Như chúng tôi đã đưa tin, lúc 19:30 ngày thứ Ba 14 tháng 9, Đức Thánh Cha đã quay lại Bratislava sau chuyến thăm Košice.
Lúc 10:00, sáng Thứ Tư ngày 15 tháng 09, Đức Thánh Cha đã cử hành thánh lễ tại Đền thánh Quốc gia Šaštin.
Trong Đền thờ Giêrusalem, Đức Maria dâng hài nhi Giêsu cho ông già Simêôn, là người đã ôm hài nhi vào lòng và nhìn nhận Ngài là Đấng Mêsia được sai đến để cứu rỗi dân Israel. Ở đây, chúng ta thấy Mẹ Maria thực sự là ai: Mẹ là người sinh ra Chúa Giêsu, con của Mẹ, cho chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta yêu mến và tôn kính Mẹ. Tại Đền thờ Quốc gia Šaštín này, người dân Slovak đã chạy đến với Mẹ với niềm tin và sự tôn sùng, vì họ biết rằng Mẹ mang đến cho chúng ta Chúa Giêsu. Biểu trưng của Hành trình Tông đồ này mô tả một con đường quanh co bên trong một trái tim có thập tự giá bên trên: Mẹ Maria là con đường dẫn chúng ta đến Trái Tim của Chúa Kitô, Đấng đã hiến mạng sống của mình vì tình yêu chúng ta.
Dưới ánh sáng của Tin Mừng vừa nghe, chúng ta có thể chiêm ngắm Đức Maria như một mẫu gương đức tin. Và chúng ta có thể phân biệt ba chiều kích của đức tin: đó là hành trình, tính tiên tri và lòng trắc ẩn.
Đầu tiên, đức tin của Đức Maria là một đức tin đưa Mẹ vào một cuộc hành trình. Người phụ nữ trẻ thành Nagiarét, sau khi nghe sứ thần truyền tin, đã “vội vã lên miền núi” (Lc 1:39) để thăm và giúp đỡ bà Êlisabét, chị họ của mình. Mẹ không coi việc được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế là một đặc ân; Mẹ đã không đánh mất niềm vui đơn sơ của lòng khiêm nhường sau khi được thiên thần viếng thăm; Mẹ không cứ mãi tiếp tục suy nghĩ về bản thân trong bốn bức tường của ngôi nhà mình. Đúng hơn, Mẹ đã cảm nghiệm ân sủng mà Mẹ đã nhận được như một sứ mệnh phải thực hiện; Mẹ cảm thấy bị thôi thúc phải mở cửa và đi ra ngoài; Mẹ hoàn toàn bị cuốn vào “sự vội vàng” của chính Thiên Chúa muốn tiếp cận tất cả mọi người với tình yêu cứu rỗi của Người. Đó là lý do tại sao Đức Maria bắt đầu cuộc hành trình của mình. Mẹ đã chọn những điều không thể biết của cuộc hành trình thay vì sự thoải mái của thói quen hàng ngày, Mẹ đã chọn sự mệt mỏi của chuyến đi thay vì sự yên bình và tĩnh lặng của gia đình; Mẹ đã chọn rủi ro của một đức tin làm cho cuộc sống của chúng ta trở thành một món quà yêu thương cho người khác thay vì một lòng mộ đạo an nhàn.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng trình bày Đức Maria khi lên đường: lần này là hướng về Giêrusalem, cùng với thánh Giuse, người bạn đời của mình, Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ. Phần còn lại của cuộc đời Mẹ sẽ là một cuộc hành trình theo bước chân của Con Mẹ, với tư cách là người đầu tiên trong số các môn đệ của Ngài, thậm chí đến đồi Canvê, đến chân thập giá. Đức Maria không bao giờ ngừng hành trình.
