Chương 3: Tầm quan trọng của thể thao đối với con người nhân bản
3.1 Thân xác, linh hồn, tinh thần
Dù các nghiên cứu lịch sử về thể thao thường mô tả thái độ Công Giáo đối với thân thể hoàn toàn tiêu cực, trên thực tế, truyền thống thần học và tâm linh Công Giáo vốn nhấn mạnh rằng thế giới vật chất (và mọi vật hiện hữu) đều tốt vì được tạo ra bởi Thiên Chúa và con người là một hợp nhất gồm thân xác, linh hồn và tinh thần. Thật vậy, các nhà thần học thời sơ khai và thời trung cổ dành phần lớn thời gian của họ để phê phán các nhóm Ngộ Đạo và Manicheans, chính là vì những nhóm này liên kết thế giới vật chất và thân xác con người với sự ác. Một trong những khiếu nại của các tác giả Kitô giáo là Các nhóm Ngộ Đạo và Manicheans không bao gồm các sách thánh Do Thái như một phần của sách thánh Kitô giáo, và do đó không chấp nhận trình thuật trong sách Sáng Thế vốn mô tả Thiên Chúa tạo dựng thế giới và con người và gọi mọi sự “rất tốt lành”. Trái lại, các nhóm này đã xây dựng các trình thuật có tính thần thoại khá phức tạp về nguồn gốc của thế giới vật chất, một trình thuật liên kết nó với 'sa ngã' hay “nguyên lý tà ác”.
Đó là lý do tại sao họ coi thế giới vật chất và chính thân thể con người như là đối kháng với những gì thực sự tâm linh. Năm 1979, Thánh Gioan Phaolô II nói với các vận động viên người Ý và Á Căn Đình về những tranh cãi này: “Thật đáng nhắc lại rằng trong các thế kỷ đầu tiên, các nhà tư tưởng Kitô giáo đã kiên quyết phản đối một số ý thức hệ, lúc đó hết sức thời thượng, có đặc tính hạ giá thế giới vật lý một cách rõ ràng, nhân danh việc đề cao tinh thần một cách sai lầm. Ngược lại, dựa trên cơ sở dữ kiện Thánh Kinh, họ đã khẳng định một cách mạnh mẽ một cái nhìn thống nhất về con người” [26].
Quan điểm thống nhất về con người này vốn được phát biểu trong Thánh Kinh và bởi các nhà thần học hoặc như một sự hợp nhất của thân xác, linh hồn và tinh thần hay thân xác và linh hồn. Cách hiểu này về sự hợp nhất của con người nhân bản là kết quả hợp luận lý đối với việc định hình thái độ Kitô giáo đối với thể thao. Theo Đức Gioan Phaolô II, Giáo hội coi trọng thể thao vì Giáo Hội đánh giá cao “mọi điều góp phần vào sự phát triển hài hòa và hoàn chỉnh của con người, có thân xác và linh hồn. Do đó, Giáo Hội khuyến khích những gì nhằm mục đích giáo dục, phát triển và tăng cường thân thể con người, để nó có thể phục vụ tốt hơn cho việc đạt được sự trưởng thành bản thân” [27].
Cái hiểu về sự thống nhất của con người cũng là nền tảng cho sự nhấn mạnh trong giáo huấn của Giáo Hội rằng có một chiều kích tâm linh cho thể thao. Thật vậy, Đức Gioan Phaolô II mô tả thể thao là “một hình thức thể dục thân thể và tinh thần” [28]. Như ngài đã nói: “Hoạt động thể dục thể thao, trên thực tế, không chỉ làm nổi bật các khả năng thể chất có giá trị của con người mà thôi, mà còn là các khả năng tri thức và tâm linh của họ nữa. Nó không chỉ là sức mạnh thể lý và hiệu năng cơ bắp, mà còn có một linh hồn và phải biểu lộ trọn khuôn mặt hoàn chỉnh của nó nữa” [29].
3.2 Tự do, quy tắc, tính sáng tạo và sự hợp tác
Tự do, một hồng phúc Thiên Chúa ban cho chúng ta, cho thấy sự vĩ đại của bản chất con người. Được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, con người nam nữ được kêu gọi tham dự vào sự sáng tạo của Thiên Chúa. Nhưng tự do đi kèm với trách nhiệm, vì các lựa chọn tự do được thực hiện bởi mọi con người đều tác động đến các mối tương quan của họ, đến cộng đồng, và trong một số trường hợp, trọn cả sáng thế .
Ngày nay, nhiều người tin rằng tự do là làm những gì người ta muốn, vô giới hạn. Một quan điểm như vậy tách đôi tự do và trách nhiệm và thậm chí có thể loại bỏ sự quan tâm đến các hậu quả của hành vi nhân bản. Tuy nhiên, thể thao nhắc nhở chúng ta rằng tự do thực sự cũng phải có trách nhiệm.
Ngày nay, kỹ thuật cho phép con người ở nhiều nơi trên thế giới có thể xử lý nhiều thứ dễ dàng một cách đáng ngạc nhiên. Trong bối cảnh này, người ta dễ dàng không nhận ra sự cần thiết phải nỗ lực và hy sinh mới đạt được các mục đích của mình. Nhưng trong thể thao, bất cứ ai không phát triển các đức tính này cũng không kiên trì trong việc thực hành thể thao và do đó sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu đề xuất nào. Ở đây, cái hiểu Kitô giáo về tự do áp dụng cho thể thao ở điểm này: tự do cho phép con người thực hiện các lựa chọn và hy sinh thích đáng ngay cả khi họ buộc phải đi qua “cửa hẹp” [30].
Hơn nữa, trong nền “văn hóa vứt bỏ” mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nhắc nhở chúng ta, những cam kết lâu dài thường làm chúng ta sợ hãi. Thể thao giúp chúng ta trong phương diện này bằng cách dạy rằng chấp nhận các thách đố lâu dài là điều đáng giá. Việc huấn luyện và các nỗ lực kiên trì để cải thiện là điều đáng giá, vì các điều thiện cao quí nhất chỉ có thể đạt được khi người ta tìm kiếm chúng mà không xa tránh các bất trắc và thách đố đi kèm với các trách nhiệm đa dạng. Ngoài ra, khắc phục các khó khăn như chấn thương và chống lại những cám dỗ lừa đảo trong trò chơi giúp tăng cường tính cách của một con người qua sự kiên trì và tự chủ.
