Phụng Vụ - Mục Vụ
Hồi tâm sám hối để dọn đường đón Chúa đến
Lm Đan Vinh
06:45 04/12/2019
Chúa Nhật 2 Mùa Vọng A
Br 5,1-9 ; Pl 1,4-6.8-11 ; Mt 3,1-12
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 3,1-12
(1) Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: (2) “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. (3) Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. (4) Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. (5) Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. (6) Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. (7) Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? (8) Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. (9) Và đừng tưởng có thể nghĩ bụng rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham”. Vì tôi nói cho các anh hay: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. (10) Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. (11) Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. (12) Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân. Thóc mẩy thì cho vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay tường thuật sứ vụ tiền sứ của Gio-an Tẩy Giả. Ông chính là “Tiếng hô trong hoang địa kêu gọi người ta dọn đường đón Đấng Thiên Sai”. Ông đã thi hành sứ vụ bằng một lối sống khổ hạnh, nên được dân chúng tín nhiệm và lũ lượt kéo đến nghe giảng, thú tội và chịu phép rửa tại sông Gio-đan. Ông cũng nặng lời quở trách những kẻ đạo đức giả và loan báo Tin mừng về Đấng Thiên Sai sắp đến.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Ông Gio-an Tẩy Giả: Là con trai của tư tế Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Gio-an là tên mà sứ thần đã đặt cho khi hiện ra với cha của ông trong Đền Thờ (x. Lc 1,13). Gio-an là anh họ và lớn hơn Đức Giê-su sáu tháng tuổi (x. Lc 1,36). Ông được đặc ân khỏi tội tổ tông truyền qua việc nhảy mừng khi nghe lời chào của Đức Ma-ri-a đang cưu mang thai nhi Giê-su đến viếng thăm (x. Lc 1,44). Ngay từ nhỏ Gio-an đã sống ẩn mình trong hoang địa. Trước khi Đức Giê-su ra giảng đạo, ông đã đến rao giảng tại vùng sông Gio-đan và làm phép rửa cho những ai thành tâm sám hối dọn lòng đón Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Lc 3,3-6). Cuối cùng ông đã bị vua Hê-rô-đê giết vì đã dám lên tiếng can ngăn nhà vua lấy bà chị dâu làm vợ (x. Mt 14,3-12). + Đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: Đây là vùng đồi núi khô cằn phía Nam thành Giê-ri-khô, cách Biển Chết 6 cây số. + Anh em hãy sám hối: Sám hối (Mê-ta-noi-a) nghĩa là: nghĩ lại, thay đổi ý kiến, hoán cải, thay đổi hoàn toàn con người, từ nội tâm đến cách sống để trở về với Thiên Chúa. +Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời hay Nước Thiên Chúa (trong các Tin Mừng khác). Đây là kiểu nói tránh nêu thánh danh Thiên Chúa. Người Do thái thời Đức Giê-su đang mong Đấng Mê-si-a đến thiết lập một Nước mang tính thế tục. Ở đây Gio-an kêu gọi dân chúng sám hối để chuẩn bị đón nhận Nước Trời do Đấng Mê-si-a thiết lập. + Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới…: Ngôn sứ I-sai-a sống vào thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên. Ngôn sứ này đã tuyên sấm về thân thế, nơi sinh và triều đại của Đấng Thiên Sai. Lời tuyên sấm của I-sai-a (40,3-5), gợi lại cuộc giải phóng và hồi hương của dân Do thái từ Ba-by-lon. Lời này được một Ngôn sứ vô danh loan báo sắp xảy ra như một cuộc Xuất Hành thứ hai của dân Do thái. Lời tuyên sấm ấy ứng nghiệm nơi Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su.
- C 4-6: + Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà: Cách ăn mặc của Gio-an giống như ngôn sứ Ê-li-a (x. 2V 1,8). Ông có sứ mệnh tiên báo về “Ngày của Thiên Chúa” sắp đến (x. Mt 3,1-23). + Ông làm phép rửa cho họ: Thời bấy giờ, người Do thái đã quen với các nghi thức tự mình thanh tẩy theo tục lệ và Lề luật. Ở đây Gio-an cử hành nghi thức thanh tẩy bằng nước cho những ai đến nghe giảng để bày tỏ lòng sám hối và chuẩn bị tâm hồn đón chờ Đấng Mê-si-a sắp đến. Phép rửa của Gio-an chỉ là một nghi lễ biểu lộ lòng sám hối, chứ không tha tội như bí tích Rửa tội do Đức Giê-su thiết lập sau này.
