“Này tôi là tôi tớ Chúa”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật là bất ngờ khi phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm những tôi tớ nhưng là những ‘tôi tớ đáng ao ước’. Chính miệng Thiên Chúa gọi Đavít là tôi tớ; Mẹ Maria cũng xưng mình là tôi tớ của Người, “Này tôi là tôi tớ Chúa”.
Bài đọc Samuel nói đến trăn trở của Đavít. Khi đã bằng yên tư bề, vua nghĩ đến việc xây cho Thiên Chúa một ngôi nhà vì hòm bia của Người đang ở trong lều bạt; Chúa phán với Nathan, “Hãy đi nói với Đavít tôi tớ Ta rằng, ‘Chúa phán, có phải ngươi sẽ xây cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?’”; “Chính Ta sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta”. Và Đavít, người ‘tôi tớ đáng ao ước’ ấy sẽ ngợi khen danh Chúa mãi mãi như lời Thánh Vịnh đáp ca tỏ bày, “Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời”.
Thế nhưng, trở thành “tôi tớ Chúa” nghĩa là gì? Từ ngữ ‘tôi tớ’ có nghĩa là ‘đầy tớ’, ‘giúp việc’, ‘người hầu’. Mẹ Maria tự nhận mình là một đầy tớ, người giúp việc và cụ thể là một nữ tỳ, một người hầu gái của Thiên Chúa. Trong suốt lịch sử, một số ‘hầu gái’ là nô lệ, họ không có bất kỳ một quyền nào; họ là tài sản của chủ sở hữu, và được yêu cầu làm những gì chủ họ yêu cầu; chủ có thể bán, trao đổi họ cho người khác. Trong các thời đại và các nền văn hoá khác, hầu gái là một ‘người giúp việc’ mà họ tự chọn cho mình nhiều hơn, họ được hưởng một số quyền nhất định. Và dẫu sao, tất cả các hầu gái đều thuộc hạng thấp kém, chuyên phục vụ cấp trên.
Tuy thế, Mẹ Maria là một kiểu thức hầu gái ‘hoàn toàn mới’, ‘hoàn toàn khác’ so với quan niệm về người hầu gái của mọi thời. Tại sao như thế? Vì Đấng mời gọi Mẹ phục vụ là một Đấng hoàn toàn khác, đó là Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Và như thế, chắc chắn Mẹ là một người ‘hầu gái vượt trội’, một ‘tôi tớ thượng lưu’, cao hơn mọi tôi tớ thuộc mọi tầng lớp; Đấng Mẹ phục vụ là Đấng toàn thánh, toàn năng, hoàn hảo, Vua các vua, Chúa các chúa; Đấng dành một tình yêu hoàn hảo và thánh thiện cho Mẹ; Đấng giữ gìn Mẹ trong ân sủng, dẫn dắt Mẹ theo những cách thức của Thánh Thần để tôn tạo Mẹ, nâng cao phẩm giá của Mẹ và biến đổi người nữ tỳ của Người vốn đã được bảo bọc trong ân sủng càng được chìm đắm trong đó, ngày càng sâu thẳm hơn. Vì thế, những ai khôn ngoan, sẽ không chỉ chọn cho mình làm người phục vụ Đấng bề trên này mà còn tự do, tự nguyện và xin cho được trở thành nô lệ, tôi tớ, một ‘tôi tớ đáng ao ước’ hạ mình càng sâu càng tốt trước một cấp trên như vậy. Noi gương Mẹ Maria, chúng ta không nên do dự để hạ mình trong chiều kích sâu sắc nhất của hình thức tôi tớ và nô lệ này!
Vì thế, sự phục vụ, sự tòng thuộc của Mẹ Maria vào Đấng Mẹ phó dâng đời mình thật là mới mẻ, mới ở chỗ nó là hình thức làm tôi tớ triệt để nhất, tận căn nhất; đồng thời, nó cũng được tự do chọn lựa nhất. Tác động hỗ tương đối với Mẹ từ Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh là Mẹ luôn hướng mọi suy nghĩ và hành động, mọi đam mê và ước muốn cùng những gì nhỏ nhất trong cuộc sống Mẹ đến vinh quang, viên mãn và thánh thiện của đời sống làm tôi Chúa.
Anh Chị em,
Charles Simeon, Đavít, những tôi tớ của Chúa, những ‘tôi tớ đáng ao ước’; và Đức Mẹ, một kiểu mẫu tôi tớ càng cho chúng ta ao ước hơn. Lời “xin vâng” của Mẹ chứa đựng tiếng “xin vâng” của toàn bộ lịch sử cứu độ; nó khởi đầu cho lời “xin vâng” của một Thiên Chúa làm người nơi hang đá Bêlem cho đến lời “xin vâng” của Ngài để cứu chuộc cả nhân loại trên Núi Sọ. Cũng thế, chính sự tuỳ thuộc vào Thiên Chúa, như một tôi tớ thuộc trọn về Người, những lời “xin vâng” mỗi ngày của chúng ta trong cuộc sống, như Con Thiên Chúa, cũng có thể cứu độ cả thế giới loài người.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, ‘tôi tớ đáng ao ước’, xin cầu cho con được trở nên một tôi tớ của Chúa như Mẹ, trở nên một công cụ cứu rỗi của Chúa bằng việc không chối từ “xin vâng” mỗi ngày trước Thiên Chúa; và như thế, con sẽ cưu mang và sinh hạ Chúa Giêsu trong các tâm hồn”, Amen.
(Tgp. Huế)
11. Chỉ có nhớ đến tội lỗi thì mới có thể làm cho con người thêm khiêm tốn, và từ khiêm tốn mới có thể được phục hồi sự giao hảo với Thiên Chúa nhân từ, trở thành người công chính.
(Thánh Kessog)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Ban đêm, có người đến quán rượu mua rượu, kêu cửa liên tục mà không thấy trả lời, chỉ nghe được chủ quán nói:
- “Lấy tiền đút nơi khe cửa vào cho tôi”.
Khách mua rượu nói:
- “Vậy thì làm sao lấy rượu ra được”.
Người thu ngân nói:
- “Thì cũng từ khe cửa mà đưa ra”.
Khách mua rượu cười lớn, người làm thuê nói:
- “Đừng có đùa, rượu này của tôi cũng rất mỏng đấy !”
(Tuyết Đào Hài Sử)
Suy tư 14:
Khe cửa thì hẹp đồng bạc giấy có thể xếp lại nhét vào, nhưng chai rượu thì không thể được, ngoại trừ đổ rượu qua khe cửa...
Khi rượu được bỏ trong chai hay trong bình thì rượu trở thành lớn không thể đưa qua khe cửa được, nhưng khi rượu đổ ra thì rượu trở thành mỏng nhỏ li ti chỗ nào cũng có thể qua được, lấy tiền qua khe cửa thì dể nhưng lấy rượu đã đổ ra thì khó vô cùng.
Người Ki-tô hữu khi còn kết hợp với Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện thì sức mạnh vô song, nhưng khi từ bỏ Thiên Chúa để sống theo ý riêng của mình thì trở thành kẻ yếu đuối, dễ dàng bị sa chước cám dỗ của ma quỷ, cho nên ma quỷ không dại gì bỏ qua những dịp cám dỗ khi con người ta yếu đuối...
Cuộc sống của chúng ta giống như rượu ngon được đựng trong cái bình quý giá thơm ngon, cho nên người khôn ngoan luôn biết gìn giữ đời sống của mình bằng cách kết hợp với Thiên Chúa, cầu nguyện và làm việc bác ái và phục vụ tha nhân...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
“Kìa chàng đang tới, tung tăng trên núi, nhảy nhót trên đồi”.
Kính thưa Anh Chị em,
Đọc lại những lời trữ tình của sách Diễm Ca, chớ gì chúng ta cũng biết nôn nóng đợi chờ và chuẩn bị nhiều hơn cho ngày mừng Chúa giáng thế; cùng lúc, ao ước cho mình có được ‘những bước chân đon đả’ tin yêu, vì “Kìa chàng đang tới, tung tăng trên núi, nhảy nhót trên đồi”. Thánh Vịnh đáp ca hôm nay cũng diễn tả niềm vui của những ai mong chờ Chúa, “Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, hãy ca mừng Người bài ca mới!”.
‘Những bước chân đon đả’ tin yêu đó, một lần nữa, được gặp thấy nơi Đức Maria khi Mẹ từ miền xuôi ngược lên vùng cao Giuđêa và ở lại đó để giúp người chị họ. Đó là những bước chân đầy niềm tin. Chúng ta đừng quên, Mẹ Maria chỉ biết việc bà Elisabeth mang thai được sáu tháng qua thông tin duy nhất của sứ thần Gabriel; vậy mà Mẹ vẫn tin cũng như Mẹ đã tin một hài nhi đang lớn lên mỗi ngày trong lòng mình. Thật là tuyệt vời! Chính niềm tin này không cho phép Mẹ chần chờ để lên đường thăm người chị họ. Thánh sử Luca thật ý tứ khi ghi chú một chi tiết nhỏ nhặt nhưng hết sức quan trọng, đó là “Maria ‘chỗi dậy’, ‘vội vã’ ‘ra đi’ tiến lên miền núi”; ‘chỗi dậy’, ‘vội vã’, ‘ra đi’ diễn tả một ý nghĩa súc tích nhất tâm tình của một trái tim cháy lửa yêu thương.
Những bước chân của Mẹ Maria là ‘những bước chân đon đả’ thật đẹp mà Isaia đã loan báo từ ngàn xưa, “Đẹp thay trên núi, trên đồi! Bước chân của người loan báo tin mừng, công bố bình an”. Mang Hài Nhi Giêsu trong lòng, Mẹ đã trở thành nhà truyền giáo đầu tiên, vị thừa sai tiên khởi mang Tin Mừng Giêsu vốn sẽ thay đổi toàn bộ lịch sử nhân loại. Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi Hội Thánh gọi Mẹ là “Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ”.
Và cao điểm của ‘những bước chân đon đả’ đó chính là bước chân mang Chúa Giêsu, Quà Tặng của các quà tặng. Để mang lại niềm vui cho người khác, như Mẹ Maria, chúng ta thực sự phải mang đến cho anh chị em mình chính Chúa Giêsu Kitô, Ngài là món quà lớn nhất mà chúng ta có thể trao tặng; như những quà tặng, tất cả của cải vật chất trên thế giới này đều phải giảm thiểu thứ bậc giá trị của chúng khi so với Quà Tặng Giêsu. Trao tặng thật nhiều nhưng không trao tặng Giêsu, xem ra chúng ta chưa tặng trao gì cả; bởi lẽ, tất cả chỉ là vật chất vốn sẽ phôi phai theo thời gian, lãng quên cùng năm tháng; đang khi Quà Tặng Giêsu mới thật sự là một quà tặng lâu dài đến vĩnh cửu, cũng là quà tặng ban hạnh phúc và sự sống đời đời.
Một thiếu nữ tóc vàng xinh đẹp chia sẻ, “Hồi mới quen nhau, khi hẹn hò, chúng tôi bắt đầu tặng nhau những nụ hoa, những thỏi kẹo chocolate; khi gần đính hôn, chúng tôi tặng nhau những đồ trang sức đắt tiền, những vòng bạc xinh xắn; khi cưới nhau, chúng tôi trao nhau những gì quý nhất của chính mình, toàn bộ bản thân hết mức có thể. Nhưng một khi đã trở nên con cái Chúa, chúng tôi cùng đem quà tặng quý nhất của đời mình, của gia đình mình tặng trao cho những người khác; đó chính là Quà Tặng Giêsu và chúng tôi, ‘vợ chồng, con cái’ là một trong những gia đình hạnh phúc nhất của những người được làm con Chúa”.
Anh Chị em,
Cả chúng ta, hãy ước ao trở nên những môn đệ của Chúa Giêsu, những con người được lòng thương xót Chúa thiêu đốt; chúng ta đang được mời gọi ‘chỗi dậy’, ‘vội vã’, ‘ra đi’ như Đức Mẹ, như người thiếu nữ tóc vàng xinh đẹp. Cách riêng trong những ngày hôm nay khi thời tiết lạnh giá dai dẳng trong những ngày dịch bệnh hết sức khó khăn. Hãy bước ‘những bước chân đon đả’ thật đẹp, đến với những anh chị em đang khó khăn, đói ăn và lạnh lẽo. Hãy trao tặng Chúa Giêsu cho họ kèm theo những gì thiết thực nhất.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin đừng để con ngủ yên trong chăn êm nệm ấm, xin cứ quấy rầy con hầu con biết ‘chỗi dậy’, ‘vội vã’, ‘ra đi’ với ‘những bước chân đon đả’ thắm tình Chúa, đượm tình người, đến với những ai đang thiếu thốn trăm bề, nhất là thiếu Quà Tặng Giêsu”, Amen.
(Tgp. Huế)
Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích đã ra một Thông Tư vào hôm thứ Bảy 19 tháng 12, khuyến khích các giáo xứ Công Giáo trên khắp thế giới cử hành Chúa Nhật Lời Chúa với sức sống mới.
Thông Tư đã gợi ý những cách thức mà người Công Giáo nên chuẩn bị cho ngày dành cho Kinh Thánh.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã thiết lập Chúa Nhật Lời Chúa qua tông thư “Aperuit illis” (Người mở trí cho các ông) vào ngày 30 tháng 9 năm 2019, nhân kỷ niệm 1,600 năm ngày mất của Thánh Giêrônimô.
Chúa Nhật Lời Chúa diễn ra vào Chúa Nhật thứ ba Mùa Quanh Năm, tức là sẽ rơi vào ngày 24 tháng Giêng năm 2021.
Nguyên bản tiếng Ý và các bản dịch sang một số ngôn ngữ khác có thể xem tại đây.
Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Do đó, Chúa nhật này là cơ hội lý tưởng để đọc lại một số tài liệu của Giáo Hội [3] và đặc biệt là Lời Dẫn Nhập [Praenotanda] của Sách Các Bài Đọc Trong Thánh Lễ [Ordo Lectionum Missae], trong đó trình bày tổng hợp các nguyên tắc thần học, nghi lễ và mục vụ xung quanh Lời Chúa được công bố trong Thánh lễ nhưng cũng có giá trị trong mọi cử hành Phụng Vụ khác (Bí tích, Á Bí tích, Phụng Vụ Giờ kinh).
1. Qua các bài đọc Kinh Thánh được công bố trong Phụng Vụ, Thiên Chúa nói với dân Người và chính Chúa Kitô công bố Tin Mừng của Người; [4] Chúa Kitô là trung tâm và là sự viên mãn của toàn bộ Kinh Thánh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. [5] Lắng nghe Tin Mừng, đỉnh cao của Phụng Vụ Lời Chúa, [6] được đặc trưng bởi một sự tôn kính đặc biệt, [7] được thể hiện không chỉ bằng những cử chỉ và lời tung hô, mà bằng chính Sách Tin Mừng. [8] Một trong những khả năng về mặt nghi lễ thích hợp cho Chúa Nhật này có thể là cuộc rước Sách Tin Mừng vào đầu thánh lễ [9] hoặc đơn giản là đặt Sách Tin Mừng trên bàn thờ trước khi chủ tế tiến lên bàn thờ. [10]
2. Việc sắp xếp các bài đọc Kinh Thánh được Giáo Hội trình bày trong Sách Bài đọc mở ra con đường để hiểu toàn bộ Lời Chúa. [11] Do đó, cần phải tôn trọng các bài đọc được chỉ định, không thay thế hoặc loại bỏ chúng, và chỉ sử dụng các phiên bản Kinh Thánh được chấp thuận để sử dụng trong Phụng Vụ. [12] Việc công bố các bản văn của các Bài Đọc tạo nên một mối dây hiệp nhất giữa tất cả các tín hữu lắng nghe những Bài Đọc ấy. Sự hiểu biết về cấu trúc và mục đích của Phụng Vụ Lời Chúa giúp cộng đoàn đón nhận lời cứu rỗi của Thiên Chúa. [13]
3. Nên hát các Thánh Vịnh Đáp Ca, là lời đáp của Giáo Hội khi cầu nguyện, [14] vì thế chức năng của người hát các Đáp Ca nên được đề cao trong mọi cộng đoàn. [15]
4. Trong bài giảng, bắt đầu bằng các bài đọc Kinh Thánh, các mầu nhiệm đức tin và các chuẩn mực của đời sống Kitô được giải thích trong suốt năm Phụng Vụ. [16] “Các mục tử chịu trách nhiệm chính trong việc giải thích Sách Thánh và giúp mọi người hiểu Kinh Thánh. Kinh Thánh là sách của dân Chúa, cho nên, những người được mời gọi là thừa tác viên Lời Chúa phải cảm thấy nhu cầu cấp thiết làm sao cho cộng đoàn có thể hiểu được Lời Chúa”. [17] Các giám mục, linh mục và phó tế phải phát triển dấn thân thực hiện sứ vụ này với sự tận hiến đặc biệt, trong khi vận dụng tất cả các phương tiện do Giáo Hội đề xuất. [18]
5. Sự thing lặng có một tầm quan trọng đặc biệt, vì nó tạo điều kiện cho việc suy nhiệm, để Lời Chúa được người nghe tiếp nhận vào nội tâm. [19]
6. Hội Thánh luôn quan tâm đặc biệt đến những người công bố Lời Chúa trong cộng đoàn: linh mục, phó tế và những người đọc sách. Thừa tác vụ này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị bên trong và bên ngoài cụ thể, làm quen với văn bản sẽ được công bố và phải có những thực hành cần thiết sao cho có thể công bố rõ ràng, tránh mọi hình thức ứng khẩu. [20] Có thể mở đầu bài đọc bằng những lời giới thiệu ngắn và thích hợp. [21]
7. Vì tầm quan trọng của Lời Chúa, Giáo Hội mời gọi chúng ta đặc biệt chú ý đến bục đọc sách từ đó Lời Chúa được công bố. [22] Bục đọc sách không phải là một vật dụng nội thất, nhưng là một nơi phù hợp với phẩm giá của Lời Chúa, tương ứng với bàn thờ: thật thế, khi nói đến bục đọc sách chúng ta đề cập đến bàn của Lời Chúa, trong khi bàn thờ được đặc biệt tham chiếu đến bàn của Mình Chúa Kitô. [23] Bục đọc sách được dành riêng cho việc công bố các bài đọc, hát các Thánh Vịnh Đáp Ca và Công bố Tin Mừng Phục sinh (Vinh Tụng Ca); Bài giảng và những ý cầu nguyện phổ quát [lời nguyện giáo dân] có thể được đưa ra từ đó, nhưng việc sử dụng nó cho việc đưa ra các bài bình luận, và thông báo, hay cho việc điều khiển các bài thánh ca thì không thích hợp cho lắm. [24]
8. Các sách chứa các bài đọc trong Sách Thánh khơi lên trong những ai lắng nghe sự tôn kính đối với mầu nhiệm Thiên Chúa nói với dân Người. [25] Vì lý do này, chúng tôi yêu cầu phải chăm sóc cẩn thận để bảo đảm rằng những cuốn sách này có phẩm chất cao và được sử dụng đúng cách. Không bao giờ có thể xem là thích hợp để sử dụng các tờ rơi, các bản sao và các hỗ trợ mục vụ khác thay thế cho các sách Phụng Vụ. [26]
9. Thật là thích hợp để xúc tiến, vào trước hoặc trong những ngày tiếp theo Chúa Nhật Lời Chúa, các buổi gặp gỡ huấn luyện để nêu bật tầm quan trọng của Sách Thánh trong các cử hành Phụng Vụ; đây có thể là một cơ hội để tìm hiểu thêm về cách Giáo Hội trong các buổi cầu nguyện đọc Sách Thánh với các bài đọc liên tục, bán liên tục [các bài đọc liên tục: continuous readings: chia các sách Cựu Ước ra thành nhiều bài, đọc liên tục từ ngày này sang ngày khác, hết sách này thì sang sách khác. Khác với cách phân bổ này là semi-continuous readings, bán liên tục, đôi khi nhảy sang một sách Cựu Ước khác. – chú thích của người dịch ] và các bài đọc có quan hệ tiên báo [tiếng Anh: Typological Readings, tiếng Ý: Lettura Tipologica, xuất phát từ tiếng Hy Lạp τύπος, nghĩa là định hình, tiền định. Theo tin tưởng chung trong khoa chú giải Kinh Thánh, các sự kiện trong Cựu Ước là những tiên báo sẽ tìm thấy sự ứng nghiệm trong Tân Ước. Thí dụ: ngày Chúa Nhật Mùa Chay Năm A, chúng ta đọc bài Phúc Âm (Ga 4:5-42) thuật lại biến cố Chúa cho người bạn của Ngài là ông Ladagiô chết chôn 4 ngày sống lại. Cùng ngày ấy chúng ta đọc bài trích sách Êdêkiel (Ed 37:12-14) trong đó Chúa loan báo sẽ mở cửa mồ, sẽ kéo nhà Israel ra khỏi mồ và ban cho một cuộc sống mới. Bài đọc trong Cựu Ước có quan hệ “tiên báo” cho bài Phúc Âm và tìm thấy sự ứng nghiệm trong bài Phúc Âm – chú thích của người dịch]. Đồng thời, các cuộc gặp gỡ này cũng giúp giải thích các tiêu chí được áp dụng trong việc phân bổ các bài đọc Kinh Thánh khác nhau trong năm và trong các mùa, cũng như cấu trúc của các bài đọc cho Thánh lễ theo các chu kỳ Chúa nhật [Năm A, Năm B, Năm C] và ngày thường trong tuần [Năm I, Năm II]. [27]
10. Chúa Nhật Lời Chúa cũng là một dịp thích hợp để làm sâu sắc thêm mối liên hệ giữa Sách Thánh và các Giờ Kinh Phụng Vụ, việc đọc Thánh Vịnh và các Giờ Kinh, cũng như các bài đọc Kinh Thánh. Điều này có thể được thực hiện bằng cách thúc đẩy cộng đồng cử hành Kinh sáng và Kinh chiều. [28]
Trong số rất nhiều vị Thánh, tất cả đều làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, Thánh Giêrônimô có thể được đề xuất như một tấm gương vì tình yêu lớn lao mà ngài dành cho Lời Chúa. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ, ngài là “một học giả, một dịch giả và một nhà chú giải Kinh Thánh không mệt mỏi. [Ngài có một] kiến thức sâu rộng về Kinh Thánh, [và] nhiệt tâm muốn làm cho giáo huấn của Kinh Thánh được biết đến. [...] Khi chăm chú lắng nghe Kinh Thánh, Thánh Giêrônimô đã nhận ra chính mình và tìm thấy khuôn mặt của Thiên Chúa và của các anh chị em của mình. Ngài cũng được khẳng định là người có sức thu hút đối với cuộc sống cộng đồng”. [29]
Mục đích của Thông Tư này là giúp thức tỉnh, dưới ánh sáng của Chúa nhật Lời Chúa, một ý thức về tầm quan trọng của Sách Thánh đối với đời sống tín hữu của chúng ta, bắt đầu bằng sự cộng hưởng của nó trong Phụng Vụ, là điều giúp chúng ta sống và đối thoại thường xuyên với Chúa. “Lời Chúa, khi được lắng nghe và cử hành, trên hết là trong Bí tích Thánh Thể, sẽ nuôi dưỡng và củng cố nội tâm các Kitô hữu, giúp họ có thể làm chứng xác thực cho Tin Mừng trong đời sống hàng ngày”. [30]
Từ Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, ngày 17 tháng 12 năm 2020.