Phương châm của Ủy ban Thế Vận Quốc tế, citius, altius, fortius (nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn) [31] gợi lên lý tưởng kiên trì này. Theo một nghĩa nào đó, đời sống Kitô giáo giống như một cuộc chạy đua đường trường (marathon) hơn là chạy nước rút (sprint). Có nhiều giai đoạn, một số giai đoạn này rất khó khắc phục.
Thế nhưng, tại sao người ta lại chạy cuộc đua đường trường? Hẳn họ thích tận hưởng thách đố đến một mức nào đó. Đạt cho được sự cải thiện từng bước, từng dặm, gợi lên một cảm thức thỏa mãn mang lại niềm vui cho cuộc thách đố. Thánh Grêgôriô thành Nazianzus và các Giáo Phụ khác nghĩ tới đời sống Kitô giáo giống như một trò chơi. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đã nói về nó theo các ngôn từ này, nối kết thể loại chơi với niềm vui Kitô giáo [32].
Mỗi người hiến tặng những tài năng họ nhận được trong thực tại hàng ngày của cuộc sống họ, có thể bao gồm cả thể thao. Coi trọng các quy tắc và quy định của mỗi môn thể thao cùng với các chiến lược trò chơi do các huấn luyện viên xác định, mỗi vận động viên phát triển bản thân khi họ, bằng tự do và óc sáng tạo, nỗ lực đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong các thông số đã được thiết lập. Bằng cách này, các môn thể thao làm chứng cho công lý ở điểm chúng đòi phải vâng theo các quy tắc. Và để bảo đảm công lý như vậy, có những trọng tài, thẩm phán và thanh tra viên, và trong những năm gần đây, trợ cụ kỹ thuật. Không có các quy tắc, ý nghĩa của trò chơi và cuộc thi sẽ không còn. Trong bóng đá, chẳng hạn, nếu quả bóng không hoàn toàn vượt đường khung thành, thì không phải là cú thắng vào khung thành. Chỉ một milimet nhỏ cũng tạo nên sự khác biệt to lớn. Theo một cách nào đó, quy tắc đó giúp chúng ta hiểu rằng công lý không phải là một điều chỉ đơn thuần có tính chủ quan mà nó có một chiều kích khách quan, trong cả các hình thức trò chơi.
Trái ngược với những gì người ta có thể nghĩ, trong thể thao, các quy tắc không giới hạn óc sáng tạo của con người nhưng khuyến khích nó. Để đạt được mục tiêu của mình trong các tiêu chuẩn đã thiết lập, vận động viên phải rất sáng tạo. Họ phải tìm cách gây bất ngờ cho đối thủ cạnh tranh bằng một thủ thuật hoặc chiến thuật mới hoặc bất ngờ. Vì lý do này, các vận động viên sáng tạo được đánh giá cao.
Một điều tương tự xảy ra với tự do. Các quy tắc được thiết lập, mà tự chúng vốn là kết quả của óc sáng tạo nơi những người sáng lập ra từng môn thể thao, trở thành khách quan xét về mặt tuân thủ chúng. Tính khách quan này không làm mất đi tính chủ quan của vận động viên mà là giúp họ khai triển nó một cách tự do khi họ luyện tập môn thể thao của mình. Các quy tắc thì rõ ràng và được xác định, nhưng tuân giữ chúng làm cho vận động viên tự do hơn và sáng tạo hơn.
Con người tạo ra các quy tắc, và rồi đồng thuận chấp nhận các quy tắc cấu thành các môn thể thao khác nhau. Và những quy tắc này đặt thể thao ra ngoài các hoạt động khác của cuộc sống hàng ngày. Các học giả đã ghi nhận điều này: một trong những đặc điểm của các quy tắc cấu thành thể thao là chúng có một luận lý học nhưng không (gratuitous logic). Như đã đề cập trong chương trước, mọi môn thể thao đều có các mục tiêu của nó. Trong môn chơi cù (golf), chẳng hạn, mục tiêu là đưa bóng vào lỗ với con số ít nhất các cú đánh có thể có trên mười tám lỗ. Tuy nhiên, các quy tắc của sân cù cấm cách hữu hiệu nhất để thực hiện việc này, chẳng hạn như đi lên và thả bóng vào mỗi lỗ. Chúng nhưng không đưa ra các thách thức và trở ngại khiến việc đạt mục tiêu trở nên khó khăn hơn. Mỗi cầu thủ môn cù phải sử dụng một chiếc gậy chơi cù, khởi đi từ một khoảng cách được chỉ định cách xa mỗi lỗ, và tránh các ao và bẫy cát. Những người tham gia đồng thuận các quy tắc cấu thành môn cù vì họ thích tham gia trò chơi và cố gắng vượt qua các thách thức mà nó đưa ra. Điểm quan trọng của suy tư này là các môn thể thao của chúng ta không bắt buộc phải hiện hữu; chúng ta tạo ra chúng và chúng ta tự do tham gia vào chúng bởi vì chúng ta thích làm như vậy. Theo nghĩa này, các môn thể thao nằm trong lãnh vực nhưng không.