- C 7-9: + Phái Pha-ri-sêu: Pha-ri-sêu hay Biệt phái là một nhóm người có khuynh hướng duy linh, ái quốc quá khích, nhiệt tình với Luật Mô-sê và tuân giữ nhiều luật truyền khẩu. Về đời sống luân lý và đạo đức, họ thường chú trọng hình thức bên ngoài. Về mặt chính trị, họ là những kẻ thù của đế quốc Rô-ma, nên được dân chúng dành nhiều thiện cảm. + Phái Xa-đốc: Xa-đốc hay Văn nhân là nhóm người xu thời và phóng khoáng, không nhìn nhận truyền thống mà chỉ tuân giữ Lề luật. Họ theo khuynh hướng duy vật, thích văn hóa Hy-lạp. Họ giữ địa vị cao trong hàng hàng giáo phẩm và thường là người giàu có, nên dù chỉ là thiểu số nhưng lại có thế lực. Họ ủng hộ chính quyền Rô-ma, nên bị dân chúng không ưa. + Nòi rắn độc kia: Trong Kinh Thánh, con rắn đồng hóa với sự xảo trá lọc lừa (x St 3,1). + Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống: Theo các Ngôn sứ, cuộc chung thẩm và báo oán sẽ xảy ra khi thời đại của Đấng Mê-si-a bắt đầu. Lúc đó, mọi kẻ tội lỗi đều bị loại khỏi Nước của Đấng Mê-si-a (x. Is 30,27-33). Ông Gio-an tiên báo vị thẩm phán thời cánh chung sẽ đến trong uy quyền, đang khi Đức Giê-su lại đến như người tôi trung hiền lành và khiêm nhường (x. Mt 12,18-21). + Sinh hoa quả xứng với lòng sám hối: Việc ăn năn sám hối trong lòng phải được chứng minh bằng những việc bác ái cụ thể. + Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham: Áp-ra-ham sống vào thế kỷ 20 trước Công Nguyên. Ông là tổ tiên của người Do thái và tên ông nghĩa là “Cha của những kẻ tin vào Đức Chúa”. Người Do thái cho rằng chỉ cần là con cháu của Áp-ra-ham thì sẽ đương nhiên được cứu độ như lời Đức Chúa đã hứa (x. Lc 1,55). Nhưng họ đã lầm, vì để được cứu độ người ta còn phải tuân phục thánh Ý Thiên Chúa nữa (x. Mt 8,11). + Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham: Thiên Chúa chỉ ban ơn cứu độ cho những người có lòng ăn năn sám hối.
- C 10-12: + Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Trong Cựu Ước, cây là hình ảnh ám chỉ các dân tộc (x. Is 6,13). Cái rìu để sẵn gốc cây nhằm diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa dành cho dân Do thái sắp xảy đến. + Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước…: Gio-an đã so sánh sự khác biệt giữa mình với Đấng Thiên Sai như sau: Một là ông chỉ làm phép rửa bằng nước sông để khơi dậy nơi người chịu phép rửa tâm tình sám hối, còn Đấng Thiên Sai sẽ thanh tẩy người ta nhờ ơn Chúa Thánh Thần và lửa tin yêu. Hai là ông chỉ là người mang thân phận thấp kém đang khi Đấng Thiên Sai lại có thân phận cao quý. Ba là ông chẳng có quyền hành gì, đang khi Đấng Thiên Sai lại có quyền xét xử để thưởng người lành và phạt kẻ dữ. + Tay Người cầm nia…: Các Ngôn sứ Cựu Ước thường diễn tả ngày tận thế bằng hình ảnh của một người đang sàng sảy sân lúa của mình (x. Is 9,2). Ở đây vai trò của Đấng Thiên Sai được diễn tả giống như ông chủ của thửa ruộng trong dụ ngôn cỏ lùng (x. Mt 13,30).