Đối với anh chị em, những người dân Slovakia, Đức Trinh Nữ là một mẫu mực của đức tin: một đức tin bao gồm hành trình, một đức tin được linh hứng từ lòng sùng kính đơn sơ và chân thành, cũng như một cuộc hành hương liên tục để tìm kiếm Chúa. Khi thực hiện cuộc hành trình này, anh chị em vượt qua cám dỗ hài lòng với một đức tin thụ động, bằng lòng với điều này, điều kia hoặc nghi lễ này, nghi lễ nọ, hoặc truyền thống cổ xưa. Thay vào đó, anh chị em bỏ mình lại phía sau và lên đường, mang theo trong ba lô những niềm vui và nỗi buồn của cuộc sống này, và do đó, làm cho cuộc đời anh chị em trở thành một cuộc hành hương trong tình yêu đối với Thiên Chúa và với anh chị em của mình. Cảm ơn anh chị em vì chứng tá này! Và xin hãy luôn kiên trì trên hành trình này! Đừng dừng lại! Và tôi muốn thêm một điều khác nữa. Tôi muốn nói: “Đừng dừng lại”, vì khi Giáo hội dừng lại, Giáo Hội sẽ trở nên ốm yếu. Khi các Giám mục dừng lại, họ làm cho Giáo hội bị bệnh. Khi các linh mục dừng lại, họ làm cho dân Chúa bị bệnh.
Đức tin của Đức Maria cũng có tính tiên tri. Bằng chính cuộc đời của mình, thiếu nữ thành Nagiarét là một dấu chỉ tiên tri về sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại, sự can thiệp nhân từ của Người làm xáo trộn logic thế giới, nâng cao kẻ hèn mọn và hạ gục kẻ quyền thế (x. Lc 1:52). Đức Maria là hiện thân của “người nghèo của Chúa”, người kêu cầu với Người và chờ đợi sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Mẹ là Con gái của Sion được các tiên tri của Israel công bố (xem Zeph 3: 14-18), là Trinh nữ đã thụ thai Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta (xem Is 7:14). Là Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria là biểu tượng cho ơn gọi của chính chúng ta, vì giống như Mẹ, chúng ta cũng được mời gọi nên thánh và không tỳ ố trong tình yêu (x. Ep 1: 4), theo hình ảnh của Chúa Kitô.
Truyền thống tiên tri của Israel đạt đến đỉnh cao nơi Đức Maria, vì Mẹ đã cưu mang trong cung lòng mình Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, Đấng mang đến hoa trái viên mãn và dứt khoát cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Nói về Chúa Giêsu, ông Simêon nói với Đức Maria rằng: “cháu bé này đã được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2:34).
Chúng ta đừng bao giờ quên điều này: niềm tin không thể bị giản lược thành chất gây ngọt để làm cho cuộc sống trở nên ngon miệng hơn. Chúa Giêsu là một dấu chỉ của sự chống báng. Ngài đến để mang ánh sáng xua tan bóng tối, phơi bày bản chất của bóng tối và buộc nó phải phục tùng Người. Vì lý do này, bóng tối luôn chiến đấu chống lại Ngài. Những ai tin nhận Chúa Kitô trong đời sống của mình sẽ sống lại; những người từ chối Ngài vẫn ở trong bóng tối, đến mức hư nát. Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng Người đến không phải để đem lại hòa bình nhưng mang lại một thanh gươm (x. Mt 10,34): quả thật, lời Người như gươm hai lưỡi đâm vào cuộc đời chúng ta, tách ánh sáng ra khỏi bóng tối và đòi hỏi một quyết định. Lời Ngài đòi hỏi chúng ta: “Hãy chọn lựa đi”: Đối với Chúa Giêsu, chúng ta không thể thờ ơ, chân trong chân ngoài; chúng ta không thể như thế. Khi tôi đón nhận Ngài, Ngài bộc lộ những mâu thuẫn của tôi, những thần tượng của tôi, những cám dỗ của tôi. Ngài trở thành sự sống lại của tôi, Đấng luôn nâng đỡ tôi khi tôi sa ngã, Đấng nắm lấy tay tôi và để tôi bắt đầu lại. Ngài là Đấng luôn nâng đỡ tôi.
Slovakia ngày nay cần những nhà tiên tri như vậy. Tôi kêu gọi chư huynh đệ, các Giám mục: hãy là những tiên tri đi theo con đường này. Điều này không liên quan gì đến sự thù địch đối với thế gian, mà là “dấu chỉ của sự mâu thuẫn” trong thế gian. Những Kitô Hữu có thể chứng minh vẻ đẹp của Phúc âm qua cách họ sống. Kitô Hữu là những người dệt nên cuộc đối thoại nơi mà sự thù địch ngày càng gia tăng; là các mẫu gương của cuộc sống huynh đệ khi xã hội đang trải qua căng thẳng và thù địch; là những người mang lại hương thơm ngọt ngào của lòng hiếu khách và sự đoàn kết, nơi mà sự ích kỷ cá nhân và tập thể thường chiếm ưu thế, là những người bảo vệ và gìn giữ sự sống nơi văn hóa cái chết ngự trị.