Như thế, thể thao dựa trên khởi điểm hợp tác và đồng thuận về các quy tắc cấu thành. Cũng có nhiều cách mà người tham gia cần hợp tác chỉ để làm một biến cố thể thao khả hữu. Thật vậy, sự hợp tác đi trước và là căn bản để thi đua. Theo nghĩa này, động lực của thể thao trái ngược với chiến tranh, là thứ diễn ra khi người ta tin rằng sự hợp tác không còn khả hữu nữa và khi thiếu sự đồng thuận về các quy tắc căn bản. Trong các môn thể thao, người thi đua tham gia vào một cuộc thi đua có quy tắc, chứ không chống lại một kẻ thù mà ta phải tận diệt. Thật vậy, chính đối thủ của họ đã rút ra được điều tốt nhất nơi một vận động viên, và do đó, trải nghiệm này có thể rất thú vị và hấp dẫn. Chữ thi đua ám chỉ trải nghiệm này, vì chữ này xuất phát từ hai gốc La Tinh “com” - với –và “petere” - phấn đấu hoặc tìm kiếm -. Các người thi đua đang "cùng nhau phấn đấu hoặc tìm kiếm" sự xuất sắc. Nhiều điển hình các vận động viên bắt tay và ôm hôn hoặc thậm chí đi lại làm quen hoặc chia sẻ một bữa ăn sau một cuộc thi kịch liệt đã dạy chúng ta rất nhiều về khía cạnh này.
Vì vậy, chúng ta thấy việc thực hành thể thao giúp con người phát triển như thế nào vì họ trở nên có khả năng tạo ra một môi trường biết kết hợp tự do và trách nhiệm, óc sáng tạo và việc tôn trọng các quy tắc, việc giải trí và sự nghiêm túc. Môi trường này có được là nhờ sự hợp tác và đồng hành với nhau trong việc phát triển tài năng và cá tính cá nhân.
Chơi đẹp
Trong những thập niên gần đây, đã có sự nhận thức ngày càng tăng về nhu cầu chơi đẹp trong thể thao, tức là trò chơi phải trong sạch. Các vận động viên tôn trọng việc chơi đẹp khi họ không những tuân thủ các quy tắc chính thức mà còn giữ công bằng đối với đối thủ của họ để mọi người thi đua có thể tự do tham gia trò chơi. Tuân thủ các quy tắc của trò chơi để tránh bị khiển trách bởi trọng tài hoặc chính thức bị loại vì vi phạm quy tắc là một điều. Nhưng điều khác là phải chú ý và tôn trọng đối thủ và quyền tự do của họ bất kể bất cứ lợi điểm về quy tắc nào. Làm như vậy bao gồm việc không sử dụng các chiến lược giấu giếm, chẳng hạn như dùng chất kích thích, có lợi thế bất hợp pháp so với đối thủ thi đua. Hoạt động thể thao “phải là một dịp không thể tránh để thực hành các nhân đức nhân bản và Kitô giáo về tình liên đới, lòng trung thành, tác phong tốt và biết tôn trọng người khác, những người phải được xem là những người thi đua chứ không phải chỉ là đối thủ hay địch thủ” [33]. Bằng cách này, các môn thể thao có thể đặt ra các mục tiêu cao hơn chiến thắng, hướng tới việc phát triển con người nhân bản trong một cộng đồng gồm các đồng đội và những người thi đua.
Chơi đẹp cho phép các môn thể thao trở thành phương tiện giáo dục cho tất cả xã hội, về các giá trị và đức hạnh tìm thấy trong thể thao, chẳng hạn như kiên trì, công bằng và lịch sự, ấy là chỉ mới nêu tên một vài điều mà Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI vốn nhấn mạnh.
“Các vận động viên thân yêu, các bạn gánh vác trách nhiệm - không kém phần quan trọng – là làm chứng cho các thái độ và niềm xác tín và, thể hiện chúng, vượt quá hoạt động thể thao, trong cơ cấu gia đình, văn hóa và tôn giáo. Khi làm như vậy, các bạn sẽ giúp đỡ người khác rất nhiều, đặc biệt là thanh thiếu niên, những người đang sống trong một xã hội đang phát triển nhanh chóng, nơi đang đánh mất nhiều giá trị và càng ngày càng mất phương hướng” [34].
Theo chiều hướng này, các vận động viên có sứ mệnh trở thành “các nhà giáo dục, vì thể thao có thể đào luyện một cách hữu hiệu nhiều giá trị cao hơn, như lòng trung thành, tình bạn và tinh thần đồng đội” [35].
3.3 Chủ nghĩa cá nhân và nhóm
Một điều rất đặc trưng của thế giới thể thao là mối tương quan hài hòa giữa cá nhân và toàn đội. Trong các môn thể thao đồng đội, như bóng đá, bóng bầu dục, bóng chuyền và bóng rổ và nhiều môn khác, thực tại đó được nhìn thấy rất rõ. Nhưng ngay trong các môn thể thao cá nhân như quần vợt hay bơi lội, luôn có một số hình thức làm việc theo nhóm nào đó.
Ngày nay chúng ta có thể thấy nhiều biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Xem ra các mục tiêu cá nhân đôi khi chiếm ưu thế hơn ích chung. Thể thao là một trường học làm việc theo nhóm giúp chúng ta vượt qua sự ích kỷ. Trong đó tính cá nhân của mỗi người chơi có liên quan đến nhóm đội cùng nhau làm việc để đạt được mục tiêu chung.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, khi nói chuyện với những người trẻ tại lễ kỷ niệm lần thứ 70 của Trung tâm thể thao Ý, nói rằng: “Tôi cũng hy vọng các bạn có thể thưởng thức vẻ đẹp của tinh thần đồng đội, một điều rất quan trọng trong cuộc sống. Đừng có chủ nghĩa cá nhân! Đừng chơi cho riêng mình. Ở quê hương của tôi, khi một người chơi làm như thế, chúng tôi nói: 'Anh chàng này muốn tự mình nghiến hết quả bóng!' Không, đó là chủ nghĩa cá nhân: không nghiến trái bóng, hãy là những cầu thủ của toàn đội. Thuộc về một câu lạc bộ thể thao có nghĩa là bác bỏ mọi hình thức ích kỉ và cô lập, đây là một cơ hội để gặp gỡ và sống bên người khác, giúp đỡ lẫn nhau, thi đua trong lòng quí mến hỗ tương và phát triển trong tình huynh đệ”[36].
Mỗi thành viên đều độc đáo và đóng góp một cách đặc biệt cho toàn đội. Các cá nhân không mất hút trong toàn bộ, vì họ được trân qúi trong tính đặc thù của họ. Tất cả đều có một tầm quan trọng độc đáo làm cho đội mạnh hơn. Một đội ngũ tuyệt vời luôn được tạo thành từ những cá nhân tuyệt vời không chơi một mình mà cùng chơi với nhau.