4. CÂU HỎI:
1) Gio-an Tẩy Giả là ai ?
2) Sứ mạng của ông là gì ?
3) Phái Pha-ri-sêu khác với phái Xa-đốc ở những điểm nào ?
4) Áp-ra-ham là ai ? Điều kiện để được ơn cứu độ là gi ?
5) Gio-an so sánh sự khác biệt giữa ông với Đấng Thiên Sai về phép rửa, thân thế và quyền năng thế nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT SÁM HỐI THỰC SỰ:
Ông KHẤU CHUẨN thuở nhỏ tính tình du đãng, không biết giữ lề thói phép tắc, lại còn lười biếng, tối ngày chỉ biết chơi chim chơi chó chứ không lo học hành. Bà mẹ vốn nghiêm khắc thấy con như thế thì thường la mắng quở phạt, nhưng cậu bé vẫn chứng nào tật đó không chịu chừa cải. Một hôm, cậu trốn học đi chơi và bị thầy giáo mời bà mẹ đến trường làm việc. Khi về nhà bà rất giận dữ, nên khi cậu vừa về đến nhà đã bị bà cầm quả cân trên tay ném trúng chân làm cậu bị thương, máu chảy đầm đìa. Từ bấy giờ cậu mới biết sợ không dám tiếp tục chơi bời lêu lổng, mà chuyên lo việc đèn sách.
Về sau Khấu Chuẩn thi đỗ làm quan và thăng tiến nhanh lên đến chức tể tướng triều đình. Khi ông đạt được vinh hoa thì bà mẹ ông lại qua đời. Mỗi khi nhìn thấy vết thương ở chân do quả cân gây ra, thì ông lại nức nở khóc mà nói với mọi người rằng: “Ta phải cám ơn mẹ ta, vì thương ta mà ra tay đánh phạt ta, gây ra vết thương này. Nhưng cũng chính nhờ nó mà ta được nên người thành đạt như ngày hôm nay”.
2) LÒNG SÁM HỐI CÓ SỨC HÓA GIẢI HẬN THÙ:
GIĂNG-KAI (Zenkai) là một thanh niên Nhật bản khỏe mạnh, là con trai của một gia đình Công giáo. Anh đến thành phố Ê-đô lập nghiệp. Anh được nhận làm cận vệ cho một quan chức cao cấp của thành phố này. Giăng-kai đem lòng yêu cô vợ trẻ của ông chủ. Rồi “cây kim lâu ngày cũng lộ ra”, một hôm ông chủ đã bắt gặp hai người phạm tội thông dâm với nhau. Đang lúc nóng giận, ông đã thách đấu kiếm với Giăng-kai. Trong cuộc đọ sức, Giăng-kai khỏe và tài giỏi hơn nên đã đâm ông chủ một nhát trúng ngực và ít ngày sau thì ông qua đời, để lại đứa con trai mới 7 tuổi. Giăng-kai đem bà vợ ông chủ đi chạy trốn. Hai người đến một vùng đồi núi hẻo lánh và phải sống những ngày nghèo khổ đói khát, nhiều khi phải đi ăn trộm lương thực của dân địa phương để ăn cho đỡ đói. Nhưng khi sống gần nhau, Giăng-kai mới phát hiện ra người phụ nữ trẻ đẹp kia chỉ là một mụ đàn bà lăng loàn trắc nết. Nhiều lần chị ta đã nặng lời mắng chửi Giăng-kai và sau cùng đã bỏ rơi anh để theo làm hầu thiếp cho một người giàu có và thế lực trong vùng. Anh cảm thấy buồn bã không thiết đến ăn uống. Càng suy nghĩ anh lại càng thấm thía cho tình đời đen bạc. Rồi anh quyết tâm sám hối bằng việc dành trọn quãng đời còn lại để làm một công việc gì hữu ích hầu chuộc lại phần nào tội của mình.
Một hôm thấy trên sườn núi gần đó có một con đường đèo lởm chởm và trơn trượt rất nguy hiểm cho những người qua lại. Nhiều người đã bị té xuống vực sâu chết thảm khi phải đi qua đoạn đường nguy hiểm này.