+ Đức Hồng Y Robert Sarah
Tổng trưởng
+ Đức Tổng Giám Mục Arthur Roche
Thư ký
[1] Xem Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông thư dưới dạng tự sắc Aperuit illis, ngày 30 tháng 11 năm 2019.
[2] Đức Thánh Cha Phanxicô, Aperuit illis, n. số 8; Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum (Mặc Khải của Thiên Chúa), n. 25: “Vì vậy, tất cả các giáo sĩ phải tôn kính Sách Thánh qua việc siêng năng đọc Sách Thánh và nghiên cứu cẩn thận, đặc biệt là các linh mục của Chúa Kitô và những người khác, chẳng hạn như các phó tế và các giáo lý viên đang thi hành hợp pháp thừa tác vụ Lời Chúa. Điều này phải được thực hiện để không ai trong số họ trở thành ‘người giảng dạy Lời Chúa hời hợt bề ngoài, trong khi bên trong không lắng nghe lời ấy’ vì họ phải chia sẻ sự giàu có dồi dào của Lời Chúa với những tín hữu được trao phó cho họ, đặc biệt là trong phụng vụ thánh. Thánh Công Đồng cũng tha thiết và đặc biệt kêu gọi tất cả các tín hữu Kitô, đặc biệt là các nam nữ tu sĩ, học hỏi bằng cách thường xuyên đọc Kinh Thánh là ‘kho tàng kiến thức tuyệt vời về Chúa Giêsu Kitô’ (Pl 3: 8). “Vì không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”.
[3] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum (Mặc Khải của Thiên Chúa); Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, Tông huấn Verbum Domini (Lời Chúa).
[4] Xem Thánh Công Đồng, các số. 7, 33; Institutio generalis Missalis Romani (IGMR) – Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, số. 29; Ordo lectionum Missae (OLM) - Sách các Bài đọc trong Thánh Lễ, số 12.
[5] Xem OLM, số 5.
[6] Xem IGMR, số 60; OLM, số 13.
[7] Xem OLM, số 17; Caeremoniale Episcoporum, số 74.
[8] Xem OLM, các số 36, 113.
[9] Xem IGMR, các số 120, 133.
[10] Xem IGMR, số 117.
[11] Xem IGMR, số 57; OLM, số 60.
[12] Xem OLM, các số 12, 14, 37, 111.
[13] Xem OLM, số 45.
[14] Xem IGMR, số 61; OLM, số 19-20.
[15] Xem OLM, số 56.
[16] Xem OLM, số 24; Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Sắc lệnh Homiletic Directory (HD) về việc giảng Lời Chúa trong Thánh Lễ công bố ngày 29/06/2014, số 16.
[17] Đức Thánh Cha Phanxicô, Aperuit illis, số 5; HD, số 26.
[18] Xem Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm Vui Phúc Âm), các số 135-144; HD
[19] Xem IGMR, số 56; OLM, số 28.
[20] Xem OLM, các số 14, 49.
[21] Xem OLM, các số 15, 42.
[22] Xem IGMR, số 309; OLM, số 16.
[23] Xem OLM, số 32.
[24] Xem OLM, số 33.
[25] Xem OLM, số 35; Caeremoniale Episcoporum (Quy chế cử hành Phụng Vụ dành cho các Giám Mục), số 115.
[26] Xem OLM, số 37.
[27] Xem OLM, các số 58-110; HD, các số 37-156.
[28] Institutio generalis de Liturgia Horarum – Quy chế tổng quát các giờ Kinh Phụng Vụ, số 140: “Theo truyền thống cổ xưa, Sách Thánh được đọc công khai trong phụng vụ không chỉ khi cử hành Thánh Thể mà còn trong các giờ Kinh Phụng Vụ. Việc đọc thánh thư trong phụng vụ có tầm quan trọng lớn nhất đối với tất cả các Kitô hữu vì nó do chính Giáo Hội đưa ra chứ không phải do quyết định hay ý thích của một cá nhân nào. Trong vòng một năm, mầu nhiệm về Chúa Kitô được mở ra bởi Hiền Thê của Ngài […]. Trong các cử hành phụng vụ, lời cầu nguyện luôn đồng hành với việc đọc Sách Thánh”.
[29] Xem Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông thư Scripturae sacrae effectus (Lòng quý mến Kinh Thánh), nhân Kỷ niệm 1600 năm Ngày mất của Thánh Giêrônimô, ngày 30 tháng 9 năm 2020.
[30] Xem Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (Niềm Vui Phúc Âm), số 174.
Source:Holy See Press Office
Cảnh Giáng Sinh với phong cách hậu hiện đại được dựng ở quảng trường Thánh Phêrô năm nay đã gây ra một làn sóng chỉ trích rất mạnh. Edward Pentin của tờ National Catholic Register có bài tường trình sau.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Edward Pentin
Cảnh Giáng Sinh với phong cách hậu hiện đại ở Vatican gây ra làn sóng chỉ trích
Cảnh Giáng Sinh năm nay đã bị chỉ trích dữ dội vì phong cách nghệ thuật hậu hiện đại của nó, mà các nhà phê bình cho rằng hoàn toàn đoạn tuyệt với các cảnh Giáng Sinh truyền thống, không có tính truyền giáo và cũng chẳng truyền cảm hứng cho người khác về mầu nhiệm Nhập thể.
Khung cảnh Giáng Sinh ở quảng trường Thánh Phêrô chứa 20 đồ vật bằng gốm hiện đại, bao gồm các nhân vật chính trong câu chuyện Chúa Giáng Sinh nhưng có khuôn mặt giống đồ chơi cùng với sự hiện diện của một phi hành gia và một tên đao phủ trông giống satan – và tuyệt nhiên không có máng cỏ.
Các nhân vật, bao gồm Đức Mẹ được miêu tả với mái tóc vàng, xoăn tít, được đặt cách nhau trên một sân khấu tối giản, không có cảnh quan, hang động, cây cối hay dòng suối đặc trưng cho cảnh Chúa Giáng Sinh thông thường.
Phản ứng trên các phương tiện truyền thông xã hội và các nơi khác đã chủ yếu bao gồm các từ ngữ dao động từ những từ như “ghê tởm”, “kinh hoàng”, “ô nhục”, cho đến các từ như “ma quỷ”, “ngỡ ngàng” và “nhạo báng Chúa Giáng Sinh”. Tim Stanley, một nhà báo nổi tiếng của tờ Daily Telegraph của Anh, gọi cảnh Giáng Sinh này là “hoàn toàn đáng sợ”, trong khi trang Facebook của Vatican News tràn ngập những lời chỉ trích ngay cả khi nó chưa được khánh thành.
Chỉ có một vài người tỏ ra thích nó, với một người trên Facebook gọi cảnh này là “tuyệt đẹp” và một người dùng Twitter nói rằng đó là “nỗ lực tốt nhất của Giáo hội để đưa tôi trở lại đàn chiên” (Một người khác thì nói rằng anh ấy đang cân nhắc việc trở thành Công Giáo nhưng nói rằng anh ấy sẽ vẫn theo đạo Tin lành sau khi nhìn thấy cái cảnh này.)
Kể từ khi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bắt đầu truyền thống này vào năm 1982, đây không phải lần đầu tiên cảnh Giáng Sinh của Vatican đã gây ra các chỉ trích vì rời xa hình ảnh thông thường về một máng cỏ trong đó có những hình tượng có kích thước lớn hơn người thật về Đức Maria, Thánh Giuse, các mục đồng, các đạo sĩ, và các động vật đi kèm.
Trước đây cảnh Giáng Sinh năm 2017 là cảnh Giáng Sinh gây tranh cãi nhất, gây ra sự phản đối kịch liệt sau khi người ta thêm vào hình ảnh một người đàn ông cởi trần (mà một số người coi là người đồng tính luyến ái), một xác chết và không có cừu hay bò trước một nơi có vẻ như là một nhà thờ bị đánh bom. Cảnh tượng, được gọi là “Giáng Sinh của lòng thương xót”, đến từ một tu viện ở Ý, hóa ra lại là điểm hành hương yêu thích của các nhà hoạt động cho quyền của người LGBT.
Nguồn gốc của các hình tượng
Năm nay, Vatican đã gọi cảnh Chúa Giáng Sinh là “hiện đại và độc đáo”, nhưng nó thực sự chứa những hình tượng ban đầu được thực hiện từ năm 1965 đến năm 1975 tại thị trấn Castelli, thuộc giáo phận Teramo của tỉnh Abruzzo ở miền trung nước Ý - một vùng bị động đất vào năm 2006 và năm 2016.
Nổi tiếng với đồ gốm sứ, ý tưởng cho cảnh Giáng Sinh như thế này được Stefano Mattucci, lúc đó là giám đốc của Viện Nghệ thuật FA Grue của thị trấn, đề ra ý tưởng và được thiết kế bởi hai giáo sư nghệ thuật, Gianfranco Trucchia và Roberto Bentini. Cảnh này được triển lãm lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1965, sau đó được trưng bày tại Chợ Trajan ở Rôma vào năm 1970, và vài năm sau đó ở Giêrusalem, Bethlehem và Tel Aviv. Nhiều nhân vật khác nhau đã được thêm vào, bao gồm một người theo đạo Hồi và một giáo sĩ Do Thái, nâng tổng số lên 54.
Fausto Cheng, một trong những sinh viên vào thời điểm đó, là người đã giúp tạo ra các hình vẽ, cho biết trong một cuộc phỏng vấn năm 2018 rằng “các khía cạnh mang tính cách mạng” đã đặc trưng cho sự sáng tạo của nó, “từ việc ly khai khỏi các khuôn mẫu cổ điển của nghệ thuật gốm sứ, khỏi cách sử dụng màu sắc, và khỏi cảnh Chúa Giáng Sinh nguyên thủy”. Anh nói thêm rằng khung cảnh đã được “lồng vào những sự kiện đương đại từ những năm gần đây bao gồm việc đặt chân lên mặt trăng, Công đồng Vatican II và việc bãi bỏ án tử hình” (hai chủ đề sau phản ánh những vấn đề rất được Đức Thánh Cha Phanxicô quan tâm).
Theo Marcello Mancini, phó chủ tịch Viện FA Grue, quyết định đưa các hình ảnh này đến Vatican hai năm sau đó là kết quả của các cuộc gặp gỡ giữa Đức Cha Lorenzo Leuzzi, Giám Mục Teramo và một nhóm nghệ sĩ và kỹ thuật viên. Họ muốn mang theo một số nhân vật không chỉ “liên quan đến Kitô Giáo” mà còn “liên quan đến một số chủ đề mà Đức Giáo Hoàng của chúng ta yêu quý”, ông nói. Những chủ đề này bao gồm không chỉ sự kết nối với khoa học mà còn với môi trường, đi kèm với sự bao gồm nhiều loài động vật. Ông nói với đài truyền hình địa phương, đó là một “máng cỏ theo chủ nghĩa tự nhiên”, có chứa “dê, cừu, thiên nga”, tất cả đều là “những vật thể có hình hài tao nhã và một phong cách tiêu biểu không thể so sánh được”.
Gây sốc mạnh
Nhưng nỗ lực của năm nay, diễn ra trong một năm thử thách đối với nhiều gia đình và cá nhân do cuộc khủng hoảng COVID-19 gây ra, dường như đã đánh vào một sợi dây thần kinh đặc biệt. “Thật là gây chia rẽ, tôi không nghe thấy mấy ai bảo vệ nó,” nhà nghệ thuật sử học Elizabeth Lev cư trú tại Rôma, đang giảng dạy tại Đại học Duquesne nói. Mọi người đặc biệt tìm đến Vatican “vì truyền thống của cái đẹp”, cô nói thêm. “Chúng tôi lưu giữ những thứ đẹp đẽ trong đó để dù cuộc sống của bạn có tồi tệ đến đâu, bạn vẫn có thể bước vào quảng trường Thánh Phêrô và nghĩ rằng quảng trường ấy là của bạn, là một phần của con người bạn, và nó phản ánh bạn là ai và vinh quang được biết mình là ai”.
“Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại quay lưng lại với điều đó”, Lev nói thêm. “ Nó dường như là một phần của sự thù nghịch kỳ lạ, hiện đại nhưng chối bỏ truyền thống của chúng ta”.
Trong mô tả về cảnh Chúa Giáng Sinh, Vatican cho biết cảnh Giáng Sinh năm nay bị ảnh hưởng bởi các tác phẩm điêu khắc Hy Lạp, Ai Cập và Sumer cổ đại - là điều mà nhà sử học nghệ thuật Andrea Cionci, viết trên nhật báo Libero Quotidiano của Ý, cho là dấu vết của “phương pháp giải thích Kinh thánh theo trào lưu phê bình lịch sử cấp tiến diễn ra sau Công đồng Vatican II”. “Đường lối đó”, ông nói, có “xu hướng làm sáng tỏ mọi thứ siêu nhiên trong đức tin Công Giáo”. Ông giải thích thêm “Các tín điều, phép lạ và sự can thiệp của thần thánh được đồng hóa với tàn dư của các tôn giáo ngoại giáo có trước Kitô Giáo”.
Ottavio Bucarelli, giám đốc bộ phận di sản văn hóa tại Đại học Giáo hoàng Gregoriô ở Rôma, vẫn coi cảnh Chúa Giáng Sinh năm nay là “hoàn toàn hợp pháp” vì nó bắt nguồn từ một viện nghệ thuật nghiên cứu không chỉ “kỹ thuật cổ đại” mà còn cả “các đề xuất sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật, những cách thức mới để thử nghiệm mà ngày nay, trong mắt chúng ta, có thể được coi là sự phá vỡ với truyền thống lâu đời về quang cảnh Chúa Giáng Sinh”.
Ông nói với ACI Stampa vào ngày 14 tháng 12 rằng “do đó cần phải đưa tư duy của chúng ta trở lại hiện thực lịch sử - nghệ thuật” và nhìn vào các nhân vật “bằng đôi mắt đó”, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải bối cảnh hóa các “giai đoạn lịch sử và môi trường từ trong đó nó được tạo ra” - cụ thể là những năm 60 và 70 là những thập kỷ “lên men về chính trị, văn hóa và tôn giáo”.
Đổi mới chỉ vì muốn đổi mới
Lev đồng ý rằng mong muốn mang một khung cảnh Chúa Giáng Sinh như vậy đến Vatican chủ yếu là “vấn đề về sự đổi mới”, mặc dù cô tin rằng điều cuối cùng mọi người muốn trong một năm khó khăn và chia cắt gia đình là “cảm nghiệm với hình ảnh quen thuộc của Thánh Gia”. Một khả năng cảnh Giáng Sinh có thể đem lại là nó gây “sốc cho chúng ta khiến chúng ta khao khát một cảnh Giáng Sinh truyền thống giống như một số người lập luận rằng việc không thể đón nhận các bí tích năm nay do tình trạng bị cô lập vì đại dịch khiến mọi người khao khát các bí tích”.
Nhưng Lev nhớ lại rằng khi Thánh Phanxicô Assisi bắt đầu truyền thống về các hoạt cảnh Giáng Sinh, ngài đã xin phép Đức Giáo Hoàng chính xác vì ngài không muốn một phong tục như vậy “bị hiểu nhầm là đổi mới, chỉ vì mục đích muốn đổi mới” nhưng phải là “một sự khơi gợi nhắc nhớ đến mầu nhiệm Nhập thể”. Cô nói thêm “Vào những năm 1220 khi mọi người giàu có và có tất cả những gì họ cần, Thánh Bonaventura lúc đó đã đưa ra quan điểm rằng ngài mong muốn ‘đánh thức lại đức tin chai lì trong trái tim của các Kitô hữu’”.
“Tôi muốn khẳng định rằng tôi chưa thấy ai nói rằng họ cảm thấy Công Giáo hơn bởi vì họ đã xem cảnh Giáng Sinh năm nay của Vatican,” Lev nói. “Tôi đã thấy mọi người cười nhạo nó, mọi người chửi bới khắp nơi, quá nhiều. Cảnh Giáng Sinh như thế không đánh thức được một đức tin đang dật dờ. Nó chỉ làm được mỗi một điều là đang chôn vùi một niềm tin uể oải, sống dở chết dở dưới một đống chế nhạo - và nó thực sự trông giống như một sự đổi mới chỉ vì muốn có điều gì đó mới mẻ”.