Thí dụ, một đội bóng có thể được tạo thành từ những tiền vệ xuất sắc nhất thế giới, nhưng nó sẽ không phải là một đội tuyệt vời nếu không có thủ môn, hậu vệ, tiền đạo và thậm chí là một huấn luyện viên giỏi, chuyên gia vật lý trị liệu, v.v. Trong thể thao, thiên phú và tài năng của từng cá nhân nói riêng được xếp đặt để phục vụ cả đội.
3.4 Hy sinh
Người tham gia thể thao rất quen thuộc với khái niệm hy sinh. Bất kể trình độ chuyên môn hay loại hoạt động liên quan, tập chú vào đội hay cá nhân, vận động viên phải khép mình vào kỷ luật và tập chú vào nhiệm vụ hiện hữu nếu họ muốn học và thu lượm được kỹ năng cần thiết. Đạt được điều này thường có nghĩa là người đó phải theo một chương trình thường xuyên và có cấu trúc. Điều này được thực hiện tốt nhất khi người tham gia thể thao chấp nhận điều này: họ sẽ phải dấn thân vào một con đường bao gồm một mức độ gian khổ, từ bỏ mình và khiêm nhường nào đó. Sở dĩ như thế vì việc học tập và biểu diễn một môn thể thao luôn bao gồm việc có thể gặp gỡ với thất bại, ngã lòng và thách thức. Các vận động viên chuyên nghiệp thường sẽ trải nghiệm những thách thức tâm lý, thể lý và tinh thần như là một phần sự nghiệp của họ trong thể thao; thậm chí điều còn gây ấn tượng hơn nữa là những người tham gia thể thao cấp thấp và không chuyên nghiệp cũng sẵn sàng khép mình vào những đòi hỏi này, mặc dù với cường độ thấp hơn nhiều, để trở nên tốt hơn trong điều họ yêu thích [37].
Người tham gia để giải trí chịu huấn luyện để dự cuộc thi nửa đường trường (marathon) vì từ thiện, người chơi cù có chấp (handicap) cao cố gắng tập một cú đánh tốt hơn, hoặc cầu thủ bóng đá cố gắng ghi bàn thắng nhiều hơn cho đội, đều nhờ các trải nghiệm sống này của họ mà hiểu được rằng những hy sinh nhỏ này có ý nghĩa nhờ được thực hiện vì lòng yêu thích thể thao. Mặc dù ngỏ lời với các vận động viên thế vận, Thánh Gioan Phaolô II có điều sau đây để nói về giá trị của sự hy sinh trong thể thao với tất cả các vận động viên, bất kể trình độ của họ: “Tại Thế vận hội gần đây ở Sydney, chúng ta đã ngưỡng mộ những kỳ tích của các vận động viên vĩ đại, những người đã tự hy sinh nhiều năm, ngày qua ngày, để đạt được những thành quả đó. Đây là luận lý học của thể thao, đặc biệt là các môn thể thao thế vận; nó cũng là luận lý học của cuộc sống: không có các hy sinh, các thành quả quan trọng không có được, hoặc thậm chí không có sự hài lòng chân chính”[38].
Những lần gặp hy sinh trong thể thao đó có thể giúp các vận động viên đào tạo cá tính của họ một cách đặc thù. Họ có thể phát triển các nhân đức can đảm và khiêm nhường, kiên trì và dũng cảm. Kinh nghiệm chung của sự hy sinh trong thể thao cũng có thể giúp các tín hữu hiểu đầy đủ hơn ơn gọi của họ trong tư cách con cái của Thiên Chúa. Duy trì một cuộc sống cầu nguyện, một cuộc sống bí tích phong phú, và làm việc vì ích chung, thường đi kèm với nhiều trở ngại và khó khăn. Chúng ta cố gắng vượt qua các thách thức này bằng sự kiên trì kiên định và tự khép mình vào kỷ luật của chúng ta, và với ơn thánh tuôn chảy từ Thiên Chúa. "Kỷ luật nghiêm ngặt và việc tự chủ, sự khôn ngoan, tinh thần hy sinh và cống hiến", theo Thánh Gioan Phaolô II, đại diện cho các phẩm tính tinh thần, tâm lý và thể lý đã được thử nghiệm trong nhiều môn thể thao. Các đòi hỏi và thách thức về tinh thần và thể chất của thể thao có thể giúp tăng cường tinh thần và việc tự ý thức về mình của người ta. Việc Công Giáo đánh giá cao giá trị nhân học của thể thao và sự hy sinh đã dựa trên cơ sở sinh hoạt hàng ngày của mọi người chơi. Qua kinh nghiệm sống của mình, họ biết rằng sự hy sinh và đau khổ có một bản chất đầy tiềm năng biến đổi.
Như thế, hy sinh là một thuật ngữ quen thuộc và được sử dụng nhiều trong thế giới thực của thể thao. Giáo hội cũng sử dụng thuật ngữ này một cách rất trực tiếp, thường xuyên và chuyên biệt. Giáo Hội biết rằng tình yêu Thiên Chúa và người lân cận của chúng ta thường đi kèm một giá đắt mà chúng ta phải trả. Nhiệm vụ của chúng ta trong tư cách Kitô hữu là chấp nhận các hy sinh và đau khổ mà chúng ta đang chịu đựng, bất kể lớn hay nhỏ, và được nâng đỡ bởi ơn thánh của Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta, phấn đấu cho vương quốc ở đây trên trái đất và trên thế giới. Với điều này trong tâm trí, ta sẽ dễ hiểu hơn điều Thánh Phaolô nghĩ tới khi ngài yêu cầu chúng ta sẵn sàng để 'đấu trận đấu tốt' (Tm 6:12). Tất cả những hy sinh cao qúi mà chúng ta thực hiện đều quan trọng trong đời sống Kitô hữu, cả khi chúng diễn ra trong các hoạt động nhân bản bề ngoài không đáng kể như thể thao.