Anh quyết định sẽ đào một đường hầm xuyên qua núi để giúp người ta tránh khỏi các tai nạn rủi ro tương tự. Ban ngày anh vào làng làm thuê kiếm sống. Đêm đến anh đốt đèn và miệt mài đào hầm xuyên qua vách núi. Mười ba năm sau, khi Giăng-kai được 40 tuổi, thì con đường hầm đã gần hoàn tất. Ước tính chỉ hai năm nữa là anh sẽ hòan thành con đường hầm. Ngày nọ, đứa con trai của ông chủ cũ giờ đã thành một trang thanh niên 20 tuổi khỏe mạnh tìm đến gặp Giăng-kai và đòi thách đấu để trả thù cho cha. Giăng-kai đồng ý nhưng yêu cầu hoãn lại 2 năm để có thời giờ hoàn thành tâm nguyện và được anh kia đồng ý.
Rồi khi thấy Giăng-kai hằng ngày phải làm việc quá vất vả, anh ta đã tình nguyện giúp một tay cho công việc chóng xong hầu sớm trả thù cho cha. Nhưng trong thời gian làm việc chung, chàng thanh niên khâm phục trước dũng khí và sự chuyên cần của kẻ thù. Cuối cùng thì công việc đào hầm cũng xong và dân chúng hai bên đã có thể đi qua đi lại dễ dàng. Bấy giờ Giăng-kai nói với chàng thanh niên: “Tâm nguyện của ta đã hoàn tất. Vậy anh hãy lấy đầu của ta để báo thù cho cha anh”. Nhưng chàng thanh niên kia đã nghẹn ngào xúc động nói: “Bây giờ làm sao con có thể giết chết thầy được, khi mà thầy đã thật lòng sám hối và đã làm được một việc lớn lao thế kia để đền tội?”.
Chính tinh thần sám hối và sự quyết tâm làm việc thiện của Giăng-kai đã có sức cảm hóa và biến đổi một kẻ vốn là kẻ thù trở thành bạn hữu của mình. Một con người đang mang tâm trạng thù hận mà còn phải mủi lòng trước sự thành tâm sám hối như vậy, phương chi Thiên Chúa lại chẳng đoái thương tha thứ và ban ơn cứu độ cho những tội nhân thật lòng sám hối hay sao?
3) HAI VỊ ẨN TU BẤT ĐẮC DĨ:
Tại một vùng núi nọ, người ta truyền tụng cho nhau câu chuyện nầy: Ngày xưa, có hai thầy dòng quyết tâm nên thánh bằng cách ẩn tu. Để thực hiện việc nầy, cả hai thầy lên núi, tìm hai hang động cách xa nhau làm chỗ dung thân để sống trong thinh lặng và kết hợp với Chúa. Để cuôc sống ẩn tu đạt kết quả và khỏi bận tâm về những "sự thế gian", cả hai quyết định sống cô độc: hang ai nấy ở, mỗi người môt không gian riêng…
Rồi năm tháng qua đi. Cả hai chết lúc nào không ai biết. Hai hang động trở thành hoang phế, như hai chiếc mồ hoang lạnh giữa rừng sâu.