Tờ National Catholic Register đã hỏi Phòng Báo chí Tòa thánh liệu có thể thay thế cảnh Chúa Giáng Sinh trước những lời chỉ trích lan rộng hay không, nhưng vẫn chưa nhận được câu trả lời.
Lev không nghĩ rằng nó phải bị loại bỏ, nhưng nói rằng sẽ đáng hoan nghênh nếu có ai đó cảm thấy tiếc và thừa nhận rằng đó là một “sự lựa chọn thiếu cân nhắc” xét vì “những chia rẽ và tổn thương mà nó đã gây ra”, nhưng cô không lạc quan lắm về khả thể có ai đó sẽ làm như thế.
Source:National Catholic Register
Chúa nhật 20 tháng 12 là Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Vọng, cũng là Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng trước khi chúng ta mừng Lễ Giáng Sinh.
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca cho chúng ta biết như sau về việc Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ:
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ”. Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Anh chị em thân mến, chào buổi sáng!
Vào Chúa Nhật thứ tư và cũng là Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta câu chuyện Truyền Tin. “Hãy vui mừng”, sứ thần nói với Đức Maria: “Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu” (Lc 1:28-31). Đó dường như thuần tuý là một lời loan báo về một niềm vui, được định sẵn để làm cho Đức Trinh Nữ hạnh phúc: vì ai trong số những người phụ nữ thời đó lại không mơ trở thành mẹ của Đấng Thiên Sai? Nhưng, cùng với niềm vui, những lời đó báo trước một thử thách rất lớn đối với Đức Maria. Bởi vì sao? Bởi vì lúc đó Đức Maria đã “hứa hôn” (câu 27). Trong tình huống này, Luật Môisê quy định rằng không được có bất cứ quan hệ luyến ái hay chung sống. Vì thế, nếu sinh con, Đức Maria đã phạm lề luật, và những hình phạt dành cho phụ nữ phạm vào tội đó thật khủng khiếp: việc ném đá đã có thể hình dung ra trước (x. Đnl 22: 20-21). Chắc chắn sứ điệp thiêng liêng sẽ tràn ngập ánh sáng và sức mạnh trong trái tim của Đức Maria; tuy nhiên, Mẹ cũng phải đối mặt với một lựa chọn quan trọng: nói “Vâng” với Chúa, tức là mạo hiểm mọi thứ, kể cả mạng sống mình, hoặc từ chối lời mời này và tiếp tục con đường bình thường của mình.
Mẹ đã làm gì? Thưa: Mẹ trả lời như thế này: “tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (Lc 1: 38). Nhưng trong ngôn ngữ mà Tin Mừng được viết ra, là tiếng Hy Lạp, nó không chỉ đơn giản là “xin vâng như thế”. Biểu hiện bằng lời nói của Đức Mẹ cho thấy một mong muốn mạnh mẽ, biểu thị ý chí mong muốn một điều gì đó sẽ xảy ra. Nói cách khác, Đức Maria không nói: “Nếu phải xảy ra như thế, thì đành để nó xảy ra…, nếu không thể làm khác hơn được…”. Tiếng xin vâng của Đức Mẹ không phải là một sự cam chịu. Nó không thể hiện một sự chấp nhận yếu ớt và phục tùng, nó thể hiện một khát vọng mạnh mẽ, một khát vọng sống động. Nó không bị động, nó đang chủ động. Mẹ không miễn cưỡng chịu khổ vì Chúa, Mẹ tuân theo lời Người. Mẹ là một người yêu mến Chúa, sẵn sàng phục vụ Chúa của mình trong mọi việc và ngay lập tức. Mẹ có thể xin một thời gian để suy nghĩ về điều đó, hoặc xin được giải thích thêm về những gì sắp xảy ra; và có thể đặt một số điều kiện... Nhưng thay vào đó, Mẹ không làm mất thời gian, Mẹ không khiến Chúa phải chờ đợi, Mẹ không trì hoãn.
Giờ đây, chúng ta hãy nghĩ về chính mình. Đã bao nhiêu lần, biết bao nhiêu lần, cuộc sống của chúng ta được tạo thành từ những sự trì hoãn, ngay cả trong cuộc sống tinh thần! Ví dụ: Tôi biết cầu nguyện là tốt cho tôi, nhưng hôm nay tôi không có thời gian… “ ngày mai nhé, ngày mai vậy, ngày mai, ngày mai…”. Hãy trì hoãn mọi việc: tôi sẽ làm việc đó vào ngày mai. Tôi biết việc giúp đỡ ai đó là quan trọng - vâng, tôi nên giúp đỡ họ. Mai nhé. Tôi sẽ làm việc đó vào ngày mai. Đó là một chuỗi liên tục những ngày mai… những trì hoãn trong mọi thứ. Hôm nay, trước thềm Lễ Giáng Sinh, Đức Maria mời gọi chúng ta đừng trì hoãn, nhưng hãy nói “xin vâng”: “Tôi có nên cầu nguyện không?” “Vâng, nên lắm”. “Tôi có nên giúp đỡ người khác không? Vâng, nên lắm”. Làm thế nào để thực hiện những điều đó? Tôi làm ngay không chút trì hoãn. Mỗi tiếng “vâng” như thế có giá phải trả của nó. Mỗi tiếng “vâng” như thế có giá phải trả của nó, chắc chắn rồi, nhưng giá phải trả ấy luôn luôn ít hơn những gì tiếng “xin vâng” dũng cảm của Đức Mẹ “tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” phải trả. Đó là tiếng “xin vâng” mang lại cho chúng ta ơn cứu rỗi.
Và chúng ta có thể nói tiếng “xin vâng” nào? Trong thời điểm khó khăn này thay vì phàn nàn về những gì đại dịch cản trở chúng ta làm, chúng ta hãy làm điều gì đó cho những người có ít hơn chúng ta: không phải là một món quà cho chúng ta và cho bạn bè của chúng ta, mà cho một người nghèo khó mà không ai nghĩ đến! Và đây là một lời khuyên khác: để Chúa Giêsu sinh ra trong chúng ta, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn: chúng ta hãy tiến bước và cầu nguyện. Chúng ta đừng để cho mình bị chủ nghĩa tiêu dùng “khiêng đi”: “Tôi phải mua những món quà này, tôi phải làm điều này, điều nọ...” Chúng ta đừng điên cuồng làm nhiều thứ vì chỉ có một điều quan trọng là Chúa Giêsu. Anh chị em thân mến, chủ nghĩa tiêu dùng đã bắt cóc Giáng Sinh của chúng ta. Chủ nghĩa tiêu dùng không có trong máng cỏ Bêlem: nhưng ở đó chỉ có nghèo đói và tình yêu. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn như Mẹ Maria đã làm: xa lánh tội lỗi, và sẵn sàng đón Chúa.
“Tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Đó là câu cuối cùng của Đức Trinh Nữ vào Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng này, và đó là lời mời gọi thực hiện một bước cụ thể hướng tới Lễ Giáng Sinh. Bởi vì nếu sự ra đời của Chúa Giêsu không chạm đến cuộc sống của chúng ta - của tôi, của anh chị em, của tất cả mọi người - nếu Lễ Giáng Sinh không chạm đến cuộc sống, thì Lễ này sẽ trôi qua vô ích. Trong kinh Truyền Tin chúng ta đọc bây giờ, chúng ta cũng sẽ nói “xin lời Chúa được ứng nghiệm trong tôi”. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta nói điều đó bằng cuộc sống của mình. Bằng thái độ này trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng chúng ta có thể chuẩn bị tốt cho Lễ Giáng Sinh.
Sau khi đọc Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, đại dịch coronavirus đã gây ra sự đau khổ đặc biệt cho những người đi biển. Nhiều người trong số họ - ước tính khoảng 400,000 người trên toàn thế giới - đang bị mắc kẹt trên những con tàu vượt quá thời hạn hợp đồng mà không thể trở về nhà. Tôi cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Ngôi Sao Biển, an ủi những người này và tất cả những người đang sống trong những hoàn cảnh khó khăn, và tôi kêu gọi các chính phủ làm mọi thứ có thể để giúp họ trở về với những người thân yêu của mình.Năm nay, những nhà tổ chức có ý tưởng rất hay là thực hiện cuộc triển lãm “100 cảnh Chúa Giáng Sinh” dưới hàng cột của quảng trường Thánh Phêrô. Có nhiều máng cỏ dùng để dạy bảo đức tin cho dân Chúa. Tôi mời anh chị em đến thăm những máng cỏ dưới hàng cột, để hiểu cách mọi người cố gắng trình bày Chúa Giêsu được sinh ra như thế nào. Những máng cỏ dưới hàng cột là một bài giáo lý tuyệt vời về đức tin của chúng ta.
Tôi chào tất cả anh chị em, những tín hữu Rôma và những người hành hương từ nhiều quốc gia, các gia đình, các giáo xứ, các hiệp hội và cá nhân. Ước gì Lễ Giáng Sinh, đang đến gần, là một dịp đổi mới nội tâm, cầu nguyện, hoán cải, tiến bước trong đức tin và tình huynh đệ giữa chúng ta. Chúng ta hãy nhìn xung quanh chúng ta, chúng ta hãy nhìn trước hết đến những người nghèo khổ: những người anh em đau khổ, dù đến từ đâu cũng là những người anh em của chúng ta. Đó là Chúa Giêsu trong máng cỏ: người chịu đau khổ là Chúa Giêsu. Hãy suy nghĩ một chút về điều này. Và có thể Giáng Sinh là một sự gần gũi với Chúa Giêsu trong anh chị em này. Nơi đó, nơi người anh em thiếu thốn đó, là cái nôi mà chúng ta phải đi đến với tình liên đới. Đây là cảnh Chúa Giáng Sinh đang sống: cảnh Chúa Giáng Sinh trong đó chúng ta sẽ thực sự gặp Chúa Cứu Thế trong những người trong cảnh quẫn bách. Với ý tưởng đó, chúng ta hãy hướng đến Đêm Thánh và chờ đợi sự hoàn thành mầu nhiệm Cứu độ.
Chúc mọi người một ngày Chúa Nhật vui vẻ. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Chúc một bữa trưa ngon miệng và xin tạm biệt!
Source:Holy See Pres Office
Trước giờ đọc kinh Truyền Tin trưa Chủ Nhật 20/12/2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã suy tư về lời “xin vâng” của Đức Maria trước tôn ý Thiên Chúa và cảnh báo không nên để chủ nghĩa tiêu dùng đánh lạc hướng tâm hồn chúng ta khỏi tinh thần thực sự của Lễ Giáng sinh.
(Tin Vatican - Devin Watkins)
Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở đầu buổi triều yết và đọc kinh Truyền Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa nhật tuần thứ tư, Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng.
Suy niệm về Tin Mừng Truyền Tin (Lc 1: 26-38), Đức Thánh Cha nói lời mời gọi trở thành Mẹ của Đấng Mêsia mang lại niềm vui thuần khiết và một sự thách đố lớn lao.
Theo Phúc Âm, Mẹ Maria đã đính hôn với Giuse, và phải đối diện với án tử hình nếu bị phát giác có thai.
“Chắc chắn, thông điệp linh thiêng này đem lại niềm vui tràn đầy và sức mạnh cho tâm hồn của Đức Maria”. “Tuy nhiên, Mẹ cũng phải đối diện với một quyết định quan trọng: đáp trả lời ‘xin vâng’ với Thiên Chúa, là bước vào một cuộc phiêu liêu mạo hiểm, thậm chí có thể thiệt thân, hoặc từ chối lời mời gọi của Chúa và tiếp tục cuộc sống thường nhật của Mẹ”.
Chủ động lời “xin vâng” với Chúa
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh đến cách Đức Maria đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa bằng một trái tim trọn vẹn dâng hiến: “Hãy thực hiện nơi tôi theo lời Sứ Thần truyền.”
ĐCT nêu ra, trong nguyên bản tiếng Hy Lạp, cụm từ được Đức Maria xử dụng “biểu thị một ý muốn mạnh mẽ, một chí khí kiên định rằng điều đó sẽ xảy ra.”
Đức Thánh Cha nói: “Vâng” không hề đơn giản như chỉ phục tùng. Mẹ Maria đã chủ động đặt mình trong thánh ý Thiên Chúa.
"Mẹ là một người phụ nữ dâng hiến trọn vẹn tình yêu để phục vụ Chúa trọn hảo và ngay lập tức."
ĐTC nói thêm Mẹ Maria đã không ngần ngại hay đòi hỏi một điều kiện nào từ Thiên Chúa cả!...
Mẹ không đắn đo thua thiệt!
Đức Thánh Cha đã suy tư về thái độ của chúng ta thường hay trì hoãn những quyết định quan trọng trong cuộc sống, ngay cả trong những quyết định về đời sống tâm linh của chúng ta.
ĐTC cho hay chúng ta biết rõ: thật là tốt nếu chúng ta cầu nguyện, nhưng chúng ta lại nại tới việc chúng ta không có thời giờ mà thoái thác!.
“Tôi biết giúp đỡ tha nhân là điều quan trọng, nhưng hôm nay tôi không làm được... Tôi sẽ làm ngày mai."
Cho nên, khi chúng ta bước bước vào Mùa Giáng sinh, Mẹ Maria mời gọi chúng ta hãy đáp lời “xin vâng” một cách nhanh chóng và can đảm với bất cứ giá nào…
Bất chấp điều kiện khó khăn
Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi các Kitô hữu hãy xem xét những cách thức mà Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta đáp lời “xin vâng”, đặc biệt trong những khó khăn đang bủa vây trong mùa Giáng sinh năm 2020 này…
“Thay vì phàn nàn vì thời buổi khó khăn trước cơn đại dịch, đang cản ngăn chúng ta thực hiện, hay làm điều gì đó cho những người kém may lành hơn: không phải món quà thứ mười một cho bản thân và bạn bè của ta, mà cho một người đang cần tới… mà không ai nhớ tới!”
Sau đó, Đức Thánh Cha cảnh báo không nên để việc mua sắm làm choáng ngợp trái tim tâm hồn chúng ta trước kỳ lễ.
“Chủ nghĩa tiêu thụ đã chớm ngợp tinh thần Giáng sinh chân chính,” ĐTC nói và nêu lên rằng Thánh Gia đã mang lại cho chuồng bò ở Bethlehem dù nghèo hèn hôi hám, được ươm đầy tình yêu thương, chứ không phải bằng chủ nghĩa tiêu xài...
Đức Thánh Cha Phanxicô kết luận bằng cách mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn cho lễ Giáng sinh bằng chính lời cầu nguyện, “giống như lời cầu xin của Mẹ Maria: Xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ, để chúng con sửa soạn sẵn sàng đón Chúa”.
Buổi lễ có sự hiện diện của Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước, Giám mục Giáo phận Phú Cường; Cha Giuse Tạ Huy Hoàng, Chánh xứ Tống Viết Bường, Tổng Giáo phận Sài Gòn và là giáo sư Học viện Công Giáo Việt Nam; Cha Tôma Đinh Ngọc Lộc, MF, Giám tỉnh Tỉnh dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam; Cha Micae Hoàng Đô Đốc, MF và Cha Giuse Nguyễn Văn Thắng, MF, Chánh xứ và phó xứ Bà Trà; cùng gần 200 doanh nhân đến từ Giáo phận Phú Cường và Tổng Giáo phận Sài Gòn.
Xem Hình
Chương trình được bắt đầu vào lúc 14h00, các anh chị em DNCG đã sinh hoạt, ca hát thánh ca Giáng sinh, suy niệm Tin mừng, kết nối và chia sẻ cơ hội kinh doanh cho nhau. Đặc biệt, các anh chị em doanh nhân còn có dịp nhìn lại chức năng ngôn sứ, tư tế và vương đế khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội với phần chia sẻ của Cha Giuse Tạ Huy Hoàng.
Sau bài giảng Tin mừng, các doanh nhân tình nguyện tham gia vào Ban Điều hành đã được Đức Cha Giuse thẩm vấn và tuyên hứa thực thi nhiệm vụ, Đức Cha Giuse cũng đã trao ủy nhiệm thư cho Cha Micae Hoàng Đô Đốc, Chánh xứ Bà Trà, làm linh hướng cộng đoàn DNCG Giáo phận Phú Cường, đồng thời bổ nhiệm 13 doanh nhân vào vị trí Ban Điều hành nhiệm kỳ 2020-2024, do anh Giuse Nguyễn Văn Thu làm trưởng ban.
Chương trình khép lại với phần liên hoan vào lúc 19h15.
Ước mong rằng với việc thành lập cộng đoàn DNCG Giáo phận Phú Cường, các DNCG nói chung, đặc biệt các DNCG Phú Cường nói riêng, luôn ý thức về sứ vụ của mình trong Bí tích Rửa tội để hiểu rằng dù bạn là ai, bạn có làm gì, chiến lược, kế hoạch, mục tiêu của bạn có lớn mạnh như thế nào, có vươn tầm ra thế giới như thế nào thì bạn cũng hãy bắt đầu từ những việc căn bản nhất, đó là chu toàn bổn phận và trách nhiệm của một người Kitô hữu.
Những anh chị em doanh nhân nào muốn gia nhập, cộng đoàn DNCG Giáo phận Phú Cường hân hoan chào đón. Xin liên lạc với anh Giuse Nguyễn Văn Thu, qua số điện thoại: 0901647999 – 0933033557 hoặc anh Giuse Ngô Văn Minh, qua số điện thoại: 0964847568.
Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho cộng đoàn DNCG Phú Cường, để anh chị em lan tỏa Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến trong kinh doanh, nhằm làm chứng cho Tin Mừng của Chúa trong công việc hằng ngày.
Têrêsa Lê Nguyễn Phương Anh
Tổng Thư ký – Trưởng ban Đức Tin Đào Tạo, cộng đoàn DNCG Phú Cường
Bao Giáng Sinh Thánh vẫn chưa phai mờ !
Giờ đây Cộng sản tam vô,
Vô thần tôn giáo bao giờ hiểu nhau?
Đạp xe ra phía bờ sông Sài gòn, ngồi nghỉ trên chiếc ghế xi-măng. Bên kia sông xóm làng đã ngủ yên, vài con đò nhỏ lặng lờ trôi theo dòng nước làm lay động ánh đèn đêm. Bên này sông, nhà hàng nổi giăng đèn màu rực rỡ với cây thông Giáng sinh lấp lánh muôn màu và ông già Noel đang niềm nở đón khách xuống giải trí mua vui. Tôi chợt nhớ những tấm thiệp Giáng sinh –ông già Noel đánh chiếc xe chở đầy quà kéo bởi những chú hươu Bắc cực, băng qua cánh đồng băng tuyết đem quà đến cho trẻ em tận những xóm làng xa xôi nghèo khổ. Nhưng tại sao giờ này ông lại đứng đây đón khách sang trọng nước ngoài và các cán bộ cao cấp mới tập tễnh ăn chơi, vung vãi tiền bạc..Sao ông không đến với trẻ em nơi xóm lao động nghèo khổ hay những vùng kinh tế mới thiếu ăn? Tôi không trách ông già Noel mà trách kẻ dẫn đường để ông lạc lối tới đây.
Tôi vội đứng lên vì nhớ đã hẹn ông Hai Cầu Kinh đêm nay xuống thăm và gửi ông ít quần áo không còn dùng đến trước ngày ra đi. Theo đường bờ sông, dọc khu Hải quân công xưởng về phía Sở thú, Thị Nghè, Hàng Xanh để lên Cầu Kinh là con đường quen thuộc với tôi trong cuộc mưu sinh hàng ngày kể từ khi tôi ra khỏi tù Cộng sản.