Kỳ sau: Chương ba (tiếp theo): 3.5 Niềm Vui
3.1 Thân xác, linh hồn, tinh thần
Dù các nghiên cứu lịch sử về thể thao thường mô tả thái độ Công Giáo đối với thân thể hoàn toàn tiêu cực, trên thực tế, truyền thống thần học và tâm linh Công Giáo vốn nhấn mạnh rằng thế giới vật chất (và mọi vật hiện hữu) đều tốt vì được tạo ra bởi Thiên Chúa và con người là một hợp nhất gồm thân xác, linh hồn và tinh thần. Thật vậy, các nhà thần học thời sơ khai và thời trung cổ dành phần lớn thời gian của họ để phê phán các nhóm Ngộ Đạo và Manicheans, chính là vì những nhóm này liên kết thế giới vật chất và thân xác con người với sự ác. Một trong những khiếu nại của các tác giả Kitô giáo là Các nhóm Ngộ Đạo và Manicheans không bao gồm các sách thánh Do Thái như một phần của sách thánh Kitô giáo, và do đó không chấp nhận trình thuật trong sách Sáng Thế vốn mô tả Thiên Chúa tạo dựng thế giới và con người và gọi mọi sự “rất tốt lành”. Trái lại, các nhóm này đã xây dựng các trình thuật có tính thần thoại khá phức tạp về nguồn gốc của thế giới vật chất, một trình thuật liên kết nó với 'sa ngã' hay “nguyên lý tà ác”.
Đó là lý do tại sao họ coi thế giới vật chất và chính thân thể con người như là đối kháng với những gì thực sự tâm linh. Năm 1979, Thánh Gioan Phaolô II nói với các vận động viên người Ý và Á Căn Đình về những tranh cãi này: “Thật đáng nhắc lại rằng trong các thế kỷ đầu tiên, các nhà tư tưởng Kitô giáo đã kiên quyết phản đối một số ý thức hệ, lúc đó hết sức thời thượng, có đặc tính hạ giá thế giới vật lý một cách rõ ràng, nhân danh việc đề cao tinh thần một cách sai lầm. Ngược lại, dựa trên cơ sở dữ kiện Thánh Kinh, họ đã khẳng định một cách mạnh mẽ một cái nhìn thống nhất về con người” [26].
Quan điểm thống nhất về con người này vốn được phát biểu trong Thánh Kinh và bởi các nhà thần học hoặc như một sự hợp nhất của thân xác, linh hồn và tinh thần hay thân xác và linh hồn. Cách hiểu này về sự hợp nhất của con người nhân bản là kết quả hợp luận lý đối với việc định hình thái độ Kitô giáo đối với thể thao. Theo Đức Gioan Phaolô II, Giáo hội coi trọng thể thao vì Giáo Hội đánh giá cao “mọi điều góp phần vào sự phát triển hài hòa và hoàn chỉnh của con người, có thân xác và linh hồn. Do đó, Giáo Hội khuyến khích những gì nhằm mục đích giáo dục, phát triển và tăng cường thân thể con người, để nó có thể phục vụ tốt hơn cho việc đạt được sự trưởng thành bản thân” [27].
Cái hiểu về sự thống nhất của con người cũng là nền tảng cho sự nhấn mạnh trong giáo huấn của Giáo Hội rằng có một chiều kích tâm linh cho thể thao. Thật vậy, Đức Gioan Phaolô II mô tả thể thao là “một hình thức thể dục thân thể và tinh thần” [28]. Như ngài đã nói: “Hoạt động thể dục thể thao, trên thực tế, không chỉ làm nổi bật các khả năng thể chất có giá trị của con người mà thôi, mà còn là các khả năng tri thức và tâm linh của họ nữa. Nó không chỉ là sức mạnh thể lý và hiệu năng cơ bắp, mà còn có một linh hồn và phải biểu lộ trọn khuôn mặt hoàn chỉnh của nó nữa” [29].
3.2 Tự do, quy tắc, tính sáng tạo và sự hợp tác
Tự do, một hồng phúc Thiên Chúa ban cho chúng ta, cho thấy sự vĩ đại của bản chất con người. Được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, con người nam nữ được kêu gọi tham dự vào sự sáng tạo của Thiên Chúa. Nhưng tự do đi kèm với trách nhiệm, vì các lựa chọn tự do được thực hiện bởi mọi con người đều tác động đến các mối tương quan của họ, đến cộng đồng, và trong một số trường hợp, trọn cả sáng thế .
Ngày nay, nhiều người tin rằng tự do là làm những gì người ta muốn, vô giới hạn. Một quan điểm như vậy tách đôi tự do và trách nhiệm và thậm chí có thể loại bỏ sự quan tâm đến các hậu quả của hành vi nhân bản. Tuy nhiên, thể thao nhắc nhở chúng ta rằng tự do thực sự cũng phải có trách nhiệm.
Ngày nay, kỹ thuật cho phép con người ở nhiều nơi trên thế giới có thể xử lý nhiều thứ dễ dàng một cách đáng ngạc nhiên. Trong bối cảnh này, người ta dễ dàng không nhận ra sự cần thiết phải nỗ lực và hy sinh mới đạt được các mục đích của mình. Nhưng trong thể thao, bất cứ ai không phát triển các đức tính này cũng không kiên trì trong việc thực hành thể thao và do đó sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu đề xuất nào. Ở đây, cái hiểu Kitô giáo về tự do áp dụng cho thể thao ở điểm này: tự do cho phép con người thực hiện các lựa chọn và hy sinh thích đáng ngay cả khi họ buộc phải đi qua “cửa hẹp” [30].
Hơn nữa, trong nền “văn hóa vứt bỏ” mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nhắc nhở chúng ta, những cam kết lâu dài thường làm chúng ta sợ hãi. Thể thao giúp chúng ta trong phương diện này bằng cách dạy rằng chấp nhận các thách đố lâu dài là điều đáng giá. Việc huấn luyện và các nỗ lực kiên trì để cải thiện là điều đáng giá, vì các điều thiện cao quí nhất chỉ có thể đạt được khi người ta tìm kiếm chúng mà không xa tránh các bất trắc và thách đố đi kèm với các trách nhiệm đa dạng. Ngoài ra, khắc phục các khó khăn như chấn thương và chống lại những cám dỗ lừa đảo trong trò chơi giúp tăng cường tính cách của một con người qua sự kiên trì và tự chủ.
