Đức Mẹ XIN VÂNG
Đọc Tin Mừng theo thánh Luca, chúng ta nhận ra, hình như vị thánh này có lòng yêu mến Đức Mẹ sâu xa. Chính vì yêu mến, thánh nhân tỏ ra hiểu biết khá rõ về tính tình của Đức Mẹ: Đức Mẹ là con người của đời sống nội tâm. Đức Mẹ hay so sánh các biến cố, lưu giữ tất cả những gì đã từng xảy ra trong quá khứ và suy gẫm trong lòng (Lc 2, 19. 51).
Đặc biệt, trong trình thuật về mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giêsu, thánh sử này còn như muốn đề cao tinh thần vâng phục thánh ý Chúa của Đức Mẹ.
1. Đức Mẹ xin vâng và chương trình của Thiên Chúa khai thông.
Qua lời Đức Mẹ thưa với thiên thần: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” càng cho thấy, thánh Luca đề cao thái độ Xin Vâng nhanh chóng, Xin Vâng không miễn cưỡng của Đức Mẹ.
Đức Mẹ đã hiến mình cho Chúa, thì nay, trong lời thưa “Xin Vâng”, không chỉ thực sự hiến dâng mình như đã từng hiến dâng, mà còn cho thấy thói quen thực hành thánh ý Thiên Chúa là một thói quen thường xuyên, như đã trở thành nếp sống, nếp nghĩ, trở thành thức ăn dinh dưỡng qua từng phút giây của đời sống mà Đức Mẹ được Chúa ban.
Còn Thiên Chúa, Đấng thấu suốt sự ngoan ngùy của tớ nữ mà mình yêu quý, đã đón nhận lễ phẩm không chỉ là lời mà còn là ĐỜI xin vâng của Đức Mẹ cách nhanh chóng. Thiên Chúa lập tức thực hiện chương trình tình yêu và cứu độ của mình không cần đợi chờ gì thêm, không cần bất cứ một trình tự nào nữa.
Từ đời đời, Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp trên loài người. Đó là cho phép loài người được hưởng hạnh phúc của chính Thiên Chúa, sống gần gũi cùng Thiên Chúa, nên một trong sự thâm giao tuyệt đối với Người.
Chương trình của Thiên Chúa đổ vỡ do tổ tông loài người phản bội. Nay, để cứu độ chính loài người, Thiên Chúa không muốn chương trình của mình được thành công mà không có sự đồng thuận và vâng phục của người mà Thiên Chúa tuyển chọn. Vì thế, Thiên Chúa, qua sứ thần, đã hỏi ý kiến Đức Maria, một thụ tạo ưu tú của mình.
Lời "Xin vâng" của Đức Mẹ nói lên sự đồng thuận cách hết sức ngoan ngoãn của một thụ tạo luôn hướng lòng về Thiên Chúa và luôn được Thiên Chúa trung thành dành cho tình yêu của Người.
Từ lời "Xin vâng" ấy, Chúa Kitô, Ngôi Hai cứu chuộc đi vào trần thế, lấy lại những gì mà loài người đánh mất trong tội của nguyên tổ. Từ đây, kế hoạch cứu độ mới dành cho loài người của Thiên Chúa thành công.
2. Chúng ta sống "xin vâng".
Thiên Chúa luôn quan phòng và ấn định đường lối của Người cho mỗi một người. Ta cần cộng tác với Chúa bằng lắng nghe và vâng phục thánh ý.
Ta là cộng tác viên, là một phần của chương trình ấy. Nếu ta không vâng theo ý Chúa, nhưng sống tiêu cực, phạm tội, nghe theo xúi giục của ma quỷ, của thế gian, chương trình thánh thiện của Chúa dành cho ta bị bẻ gãy.
Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy học nơi Chúa Kitô và noi gương Đức Mẹ, đáp lời “xin vâng” với Chúa bằng cả cuộc đời ta:
Đó là: Bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa; bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa.
Đó là: Xin vâng khi vui cũng như lúc buồn; khi hạnh phúc cũng như lúc khổ đau.
Đó là: Bước theo Chúa Kitô như Đức Mẹ, dù phải đối diện cùng bất cứ hoàn cảnh nào trong đời.
Hãy xin vâng từng giây phút để chương trình của Chúa được thực hiện. Xin vâng để tâm hồn ta hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh.
“Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền”.
Kính thưa Anh Chị em,
Những giấc mơ, những câu chuyện thần tiên liên quan đến công trình cứu độ của Thiên Chúa là những gì Mẹ Giáo Hội cho con cái lắng nghe trong những ngày áp lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Chẳng hạn hôm nay, giấc mơ của Giêrêmia, giấc mơ của Giuse và cách nào đó, chúng còn là những giấc mơ của Thiên Chúa; Đấng làm cho những giấc mơ ‘không chỉ là mơ’ nhưng là thực.
Thật không thể tin được, bài đọc thứ nhất cho thấy, chính Thiên Chúa lại không giấu được giấc mơ của Người. Trước viễn cảnh lưu đày của một dân bất trung mà Người bắt họ trải nghiệm, thì qua miệng ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa xót thương đó không còn có thể kín tiếng, “Này đây, đã tới những ngày Ta gây cho Đavít một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm vua thống trị”; Thánh Vịnh đáp ca lại củng cố hoài bảo đó, rằng ‘không chỉ là mơ’ nhưng sẽ là hiện thực, vì “Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại Người tới muôn đời”.
Điều quan trọng chúng ta cần lưu ý ở đây là, Thánh Giuse đã đón nhận Mẹ Maria và ôm lấy Hài Nhi Giêsu vào lòng chỉ vì một giấc mơ. Dẫu chỉ là mơ, vậy tại sao Giuse lại có thể dựa vào tính xác thực của nó để ngoan nguỳ đến thế? Câu trả lời khá đơn giản, là cho dù giấc mơ của Giuse chỉ là vậy, nhưng đó, ‘không chỉ là mơ’, giấc mơ này còn kéo theo một quà tặng đức tin lớn lao, và đó là một ân huệ. Giuse biết, với niềm xác tín vượt quá lý trí con người, rằng, chính Thiên Chúa đã nói với mình và Giuse đã đáp lại bằng một đức tin không trù trừ, chẳng tính toán.
Phần chúng ta, có thể chúng ta không có những giấc mơ mà qua đó, Thiên Chúa nói với mỗi người dưới hình thức một thiên thần; thế nhưng, Người đang nói với chúng ta suốt cả ngày, mỗi ngày; Người nói trực tiếp với tâm trí, với trái tim chúng ta thông qua sự chăm sóc và trung gian của vô số vật chủ thiên thần dưới nhiều hình thức khác nhau. Các ‘thiên thần không cánh’ của Thiên Chúa không ngừng mang đến những thông điệp đầy cảm hứng; vấn đề là liệu chúng ta có đang lắng nghe Người không. Lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa qua trung gian các thiên thần, không phải là nhìn thấy hoặc nghe các thiên thần nói, theo nghĩa đen; đúng hơn, là nhận thức ngôn ngữ tình yêu này được nói với chúng ta, kêu gọi chúng ta đến với đức tin và loại bỏ những gì cản trở mỗi người đến với Thiên Chúa bằng một cuộc sống hoán cải. Và như thế, ‘không chỉ là mơ’, chúng ta sẽ nên thánh thật khi thực sự sống đời sống của con cái Thiên Chúa.
Những ngày còn lại của Mùa Vọng, cùng với một tác giả, chúng ta có thể cất lên ‘Lời Kinh Cho Tương Lai’, “Lạy Chúa, xin cứ làm phiền con khi con quá hài lòng với chính mình, khi ước mơ của con đã thành hiện thực vì con đã mơ quá ít, quá nhỏ, nếu không nói là quá tầm thường; khi con đến nơi an toàn vì con không dám xa bờ. Xin cứ làm phiền con, khi vì dư dật những thứ con sở hữu, con đã đánh mất khát khao nước hằng sống; con đã yêu cuộc sống, đến nỗi đã thôi mơ về cõi vĩnh hằng; và trong nỗ lực xây dựng một trời mới, đất mới, con đã để cho tầm nhìn của con về ‘một thiên đàng mới’ phải nhạt nhoà. Lạy Chúa, xin cứ làm phiền con hầu con dám mạnh dạn hơn, dấn thân hơn trên những vùng biển rộng lớn, nơi bão tố sẽ thể hiện khả năng làm chủ của Chúa, nơi mất đất liền và con sẽ tìm thấy các vì sao. Xin hãy đẩy lui chân trời hy vọng của con ở người đời; và thúc đẩy tương lai con bằng sức mạnh, lòng dũng cảm, hy vọng và tình yêu nơi chỉ một mình Chúa; để lúc bấy giờ, giấc mơ của con ‘không chỉ là mơ’ nhưng là chính Chúa”.
Anh Chị em,
Thiên Chúa có một giấc mơ, một kế hoạch riêng cho mỗi người tuỳ theo khả năng của đấng bậc. Người từng nói với Giêrêmia, “Này đây, Ta có một kế hoạch thịnh vượng chứ không phải là tai ương”, và Người ước thấy giấc mơ đó nên hiện thực khi mỗi chúng ta để cho thánh ý Người được thực hiện trong đời mình; Người ước chúng ta tin và cộng tác như Thánh Giuse hôm nay.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, trong tâm tưởng của Chúa, không giấc mơ nào lớn hơn giấc mơ ‘con nên thánh’. Nhờ lời cầu bàu của ‘Trái Tim Người Cha’ nơi Thánh Giuse, ‘Người Cha Của Bóng Tối’, cách riêng trong Năm Thánh của ngài, xin cho con biết lắng nghe trong im ắng tiếng nói của Thánh Thần, hầu con có thể đáp lại với một lòng tin như thánh cả; bấy giờ, việc con nên thánh ‘không chỉ là mơ’ nhưng là thực, thực như việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người”, Amen.
(Tgp. Huế)
Phúc Âm Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng kể chuyện thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai. Có thể gọi đây là câu chuyện Chúa mở lòng, người mở dạ. Thiên Chúa đã mở trời cao đi vào lòng dạ con người.
1.Chúa mở lòng yêu thương. Yêu nhau thì muốn ở gần nhau, đấy là định luật của tình yêu. Vì thế, Thiên Chúa là tình yêu nên Ngài không cứ ở mãi trên trời cao xa tít, mà Ngài muốn ở gần con người. Tình yêu đã khiến Chúa có một quyết định làm cho cả vũ trụ kinh ngạc: Chúa đã mở trời cao đi xuống và đi vào lòng dạ con người, ở cùng con người. Thiên Chúa giờ đây chung một dòng máu, chung một hơi thở, chung một sự sống với con người.
2.Mẹ Maria mở lòng đón nhận. Thiên Chúa từ trời xuống thế ngỏ lời yêu thương và Mẹ Maria đã bằng lòng ưng thuận, đáp lời “xin vâng”. Mẹ đã mở lòng dạ, mở trái tim đón nhận, để rồi Thiên Chúa vô hình đã nên hữu hình trong lòng dạ Mẹ. Mẹ Maria đã rộng lòng dâng Chúa cả con người Mẹ, cả cuộc đời Mẹ để Chúa thực hiện công trình cứu độ của Ngài.
3.Chúa làm Mẹ vui lòng. Lời đầu tiên sứ thần chào Mẹ Maria là “mừng vui lên”. Mẹ vui lên vì Chúa ban tràn đầy ơn phúc cho Mẹ. Mẹ vui lên vì Chúa ở cùng Mẹ, ở trong lòng dạ Mẹ. Người ta bảo rằng khi yêu nhau thì “xa là nhớ gần nhau là cười”. Lúc này, Mẹ không chỉ ở gần, ở bên, mà còn là ở trong Chúa, nên một với Chúa, khiến cho lòng mẹ vui lắm, vui ngất ngây.
Tình yêu rất cần tấm lòng. Mẹ Maria sống đẹp lòng Chúa. Chúa hài lòng về Mẹ nên đã chọn Mẹ. Chúa đã dủ lòng thương đến với nhân loại và Mẹ đã mở lòng đón Chúa. Có Chúa lòng Mẹ chan chứa niềm vui. Lễ Chúa Giáng Sinh gần kề, xin cho mỗi chúng ta cũng mở lòng đón Chúa ngự vào. Có Chúa, lòng ta sẽ đầy ắp yêu thương. Có Chúa, lòng ta dễ mở rộng chia sẻ, để cuộc đời phơi phới những niềm vui. Amen.
9. Con phải nhớ đến những tội con đã phạm để nhân cơ hội đó mà làm việc đền tội.
(Thánh Kessog)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Ông tư đồ họ Trương đã nói chuyện tiếu lâm với chúng tôi như sau:
- “Sách trên kệ sách của người khác thì sách đều bỏ hết cả trong bụng, chỉ có sách trong bụng chúng ta thì đều để cả trên giá sách”.
Đó là lời nói khiêm tốn, ý nghĩa của lời ấy là lười đọc sách và nhớ những gì đã đọc trong sách !
(Tuyết Đào Hài Sử)
Suy tư 12:
Có nhiều người muốn tỏ ra ta đây mê sách vở nên thấy sách gì cũng mua, nhưng mua xong thì để trên kệ sách đến mười năm sau vẫn thấy còn thơm mùi giấy mới vì họ không bao giờ đọc; có những người không bao giờ đọc sách nhưng hể thấy ai giới thiệu sách hay thì lăng xăng đi hỏi chỗ này có không, chỗ kia có không, nhưng không bao giờ mua; lại có người thích đọc sách nhưng thích đọc sách mượn của người khác vì mua sách sợ tốn tiền...
Mỗi ngày cố gắng đọc vài ba trang sách, viết vài hàng suy tư thì giống như mài giũa trí óc thêm sắc bén, khi gặp vấn đề nan giải thì có tiến có thủ, ứng biến mau lẹ giúp mình giúp người, đó chính là loại người sách trên giá để cả trong bụng rất đáng khâm phục và học hỏi.
Có những người Ki-tô hữu sách gì cũng đọc nhưng hể cầm đến quyển Thánh Kinh thì cầm không nổi, đọc không thông và cuối cùng thì quăng vào góc giường, bởi vì họ chỉ muốn tìm thấy những thỏa mãn con mắt và trí óc xác thịt chứ không tìm thấy sự no thỏa của tâm hồn khi đọc sách thánh, đó là một thiếu sót của chúng ta, cần phải kiểm điểm và quyết tâm.
Sách để đầy trên giá nhưng không đọc thì cũng như không có sách, sách nhớ thật nhiều trong bụng trong óc nhưng không bao giờ thực hành điều đã đọc thì cũng như người không đọc sách, tội nghiệp thay.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin mừng: Lc 1, 26-38.
“Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.”
Bạn thân mến,
Lời hứa trước đây trong vườn địa đàng -sau khi nguyên tổ loài người phạm tội- của Thiên Chúa, đang được thực hiện với lời chào hỏi của thiên sứ Gáp-ri-en với Đức Mẹ Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng bà.” Không vui sao được khi mà dân Do Thái qua hàng ngàn năm mong đợi vị cứu tinh đến; không vui sao được khi mà người Do Thái bị áp bức bởi nhà cầm quyền Rô-ma; không vui sao được khi mà lời hứa của Thiên Chúa ngàn năm trước nay đã thực hiện giữa loài người...
Và hôm nay bạn và tôi cũng đang vui mừng vì ngày kỷ niệm lễ lớn của nhân loại sắp đến, lễ Đức Chúa Giê-su giáng sinh, ngày lễ mà Giáo Hội mời gọi bạn và tôi, cũng như tất cả những người Ki-tô hữu khác phải chuẩn bị thật nghiêm chỉnh trong tâm hồn, cũng như chuẩn bị thật đẹp bên ngoài để đón Ngài đến, bởi vì Ngài đến không phải để lên án, nhưng là để cứu thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi của ma quỷ, và dẫn đường cho chúng ta đi về nhà Cha trên trời.
Tâm hồn bạn đang vui mừng, đang hòa với niềm vui cùng Giáo Hội địa phương, bạn đang góp tay vào trang hoàng nhà thờ, làm hang đá, cắm hoa, dọn vệ sinh nhà thờ sạch sẽ.v.v...để niềm vui được nhân lên khi phục vụ nhà Chúa, đó chính là niềm vui mà thiên sứ báo tin cho Đức Mẹ Ma-ri-a: mừng vui lên, Đấng đầy ơn phúc. Nhưng hạnh phúc và hân hoan nhất, chính là bạn và tôi hãy noi gương Đức Mẹ Ma-ri-a, đem Chúa Giê-su trong lòng mình đi phục vụ tha nhân như món quà Chúa tặng cho họ và cho bạn và tôi.
Bạn thân mến,
Bạn và tôi đang vui mừng chuẩn bị đón Chúa đến, không những đến trong tâm hồn, mà còn chờ đợi Ngài đến lần thứ hai trong vinh quang Thiên Chúa, bởi vì lần thứ nhất nơi hang đá Bê-lem, sự giáng thế của Đức Chúa Giê-su đã mở đầu cho một kỷ nguyên tha tội, kỷ nguyên của lòng thương xót Thiên Chúa, và nơi sự giáng lâm lần thứ hai trong vinh quang, và nhất là chuẩn bị Ngài đến trong ngày cuối của cuộc đời chúng ta, chính Ngài sẽ như vị quan tòa xét xử chúng ta sử dụng ân sủng của Ngài như thế nào trong cuộc sống.
Khi vui mừng chờ đón ngày kỷ niệm Con Thiên Chúa làm người, bạn và tôi cũng vui mừng chuẩn bị Ngài đến trong vinh quang Thiên Chúa để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Ma-ra-na-tha, lạy Đức Chúa Giê-su xin hãy đến.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12. 14a. 16
“Nước Ðavít sẽ tồn tại muôn đời trước mặt Chúa”.
Bài trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi ấy vua Ðavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: “Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?” Nathan trả lời với vua rằng: “Ðiều vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua”. Nhưng xảy ra là, đêm ấy, có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: “Hãy nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: “Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?”
“Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ, lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi. Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị khuấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù, và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng: Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín.
Xướng: Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”.
Xướng: Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con”. Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
Bài Ðọc II: Rm 16, 25-27
“Mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được tỏ bày”.
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, kính chúc Ðấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo Phúc Âm tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các Dân Ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin.
Kính chúc Thiên Chúa, Ðấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời! Amen.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 1, 38
Alleluia, alleluia! – Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 26-38
“Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ”. Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Ðó là lời Chúa.
“Có một người của Thiên Chúa đến cùng tôi”.
Kính thưa Anh Chị em,
Nếu mỗi ngày Hội Thánh cao rao “Thiên Chúa viếng thăm dân Người” trong kinh Benedictus, thì quả, phụng vụ Lời Chúa hôm nay kể cho chúng ta hai cuộc viếng thăm ly kỳ trong những cuộc viếng thăm ấy. Một ở thời Cựu Ước, thiên thần Chúa hiện ra với Manuel, mẹ của Samson; một ở thời Tân Ước, thiên thần Chúa hiện ra với Zacaria, cha của Gioan. Và Thiên Chúa ‘xót thương dân Người’ đang tiếp tục viếng thăm nhân loại, ‘viếng thăm mỗi người’ chúng ta.
Sách Thủ Lãnh tường thuật cuộc viếng thăm Người dành cho mẹ của Samson. Tuyệt vời, bà đã tin! Bà hớn hở đi nói với chồng, “Có một người của Thiên Chúa đến cùng tôi, với diện mạo thiên thần, rất đáng sợ. Tôi hỏi người ấy là ai, bởi đâu đến, gọi tên gì, người ấy không muốn nói, nhưng lại trả lời, ‘Rồi đây, ngươi sẽ được thụ thai và hạ sinh một con trai’”; bà đã thấy và đã tin. Tương tự như thế, Tin Mừng Luca tường thuật cuộc viếng thăm dành cho cha của Gioan. Tiếc thay, ông không tin! Kết quả là gì? Thiên Chúa không chịu thua, Người vẫn thực hiện điều Người đã định và quở trách Zacaria bằng việc buộc ông phải câm; vì dù đã thấy, ông vẫn không tin.
Thấy mà không tin, thật không hiểu nổi! Không có lý do gì để Zacaria phải nghi ngờ. Một mình trong thánh điện; ông dâng hương, cơ hội chỉ có một lần trong đời. Đó là một khoảnh khắc đắc địa, một không gian thiêng thánh và quan trọng hơn; ở đó, có cả một thiên thần hiện ra! Và nếu một người nào đó cần được chuẩn bị cho một thông điệp đặc biệt, thì đó chính là Zacaria. Vậy mà ông không tin. Zacaria đã “ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa”, đến nỗi, “không ai chê trách được điều gì”; vậy mà, lòng trung thành của ông không biến thành một đức tin sống động vào thời điểm quan trọng nhất, cần thiết nhất. Thật đáng nghi, đức tin của ông; thật đáng ngờ, kinh nguyện của ông; thật đáng ngại, tế tự của ông! Xem ra ông ít lòng tin, thiếu lòng mến và vơi lòng cậy. Đời sống đức tin của Zacaria cần được xem lại, việc cầu nguyện của ông cần đặt thành vấn đề; phải chăng nó mới chỉ ở ngang mức ‘lải nhải’?.
Tin Mừng nói, Zacaria thưa với thiên thần, “Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?”. Có đến ‘ba cái tôi’ ở đây; ông nghĩ tuổi tác ông sẽ cản trở kế hoạch của Thiên Chúa; ông đánh giá thấp quyền năng Người. Thật vậy, không phải Thiên Chúa là Đấng giới hạn; đúng hơn, con người muốn giới hạn Thiên Chúa. Sứ thần Gabriel đến với ông cũng là Gabriel đến với Đức Mẹ; thế mà, Mẹ Maria đã thưa, “Việc đó xảy đến thế nào được”, nghĩa là ‘việc đó’ nhất định sẽ xảy đến dù tôi ‘biết hay không biết’, chỉ có điều là ‘tôi không biết đến người nam’; thiên thần đã giải thích và Đức Mẹ “Xin vâng”. Đang khi Zacaria, “Làm sao tôi biết được!”, nghĩa là ‘tôi’ quan trọng hơn ‘việc Chúa’; nói cách khác, Zacaria thừa nhận ông ‘không biết’, cũng ‘không cần biết’ và nhất là, ‘không chắc’ điều Chúa hứa sẽ xảy ra, nghĩa là ông không tin. Vì thế, ông bị câm; vì không có đức tin thì không có gì để nói!
Anh Chị em,
Còn hơn ngọn đuốc sáng bền vững tinh khôi, Chúa Giêsu đang đến với tư cách Đấng Cứu Độ; chúng ta được Ngài ‘viếng thăm mỗi ngày’ qua bao hình thức, dưới bao khuôn mặt. Ngài viếng thăm chúng ta qua những người nghèo, các em bé, các cụ già; Ngài nói với chúng ta qua Lời Ngài, qua Hội Thánh, qua các bí tích. Ở đâu có Ngài, ở đó có bình an, bao dung; ở đâu có Ngài, đời thôi hết quạu cọ và người ta không còn son sẻ; ở đâu có Ngài, ở đó có ân sủng và niềm vui.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con tin, Chúa đang viếng thăm con, ‘viếng thăm mỗi người’. Chớ gì lòng con luôn tin yêu như Đức Mẹ, hầu trái tim con không là một chiếc nôi trống trơn nhưng là một chiếc nôi đầy Chúa; để tim con hằng hoan hỷ ca khen, “Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh Ngài” như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca hôm nay”, Amen.
(Tgp. Huế)
Tổng thống Macron là người thường xuyên đeo khẩu trang y tế và tuân thủ các quy tắc về khoảng cách an toàn xã hội. Tuy nhiên, ông được tường thuật là đã tổ chức hoặc tham gia nhiều bữa tiệc trong những ngày trước khi có kết quả dương tính vào hôm thứ Năm 17 tháng 12.
Những người thường chỉ trích tổng thống Pháp nói rằng ông đã làm gương mù cho đồng bào khi bỏ qua các lời khuyên không nên tụ họp quá sáu người.
Hôm thứ Sáu 18 tháng 12, các quan chức của Phủ Tổng thống cho biết ông đang bị sốt, ho và mệt mỏi. Họ cho biết sẽ không cung cấp chi tiết về cách điều trị của tổng thống.
Ông đang ở tại dinh thự tổng thống La Lanterne ở thành phố Versailles.
Kết quả xét nghiệm dương tính của ông Macron được đưa ra trong bối cảnh các cơ quan y tế Pháp một lần nữa chứng kiến sự gia tăng các trường hợp nhiễm coronavirus và cảnh báo nhiều hơn nữa khi các gia đình Pháp chuẩn bị cùng nhau đón Giáng sinh và Năm mới.
Pháp báo cáo chỉ trong 24 giờ của ngày thứ Năm đã có thêm 18,254 trường hợp nhiễm bệnh được xác nhận và số người chết đã đạt đến con số 60,000 người.
Các trợ lý của tổng thống Macron đã cố gắng liên lạc với tất cả những người mà ông đã gặp gỡ trong những ngày gần đây. Bộ trưởng Y tế Pháp gợi ý rằng tổng thống có thể đã bị nhiễm bệnh tại một hội nghị thượng đỉnh của Liên minh châu Âu ở Brussels vào tuần trước, nhưng thực ra tổng thống Macron cũng đã có nhiều cuộc họp ở Paris.
Tổng thống Macron cho biết trong một tuyên bố ngắn gọn rằng ông đã thử nghiệm coronavirus “ngay khi có các triệu chứng đầu tiên” vào sáng ngày thứ Năm và sẽ tự cách ly trong bảy ngày, theo khuyến cáo của các cơ quan y tế quốc gia.
Trong thông báo đưa ra hôm thứ Sáu, vị tổng thống 42 tuổi cho biết “sẽ tiếp tục làm việc và quan tâm điều hành các hoạt động của mình từ xa”.
Trong khi đó, Nga đã báo cáo rằng chỉ trong 24 giờ của ngày thứ Năm, quốc gia này đã có thêm 28,552 trường hợp nhiễm coronavirus, trong đó riêng tại thủ đô Mạc Tư Khoa đã có 6,937 trường hợp, nâng tổng số trường hợp nhiễm bệnh trên toàn quốc lên đến 2,791,220 trường hợp kể từ khi đại dịch bắt đầu.
Các nhà chức trách cũng báo cáo có 611 người chết trong 24 giờ qua, đẩy số người chết vì virus Tầu lên đến 49,762 người.
Tại Bỉ, số trường hợp nhiễm coronavirus đang có chiều hướng giảm xuống nhưng trong 24 giờ của ngày thứ Năm 17 tháng 12 cũng đã có 3,636 trường hợp nhiễm coronavirus được ghi nhận, và 100 người chết.
Người Công Giáo ở Bỉ đang tìm cách thực hiện các hành động pháp lý nhằm chống lại một quyết định của chính phủ nước này cấm các cử hành phụng vụ có công chúng tham dự cho đến hết ngày 15 tháng Giêng năm 2021.
Theo một sắc lệnh của Bộ Y Tế Bỉ được công bố hôm 29 tháng 11, khoảng 6.5 triệu người Công Giáo của đất nước này bị buộc phải tổ chức lễ Giáng sinh tại nhà.
Giáo dân đang lên kế hoạch tổ chức các vụ kiện dân sự để thách thức sắc lệnh này.
Phản ứng lại trước các yêu cầu của anh chị em giáo dân muốn có thánh lễ Giáng Sinh, người đứng đầu văn phòng khu vực của Tổ chức Y tế Thế giới tại Âu Châu, có trụ sở tại Brussels, thủ đô của Bỉ đã kêu gọi mọi người ở nhà trong dịp Giáng sinh, và nhấn mạnh rằng so sánh với khả năng mắc phải Covid-19 việc tham dự thánh lễ Giáng Sinh là “không đáng để mạo hiểm”.
Bác sĩ Hans Kluge cho biết:
“Vẫn còn một sự khác biệt giữa những gì bạn được phép làm bởi chính quyền của bạn và những gì bạn nên làm”.
“Chúng ta chỉ còn một vài tháng phải hy sinh và hiện tại chúng ta nên hành xử theo cách mà chúng ta có thể tự hào. Khi chúng ta nhìn lại những khoảng thời gian chưa từng có này, tôi hy vọng tất cả chúng ta đều cảm thấy chúng ta đã hành động với tinh thần nhân bản và chia sẻ để bảo vệ những người đang gặp khó khăn”.
Một bức thư ngỏ gửi cho thủ tướng Bỉ, được viết sau sắc lệnh ngày 29 tháng 11 và được đăng trên trang web “Puor La Messe”, nghĩa là “Dành cho Thánh lễ”, đã được 10,000 người ký vào ngày 7 tháng 12.
Bức thư do hai linh mục và một giáo dân viết, lưu ý rằng một số cơ sở kinh doanh “không thiết yếu”, như viện bảo tàng và bể bơi đã được phép mở cửa trở lại với sắc lệnh mới, trong khi sự thay đổi về việc đình chỉ các thánh lễ không hề được đề cập đến.
“Từ thứ Ba này, chúng ta có thể đi mua sắm Giáng sinh hoặc đi bơi vào sáng Chúa Nhật, nhưng chúng ta vẫn không thể tham dự Thánh lễ! Thậm chí lễ Giáng sinh cũng không được!” bức thư viết.
“Giống như tất cả mọi người Bỉ và với tất cả giáo dân của chúng tôi, chúng tôi đã tham gia kể từ ngày 18 tháng 3 trong cuộc chiến chống lại đại dịch Covid-19. Sự cam kết của người Công Giáo đã được thực hiện đầy đủ và trọn vẹn trong cuộc chiến chống lại dịch bệnh này, cũng như mong muốn của chúng tôi là phục vụ lợi ích chung đã được thể hiện,” bức thư viết tiếp. “Các quy trình nghiêm ngặt đã được thực hiện trong từng nhà nguyện, nhà thờ hoặc nhà thờ chính tòa, điều chỉnh theo kích thước của cơ sở, để tôn trọng các hướng dẫn được ban hành như đeo khẩu trang y tế, giãn cách xã hội, bôi thuốc sát trùng. Chúng tôi đã cẩn thận, cảnh giác thực thi từng ly từng tí.”
Source:West Australia
Chính phủ Iraq đã từng tuyên bố Giáng sinh là ngày lễ “một lần” duy nhất vào năm 2008, nhưng trong những năm sau đó, quy định này không được chính thức gia hạn ở cấp quốc gia, chỉ được áp dụng trong những năm gần đây ở tỉnh Kirkuk.
Sau đó, vào năm 2018, nội các chính phủ đã thông qua một tu chính án về các ngày lễ quốc gia, nâng Giáng sinh lên thành một ngày lễ quốc gia cho tất cả công dân, cả các Kitô hữu lẫn người Hồi giáo. Hai năm sau, một cuộc bỏ phiếu cho tu chính án này đã được thông qua tại quốc hội, và tu chính án này có hiệu lực ngay tức khắc, có nghĩa là Giáng sinh cuối cùng đã là một ngày lễ được công nhận chính thức - bắt đầu từ năm nay và tiếp tục trong tương lai.
Vào ngày 17 tháng 10, Hồng Y Louis Raphael Sako, Thượng phụ Babylon của Công Giáo nghi lễ Chanđê, đã nhắc lại tu chính án của nội các cũ và đề nghị Tổng thống Iraq Barham Salih đưa sang Quốc hội thảo luận. Nhân dịp tiếp Đức Thượng phụ tại dinh thự của mình, Tổng thống Salih đã nhấn mạnh vai trò của các cộng đồng Kitô Giáo trong công cuộc tái thiết đất nước, sau những năm bọn khủng bố Hồi Giáo IS chiếm đóng Mosul và các vùng rộng lớn ở miền Bắc Iraq.
Sau khi biết tin về việc thông qua tu chính án, Đức Hồng Y Sako, đã đưa ra một thông điệp trong đó ngài cảm ơn Tổng thống Salih; Chủ tịch Quốc hội, Muhammad al Halbousi; và tất cả các nghị sĩ “bỏ phiếu vì lợi ích của những người đồng hương,” cầu xin Chúa chúc lành cho họ và trả công bội hậu cho họ.
Tổng thống Salih cũng nhắc lại cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc đưa các tín hữu Kitô di tản trở về quê hương bản quán của họ, bắt đầu từ thành phố Mosul và Đồng bằng Nineveh, là những nơi mà họ buộc phải bỏ chạy trong những năm thống trị của quân thánh chiến.
Source:Vatican News
Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An
Bài Giảng Mùa Vọng đầu tiên của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma.
Bài Giảng Mùa Vọng thứ hai của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma.
Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 18 tháng 12 tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục của Vatican, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, Dòng Anh Em Hèn Mọn, Giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng, đã trình bày bài thuyết giảng thứ ba và cũng là bài cuối cùng trong loạt bài tĩnh tâm Mùa Vọng của Đức Thánh Cha Phanxicô và giáo triều Rôma với chủ đề: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12).
Bài thuyết giảng Mùa Vọng cuối cùng này của ngài có tựa đề: “Ngài cư ngụ giữa chúng ta.” Đó là một câu trích từ Phúc Âm theo Thánh Gioan.
Nguyên bản tiếng Ý có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Trong thông điệp Urbi et orbi đáng nhớ của mình vào ngày 27 tháng 3 tại quảng trường Thánh Phêrô, sau khi đọc bài Phúc âm về việc Chúa Giêsu làm sóng yên biển lặng, Đức Thánh Cha đã tản mạn đề cập đến những gì Chúa Giêsu muốn nói khi Ngài khiển trách các môn đồ vì ‘hèn tin’ và Đức Thánh Cha giải thích rằng:
Các môn đệ không ngừng tin nơi Chúa, và thực sự họ kêu cầu Ngài. Nhưng chúng ta hãy xem cách thức các môn đệ cầu khẩn Ngài: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4:38). “Thầy chẳng lo gì”: họ nghĩ rằng Chúa Giêsu không đoái hoài gì đến họ, không chăm sóc cho họ. Một trong những điều làm chúng ta và các gia đình đau lòng nhất là câu: “chẳng lo gì sao?”. Đó là một câu làm thương tổn và khơi dậy bão tố trong tâm hồn. Câu ấy cũng làm tổn thương Chúa Giêsu. Vì Ngài quan tâm đến chúng ta hơn bất cứ ai.
Chúng ta có thể thoáng thấy một sắc thái khác trong lời trách móc của Chúa Giêsu. Các môn đệ đã không hiểu ai đang ở trên cùng con thuyền với họ; họ đã không hiểu rằng, khi Ngài ở trên thuyền, con thuyền không thể chìm vì Chúa không thể ra hư mất. Chúng ta, những môn đệ của Người trong thời đại này, cũng sẽ mắc sai lầm như các môn đệ xưa và sẽ đáng bị Chúa Giêsu khiển trách như vậy nếu trong cơn bão dữ dội đã ập đến thế giới qua trận đại dịch này chúng ta quên rằng mình không hề đơn độc trên con thuyền trước sự khống chế của những con sóng.
Lễ Giáng Sinh cho phép chúng ta mở rộng chân trời: từ biển Galilê đến khắp cùng thế giới, từ các tông đồ đến chúng ta: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Trong tiếng Hy Lạp, động từ eskenosen (nghĩa đen là ‘dựng lều hạ trại’), ở thì aorist, chuyển tải ý tưởng về một hành động đã hoàn thành và không thể đảo ngược được. Con Người đã xuống thế gian và Thiên Chúa không thể hư mất. Một Kitô hữu có thể mạnh dạn hơn tác giả của Thánh Vịnh để tuyên bố rằng:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động, núi đồi có sập xuống biển sâu,
dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi thủy triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì. (Tv 46: 2-4)
Như tôi đã từng nói, chúng ta cần quay trở lại cuộc tranh cãi đầu tiên trong tất cả các cuộc tranh cãi về Kitô học hồi thế kỷ thứ năm - trước các Công đồng Êphêsô và Chancêđon - để tái khám phá nghịch lý và tai tiếng chứa đựng trong tuyên bố: ‘Ngôi Lời đã cư ngụ giữa chúng ta’. Thật đáng đọc phản ứng của một người ngoại giáo có học thức sống vào thế kỷ thứ hai, sau khi biết về tuyên bố này của các tín hữu Kitô. Nhà triết học Celsius đã kinh hoàng và kêu lên rằng: ‘Con của Chúa – mà lại là một người chỉ sống cách đây vài năm thôi à?’ Ngôi Lời hằng sống – là một người chỉ mới ở đây “hôm qua hay hôm kia” thôi sao? là một người đàn ông “được sinh ra từ một người quay tơ nghèo, trong một ngôi làng của xứ Giuđêa” sao? Phản ứng ấy khá dễ hiểu: sự kết hợp hoàn hảo giữa thần tính và nhân tính trong con người của Chúa Kitô là điều mới lạ nhất có thể có, là “điều mới mẻ duy nhất dưới ánh mặt trời”, như Thánh Gioan thành Đamát định nghĩa.
Trận chiến lớn đầu tiên mà đức tin nơi Chúa Kitô phải đương đầu không phải là về thần tính của Ngài, mà là về nhân tính của Ngài, và về chân lý của mầu nhiệm nhập thể. Căn nguyên của sự từ chối đó là giáo điều của Plato, nói rằng ‘không có Thiên Chúa nào lại hòa hợp với con người’. Từ kinh nghiệm cá nhân, Thánh Augustinô khám phá ra rằng căn cội của khó khăn mà thánh nhân cảm thấy để có thể tin vào mầu nhiệm nhập thể là sự thiếu khiêm nhường. Như ngài viết trong cuốn Tự Thú của mình ‘không khiêm nhường, tôi không thể hiểu được sự khiêm nhường của chính Thiên Chúa’.
Kinh nghiệm của Thánh Augustinô có thể giúp chúng ta hiểu được căn cội của thuyết vô thần hiện đại và cho chúng ta thấy cách duy nhất có thể để vượt qua nó. Sự thật lịch sử của Phúc âm và thần tính của Chúa Kitô đã bị tấn công kể từ thời Hermann Samuel Reimarus, vào thế kỷ thứ mười tám. Chúa Giêsu nói: ‘Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy’ (Ga 14:6). Một khi người ta nói rằng con đường duy nhất đến với Thiên Chúa này đã bị đóng lại, thì trước tiên rất dễ chuyển sang thuyết hữu thần tự nhiên luận [deismo - Hermann Samuel Reimarus cho rằng có thể hiểu biết về Thiên Chúa chỉ dựa vào nhận thức tự nhiên không cần nhờ đến mạc khải hay giáo huấn của Giáo Hội – chú thích của người dịch] và sau đó là thuyết vô thần.
Kinh nghiệm của Thánh Augustinô - như tôi đã nói - chỉ ra con đường vượt qua trở ngại đó, cụ thể là bằng cách từ bỏ lòng kiêu hãnh và chấp nhận sự khiêm nhường của chính Thiên Chúa. ‘Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn’ (Mt 11:25): toàn bộ lịch sử bất tín của loài người được giải thích bởi những lời này của Chúa Kitô. Sự khiêm nhường cung cấp chìa khóa để hiểu được mầu nhiệm nhập thể. Phô trương thì không cần nhiều cố gắng lắm đâu, nhưng cần rất nhiều sức mạnh để có thể bước sang một bên và tự hạ mình xuống. Thiên Chúa là quyền năng vô hạn trong sự tự hạ mình: ‘Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ […] Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự’ (Pl 2: 7-8).
Thiên Chúa là tình yêu và do đó là sự khiêm nhường! Tình yêu tạo ra sự phụ thuộc vào người bạn yêu, và kiểu phụ thuộc đó không làm bẽ mặt mà còn làm thăng hoa. Hai tuyên bố ‘Thiên Chúa là tình yêu’ và ‘Thiên Chúa là sự khiêm nhường’ giống như hai mặt của cùng một đồng tiền. Tuy nhiên, từ ngữ khiêm nhường có nghĩa là gì, khi nó được áp dụng cho Thiên Chúa và đâu là ý nghĩa trong những lời này của Chúa Giêsu: ‘Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng’ (Mt 11:29)? Về bản chất, điều cốt yếu là thế này: khiêm nhường không phải là ‘trở nên nhỏ bé’ (vì một người có thể nhỏ bé và tầm thường nhưng vẫn không có lòng khiêm nhường); cũng không phải là chuyện tự xem bản thân mình là hèn mọn (vì điều đó có thể phụ thuộc vào một hình ảnh tiêu cực về bản thân); và cũng chẳng phải là chuyện tuyên bố mình là hèn mọn (vì bạn có thể nói như thế nhưng không thực sự tin vào điều đó); đúng hơn, khiêm nhường là việc khiến bản thân mình trở nên nhỏ bé và ta làm điều đó vì tình yêu, để người khác có thể nổi lên. Theo nghĩa đó, chỉ có Chúa mới thực sự khiêm nhường. Thật thế,
Ai sánh bằng Thiên Chúa Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời,
cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất?
Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi,
ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro. (Tv 113: 5-7).
Lễ Giáng sinh là lễ của sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Để tôn vinh điều đó trong tinh thần và sự thật, chúng ta cần trở nên giống như những đứa trẻ, như bạn cần cúi đầu để đi qua cánh cửa hẹp nhỏ để bước vào Vương Cung Thánh Đường Chúa Giáng Sinh ở Bêlem.
“Giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết”
Tuy nhiên, chúng ta hãy quay trở lại trọng tâm của mầu nhiệm đó: ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Chúa ở với chúng ta mãi mãi, và điều đó là không thể đảo ngược được. Từ giờ trở đi, đó là trọng tâm của lời tiên tri Kitô. Ông Dacaria đã chào hài nhi Tiền Hô và gọi con trẻ là ‘ngôn sứ của Đấng Tối Cao’ (Lc 1:76) và Chúa Giêsu nói về Thánh Gioan Tẩy Giả rằng ông còn ‘hơn cả một ngôn sứ’ (Mt 11, 9). Nhưng theo nghĩa nào thì Gioan Tẩy Giả là một tiên tri? Yếu tố tiên tri nằm ở đâu trong trường hợp của ngài? Các tiên tri trong Cựu ước đã loan báo về một sự cứu rỗi trong tương lai; Gioan Tẩy Giả không công bố một sự cứu rỗi trong tương lai; đúng hơn, thánh nhân chỉ vào một người hiện diện ở đó trước ngài. Các tiên tri ban đầu đã giúp dân Israel vượt qua rào cản của thời gian; Gioan Tẩy Giả giúp họ vượt qua những rào cản thậm chí còn dày đặc hơn trước điều thoạt nhìn xem ra trái ngược với bản chất của nó. Liệu Đấng Thiên Sai được mong đợi từ lâu - được các chi tộc chờ đợi, được các tiên tri công bố, được ca ngợi trong các Thánh Vịnh – rốt cuộc có thể nào lại chính là người đàn ông trông rất khiêm nhường và bình thường, mà chúng ta biết tất cả mọi thứ về người ấy kể cả làng quê của ông ta?
Thật tương đối dễ tin vào một điều gì đó vĩ đại và thiêng liêng, nếu nó được dự kiến trong một tương lai vô định: ‘trong những ngày đó’, ‘trong những ngày sau hết’, trong một khuôn khổ vũ trụ, với các tầng trời nhỏ xuống mật ngọt, trái đất mở ra và ơn cứu rỗi chớm nở (x. Is 45: 8). Nhưng sẽ khó hơn nếu bạn phải nói: ‘Ngài ở đây! Chính là Ngài!’ Thật là chuyện quá đỗi người ta thường tình khi những người nghe bị cám dỗ để thốt lên tức khắc rằng ‘Chỉ có thế thôi à?’. ‘Có thể có điều gì tốt từ Nagiarét đâu?’ (Ga 1:46); ‘Chúng tôi biết rõ ông ta đến từ đâu mà’ (Ga 7:27).
Đó là một sứ vụ tiên tri vượt quá giới hạn của con người và đó là lý do tại sao vị Tiền Hô được định nghĩa là ‘hơn cả một tiên tri’. Ngài là người dám chỉ vào một người và thốt ra một câu dứt khoát “Ecce - Đây này! Ngài đây này”. “Chiên Con của Thiên Chúa đây!” (Ga 1:29). Bạn có thể tưởng tượng những người đầu tiên nhận được tiết lộ đó phải rùng mình như thế nào không? Quyền năng của Chúa Thánh Thần vang lên trong những lời của vị Tiền Hô khi ngài bày tỏ chân lý đó cho những tấm lòng lương thiện. Quá khứ và tương lai, một sự chờ đợi lâu dài và thành quả đã hội tụ và chạm vào nhau. Vòng cung huyền thoại của lịch sử cứu độ đã khép lại.
Tôi tin rằng Thánh Gioan Tẩy Giả đã để lại cho chúng ta nhiệm vụ tiên tri của chính ngài, đó là tiếp tục kêu lên rằng: “Giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết” (Ga 1:26). Ngài đã bắt đầu lời tiên tri mới. Như tôi đã nói, lời tiên tri đó không phải là loan báo về một ơn cứu độ trong tương lai, mà là để bày tỏ sự hiện diện của Chúa Kitô trong lịch sử: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Chúa Kitô không hiện diện chỉ vì người ta liên tục nói và viết về Người, nhưng vì Người đã sống lại và Người sống theo Thần Khí. Điều đó không chỉ là một dự định, mà còn là một hiện thực. Việc truyền giáo bắt đầu từ đó.
Vào thời của Gioan Tẩy Giả, cản trở chính là thân xác thể lý của Chúa Giêsu, hình hài của Ngài, rất giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngày nay, trở ngại chính là nhiệm thể của Ngài, là Giáo hội. Giáo hội rất giống phần còn lại của nhân loại, bao gồm cả tội lỗi nữa! Như vị Tiền Hô đã làm cho những người đương thời có thể nhận ra Đức Kitô trong thân xác khiêm nhường của Người, thì ngày nay Người cũng cần được nhận ra trong sự nghèo nàn và khốn cùng của Giáo hội Người cũng như trong sự nghèo nàn và khốn cùng trong đời sống của chính chúng ta.
Thánh Phaolô bổ sung gì cho Thánh Gioan?
Tuy nhiên, chúng ta cần thêm một số điều vào những gì chúng ta đã nói cho đến nay. Nhận thức rằng Thiên Chúa đã hóa thành người phàm thôi thì chưa đủ, nhưng chúng ta cũng cần biết Thiên Chúa đã hóa thành loại người phàm nào. Tôi nghĩ điều quan trọng là phải thấy Thánh Gioan và Thánh Phaolô khác biệt nhau ra sao và bổ sung cho nhau như thế nào trong cách thức mỗi vị mô tả mầu nhiệm nhập thể. Đối với Thánh Gioan, điều này bao gồm sự kiện Ngôi Lời là Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể (x. Ga 1: 1-14); đối với Thánh Phaolô, điều đó bao gồm thực tế là ‘Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ’ (x. Pl 2: 5ff.) Đối với Thánh Gioan, Ngôi Lời, là Thiên Chúa, đã làm người; còn với Thánh Phaolô ‘Chúa Kitô vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó’ (x 2 Cor: 8-9).
Sự phân biệt giữa sự kiện nhập thể và cách thức sự kiện này được hoàn thành, giữa chiều kích bản thể học và chiều kích hiện sinh, khiến chúng ta quan tâm vì nó dõi chiếu một ánh sáng đặc biệt lên vấn đề nghèo đói hiện tại và cách thức các Kitô hữu nên phản ứng với vấn nạn đó. Sẽ rất hữu ích nếu chúng ta có thể đưa ra một nền tảng Kinh thánh và thần học về sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo, như đã được công bố trong Công đồng Vatican II. Như Jean Guitton, một giáo dân tham dự Công đồng Vatican II với tư cách là quan sát viên, đã viết: ‘Các Nghị phụ của Công đồng đã tái khám phá ra bí tích của sự nghèo khó, đó là sự hiện diện của Chúa Kitô dưới các hình dạng của những người đau khổ’.
‘Bí tích’ của sự nghèo khó! Đây là những từ rất mạnh mẽ, nhưng chúng có cơ sở. Nếu quả thực, bởi sự kiện nhập thể, theo một cách nào đó, Ngôi Lời đã mặc lấy mọi người lên mình Ngài (như một số giáo phụ Hy Lạp đã tuyên bố), thì về cách thức điều này được thực hiện, Người đã mặc lấy lên mình những người nghèo, những người khiêm nhường, và những người đau khổ. Chúa Giêsu đã “thiết lập” dấu chỉ này theo cùng một thể thức như Người đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Người nói khi bẻ bánh: ‘Này là mình Thầy’ và Người cũng dùng những từ ngữ tương tự như thế về người nghèo. Người đã làm như vậy khi đề cập đến những gì người ta đã làm - hoặc không làm - cho những người đói khát, chịu giam cầm, trần truồng hay là những người lạ, bằng cách trang trọng thêm rằng: ‘mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy, và mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy’ (Mt 25: 31ff.).
Chúng ta hãy rút ra hệ quả của điều này ở cấp độ giáo hội học. Chính Thánh Gioan XXIII, tại Công đồng Vatican II, đã đặt ra cụm từ ‘Giáo hội của người nghèo’. Ý nghĩa của nó vượt xa cách giải thích thông thường. Giáo hội của người nghèo không chỉ bao gồm những người nghèo trong chính Giáo hội! Theo một nghĩa nào đó, tất cả những người nghèo trên thế giới đều thuộc về nó, cho dù họ đã được rửa tội hay chưa. Một số người sẽ phản đối: ‘Sao lại thế? Họ chưa lãnh nhận đức tin hoặc chưa lãnh nhận Bí tích Rửa tội mà!’ Điều đó đúng, nhưng nếu như thế thì cũng không có các Thánh Anh Hài mà chúng ta mừng sau lễ Giáng sinh. Trong mắt Thiên Chúa, sự nghèo khó và đau khổ của họ, nếu không xuất phát từ tội lỗi, chính là phép rửa bằng máu của chính họ. Thiên Chúa có nhiều cách cứu rỗi hơn những cách chúng ta tưởng tượng ra, mặc dù tất cả những cách này, không có ngoại lệ nào đều phải qua Chúa Kitô và ‘trong một cách chỉ một mình Thiên Chúa biết’.
Người nghèo ‘thuộc về Chúa Kitô’, không phải vì họ tự nhận mình thuộc về Ngài, nhưng vì Ngài tuyên bố họ thuộc về mình, Ngài tuyên bố họ là chi thể của Ngài. Điều này không có nghĩa là chỉ cần nghèo trong thế giới này là đủ để tự động bước vào vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa. Những lời: ‘Hỡi những ai được Cha Ta chúc phúc, hãy đến’ (Mt 25:34) được gửi đến những người đã chăm sóc người nghèo, không nhất thiết được gởi đến cho chính những người nghèo chỉ vì họ nghèo về vật chất trong cuộc sống của họ.
Do đó, Giáo hội của Chúa Kitô lớn hơn nhiều so với những con số và những gì các nhà thống kê học báo cáo. Đây không phải là một tuyên bố huênh hoang hay chiến thắng, điều này sẽ gây bất tiện, đặc biệt là trong những thời điểm này. Không ai khác ngoài Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: ‘Bất cứ điều gì anh em đã làm cho một trong những người anh em nhỏ bé nhất của Thầy, thì anh em đã làm cho Thầy' (Mt 25:40), ở đó ‘những người anh em nhỏ bé nhất’ này không chỉ là những người tin vào Đức Kitô, mà còn là mọi người.
Do đó, Đức Giáo Hoàng - cùng với mọi mục tử trong Giáo hội - thực sự là ‘cha của người nghèo’. Tất cả chúng ta đều vui mừng và cảm thấy được khích lệ khi thấy vai trò này được các Giáo hoàng gần đây và đặc biệt là vị mục tử hiện đang ngồi trên ngai tòa Thánh Phêrô coi trọng như thế nào. Ngài là người ủng hộ mạnh mẽ nhất cho người nghèo trong một thế giới chỉ quen với việc chọn lọc và đào thải. Ngài chắc chắn đã không ‘quên người nghèo’! Trong Kinh thánh, chúng ta tìm thấy một phước lành đặc biệt dành cho những ai quan tâm đến người nghèo:
Phúc thay ai lưu tâm đến người nghèo khổ:
trong ngày hoạn nạn, sẽ được Chúa cứu nguy.
Chúa bảo vệ và giữ gìn mạng sống,
lại ban cho hạnh phúc trên đời,
không trao họ cho địch thù hung hãn. (Tv 41: 2-3).
Nhưng đừng tự huyễn hoặc bản thân: đây là điều nói thì dễ mà làm thì khó. Issac thành Ninivê, một Giáo phụ sống trong sa mạc, đã đưa ra lời khuyên này cho những người theo nghĩa vụ bị buộc phải nói về những điều thiêng liêng mà họ chưa đạt được trong đời sống của chính mình: “Hãy nói về điều đó như một người thuộc về hàng môn sinh chứ không phải với uy quyền, sau khi đã khiêm hạ trong lòng bạn và tự làm cho mình trở nên nhỏ bé hơn bất kỳ thính giả nào của bạn”. Và đó chính là cách mà tôi dám nói về điều đó.
“Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14:23)
“Ngôi Lời đã hóa thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Trước khi kết thúc, chúng ta cần chuyển từ số nhiều sang số ít. Ngôi Lời đã không đến thế gian một cách chung chung mơ hồ, nhưng đã đi vào mỗi tâm hồn tin tưởng một cách cá vị. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14: 23). Do đó, Đức Kitô không chỉ hiện diện trên con thuyền của thế giới hay của Giáo hội; Người hiện diện trên con thuyền nhỏ của đời tôi. Thật là một suy nghĩ sâu sắc! Giá như chúng ta có thể thực sự tin tưởng vào điều đó! Thánh Elizabeth của Chúa Ba Ngôi đã khám phá ra rằng bí mật về sự thánh thiện của thánh nữ nằm ở đó. Như ngài đã từng viết cho một người bạn rằng: “Tôi dường như đã tìm thấy thiên đường của riêng mình trên trái đất này, bởi vì thiên đường là Chúa và Chúa đang ở trong tâm hồn tôi. Ngày tôi hiểu ra điều này, mọi thứ đều tràn ngập ánh sáng”.
Với những hạn chế đối với việc thờ phượng nơi công cộng và đối với việc tham dự thánh lễ trong nhà thờ, do nó gây ra, đại dịch này có thể là cơ hội để nhiều người trong chúng ta khám phá ra rằng chúng ta không chỉ gặp được Chúa bằng cách đến nhà thờ, nhưng chúng ta có thể thờ phượng Chúa ‘trong tinh thần và chân lý’ và trò chuyện với Chúa Giêsu ngay cả khi bị nhốt trong nhà, hoặc thậm chí trong phòng của chúng ta. Đời sống Kitô không thể không có Thánh Thể và cộng đoàn, nhưng khi điều này bị ngăn cản bởi những điều kiện bất khả kháng, các Kitô hữu không nên nghĩ rằng đời sống Kitô bị gián đoạn. Nếu bạn chưa bao giờ gặp Chúa Kitô trong lòng mình trước đây, bạn sẽ không bao giờ gặp Ngài - theo nghĩa mạnh của từ này - ở bất cứ nơi nào khác.
Có một tuyên bố táo bạo về lễ Giáng sinh đã vang lên nhiều lần trên miệng lưỡi của các tiến sĩ Hội Thánh và các bậc thầy tâm linh vĩ đại của Giáo hội như Origen, thánh Augustinô, thánh Bernard, Angelus Silesius và nhiều vị khác. Về cơ bản, là thế này: “Chúa Kitô đã được sinh ra bởi Đức Maria một lần ở Bêlem, điều đó có ích gì đối với tôi nếu Ngài không được sinh ra bởi đức tin trong lòng tôi?”. Như thánh Ambrôsiô đã viết: “Theo nghĩa sâu xa nhất, liệu Chúa Kitô còn có thể được sinh ra ở đâu khác, ngoài trái tim và tâm hồn bạn?” Thánh Maximô Cha Giải Tội lặp lại rằng: “Ngôi Lời Thiên Chúa muốn lặp lại mầu nhiệm nhập thể của Ngài trong mọi người nam nữ”. Như bạn có thể thấy, đó là một chân lý đại kết thực sự.
Nhắc lại cùng một truyền thống này, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong sứ điệp Giáng Sinh năm 1962, đã nêu lên lời cầu nguyện cháy bỏng này: “Hỡi Lời Vĩnh Hằng của Cha, Con Thiên Chúa và Con của Mẹ Maria, hãy đổi mới một lần nữa hôm nay, trong thẳm sâu tâm hồn chúng con, điều kỳ diệu phi thường trong sự giáng sinh của Chúa”. Chúng ta hãy biến lời cầu nguyện này thành lời cầu nguyện của riêng mình, nhưng, trong hoàn cảnh bi đát mà chúng ta đang trải qua, chúng ta hãy thêm vào đó lời cầu xin cháy bỏng của phụng vụ Giáng sinh: “Hỡi Vua của các dân tộc, Đấng cai trị mà họ hằng mong ước, là đá tảng hiệp nhất mọi người: Hãy đến và cứu tất cả chúng con, là những người mà Ngài đã hình thành từ đất sét”. Xin hãy đến và nâng dậy nhân loại, đang kiệt sức vì thử thách kéo dài của đại dịch hiện nay!
1.In Origene, Contro Celso, I,26.28; VI,10.
2.S. Giovanni Damasceno, Fede ortodossa, 45.
3.Platone, Simposio, 203°; cf. Apuleio, De deo Socratis, 4: “Nullus deus miscetur ho minibus”.
4.Confessioni, VII, 18.24).
5.Fonti Francescane, 221.
6.Fonti Francescane, 144.
7.J. Guitton, cit. da R. Gil, Presencia de los pobres en el concilio, in “Proyección” 48, 1966, p.30.
8.In AAS 54, 1962, p. 682.
9.Gaudium et spes, 22.
10.Isacco di Ninive, Discorsi ascetici 4, Città Nuova, Roma 1984, p.89.
11.Lettera 107 del 1902 alla contessa De Sourdon.
12.Cf. Origene, Commento al vangelo di Luca 22,3 (SCh 87,p. 302); Angelo Silesio, Il Pellegrino cherubico, I, 61: “Wird Christus tausendmal zu Bethlehem geborn / und nicht in dir: du bleibst noch ewiglich verlorn“.
13.S. Ambrogio, In Lucam, 11,38.
14.S. Massimo Confessore, Ambigua (PG 91,1084.
15.Antifona ai Vespri del 22 Dicembre.
Source:Raniero Cantalamessa
Le 14 décembre, Mgr Joseph Dinh Duc Dao, évêque du diocèse de Xuan Loc dans le sud du Vietnam, a effectué une visite pastorale auprès d’un marché local, afin d’encourager les commerçants et transmettre la joie et l’esprit de Noël malgré la crise. L’évêque était accompagné du père Laurent Do Nam Tan, de la paroisse de Phuc Nhac, et de plusieurs responsables laïcs. Mgr Dao a parcouru ce marché traditionnel du district de Thong Nhat, dans la province de Dong Nai, en saluant et en échangeant avec les vendeurs et les marchands. Beaucoup de passants, y compris des clients du marché, se sont approchés pour l’écouter et prendre des photos. L’évêque a encouragé les commerçants à traiter leurs clients avec respect, bienveillance et dans la joie. « Ainsi, il ne s’agit plus seulement de vendre des biens pour vivre, mais de vivre notre mission d’amour », a-t-il souligné. Mgr Dao, âgé de 75 ans, a également prié le Notre Père, le Je Vous Salue Marie et entonné des chants de Noël avec les fidèles présents sur la place du marché. Mgr Dao, qui est également recteur de l’Institut catholique du Vietnam, a aussi offert des chapelets bénis. « Je suis vraiment heureux de rencontrer notre évêque au marché. Je n’aurais jamais pensé le voir ici, c’est incroyable », confie Thérèse Thu Tram, qui vend des nouilles au marché. Bai, qui vend des gâteaux de soja, explique qu’elle rencontrait l’évêque pour la première fois. Marie Kim Anh, qui vend des fruits au marché de Thong Nhat, se dit enthousiasmée par la visite de Mgr Dao. « Il nous a apporté l’amour et la grâce de Dieu pour que nous les transmettions autour de nous », ajoute-t-elle. Anne Pham Thi Thao, qui tient une boutique, explique que l’évêque lui a recommandé de se montrer amicale avec les passants qui n’achètent rien faute de moyens.
Le plus grand diocèse du Vietnam en nombre d’habitants
La veille, le 13 décembre, Mgr Dao s’est également rassemblé avec des catholiques de la paroisse de Thanh Tam afin de réciter le chapelet et de prier pour les sans-abri et les familles en difficulté, afin qu’ils trouvent consolation auprès de Dieu. L’évêque, qui est également membre du Conseil pontifical pour le dialogue interreligieux, a aussi appelé les fidèles à construire l’Église locale comme un « sanctuaire de la Divine Miséricorde ». Il visite régulièrement les temples, les usines, les marchés, les travailleurs migrants, les malades et les personnes âgées. Mgr Dao, qui a travaillé à Rome de 1964 à 2009, a été nommé évêque auxiliaire en 2013. Trois ans plus tard, il est devenu évêque du plus grand diocèse du pays en termes de population. Parmi les catholiques du diocèse de Xuan Loc, nombre d’entre eux ont des ancêtres qui sont venus s’installer dans la région depuis le nord du Vietnam en 1954, après la défaite des troupes françaises face aux communistes.
(Source: Églises d'Asie - le 18/12/2020)
Trong những ngày toàn thế giới chuẩn bị mừng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Giáng Sinh và đón năm mới 2021. Giáo Phận Thái Bình muốn trao tặng những anh chị em Khuyết tật món quà tình yêu Giáng Sinh là niềm vui qua ngày Hội dành riêng cho họ trên vùng đất quê lúa Thái Bình thân yêu.
Mục đích của ngày này là nhằm qui tụ tất cả những người khuyết tật không phân biệt tôn giáo trong ngoài Giáo Phận để họ có cơ hội gặp gỡ và không còn mặc cảm tự ti, nhận ra được giá trị của bản thân và ý nghĩa của cuộc đời mình. Đặc biệt hơn nữa, qua sự tận tâm phục vụ của mọi người dành cho người khuyết tật, chính họ sẽ cảm nhận được tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho họ qua những người anh em xung quanh.
Xem Hình
Đây là ngày Hội truyền thống của những vị khách đặc biệt đến từ khắp các tỉnh thành khu vực miền Bắc kể từ năm 2009. Những vị khách đó được Đức Cha Phêrô - vị chủ chăn của Giáo Phận, ưu ái gọi là thượng khách với một vị trí đặc biệt quan trọng trong trái tim của ngài. Năm nay, do hoàn cảnh Covid-19 nên quy mô tổ chức ngày Hội truyền thống - Đại Hội Khuyết Tật nhỏ hơn mọi năm. Thành phần tham dự được giới hạn trong địa bàn Giáo Phận là 2 tỉnh Thái Bình và Hưng Yên với gần 2.000 tham dự viên đến từ 37 đơn vị khác nhau. Trong số các tham dự viên - những vị khách đặc biệt ấy, những người không chung niềm tin tôn giáo chiếm tỷ lệ cao hơn những anh chị em Công Giáo.
Cao điểm của đại hội là Thánh Lễ do Đức Cha Phêrô - vị cha chung Giáo Phận chủ tế với đông đảo linh mục đồng tế, quý tu sĩ nam – nữ, chủng sinh, y bác sĩ, tình nguyện viên và toàn thể các tham dự viên tham dự trong ngày Chúa nhật thứ III mùa Vọng được gọi là ngày Chúa nhật hồng, Chúa nhật của niềm vui trước biến cố đón mừng Ngôi Hai Con Chúa nhập thể.
Trong phần mở đầu và giảng Lễ, Đức Cha Phêrô với cung giọng yêu thương trìu mến đã dẫn đưa mọi người hướng về và cầu nguyện cùng Thượng Đế, Ông Trời mà các Ki-tô hữu gọi là Thiên Chúa để tin tưởng, sống và cầu nguyện với Ngài trong đời sống thường ngày. Thượng Đế hay Thiên Chúa chính là Đức Vua đang “tàng hình” sống cùng và sống với chúng ta nơi những người thân cận, nhất là những người đau khổ, bất hạnh mà mỗi người trong chúng ta cần phục vụ và đối xử với họ như với chính Đức Vua.
Dù đi lại khó khăn, nhưng các tham dự viên vẫn sẵn lòng vượt qua những chặng đường dài để đến với Trung Tâm Lòng Chúa Thương Xót, bởi họ biết trong Đại Hội Khuyết Tật này họ không chỉ nhận được những gói quà vật chất mà to lớn hơn cả là tình Chúa và tình người nồng ấm nơi ban tổ chức, những người phục vụ và các tham dự viên đồng cảnh ngộ, nhờ đó mà họ cảm nhận cuộc sống vui tươi và ý nghĩa hơn.
Đại Hội Khuyết Tật là dịp giúp mọi người có cơ hội học tập, phục vụ và và xích lại gần nhau hơn. Theo lời chào mừng của Cha Giám Đốc Caritas Thái Bình: “Sự kiên trì và dũng cảm vượt khó của anh chị em khuyết tật chính là những tấm gương cho chúng tôi”. Chứng kiến và chia sẻ những hoạt động trong ngày đại hội sẽ giúp những người đồng hành và phục vụ thấu hiểu hơn nỗi niềm và con người của những anh chị em kém may mắn.
Đại hội đã khép lại lúc 17g30’ sau lời cảm ơn của cha phó giám đốc Caritas Thái Bình gửi tới Đức Cha giáo phận, quý cha, quý nam nữ Tu sĩ, quý y bác sỹ, quý ân nhân, tình nguyện viên, đặc biệt là các anh chị em khuyết tật – những người làm nên sự thành công và ý nghĩa của đại hội. Ngày Hội truyền thống đã kết thúc nhưng những tiếng nói, nụ cười và cả niềm tin yêu, hy vọng sẽ còn đọng lại mãi nơi những con người đặc biệt. Trải qua mỗi kỳ đại hội là cả một dòng đại dương cảm xúc được ánh lên trên gương mặt và trong trái tim của những người tham dự. Những nụ cười rạng rỡ, những ánh nhìn đầy cảm phục xen lẫn những giọt lệ lăn dài nơi khóe mắt với vô vàn điều muốn nói của những mảnh đời bất hạnh.
Trong dịp hội ngộ năm nay, niềm vui của các tham dự viên được tăng lên gấp bội, bởi họ tận mắt chứng kiến một ngôi nhà chung - công trình Trung tâm Hướng nghiệp Lòng Chúa Thương Xót của Giáo phận Thái Bình dành riêng cho họ thật uy nghi, bề thế, rộng lớn, thoáng mát và tiện nghi vừa được cắt băng khánh thành ngày hôm trước, do Đức Cha Phêrô – Giám Mục Giáo Phận, Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Đức Tổng Giám Mục Giuse Vũ Văn Thiên, Đức cha Giáo Phận Thanh Hóa và Đức Cha chủ tịch Caritas Việt Nam cùng đại diện quý Cha và quý vị ân nhân.
Trung tâm Lòng Chúa Thương Xót Giáo Phận Thái Bình, tọa lạc trên phần đất 30 ngàn m2, thuộc Giáo xứ An Lạc, thôn An Lạc, xã Trung An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đúng với tên gọi, Trung tâm Mục vụ Lòng Chúa Thương Xót An Lạc Thái Bình có mục đích sống chứng nhân, mang Lòng Chúa Thương Xót đến với mọi người cách riêng những người nghèo khổ, khuyết tật, cùng cực, mồ côi, bị bỏ rơi một cách cụ thể bằng việc:
- Cưu mang, chăm sóc, nuôi sống.
- Có nơi ăn, ở, ngủ nghỉ, học hành.
- Học phổ thông, các ngành nghề.
- Tạo công ăn việc làm, tự lực mưu sinh bằng chính công sức lao động của chính mình.
- Chế độ nội trú – liên thông với các trường trung học, dạy nghề và bệnh viện y tế.
Văn phòng Caritas Thái Bình
Kính chào Đấng Gìn giữ Đấng Cứu Thế,
Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.
Chúa đã trao Con Một của Chúa cho ngài;
Mẹ Maria đã tin tưởng vào ngài;
Chúa Kitô đã lớn lên thành người cùng với ngài.
Lạy Thánh Giuse diễm phúc,
xin cũng hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con
và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời.
Xin ban cho chúng con ân sủng, lòng thương xót và lòng can đảm,
và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.
Để giúp các tín hữu dễ cầu nguyện và dễ thuộc lòng lời kinh này, hầu dễ dàng nhận được ơn toàn xá, linh mục Rôcô Nguyễn Duy - Thư ký Ủy ban Thánh Nhạc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam - đã phổ nhạc thành bài 'Ca nguyện kính Thánh Giuse' dưới đây:
Xem Hình
Trong một ngày thời tiết rất đẹp, lý tưởng cho một buổi lễ trang trọng ngoài lễ đài. Nghi thức truyền chức cho hai thầy: Mathew Đinh Tuấn Hoàng và Giuse Nguyễn Bá Đạt, đã được Đức cha Terry Curtin DD Giám Mục Phụ Tá Tổng giáo phận Melbourne chủ tế truyền chức, cùng với quý cha thuộc Đại chủng viện Corpus Christi, quý cha Việt Nam trong tổng giáo phận,
Do tình hình dịch bệnh, tuy đã có nới lỏng, nhưng thánh lễ đã không mở rộng cho toàn thể cộng đoàn về chung niềm vui lớn, vì đây là lần đầu tiên, cộng đoàn được vinh dự tổ chức một thánh lễ truyền chức tại cộng đoàn. Nhưng may mắn, buổi lễ đã được ABTV do Bằng Lê Streamline cho những người không thể đến tham dự, nhưng vẫn có thể cầu nguyện trực tiếp cho hai thầy.
Trước đây, các thánh lễ truyền chức đều được tổ chức tại Nhà Thờ Chánh Tòa của Tổng Giáo phận thật long trọng và luôn có số lượng giáo dân đông đảo về tham dự, nay do dịch bệnh, Tổng giáo phận đã cho phép hai thầy Việt Nam về Trung Tâm Công Giáo Việt Nam để truyền chức.
Được biết, từ đầu Tháng 12/2020 đã có quý thầy Việt Nam Dòng Chúa Cứu Thế là thầy Anton Nguyễn Văn Nam, được truyền chức tại Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang và quý thầy Đức và thầy Hướng Dòng Don Bosco chịu chức tại Nhà Thờ Saint John the Baptist, tại Clifton Hill.
Buổi lễ kết thúc với bữa tiệc đúng với thời đại dịch, mỗi người nhận một phần ăn và nước giải khát mang về vui hưởng niêm vui chung và thêm lời cầu nguyện cho quý thầy để xin ơn bền đỗ.
Cây nến thứ tư loan báo sứ điệp: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng chị.“ ( Lc 1,30).
Đó là lời Thiên Thần Gabriel chào mừng khi hiện đến với Đức Mẹ Maria mang tin Thiên Chúa chọn Maria làm mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Các đôi vợ chồng đều có những kỷ niệm đẹp thơ mộng niềm vui thần thánh khôn tả, khi người hai người gặp gỡ quen biết nhau, nhận ra dấu chỉ tâm đầu ý hợp, và sau đó nhận lời ưng thuận nhận nhau làm người bạn đường cho đời sống chung của nhau. Có thể nói đó là niềm vui cấp số cộng.
Rồi khi gia đình có tiếng trẻ thơ mở mắt cất tiếng khóc chào đời, niềm vui thần thánh đó lại to lớn lên theo cấp số nhân. Vì sự sống thân xác cùng tinh thần người con là ân huệ, phúc lộc hoa qủa của Thiên Chúa ban cho đời sống cha mẹ.
Lẽ dĩ nhiên không loại trừ sự lo âu. Phải, có khi gặp khó khăn trở ngại cũng thường xảy ra kèm theo. Nhưng không vì thế niềm vui thần thánh bị giảm hay bị biến mất. Trái lại, giúp cho họ có sức lực tinh thần cùng cả thể lý vượt qua trở ngại đạt tới thành công.
Khi hai người nam nữ nhận nhau cùng chung con đường đời sống chung, họ muốn nói với nhau: Chúng ta cùng vui mừng có nhau trong đời sống. Những khó khăn chúng ta gặp phải là điều không ai muốn. Nhưng không thể tránh hay loại bỏ được. Đó là đời sống chúng ta. Chúng ta cùng nhau gánh vác chịu đựng chung. Và như thế trở thành niềm an ủi mang lại niềm vui cho nhau.
Và đạo đức hơn nữa, theo đức tin đạo giáo, hai vợ chồng không bị bơ vơ bỏ rơi. Nhưng luôn có sức lực trợ giúp cho tâm hồn từ Trời cao: Thiên Chúa sinh ra chúng ta làm người, tác thành tình yêu gia đình chúng ta, chắc chắn Ngài ban ân đức trợ giúp, những khi gặp bước đường trở ngại. Và như vậy là niềm vui cho đời sống rồi.
Những người chọn nếp sống tu trì tận hiến cho Thiên Chúa và Hội Thánh, ngày Khấn hứa, ngày lãnh nhận chức thánh cầm cây nến cháy sáng tiến lên cung thánh bàn thờ Thiên Chúa trong tâm tình cảm động vui mừng: Này con đây, con xin đến để thi hành thánh Chúa!
Đó là cây nến chiếu tỏa ánh sáng niềm vui mừng thánh đức, cùng với ân sủng của Thiên Chúa ban cho người chọn nếp sống đời tu trì tận hiến.
Thiên Thần Chúa hiện đến mang tin cho thiếu nữ Maria được tuyển chọn làm mẹ Con Thiên Chúa với lời chào đoan hứa ban cho niềm vui được đầy ân sủng của Thiên Chúa.
Lời đoan hứa ban cho niềm vui cùng ân sủng không đưa mẹ Maria trở lại sống trong khu vườn địa đàng trên trần gian lúc thuở ban đầu, mà ngày xưa Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà đã được tạo thành sinh sống nơi đó, và đã bị Thiên Chúa phạt đuổi ra khỏi không cho trở lại nữa. Vì Ông Bà đã lỗi phạm điều Thiên Chúa ngăn cấm không được ăn cây qủa trái cấm.
Nhưng người con mà Maria sẽ hạ sinh, Đấng là con Thiên Chúa, tên là Giêsu sẽ mang lại cho trần gian ơn cứu chuộc cho khỏi hình phạt tội lỗi do ông bà nguyên tổ Adong - Evà đã gây ra hệ lụy cho trần gian.
Niềm vui và ân sủng cho Maria được tuyển chọn làm mẹ Con Thiên Chúa.
Niềm vui ân sủng người con của Maria, Đấng là Con Thiên Chúa, mang lại ánh sáng ơn cứu độ, xóa bỏ hệ lụy tội nguyên tổ cho trần gian để con người có lại được đời sống trong khu vườn địa đàng không ở nơi trần gian, nhưng ở trên trời bên Thiên Chúa, sau khi đời sống mỗi người là một cuộc hành trình trên trần gian chấm dứt.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa
Nguyên tác: Jaroslav Pelikan,
Bản tiếng Việt: Vũ Văn An
CHƯƠNG CHÍN: VỊ ĐAN SĨ THỐNG TRỊ THẾ GIỚI
Họ bỏ mọi sự và theo Người
“Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Tôi” (Mc 8:34): các lời này của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng, ngay từ đầu, vốn là lời hiệu triệu bước vào kỷ luật và việc bỏ mình để làm môn đệ cho tất cả những ai muốn cố gắng bước chân theo Người (1). Nhưng đầu thế kỷ thứ sáu, chúng đã trở thành hiến chương của phong trào đơn tu trong Kitô giáo Phương Tây, một phong trào từ bỏ thế gian vì Chúa Kitô, và tiếp theo đó là chinh phục thế giới nhân danh Chúa Kitô, Vị Đan Sĩ thống trị thế giới.
Câu nói trên cũng lên khuôn hình ảnh Chúa Giêsu như vị Đan sĩ hoàn thiện, Đấng có quyền ban lời hiệu triệu như thế vì chính Người đã tuân giữ nó vô điều kiện. Vì, theo một nghĩa độc đáo, Người đã từ bỏ mình và vác lấy thập giá mình. Không kẻ thù hay bằng hữu nào thành công trong việc làm trệch hướng Người khỏi việc từ bỏ mình này và từ bỏ thế gian. Khi Tên Cám Dỗ dâng cho Người “mọi vương quốc trần gian và vinh quang của chúng” (như thể Tên Cám Dỗ có quyền ban phát), Người đã giận dữ từ chối (Mt 4:8-10); khi những người thấy các phép lạ của Người “sắp đến bắt Người đem đi mà tôn làm vua”, Chúa Giêsu đã lánh mặt (Ga 6:15); và khi thủ lĩnh các Tông đồ tìm cách ngăn Người đừng vác thập giá, Chúa Giêsu đã quở mắng ông bằng những lời gay gắt nhất trong các Sách Tin Mừng (Mt 16:23): “Hỡi Satan hãy xéo khỏi mặt Ta!”. Mặc dù có những đoạn tương phản lối sống của Người với lối sống nhiệm nhặt hơn của Gioan Tẩy giả (Lc 7:31-35), mệnh lệnh căn bản của lối sống đơn tu vẫn không kém căn bản đối với chân dung của Chúa Giêsu trong cả bốn sách Tin Mừng. Thế nhưng, nhờ việc từ bỏ thế gian của Người, Người đã chinh phục thế gian và thiết lập vương quốc vĩnh viễn của Người, trong đó, Người mời gọi các kẻ theo Người chia sẻ bằng cách cũng từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.
Như thế, các đan sĩ bắt đầu tự lên khuôn mình theo Chúa Kitô. Nhưng đến lúc họ hoàn thành, họ cũng đang lên khuôn Chúa Kitô theo họ. “Chúa Kitô Đan Sĩ” là một chủ đề xuyên suốt được nhắc đi nhắc lại trong nhiều sách chép tay và sách bàn thờ đơn tu Thời Trung Cổ, cũng như trong các phóng tác hiện đại về truyền thống đơn tu này. Một điển hình thế kỷ 20 là bức tượng có tên là Pax Christi (Bình an Chúa Kitô), mô tả Chúa Kitô vận áo choàng có mũ trùm đầu vốn là tu phục hiện nay của các đan sĩ dòng Biển Đức (mặc dù khởi thuỷ không hề có tu phục đặc biệt cho các đan sĩ Dòng này) (2), chân đi giép. Người có râu và lông mày rậm, ngoài ra, rất phong độ. Người cầm sách Tin Mừng ở tay trái, giữa sách có Thập giá và 4 vòng tròn cho 4 tin mừng gia. Người chúc bình an bằng tay phải. Cả cách ăn mặc lẫn cuốn sách cho thấy rõ cùng một lúc Người đọc lời hiệu triệu từ bỏ thế gian, vác thập giá, và theo Người, vì chỉ bằng cách vâng theo lời hiệu triệu này mới có Pax Christi. Cả đối những ai không, hoặc không thể, từ bỏ xã hội để bước vào đan viện, lời hiệu triệu vẫn là cả một thách thức lẫn một lời hứa hẹn.
Theo một nghĩa nào đó, phong trào đơn tu Kitô giáo có trước cả Kitô Giáo vì đã từng có những nhà ẩn sĩ và cộng đoàn đơn tu trong các môi trường Do Thái Giáo và cả ngoại giáo nữa trong đó Kitô giáo phát triển (3). Cả ba hình thức của phong trào đơn tu, ngoại giáo, Do Thái Giáo và Kitô Giáo, đều phát xuất từ sa mạc Ai Cập. Tại đó, vốn có Therapeutae, một cộng đồng đơn tu Do Thái Giáo được Philo, nhà thần học Do Thái Giáo ở Alexandria và là người sống cùng thời với Chúa Giêsu, mô tả trong khảo luận của ông tựa là Về Đời Sống Chiêm Niệm (4). Cộng đồng Therapeutae giống các cộng đồng đơn tu Kitô giáo tiên khởi đến nỗi sử gia Giáo Hội thế kỷ thứ tư là Eusebiô đã giải thích mô tả của Philo như một trình thuật về một nhóm Kitô hữu ở thế kỷ thứ nhất và dùng nó để chứng minh tính cổ xưa tông truyền của phong trào đơn tu Kitô giáo (5). Và ngay thế kỷ trước, một số sử gia vẫn còn ngỡ ngàng bởi sự giống nhau ấy đến nỗi đã tìm cách vạch trần việc khảo luận của Philo chỉ là trò lừa bịp của Kitô giáo thế kỷ thứ 3, một lý thuyết “đã được đại đa số học giả tiếp nhận” (6). Ngày nay, ai cũng chấp nhận tính chân thực và tư cách tác giả của Philo đối với khảo luận Về Đời Sống Chiêm Niệm, những điều càng được củng cố hơn nữa nhờ các mô tả về phong trào đơn tu Do Thái Giáo trong Các Sách Cuộn Biển Chết. Do đó, khảo luận hiện nay được coi như bằng chứng cho thấy tại Ai Cập đã có nhiều động lực khổ hạnh trước cả phong trào khổ hạnh Kitô giáo.
Phong trào khổ hạnh Kitô giáo tại Ai Cập hẳn tìm được biểu thức lâu đời nhất trong lối sống và việc làm của Thánh Antôn Ai Cập, người đã sống từ giữa thế kỷ thứ ba tới giữa thế kỷ thứ tư, và trong cuốn Hạnh thánh Antôn gây nhiều ảnh hưởng soạn sau khi ngài qua đời bởi người bạn của ngài là Thánh Anathasiô, Giám Mục Alexandria. Dù được Thánh Anathasiô soạn bằng tiếng Hy Lạp, cuốn tiểu sử này, ít nhất một phần, được viết cho các độc giả phương Tây, và chẳng bao lâu sau khi xuất hiện, nó đã được dịch sang tiếng Latinh để phục vụ các độc giả này (7). Một trong các độc giả Tây Phương của nó, sau đó trong cùng thế kỷ, hình như là Thánh Augustinô (8). Vị thánh này sau đó đã thiết lập một cộng đoàn đơn tu của riêng ngài và viết cho cộng đoàn này một lá thư cuối cùng đã trở thành nền tảng cho điều gọi là Luật Của Thánh Augustinô (dù chính Luật này rõ ràng không do ngài viết mà do một trong cách học trò của ngài viết) (9). Tuy nhiên, tài liệu gây ảnh hưởng hơn hết cho phong trào khổ hạnh Phương Tây và là một trong các tài liệu gây ảnh hưởng hơn hết đối với nền văn minh Tây Phương, chắc chắn là Luật của Thánh Biển Đức Thành Nursia, viết vào thế kỷ sau đó. Nó cung cấp cho ta chứng từ hùng hồn để giải thích phong trào đơn tu như một cách để hiểu ý nghĩa đời sống và con người Chúa Giêsu, và do đó, để nhận diện hình ảnh Chúa Giêsu như Vị Đan Sĩ thống trị thế giới. Vì mục đích trung tâm của Luật Thánh Biển Đức là dạy đan sĩ tập sinh cách làm thế nào “từ bỏ mình để theo Chúa Kitô”, làm cách nào “tiến bước trong đường lối [của Chúa Kitô] lấy Tin Mừng làm sách hướng dẫn của chúng ta”, và, nhờ kiên trì trong đời sống đơn tu, biết cách “kiên nhẫn chia sẻ cuộc khổ nạn của Chúa Kitô và từ nay trở đi đáng được kết hợp với Người trong Nước của Người”, trong một công thức đơn nhất “không trân qúy bất cứ điều gì hơn tình yêu Chúa Kitô [nihil amori Christi praeponere]” (10). Đàng khác, tình yêu Chúa Kitô còn thay đổi một trong những thúc đẩy căn bản từng dẫn đến việc xuất hiện phong trào đơn tu ngay từ đầu. Một nhà sử học về phong trào đơn tu Tây Phương từng viết rằng “thẳm sâu trong ý thức đơn tu là sự cô tịch (solitude)”. Nhưng, ông viết tiếp, “nhưng điều khó chịu là bạn khám phá ra rằng thẳm sâu trong ý thức Kitô giáo là phương châm bạn phải tiếp đón các khách lạ như họ là Chúa Kitô, và thực sự họ là Chúa Kitô”. Cho nên, trích dẫn Tin Mừng (Mt 25:35), Thánh Biển Đức viết rõ trong Luật của ngài “mọi khách khứa đến với đan viện phải được tiếp đón như Chúa Kitô” (11).
Tóm lại, Thánh Biển Đức định nghĩa đời sống của đan sĩ như một cuộc tham dự vào đời sống của Chúa Kitô. Cả ba nhân đức đặc biệt đơn tu vốn làm nên lời khấn của đan sĩ, khó nghèo, khiết tịnh, và vâng lời, đều dựa vào Chúa Kitô như mẫu mực và hiện thân của chúng. Trong một cảnh sau này trở thành thông thường trong các cuốn tiểu sử đơn tu suốt thời Trung Cổ, Thánh Antôn vừa xuất hiện trong nhà thờ thì “Tin Mừng được tuyên đọc, và ngài nghe thấy Chúa phán với người thanh niên giầu có ‘muốn hoàn thiện, anh hãy đi, bán hết những gì anh có và cho người nghèo, và anh sẽ được kho tàng trên trời; sau đó đến theo Tôi’. Và Thánh Antôn, như thể... đoạn đó được đọc riêng cho ngài, đã lập tức ra khỏi nhà thờ và tặng hết của cải của tổ tiên cho dân làng” (12). Tương tự như thế, việc thánh Anton thành công giữ được đức khiết tịnh của ngài đã được giải thích như “cuộc chiến đấu của ngài chống ma quỉ, hay đúng hơn chiến thắng này là công trình của Chúa Cứu Thế nơi Thánh Antôn” (13). Và nhân đức vâng lời đối với đan viện trưởng, vốn là nền tảng trong Luật của Thánh Biển Đức, tìm được bảo đảm nơi chức vụ đan viện trưởng như một người “được qúi mến trong việc thay thế Chúa Kitô trong đan viện, được chính danh Người kêu gọi” và theo gương Chúa Kitô, Đấng đến không để làm theo ý mình, mà là ý Thiên Chúa, Đấng đã sai Người” (14). Do đó, ngay cả khi danh Chúa Giêsu không được minh nhiên nhắc đến, lối sống được đan sĩ vâng theo vẫn được coi là vita evangelica, lối sống do Tin Mừng vạch ra, vì đó là lối sống đã được Chúa Kitô thực hành trước nhất và sau đó được Người truyền lệnh. Mọi điều đan sĩ làm đều là một áp dụng thực tế của vita evangelica, cách này hay cách khác.
Mặc dù thúc đẩy khổ hạnh vốn hiện diện trong phong trào Kitô giáo ngay từ đầu, sau khi được phát biểu rõ, chẳng hạn, bởi Thánh Tông Đồ Phaolô (1Cr 7:1-7), không phải là chuyện tình cờ khi nó đạt tới chỗ nổi bật, trong đời sống các đan sĩ như Thánh Antôn, vào chính lúc Giáo Hội làm hòa với đế quốc Rôma và thế giới. Một phần cái giá Giáo Hội phải trả cho nền hòa bình này là việc cần thiết phải làm hòa với những người không thể, hay dù sao, không hết sức coi trọng sứ điệp của Giáo Hội, nhưng sẵn lòng với việc sống như Kitô hữu cũng như sẵn lòng với việc sống như người ngoại giáo, miễn là điều này không làm họ mất mát nhiều quá. Nay, vì làm một Kitô hữu trên danh nghĩa dễ dàng hơn làm một người ngoại giáo trên danh nghĩa, nên quần chúng, những người bắt đầu đổ xô vào nhà thờ, không còn mưu cầu việc trở thành “các lực sĩ” cho Chúa Kitô nữa; nhưng đó lại chính là hạn từ Thánh Anathasiô dùng để mô tả Thánh Antôn khổ hạnh, người chịu một cuộc huấn luyện nghiêm ngặt để có thể đua tranh và thắng cuộc thi đấu của Chúa Kitô chống ma quỉ, thế gian và xác thịt (15). Các lực sĩ đơn tu này, như một học giả phát biểu, “không những chạy trốn khỏi thế gian theo mọi nghĩa của từ ngữ, mà họ còn chạy trốn khỏi Giáo Hội trần tục” (16). Giải thích theo nghĩa này, phong trào đơn tu của thế kỷ thứ tư và thứ năm là một cuộc phản kháng, nhân danh giáo huấn chân chính của Chúa Giêsu chống lại một phó sản gần như không thể tránh được của cuộc dàn xếp Constantinô, tức việc tục hóa và hạ thấp tiêu chuẩn làm môn đệ vốn được nêu ra trong các sách Tin Mừng.
Do đó, du nhập vào đời sống và giáo huấn Giáo Hội là tiêu chuẩn nước đôi của việc làm môn đệ, dựa trên việc phân rẽ lệnh truyền của Chúa Giêsu thành “giới răn”, những điều “hàm nghĩa nhất thiết”, có tính bó buộc đối với mọi người, và “lời khuyên hoàn thiện” có tính “để tùy chọn” nghĩa là cuối cùng chỉ bó buộc đối với các lực sĩ đơn tu mà thôi (17). Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng, “nếu anh muốn hoàn thiện, hãy đi bán những gì anh có và cho người nghèo”; trong cùng chương này, Người cũng nói về những người “đã tự ý làm mình trở thành hoạn quan vì nước trời” (Mt 19:21, 12). Cả với những người này cũng không có giới răn nào đặt để những điều cần thiết để được cứu rỗi, mà đúng hơn chỉ là lời khuyên nên hoàn hảo; và để điều này được sáng tỏ, Người đã minh nhiên nói thêm vào điều đó dự khoản phải hy sinh hôn nhân vì nước trời. “Ai có khả năng tiếp nhận điều này, hãy tiếp nhận nó”. Điều chắc chắn là Giáo Hội Trung cổ đã định tín hôn nhân là bí tích, một dấu hiệu thánh thiêng qua đó, ơn thánh Thiên Chúa được thông truyền, trong khi ấy, Giáo Hội chưa bao giờ biến việc sống độc thân hay lời khấn đơn tu thành một bí tích như thế, mặc dù các chức thánh hay việc truyền chức linh mục, một việc, trong truyền thống Tây Phương, đòi phải sống độc thân (dù ở Byzantium thì không), là một trong 7 bí tích. Tuy bài giảng trên núi đòi người nghe phải “hoàn thiện” (Mt 5:48); nhưng ý nghĩa của hoàn thiện thì càng ngày càng được tìm kiếm không phải trong đời sống gia đình và việc làm hàng ngày của tín hữu Kitô giáo trong lòng xã hội, nhưng trong đời sống các đan sĩ nam nữ, những người được dành cho từ ngữ tu sĩ theo nghĩa hẹp của thuật ngữ này.
Thế nhưng sự phản kháng chống một Giáo Hội đã bị tục hóa này đã trở thành phương thế chinh phục chính Giáo Hội ấy, cũng như chinh phục thế giới mà Giáo Hội vốn đã làm hòa với. Dấu ấn đáng lưu ý nhất của cuộc chinh phục đơn tu này trong Giáo Hội Byzantine là việc đòi hỏi các Giám Mục phải sống độc thân. Tại các công đồng có sự can dự của toàn thể Giáo Hội, kể cả công đồng thứ nhất thuộc loại này tại Nixêa năm 325, các đại diện của Đông Phương nhất quán chống lại các giáo phẩm Tây Phương muốn biến việc sống độc thân thành một đòi hỏi đối với toàn bộ hàng giáo sĩ giáo xứ: những người đàn ông có vợ có thể được phong chức mặc dù những người đàn ông đã phong chức không được lấy vợ (18). Đến tận cuối thế kỷ thứ tư, ngay một số Giám Mục ở Đông Phương vẫn có vợ và vẫn sống với vợ sau khi đã đảm nhiệm chức vụ Giám Mục; thí dụ, Thánh Grêgôriô thành Nagiendu (Nazianzus), người nổi danh là “thần học gia” và cuối cùng trở thành thượng phụ Constantinople, vốn là con trai của Grêgôriô Già, Giám Mục Nagiendu, người đã là một linh mục khi con trai sinh ra (19). Nhưng bắt đầu từ thế kỷ đó, luật lệ tại các tỉnh Đông Phương của Giáo Hội bắt đầu nói rõ rằng dù hàng giáo sĩ giáo xứ tiếp tục có vợ, nhưng các Giám Mục thì buộc phải sống độc thân. Như đã được đưa vào dân luật trong Bộ luật Julian, luật lệ này cấm các người cha gia đình không được ứng cử vào chức Giám Mục, cho phép một người đàn ông có vơ nhưng không có con được ứng cử với điều kiện người này và vợ phải ly thân (20). Như điều gọi là Công Đồng Trullan của Giáo Hội Đông Phương năm 692 nói rõ, điều này thường có nghĩa là người vợ phải vào một tu viện (21).
Thực thế, việc phối hợp qui định này: độc thân phải có đối với Giám Mục, nhưng hôn nhân được phép đối với hàng giáo sĩ coi xứ, đem lại cho các đan sĩ gần như độc quyền được làm Giám Mục trong các Giáo Hội đông Phương. Một Tổng Giám Mục Hy Lạp thế kỷ 15 đã nói về điều này như sau:
“[Phong trào đơn tu] được cấp ban một uy thế và danh tiếng đến nỗi trên thực tế, toàn thể Giáo Hội xem ra được cai trị bởi các đan sĩ. Do đó, nếu chịu khó tìm hiểu, bạn khó thấy bất cứ người nào từng được thăng thưởng vào hàng giáo phẩm thánh thiêng mà lại phát xuất từ thế gian (rõ ràng bao gồm hàng giáo sĩ triều như một phần của “thế gian”); vì hàng giáo phẩm này dành riêng cho các đan sĩ. Và bạn biết rằng nếu một số người được cử nhiệm vào các chức vụ thánh (Giám Mục hay Thượng Phụ), thì Giáo Hội qui định rằng trước nhất họ phải mang y phục đơn tu đã” (22).
Do đó, thông thường, một Giám Mục hay một Thượng Phụ xuất thân từ một cuộc sống đơn tu. Nếu một linh mục giáo xứ không lấy vợ hay góa vợ được chọn làm Giám Mục, thì, ít nhất từ thế kỷ 18, ngài khấn các lời khấn đơn tu trước khi được tấn phong. Và khi, như trường hợp tai tiếng của học giả Photius, người được chọn làm thượng phụ Constatinople năm 858, việc chọn rơi vào một tín hữu giáo dân, kết quả là “toàn bộ thế giới đơn tu đã đồng thanh từ khước vâng phục tân Thượng Phụ” (23).
Trong các tranh chấp liên quan đến ảnh tượng trong thế kỷ trước việc bầu Photius, các đan sĩ Byzantine đã đóng một vai trò quan trọng, đúng hơn, có tính quyết định, như những người ủng hộ ảnh tượng và như những người khích động, thúc đẩy quần chúng chống lại các kẻ thù của ảnh tượng, kể cả các kẻ thù có địa vị cao cả nhất như hoàng đế và thượng phụ. Một cách đầy ý nghĩa, sau các tranh cãi về ảnh tượng, luật lệ ban hành qui định các ứng viên thượng phụ và Giám Mục phải là các đan sĩ, hay phải trở thành các đan sĩ. Những người đã chạy trốn thế gian, một thế gian vốn có mặt trong Giáo Hội, nay chiếm quyền thống trị Giáo Hội, một Giáo Hội vốn hiện diện trong thế gian.
Địa vị nổi bật của các đan sĩ trong Nền Chính Thống Đông Phương tiếp tục duy trì tính hiển thị của nó trong hai hậu duệ văn chương nổi tiếng của nền Chính Thống ấy trong thế kỷ 19, đó là Dostoevsky và Tolstoy. Vì khuôn mặt Cha Zossima trong Anh Em Nhà Karamazov là hiện thân và là vận động viên cho lý tưởng đơn tu của Byzantium và Nga, một lý tưởng đạt tới tột đỉnh nơi các starets hay trưởng thượng:
“Hẳn các vị sẽ hết sức ngạc nhiên nếu tôi nói rằng những người khiêm nhường và khao khát cầu nguyện trong cô tịch ấy có lẽ sẽ một lần nữa cứu nước Nga! Bởi vì những người sống trong cảnh thanh tĩnh, quả thực đã chuẩn bị sẵn sàng 'cho một ngày và một giờ, cho một tháng và một năm'. Sống cô tịch, họ giữ được hình ảnh Chúa Kitô huy hoàng và không hề bị xuyên tạc, trong sự thật thuần khiết của Thiên Chúa, do các Cha đời xưa, các tông đồ, các vị tử đạo để lại và khi cần, họ sẽ phơi bày hình ảnh ấy trước các niềm tin đang lung lay của thế gian. Ý tưởng ấy thật là vĩ đại. Ngôi sao ấy sẽ ngời sáng ở phương Đông” (24).
Tolstoy, cũng thế, tuy bác bỏ Nền Chính Thống Nga còn triệt để hơn Dostoevsky, nhưng vẫn xuất hiện như “một đan sĩ Hy Lạp chân chính” (25). Do đó, T.G. Masaryk, người coi các phát biểu của Cha Zossima trong Anh Em Nhà Karamazov như “phần chủ yếu của cuốn sách” đi xa hơn bằng cách nhận xét rằng Dostoevsky và Tolstoy, bất chấp các dị biệt quyết liệt trong niềm tin và ý thức hệ giữa họ với nhau, đã có “sự tương đồng về quan điểm” trong việc họ chấp nhận “lý tưởng khắc khổ đơn tu” mà họ chia sẻ với “môi trường Giáo Hội học của họ” (26).
Ở Tây Phương Latinh, sự nghiệp của Chúa Giêsu Đan sĩ trong việc phát triển phong trào đơn tu suốt trong thời Trung Cổ là lịch sử của nhiều phong trào cải cách nối tiếp nhau. Mỗi một phong trào này đều có ý hướng đem sự trẻ trung hóa lại cho lý tưởng đơn tu, cải tân Giáo Hội và ngôi vị Giáo Hoàng; và cứu chuộc cùng thanh lọc xã hội trung cổ qua việc canh tân Giáo Hội và ngôi vị Giáo Hoàng như thế. Cuộc biến hóa tri thức và định chế của các phong trào cải cách này trong gần đúng một ngàn năm giữa Thánh Biển Đức Thành Nursia (người đã thành lập đan viện Monte Cassino năm 529) và Martin Luther (người vốn gia nhập Đan Viện Các Ẩn Sĩ Augustinô tại Erfurt năm 1505) là câu truyện có tầm quan trọng khôn lường đối với lịch sử Châu Âu và thế giới (27). Rất nhiều lần, chính mô thức nguyên thủy Chúa Kitô Đan Sĩ, và người đan sĩ như kẻ mô phỏng mô thức này, đã lên sinh lực cho các phong trào cải cách này. Một cách nào đó, đã có cả một sự lặp lại khuôn mẫu khiến người ta ngã lòng, khi mỗi cuộc cải cách đơn tu lên tiếng phản đối sự xuống dốc và trì trệ nơi các đan viện, thiết lập các cơ cấu hành chính và kỷ luật mới để đảo ngược xu thế xuống dốc này, thịnh hành được một hay hai thế kỷ, rồi lại tự chứng tỏ là để mình rơi vào cùng những xu thế xuống dốc và trì trệ y hệt: Bênêđictô thành Aniane thời Charles I (1625–1649); Odo thành Cluny và phong trào cải cách Cluny một thế kỷ hay gần như thế sau đó; khoảng một thế kỷ sau đó, cuộc canh tân đơn tu khởi đầu tại Citeaux, một cuộc canh tân nhờ đời sống mạnh mẽ và tư duy qui Kitô của Thánh Bernard đã truyền bá sứ điệp Citeaux khắp Âu Châu; rồi các thầy dòng của các thế kỷ 12 và 13 trong lòng tận tụy cải cách của họ; và, để phản ứng lại Phong Trào Cải Cách Thệ Phản và dưới cảm hứng của một nền huyền nhiệm Kitô tăng cường ở Tây Ban Nha thế kỷ 16, Dòng Tên.
Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, ta nên lưu ý không những cải cách một lần nữa trở nên cần thiết, nhưng một lần nữa nó còn khả hữu, vì năng lực biến đổi của lý tưởng được tượng trưng bởi khuôn mặt Chúa Kitô Đan Sĩ tự khẳng định lấy mình và vì Chúa Giêsu lại trở lại một lần nữa “và xua đuổi mọi kẻ mua bán trong đền thờ” (Mt 22:12), ít nhất trong một thời gian.
Qua các phong trào cải cách trong nền đơn tu trung cổ, việc chinh phục Giáo Hội của đơn tu tìm cách làm nó trở nên trọn vẹn hơn nữa. Ngay ở đầu thế kỷ thứ tư, các công đồng miền ở Tây Ban Nha đã đòi hàng giáo sĩ giáo xứ phải sống độc thân, và đến cuối thế kỷ đó, một loạt giáo hoàng và công đồng đã biến đòi hỏi này thành phổ quát.
Tuy nhiên, chỉ mấy thế kỷ sau, khi phong trào đơn tu chiếm được vị thế nổi bật trong cơ cấu tổ chức của Giáo Hội Tây Phương, người ta mới có thể chấp pháp đòi hỏi này một cách nghiêm ngặt và nhất quán. Việc chấp pháp này có liên hệ với công trình của Hilderbrand, nhà cải cách và là đan sĩ thế kỷ 11 (mặc dù một số học giả cho rằng ngài không phải là một đan sĩ đúng nghĩa), người nắm quyền Giáo Hoàng ở hậu trường cả 1 phần 4 thế kỷ trước khi trở thành Giáo Hoàng năm 1073, lấy hiệu là Grêgôriô VII (28). Việc huấn luyện của ngài dưới ảnh hưởng của Dòng Cluny, với lòng tận tụy muốn tận diệt thối nát từng lây nhiễm phong trào đơn tu Biển Đức, đã gây hứng cho ngài trong các chương rình cải cách Giáo Hội. Cuộc cải cách Cluny đã thuyết phục ngài tin chắc rằng cách để đem Giáo Hội và ngôi Giáo Hoàng tới chỗ sống phù hợp theo ý muốn của Chúa Kitô là phục hồi đời sống đơn tu trở lại các lý tưởng ban đầu của nó, rồi áp dụng các lý tưởng này vào đời sống nói chung của cả Giáo Hội. Thành tố căn bản của chương trình cải cách này là việc nghiêm ngặt chấp pháp lối sống độc thân của giáo sĩ, một lối sống có thể được định nghĩa, trong một công thức mới đây được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiếp nhận, như một mô phỏng Chúa Giêsu Kitô qua đó, “linh mục là người sống một mình để các người khác không phải sống một mình” (29). Trong khung cảnh xã hội và chính trị của thế kỷ 11, đó là phương thế bảo đảm tính độc lập kinh tế của linh mục và giám mục trước các thẩm quyền thế tục, và do đó sự lệ thuộc của các ngài vào Giáo Hội và ngôi Giáo Hoàng. Ấy thế nhưng, điều hiển nhiên từ các thư từ của Đức Giáo Hoàng Grêgôriô VII là trong việc cải tổ hành chánh chức linh mục và giám mục này, ngài thấy một điều gì đó còn quan trọng hơn thế: đó là cuộc canh tân thiêng liêng của việc Giáo Hội hoàn toàn tận hiến đối với Chúa Kitô.
Và sự tận hiến và tùy thuộc mới mẻ trên, ngược lại, sẽ là phương thế để tái chinh phục thế giới cho Chúa Kitô. Hiến chương của phong trào đơn tu Kitô giáo, lời lẽ của Chúa Kitô về việc từ bỏ mình, vác thập giá mình và theo Người, xuất hiện trong Tin Mừng Mátthêu chỉ ít câu sau hiến chương về ngôi Giáo Hoàng, lời Chúa Giêsu phán với Phêrô “Thầy nói cho con hay, con là Phêrô [Petros] và trên phiến đá [petra] này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy, và các quyền lực sự chết sẽ không thắng được nó. Thầy ban cho con chìa khóa nước trời, và bất cứ điều gì con cầm buộc trên mặt đất cũng sẽ bị cầm buộc ở trên trời, và bất cứ sự gì con cởi trên mặt đất cũng sẽ được cởi ở trên trời” (Mt 16:18-19). Trích dẫn những lời này, Đức Grêgôriô VII đặt để các điều khoản để tái chinh phục thế giới và đế quốc cho Chúa Kitô:
“Vậy giờ đây, hãy nói cho tôi hay, các vua chúa có là luật trừ đối với qui luật này hay không? Há họ cũng không thuộc đoàn chiên mà Con Thiên Chúa vốn ủy thác cho Thánh Phêrô hay sao? Ai, tôi xin hỏi, có thể tự coi mình như đứng ngoài quyền lực của Phêrô trong việc được ban thẩm quyền phổ quát ngăn cấm và cho phép này, có lẽ chỉ trừ đối với những người từ chối không mang ách của Chúa [Giêsu], người, thay vào đó, đã tự tùng phục gánh của ma quỉ và là người từ khước được kể vào số đoàn chiên của Chúa Kitô?” (30).
Và trong cuộc đối đầu nổi tiếng với hoàng đế Henry IV ở Canossa năm 1077 (trong đó, chiến thuật của hoàng đế có thể thắng trận đấu nhưng chiến lược của Đức Giáo Hoàng là thắng cuộc chiến tranh), Đức Grêgôriô VII, sau khi bị Hoàng đế gọi là “Hildebrand, hiện không phải Giáo Hoàng mà là một đan sĩ giả hiệu”, đã tái khẳng định thẩm quyền cầm buộc và tha thứ tội lỗi do Chúa Kitô ban để ban ơn giải tội cho Henry. Hildebrand đan sĩ đã chinh phục không những Giáo Hội và ngôi Giáo Hoàng, mà còn cả đế quốc và thế giới nữa, nhân danh Chúa Giêsu Đan Sĩ.
Tuy nhiên, có lẽ cuộc chinh phục đáng kể nhất thuộc loại này chỉ đến hơn một nửa thế kỷ sau, khi vị đan viện trưởng dòng Citeaux được bầu làm Giáo Hoàng với tên hiệu Eugêniô III năm 1145. Ngài là học trò của Thánh Bernard, Đan viện trưởng Đan viện Clairvaux, nổi tiếng vì lòng sùng kính huyền nhiệm đầy sốt mến đối với Chúa Kitô như Chàng Rể của Linh Hồn. Với người con trong Chúa Kitô nay trở thành người cha của ngài trong Chúa Kitô, Thánh Bernard đã đề tặng khảo luận cảm kích nhất trong lịch sử của cả phong trào đơn tu trung cổ lẫn của ngôi Giáo Hoàng trung cổ, Về Việc Xem Xét (On Consideration) (31). Dựa vào sự phân biệt đơn tu giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động, Thánh Bernard khuyên người học trò cũ của mình đừng để các chi tiết hành chánh của ngôi Giáo Hoàng làm ngài đi trệch khỏi điều quan trọng nhất trong Giáo Hội: con người của Chúa Giêsu Kitô. Thánh nhân thúc giục người học trò cũ, Giáo Hoàng không nên trở thành người kế vị Constantinô mà là đấng kế vị Phêrô. Vì các lý tưởng đơn tu của chiêm niệm và học hỏi không hề là những chuyện vô can tới việc cai quản Giáo Hội, nhưng là chuyện chính đối với việc này. Việc sử dụng sau đó khảo luận của Thánh Bernard bởi các nhà cải cách Giáo Hội thuộc đủ xu hướng trong các thế kỷ 15 và 16 cho thấy lý tưởng đơn tu về việc từ bỏ mình vì Chúa Kitô quả đã chinh phục thế giới ra sao cho Chúa Kitô (32).
Một trong các chinh phục đơn tu cho Chúa Kitô lâu dài nhất là công trình truyền giáo trung cổ. Việc Kitô giáo hóa các bộ lạc man dã Germanic, Slavic, và Âu Á từng du cư vào Âu Châu là một thành tựu gần như hoàn toàn của các đan sĩ. Như Lowrie J. Daly từng viết:
“Điều hiển nhiên trong lịch sử trở lại của các dân tộc man dã là công trình truyền giáo vĩ đại của các đan sĩ. Bất kể là việc truyền giáo do Byzantium phái đi hay việc truyền giáo do Rôma cử nhiệm, bất luận nó phát xuất từ Ái Nhĩ Lan Celtic hay từ các lãnh thổ Anh vừa trở lại, các nhà truyền giáo đều là các đan sĩ. Thành tựu kỳ diệu chinh phục các dân tộc Teutonic và Slavic cho Kitô giáo và sau đó cho văn minh phát sinh từ các hy sinh bản thân liên tục và lao công anh hùng của hàng trăm đan sĩ khắp các miền Âu Châu” (33).
Các học giả Thệ phản cũng đã thừa nhận rằng danh Chúa Giêsu Kitô đáng lẽ phần lớn không được Âu Châu và Mỹ Châu biết đến “nếu không có các đan sĩ” (34). Do đó, “các tông đồ cho người Slav” là các Thánh Cyril và Methodius ở thế kỷ thứ 9, là các đan sĩ Byzantine; và khi tuyên xưng các ngài như “các thánh bổn mạng chung của Âu Châu” cùng với Thánh Bênêđíctô, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một lần nữa, đã nhìn nhận sự đóng góp có tính quyết định của các đan sĩ, cả tây lẫn đông Phương, vào việc giảng truyền và mở rộng Kitô giáo. Ngược lại, việc bãi bỏ các dòng đơn tu bởi các nhà cải cách thế kỷ 16 chắc chắn phải bị coi như lý do chính của việc (gần như, dù không hoàn toàn) đánh mất toàn bộ mệnh lệnh truyền giáo trong phần lớn Phong Trào Thệ Phản trong hơn hai thế kỷ (35).
Không có dấu mốc nào cho thấy Thánh Biển Đức dự kiến một vai trò truyền giáo nào cho các đan sĩ của ngài khi thành lập đan viện Monte Cassino. Cũng không có điều gì trong Luật dòng, ngay cả dự khoản nói về việc dành một phần mỗi ngày cho việc “đọc sách thiêng liêng” (36) sẽ nhất thiết dẫn tới một trong các chinh phục vĩ đại nữa cho phong trào đơn tu Biển Đức, tức việc nó thống trị thế giới bác học trong nhiều thế kỷ; vì “không một phán đoán bất kể là thuận lợi hay không thuận lợi đối với việc học tập hay nghiên cứu chữ nghĩa được tìm thấy trong Luật của Thánh Biển Đức” (36). Có lẽ người ta bắt đầu hiểu được việc bằng cách nào Chúa Kitô Đan Sĩ đã hoàn toàn chinh phục thế giới bác học thời trung cổ nhờ việc xem xét, trong các ấn bản tiêu chuẩn hiện đại, không biết bao nhiêu công trình thời xưa sở dĩ hôm nay còn tồn tại với chúng ta là nhờ chúng được sao chép bởi các đan sĩ trong các phòng sao chép của họ thời trung cổ. Và việc này đúng không những đối với các công trình của các giáo phụ và các thánh Kitô giáo, mà còn đối với công trình của các tác giả cổ điển và ngoại giáo nữa. Sự tận hiến gần như ngẫu tượng của nhiều đan sĩ đối với học thuật, như được mô tả trong tác phẩm Tên Hoa Hồng (Name of the Rose) của Umberto Eco, được tóm tắt ở gần cuối cuốn sách đó bằng một tán thán đầy tính chung cục (apocalyptic) của nhân vật chủ đạo, William thành Bakersville, sau một trận hỏa hào đã tiêu hủy mọi sách vở của đan viện: “Đó là thư viện lớn nhất của thế giới Kitô giáo. Nay tên Phản Kitô thực sự đang hoành hành, vì không còn việc học tập nào còn ngăn cản được hắn nữa” (38). Tên Phản Kitô bị giới hạn bởi thư viện đơn tu ấy vì thư viện ấy tượng trưng cho việc tâm trí phải phục vụ việc làm môn đệ Chúa Kitô, điều mà một khảo luận của Etienne Gilson gọi là “Trí khôn phục vụ Chúa Kitô Vua” (39).
Dù là các nhà truyền giáo và các học giả tận tụy đến bao nhiêu, các đan sĩ vẫn không bao giờ quên, hoặc như chúng ta đã nói về thế kỷ thứ tư, đôi lúc họ quên, nhưng mỗi lần họ quên, họ đều nhất quán được nhắc nhở rằng việc họ phục vụ vị Vua này trước hết phải được thực hiện trong việc thờ phượng mầu nhiệm Chúa Kitô và trong việc noi gương Chúa Giêsu. Opus Dei, “công việc của Thiên Chúa” đã là và hiện là hạn từ Biển Đức chỉ việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ của đan viện, chứ không phải bất cứ sinh hoạt nào khác của cộng đoàn hay của đan sĩ cá nhân. Dù chính Thánh Biển Đức chỉ là một giáo dân và không thiết lập một dòng đơn tu bao gồm những người đàn ông sẽ thụ phong linh mục, nhưng việc phong chức cho các đan sĩ đã trở thành khuôn mẫu hết thời này qua thời nọ, hậu quả là “đời sống hoạt động” tại các nơi truyền giáo, các giáo xứ, và trường học đe doạ lấn át “đời sống chiêm niệm”. Thành thử điều cần thiết là nhấn mạnh với các cộng đoàn đơn tu một lần nữa đâu là “sứ mệnh truyền giáo” đệ nhất hạng của họ: trong công thức của Luật Thánh Biển Đức đã nhắc trên đây: “không trân quí bất cứ điều gì hơn tình yêu Chúa Kitô” (40). Chính trong lúc thực thi sứ mệnh ấy mà phong trào đơn tu Biển Đức, thời Trung Cổ, và một lần nữa trong thế kỷ 20, tại các đan viện như St John ở Hoa Kỳ, Solesmes ở Pháp, và Beuron và Maria Laach ở Đức, trở thành tác nhân chính cho việc canh tân và cải tiến phụng vụ, nghệ thuật phụng vụ, và âm nhạc thánh, với nhiều hoa trái hiển hiện, từ Công đồng Vatican II, trong mọi giáo xứ Công Giáo khắp thế giới.
Suốt trong cuộc thảo luận này về Chúa Giêsu Đan Sĩ, chưa hề có nhắc nhớ minh nhiên nào về một con người thời Trung Cổ, đúng hơn mọi thời lịch sử, người đã là hình tượng hoàn hảo nhất của lý tưởng Chúa Kitô chinh phục thế giới bằng việc từ bỏ thế giới vì Chúa Kitô: Thánh Phanxicô thành Assisi, người mà Dante không ngần ngại đặt bút viết “một mặt trời lại rực rỡ chiếu sáng thế giới (nacque al mondo un sole)”. Lý do của việc bỏ sót này là trọn một chương, tựa là “Mô Hình Thần Thiêng và Nhân Bản”, sẽ được dành cho Thánh Phanxicô như một alter Christus (Chúa Kitô Khác). Tuy nhiên, cũng với Thánh Phanxicô thành Assisi như đan sĩ mà chương này cần được kết thúc, vì mọi người nhất thiết nghĩ đến hình ảnh Thánh Phanxicô trước nhất khi nghe Chúa Giêsu phán “ai muốn theo Thầy, người ấy hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mc 8:34).
Ghi Chú
(1). Một điển hình thế kỷ thứ hai, xem Thánh Irenaeus, Against Hereses 4.5.4.
(2). Xem Thánh Benedict thành Nursia, Luật 55
(3). Mervin Monroe Deems, “The Sources of Christian Ascetism” trong Environmental Factors in Christian History, ed. John Thomas McNeill et al. (Chicago: University of Chicago Press, 1939) tr.149-66.
(4). Xem ấn bản và cuộc thảo luận, vẫn hữu ích, của Frederick Cornwallis Conybeare, Philo: About the Comtamplative Life or the fourth book of the Treatise concerning the Virtues (Oxford:Clarendon Press, 1895)
(5) Eusebius, Ecclesiastical History 2.17.
(6) Hugh Jackson, Lawlor and John Ernest, Leonard Oulton, eds, The Ecclesiatical History, by Eusebius, 2 vols. (LOndon: SPCK, 1954) 2:67.
(7) Gérard Garitte, Un Témoin Important du Text de la Vie de S. Antoine par St Anathase (Brussels: Palais des Académies, 1939). Cũng nên xem tr. 3 ở trên.
(8) Thánh Augustine, Confessions 8.6.15.
(9) Xem John Compton Dickinson, The Origins of the Austin Canon and Their Introduction into England (London: SPCK 1950) tr. 255-72.
(10) Thánh Benedict, Luật 4; lời nói đầu.
(11) Owen Chadwick, The Making of the Benedictine Ideal (Washington D.C.: Saint Ansel,’s Abbey, 1981) tr. 22; Thánh Benedict, Luật 53.
(12) Thánh Anathasius, Life of Anthony 2; Mt 19:21.
(13) Thánh Anathasius, Life of Anthony 7.
(14) Thánh Benedict, Luật 2, 5; Ga 6:38.
(15) Thánh Anathasius, Life of Anthony 12.
(16) Adolf von Harnack, “Das Monchtum. Seine Ideale und seine Geschichte” trong Reden und Aufsatze 1:101.
(17) Việc phân biệt được tóm tắt đanh thép trong Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologica II.q.108.a.4.
(18) Socrates Scholasticus, Ecclesiatical History 1.11.
(19) Thánh Gregory thành Nazianzus, Orations 12, dịp ngài đảm nhiệm chức Giám Mục phó thành Nazianzus.
(20) Corpus Juris Civilis: Codex Justianus 1.3.47; Novellae 6.1;123.1.
(21) Thượng hội đồng Trullan, điều 48.
(22) Thánh Symeon thành Thessalonica, On the Priesthood.
(23) Francis Dvornik, The Photian Schism. History nad Legend (Cambridge, Cambridge University Press, 1948) tr.63-64; có lẽ nên nói thêm rằng không phải chỉ vì ngài là một giáo dân.
(24) Fyodor Dostoevsky, The Brothers Karamazov b.6, “The Russian Monk” Ch. 3, “Conversations and Exhortations of Father Zossima”; chữ in nghiêng là của tôi.
(25) Harnack, “Das Monchtum” tr.111.
(26) Thomas Garrigue Masaryk, The Spirit of Russia, 3 vols (London: George Allen and Unwin, 1967-68) 3:15, 204.
(27) Các chương “The Religious Orders” và “Fringe Orders and Anti-Orders” trong Richard W. Southern, Western Society and the Church in the Middle Ages, vol. 2 The Pelikan History of the Church (Harmondsworth: Penguin Books, 1970) tr.214-358, chiếm gần nửa cuốn sách nhỏ đó.
(28). Xem đặc biệt Walter Ullmann, The Growth of Papal Government in the Middle Ages: A Study in the Ideological Relation of Clerical to Lay Power, 2nd ed. (London: Methuen, 1962) tr. 262-309.
(29) Be Not Afraid! André Fossard in Conversation with Pope John Paul II, bản tiếng Anh của J.R. Foster (New York: Saint Martin’s Press 1984) tr. 150.
(30) Đức Gregory VII gửi Giám Mục Hermann thành Metz, 15 March 1081, trong Das Register Gregors VII, ed. Erick Gaspar, 2 vols. (Berlin: Weidmann 1920-23) 2:544.
(31) Elizabeth T. Kennan, "The ‘De Consideratione’ of St Bernard of Clairvaux in the Mid-Twelth Century: A Review of Scholarship”, Traditio 23 (1967): 73-115.
(32) Xem Pelikan, Christian Tradition 3:300; 4:71.
(33) Lowrie J. Daly, Benedictine Monasticism. Its Formation and Development through the 12th Century (New York: Sheed and Ward, 1965) tr. 135-36.
(34) Kenneth Scott Latourette, A History of the Expansion of Christianity, 7 vols. (New York: Harpers and Brothers, 1938-1945) 2:17; 3:26).
(35) Jaroslav Pelikan, Spirit versus Structure (New York: Harper and Row, 1968) tr. 52-56.
(36) Thánh Benedict, Luật 48
(37) Jean Leclercq, The Love of Learning and the Desire for God: A Study of Monastic Culture, bản tiếng Anh củ Catharine Misrahi (1961; New York: Mentor Omega Books, 1962) tr.31.
(38) Umberto Eco, The Name of the Rose, bản tiếng Anh của William Weaver (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1983) tr.491.
(39) Modern Catholic Thinkers, ed. Aloysius Robert Caponigri (New York: Harper and Brothers, 1960) tr. 495-506.
(40). Thánh Benedict, Luật 4; xem Colman J. Barry, Worship and Work (Collegeville, Minn: Liturgical Press, 1956) tr. 85.
(41) Dante, Paradiso 11.50.
Những con đường dẫn vào Thánh đường giáo xứ đã bắt đầu tràn ngập những ánh đèn lung linh đầy màu sắc. Đi lễ buổi sáng khi ánh kim ô chưa kịp tỏ rạng ta có cảm giác như đi dưới ngàn vì sao lấp lánh. Người ta đang gấp rút hoàn thành những cây thông, hang đá, máng cỏ, treo đèn kết hoa để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh kỉ niệm 2020 năm Chúa Ngôi Hai Giáng Thế.
Trong mùa Vọng mỗi giáo xứ đều có những buổi Tĩnh tâm, mỗi Kitô hữu đều được nghe những lời mời gọi sám hối, xưng tội … để chuẩn bị không chỉ mừng lễ Giáng Sinh mà còn chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai trong cuộc đời mỗi người. Xin cùng lắng đọng tâm hồn và mở lòng ra để mỗi người trong chúng ta không chỉ chuẩn bị đón Chúa Giáng Sinh bằng những dấu chỉ bên ngoài nhưng còn thật sự đón Chúa đến trong tâm hồn mỗi người qua Tin Mừng Chúa nhật cuối mùa Vọng.
Sau khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa liền thực hiện lời hứa cứu độ con người, lời hứa này gắn liền với một Trinh Nữ tên là Maria. Đức Maria là người được Thiên Chúa tiền định đầu tiên, để khai mở một con đường cho Đấng Cứu Thế vào trần gian. Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca thuật lại: Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một Trinh Nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, Trinh Nữ ấy tên là Maria. Thiên Thần vào nhà Trinh Nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ".
Thách đố lòng tin của Đức Maria bắt đầu từ lời chào đó của Sứ Thần. Mẹ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một Con Trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Ơn phước được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế đã làm Mẹ càng bối rối hơn vì "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?". Mẹ bối rối để tìm kiếm thánh ý Chúa, chứ không phải vì hoang mang sợ hãi. Khi Sứ thần giải thích đó là ý Thiên Chúa và "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh nữ”, Mẹ bắt đầu suy nghĩ và chọn lựa. Một sự chọn lựa của lòng tin, nhưng vẫn có sự giằng co và sự giằng co cuối cùng vẫn thuộc về Chúa. "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền".
Thế là hai tiếng “xin vâng” được cất lên từ trái tim Mẹ. Một khi xin vâng Mẹ cũng đem cả lòng tin chấp nhận để Thiên Chúa sống trong Mẹ, có nghĩa là Mẹ đã chấp nhận cộng tác và gánh vác mọi sự, không gì lay chuyển hai tiếng xin vâng nữa. Hai tiếng xin vâng của Mẹ Maria có giá trị ngàn trùng lấy lại những gì đã mất từ Eva bất tuân. Hai tiếng xin vâng của Mẹ nhẹ nhàng nhưng tràn đầy sức mạnh lòng tin, đồng thời tràn đầy vâng phục trong hành trình tin yêu của Mẹ với Thiên Chúa.
Nếu như trước khi xin vâng, Đức Maria tin tưởng vào ý Chúa thì sau tiếng xin vâng Mẹ đã tin tưởng và phó thác vào quyền năng của Thiên Chúa một cách mạnh mẽ và xác tín hơn. Cho dù đã tiên liệu từ trước, nhưng Thiên Chúa vẫn để Mẹ tự do quyết định và quyết định xin vâng của Mẹ đã khiến Ngôi Lời nhập thể vào trong cung lòng Mẹ. Đây là một cử chỉ khiêm hạ của Thiên Chúa hết lòng yêu thương, tự hủy ra không để nâng con người lên.
Khi ngỏ lời với Đức Maria, mặc nhiên Thiên Chúa đã tha thứ cho con người. Để mở đường cho Con Thiên Chúa nhập thể làm người cứu độ chúng ta, Thiên Chúa bắt đầu lại câu chuyện với con người từ Đức Maria. Mẹ Maria đã đại diện cho nhân loại đón nhận cuộc nói chuyện này bằng thái độ xin vâng tín thác. Mẹ đã không đặt điều kiện xin vâng như một hợp đồng hai chiều bắt Thiên Chúa phải cho Mẹ điều này, điều kia mà chỉ hoàn toàn phó thác mọi sự trong tay Chúa an bài với ý thức thân phận con người “là tôi tớ Chúa”.
Mùa Vọng là thời gian của hy vọng, đợi chờ trên nền tảng tin tưởng và phó thác như Mẹ Maria xưa. Tin tưởng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, nên chúng ta cũng đừng thất vọng về tha nhân và chính mình. Phó thác cho Thiên Chúa Tình yêu, nên dù tội lỗi có ngập tràn, khổ đau có chồng chất, chúng ta vẫn một niềm cậy trông vào ơn Cứu độ của Ngài. Tin tưởng và phó thác là đôi mắt của người Kitô hữu nhìn vào Chúa mà hy sinh, từ bỏ tội lỗi. Là bài ca xin vâng vang lên trong mỗi phút giây cuộc sống dù buồn vui, sướng khổ.
Lạy Chúa, chúng con đang bước vào những ngày cuối cùng của mùa Vọng 2020 với không khí se lạnh của những ngày cuối năm nhưng cũng rất ấm áp trong tình yêu thương qua kế hoạch cứu độ của Ngài. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria luôn tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa Tình yêu qua những tiếng xin vâng trong suốt cuộc đời.
Xin cho chúng con nhận biết những ngày chúng con sống mãi mãi là mùa Vọng để chúng con luôn luôn chuẩn bị, trang hoàng tâm hồn chúng con bằng Lời Chúa. Để mỗi năm khi chúng con cất tiếng hát “Trời cao hãy đổ sương xuống …” chúng con lại được cảm nghiệm hơn nữa tình yêu thương của Chúa qua con trẻ Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng con.
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
o tròn như quả trứng gà.
ô thì đội mũ, ơ thời thêm râu.
1. Các linh mục phải cẩn thận, vỗ vai cũng có thể bị kết tội lạm dụng tính dục
Một tòa án hình sự ở Paris hôm thứ Tư 16 tháng 12 đã tuyên án 8 tháng tù treo đối với Đức Tổng Giám Mục Luigi Ventura, một cựu Sứ thần Tòa Thánh tại Pháp vì tội tấn công tình dục.
Theo AFP, Đức Tổng Giám Mục phải trả 13,000 euro, tức là 15,800 Mỹ Kim cho 4 người đàn ông và 9,000 euro, tức là 10,900 Mỹ Kim chi phí pháp lý.
Luật sư của Đức Tổng Giám Mục Ventura, là cô Solange Doumic, nói với tờ Le Figaro của Pháp rằng cô rất thất vọng trước phán quyết của tòa án, và cho biết thêm vị Tổng Giám Mục người Ý, là thân chủ của cô, đang xem xét việc kháng cáo lên tòa trên.
Đức Tổng Giám Mục Ventura đã vắng mặt trong phiên tòa bắt đầu khai diễn từ ngày 10 tháng 11. Một bác sĩ cho biết việc Đức Cha Ventura 76 tuổi, sống ở Rôma, đến Paris trong tình trạng coronavirus đang tái phát mạnh ở Pháp là quá nguy hiểm.
Trước phiên tòa, luật sư Doumic lập luận rằng những cáo buộc chống lại thân chủ của cô là những chuyện vô cùng nhỏ mọn nhưng đã được phóng đại để trở thành “phiên tòa xét xử Vatican, về cái gọi là các nhóm đồng tính được giấu kín tại Vatican”.
Cô nói rằng Đức Tổng Giám Mục Ventura, theo thói quen thân mật, đã vỗ vai những người đàn ông cáo buộc ngài, nhưng những cử chỉ này chỉ kéo dài vài giây và không bao giờ có chủ đích tình dục. Cô cũng nói thêm rằng ngài có thể không nhận ra rằng người ta sẽ coi đó là các hành vi không phù hợp, và nhấn mạnh rằng sau khi Đức Cha Ventura được phẫu thuật khối u não vào năm 2016, ngài đã gặp một số vấn đề trong khi đi lại.
Công tố viên Alexis Bouroz yêu cầu phạt Đức Cha Ventura 10 tháng tù treo. Tại Pháp, hành vi tấn công tình dục có thể bị phạt tới 5 năm tù giam và số tiền phạt lên tới 75,000 euro tức là khoảng 88,600 Mỹ Kim.
Vị Tổng Giám Mục bị buộc tội lần đầu tiên vào đầu năm 2019 với cáo buộc là đã vỗ vào mông một nhân viên của tòa đô chính Paris vào ngày 17 tháng Giêng năm 2019, trong buổi tiếp tân đầu Năm mới của thị trưởng Paris là bà Anne Hidalgo. Đức Tổng Giám Mục nói ngài chỉ vỗ vai chào hỏi anh ta.
Cáo buộc này đã được nhà chức trách Paris điều tra trong vài tháng mà không đi đến kết luận cụ thể vì rất khó chứng minh là đúng hay sai. Đồng thời, người tố cáo được tường thuật là có liên hệ chặt chẽ với nhóm Femen. Ngay trong thánh lễ đêm Giáng Sinh năm 2013, tại nhà thờ chính tòa thành phố Köln, một phụ nữ thuộc nhóm nữ quyền quá khích Femen đã cởi quần áo nhảy lên bàn thờ trước thánh lễ. Cảnh sát tin là người này có dụng ý bôi nhọ Giáo Hội Công Giáo. Tuy nhiên, Đức Tổng Giám Mục đã từ chức Sứ thần Tòa Thánh tại Pháp vào tháng 12 năm 2019 ở tuổi 75, sau khi đã phục vụ tại Pháp trong 10 năm.
Phiên tòa đã xảy ra sau khi có thêm 3 người khác cũng đưa ra các cáo buộc tương tự như thế.
Source:Catholic News Agency
2. Coronavirus tái phát kinh hoàng tại Nam Hàn làm tan biến hy vọng có các cử hành phụng vụ Giáng Sinh có công chúng tham dự
Cơ quan Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hàn Quốc, gọi tắt là KDCA, hôm 13 tháng 12 đã báo cáo số trường hợp nhiễm coronavirus trong một ngày không ngừng tăng lên từ ngày 10 tháng 11 cho đến nay. Trong đợt bùng phát thứ nhất, ngày đen tối nhất là ngày 29 tháng Hai với 909 trường hợp nhiễm bệnh. Trong khi đó, hôm Chúa Nhật 13 tháng 12, số trường hợp nhiễm coronavirus trong một ngày đã tăng đến 1030 trường hợp. Hầu hết các trường hợp nhiễm bệnh là do lây lan ở địa phương. Có 22 trường hợp do du khách từ Hoa Kỳ và Nga mang từ nước ngoài về. Hơn 70% các trường hợp địa phương tập trung ở khu vực Hán Thành.
Tổng thống Nam Hàn Quốc Văn Tại Dần, đây là một “tình huống khẩn cấp”.
Con số nhiễm bệnh trong một tuần qua được kể là cao nhất trong vòng 11 tháng. Sự gia tăng lây nhiễm phần lớn là kết quả của việc mọi người không tuân theo các quy tắc chống COVID-19 của chính phủ.
Cho đến nay, Hàn Quốc được coi là mô hình tích cực trong cuộc chiến chống lại loại coronavirus chủng mới, sử dụng cách truy tìm, xét nghiệm và kiểm dịch để giữ tỷ lệ hàng ngày dưới 50 trường hợp trong nhiều tháng. Đất nước chưa bao giờ áp dụng một cuộc đóng cửa hoàn toàn.
Trên dân số 52 triệu người, tổng số nhiễm bệnh là 43,484 người với 587 người chết.
Giờ đây, các bác sĩ và chuyên gia y tế cảnh báo về một đợt nhiễm trùng lớn hơn vào mùa đông này, khi thời tiết lạnh và khô và vi rút đường hô hấp sinh sôi trong khi hệ thống miễn dịch của con người nói chung yếu hơn.
Trong bối cảnh này hy vọng có các cử hành phụng vụ Giáng Sinh có công chúng tham dự đã hoàn toàn tan biến.
Source:Asia News
3. Đức Tân Thượng Phụ Công Giáo nghi lễ Latinh tại Giêrusalem nhiễm coronavirus
Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa, 55 tuổi, là Tân Thượng Phụ Công Giáo nghi lễ Latinh tại Giêrusalem vừa được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm vào tháng 10 vừa qua, cho biết ngài và 5 vị khác trong Tòa Thượng Phụ đã nhiễm coronavirus. Cho đến nay, ngài có các triệu chứng nhẹ, trong khi 5 vị kia có những vị không hề có triệu chứng gì đặc biệt.
Trong bối cảnh này, Đức Thượng Phụ cho biết Giáo hội ở Thánh Địa Giêrusalem đang chuẩn bị cho “một Lễ Giáng sinh được thu nhỏ, rất nhỏ”.
Hiện tại, “tình hình kinh tế không cho phép tổ chức lễ lớn”. Ngài giải thích thêm rằng việc khóa cửa vì coronavirus, và thiếu người hành hương đã làm cho khu vực này lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính lớn, đặc biệt là đối với các gia đình có công việc phụ thuộc vào người hành hương, chẳng hạn như hướng dẫn viên du lịch, tài xế taxi và chủ cửa hàng.
Những tác động này đang được cảm nhận đặc biệt ở Bethlehem, nơi có khoảng 7,000 người hoạt động trong ngành du lịch hiện đang thất nghiệp do hậu quả của đại dịch.
Đức Thượng Phụ Pizzaballa cho biết: Thánh lễ Giáng sinh năm nay tại Nhà thờ Chúa giáng sinh, nơi theo truyền thống là hang Bêlem khi xưa, sẽ được “thu nhỏ lại”, và cũng sẽ giới hạn trong “vòng thân mật gia đình”.
Cho đến nay thời gian chính xác của Thánh lễ đêm Giáng sinh và ngày lễ Giáng sinh vẫn còn là vấn đề tranh luận. Theo truyền thống, mọi người đến nhà thờ vào cùng một thời điểm, tuy nhiên, trong thời gian đại dịch, Tòa Thượng Phụ đang thảo luận về khả thể cử hành nhiều Thánh lễ khác nhau trong cố gắng giảm bớt số người tham dự trong một Thánh lễ cho phù hợp với yêu cầu của xã hội về phòng dịch.
Ngài cho biết Tòa Thượng phụ Latinh đang cố gắng bảo đảm rằng các đại diện của từng cộng đồng và cơ sở sẽ có thể tham dự các nghi lễ chính thức, nhưng cho biết chính quyền dân sự, những người theo truyền thống luôn tham dự các nghi lễ Giáng sinh, có khả năng sẽ không tham dự vì nguy cơ lây lan.
Vì thế, ngài nói: “Năm nay, chúng tôi sẽ có Thánh lễ trong vòng thân mật gia đình mà thôi”
Được bổ nhiệm vào tháng 10, Đức Tổng Giám Mục Pizzaballa là Thượng phụ Latinh đầu tiên không phải là người Ả Rập kể từ năm 1987. Ngài đã hoạt động mục vụ tại Thánh Địa từ năm 1993, chỉ ba năm sau khi được thụ phong linh mục trong dòng Phanxicô.
Trước khi được bổ nhiệm Thượng Phụ, ngài là bề trên dòng Phanxicô tại Thánh Địa từ năm 2004 và được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa của Tòa Thượng Phụ Latinh vào năm 2016.
Source:Crux
4. Phản ứng của Ðức Hồng Y Sako trước tin về cuộc tông du Iraq của Ðức Thánh Cha.
Ðức Hồng Y Louis Raphael Sako, Thượng phụ Công Giáo Canđê, mời gọi các tín hữu Kitô Iraq và toàn Trung Ðông tận dụng cuộc viếng thăm của Ðức Thánh Cha như một cơ hội Chúa Quan Phòng ban để thực hiện một cuộc lữ hành hoán cải và trở về với những nguồn mạch đầu tiên, hầu hăng say loan báo ơn cứu độ được hứa trong Tin mừng, mưu ích cho tất cả mọi người.
Ðức Hồng Y Sako đưa ra lời kêu gọi trên đây, sau khi có tin Ðức Thánh Cha sẽ viếng thăm Iraq, từ ngày 5 đến 8 tháng 3 năm 2021. Trong sứ điệp mục tử gửi các tín hữu, Ðức Hồng Y mời gọi mọi người “tỉnh thức để tránh cơ hội thuận tiện này qua đi mà không để lại dấu viết nào trong chúng ta, trong Giáo hội và đất nước chúng ta”.
Sứ điệp của Ðức Hồng Y Sako cũng chứa đựng nhiều gợi ý quí giá để sống cuộc viếng thăm của Ðức Thánh Cha, làm sao để “Giáo hội hăng say hơn, trở lại với tinh thần quyết liệt của Tin mừng, gần gũi hơn với dân chúng, quảng đại và vui tươi phục vụ bằng mọi phương thế, theo gương cha ông của chúng ta, các thánh và các vị tử đạo”.
Ðức Hồng Y Thượng phụ nhìn nhận rằng Giáo Hội Công Giáo Canđê và các Giáo hội anh em khác ở Iraq và Trung Ðông, đang chịu những sức ép và thách đố khác nhau về chính trị, kinh tế và xã hội, vì những xung đột, cực đoan, xuất cư, và cả những hậu quả của đại dịch Covid-19. Những buồn sầu và các vấn đề khác đã làm cho tâm hồn nhiều người héo hắt và cái nhìn của họ bị lu mờ. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, thay vì co cụm trong thái độ than trách, chủ bại, cần phải tận dụng tất cả những gì giúp trở lại nguồn mạch đức tin. Ðức Hồng Y Sako xác quyết rằng: “Chỉ khi nào kín múc từ các nguồn mạch, chứ không phải từ các con suối nhỏ, chúng ta mới có thể tái khám phá sự hiện hữu, như những Kitô hữu, tại Iraq và tại Trung Ðông không phải là điều tình cờ, nó không buộc phải xuất cư như một định mệnh không thể tránh, trái lại cuộc sống tại đây được thực hiện trong lịch sử theo kế hoạch của Thiên Chúa; chúng ta có một ơn gọi và một sứ mạng. Chúng ta không thể từ khước, dù gặp những khó khăn. Trong tư cách là chủ chăn, chúng ta phải tiếp tục hiểu hoàn cảnh hiện nay với một tâm thức cởi mở”.
Source:Asia News
Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An
Bài Giảng Mùa Vọng đầu tiên của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma.
Bài Giảng Mùa Vọng thứ hai của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma.
Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 18 tháng 12 tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục của Vatican, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, Dòng Anh Em Hèn Mọn, Giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng, đã trình bày bài thuyết giảng thứ ba và cũng là bài cuối cùng trong loạt bài tĩnh tâm Mùa Vọng của Đức Thánh Cha Phanxicô và giáo triều Rôma với chủ đề: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12).
Bài thuyết giảng Mùa Vọng cuối cùng này của ngài có tựa đề: “Ngài cư ngụ giữa chúng ta.” Đó là một câu trích từ Phúc Âm theo Thánh Gioan.
Nguyên bản tiếng Ý có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Trong thông điệp Urbi et orbi đáng nhớ của mình vào ngày 27 tháng 3 tại quảng trường Thánh Phêrô, sau khi đọc bài Phúc âm về việc Chúa Giêsu làm sóng yên biển lặng, Đức Thánh Cha đã tản mạn đề cập đến những gì Chúa Giêsu muốn nói khi Ngài khiển trách các môn đồ vì ‘hèn tin’ và Đức Thánh Cha giải thích rằng:
Các môn đệ không ngừng tin nơi Chúa, và thực sự họ kêu cầu Ngài. Nhưng chúng ta hãy xem cách thức các môn đệ cầu khẩn Ngài: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4:38). “Thầy chẳng lo gì”: họ nghĩ rằng Chúa Giêsu không đoái hoài gì đến họ, không chăm sóc cho họ. Một trong những điều làm chúng ta và các gia đình đau lòng nhất là câu: “chẳng lo gì sao?”. Đó là một câu làm thương tổn và khơi dậy bão tố trong tâm hồn. Câu ấy cũng làm tổn thương Chúa Giêsu. Vì Ngài quan tâm đến chúng ta hơn bất cứ ai.
Chúng ta có thể thoáng thấy một sắc thái khác trong lời trách móc của Chúa Giêsu. Các môn đệ đã không hiểu ai đang ở trên cùng con thuyền với họ; họ đã không hiểu rằng, khi Ngài ở trên thuyền, con thuyền không thể chìm vì Chúa không thể ra hư mất. Chúng ta, những môn đệ của Người trong thời đại này, cũng sẽ mắc sai lầm như các môn đệ xưa và sẽ đáng bị Chúa Giêsu khiển trách như vậy nếu trong cơn bão dữ dội đã ập đến thế giới qua trận đại dịch này chúng ta quên rằng mình không hề đơn độc trên con thuyền trước sự khống chế của những con sóng.
Lễ Giáng Sinh cho phép chúng ta mở rộng chân trời: từ biển Galilê đến khắp cùng thế giới, từ các tông đồ đến chúng ta: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Trong tiếng Hy Lạp, động từ eskenosen (nghĩa đen là ‘dựng lều hạ trại’), ở thì aorist, chuyển tải ý tưởng về một hành động đã hoàn thành và không thể đảo ngược được. Con Người đã xuống thế gian và Thiên Chúa không thể hư mất. Một Kitô hữu có thể mạnh dạn hơn tác giả của Thánh Vịnh để tuyên bố rằng:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động, núi đồi có sập xuống biển sâu,
dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi thủy triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì. (Tv 46: 2-4)
Như tôi đã từng nói, chúng ta cần quay trở lại cuộc tranh cãi đầu tiên trong tất cả các cuộc tranh cãi về Kitô học hồi thế kỷ thứ năm - trước các Công đồng Êphêsô và Chancêđon - để tái khám phá nghịch lý và tai tiếng chứa đựng trong tuyên bố: ‘Ngôi Lời đã cư ngụ giữa chúng ta’. Thật đáng đọc phản ứng của một người ngoại giáo có học thức sống vào thế kỷ thứ hai, sau khi biết về tuyên bố này của các tín hữu Kitô. Nhà triết học Celsius đã kinh hoàng và kêu lên rằng: ‘Con của Chúa – mà lại là một người chỉ sống cách đây vài năm thôi à?’ Ngôi Lời hằng sống – là một người chỉ mới ở đây “hôm qua hay hôm kia” thôi sao? là một người đàn ông “được sinh ra từ một người quay tơ nghèo, trong một ngôi làng của xứ Giuđêa” sao? Phản ứng ấy khá dễ hiểu: sự kết hợp hoàn hảo giữa thần tính và nhân tính trong con người của Chúa Kitô là điều mới lạ nhất có thể có, là “điều mới mẻ duy nhất dưới ánh mặt trời”, như Thánh Gioan thành Đamát định nghĩa.
Trận chiến lớn đầu tiên mà đức tin nơi Chúa Kitô phải đương đầu không phải là về thần tính của Ngài, mà là về nhân tính của Ngài, và về chân lý của mầu nhiệm nhập thể. Căn nguyên của sự từ chối đó là giáo điều của Plato, nói rằng ‘không có Thiên Chúa nào lại hòa hợp với con người’. Từ kinh nghiệm cá nhân, Thánh Augustinô khám phá ra rằng căn cội của khó khăn mà thánh nhân cảm thấy để có thể tin vào mầu nhiệm nhập thể là sự thiếu khiêm nhường. Như ngài viết trong cuốn Tự Thú của mình ‘không khiêm nhường, tôi không thể hiểu được sự khiêm nhường của chính Thiên Chúa’.
Kinh nghiệm của Thánh Augustinô có thể giúp chúng ta hiểu được căn cội của thuyết vô thần hiện đại và cho chúng ta thấy cách duy nhất có thể để vượt qua nó. Sự thật lịch sử của Phúc âm và thần tính của Chúa Kitô đã bị tấn công kể từ thời Hermann Samuel Reimarus, vào thế kỷ thứ mười tám. Chúa Giêsu nói: ‘Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy’ (Ga 14:6). Một khi người ta nói rằng con đường duy nhất đến với Thiên Chúa này đã bị đóng lại, thì trước tiên rất dễ chuyển sang thuyết hữu thần tự nhiên luận [deismo - Hermann Samuel Reimarus cho rằng có thể hiểu biết về Thiên Chúa chỉ dựa vào nhận thức tự nhiên không cần nhờ đến mạc khải hay giáo huấn của Giáo Hội – chú thích của người dịch] và sau đó là thuyết vô thần.
Kinh nghiệm của Thánh Augustinô - như tôi đã nói - chỉ ra con đường vượt qua trở ngại đó, cụ thể là bằng cách từ bỏ lòng kiêu hãnh và chấp nhận sự khiêm nhường của chính Thiên Chúa. ‘Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn’ (Mt 11:25): toàn bộ lịch sử bất tín của loài người được giải thích bởi những lời này của Chúa Kitô. Sự khiêm nhường cung cấp chìa khóa để hiểu được mầu nhiệm nhập thể. Phô trương thì không cần nhiều cố gắng lắm đâu, nhưng cần rất nhiều sức mạnh để có thể bước sang một bên và tự hạ mình xuống. Thiên Chúa là quyền năng vô hạn trong sự tự hạ mình: ‘Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ […] Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự’ (Pl 2: 7-8).
Thiên Chúa là tình yêu và do đó là sự khiêm nhường! Tình yêu tạo ra sự phụ thuộc vào người bạn yêu, và kiểu phụ thuộc đó không làm bẽ mặt mà còn làm thăng hoa. Hai tuyên bố ‘Thiên Chúa là tình yêu’ và ‘Thiên Chúa là sự khiêm nhường’ giống như hai mặt của cùng một đồng tiền. Tuy nhiên, từ ngữ khiêm nhường có nghĩa là gì, khi nó được áp dụng cho Thiên Chúa và đâu là ý nghĩa trong những lời này của Chúa Giêsu: ‘Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng’ (Mt 11:29)? Về bản chất, điều cốt yếu là thế này: khiêm nhường không phải là ‘trở nên nhỏ bé’ (vì một người có thể nhỏ bé và tầm thường nhưng vẫn không có lòng khiêm nhường); cũng không phải là chuyện tự xem bản thân mình là hèn mọn (vì điều đó có thể phụ thuộc vào một hình ảnh tiêu cực về bản thân); và cũng chẳng phải là chuyện tuyên bố mình là hèn mọn (vì bạn có thể nói như thế nhưng không thực sự tin vào điều đó); đúng hơn, khiêm nhường là việc khiến bản thân mình trở nên nhỏ bé và ta làm điều đó vì tình yêu, để người khác có thể nổi lên. Theo nghĩa đó, chỉ có Chúa mới thực sự khiêm nhường. Thật thế,
Ai sánh bằng Thiên Chúa Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời,
cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất?
Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi,
ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro. (Tv 113: 5-7).
Lễ Giáng sinh là lễ của sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Để tôn vinh điều đó trong tinh thần và sự thật, chúng ta cần trở nên giống như những đứa trẻ, như bạn cần cúi đầu để đi qua cánh cửa hẹp nhỏ để bước vào Vương Cung Thánh Đường Chúa Giáng Sinh ở Bêlem.
“Giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết”
Tuy nhiên, chúng ta hãy quay trở lại trọng tâm của mầu nhiệm đó: ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Chúa ở với chúng ta mãi mãi, và điều đó là không thể đảo ngược được. Từ giờ trở đi, đó là trọng tâm của lời tiên tri Kitô. Ông Dacaria đã chào hài nhi Tiền Hô và gọi con trẻ là ‘ngôn sứ của Đấng Tối Cao’ (Lc 1:76) và Chúa Giêsu nói về Thánh Gioan Tẩy Giả rằng ông còn ‘hơn cả một ngôn sứ’ (Mt 11, 9). Nhưng theo nghĩa nào thì Gioan Tẩy Giả là một tiên tri? Yếu tố tiên tri nằm ở đâu trong trường hợp của ngài? Các tiên tri trong Cựu ước đã loan báo về một sự cứu rỗi trong tương lai; Gioan Tẩy Giả không công bố một sự cứu rỗi trong tương lai; đúng hơn, thánh nhân chỉ vào một người hiện diện ở đó trước ngài. Các tiên tri ban đầu đã giúp dân Israel vượt qua rào cản của thời gian; Gioan Tẩy Giả giúp họ vượt qua những rào cản thậm chí còn dày đặc hơn trước điều thoạt nhìn xem ra trái ngược với bản chất của nó. Liệu Đấng Thiên Sai được mong đợi từ lâu - được các chi tộc chờ đợi, được các tiên tri công bố, được ca ngợi trong các Thánh Vịnh – rốt cuộc có thể nào lại chính là người đàn ông trông rất khiêm nhường và bình thường, mà chúng ta biết tất cả mọi thứ về người ấy kể cả làng quê của ông ta?
Thật tương đối dễ tin vào một điều gì đó vĩ đại và thiêng liêng, nếu nó được dự kiến trong một tương lai vô định: ‘trong những ngày đó’, ‘trong những ngày sau hết’, trong một khuôn khổ vũ trụ, với các tầng trời nhỏ xuống mật ngọt, trái đất mở ra và ơn cứu rỗi chớm nở (x. Is 45: 8). Nhưng sẽ khó hơn nếu bạn phải nói: ‘Ngài ở đây! Chính là Ngài!’ Thật là chuyện quá đỗi người ta thường tình khi những người nghe bị cám dỗ để thốt lên tức khắc rằng ‘Chỉ có thế thôi à?’. ‘Có thể có điều gì tốt từ Nagiarét đâu?’ (Ga 1:46); ‘Chúng tôi biết rõ ông ta đến từ đâu mà’ (Ga 7:27).
Đó là một sứ vụ tiên tri vượt quá giới hạn của con người và đó là lý do tại sao vị Tiền Hô được định nghĩa là ‘hơn cả một tiên tri’. Ngài là người dám chỉ vào một người và thốt ra một câu dứt khoát “Ecce - Đây này! Ngài đây này”. “Chiên Con của Thiên Chúa đây!” (Ga 1:29). Bạn có thể tưởng tượng những người đầu tiên nhận được tiết lộ đó phải rùng mình như thế nào không? Quyền năng của Chúa Thánh Thần vang lên trong những lời của vị Tiền Hô khi ngài bày tỏ chân lý đó cho những tấm lòng lương thiện. Quá khứ và tương lai, một sự chờ đợi lâu dài và thành quả đã hội tụ và chạm vào nhau. Vòng cung huyền thoại của lịch sử cứu độ đã khép lại.
Tôi tin rằng Thánh Gioan Tẩy Giả đã để lại cho chúng ta nhiệm vụ tiên tri của chính ngài, đó là tiếp tục kêu lên rằng: “Giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết” (Ga 1:26). Ngài đã bắt đầu lời tiên tri mới. Như tôi đã nói, lời tiên tri đó không phải là loan báo về một ơn cứu độ trong tương lai, mà là để bày tỏ sự hiện diện của Chúa Kitô trong lịch sử: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Chúa Kitô không hiện diện chỉ vì người ta liên tục nói và viết về Người, nhưng vì Người đã sống lại và Người sống theo Thần Khí. Điều đó không chỉ là một dự định, mà còn là một hiện thực. Việc truyền giáo bắt đầu từ đó.
Vào thời của Gioan Tẩy Giả, cản trở chính là thân xác thể lý của Chúa Giêsu, hình hài của Ngài, rất giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngày nay, trở ngại chính là nhiệm thể của Ngài, là Giáo hội. Giáo hội rất giống phần còn lại của nhân loại, bao gồm cả tội lỗi nữa! Như vị Tiền Hô đã làm cho những người đương thời có thể nhận ra Đức Kitô trong thân xác khiêm nhường của Người, thì ngày nay Người cũng cần được nhận ra trong sự nghèo nàn và khốn cùng của Giáo hội Người cũng như trong sự nghèo nàn và khốn cùng trong đời sống của chính chúng ta.
Thánh Phaolô bổ sung gì cho Thánh Gioan?
Tuy nhiên, chúng ta cần thêm một số điều vào những gì chúng ta đã nói cho đến nay. Nhận thức rằng Thiên Chúa đã hóa thành người phàm thôi thì chưa đủ, nhưng chúng ta cũng cần biết Thiên Chúa đã hóa thành loại người phàm nào. Tôi nghĩ điều quan trọng là phải thấy Thánh Gioan và Thánh Phaolô khác biệt nhau ra sao và bổ sung cho nhau như thế nào trong cách thức mỗi vị mô tả mầu nhiệm nhập thể. Đối với Thánh Gioan, điều này bao gồm sự kiện Ngôi Lời là Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể (x. Ga 1: 1-14); đối với Thánh Phaolô, điều đó bao gồm thực tế là ‘Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ’ (x. Pl 2: 5ff.) Đối với Thánh Gioan, Ngôi Lời, là Thiên Chúa, đã làm người; còn với Thánh Phaolô ‘Chúa Kitô vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó’ (x 2 Cor: 8-9).
Sự phân biệt giữa sự kiện nhập thể và cách thức sự kiện này được hoàn thành, giữa chiều kích bản thể học và chiều kích hiện sinh, khiến chúng ta quan tâm vì nó dõi chiếu một ánh sáng đặc biệt lên vấn đề nghèo đói hiện tại và cách thức các Kitô hữu nên phản ứng với vấn nạn đó. Sẽ rất hữu ích nếu chúng ta có thể đưa ra một nền tảng Kinh thánh và thần học về sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo, như đã được công bố trong Công đồng Vatican II. Như Jean Guitton, một giáo dân tham dự Công đồng Vatican II với tư cách là quan sát viên, đã viết: ‘Các Nghị phụ của Công đồng đã tái khám phá ra bí tích của sự nghèo khó, đó là sự hiện diện của Chúa Kitô dưới các hình dạng của những người đau khổ’.
‘Bí tích’ của sự nghèo khó! Đây là những từ rất mạnh mẽ, nhưng chúng có cơ sở. Nếu quả thực, bởi sự kiện nhập thể, theo một cách nào đó, Ngôi Lời đã mặc lấy mọi người lên mình Ngài (như một số giáo phụ Hy Lạp đã tuyên bố), thì về cách thức điều này được thực hiện, Người đã mặc lấy lên mình những người nghèo, những người khiêm nhường, và những người đau khổ. Chúa Giêsu đã “thiết lập” dấu chỉ này theo cùng một thể thức như Người đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Người nói khi bẻ bánh: ‘Này là mình Thầy’ và Người cũng dùng những từ ngữ tương tự như thế về người nghèo. Người đã làm như vậy khi đề cập đến những gì người ta đã làm - hoặc không làm - cho những người đói khát, chịu giam cầm, trần truồng hay là những người lạ, bằng cách trang trọng thêm rằng: ‘mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy, và mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy’ (Mt 25: 31ff.).
Chúng ta hãy rút ra hệ quả của điều này ở cấp độ giáo hội học. Chính Thánh Gioan XXIII, tại Công đồng Vatican II, đã đặt ra cụm từ ‘Giáo hội của người nghèo’. Ý nghĩa của nó vượt xa cách giải thích thông thường. Giáo hội của người nghèo không chỉ bao gồm những người nghèo trong chính Giáo hội! Theo một nghĩa nào đó, tất cả những người nghèo trên thế giới đều thuộc về nó, cho dù họ đã được rửa tội hay chưa. Một số người sẽ phản đối: ‘Sao lại thế? Họ chưa lãnh nhận đức tin hoặc chưa lãnh nhận Bí tích Rửa tội mà!’ Điều đó đúng, nhưng nếu như thế thì cũng không có các Thánh Anh Hài mà chúng ta mừng sau lễ Giáng sinh. Trong mắt Thiên Chúa, sự nghèo khó và đau khổ của họ, nếu không xuất phát từ tội lỗi, chính là phép rửa bằng máu của chính họ. Thiên Chúa có nhiều cách cứu rỗi hơn những cách chúng ta tưởng tượng ra, mặc dù tất cả những cách này, không có ngoại lệ nào đều phải qua Chúa Kitô và ‘trong một cách chỉ một mình Thiên Chúa biết’.
Người nghèo ‘thuộc về Chúa Kitô’, không phải vì họ tự nhận mình thuộc về Ngài, nhưng vì Ngài tuyên bố họ thuộc về mình, Ngài tuyên bố họ là chi thể của Ngài. Điều này không có nghĩa là chỉ cần nghèo trong thế giới này là đủ để tự động bước vào vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa. Những lời: ‘Hỡi những ai được Cha Ta chúc phúc, hãy đến’ (Mt 25:34) được gửi đến những người đã chăm sóc người nghèo, không nhất thiết được gởi đến cho chính những người nghèo chỉ vì họ nghèo về vật chất trong cuộc sống của họ.
Do đó, Giáo hội của Chúa Kitô lớn hơn nhiều so với những con số và những gì các nhà thống kê học báo cáo. Đây không phải là một tuyên bố huênh hoang hay chiến thắng, điều này sẽ gây bất tiện, đặc biệt là trong những thời điểm này. Không ai khác ngoài Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: ‘Bất cứ điều gì anh em đã làm cho một trong những người anh em nhỏ bé nhất của Thầy, thì anh em đã làm cho Thầy' (Mt 25:40), ở đó ‘những người anh em nhỏ bé nhất’ này không chỉ là những người tin vào Đức Kitô, mà còn là mọi người.
Do đó, Đức Giáo Hoàng - cùng với mọi mục tử trong Giáo hội - thực sự là ‘cha của người nghèo’. Tất cả chúng ta đều vui mừng và cảm thấy được khích lệ khi thấy vai trò này được các Giáo hoàng gần đây và đặc biệt là vị mục tử hiện đang ngồi trên ngai tòa Thánh Phêrô coi trọng như thế nào. Ngài là người ủng hộ mạnh mẽ nhất cho người nghèo trong một thế giới chỉ quen với việc chọn lọc và đào thải. Ngài chắc chắn đã không ‘quên người nghèo’! Trong Kinh thánh, chúng ta tìm thấy một phước lành đặc biệt dành cho những ai quan tâm đến người nghèo:
Phúc thay ai lưu tâm đến người nghèo khổ:
trong ngày hoạn nạn, sẽ được Chúa cứu nguy.
Chúa bảo vệ và giữ gìn mạng sống,
lại ban cho hạnh phúc trên đời,
không trao họ cho địch thù hung hãn. (Tv 41: 2-3).
Nhưng đừng tự huyễn hoặc bản thân: đây là điều nói thì dễ mà làm thì khó. Issac thành Ninivê, một Giáo phụ sống trong sa mạc, đã đưa ra lời khuyên này cho những người theo nghĩa vụ bị buộc phải nói về những điều thiêng liêng mà họ chưa đạt được trong đời sống của chính mình: “Hãy nói về điều đó như một người thuộc về hàng môn sinh chứ không phải với uy quyền, sau khi đã khiêm hạ trong lòng bạn và tự làm cho mình trở nên nhỏ bé hơn bất kỳ thính giả nào của bạn”. Và đó chính là cách mà tôi dám nói về điều đó.
“Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14:23)
“Ngôi Lời đã hóa thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Trước khi kết thúc, chúng ta cần chuyển từ số nhiều sang số ít. Ngôi Lời đã không đến thế gian một cách chung chung mơ hồ, nhưng đã đi vào mỗi tâm hồn tin tưởng một cách cá vị. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14: 23). Do đó, Đức Kitô không chỉ hiện diện trên con thuyền của thế giới hay của Giáo hội; Người hiện diện trên con thuyền nhỏ của đời tôi. Thật là một suy nghĩ sâu sắc! Giá như chúng ta có thể thực sự tin tưởng vào điều đó! Thánh Elizabeth của Chúa Ba Ngôi đã khám phá ra rằng bí mật về sự thánh thiện của thánh nữ nằm ở đó. Như ngài đã từng viết cho một người bạn rằng: “Tôi dường như đã tìm thấy thiên đường của riêng mình trên trái đất này, bởi vì thiên đường là Chúa và Chúa đang ở trong tâm hồn tôi. Ngày tôi hiểu ra điều này, mọi thứ đều tràn ngập ánh sáng”.
Với những hạn chế đối với việc thờ phượng nơi công cộng và đối với việc tham dự thánh lễ trong nhà thờ, do nó gây ra, đại dịch này có thể là cơ hội để nhiều người trong chúng ta khám phá ra rằng chúng ta không chỉ gặp được Chúa bằng cách đến nhà thờ, nhưng chúng ta có thể thờ phượng Chúa ‘trong tinh thần và chân lý’ và trò chuyện với Chúa Giêsu ngay cả khi bị nhốt trong nhà, hoặc thậm chí trong phòng của chúng ta. Đời sống Kitô không thể không có Thánh Thể và cộng đoàn, nhưng khi điều này bị ngăn cản bởi những điều kiện bất khả kháng, các Kitô hữu không nên nghĩ rằng đời sống Kitô bị gián đoạn. Nếu bạn chưa bao giờ gặp Chúa Kitô trong lòng mình trước đây, bạn sẽ không bao giờ gặp Ngài - theo nghĩa mạnh của từ này - ở bất cứ nơi nào khác.
Có một tuyên bố táo bạo về lễ Giáng sinh đã vang lên nhiều lần trên miệng lưỡi của các tiến sĩ Hội Thánh và các bậc thầy tâm linh vĩ đại của Giáo hội như Origen, thánh Augustinô, thánh Bernard, Angelus Silesius và nhiều vị khác. Về cơ bản, là thế này: “Chúa Kitô đã được sinh ra bởi Đức Maria một lần ở Bêlem, điều đó có ích gì đối với tôi nếu Ngài không được sinh ra bởi đức tin trong lòng tôi?”. Như thánh Ambrôsiô đã viết: “Theo nghĩa sâu xa nhất, liệu Chúa Kitô còn có thể được sinh ra ở đâu khác, ngoài trái tim và tâm hồn bạn?” Thánh Maximô Cha Giải Tội lặp lại rằng: “Ngôi Lời Thiên Chúa muốn lặp lại mầu nhiệm nhập thể của Ngài trong mọi người nam nữ”. Như bạn có thể thấy, đó là một chân lý đại kết thực sự.
Nhắc lại cùng một truyền thống này, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong sứ điệp Giáng Sinh năm 1962, đã nêu lên lời cầu nguyện cháy bỏng này: “Hỡi Lời Vĩnh Hằng của Cha, Con Thiên Chúa và Con của Mẹ Maria, hãy đổi mới một lần nữa hôm nay, trong thẳm sâu tâm hồn chúng con, điều kỳ diệu phi thường trong sự giáng sinh của Chúa”. Chúng ta hãy biến lời cầu nguyện này thành lời cầu nguyện của riêng mình, nhưng, trong hoàn cảnh bi đát mà chúng ta đang trải qua, chúng ta hãy thêm vào đó lời cầu xin cháy bỏng của phụng vụ Giáng sinh: “Hỡi Vua của các dân tộc, Đấng cai trị mà họ hằng mong ước, là đá tảng hiệp nhất mọi người: Hãy đến và cứu tất cả chúng con, là những người mà Ngài đã hình thành từ đất sét”. Xin hãy đến và nâng dậy nhân loại, đang kiệt sức vì thử thách kéo dài của đại dịch hiện nay!
1.In Origene, Contro Celso, I,26.28; VI,10.
2.S. Giovanni Damasceno, Fede ortodossa, 45.
3.Platone, Simposio, 203°; cf. Apuleio, De deo Socratis, 4: “Nullus deus miscetur ho minibus”.
4.Confessioni, VII, 18.24).
5.Fonti Francescane, 221.
6.Fonti Francescane, 144.
7.J. Guitton, cit. da R. Gil, Presencia de los pobres en el concilio, in “Proyección” 48, 1966, p.30.
8.In AAS 54, 1962, p. 682.
9.Gaudium et spes, 22.
10.Isacco di Ninive, Discorsi ascetici 4, Città Nuova, Roma 1984, p.89.
11.Lettera 107 del 1902 alla contessa De Sourdon.
12.Cf. Origene, Commento al vangelo di Luca 22,3 (SCh 87,p. 302); Angelo Silesio, Il Pellegrino cherubico, I, 61: “Wird Christus tausendmal zu Bethlehem geborn / und nicht in dir: du bleibst noch ewiglich verlorn“.
13.S. Ambrogio, In Lucam, 11,38.
14.S. Massimo Confessore, Ambigua (PG 91,1084.
15.Antifona ai Vespri del 22 Dicembre.
Source:Raniero Cantalamessa