Lúc tới nơi ông Hai đang ngồi trước lều bên sông chờ tôi. Gọi nơi ở của ông là chiếc lều chưa đúng vì nó được ghép bằng đủ loại phế thải: tôn rách, thùng bể, ny-lông, vải vụn…Chiếc lều của ông giống như nhiều chiếc chòi tôi thấy dưới chân những nhà cao tầng nghễu nghện hay dưới hầm cầu đầy rác rưởi, khi ra vào phải lết bằng mông hay bò vào mới lọt. Vì vậy ông Hai không thể tiếp tôi bên trong, ông trải tấm ny-lông phía trước với chiếc đèn dầu leo lét, một ấm nước chè bốc khói và ống điếu thuốc lào.
Tháo gói đồ phía sau xe, tôi vội lên tiếng:
- Ông Hai chờ tôi có lâu không?
Miệng cười xuề xoà nhưng không che dấu nổi ánh mắt u buồn xa xăm.
- Ngày nào cũng vậy, có ai đâu mà chờ. Hôm nay cậu đến cũng như mọi ngày thôi.
- Hôm nay đặc biệt ông Hai ạ ! Tôi tới thăm ông lần cuối và gửi ông ít quần áo sẽ không dùng đến nữa.
- Cậu định đi đâu? Tới nơi khác sinh sống hay…..
Ông dừng nói, liếc nhìn quanh xem có ai không. Tôi cười:
- Không phải vượt biên mà đi chính thức. Chính phủ Hoa kỳ đã can thiệp với đảng đương quyền VN cho Tù nhân chính trị chúng tôi qua Mỹ định cư.
- Vậy cậu đi một mình?
- Không ông Hai, may mắn là cả vợ con tôi cùng đi.
- Mừng cho cậu! Cậu buồn hay vui?
- Vui buồn lẫn lộn, nhưng cuộc ra đi nào cũng hy vọng tươi sáng hơn.
Ông rót trà vào hai ly nhựa, nâng lên trao cho tôi một ly:
- Chúc cậu và gia đình thượng lộ bình an!
- Cám ơn ông và xin chúc ông ở lại mạnh khoẻ !
Ông yên lặng uống từng ngụm trà nóng như cố nuốt theo những cay đắng cuộc đời.
Tôi quen ông Hai sau gần 10 năm ngục tù CS trở về, phụ gíúp anh chị trong công việc làm ăn để sống qua ngày và tôi thường gặp ông Hai lui tới bổ củi hay vét ao cá sau nhà. Tôi được biết ông là một Hạ sĩ quan trong binh chủng chiến đấu và đã từng tham dự nhiều trận chiến ác liệt… Ông có một gia đình đầm ấm vợ và hai con. Nhưng sau khi miền Nam bị Cộng sản xâm chiếm ông trở về quê ngoài Quảng Trị thì làng mạc nhà cửa đã bị thiêu rụi, vợ con không biết phiêu bạt phương nào, sống chết ra sao! Ông đã dò hỏi và tìm kiếm khắp nơi nhưng người thân vẫn biệt vô âm tín. Ông trở vào Sài gòn và theo đoàn người nghèo đói trôi dạt tới bờ sông Cầu Kinh này. Từ đó mọi người cũng chẳng cần biết tên thật ông nên cứ gọi là ông Hai Cầu Kinh cho dễ nhớ.
- Cậu đang suy nghĩ gì vậy? Uống ngụm nước cho ấm bụng. Gió đêm nay lạnh hơn.
- Tôi đang suy nghĩ về tôi và về ông.
- Cậu suy nghĩ thế nào?
- Tôi ra đi nơi xứ lạ quê người không biết rồi sẽ ra sao? Còn ông ở lại quê nhà cuộc sống sẽ thế nào?
- Hơi đâu mà lo xa. Chị cậu cho biết trước kia cậu là một đứa trẻ cha mẹ mất sớm cố lập thân rồi cũng nên người.
- Nên người như hôm nay phải không?
- Do thời thế chứ đâu bởi cậu. Trước kia cậu cũng là một nhà giáo nhiều người yêu kính, rồi vào quân đội chọn một binh chủng thứ thiệt. Cậu đúng là một nghệ sĩ chịu chơi hết mình.
- Cám ơn ông đã an ủi và khích lệ. Tôi nghĩ mỗi người lính chiến chúng ta đều là một nghệ sĩ, dâng cả tuổi trẻ và thân mình cho Quê hương nhưng vẫn chan hoà thi vị trong cuộc sống gian nguy. Ông cũng là nghệ sĩ hiên ngang đó…
Tiếng chuông giáo đường Thanh Đa vang dội từng hồi báo hiệu Thánh lễ nửa đêm sắp đến. Ông Hai hỏi:
- Cậu có đi lễ đêm nay không?
- Có, còn ông?
- Tôi được mấy gia đình Công Giáo mời mừng lễ trong đó có chị cậu. Tôi sẽ chung vui cùng mọi người cho qua đêm.
Tôi đứng lên cáo biệt ông vì phải về cùng gia đình dự lễ Nửa đêm. Gió lạnh ngoài sông thổi vào mang theo mùi hôi tanh của dòng sông đầy cặn bã thành phố thải ra. Có phải những con người như ông Hai đang sống chen chúc bên bờ sông này cũng là những cặn bã của một xã hội thối nát hay sao?
Tôi định để lại chiếc xe đạp cho ông, nhưng nhớ đó là món quà kỷ niệm tôi lỡ hứa cho người anh vùng kinh tế mới. Tôi xiết tay ông với lời chúc chân thành:
- Chúc ông một lễ Giáng sinh vui vẻ và ở lại khoẻ mạnh !
Ngồi lên xe tôi còn quay lại, giơ tay vẫy chào. Bóng ông đứng in hình bên bờ sông lộng gió, chiếc áo mong manh bay phất phơ trong đêm tối….
Tôi đã sống ¾ những mùa Noel cuộc đời trên Quê hương mình.
Những đêm Noel tuổi thơ bừng tỉnh khi chuông nhà thờ quê đổ hồi giục giã, bước vội vàng theo mẹ và chị đi dự Lễ Đêm.
Những Noel nơi tiền đồn biên giới, nóng lòng chờ đợi Linh mục Tuyên úy theo chuyến trực thăng từ tỉnh lên làm lễ trong lúc tiếng súng xa xa vọng về.
Những Noel trong trại tù CS tại miền Bắc, âm thầm, xót xa, thương nhớ, thì thầm lời kinh nguyện bên nhau để sưởi ấm lòng nơi núi rừng giá buốt.
Còn lại những mùa Noel cuộc đời đang nối tiếp nơi đất khách quê người. Tôi không choáng ngợp trước nền văn minh đệ nhất hoàn cầu, không mơ mộng dưới ánh đèn muôn màu rực rỡ như truyện cổ tích thần tiên của Noel tuổi thơ.
Giờ đây thấm thoát đã 30 mùa Giáng sinh trôi qua trên đất Mỹ, tôi chạnh nghĩ tới ông Hai và người thân về kỷ niệm một đêm Noel cuối cùng tại Quê nhà. Nhớ thương nhất, đêm Noel từ biệt anh chị và các cháu nơi vùng kinh tế mới. Đêm ấy, các cháu tụ tập bạn nam nữ cùng trang lứa trong căn nhà tranh vách đất từ giã tôi. Các cháu ngồi quây quần quanh nồi cháo cá nóng hổi bốc mờ sương khói núi rừng. Cây ghi ta thùng gõ nhịp theo những giọng ca buồn về Noel, quê hương và tình yêu. Nhìn những khuôn mặt già trước tuổi vì nhuộm nắng mưa, lòng tôi dâng lên niềm đau xót. Không biết tương lai các cháu rồi sẽ ra sao hay sẽ bị vùi dập dưới một chế độ tàn ác vô nhân đạo?...Tiếng cô cháu nâng chén cháo trước mặt làm tôi bừng tỉnh:
-Cậu ăn cho ấm bụng ! Mọi người nâng ly chúc cậu thượng lộ bình an !
-Cậu cũng chúc các con ở lại an lành mạnh khỏe !
Tôi ôm từng cháu dặn dò trước lúc chia tay……….
Giờ này tại Hoa Kỳ, Noel đang tràn ngập nơi đây với muôn sắc của cây cỏ lá hoa, đèn màu, quà tặng, thiệp chúc….Giáo đường thì sơ sài như sợ tốn phí, trong khi những siêu thị, nhà hàng, tụ điểm giải trí vui chơi quá lộng lẫy sa hoa để moi tiền thiên hạ. Những lời chúc khuôn rập được sắp sẵn, mọi người gặp nhau cứ việc bật ra như nút bấm khỏi cần suy nghĩ: ’Merry Christmas ! Happy New Year ! “ Không còn câu nào khác hay sao? Người Mỹ đâu có tâm hồn phong phú nghệ sĩ như Dân tộc Việt Nam phải không?
Cứ nghĩ mà xem ngày Tết VN biết bao nhiêu câu cầu chúc mang đầy ý nghĩa tùy theo hoàn cảnh, địa vị, tuổi tác….. Cuộc sống nơi đây cứ đuổi theo lợi nhuận và con người phải vội vàng chạy theo guồng máy cuốn trôi, nếu không sẽ bị văng ra ngoài quĩ đạo, nên con người hà tiện cả lời nói với nhau!...
Tôi mong ước một ngày về thăm lại Quê hương vào mùa Giáng sinh, để cùng họ hàng, bạn bè xum họp và với ông Hai ngồi bên sông Cầu Kinh, nhấp từng ngụm trà nóng, đón gió sông lồng lộng thổi vào không còn vương mùi hôi tanh của một xã hội bần cùng thối nát… Nghe như tiếng chuông giáo đường Thanh Đa đang vang vọng từng hồi. Tôi được trở về cội nguồn Dân tộc với dĩ vãng êm đềm, tâm hồn thanh thản an vui trong một Đất nước an bình, ấm no hạnh phúc và những đem Noel thánh thiện trở lại với Quê hương yêu dấu.
Nhưng than ôi ! Không biết tôi có còn được hưởng những niềm vui nhỏ bé đó không?
ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa
Nguyên tác: Jaroslav Pelikan,
Bản tiếng Việt: Vũ Văn An
CHƯƠNG MƯỜI: CHÀNG RỂ CỦA LINH HỒN
Người yêu là của tôi và tôi là của chàng
Giêsu ơi, Người Yêu của Linh hồn con ơi,
Hãy để con tựa vào lòng Chúa
Khi nước tràn gần
Khi bão vẫn còn hung hăng
Charles Wesley viết bài thánh ca quen thuộc bằng tiếng Anh trên sau cuộc trở lại của em trai Gioan của ông năm 1738, khi tâm hồn ông “ấm lên cách lạ lùng” trong lúc đọc “Lời tựa Thư Thánh Phêrô Gửi Tín hữu Rôma” của Martin Luther. Từ đó, như nhà nghiên cứu thánh ca John Julian từng nói, “tiếng tăm của nó gia tăng với thời gian, và ít có tuyển tập nào loại bỏ nó” (1). Tuy nhiên, như chính Julian nhận xét sau đó, “đoạn mở đầu của bài thánh ca này đã khiến nhiều người thắc mắc... Thắc mắc thứ nhất là áp dụng hạn từ “Người Yêu” vào Chúa chúng ta”, một điều mà nhiều duyệt xét đã đổi thành “Giêsu ơi, nơi náu ẩn của linh hồn con ơi” hay “Giêsu ơi, Đấng Cứu Vớt linh hồn con ơi”. Vài năm trước đó, bá tước Nikolaus von Zinzendorf, sáng lập viên Nhà Thờ Moravian ở Herrnhut (mà từ đó, Wesley tiếp nhận một số gợi hứng, có lẽ cho cả bài thánh ca này nữa), đã sáng tác một bài thánh ca không kém nổi tiếng “Seelenbrautigam, O du Gottes Lamm!” (2).
Lý lẽ bênh vực tính hợp pháp của việc gọi Chúa Giêsu là “Người Yêu của linh hồn con” hay “Chàng Rể của linh hồn con” đứng vững hay xụp đổ là do tính hợp pháp, cả về tâm lý lẫn tôn giáo, của toàn bộ kinh nghiệm huyền nhiệm, và sau đó, do việc đánh giá các danh xưng phụ đặc thù của nó mà người ta quen gọi là “nền huyền nhiệm Kitô” (Christ-mysticism)(3). Theo một định nghĩa tạm đưa ra để làm việc, huyền nhiệm học có thể được nhận diện như là “trải nghiệm tức khắc được nên một với Thực Tại Tối Hậu” (4). Dù không phải là một hiện tượng phổ quát, ít nhất nó cũng là một hiện tượng được phân bổ rộng rãi tới hầu hết các chủng tộc trên địa cầu và hầu hết các tôn giáo của nhân loại. Trong một số tôn giáo, nhất là Ấn Giáo và sau đó, Phật Giáo vì phát xuất từ các nguồn Ấn Giáo, huyền nhiệm học rất gần với tâm điểm cái hiểu có tính qui phạm về truyền thống tôn giáo phát xuất từ các nhà giải thích chính, đến nỗi sự phân biệt giữa huyền nhiệm học và tôn giáo trở nên khó mà nhận diện. Trong các tôn giáo khác, chẳng hạn trong một số xu hướng của Khổng Giáo, các yếu tố huyền nhiệm học, nếu có, xem ra có vẻ khó nắm hơn nhiều.
Trong Kitô giáo, huyền nhiệm học Kitô là điều xuất hiện khi nhân vật Giêsu Nadarét trở thành đối tượng của trải nghiệm huyền nhiệm, tư duy huyền nhiệm và ngôn ngữ huyền nhiệm. Đứng trong hàng ngũ các tiên tri liên tiếp nhau của Israel, Chúa Giêsu, qua các sứ điệp của Người, vốn được giải thích như là phản đề của hầu hết những điều vốn được gọi là huyền nhiệm. Vì, trong phân biệt dí dỏm của Abraham Joshua Heschel, một tác giả với nhiều nghiên cứu bác học cả về các tiên tri Israel lẫn các nhà huyền nhiệm vĩ đại của Do Thái Giáo, “Điều quan trọng trong các hành vi huyền nhiệm là một điều gì đó xẩy ra; điều quan trọng trong các hành vi tiên tri là một điều gì đó được nói ra” (5). Tuy nhiên, văn chương tiên tri của Kinh Thánh Do Thái, từ thị kiến khai mở của Isaia tới các xuất thần khải huyền của Êdêkien và Đanien, đầy rẫy những điều nghe ra rất giống với trải nghiệm huyền nhiệm, tư duy huyền nhiệm, và ngôn ngữ huyền nhiệm. Đàng khác, trong Do Thái Giáo hậu kinh thánh, các yếu tố này thường đã đóng một vai trò nổi bật (6).
Mặc dù truyền thống huyền nhiệm bên trong Do Thái Giáo không thể bị làm ngơ, tuy nhiên, điều thích đáng là cần phải nhận định rằng việc xuất hiện của huyền nhiệm học Kitô liên hệ gần gũi nhất không phải với truyền thống này, mà với điều, như Gregory Dix từng phát biểu, và trên đây chúng ta từng gọi là “phi Do Thái hóa Kitô Giáo”. Và không phải trong các thửa vườn Do Thái mà là trong các thửa vườn Hy Lạp, Giáo Hội đã vun sới những bông hoa thanh tú nhất, mà cũng nguy hiểm và gây ra nhiều vấn nạn nhất, của nền huyền nhiệm Kitô. Vì phần lớn từ vựng huyền nhiệm học, dù được dùng trong lòng sùng kính con người Chúa Giêsu, vẫn đã phát xuất từ các nguồn Tân Platông (7). Cái hiểu về con đường đạt tới mối tương quan với Thực Tại Tối Hậu như một cuộc đi lên (anagōgē), cũng như lối liệt kê cổ điển 3 bước của cuộc đi lên huyền nhiệm này như thanh luyện (katharsis), soi sáng (ellampsis) và kết hợp (henōsis), tất cả đều có thể tìm thấy nguồn nơi Proclus, nhà hệ thống hóa vĩ đại của phái Tân Platông thế kỷ thứ năm CN; và qua ông, phần lớn phát xuất từ Plotinus, và cuối cùng từ chính Platông. Dù cả Plotinus lẫn Proclus đều là những người phê phán Kitô giáo, họ cũng nợ tôn giáo này khá nhiều; và, ngược lại, các địch thủ Kitô giáo của họ cũng chia sẻ phần lớn chủ nghĩa Tân Platông với họ, nhất là chính các yếu tố của viễn kiến huyền nhiệm.
Cho nên, không lạ lùng gì khi vào thế kỷ thứ sáu, xuất hiện một bộ trước tác bằng tiếng Hy Lạp xem ra đã pha trộn các yếu tố Kitô giáo và Tân Platông vào với nhau một cách gần như không thể phân biệt nổi và bộ trước tác đó mang tên Dionysius Hội viên Areopagô (Dionysius the Areopagite). Người có tên Dionysius này, theo trình thuật của Tông Đồ Công Vụ, là người đàn ông duy nhất được nêu tên cùng với các phụ nữ “tham gia và tin” ở Athens, đáp lại lời rao giảng của Tông Đồ Phaolô; sang thế kỷ thứ hai, dường như ông được biết như là Giám Mục đầu tiên của Giáo Hội Kitô giáo ở Athens; đến thế kỷ thứ sáu, bỗng nhiên ông cho xuất bản bộ sách khổng lồ gồm các suy tư Kitô giáo Tân Platông; và sang thế kỷ thứ chín, ông được nhận diện là Thánh Denis, thánh bổn mạng của nước Pháp và là Giám Mục thế kỷ thứ ba của Paris (8). Được chứng thực với ngần ấy các thành tích hết sức gây ấn tượng chỉ thiếu tính tông đồ, tư duy của vị Ngụy Danh-Dionysius này được chấp nhận là chân chính gần như không ai phản đối vào thế kỷ thứ sáu và duy trì được vị thế ấy suốt cả một thiên niên kỷ, không bị ai bác bỏ, không hề bị nghiêm túc thách thức cho tới các thế kỷ 15 và 16.
Con người Chúa Giêsu chiếm vị trí ra sao trong các sơ đồ huyền nhiệm được trình bầy trong các trước tác nguỵ danh này của người mang tên Dionysius Hội viên Areopagô? Câu trả lời không dễ dàng. Vì, dù, theo lời một sử gia hàng đầu về tư duy Byzantine, “chắc chắn Dionysius... có nhắc đến tên Chúa Giêsu Kitô và tuyên xưng niềm tin của ông vào việc nhập thể”, nhưng phải nhận rằng “cấu trúc trong hệ thống của ông hoàn toàn độc lập với việc ông tuyên xưng đức tin của mình. ‘Chúa Giêsu’ đối với ông là... ‘nguyên lý, yếu tính... của mọi sự thánh thiện và của mọi nghiệp vụ thần thiêng’”, chứ không theo bất cứ nghĩa trung tâm và quyết định nào như con của Đức Maria và là người Nadarét (9).
Tuy nhiên, bất kể tư cách Chúa Giêsu trong huyền nhiệm học Kitô giáo Tân Platông của Ngụy Danh-Dionysius có ra sao, lịch sử sau đó của nền huyền nhiệm Kitô được gợi hứng bởi nó cho thấy một tổng hợp phức tạp và tinh tế giữa các yếu tố Tân Platông và Kinh Thánh. Thành tựu của tổng hợp này là công trình lịch sử của Hiển Tu Maximus thế kỷ thứ bẩy, người khởi đầu công trình của mình tại Constantinople nhưng sống phần lớn đời mình trong lưu đầy tại tây Phương (10). Đến lúc Âu Châu bắt đầu nổi danh, nghĩa là vào thời Charlemagne thế kỷ thứ chín, tư duy và hình ảnh huyền nhiệm mới đại biểu cho tổng hợp ấy và ta nên lưu ý điều này: cả Hiển Tu Maximus lẫn Ngụy Danh-Dionysius đều được dịch từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Latinh thời Charlemagne và do đó sẵn có cho tây Phương. Phần lớn nền huyền nhiệm Kitô của thời Trung Cổ và sau đó đều phát xuất từ việc du nhập vào tây Phương, ở thế kỷ thứ chín, nền văn chương Tân Platông và Kitô giáo này, vừa của Dionysius vừa của Maximus, cùng một lúc.