Phương châm của Ủy ban Thế Vận Quốc tế, citius, altius, fortius (nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn) [31] gợi lên lý tưởng kiên trì này. Theo một nghĩa nào đó, đời sống Kitô giáo giống như một cuộc chạy đua đường trường (marathon) hơn là chạy nước rút (sprint). Có nhiều giai đoạn, một số giai đoạn này rất khó khắc phục.
Thế nhưng, tại sao người ta lại chạy cuộc đua đường trường? Hẳn họ thích tận hưởng thách đố đến một mức nào đó. Đạt cho được sự cải thiện từng bước, từng dặm, gợi lên một cảm thức thỏa mãn mang lại niềm vui cho cuộc thách đố. Thánh Grêgôriô thành Nazianzus và các Giáo Phụ khác nghĩ tới đời sống Kitô giáo giống như một trò chơi. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đã nói về nó theo các ngôn từ này, nối kết thể loại chơi với niềm vui Kitô giáo [32].
Mỗi người hiến tặng những tài năng họ nhận được trong thực tại hàng ngày của cuộc sống họ, có thể bao gồm cả thể thao. Coi trọng các quy tắc và quy định của mỗi môn thể thao cùng với các chiến lược trò chơi do các huấn luyện viên xác định, mỗi vận động viên phát triển bản thân khi họ, bằng tự do và óc sáng tạo, nỗ lực đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong các thông số đã được thiết lập. Bằng cách này, các môn thể thao làm chứng cho công lý ở điểm chúng đòi phải vâng theo các quy tắc. Và để bảo đảm công lý như vậy, có những trọng tài, thẩm phán và thanh tra viên, và trong những năm gần đây, trợ cụ kỹ thuật. Không có các quy tắc, ý nghĩa của trò chơi và cuộc thi sẽ không còn. Trong bóng đá, chẳng hạn, nếu quả bóng không hoàn toàn vượt đường khung thành, thì không phải là cú thắng vào khung thành. Chỉ một milimet nhỏ cũng tạo nên sự khác biệt to lớn. Theo một cách nào đó, quy tắc đó giúp chúng ta hiểu rằng công lý không phải là một điều chỉ đơn thuần có tính chủ quan mà nó có một chiều kích khách quan, trong cả các hình thức trò chơi.
Trái ngược với những gì người ta có thể nghĩ, trong thể thao, các quy tắc không giới hạn óc sáng tạo của con người nhưng khuyến khích nó. Để đạt được mục tiêu của mình trong các tiêu chuẩn đã thiết lập, vận động viên phải rất sáng tạo. Họ phải tìm cách gây bất ngờ cho đối thủ cạnh tranh bằng một thủ thuật hoặc chiến thuật mới hoặc bất ngờ. Vì lý do này, các vận động viên sáng tạo được đánh giá cao.
Một điều tương tự xảy ra với tự do. Các quy tắc được thiết lập, mà tự chúng vốn là kết quả của óc sáng tạo nơi những người sáng lập ra từng môn thể thao, trở thành khách quan xét về mặt tuân thủ chúng. Tính khách quan này không làm mất đi tính chủ quan của vận động viên mà là giúp họ khai triển nó một cách tự do khi họ luyện tập môn thể thao của mình. Các quy tắc thì rõ ràng và được xác định, nhưng tuân giữ chúng làm cho vận động viên tự do hơn và sáng tạo hơn.
Con người tạo ra các quy tắc, và rồi đồng thuận chấp nhận các quy tắc cấu thành các môn thể thao khác nhau. Và những quy tắc này đặt thể thao ra ngoài các hoạt động khác của cuộc sống hàng ngày. Các học giả đã ghi nhận điều này: một trong những đặc điểm của các quy tắc cấu thành thể thao là chúng có một luận lý học nhưng không (gratuitous logic). Như đã đề cập trong chương trước, mọi môn thể thao đều có các mục tiêu của nó. Trong môn chơi cù (golf), chẳng hạn, mục tiêu là đưa bóng vào lỗ với con số ít nhất các cú đánh có thể có trên mười tám lỗ. Tuy nhiên, các quy tắc của sân cù cấm cách hữu hiệu nhất để thực hiện việc này, chẳng hạn như đi lên và thả bóng vào mỗi lỗ. Chúng nhưng không đưa ra các thách thức và trở ngại khiến việc đạt mục tiêu trở nên khó khăn hơn. Mỗi cầu thủ môn cù phải sử dụng một chiếc gậy chơi cù, khởi đi từ một khoảng cách được chỉ định cách xa mỗi lỗ, và tránh các ao và bẫy cát. Những người tham gia đồng thuận các quy tắc cấu thành môn cù vì họ thích tham gia trò chơi và cố gắng vượt qua các thách thức mà nó đưa ra. Điểm quan trọng của suy tư này là các môn thể thao của chúng ta không bắt buộc phải hiện hữu; chúng ta tạo ra chúng và chúng ta tự do tham gia vào chúng bởi vì chúng ta thích làm như vậy. Theo nghĩa này, các môn thể thao nằm trong lãnh vực nhưng không.
Như thế, thể thao dựa trên khởi điểm hợp tác và đồng thuận về các quy tắc cấu thành. Cũng có nhiều cách mà người tham gia cần hợp tác chỉ để làm một biến cố thể thao khả hữu. Thật vậy, sự hợp tác đi trước và là căn bản để thi đua. Theo nghĩa này, động lực của thể thao trái ngược với chiến tranh, là thứ diễn ra khi người ta tin rằng sự hợp tác không còn khả hữu nữa và khi thiếu sự đồng thuận về các quy tắc căn bản. Trong các môn thể thao, người thi đua tham gia vào một cuộc thi đua có quy tắc, chứ không chống lại một kẻ thù mà ta phải tận diệt. Thật vậy, chính đối thủ của họ đã rút ra được điều tốt nhất nơi một vận động viên, và do đó, trải nghiệm này có thể rất thú vị và hấp dẫn. Chữ thi đua ám chỉ trải nghiệm này, vì chữ này xuất phát từ hai gốc La Tinh “com” - với –và “petere” - phấn đấu hoặc tìm kiếm -. Các người thi đua đang "cùng nhau phấn đấu hoặc tìm kiếm" sự xuất sắc. Nhiều điển hình các vận động viên bắt tay và ôm hôn hoặc thậm chí đi lại làm quen hoặc chia sẻ một bữa ăn sau một cuộc thi kịch liệt đã dạy chúng ta rất nhiều về khía cạnh này.
Vì vậy, chúng ta thấy việc thực hành thể thao giúp con người phát triển như thế nào vì họ trở nên có khả năng tạo ra một môi trường biết kết hợp tự do và trách nhiệm, óc sáng tạo và việc tôn trọng các quy tắc, việc giải trí và sự nghiêm túc. Môi trường này có được là nhờ sự hợp tác và đồng hành với nhau trong việc phát triển tài năng và cá tính cá nhân.
Chơi đẹp
Trong những thập niên gần đây, đã có sự nhận thức ngày càng tăng về nhu cầu chơi đẹp trong thể thao, tức là trò chơi phải trong sạch. Các vận động viên tôn trọng việc chơi đẹp khi họ không những tuân thủ các quy tắc chính thức mà còn giữ công bằng đối với đối thủ của họ để mọi người thi đua có thể tự do tham gia trò chơi. Tuân thủ các quy tắc của trò chơi để tránh bị khiển trách bởi trọng tài hoặc chính thức bị loại vì vi phạm quy tắc là một điều. Nhưng điều khác là phải chú ý và tôn trọng đối thủ và quyền tự do của họ bất kể bất cứ lợi điểm về quy tắc nào. Làm như vậy bao gồm việc không sử dụng các chiến lược giấu giếm, chẳng hạn như dùng chất kích thích, có lợi thế bất hợp pháp so với đối thủ thi đua. Hoạt động thể thao “phải là một dịp không thể tránh để thực hành các nhân đức nhân bản và Kitô giáo về tình liên đới, lòng trung thành, tác phong tốt và biết tôn trọng người khác, những người phải được xem là những người thi đua chứ không phải chỉ là đối thủ hay địch thủ” [33]. Bằng cách này, các môn thể thao có thể đặt ra các mục tiêu cao hơn chiến thắng, hướng tới việc phát triển con người nhân bản trong một cộng đồng gồm các đồng đội và những người thi đua.
Chơi đẹp cho phép các môn thể thao trở thành phương tiện giáo dục cho tất cả xã hội, về các giá trị và đức hạnh tìm thấy trong thể thao, chẳng hạn như kiên trì, công bằng và lịch sự, ấy là chỉ mới nêu tên một vài điều mà Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI vốn nhấn mạnh.
“Các vận động viên thân yêu, các bạn gánh vác trách nhiệm - không kém phần quan trọng – là làm chứng cho các thái độ và niềm xác tín và, thể hiện chúng, vượt quá hoạt động thể thao, trong cơ cấu gia đình, văn hóa và tôn giáo. Khi làm như vậy, các bạn sẽ giúp đỡ người khác rất nhiều, đặc biệt là thanh thiếu niên, những người đang sống trong một xã hội đang phát triển nhanh chóng, nơi đang đánh mất nhiều giá trị và càng ngày càng mất phương hướng” [34].
Theo chiều hướng này, các vận động viên có sứ mệnh trở thành “các nhà giáo dục, vì thể thao có thể đào luyện một cách hữu hiệu nhiều giá trị cao hơn, như lòng trung thành, tình bạn và tinh thần đồng đội” [35].
3.3 Chủ nghĩa cá nhân và nhóm
Một điều rất đặc trưng của thế giới thể thao là mối tương quan hài hòa giữa cá nhân và toàn đội. Trong các môn thể thao đồng đội, như bóng đá, bóng bầu dục, bóng chuyền và bóng rổ và nhiều môn khác, thực tại đó được nhìn thấy rất rõ. Nhưng ngay trong các môn thể thao cá nhân như quần vợt hay bơi lội, luôn có một số hình thức làm việc theo nhóm nào đó.
Ngày nay chúng ta có thể thấy nhiều biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Xem ra các mục tiêu cá nhân đôi khi chiếm ưu thế hơn ích chung. Thể thao là một trường học làm việc theo nhóm giúp chúng ta vượt qua sự ích kỷ. Trong đó tính cá nhân của mỗi người chơi có liên quan đến nhóm đội cùng nhau làm việc để đạt được mục tiêu chung.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, khi nói chuyện với những người trẻ tại lễ kỷ niệm lần thứ 70 của Trung tâm thể thao Ý, nói rằng: “Tôi cũng hy vọng các bạn có thể thưởng thức vẻ đẹp của tinh thần đồng đội, một điều rất quan trọng trong cuộc sống. Đừng có chủ nghĩa cá nhân! Đừng chơi cho riêng mình. Ở quê hương của tôi, khi một người chơi làm như thế, chúng tôi nói: 'Anh chàng này muốn tự mình nghiến hết quả bóng!' Không, đó là chủ nghĩa cá nhân: không nghiến trái bóng, hãy là những cầu thủ của toàn đội. Thuộc về một câu lạc bộ thể thao có nghĩa là bác bỏ mọi hình thức ích kỉ và cô lập, đây là một cơ hội để gặp gỡ và sống bên người khác, giúp đỡ lẫn nhau, thi đua trong lòng quí mến hỗ tương và phát triển trong tình huynh đệ”[36].
Mỗi thành viên đều độc đáo và đóng góp một cách đặc biệt cho toàn đội. Các cá nhân không mất hút trong toàn bộ, vì họ được trân qúi trong tính đặc thù của họ. Tất cả đều có một tầm quan trọng độc đáo làm cho đội mạnh hơn. Một đội ngũ tuyệt vời luôn được tạo thành từ những cá nhân tuyệt vời không chơi một mình mà cùng chơi với nhau.