Mẹ Maria, Mẹ của cuộc hành trình, đã lên đường. Đức Maria cũng là Mẹ của lời tiên tri. Cuối cùng, Mẹ Maria là Mẹ của lòng nhân ái. Đức tin của Mẹ thật từ bi. Mẹ, là “nữ tì của Chúa” (x. Lc1, 38), với sự chăm sóc từ mẫu đã, bảo đảm rằng rượu trong tiệc cưới Cana sẽ dư đầy (x. Ga 2,1-12). Mẹ đã chia sẻ sứ mệnh cứu rỗi của Con Mẹ, cho đến dưới chân Thập tự giá. Tại đồi Canvê, trong nỗi đau thương khôn nguôi, Mẹ đã hiểu được lời tiên tri của ông Simêon: “Và một lưỡi gươm cũng sẽ đâm vào tâm hồn bà” (Lc 2, 35). Sự đau khổ của Người Con đang hấp hối của Mẹ, Đấng đã tự mình gánh lấy tội lỗi và những yếu đuối của nhân loại, đã đâm thủng trái tim của chính Mẹ. Chúa Giêsu chịu đau khổ về xác thịt, con người của nỗi buồn, bị biến dạng bởi sự dữ (x. Is 53: 3ff). Đức Maria đã chịu đựng trong tinh thần, như một người Mẹ nhân ái, người lau khô nước mắt của chúng ta, an ủi chúng ta và chỉ cho chúng ta thấy sự chiến thắng chung cuộc của Chúa Kitô.
Đức Maria, Đức Mẹ Sầu Bi, vẫn ở dưới chân thánh giá. Mẹ chỉ đơn giản là đứng đó. Mẹ không chạy trốn, hay cố gắng tự cứu mình, hay tìm cách giảm bớt sự đau buồn của mình. Đây là bằng chứng về lòng trắc ẩn thực sự: đó là luôn đứng bên dưới thập tự giá. Đứng đó khóc lóc, nhưng với đức tin vững chắc rằng, nơi Con của Mẹ, Thiên Chúa đã biến đổi đau thương và thống khổ và đã chiến thắng sự chết.
Khi chiêm ngắm Đức Mẹ Sầu Bi, xin cho chúng ta cũng biết mở rộng tâm hồn mình để đón nhận một đức tin trở thành lòng trắc ẩn, một đức tin đồng hóa với những người đang bị tổn thương, đau khổ và bị buộc phải mang thập giá nặng nề. Một đức tin không còn trừu tượng, nhưng trở nên nhập thể trong mối tương giao với những người đang quẫn bách. Một đức tin bắt chước cách làm việc của Thiên Chúa, lặng lẽ làm giảm bớt sự đau khổ của thế giới chúng ta và thấm đẫm mảnh đất lịch sử bằng ơn cứu rỗi.
Anh chị em thân mến, cầu xin Chúa luôn gìn giữ trong anh chị em sự ngạc nhiên và lòng biết ơn về ân sủng đức tin vĩ đại! Và cầu xin Mẹ Maria Chí Thánh cầu bầu cho anh chị em ân sủng của một đức tin luôn luôn lên đường, có tính tiên tri sâu sắc và giàu lòng trắc ẩn.
Lời kết của Đức Thánh Cha Phanxicô
Đã đến lúc tôi phải rời khỏi đất nước của anh chị em. Trong buổi cử hành Thánh Thể này, tôi tạ ơn Thiên Chúa đã cho phép tôi đến giữa anh chị em và kết thúc cuộc hành hương của tôi trong vòng tay nồng nhiệt của dân tộc anh chị em, cùng nhau cử hành một đại lễ vừa là một ngày lễ tôn giáo và vừa là một ngày quốc lễ trọng đại Bổn mạng của anh chị em, Đức Mẹ Đồng trinh Sầu Bi.
Thưa các Giám mục, tôi xin gửi đến các chư huynh đệ lời cảm ơn chân thành về tất cả sự chuẩn bị và sự chào đón của các anh em. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Tổng thống Cộng hòa và các cơ quan dân sự. Và tôi biết ơn tất cả những ai, cách này cách khác, đã hợp tác trong cuộc hành hương này, trên hết là lời cầu nguyện của họ.
Tôi mang anh chị em trong trái tim tôi. Ďakujem všetkým! [Cảm ơn tất cả!]
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana