cho khoảnh khắc mau qua hoặc từ những người chỉ biết chỉ trích người khác và cho rằng bản thân họ là những thước đo không thể sai lầm; nó cũng không phát xuất từ những người đi trên con đường dễ dàng hơn, những người bỏ qua niềm đam mê đức tin, tuyên bố là sai lầm và lỗi thời, chuyên chế và theo chủ nghĩa pháp lý, tất cả những gì tạo nên yêu cầu đối với con người, làm họ tổn thương và buộc họ phải hy sinh bản thân mình. Nói điều này một cách tích cực hơn: Tương lai của Giáo hội, một lần nữa, như mọi khi, sẽ được định hình lại bởi các thánh, bởi những con người, tức là những người có tâm trí thăm dò sâu hơn những khẩu hiệu thời nay, những người nhìn thấy nhiều hơn những người khác, bởi vì cuộc sống của họ nắm được một thực tại rộng lớn hơn. Tính vị tha, đức tính làm con người tự do, chỉ đạt được thông qua sự kiên nhẫn từ những hành động từ bỏ bản thân nhỏ nhặt hàng ngày. Nhờ niềm đam mê hàng ngày này, chỉ có nó mới tiết lộ cho con người biết họ bị nô lệ bằng biết bao nhiêu cách bởi cái tôi của chính họ, nhờ niềm đam mê hàng ngày này và chỉ nhờ có nó, đôi mắt của một con người mới từ từ được mở ra. Họ chỉ nhìn theo phạm vi đã sống và chịu đựng. Nếu ngày nay chúng ta hầu như không còn có thể nhận thức được Thiên Chúa, đó là vì chúng ta thấy quá dễ dàng để trốn tránh chính mình, trốn chạy khỏi những chiều sâu thẳm của hữu thể chúng ta bằng sự mê hoặc của một thú vui nào đó. Vì vậy, các chiều sâu nội tâm của chúng ta vẫn đóng kín đối với chúng ta. Nếu đúng là con người chỉ có thể nhìn bằng trái tim, thì chúng ta quả mù quáng biết bao!
“Tất cả những điều này ảnh hưởng đến vấn đề mà chúng ta đang khảo sát ra sao? Nó có nghĩa là những lời bàn tán vĩ đại của những người nói tiên tri về một Giáo hội không có Thiên Chúa và không có đức tin đều là những lời bàn tán rỗng tuếch. Chúng ta không cần một Giáo hội cử hành sự sùng bái hành động trong các buổi cầu nguyện chính trị. Nó hoàn toàn dư thừa. Do đó, nó sẽ tự hủy hoại. Điều còn lại sẽ là Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô, Giáo Hội biết tin vào Thiên Chúa, Đấng đã trở thành con người và hứa cho chúng ta sự sống vượt trên sự chết. Loại linh mục không hơn một nhân viên xã hội có thể được thay thế bằng nhà trị liệu tâm lý và các chuyên gia khác; nhưng linh mục không phải là chuyên gia, không đứng bên lề, theo dõi trận đấu, đưa ra lời khuyên chính thức, nhưng nhân danh Thiên Chúa tự đặt mình để con người xử dụng, ở bên cạnh họ trong nỗi buồn của họ, trong niềm vui, niềm hy vọng và nỗi sợ hãi của họ, một linh mục như vậy chắc chắn sẽ cần đến trong tương lai.