Thí dụ, một đội bóng có thể được tạo thành từ những tiền vệ xuất sắc nhất thế giới, nhưng nó sẽ không phải là một đội tuyệt vời nếu không có thủ môn, hậu vệ, tiền đạo và thậm chí là một huấn luyện viên giỏi, chuyên gia vật lý trị liệu, v.v. Trong thể thao, thiên phú và tài năng của từng cá nhân nói riêng được xếp đặt để phục vụ cả đội.
3.4 Hy sinh
Người tham gia thể thao rất quen thuộc với khái niệm hy sinh. Bất kể trình độ chuyên môn hay loại hoạt động liên quan, tập chú vào đội hay cá nhân, vận động viên phải khép mình vào kỷ luật và tập chú vào nhiệm vụ hiện hữu nếu họ muốn học và thu lượm được kỹ năng cần thiết. Đạt được điều này thường có nghĩa là người đó phải theo một chương trình thường xuyên và có cấu trúc. Điều này được thực hiện tốt nhất khi người tham gia thể thao chấp nhận điều này: họ sẽ phải dấn thân vào một con đường bao gồm một mức độ gian khổ, từ bỏ mình và khiêm nhường nào đó. Sở dĩ như thế vì việc học tập và biểu diễn một môn thể thao luôn bao gồm việc có thể gặp gỡ với thất bại, ngã lòng và thách thức. Các vận động viên chuyên nghiệp thường sẽ trải nghiệm những thách thức tâm lý, thể lý và tinh thần như là một phần sự nghiệp của họ trong thể thao; thậm chí điều còn gây ấn tượng hơn nữa là những người tham gia thể thao cấp thấp và không chuyên nghiệp cũng sẵn sàng khép mình vào những đòi hỏi này, mặc dù với cường độ thấp hơn nhiều, để trở nên tốt hơn trong điều họ yêu thích [37].
Người tham gia để giải trí chịu huấn luyện để dự cuộc thi nửa đường trường (marathon) vì từ thiện, người chơi cù có chấp (handicap) cao cố gắng tập một cú đánh tốt hơn, hoặc cầu thủ bóng đá cố gắng ghi bàn thắng nhiều hơn cho đội, đều nhờ các trải nghiệm sống này của họ mà hiểu được rằng những hy sinh nhỏ này có ý nghĩa nhờ được thực hiện vì lòng yêu thích thể thao. Mặc dù ngỏ lời với các vận động viên thế vận, Thánh Gioan Phaolô II có điều sau đây để nói về giá trị của sự hy sinh trong thể thao với tất cả các vận động viên, bất kể trình độ của họ: “Tại Thế vận hội gần đây ở Sydney, chúng ta đã ngưỡng mộ những kỳ tích của các vận động viên vĩ đại, những người đã tự hy sinh nhiều năm, ngày qua ngày, để đạt được những thành quả đó. Đây là luận lý học của thể thao, đặc biệt là các môn thể thao thế vận; nó cũng là luận lý học của cuộc sống: không có các hy sinh, các thành quả quan trọng không có được, hoặc thậm chí không có sự hài lòng chân chính”[38].
Những lần gặp hy sinh trong thể thao đó có thể giúp các vận động viên đào tạo cá tính của họ một cách đặc thù. Họ có thể phát triển các nhân đức can đảm và khiêm nhường, kiên trì và dũng cảm. Kinh nghiệm chung của sự hy sinh trong thể thao cũng có thể giúp các tín hữu hiểu đầy đủ hơn ơn gọi của họ trong tư cách con cái của Thiên Chúa. Duy trì một cuộc sống cầu nguyện, một cuộc sống bí tích phong phú, và làm việc vì ích chung, thường đi kèm với nhiều trở ngại và khó khăn. Chúng ta cố gắng vượt qua các thách thức này bằng sự kiên trì kiên định và tự khép mình vào kỷ luật của chúng ta, và với ơn thánh tuôn chảy từ Thiên Chúa. "Kỷ luật nghiêm ngặt và việc tự chủ, sự khôn ngoan, tinh thần hy sinh và cống hiến", theo Thánh Gioan Phaolô II, đại diện cho các phẩm tính tinh thần, tâm lý và thể lý đã được thử nghiệm trong nhiều môn thể thao. Các đòi hỏi và thách thức về tinh thần và thể chất của thể thao có thể giúp tăng cường tinh thần và việc tự ý thức về mình của người ta. Việc Công Giáo đánh giá cao giá trị nhân học của thể thao và sự hy sinh đã dựa trên cơ sở sinh hoạt hàng ngày của mọi người chơi. Qua kinh nghiệm sống của mình, họ biết rằng sự hy sinh và đau khổ có một bản chất đầy tiềm năng biến đổi.
Như thế, hy sinh là một thuật ngữ quen thuộc và được sử dụng nhiều trong thế giới thực của thể thao. Giáo hội cũng sử dụng thuật ngữ này một cách rất trực tiếp, thường xuyên và chuyên biệt. Giáo Hội biết rằng tình yêu Thiên Chúa và người lân cận của chúng ta thường đi kèm một giá đắt mà chúng ta phải trả. Nhiệm vụ của chúng ta trong tư cách Kitô hữu là chấp nhận các hy sinh và đau khổ mà chúng ta đang chịu đựng, bất kể lớn hay nhỏ, và được nâng đỡ bởi ơn thánh của Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta, phấn đấu cho vương quốc ở đây trên trái đất và trên thế giới. Với điều này trong tâm trí, ta sẽ dễ hiểu hơn điều Thánh Phaolô nghĩ tới khi ngài yêu cầu chúng ta sẵn sàng để 'đấu trận đấu tốt' (Tm 6:12). Tất cả những hy sinh cao qúi mà chúng ta thực hiện đều quan trọng trong đời sống Kitô hữu, cả khi chúng diễn ra trong các hoạt động nhân bản bề ngoài không đáng kể như thể thao.
Kỳ sau: Chương ba (tiếp theo): 3.5 Niềm Vui