Dù Ngụy Danh-Dionysius chắc chắn là nguồn của nó, phần lớn gợi hứng của nền huyền nhiệm Kitô là việc giải thích Diễm Ca (Bài Ca Salômôn) như một ẩn dụ Kitô giáo. Như phần lớn các học giả ngày nay nhất trí, bất luận họ là Do Thái, Công Giáo hay Thệ phản, Diễm ca khởi thủy là những vần thơ ca ngợi tình yêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Nhưng suốt trong lịch sử của nó, thực ra, nó đã được đọc một cách ẩn dụ, và thậm chí, nó còn được lồng vào quy điển kinh thánh Do Thái theo cùng một cách. Bảo vệ tính qui điển của nó tại công đồng Jamnia năm 90 CN, là Công Đồng nhằm ổn định qui điển Kinh Thánh Do Thái, giáo sĩ nổi danh Aqiba tuyên bố “Cả thế giới không xứng đáng với ngày Diễm Ca được ban cho Israel, vì toàn bộ Sách Thánh đều thánh thiện, nhưng Diễm Ca thánh thiện hơn hết”. Từ lối giải thích này phát xuất qui luật được các giáo sĩ Do Thái công bố: “ai láy rền [trills] giọng nói khi đọc Diễm Ca trong một nhà tiệc và coi nó như một loại bài ca thì không được dự phần vào đời sau” (11).
Liệu việc ẩn dụ hóa Diễm Ca có trước tư cách qui điển của nó trong Do Thái giáo hay không thì đây là vấn đề còn đang tranh luận giữa các học giả; nhưng đến thời các nhà giải thích Kitô giáo nhận trách nhiệm hiểu biết nó, thì dứt khoát nó là một ẩn dụ, và mãi là như thế cho tới thời cận đại. Như Jean Leclercq từng lưu ý, Bài Ca Salômôn là “cuốn sách được đọc nhiều nhất, và thường được chú giải trong môi trường đan viện trung cổ” hơn cả 4 sách Tin Mừng. Và mặc dù, theo phân biệt của Leclecq, chú giải kinh viện đối với cuốn sách “phần lớn nói đến các mối tương quan của Thiên Chúa với toàn thể Giáo Hội,... đối tượng của chú giải huyền nhiệm đúng hơn là các mối tương quan của Người với mỗi linh hồn, sự hiện diện của Chúa Kitô trong đó, sự kết hợp thiêng liêng thể hiện qua đức ái” (12). Bản chú giải Kitô giáo đầy đủ và sớm sủa nhất về nó hiện chúng ta có phát xuất từ Origen thế kỷ thứ ba, tiếp theo là bản của Thánh Grêgôriô thành Nyssa thế kỷ thứ tư; nhưng bản chú giải vĩ đại nhất phát xuất từ Thánh Bernard thành Clairvaux thế kỷ 12, gồm 86 bài giảng bao trùm 2 chương đầu và phần đầu chương ba (13).
Đọc qua con mắt ẩn dụ hóa của Thánh Bernard, Diễm Ca trở thành trình thuật về Chúa Giêsu như Chàng Rể của Linh Hồn. “Nhờ linh hứng trên cao, [Vua Salômôn] hát ca ngợi Chúa Kitô và Giáo Hội của Người, ơn yêu đương thánh thiện, và bí tích hôn nhân trường cửu; và đồng thời, ngài phát biểu các khát vọng sâu đậm nhất của linh hồn thánh thiện” (14). Do đó, ngài tuyên bố, “ipsum saltem hominem homo hominibus loquor: trong tư cách một con người phàm nhân, tôi nói về Người như một con người phàm nhân đối với một con người phàm nhân khác” (15). Lời tuyên bố đó dẫn ngài rải khắp mọi giai đoạn của cuộc đời và nhục hình của Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng, “mọi quan tâm và trải nghiệm đắng đót của Chúa tôi”: thời thơ ấu, lao động, rao giảng, cầu nguyện, ăn chay, thập giá, và được chôn cất của Người, tất cả đều là một chú giải về lời lẽ của Diễm Ca (1:13), “Người yêu của tôi đối với tôi là một túi mộc dược” (16). Vì mộc dược vốn là một ẩn dụ cho nỗi thống khổ của Người, nên hoa huệ được ca ngợi trong Diễm Ca tượng trưng cho vinh quang và mọi phước lành “trong mọi biến cố đời Người” (17). Và do đó, “nụ hôn” được Diễm Ca nói đến là “chính người mang tên Giêsu Kitô” dùng miệng ban nụ hôn; và qua bản tính nhân loại của Người, nhân loại đón nhận nụ hôn đó (18). Thánh Bernard viết “Chính Người với ngôn từ sống động và mạnh mẽ với tôi là một nụ hôn... đem lại niềm vui, tiết lộ bí quyết” (19). Linh hồn đáp trả lời mời mọc của Chàng Rể mình và theo chàng vào phòng hoa chúc yêu đương. Tình yêu của chàng dành cho linh hồn, như đã được phát biểu trên thập giá, trở thành nguồn và đối tượng tình yêu của linh hồn dành cho chàng: “chính tình yêu này rù quyến tình âu yếm của tôi cách dịu ngọt hơn, đòi hỏi nó cách công chính hơn, gìn giữ nó bằng những sợi dây thân thiết hơn và bằng một sức mạnh dữ dội hơn” (20). Kết thúc của cuộc trao đổi yêu đương này giữa linh hồn và Chàng Rể của Linh Hồn chính là thành tựu của cuộc kết hợp được cử hành bằng lời lẽ nàng dâu linh hồn (Diễm Ca 2:16):
Người yêu của tôi là của tôi và tôi là của chàng,
Chàng cho đàn chiên của chàng gặm cỏ giữa đồng huệ.
Như một chú giải trước đó về câu trên từng viết, “nói xong, hai người nên một: Thiên Chúa đến với linh hồn, và ngược lại, linh hồn kết hợp với Thiên Chúa. Vì linh hồn thốt lên, ‘Người yêu của tôi là của tôi và tôi là của chàng, Chàng cho đàn chiên của chàng gặm cỏ giữa đồng huệ’. [Tôi là] của chàng Đấng đã biến đổi bản tính phàm nhân của chúng ta từ lãnh vực những hình hài mờ tối (shadowy appearances) qua lãnh vực chân lý tối hậu” (21).
Ý niệm huyền nhiệm đi lên cung cấp khuôn khổ cho một trong những tuyệt tác phẩm của nền huyền nhiệm học Kitô thời Trung Cổ, Hành Trình của Linh Hồn Đi Vào Thiên Chúa (Itinerarium mentis in Deum) của Thánh Bonaventura (22). Tâm trí bắt đầu nơi nó hiện hữu, giữa những tạo vật hữu hình của thế giới khả giác. Nhưng càng ngắm nghía các tạo vật này, nó càng tràn ngập ngỡ ngàng và trọng kính và khát mong lên cao hơn. Việc nó chiêm ngưỡng chính nó, vì là “gương của tâm trí ta”, làm nó tràn ngập khát khao được cảm nghiệm Thiên Chúa nhiều hơn và cao hơn (23). Bị tội lỗi giữ chân lại, nó khát khao được tha thứ và ơn thánh. Bị đêm tối thế gian làm cho mù lòa, một đêm tối do chính nó tạo ra và do ma quỉ rảo quanh, nó hoài mong ánh sáng trường cửu. Do đó, từng giai đoạn liên tiếp nhau, tâm trí chuyển dịch từ tạo vật lên Đấng Tạo Dựng. Để làm được việc này, nhà huyền nhiệm phải thừa nhận không những năng lực của trí khôn, mà cả các giới hạn của nó, và phải thừa nhận thế chủ vị của ý chí, của ước mong, của tình yêu. Theo Thánh Bonaventura, đối với mỗi giai đoạn của cuộc đi lên huyền nhiệm hay itinerarium này, “cây thang” của bản tính phàm nhân nơi Chúa Giêsu đều có tính quyết định (24). Chúng ta đi lên từ chân Người tới các vết thương ở cạnh sườn Người tới đầu Người, xưa kia đầy mão gai nay đầy vinh quang chói lọi. Bằng ngôn ngữ Diễm Ca, Chúa Giêsu mời gọi linh hồn đến với Người và ở lại với Người. Thánh Bonaventura lý luận rằng “nếu hình ảnh là một họa ảnh được phát biểu” thì “trong Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình từ bản tính”, nhân loại có thể “vươn tới một điều hoàn thiện” (25).
Như thế, 3 giai đoạn của cuộc đi lên huyền nhiệm, thanh tẩy, soi sáng, và kết hợp, dễ dàng được thích ứng với hình ảnh Chúa Kitô như Chàng Rể của Linh Hồn. Trước khi linh hồn có thể dám hy vọng có được đối tượng khát mong của mình, nó phải được thanh tẩy khỏi mọi vết nhơ và nhận được ơn tha thứ tội lỗi. Nhưng nó cũng cần được thanh tẩy khỏi các bận bịu lo toan cho chính cái bản ngã xác thịt của nó, với vật chất và mọi sự thuộc giác quan. Vì tính xác thịt bẩm sinh của mọi hữu thể phàm nhân, “Thiên Chúa Ngôi Lời đã thành xác phàm [Verbum caro factum est]” nghĩa là trở thành “xác thịt” theo nghĩa đen. Vì chỉ có thế, Người mới có thể “lôi cuốn vào tình yêu cứu rỗi đối với xác thân thánh thiêng của Người mọi tình âu yếm của những con người xác thịt, những con người vốn không thể yêu thương cách nào khác hơn cho bằng cách xác thịt, và do đó, từng bậc, lôi cuốn họ vào tình âu yếm tinh tuyền và thiêng liêng” (26). Chúa Giêsu chuyển dịch từ thời thơ ấu tới thời trưởng thành, để ban phát sự thanh tẩy này cho mọi lứa tuổi của nhân sinh (27): do đó, bằng một tổng hợp hoàn hảo, Thánh Bernard đã hòa lẫn bước đầu tiên của cuộc đi lên huyền nhiệm, tức thanh tẩy, với trình thuật Tin Mừng về cuộc sống phàm nhân của Chúa Giêsu.
Bước thứ hai của cuộc đi lên huyền nhiệm là soi sáng, và việc này cũng đã sử dụng ẩn dụ quen thuộc của Kinh Thánh coi Chúa Giêsu như Ánh Sáng. Điều này được điển hình hóa đặc biệt trong lời lẽ của Thánh Nữ Julian Norwich, người mà David Knowles gọi là “về các phẩm tính tâm và trí, một trong những người đàn bà Anh nổi tiếng nhất, có lẽ thực sự nổi tiếng nhất, thời bà” (28). Đối với Thánh Julian, “ánh sáng là Thiên Chúa, Đấng Dựng nên ta, Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần trong Chúa Giêsu Kitô Cứu Chúa của chúng ta” (29). Sự đau khổ và thập giá của Chúa Giêsu trở thành con đường để vượt thắng điều bà gọi là “bóng tối của tội lỗi” và “mù lòa” của linh hồn (30). Vì, bà nói, bóng tối của tội lỗi “không có tính cách một bản thể cũng như phân tử của hữu thể” và tự nó, không phải là một thực tại mà là một việc thiếu ánh sáng, vì sự ác chỉ là việc thiếu sự thiện và không hiện hữu như thế. Vì linh hồn tự nó không biết điều này, nên nó sống trong bóng tối như thể nó có thực. Chỉ với sự xuất hiện của ánh sáng là Chúa Giêsu và với sự mặc khải về đau khổ của Người, quyền lực của bóng tối không có thực này mới trở nên hiển nhiên và do đó mất hết ách cầm giữ của nó (31). Các nguồn sáng tự nhiên của thế giới tự nhiên cũng mất hết sức cầm giữ của chúng khi ánh sáng này áp đảo chúng. Như một nhà huyền nhiệm Anh khác, Robert Herrick (32), từng viết:
Và những điều đôi mắt tôi thường thấy
Mọi lúc, chúng
Sẽ biến mất trong Biển Đời Đời mênh mông.
Nơi trăng sẽ không bao giờ còn xoay vần;
Các vì sao; nhưng nó,
Và Đêm đen, sẽ
Chết chìm trong Ngày vô tận.
Và sau thanh tẩy và soi sáng, kết hợp sẽ đến. Ở đây, ngôn ngữ của Tin Mừng Gioan thích hợp đặc biệt để nền huyền nhiệm học Kitô sử dụng. Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Tin Mừng này rằng “Hãy ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con” (Ga 15:4); và trong lời cầu nguyện thượng tế của Người trong đêm bị phản bội, Người nài xin Cha Người cho các kẻ theo Người “để chúng nên một; thậm chí như Cha, lạy Cha, Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha, để chúng cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:21). Khi những lời Chúa Giêsu nói như thế được phối hợp với lời lẽ của Diễm Ca đã trích trên đây, “Người Yêu của tôi thuộc về tôi, và tôi thuộc về chàng”, thì sự kết hợp đời đời giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha trong mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh và không thể phân chia trở nên cơ sở cho điều mà lòng sùng kính Thệ phản sẽ gọi là unio mystica, tức sự kết hợp huyền nhiệm giữa Chàng Rể và nàng dâu, giữa Chúa Kitô và linh hồn.
Không áp đặt một sự cứng ngắc nào trên nó, người ta vẫn có thể đọc Thần Kịch (Divine Comedy) của Dante Alighieri như một tôn vinh ba giai đoạn này, dĩ nhiên, không như thể ba cantiche về Inferno, Purgatorio, Paradiso (ba ca khúc về Hỏa ngục, Luyện ngục, Thiên đàng) tương ứng với thanh tẩy, soi sáng, và kết hợp, vì chúng vốn không tương ứng (vì không giai đoạn nào trong ba giai đoạn này có thể có trong hỏa ngục); nhưng ba chủ đề này đánh dấu các bước đi lên của linh hồn, và do đó là việc đi lên của nhà thơ. Việc từng bước đọc Purgatorio nói về các phương thế nhờ đó mỗi một trong số 7 tội trọng được thanh tẩy nhờ thống hối và ơn thánh của Chúa Kitô gần như một phân tích lâm sàng điều các nhà huyền nhiệm gọi là via purgationis (con đường thanh tẩy). Do đó, ở khổ thơ 17, với nhiều âm vang của Thánh Augustinô, tội lỗi có nguồn gốc ở chỗ vô trật tự “do quá độ hay do thiếu sót” tình yêu mà với nó và vì nó mà tâm hồn con người đã được tạo nên (33). Như thế, việc thanh tẩy hệ ở việc tái lập trật tự cho tình yêu phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Việc soi sáng được nền huyền nhiệm học Kitô kiếm tìm được tuyên xưng ngay ở những dòng mở đầu của Paradiso:
La gloria di colui che tuto move
per l’universo penetra e risplende
in una parte più e meno altrove.
Nel ciel che più della sua luce prende
fu’io.
Tạm dịch:
Vinh quang của Đấng chuyển dịch mọi sự
thấm nhập vũ trụ và chiếu rọi
chỗ nhiều chỗ ít.
Tôi ở trên trời nơi tiếp nhận ánh sáng của Người nhiều nhất.
Và ở khổ thơ kết thúc Paradiso, thứ “luce etterna che sola in te sidi” (ánh sáng vĩnh cửu chỉ có ở trong Người) đã tràn ngập tâm trí nhà thơ. Để lại đàng sau các đòi hỏi của trí khôn, như các nhà huyền nhiệm kiểu Thánh Bonaventura vốn cho ai cũng phải làm thế, ông hướng về ý chí và các hoài mong của nó, điều sẽ đem ông tới hài hòa và kết hợp với Tình Yêu Thiên Chúa:
Ma già volgeva il mio disio e’l velle,
Sì come rota ch’ igualmente e mossa,
L’amor che move il sole e l’altre stelle,
Tạm dịch:
Nhưng nay ý muốn và ý chí tôi,
giống bánh xe vốn quay theo chuyển động trơn tru
đang được chuyển vần bởi Tình Yêu chuyển vần mặt trời và tinh tú.
Các thể tài thanh tẩy, soi sáng, và kết hợp huyền nhiệm với Chúa Kitô Chàng Rể của Linh Hồn cũng đã lên khuôn cho các mô tả đời sống các thánh cả trong văn chương lẫn nghệ thuật. Nhiều mô tả loại này xuất hiện trong hạnh các thánh nữ, cả thời Trung Cổ lẫn thời Phản Cải Cách và Baroque (34). Thánh nữ Margaret thành Cortina, Dòng Phanxicô thế kỷ 13, “Mađalêna tân thời”, là một điển hình đặc biệt đáng lưu ý, và các tiết lộ và trải nghiệm huyền nhiệm của bà phát sinh từ việc quay trở lại với Chúa Kitô tiếp theo cái chết bi thảm của một thanh niên quí tộc, người mà bà từng sống chung ngoài hôn nhân trong 9 năm. Tiểu sử chính thức của bà trong Hạnh Các Thánh kể với chúng ta rằng “bà nghe thấy Chúa Giêsu Kitô gọi bà một cách dịu dàng” và “khi được nâng lên cõi cực kỳ ngất trí, bà mất hết ý thức và chuyển động” (35). Trải nghiệm này đã được mô tả cách sống động trong cuốn Cuộc Ngất Trí của Thánh Margaret thành Cortina của Giovanni Lanfranco viết khoảng năm 1620, trong đó, “thánh nữ, chìm đắm trong một cơn hoàn toàn ngất trí và được các thiên thần nâng đỡ” mắt dõi nhìn Chúa Kitô đang ngự trên ngai mây do các thiên thần chống đỡ” (36). Dựa vào khoa ảnh tượng và hạnh các thánh, xem ra không quá đáng khi thấy một điều gì đó “hơn là gợi ý về một trải nghiệm dục năng được thăng hoa” trong “chuyển động phấn khích của áo quần bị nhàu và ánh sáng cùng bóng tối giao thoa nhanh và lung linh” trong mô tả của Lanfranco về “các xúc cảm mãnh liệt của bà” (37).