“Chúng ta hãy bước một bước xa hơn. Từ cuộc khủng hoảng hôm nay, Giáo hội của ngày mai sẽ xuất hiện - một Giáo hội mất mát nhiều. Giáo Hội ấy sẽ trở nên nhỏ bé và ít nhiều sẽ phải bắt đầu lại từ đầu. Giáo Hội ấy sẽ không còn có thể sống trong nhiều dinh thự mà mình đã xây dựng trong thời kỳ thịnh vượng. Cùng với số lượng tín đồ của mình giảm dần, Giáo Hội ấy sẽ mất đi nhiều đặc quyền xã hội của mình. Ngược lại với thời đại trước đó, Giáo Hội ấy sẽ được coi là một xã hội tự nguyện, chỉ được tham gia bằng quyết định tự do. Là một xã hội nhỏ, Giáo Hội ấy sẽ đặt ra những yêu cầu lớn hơn nhiều cho sáng kiến của các thành viên cá thể của mình. Chắc chắn, nó sẽ khám phá ra những hình thức thừa tác vụ mới và sẽ phong chức linh mục cho những Kitô hữu được chấp thuận, những người theo đuổi một số nghề nghiệp. Trong những cộng đoàn nhỏ hơn hoặc trong các nhóm xã hội tự chủ, việc chăm sóc mục vụ thường sẽ được cung cấp theo cách này. Cùng với việc này, thừa tác vụ linh mục trọn thời gian vẫn sẽ không thể thiếu như trước đây. Nhưng trong tất cả những thay đổi mà người ta có thể đoán được, Giáo hội sẽ tìm được yếu tính của mình một cách mới mẻ và với niềm xác tín hoàn toàn vào điều luôn ở trung tâm của mình: đức tin vào Thiên Chúa ba ngôi, vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã làm người, với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần cho đến ngày tận thế. Trong đức tin và cầu nguyện, Giáo Hội sẽ lại nhìn nhận các bí tích như là việc thờ phượng Thiên Chúa chứ không phải là một chủ đề cho học thuật phụng vụ.
“Giáo hội sẽ là một Giáo hội tâm linh hơn, không đảm nhận một nhiệm vụ chính trị, không ve vãn cả Cánh tả lẫn Cánh hữu. Điều này sẽ rất khó khăn cho Giáo hội, vì quá trình kết tinh và làm sáng tỏ sẽ tốn phí rất nhiều năng lực quý giá của Giáo Hội. Nó sẽ khiến Giáo Hội trở nên nghèo nàn và khiến Giáo Hội trở thành Giáo hội của những người hiền lành. Diễn trình này sẽ càng khó khăn hơn, vì lòng hẹp hòi bè phái cũng như ý chí tự cao tự đại sẽ phải được trút bỏ. Người ta có thể dự đoán rằng tất cả những điều này cần phải nhiều thời gian. Diễn trình này sẽ kéo dài và mệt mỏi giống như con đường từ chủ nghĩa tiến bộ sai lầm trước Cách mạng Pháp - khi một giám mục có thể được cho là thông minh nếu ngài đùa cợt với các tín điều và thậm chí nói bóng nói gió rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa là điều không chắc chắn - đến sự đổi mới của thế kỷ XIX. Nhưng khi quá trình thử thách sàng lọc này qua đi, một sức mạnh to lớn sẽ đến từ một Giáo hội được tâm linh hóa và đơn giản hóa hơn. Trong một thế giới được lên kế hoạch hoàn toàn, con người sẽ thấy mình cô đơn không thể tả được. Nếu họ hoàn toàn không nhìn thấy Thiên Chúa, họ sẽ cảm thấy toàn bộ nỗi kinh hoàng trong sự nghèo nàn của họ. Rồi, họ sẽ khám phá ra một đoàn tín hữu nhỏ bé như một điều hoàn toàn mới mẻ. Họ sẽ khám phá ra nó như một niềm hy vọng được dành cho họ, một câu trả lời mà họ luôn tìm kiếm trong âm thầm.
“Và vì, đối với tôi, điều chắc là Giáo hội đang phải đối mặt với những thời kỳ rất khó khăn. Cuộc khủng hoảng thực sự mới chỉ bắt đầu. Chúng ta sẽ phải tính đến những biến động lớn. Nhưng tôi cũng tin chắc không kém về những gì sẽ còn lại sau cùng: không phải Giáo hội của giáo phái chính trị, nó đã chết rồi, mà là Giáo hội của đức tin. Giáo Hội này có thể không còn là quyền lực thống trị xã hội ở mức độ mà nó từng là cho đến gần đây; nhưng nó sẽ được hưởng một mùa nở hoa tươi tốt và được coi như căn nhà của con người, nơi họ sẽ tìm được sự sống và hy vọng vượt trên sự chết”.