Một thời gian sau, có hai tên cướp bị săn đuổi, đã thay tên đổi họ, lần mò trốn lên quả núi nầy để ẩn danh tìm chút bình an cho cuộc sống thừa. Gặp được hai cái hang hoang lạnh của người xưa, cả hai đã chọn nơi đây làm chốn dừng chân để làm lại cuộc đời. Thế là hai tên cướp đã dọn sạch hai cái hang cũ để bắt đầu cuộc sống "ẩn tu bất đắc dĩ." Chỉ khác với hai thầy dòng trước đó điều này là cả hai tên cướp quyết định làm một con đường nối liền hai cái hang để có thể thường xuyên qua lại, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an nhau …Dần dà, dọc theo con đường nối hai hang đã được trồng đầy hoa, làm cho khu vực hang động đầy sức sống và đẹp đẽ. Hai tên cướp năm nào giờ đây đã trở thành hai vị ẩn tu hiền lành, thánh thiện, đến nổi hương thơm thánh đức lan toả khắp vùng, khiến nhiều người rủ nhau lên núi để xin "Hai Thầy" cầu nguyện và hưóng dẫn về đạo đức. Từ đó, xuất hiện nhiều con đường từ khu dân cư dẫn đến hang trên núi, hai bên đường đi cũng có nhiều cỏ hoa tươi thắm… Rồi khi hai "thầy cướp ẩn tu" qua đời, nhờ hương thơm nhân đức kèm theo các phép lạ do nhiều người đã nhận được mà dân trong vùng đã phong cho hai "thầy cướp ẩn tu" nầy làm thánh…
4) SÁM HỐI LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC ƠN CHÚA CỨU ĐỘ:
Trong khi thực hiện bức hoạ nổi tiếng “Bữa tiệc ly”, LEONARD DE VINCI đã cãi lộn với một người bạn. Trong lúc nóng giận ông đã nhiếc mắng bạn bằng những lời gay gắt kèm theo cử chỉ doạ nạt. Khi cuộc cãi vã qua đi, Leonard tiếp tục vẽ khuôn mặt từ bi của Chúa Giêsu. Nhưng dù cố gắng hết sức ông vẫn không thể vẽ thêm được nét cọ nào. Cuối cùng khi khám phá ra nguyên nhân khiến công việc ngưng trệ là do trong lòng bất an, họa sĩ liền bỏ giá vẽ, đi tìm người bạn mới bị ông xúc phạm để xin tha thứ. Sau đó ông đã bình tĩnh trở lại và đã hoàn tất được bức họa “Bữa Tiệc Ly” nổi tiếng.
5) SÁM HỐI RẤT CẦN ĐỂ HOÁN CẢI NÊN TỐT HƠN:
Một ngày nọ, mẹ Têrêsa kể, « Có một anh nhà báo đã hỏi tôi một cầu hỏi kỳ lạ. Anh ta hỏi rằng:
- Ngay cả mẹ Tê-rê-sa mà cũng phải xưng tội hay sao?
Tôi trả lời:
- Vâng, đúng vậy, tôi đi xưng tội hằng tuần.
Tỏ ra ngạc nhiên, anh ta nói:
- Chúa chắc phải khắt khe lắm nên một người tốt lành như mẹ mà cũng phải xưng tội.
Tôi hỏi lại:
- Đứa con bé bỏng hiền ngoan như thiên thần của anh đôi khi cũng làm điều sai. Vậy anh nghĩ gì nếu một ngày nào đó, con anh đến gặp anh và nói: "Ba ơi, con xin lỗi? Anh sẽ làm gì? Anh sẽ vòng tay ôm lấy đứa nhỏ và hôn nó. Tại sao vậy? Vì đó là cách anh nói với con rằng anh yêu nó. Chúa cũng làm như vậy. Tình yêu của ngài dành cho tôi thật dịu dàng”. Do đó khi chúng ta sai phạm điều gì, chúng ta càng cần phải đến gần Thiên Chúa hơn. Chúng ta hãy thưa với Ngài: “Con biết chính tội lỗi đã làm con lìa xa Cha. Con không xứng đáng làm con Cha nữa, nhưng con nài xin Cha hãy tha thứ tội lỗi cho con”.
Chúa là một Người Cha khoan dung. Lòng nhân từ của Chúa còn lớn hơn gấp bội những tội lỗi của chúng ta. Chắc chắn Ngài sẽ tha hết mọi tội cho ta. Như vậy, sám hối rất cần để chúng ta được nên tốt hơn. Không có sức mạnh nào giúp chúng ta kiềm chế các đam mê dục vọng và hướng lòng về Chúa bằng sự thành tâm sám hối các tội đã phạm.
3. SUY NIỆM:
1) HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI:
Lời Chúa trong lễ Chúa Nhật II mùa vọng hôm nay, kêu gọi mọi người hãy ăn năn trở về với Thiên Chúa để chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến.