Thái độ của các nhà huyền nhiệm và tư tưởng thời Trung Cổ đối với các khuynh hướng trên của nền huyền nhiệm Kitô không hề ngây thơ hay thiếu phê phán, và nhiều người trong số họ tìm cách kiềm chế các nguy hiểm có thể có. Như có chứng cớ trong nghệ thuật Kitô giáo và các chú giải huyền nhiệm Kitô giáo về Diễm Ca, điều hiển nhiên nhất trong các nguy hiểm này là tính gợi dục (eroticism). Dù sao, Diễm Ca vẫn là vần thơ tình, và là vần thơ tình hết sức minh nhiên, dù người ta đọc nó một cách ẩn dụ; và ẩn dụ này dễ dàng lật ngược trở thành sự gợi dục mà nó tìm cách vượt lên trên (38). Như chính người hiệu đính của chúng nhận định, trong nhiều vần thơ của những người hát dạo, “việc tôn thờ đức bà gợi lên một thứ thờ ngẫu thần thánh mẫu (mariolatry) trong văn chương; nhưng tình yêu được tôn vinh, dù chải chuốt bao nhiêu, vẫn có tính ngoại tình” (39). Do đó, những lời ca ngỏ cùng Trinh Nữ Diễm Phúc Maria và những lời ca ngỏ cùng tình nhân thường trở thành lẫn lộn (interchangeable), với những dòng sùng kính được sử dụng để che dấu, hay, đúng hơn, để che dấu và do đó biểu lộ, lòng thèm khát thực sự của nhà thơ đối với tình yêu đức bà của ông. Hạn từ “linh hồn” thuộc giống cái trong hầu hết các ngôn ngữ Âu Châu: psychē trong tiếng Hy Lạp, anima trong tiếng Latinh và các hậu duệ của nó, Seele trong tiếng Đức, dusha trong các ngôn ngữ Slavic. Điều này càng làm dễ dàng hơn việc chuyển vị các ẩn dụ về Chàng Rể của Linh Hồn thành các hình ảnh gợi dục cao độ. Mà việc nhấn mạnh đến căn tính Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh như Chàng Rể cũng không bảo vệ ta chống lại các hình ảnh như thế. Thánh nữ Julian rất thận trọng, khi bà tuyên bố rằng “giác cảm tính (sensuality) của chúng ta chỉ có nơi Ngôi Thứ Hai, là Chúa Giêsu Kitô, mà thôi” để đặt các tuyên bố như thế trong bối cảnh tín lý đã hoàn toàn được khai triển về Chúa Ba Ngôi (40). Nhưng trong một số bài thánh ca và lời cầu nguyện ngỏ cùng Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh (chẳng hạn, các thánh ca và lời cầu nguyện của Giáo Hội Moravian ở Herrhut), vết thương cạnh sườn Người trở thành đối tượng sùng kính và ước ao được kết hợp nhưng mang âm hưởng gợi dục rõ ràng. Đường phân chia giữa xúc cảm và giác cảm hết sức dễ dàng bị làm ngơ, và cả đường phân chia giữa tình yêu như agapē của Chúa Kitô và tình yêu như erōs dành cho Chúa Kitô cũng thế; làm ngơ cả hai đường phân chia này cùng một lúc đều dễ dàng như nhau.
Cũng dễ dàng làm ngơ, nhất là cuối thời Trung Cổ, là đường phân chia giữa nền huyền nhiệm Kitô và chủ nghĩa phiếm thần (pantheism) (41). Lòng khát khao được kết hợp với đấng thần thiêng xem ra thường trở thành lòng khát khao được xóa đi sự phân cách giữa Đấng Tạo Dựng và tạo vật. Nền huyền nhiệm Do Thái Giáo thường giải quyết vấn đề này, nhưng đối với nền huyền nhiệm Kitô giáo, cơn cám dỗ này xem ra càng âm ỉ hơn. Vì chính nền chính thống được nại ra để chống lại các xu hướng này, ngay tại tâm điểm, vẫn có tín điều cho rằng trong ngôi vị Chúa Giêsu, như Thánh Bonaventura từng chủ trương, có sự kết hợp Nguyên lý đầu hết với nguyên lý trót hết... con người trường cửu và con người tạm thời” (42). Điều này có thể được hiểu là ở nơi Người, việc phân biệt giữa Đấng Tạo Dựng và tạo vật đã bị vượt qua, thậm chí có khi còn bị xóa bỏ nữa. Mục đích và thành tựu của nền huyền nhiệm Kitô đã được phát biểu rõ trong lời lẽ của Tân Ước: “hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3:2). Có thể giải thích câu này như một lời hứa rằng tình trạng tạo vật của linh hồn, nay bị cầm tù trong nhà tù thân xác, sẽ được tróc ra khi linh hồn bay bổng “từ một mình tới Đấng Một Mình”. Nhiều nhà huyền nhiệm của thế kỷ 15 từng bị tố cáo, nhất là bởi các nhà huyền nhiệm chân chính, đã nuôi dưỡng một cánh chung học trong đó, mọi sự, sau khi phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được tái hấp thụ tan hòa vào Thiên Chúa (43).
Cũng mặc nhiên trong nhiều luồng huyền nhiệm Kitô, từ thời Trung Cổ và nhất là trong phái Sùng Tín (pietsist) của Phong Trào Thệ Phản, là chủ nghĩa cá nhân; theo lời một nhà phê bình cực đoan, “giữa cuộc chiến đấu để có được tình yêu vô vị kỷ, nền huyền nhiệm tự chứng tỏ mình là hình thức tinh chế nhất, là tuyệt đỉnh của lòng sùng tín lấy mình làm trung tâm” (44). Như đã lưu ý trên đây, truyền thống kinh viện trong các chú giải huyền nhiệm về Diễm Ca hiểu nó như một khảo luận về mối tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, y hệt như truyền thống rabbinic coi nó như một ẩn dụ của mối tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Israel. Nhưng trong truyền thống đơn tu, nó thường trờ thành ẩn dụ về Chúa Kitô và linh hồn cá thể. “Người yêu của tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về chàng” trở thành cách mô tả chính mối tương quan bản thân riêng tư của tôi với Chúa Giêsu. Và mối tương quan của Người với tôi, loại bỏ, hay ít nhất giảm thiểu, các người khác. Một bài ca tôn giáo tình cảm ướt át nổi tiếng đã phát biểu chủ nghĩa cá nhân một cách không hề lúng túng:
Tôi tới vườn một mình
Khi sương còn trên những cánh hồng
Và tôi nghe có tiếng
Rót vào tai tôi,
Con Thiên Chúa tỏ hiện.
Và Người sánh vai tôi cùng trò chuyện với tôi,
Và Người thỏ thẻ tôi là của riêng Người.
Và chúng tôi chia sẻ niềm vui, khi nấn ná ở đó,
Không ai biết bao giờ.
Là tình cảm ướt át hay siêu phàm, nền huyền nhiệm Kitô vẫn liên tiếp là điển hình tối cao của việc, trong tam đức cổ điển Chân Thiện Mỹ, Mỹ có khả năng mô tả Người cách hữu hiệu nhất và cũng quyến rũ nhất. Đáp ứng những khát mong sâu thẳm nhất của tinh thần con người muốn vươn tới ý nghĩa siêu việt và thành toàn chân chính, trải nghiệm thanh tẩy, soi sáng và kết hiệp với “Đấng Cứu Chúa Đẹp Đẽ” đã thành công trong việc cao thượng hóa mọi giác cảm tự nhiên và nâng nó lên hàng phương thế của ơn thánh: không điều gì còn cần phải là phàm tục, mọi sự đều có thể có tính bí tích. Nhưng trong diễn trình này, điều đôi khi chứng tỏ có tính quá cám dỗ là quên đi Thiện và Chân trong ánh sáng lóa mắt của Mỹ, hay “hoà tan các biến cố lịch sử vào cảm nghiệm tôn giáo” với nguy cơ thực sự là “không hẳn từ bỏ tín điều Nhập Thể, mà là hạ thấp giá trị của nó” tạo ra cả “một đầm lầy trình bầy thiêng liêng hóa không hề có cơ sở hợp pháp trong thực tại lịch sử” (45). Tự tách mình như nó ra khỏi nghĩa văn phạm đúng nghĩa của bản văn kinh thánh, nền giải thích huyền nhiệm rất dễ bị thương ở điểm này. Nhưng vấn đề xuất hiện trong nền huyền nhiệm Kitô giữa thời Trung Cổ thế nào, thì vào cùng thời gian đó, cũng đã xuất hiện thứ chủ quan tính mới mẻ nhằm đảo ngược nền huyền nhiệm này như vậy. Vì nhân vật đứng ở đỉnh cao của việc phát triển nền huyền nhiệm Kitô đồng thời lại là đầu nguồn cho cuộc đánh giá mới mẻ về Chúa Giêsu Lịch Sử của Nadarét như là Mô Hình Thần Thiêng và Nhân Bản.
______________________________________________________________________________________
Ghi chú
1.John Julian, A Dictionary of Hymnology, 2d ed. (1907; New York: Dover Publications, 1957) tr. 590-91.
2. Julian, A Dictionary of Hymnology tr.1038
3. Chúng tôi dựa nhiều vào cuộc thảo luận của David Knowles, The English Mystical Tradition (New York: Harper and Brothers, 1961) tr. 1-38.
4. Ở đây, chúng tôi mượn định nghĩa trong mục “Mysticism”, Encyclopedia Britanica, 14th ed.
5. Abraham Joshua Heschel, The Prophets (New York: Harper and Row, 1963) tr.364.
6. Gershom Gerhard Scholem, Malor Trends in Jewish Mysticism (Jerusalem: Schocken Publishing House, 1941).
7. Jean Daniélou, Platonisme et Théologie mystique: Essai sur la doctrine spirituelle de saint Grégoire de Nysse (Paris: Aubier, 1944).
8. Cv 17:34; Eusebius, Ecclesiastical History 3.4.11; 4.23.3; Hilduin of Saint Denis, Vita Dionysii.
9. John Meyendorff, Christ in Eastern Christian Thought (Washington D.C., and Cleveland: Corpus Books 1969) tr. 81.
10. Xem Jaroslav Pelikan, “Introduction” to Maximus Confessor, Classcis of Western Spirituality (New York: Paulist Press, 1985) tr. 1-13.
11. Marvin H. Pope, Song of Songs. A New Translation with Introduction and Commentary, The Anchor Bible (Garden City, N.Y., Doubleday, 1977)tr. 18-19.
12. Leclercq, Love of Learning tr. 90-91.
13. Xem trình bầy bác học trong Etienne Gilson, The Mystical Theology of Saint Bernard, bản tiếng Anh của Alfred Howard Campbell Downes (London: Sheed and Ward, 1940).
14. Thánh Bernard, Canticles 1.4.8
15. Thánh Bernard, Canticles 22.1.3
16. Thánh Bernard Canticles 43.3
17. Thánh Bernard, Canticles 70.7
18. Thánh Bernard, Canticles 2.2.3
19. Thánh Bernard, Canticles 2.1.2
20. Thánh Bernard, Canticles 20.2.
21. Thánh Gregory thành Nyssa, Sermons on the Song of Songs 6
22. Etienne Gilson, The Philosophy of St Bonaventure, bản tiếng Anh của IlltydTrethowan and F.J. Sheed (New York: Sheed and Ward, 1938)
23. Thánh Bonaventure, The Soul’s Journey into God 2.13, ed. Ewert Cousins, Classics of Western Spirituality (New York: Paulist Press, 1978) tr. 77.
24. Thánh Bonaventure, The Soul’s Journey into God 4.2, ed. Ewert Cousins tr.88
25. Thánh Bonaventure, The Soul’s Journey into God 6.7, ed. Ewert Cousins tr.108-09.
26. Thánh Bernard, Canticles 20.6
27. Thánh Bernard, Canticles 66.10
28. Knowles, English Mystical Tradition, tr.135
29. Thánh Julian thành Norwich, The Revelations of Divine Love, bản tiếng Anh của James Walsh (New York: Harper and Brothers, 1961) tr. 206
30. Thánh Julian thành Norwich, The Revelations of Divine Love, bản tiếng Anh của James Walsh, tr.186
31. Thánh Julian thành Norwich, The Revelations of Divine Love, bản tiếng Anh của James Walsh, tr. 91-92.
32. Robert Herrick, “Eternitie” trong The Oxford Book of English Mystical Verse ed. D.H.S. Nicholson and A.H.E. Lee (Oxford: Clarendon Press, 1917) tr.20-21
33. Dante, Purgatorio 17.96
34. Muốn xem dẫn nhập tổng quát, nhưng mất tiếng vì sử dụng không phê phán các hạn từ như “ảo giác cuồng nhiệt”, xem Henry Osborn Taylor, The Mediaeval Mind. A History of the Development of Thought and Emotion in the Middle Ages 4th ed. 2 vols (London: Macmillan, 1938) 2:458-86.
35. Acta Sanctorum, February (Paris: Victor Palme, 1865) 3:308.
36. Mariella Liverani, “Margherita da Cortina: Iconographia” trong Bibliotheca Sanctorum, 12 vols. (Rome: Istituto Giovanni XXIII nella Pontificia Università Lateranense 1961-69) 8:772.
37. John Rupert Martin, Baroque (New York: Harper and Row, 1977) tr. 102-03.
38. Xem tường trình chi tiết “Các Giải Thích Diễm Ca” trong, Pope, Song of Songs, tr.89-229.
39. Thomas G, Bergin, Dante (New York: Orion Press, 1965) tr. 46.
40. Thánh Julian thành Norwich, The Revelations of Divine Love 58, bản tiếng Anh của James Walsh, tr. 159-60
41. Friedrich von Hugel, The Mystical Element of Religion as Studied in Saint Catherine of Genoa and Her Friends 4th ed. 2vols. (Lnndon: J.M. Dent and Son, 1961) 2:309-40.
42. Thánh Bonaventure, The Soul’s Journey into God 6.5, ed. Ewert Cousins tr.107
43. Pelikan, Christian Tradition 4:63-68
44. Anders Nygren, Agape and Eros, bản tiếng Anh của Philip S. Watson (Philadelphia: Westminster Press, 1953) tr. 650.
45. Hanson, Allegory and Event, tr.283.
Ảnh của Diệp Hải Dung
Chào đón ngày Chúa Giáng Sinh tại Úc
Bản dịch Việt Ngữ của Vũ Văn An
Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới năm 2021 của Đức Phanxicô đã được Phòng Báo chí của Tòa thánh phát đi ngày 17 tháng 12 vừa qua. Sau đây là nội dung thông điệp:
Văn hóa quan tâm, đường dẫn tới hòa bình
1. Vào buổi bình minh của năm mới, tôi xin gửi lời chào thân ái tới các Nguyên thủ quốc gia và Chính phủ, các nhà lãnh đạo các Tổ chức quốc tế, các vị lãnh đạo tinh thần và tín hữu các tôn giáo khác nhau và các người thiện chí nam nữ. Với mọi người, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất của tôi là năm tới sẽ giúp nhân loại tiến hơn nữa trên con đường huynh đệ, công lý và hòa bình giữa các cá nhân, cộng đồng, dân tộc và quốc gia.
Năm 2020 được đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng sức khỏe Covid-19 hết sức lớn lao, một cuộc khủng hoảng đã trở thành một hiện tượng hoàn cầu xuyên biên giới, làm trầm trọng thêm các cuộc khủng hoảng vốn có liên quan sâu sắc với nhau như khí hậu, lương thực, kinh tế và di dân, và gây ra nhiều đau khổ và gian khó. Tôi đặc biệt nghĩ đến tất cả những người mất các thành viên trong gia đình hoặc những người thân yêu, và tất cả những người bị mất việc làm. Tôi cũng nghĩ đến các bác sĩ và y tá, dược sĩ, nhà nghiên cứu, tình nguyện viên, tuyên úy và nhân viên các bệnh viện và trung tâm chăm sóc sức khỏe. Họ đã và đang tiếp tục thực hiện các hy sinh to lớn để hiện diện với người bệnh, giảm bớt đau khổ và cứu sống họ; thực vậy, nhiều người trong số họ đã chết trong diễn trình này. Để tỏ lòng kính trọng đối với họ, tôi xin lặp lại lời kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị và các khu vực tư không tiếc một cố gắng nào để bảo đảm quyền được tiêm chủng vắc xin Covid-19 và các kỹ thuật chủ yếu cần thiết cho việc chăm sóc người bệnh, người nghèo và những người dễ bị tổn thương nhất [1].
Đáng buồn khi phải nói rằng, bên cạnh tất cả những chứng từ yêu thương và liên đới này, chúng ta cũng đã chứng kiến sự gia tăng trong nhiều hình thức khác nhau của chủ nghĩa duy dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài ngoại, và các cuộc chiến tranh và xung đột chỉ để lại chết chóc và hủy diệt đàng sau chúng.
Những sự kiện này và những sự kiện khác, vốn đánh dấu con đường của nhân loại trong năm qua, đã dạy chúng ta rằng việc quan tâm đến nhau và đến sáng thế quan trọng biết dường nào trong các cố gắng của chúng ta nhằm xây dựng một xã hội huynh đệ hơn. Đó là lý do tại sao tôi đã chọn làm tiêu đề của Thông điệp năm nay, Văn hóa Quan tâm như con đường dẫn đến hòa bình. Văn hóa quan tâm như một cách chống lại văn hóa dửng dưng, lãng phí và đối đầu rất thịnh hành thời ta.
2. Thiên Chúa Tạo Hóa, nguồn ơn gọi con người chúng ta chăm sóc
Nhiều truyền thống tôn giáo đã kể về nguồn gốc của con người và mối liên hệ của họ với Đấng Tạo Hóa, với thiên nhiên và với đồng loại nam nữ của họ. Trong Kinh thánh, Sách Sáng thế cho thấy ngay từ những trang đầu tiên tầm quan trọng của việc chăm sóc hoặc bảo vệ trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nó làm nổi bật mối liên hệ giữa con người ('adam) và trái đất (' adamah), và giữa chúng ta với tư cách là anh chị em. Theo trình thuật của Kinh thánh về sự sáng thế, Thiên Chúa giao khu vườn “trồng ở Êđen” (xem St 2: 8) cho Ađam chăm sóc, để “canh tác và gìn giữ” (St 2:15). Điều này hàm nghĩa phải làm cho trái đất trở nên có năng suất, đồng thời bảo vệ nó và duy trì khả năng hỗ trợ sự sống của nó [2]. Các động từ “canh tác” và “gìn giữ” mô tả mối liên hệ của Ađam với ngôi nhà vườn của ông, nhưng cả niềm tín thác mà Thiên Chúa đã đặt nơi ông bằng cách biến ông thành chủ nhân ông và người bảo vệ mọi tạo vật.
Sự ra đời của Cain và Abel bắt đầu lịch sử anh chị em, mà mối liên hệ của họ - ngay cả khi Cain hiểu sai – cũng được hiểu theo nghĩa bảo vệ hoặc “giữ gìn”. Sau khi giết em trai mình là Abel, Cain trả lời câu hỏi của Thiên Chúa bằng câu: "Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu?" (St 4: 9) [3]. Giống như tất cả chúng ta, Cain được gọi là “người canh giữ em trai mình". "Những câu chuyện cổ, đầy tính biểu tượng này, làm chứng cho niềm xác tín được chúng ta ngày nay chia sẻ, đó là: mọi sự được liên kết với nhau, và sự quan tâm thực sự tới cuộc sống của chúng ta và mối liên hệ của chúng ta với thiên nhiên là điều không thể tách rời khỏi tình huynh đệ, công lý và lòng trung thành với người khác” [ 4].
3 Thiên Chúa Tạo Hóa, kiểu mẫu của sự quan tâm
Sách Thánh trình bày Thiên Chúa không chỉ là Đấng Tạo Hóa, mà còn là Đấng quan tâm đến các tạo vật của Người, nhất là Ađam, Evà và con cái của họ. Mặc dù bị nguyền rủa vì tội đã phạm, Cain vẫn được Đấng Tạo Hóa ban cho dấu hiệu bảo vệ, để mạng sống hắn được dung thứ (xem St 4:15). Trong khi xác nhận phẩm giá bất khả xâm phạm của con người được tạo ra theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, đây cũng là dấu hiệu cho thấy kế hoạch của Thiên Chúa muốn bảo tồn sự hòa điệu nơi sáng thế của Người, vì “hòa bình và bạo lực không thể tồn tại với nhau” [5].
Việc quan tâm tới sáng thế, vốn nằm ở tâm điểm của việc định ra ngày Sabát, một việc, ngoài việc sắp xếp việc thờ phượng Thiên Chúa ra, còn nhằm mục đích khôi phục trật tự xã hội và quan tâm đến người nghèo (xem St 1: 1-3; Lv 25: 4). Việc cử hành Năm Thánh vào mọi năm sabát thứ bẩy cung cấp thời gian nghỉ ngơi cho đất đai, cho nô lệ và cho những người mắc nợ. Trong năm hồng ân đó, những người có nhu cầu lớn nhất được quan tâm và dành cho một cơ hội mới trong cuộc sống, để không còn người nghèo trong dân nữa (xem Đnl 15: 4).
Trong truyền thống tiên tri, cái hiểu trong Kinh thánh về công lý tìm được biểu thức cao nhất trong cách một cộng đồng đối xử với những thành viên yếu nhất của họ. Đặc biệt, Amốt (xem 2: 6-8; 8) và Isaia (xem 58), kiên quyết đòi hỏi công lý cho người nghèo, những người, trong tình trạng dễ bị tổn thương và bất lực của họ, đã kêu lên và được Thiên Chúa khứng nghe, Đấng luôn trông nom họ (xem Tv 34: 7; 113: 7-8).
4. Quan tâm trong thừa tác vụ của Chúa Giêsu
Cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu trình bầy với ta việc mặc khải tối cao tình yêu của Chúa Cha dành cho nhân loại (x. Ga 3:16). Trong hội đường ở Nadarét, Chúa Giêsu cho thấy Người được Chúa thánh hiến và “được sai đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4,18). Những hành động thiên sai này, vốn được liên kết với Năm Thánh, làm chứng hùng hồn cho sứ mệnh Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Trong lòng thương xót của Người, Chúa Kitô đã đến gần những người đau yếu về thể xác và tinh thần, và chữa lành cho họ; Người đã ân xá tội nhân và ban cho họ sự sống mới. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành chăm sóc đoàn chiên của Người (x. Ga 10: 11-18; Edk 34: 1-31). Người là người Samaritanô nhân hậu, cúi xuống cứu giúp người bị thương, băng bó các vết thương của họ và chăm sóc họ (x. Lc 10:30-37).
Ở đỉnh cao của sứ mệnh, Chúa Giêsu đã đưa ra bằng chứng cuối cùng về sự chăm sóc của Người dành cho chúng ta bằng cách tự hiến mình trên thập giá để giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết. Bằng việc hiến tế sự sống của Người, Người đã mở ra cho chúng ta con đường tình yêu. Người nói với mỗi người chúng ta: “Hãy theo Ta; hãy đi và hãy làm như vậy” (x. Lc 10:37).
5. Văn hóa quan tâm trong đời sống những người theo Chúa Giêsu
Các việc thương xót về tinh thần và thể xác nằm ở tâm điểm đức bác ái như đã được Giáo hội sơ khai thực hành. Thế hệ Kitô hữu đầu tiên đã chia sẻ những gì họ có, để không ai trong số họ phải túng thiếu (xem Cv 4: 34-35). Họ cố gắng biến cộng đồng của họ thành một ngôi nhà biết nghinh đón, quan tâm đến mọi nhu cầu của con người và sẵn sàng chăm sóc những người cần nhất. Họ có thói quen tự ý dâng cúng để nuôi người nghèo, chôn cất người chết và chăm sóc trẻ mồ côi, người già và nạn nhân các thảm họa như đắm tàu. Vào thời sau đó, khi lòng quảng đại của các Kitô hữu đã mất đi sức sốt sắng ban đầu, một số Giáo phụ khẳng định rằng tài sản đã được Thiên Chúa dự liệu cho ích chung. Đối với Thánh Ambrôsiô, “thiên nhiên tuôn đổ mọi sự mọi người sử dụng chung… và do đó tạo ra quyền chung cho tất cả mọi người, nhưng lòng tham đã biến nó thành quyền chỉ dành cho một số ít người” [6]. Sau những cuộc bách hại trong những thế kỷ đầu tiên, Giáo hội đã sử dụng quyền tự do mới tìm thấy của mình để truyền cảm hứng cho xã hội và nền văn hóa của nó. “Nhu cầu của thời đại đòi hỏi những nỗ lực mới trong việc phục vụ bác ái Kitô giáo. Lịch sử ghi lại vô số thí dụ về những việc thương xót thực tiễn … Việc làm của Giáo hội nơi những người nghèo phần lớn đã được tổ chức rất cao. Từ đó, đã nảy sinh nhiều cơ sở để cứu trợ mọi nhu cầu của con người: bệnh viện, nhà dành cho người nghèo, trại mồ côi, nhà giữ trẻ bị bỏ rơi, nơi trú ẩn cho du khách... ”[7].
6. Các nguyên tắc trong học thuyết xã hội của Giáo hội như căn bản cho nền văn hóa quan tâm
Nguồn gốc Tác vụ phục dịch (Diakonia) của Giáo hội, được phong phú hóa nhờ suy tư của các Giáo phụ và được chấn hưng qua nhiều thế kỷ nhờ lòng bác ái tích cực của nhiều nhân chứng sáng chói đối với đức tin, đã trở thành trái tim sống động trong học thuyết xã hội của Giáo hội. Học thuyết này được cung ứng cho tất cả những người có thiện chí như một gia bảo quý giá gồm các nguyên tắc, tiêu chuẩn và đề xuất có thể dùng như một “văn phạm” của việc quan tâm: cam kết cổ vũ phẩm giá của mỗi nhân vị, liên đới với người nghèo và người dễ bị tổn thương, theo đuổi ích chung và quan tâm đến việc bảo vệ sáng thế.
Quan tâm như việc cổ vũ phẩm giá và quyền lợi của mỗi người
“Chính khái niệm về con người, một khái niệm bắt nguồn và phát triển trong Kitô giáo, đã cổ vũ việc theo đuổi sự phát triển toàn diện con người. Con người luôn hàm nghĩa mối liên hệ, không phải chủ nghĩa cá nhân; nó khẳng định việc bao gồm, chứ không loại trừ, phẩm giá độc nhất và bất khả xâm phạm, chứ không bóc lột” [8]. Mỗi nhân vị là một mục đích trong chính họ, chứ không bao giờ chỉ là một phương tiện để được trân quí vì sự hữu ích của họ. Con người được tạo ra để sống với nhau trong gia đình, cộng đồng và xã hội, nơi mọi người đều bình đẳng về phẩm giá. Nhân quyền dẫn khởi từ phẩm giá này, cũng như các bổn phận của con người, như trách nhiệm nghinh đón và trợ giúp người nghèo, người bệnh tật, người bị loại trừ, mọi người “hàng xóm gần hay xa trong không gian và thời gian” của chúng ta (9).
Quan tâm đến lợi ích chung
Mọi khía cạnh của đời sống xã hội, chính trị và kinh tế đều đạt được mục đích trọn vẹn nhất khi được đặt vào việc phục vụ ích chung, hay nói cách khác “tổng số các điều kiện xã hội cho phép người ta, như các nhóm hay như các cá nhân, đạt được sự thành toàn của họ một cách trọn vẹn và dễ dàng hơn” [10]. Do đó, các kế hoạch và dự án của chúng ta phải luôn tính đến hiệu quả của chúng đối với toàn thể gia đình nhân loại, và xem xét các hậu quả của chúng đối với các thế hệ hiện tại và sắp tới. Đại dịch Covid-19 đã cho chúng ta thấy sự thật và đúng lúc của sự kiện này. Đứng trước đại dịch, “chúng ta nhận ra rằng chúng ta đang ở trên cùng một con thuyền, tất cả chúng ta đều mong manh và mất phương hướng, nhưng đồng thời quan trọng và cần thiết, tất cả chúng ta đều được kêu gọi cùng nhau chèo chống” [11] vì “không một ai tự mình đạt đến sự cứu rỗi” [12] và không nhà nước nào có thể bảo đảm ích chung của dân chúng mình nếu nó mãi cô lập [13].
Quan tâm bằng liên đới
Tình liên đới cụ thể nói lên tình yêu thương của chúng ta đối với người khác, không phải như một tình cảm mơ hồ mà là một “quyết tâm vững chắc và kiên trì dấn thân vì ích chung; nghĩa là vì lợi ích của mọi người và của mỗi cá nhân, vì tất cả chúng ta thực sự có trách nhiệm với mọi người” [14]. Tình liên đới giúp chúng ta coi những người khác – bất chấp như những cá nhân hay nói rộng hơn như các dân tộc hay quốc gia - không chỉ là số liệu thống kê, hay như một phương tiện để được sử dụng và sau đó bị vứt đi một khi không còn hữu ích nữa, mà là như những người hàng xóm, những người bạn đồng hành trên hành trình của chúng ta, được kêu gọi như chính chúng ta để tham dự bàn tiệc sự sống mà mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi như nhau.
Chăm sóc và bảo vệ sáng thế
Thông điệp Laudato Si ’hoàn toàn ý thức rằng mọi tạo vật đều được nối kết với nhau. Nó cũng nhấn mạnh nhu cầu của chúng ta muốn lắng nghe tiếng kêu cứu của người nghèo, đồng thời, tiếng kêu cứu của sáng thế. Đến lượt nó, việc lắng nghe liên tục và chú ý dẫn đến việc chăm sóc hữu hiệu cho trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta, và cho những anh chị em đang gặp khó khăn. Ở đây, một lần nữa tôi muốn nhấn mãnh rằng “cảm thức hiệp thông sâu sắc với toàn bộ thiên nhiên sẽ không thể chân chính nếu trái tim chúng ta thiếu sự âu yếm, cảm thương và quan tâm đối với đồng loại nhân bản của chúng ta” [15]. “Hòa bình, công lý và việc quan tâm tới sáng thế là ba vấn đề vốn có liên hệ qua lại với nhau, không thể tách rời để có thể nói tới một cách riêng lẻ, làm thế chúng ta có nguy cơ rơi vào chủ nghĩa duy giản lược” [16].
7. Chiếc la bàn chỉ con đường chung
Ở thời điểm bị thống trị bởi nền văn hóa lãng phí, đối diện với nhiều bất bình đẳng ngày càng gia tăng cả bên trong lẫn giữa các quốc gia [17], tôi xin kêu gọi các nhà lãnh đạo chính phủ và các các nhà lãnh đạo các tổ chức quốc tế, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, các khoa học gia, các nhà truyền thông và các nhà giáo dục, tiếp nhận các nguyên tắc này như một “la bàn”có khả năng chỉ hướng đi chung và bảo đảm “ một tương lai nhân ái hơn” [18] trong diễn trình hoàn cầu hóa. Điều này sẽ giúp chúng ta trân quí giá trị và phẩm giá của mọi người, cùng nhau hành động trong tình liên đới vì ích chung, và cứu trợ những người đang chịu cảnh đói nghèo, bệnh tật, nô dịch, xung đột có vũ trang và kỳ tghị. Tôi xin mọi người cầm trên tay chiếc la bàn này và trở thành nhân chứng tiên tri cho nền văn hóa quan tâm, nỗ lực để vượt qua nhiều bất bình đẳng xã hội đang hiện hữu. Điều này chỉ có thể diễn ra qua việc tham gia rộng rãi và có ý nghĩa của phụ nữ, trong gia đình và trong mọi lĩnh vực xã hội, chính trị và định chế.
Chiếc la bàn các nguyên tắc xã hội này, rất cần thiết cho sự phát triển của nền văn hóa quan tâm, cũng chỉ cho thấy các mối liên hệ giữa các quốc gia cần được gợi hứng bởi tình huynh đệ, bởi việc tôn trọng lẫn nhau, bởi tình liên đới và việc tuân thủ luật pháp quốc tế. Về phương diện này, chúng ta phải thừa nhận sự cần thiết phải bảo vệ và cổ vũ các nhân quyền căn bản, vốn có tính bất khả nhượng, phổ biến và không thể phân chia [19].
Cũng cấp bách tương tự là sự cần thiết phải tôn trọng luật nhân đạo, đặc biệt vào lúc này khi các cuộc xung đột và chiến tranh vẫn tiếp diễn không ngừng. Bi thảm thay, nhiều khu vực và cộng đồng không còn nhớ được thời gian họ từng được an ninh và hòa bình. Nhiều thành phố đã trở thành tâm điểm của mất an ninh: các công dân phải vật lộn để duy trì sinh hoạt bình thường của họ trước các cuộc tấn công bừa bãi bằng chất nổ, pháo binh và vũ khí nhỏ. Trẻ em không còn khả năng học tập. Đàn ông và đàn bà không thể làm việc để hỗ trợ gia đình họ. Nạn đói đang lan rộng ở những nơi mà trước đây nó chưa bao giờ được biết đến. Người ta đang bị buộc phải trốn chạy, bỏ lại không những nhà cửa mà cả lịch sử gia đình và cội nguồn văn hóa của họ.
Trong khi những xung đột như vậy có nhiều nguyên nhân, kết quả luôn giống nhau: hủy diệt và các cuộc khủng hoảng nhân đạo. Chúng ta cần dừng lại và tự hỏi điều gì đã khiến thế giới của chúng ta coi xung đột như một điều bình thường, và làm sao trái tim chúng ta có thể được hoán cải và cách suy nghĩ của chúng ta thay đổi, để hoạt động cho hòa bình thực sự trong tình liên đới và huynh đệ.
Biết bao nguồn lực đang được chi cho vũ khí, nhất là vũ khí hạt nhân [20], có thể được sử dụng cho các ưu tiên có ý nghĩa hơn như bảo đảm an toàn cho các cá nhân, cổ vũ hòa bình và phát triển toàn diện con người, chống nghèo đói và cung cấp việc chăm sóc sức khỏe. Các vấn đề hoàn cầu như đại dịch Covid-19 hiện nay và thay đổi khí hậu chỉ làm cho những thách thức này trở nên hiển nhiên hơn. Quả là một quyết định dũng cảm khi “thành lập ‘Quỹ hoàn cầu’ bằng số tiền chi cho vũ khí và các chi phí quân sự khác, nhằm xóa bỏ nạn đói vĩnh viễn và góp phần vào việc phát triển các nước nghèo nhất”! [21]
8. Giáo dục cho một nền văn hóa quan tâm
Cổ vũ nền văn hóa quan tâm đòi hỏi một diễn trình giáo dục. “La bàn” các nguyên tắc xã hội có thể tỏ ra hữu ích và đáng tin cậy trong nhiều bối cảnh khác nhau nhưng có liên hệ qua lại với nhau. Cho phép tôi đưa ra một số thí dụ:
- Giáo dục người ta quan tâm bắt đầu từ gia đình, hạt nhân tự nhiên và căn bản của xã hội, trong đó chúng ta học cách sống và liên hệ với người khác trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, các gia đình cần được trao quyền để thực hiện nhiệm vụ quan trọng và không thể thiếu này.
- Cùng với gia đình, các trường học và đại học - và ở một số khía cạnh, các phương tiện truyền thông - cũng có trách nhiệm giáo dục [22]. Họ được kêu gọi truyền lại một hệ thống giá trị dựa trên việc công nhận phẩm giá của mỗi người, mỗi cộng đồng ngôn ngữ, sắc tộc và tôn giáo và mỗi dân tộc, cũng như các quyền căn bản phát sinh từ sự công nhận đó. Giáo dục là một trong những cột trụ của một xã hội công bằng và huynh đệ hơn.
- Các tôn giáo nói chung và các nhà lãnh đạo tôn giáo nói riêng có thể đóng một vai trò không thể thiếu trong việc truyền lại cho tín hữu của họ và xã hội nói chung các giá trị liên đới, tôn trọng các dị biệt và quan tâm đến anh chị em đang gặp khó khăn của chúng ta. Ở đây, tôi nghĩ đến những lời đã phát biểu vào năm 1969 của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trước Quốc hội Uganda: “Đừng sợ Giáo hội; Giáo Hội tôn vinh các bạn, Giáo Hội giáo dục những công dân trung thực và trung thành cho các bạn, Giáo Hội không xúi giục các tranh chấp và chia rẽ, Giáo Hội tìm cách cổ vũ tự do lành mạnh, công bằng xã hội và hòa bình. Nếu Giáo Hội có bất cứ ưu tiên nào, thì ưu tiên đó dành cho người nghèo, cho việc giáo dục các em bé và người ta, cho việc chăm sóc những người đau khổ và bị bỏ rơi ” [23].
- Một lần nữa, tôi xin khuyến khích tất cả những người tham gia công vụ và trong các tổ chức quốc tế, cả chính phủ lẫn phi chính phủ, và tất cả những người khác đang tham gia nhiều cách vào các lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu, làm việc hướng tới mục tiêu có được “một nền giáo dục cởi mở và bao hàm nhiều hơn, bao gồm việc kiên nhẫn lắng nghe, đối thoại xây dựng và hiểu biết lẫn nhau nhiều hơn” [24]. Tôi hy vọng rằng lời kêu gọi này, đưa ra trong bối cảnh Hiệp ước Hoàn cầu về Giáo dục, sẽ được thừa nhận và chấp nhận rộng rãi.
9. Không thể có hòa bình nếu không có nền văn hóa quan tâm
Do đó, nền văn hóa quan tâm đòi hỏi một cam kết chung, có tính hỗ trợ và bao gồm để bảo vệ và cổ vũ phẩm giá và sự thiện của mọi người, một việc sẵn lòng biểu lộ mối quan tâm và cảm thương, làm việc để hòa giải và hàn gắn, cũng như thăng tiến việc tôn trọng và chấp nhận lẫn nhau. Như thế, nó đại diện cho một con đường ưu tuyển dẫn đến hòa bình. “Ở nhiều nơi trên thế giới, đang cần có những con đường hòa bình để hàn gắn các vết thương chưa lành" (25).
Vào thời điểm như thế này, khi con thuyền nhân loại, bị sóng bão của cuộc khủng hoảng hiện tại xô đẩy, đang vật lộn để tiến tới một chân trời thanh bình và thanh thản hơn, thì “bánh lái” phẩm giá con người và “la bàn” các nguyên tắc xã hội căn bản có thể giúp chúng ta cùng nhau lèo lái đúng hướng an toàn. Là các Kitô hữu, chúng ta nên luôn hướng về Đức Mẹ, Ngôi sao Biển và Mẹ niềm Hy vọng. Xin cho chúng ta cùng nhau làm việc tiến tới một chân trời mới của yêu thương và hòa bình, của tình huynh đệ và liên đới, của việc hỗ trợ và chấp nhận lẫn nhau. Xin cho chúng ta đừng bao giờ sa vào cơn cám dỗ coi thường người khác, nhất là những người túng thiếu nhất, và nhìn đi hướng khác [26]; thay vào đó, xin cho chúng ta hàng ngày cố gắng, một cách cụ thể và thiết thực, “hình thành một cộng đồng gồm các anh chị em biết chấp nhận và quan tâm lẫn nhau ” [27].
Từ Điện Vatican, ngày 8 tháng 12 năm 2020
Phanxicô
______________________
Ghi chú
[1] Xem Thông điệp Video gửi Phiên họp thứ 75 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, 25 Tháng 9 năm 2020.
[2] Xem Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 67.
[3] Xem “Tình Huynh đệ, Nền tảng và Đường đi tới Hòa bình”, Thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm 2014 (8 tháng 12, 2013), 2.
[4] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 70.
[5] Hội đồng Giáo Hoàng về công lý và hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội, số 488.
[6] De Officiis, 1, 28, 132: PL 16, 67.
[7] K. Bihlmeyer-H. Tüchle, Church History, vol. 1, Westminster, The Newman Press, 1958, pp. 373, 374.
[8] Diễn văn với Các Tham dự viên Hội nghị do Bộ Cổ vũ Việc Phát triển Con người Tòan diện tổ chức để đánh dấu Năm thứ 50 thông điệp Populorum Progressio (4 tháng 4, 2017).
[9] Thông điệp gửi Phiên họp thứ 22 của Hội Nghị Các Bên tham dự Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về Thay đổi Khí hậu (COP22), 10 tháng 11, 2016. Xem Hội nghị Bàn tròn Liên bộ của Tòa Thánh về Nền Sinh thái Toàn diện, Hành trình tiến tới việc Chăm só Ngôi Nhà chung của Chúng ta: 5 Năm sau Laudato Si’, Libreria Editrice Vaticana, 31 tháng 5, 2020.
[10] Công Đồng Vatican II, Gaudium et Spes, 26.
[11] Thời khắc Cầu nguyện Ngoại thường thời Đại dịch, 27 tháng 3, 2020.
[12] Đã dẫn
[13] Xem Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10, 2020), 8; 153.
[14] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30 tháng 12, 1987), 38.
[15] Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 91.
[16] Hội Đồng Giám Mục Cộng hòa Dominican, Thư Mục vụ Sobre la relación del hombre con la naturaleza (21 tháng 1, 1987); xem Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 92.
[17] Xem Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10, 2020), 125.
[18] Đã dẫn, 29.
[19] Xem Thông điệp gửi các Tham dự viên Hội Nghị Quốc tế “Nhân quyền tong Thế giới Ngày nay: Các thành tựu, Bỏ sót, Bác bỏ”, Rome, 10-11 tháng 12, 2018.
[20] Xem Thông điệp gửi Hội nghị Liên Hiệp Quốc nhằm Thương thảo một Dụng cụ Trói buộc Hợp pháp Ngăn cấm Vũ khí Hạt nhân, Dẫn tới Việc Loại bỏ Chúng Hoàn toàn, 23 tháng 3, 2017.
[21] Thông điệp Video nhân ngày Thực Phẩm Thế Giới năm 2020 (16 tháng 10, 2020).
[22] Xem Đức Bênêđíctô XVI, “Giáo dục Người trẻ về Công lý và Hòa bình”, Thông điệp nhân Ngày Hòa bình Thế giới năm 2012, (8 tháng 12, 2011), 2; “Vượt qua Dửng dưng và Chiến thắng Hòa bình”, Thông điệp nhân Ngày Hòa bình Thế giới năm 2016, (8 tháng 12, 2015), 6.
[23] Diễn văn với Quốc Hội Uganda, Kampala, 1 tháng 8, 1969.
[24] Thông điệp nhân ngày Phát động Tác dụng Hoàn cầu về Giáo dục, 12 tháng 9, 2019.
[25] Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10, 2020), 225.
[26] Xem Đã dẫn 64.
[27] Đã dẫn, 96; xem “Tình Huynh đệ, Nền tảng và Đường đi tới Hòa bình”, Thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm 2014 (8 tháng 12, 2013), 1.
1. Vatican cho phép các linh mục cử hành 4 Thánh lễ trong ngày Lễ Giáng Sinh
Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích cho phép các linh mục được cử hành tối đa bốn Thánh lễ vào Ngày Lễ Giáng Sinh. Quyết định này cũng được áp dụng trong ngày 1 tháng Giêng, Lễ trọng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, và Lễ Hiển Linh để nhiều tín hữu có thể tham dự 3 ngày lễ trọng này trong bối cảnh đại dịch.
Đức Hồng Y Robert Sarah, tổng trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, đã ký sắc lệnh công bố sự cho phép này vào ngày 16 tháng 12.
Sắc lệnh nói rằng “theo các năng quyền được ủy thác cho Bộ này bởi Đức Thánh Cha Phanxicô”, qua sắc lệnh vừa được công bố, các giám mục giáo phận có thể cho phép các linh mục trong giáo phận của mình cử hành đến bốn Thánh lễ trong ba ngày lễ trọng nêu trên “xét vì tình hình gây ra bởi sự lây lan đại dịch trên toàn thế giới, và đứng trước sự lây lan dai dẳng toàn cầu của cái gọi là vi rút COVID-19”.
Theo Bộ Giáo Luật, thông thường một linh mục chỉ được cử hành một Thánh lễ duy nhất trong một ngày.
Điều 905 nói rằng các linh mục có thể được phép của giám mục địa phương để dâng đến hai Thánh lễ mỗi ngày “nếu thiếu linh mục,” hoặc tối đa ba Thánh lễ mỗi ngày vào các ngày Chúa Nhật và các Ngày Lễ Buộc “nếu cần thiết vì nhu cầu mục vụ”.
Các giới hạn về số người được phép hiện diện trong nhà thờ đã được các chính quyền dân sự áp đặt ở một số nơi trên thế giới, nhằm mục đích kiểm soát sự lây lan của coronavirus, đã hạn chế đáng kể số tín hữu có mặt trong các cử hành phụng vụ có công chúng tham dự và một số giáo xứ đã phải dâng thêm các Thánh lễ vào các ngày Chúa Nhật và trong tuần để tạo điều kiện cho nhiều người tham dự hơn.
Ngày Lễ Giáng sinh và ngày 1 tháng Giêng là ngày lễ trọng và do đó người Công Giáo bắt buộc phải tham dự Thánh lễ. Tại Hoa Kỳ, Lễ Hiển Linh đã được dời sang Chúa Nhật.
Trong thời gian đại dịch, một số giám mục đã chuẩn chước cho người Công Giáo trong giáo phận của các ngài nghĩa vụ tham dự Thánh lễ vào các ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ Buộc nếu việc tham dự sẽ khiến họ có nguy cơ lây nhiễm vi rút.
Source:Catholic News Agency
2. Đại nghịch bất đạo: Giáo dân kiện Giáo Hội đòi bãi bỏ luật xưng tội một năm ít là một lần
Tòa án cấp cao nhất của Ấn Độ đã đồng ý xem xét yêu cầu bãi bỏ luật buộc xưng thú tội lỗi một năm ít là một lần với một linh mục trong Giáo Hội Chính thống Syria Malankara sau khi có khiếu nại rằng luật này vi phạm quyền riêng tư của cá nhân.
Theo UCANews, hôm 14 tháng 12, Tòa án Tối cao Ấn Độ cho rằng họ đã hỏi ý kiến về đơn kiện này với các nhà lãnh đạo Giáo Hội Chính thống Ấn Độ, có trụ sở tại bang Kerala, ở miền nam nước này. Tòa án cũng hỏi ý kiến chính phủ liên bang, và những người khác nữa, với lý do đơn kiện ra tòa này là vì lợi ích công cộng. Kiện tụng vì lợi ích công cộng, tiếng Anh gọi là public interest litigation, theo luật pháp Ấn Độ, có nghĩa là nguyên đơn không phải là người bị hại, không bị mất quyền lợi cụ thể nào nhưng kiện khơi khơi vậy thôi vì nghĩ rằng nó đem lại lợi ích công cộng.
Những người khởi kiện là ba kẻ đại nghịch bất đạo Mathew Mathachan, PJ Shaji và CV Jose, tất cả đều là các giáo dân của Giáo Hội Chính thống. Họ muốn tòa án ra lệnh cho Giáo Hội của họ phải bãi bỏ luật có từ ngàn xưa là xưng tội một năm ít là một lần, vì cho rằng nó vi phạm quyền riêng tư và nhân phẩm.
Đơn khởi kiện cáo buộc rằng việc bắt buộc các thành viên phải xưng tội một năm ít nhất một lần “là một sự xâm phạm nghiêm trọng vào quyền tư ẩn của cá nhân.”
Giáo Hội Chính thống Syria Malankara thường được gọi tắt là Giáo Hội Chính Thống Ấn Độ được Thánh Tôma Tông Đồ thành lập từ thế kỷ thứ nhất khi ngài truyền giáo tại Ấn Độ. Họ tách khỏi tình hiệp thông với Giáo Hội Tây phương từ năm 451 sau Công Đồng Chalcedon.
Những cố gắng của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha nhằm đưa Giáo Hội này quay lại trong tình hiệp thông với Rôma đã hình thành nên Giáo Hội Công Giáo Syro Malabar, hiệp thông hoàn toàn với Tòa Thánh, từ trong lòng Giáo Hội Chính Thống Ấn Độ. Những ai không muốn hiệp thông với Tòa Thánh tiếp tục ở lại trong Giáo Hội Chính Thống Ấn.
Ngày nay, tại Ấn Độ, Giáo Hội Công Giáo Syro Malabar có đông tín hữu nhất với gần 2.4 triệu tín hữu, kế đến là Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Latinh với gần 1 triệu tín hữu, và sau cùng là Giáo Hội Chính thống Syria Malankara với gần nửa triệu tín hữu.
Giáo Hội Chính thống Syria Malankara đã trải qua một tai tiếng trầm trọng vào tháng 6 năm 2018, khi các nhà lãnh đạo Giáo Hội phải huyền chức năm linh mục của mình sau các cáo buộc rằng họ lạm dụng tình dục một bà mẹ hai con bằng cách đe dọa sẽ tiết lộ cho người chồng của nạn nhân tội ngoại tình mà cô đã xưng trong tòa giải tội.
Sau khi vụ việc được tiết lộ, Ủy ban phụ nữ quốc gia của Ấn Độ, đã kêu gọi một lệnh cấm các linh mục, dù là Chính Thống Giáo hay Công Giáo, cũng không được phép giải tội cho phụ nữ.
Trong một bản tuyên bố hôm 27 tháng 7, 2018, Đức Hồng Y Oswald Gracias, Tổng Giám Mục Bombay, và là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ấn nhận định rằng đòi hỏi quái đản, xuất phát từ một vụ việc cực kỳ hiếm hoi như thế, của Ủy ban phụ nữ “thể hiện sự thiếu hiểu biết hoàn toàn về bản chất, ý nghĩa, sự thánh khiết và tầm quan trọng của Bí tích này đối với người dân chúng ta”.
Các tôn giáo không phải là Ấn Giáo đã chịu đủ các hình thức bách hại từ ngày 16 tháng Năm 2014, khi lãnh tụ Ấn Giáo cực đoan Narendra Modi của đảng Bharatiya Janata (BJP) lên làm thủ tướng cho đến nay.
Sau khi đã thất bại hồi năm 2018 trong việc cấm các linh mục không được giải tội cho nữ giới, chiêu thức kiện ra tòa này là một mưu toan mới. Lần này, họ đòi cấm luôn cả việc giải tội cho nam giới. Trong đơn kiện, 3 kẻ đại nghịch bất đạo này nói rằng các linh mục có thể dùng những lời xưng tội để uy hiếp và làm tiền những người chồng xưng tội ngoại tình, mặc dù họ không trưng ra được bằng chứng nào.
Một hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán, do Chánh án Tòa Án Tối Cao Ấn Độ Sharad Arvind Bobde đứng đầu, đã đồng ý thụ lý vụ kiện. Hội đồng xét xử nói họ đã nghe ý kiến của tất cả các bên tham gia.
Tuy nhiên, hôm 15 tháng 12, cha Johns Abraham Konatt, phát ngôn viên của Giáo Hội Chính thống Ấn Độ cho UCANews biết vẫn chưa nhận được thông tin nào từ tòa án.
Nhược điểm lớn nhất của Giáo Hội Chính thống Ấn Độ trong vụ này là họ không có luật bảo vệ ấn tín bí tích giải tội. Bên cạnh đó còn có một thực hành khác có thể gây ra rắc rối là mỗi khi một hối nhân xưng tội thì linh mục phải ghi lại tên người ấy. Những ai không có tên trong sổ giải tội trong một năm có thể bị trục xuất khỏi Hội Thánh.
Dân số Ấn Độ hiện nay là 1.3 tỷ. 80% dân theo Ấn giáo. 20% còn lại bao gồm Hồi giáo 14%, Kitô hữu 2.3%, Sikh 1.7% và 2% theo các tín ngưỡng khác, bao gồm Phật giáo, Jains và Zoroastrians.
Cả Kitô giáo và Hồi giáo đều bị những người theo chủ nghĩa dân tộc coi là tôn giáo nước ngoài cần phải bị bài trừ.
Source:UCANews
3. Tiến sĩ George Weigel bàn về ngục tù và Truyền Giảng Tin Mừng Tại Trung Quốc
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, nơi ông giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban William E. Simon về Các Nghiên cứu Công Giáo. 25 cuốn sách của ông bao gồm cuốn tiểu sử hai tập về Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Chứng Nhân Hy Vọng, là cuốn sách bán chạy nhất của New York Times đã dịch sang 14 ngôn ngữ.
Người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vừa có bài nhận định sau trong bối cảnh bọn cầm quyền Trung Quốc xét xử nhà hoạt động nhân quyền Công Giáo Jimmy Lai.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
By George Weigel
Bàn Về Ngục Tù Và Truyền Giảng Tin Mừng Tại Trung Quốc
Joshua Wong (Hoàng Chí Phong, 黃之鋒) là một nhà hoạt động nhân quyền trẻ tuổi người Hoa, gần đây bị kết án 13 tháng rưỡi tù giam bằng một cáo buộc gây phương hại cho tự do xã hội của bọn cầm quyền. Anh bị kết tội “cố ý kích động tham gia một cuộc hội họp trái phép” —cụ thể, trên tờ Chinese Newspeak (Tân Văn Báo, 新闻报) anh kêu gọi những người khác phản đối một cách hòa bình cái chế độ chuyên chế hiện đang bóp nghẹt Hương Cảng. Trong lá thư đầu tiên từ nhà tù, anh Joshua viết, “Tù ngục không thể nhốt linh hồn”. Thật thế, chúng không thể. Nhưng việc thất bại không bảo vệ được những người bị nhốt trong các nhà tù bằng cách liên đới với họ có thể gây ra các thiệt hại nặng nề nhất cho việc truyền giáo.
Jimmy Lai (Lê Trí Anh, 黎智英) một trong những người Công Giáo nổi tiếng nhất Hương Cảng về phương diện bảo vệ tự do tôn giáo và các quyền cơ bản khác của con người, đã trở lại nhà tù vào đầu tháng 12; việc đóng tiền để tại ngoại hầu tra của anh trong một vụ tranh chấp thuê nhà dân sự đã bị bác bỏ với lý do anh ta có thể bỏ trốn và khởi động một nguy cơ an ninh quốc gia. Tất nhiên, lý do thực sự khiến anh ta phải ngồi tù là việc giam giữ anh Lai trong tù ngăn cản những thách thức liên tục của anh ta đối với chính sách đàn áp của bọn cầm quyền. Trong nhiều cuộc phỏng vấn, Jimmy Lai đã nhấn mạnh rằng đức tin Công Giáo của anh là nền tảng và là sự nâng đỡ đối với những dấn thân của anh cho nhân quyền của tất cả mọi người, bất kể chế độ Tập Cận Bình đang cố gắng hủy hoại công việc kinh doanh của anh cũng như đe dọa tính mạng của anh. Jimmy Lai có được khích lệ bởi một lời phản đối công khai từ Vatican chống lại cuộc đàn áp anh kể từ khi anh trở thành mục tiêu chính của các bạo chúa Trung Quốc không? Thưa: Không.
Martin Lee (Lý Trú Minh, 李柱銘) là một người Công Giáo sùng đạo khác - một luật sư nổi tiếng và là một nhà hoạt động ủng hộ dân chủ - là người đã phải chứng kiến cơ nghiệp của mình bị hủy hoại khi Bắc Kinh thắt chặt vòng vây đối với Hương Cảng một cách trắng trợn, coi thường những cam kết mà chúng đã đưa ra vào năm 1997, khi Vương quốc Anh trao lại chủ quyền lãnh thổ này cho Trung Quốc. Tờ Wall Street Journal nêu bật một câu nói bất hủ của ông Lee khi ông bác bỏ mọi đề nghị khuyên ông nên rời khỏi Hương Cảng: “Nếu tôi được lựa chọn để chết một cách yên bình trên giường bên ngoài Hương Cảng, hoặc chết trong đau đớn trong nhà tù Trung Quốc, câu hỏi dành cho tôi là không phải tôi chết như thế nào, mà là tôi sẽ lên thiên đàng hay không? Chết mà không có niềm tin là điều thực sự khiến tôi đau đớn”. Hiện thân của tinh thần Thánh Thomas More ở Trung Quốc này có được khích lệ bởi một lời phản đối công khai từ Vatican chống lại chế độ chuyên chế của Bắc Kinh không? Thưa: Không.
Ngay trước Lễ Tạ ơn, Vatican đã khởi xướng một cuộc họp giữa Đức Thánh Cha Phanxicô với một nhóm cầu thủ NBA và đại diện công đoàn của họ, rõ ràng là để thảo luận về các vấn đề liên quan đến công lý ở Hoa Kỳ. Có bất kỳ sự tiếp cận tương tự nào được thực hiện đối với các nhà hoạt động nhân quyền Công Giáo Trung Quốc — hoặc thậm chí với Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, giám mục hiệu tòa của Hương Cảng và là một người bảo vệ can đảm khác cho tự do tôn giáo trên khắp Trung Quốc không? Thưa: Không.
Những nỗ lực để bảo vệ sự miễn cưỡng đáng xấu hổ này của Vatican trong việc hỗ trợ những người Công Giáo Trung Quốc bị bách hại một cách công khai vẫn tỏ ra thiếu thuyết phục, thậm chí là lố bịch. Một số người cho rằng chính sách đối với Trung Quốc hiện tại của Vatican là cần thiết để điều hòa tình hình Công Giáo ở Trung Quốc, nơi đang bị thiếu hụt các giám mục. Làm thế nào một phương pháp bổ nhiệm các giám mục trong đó dành hết các động thái mở đầu trong tiến trình cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, lại không tự nó cho thấy rõ ràng là một sự vi phạm giáo huấn của Công đồng Vatican II (được ban hành có hiệu lực pháp lý trong Điều 377.5 của Bộ Giáo luật). Những người khác cho rằng Giáo hội phải tiếp nhận các chế độ côn đồ trong tình trạng hiện tại của chúng và cố gắng tạo ra không gian rộng mở cho đời sống Công Giáo trong hoàn cảnh đó; nhưng điều này không có ý nghĩa gì trong tình hình Trung Quốc ngày nay, nơi chế độ Tập Cận Bình đang sử dụng đe dọa và tra tấn để áp đặt lên toàn bộ đất nước những gì tương đương với một sự thay thế cho tôn giáo — đó là lòng trung thành với Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhà lãnh đạo tối cao của nó. Còn cái tuyên bố nực cười cho rằng thỏa thuận bắt đầu vào năm 2018 là một bước tiến vì nó công nhận vị thế của Giáo hoàng là người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo thì xin nói thế này: Sự công nhận một điều hiển nhiên như thế thì có ích gì, khi đối mặt với sự tuyên truyền phổ biến của một chế độ đang kháo rằng Tập Cận Bình là một thần minh, một nhân vật khôn ngoan nhân từ mà tất cả chúng ta phải chiều theo?
Giống như cuộc chiến giữa Công Giáo và chủ nghĩa cộng sản ở Đông Trung Âu trong Chiến tranh Lạnh, cuộc chiến giữa Công Giáo và chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc cuối cùng là một trò chơi phải có thắng có bại. Không có một trạng thái lưng chừng để sau cuộc chiến cả hai bên đều vui vẻ cả làng. Sẽ có một bên thắng thắng, và một bên thua. Ostpolitik của Vatican trong những thập niên 1960 và 1970 chưa bao giờ nắm bắt được điều này; Đức Gioan Phaolô II đã làm được điều đó, và sự tự giải phóng của Ba Lan và các nước thuộc Khối Warszawa khác đã được diễn ra vào năm 1989.
Chủ nghĩa Cộng sản Trung Quốc không phải là bất tử. Khi nó kết thúc, Trung Quốc sẽ là cánh đồng truyền giáo Kitô lớn nhất trong nhiều thế kỷ. Một đạo Công Giáo đồng hóa với cái chế độ cũ bị khinh miệt sẽ gặp bất lợi nghiêm trọng về mặt truyền giáo ở Trung Hoa trong thời hậu cộng sản: đặc biệt là khi người ta thấy rõ Công Giáo đã phản bội những người như Jimmy Lai, Martin Lee, Trần Nhật Quân, và rất nhiều những người cao thượng và can đảm tuyên xưng đức tin khác.
Source:First Things