Trong tiếng Hy Lạp chữ mê-ta-noi-a (sám hối) vừa diễn tả sự hối tiếc về những lỗi lầm đã phạm đến Thiên Chúa để cầu xin ơn tha thứ, vừa đòi hỏi sự thay đổi sâu xa trong tâm trí và trong cuộc sống: thay đổi từ cách suy nghĩ, nói năng, đến thái độ ứng xử và hành động. Hôm nay, Hội Thánh giới thiệu cho các tín hữu chúng ta Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước và là tiền hô của Đấng Thiên Sai. Gio-an được sinh ra cách lạ lùng, lớn lên trong sa mạc với lối sống khổ hạnh giống như ngôn sứ Ê-li-a khi xưa: Ông mặc áo bằng da thú vật, ăn châu chấu với mật ong rừng, uống nước lã… Ông sống khổ hạnh để chờ ngày ra giảng đạo, thi hành sứ vụ đi trước mở đường giúp mọi người đón nhận Đấng Thiên Sai...
Bấy giờ Gio-an đã đến vùng sông Gio-đan rao giảng sự ăn năn sám hối. Ông nói : “Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến”. « Hãy sống công chính để đón chờ Đấng Cứu Thế sắp đến ». Dân chúng lũ lượt kéo đến nghe ông giảng đạo, ăn năn thú tội và xin ông làm phép rửa bằng nước trong dòng sông Gio-đan.
2) NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN ĐẾN:
Đây là nội dung Tin Mừng mà Gio-an Tẩy Giả đã loan báo tại khu vực bờ sông Gio-đan.
- Đấng Thiên Sai cũng là Thẩm Phán công minh sẽ đến tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như người nông dân phân biệt thóc mẩy với thóc lép: “Thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa mà đốt đi” (Mt 3,12).
- Ngày Đấng Thiên Sai đến sẽ là ngày thịnh nộ: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). Người sẽ thanh tẩy người ta nhờ quyền năng Thánh Thần và lửa tin yêu như trong lễ Ngũ Tuần sau này. Nếu muốn được ơn cứu độ của Đấng Thiên Sai thì phải sám hối tội lỗi ngay từ bây giờ.
3) SÁM HỐI CỤ THỂ LÀ GÌ ?:
- Sám hối là tự vấn lương tâm về lời nói việc làm đã gây ra thù hằn ganh ghét nhau, về những cách ứng xử thiếu khoan dung. Sám hối là nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước bao cái xấu cái ác đã và đang xảy ra trên thế giới hôm nay. Nên nhớ rằng một khi can đảm lên tiếng sám hối công khai, Hội Thánh đã chứng tỏ thái độ quyết tâm hướng tới sự hoàn thiện.
- Chúng ta cần nghe lại giáo huấn của Gio-an Tẩy Giả trong Tin Mừng hôm nay, lôi kéo chúng ta khỏi thái độ tự mãn như người Pha-ri-sêu xưa: “Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham” (Mt 3,8). Cũng vậy, đừng tưởng rằng hễ là người tín hữu thì đương nhiên chúng ta sẽ được vào Nước Trời. Hôm nay Gio-an mời gọi chúng ta thú nhận tội lỗi để được giao hòa với Thiên Chúa nhờ sự quyết tâm sám hối. biểu lộ các hành động khiêm tốn phục vụ Chúa đang hiện thân nơi tha nhân nghèo đói bệnh tật.
4) CẦN LÀM GÌ ĐỂ CHỨNG TỎ QUYẾT TÂM SÁM HỐI THỰC SỰ?
- Cách đây ít lâu có một bài báo viết về việc tẩy xóa những vết xăm trên thân mình của giới trẻ. Một điều lạ là sau khi bài báo xuất hiện, đã có trên 1000 lá thư từ các bạn trẻ khắp nơi gửi về tòa soạn để hỏi thêm chi tiết về cách tẩy xóa đi các vết xăm này. Từ đó, một cuốn phim tên là “Untatoo You” – “Hãy tẩy xóa vết xăm cho bạn” ra đời. Nội dung về những nguy hiểm của việc xăm mình và trình bày sự khó khăn của việc tẩy đi những dấu xăm nhỏ trên cánh tay, khuôn mặt, và những vết xăm lớn hơn trên ngực và phía sau lưng... Các tài tử đóng phim này chính là những bạn trẻ đã từng xăm mình. Họ đã chia sẻ cách thành thật về lý do tại sao lúc đầu họ đã xăm mình, và bây giờ tại sao họ lại muốn tẩy xóa các vết xăm đó đi.
- Hôm nay, cũng như các bạn trẻ sau khi đã khám phá ra cách tẩy xóa các dấu xăm trên người, đã cố gắng tẩy xóa nó đi, thì một khi ý thức mình đang có các vết nhơ tội lỗi trong tâm hồn, mỗi người chúng ta cũng cần xin Chúa giúp ăn năn sám hối các lỗi lầm đã phạm để nhận được ơn giao hòa với Chúa. Chúa sẽ tha thứ và tẩy xoá các vết nhơ tội lỗi, hầu chúng ta xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp đến.
Mỗi người quyết tâm sẽ tu sửa thói hư nào cụ thể trong những ngày Mùa Vọng này ?
4. THẢO LUẬN:
Hiện nay bạn thấy Giáo xứ, Hội đoàn, Gia đình và bản thân bạn có những gì lỗi đức công bình bác ái, nên cớ vấp phạm cho anh em lương dân không?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sám hối không phải là điều dễ làm, vì chúng con thường không đủ khiêm tốn để nhìn nhận khuyết điểm lỗi lầm của mình. Xin cho chúng con biết dũng cảm điều chỉnh những sai lỗi, luôn biết tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng về sự thánh thiện của mình và tránh thói đạo đức giả hình của người Pha-ri-sêu xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Sứ vụ dọn đường
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
06:52 04/12/2019
Chúa Nhật II Vọng A
Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ngài tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ngài công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ngài mời gọi mọi người. Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ngài đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ngài đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đày và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường, sang Ai cập, về Nazareth, vào sa mạc, lên đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa, ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Người lên đường về nhà Cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô thường cổ võ nền văn hóa đối thoại và gặp gỡ : “Môn đệ của Chúa Giêsu là người luôn cố gắng đi gặp gỡ tha nhân, trao tặng sự đón tiếp, đối thoại với bất kỳ ai, làm chứng về kinh nghiệm sống của mình được thay đổi nhờ gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng là lòng Thương Xót, vì một cuộc sống được biến đổi, chắc chắn sẽ lây sang người khác (x.vaticannews.va).
Cuộc đời mỗi người là một con đường: con đường hai chiều đưa ta đến với Chúa và Chúa đến với ta, hay đưa ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Người.Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Người đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như người lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, những vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Sống Mùa Vọng bằng niềm vui trong Chúa
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
06:57 04/12/2019
Hãy sống mùa Vọng bằng sự vui tươi của niềm hy vọng và nụ cười. Đã bao lâu rồi bạn chưa có những nụ cười thực sự, nụ cười của những người ấp ủ những hoài bão, những định hướng mới trong niềm tín thác, biết đặt trọn lòng tin tưởng vào Chúa?
Hãy lợi dụng tinh thần mùa Vọng, lợi dụng bầu khí thánh thiện của mùa chờ đợi Chúa đến, chờ đợi niềm vui Giáng sinh mà khoác lấy niềm vui trong tinh thần, trong cuộc sống từng ngày của mình.
1. Xác tín niềm vui trong Chúa của người Cựu Ước.
“Đừng buồn bã vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nhm 8, 10). Đó là lời mà tư tế Nehemiah mời gọi toàn dân sau khi kết thúc 70 năm lưu đày bên Babylon và được trở về cư ngụ trên chính quê Cha đất Tổ.
Toàn dân vui mừng họp lại cùng nhau cử hành phụng vụ trên chính quê hương. Từ đây, họ bắt đầu công cuộc tái thiết quê hương trong rạng rỡ của niềm hạnh phúc.
Họ lắng nghe tư tế Ezra công bố Lời Chúa. Họ khóc. Nhưng không khóc vì thân phận lưu đày, mà khóc trong niềm vui sướng, khóc vì lại được sống trên quê hương là đất mà Thiên Chúa ban cho cha ông và dòng dõi của họ.
Vừa trở về từ phương xa, từ đất lưu đày khổ ải, cho nên họ khóc. Họ khóc vì cứ ngỡ mình đang mơ, trong khi đang thực sự hiện diện trong nhà mình, nơi quê hương của mình. Khóc vì cuộc gặp gỡ thân tình gắn bó cùng cội rễ của chính mình.
Nhưng trên hết mọi sự, họ khóc trong sung sướng vì tin rằng, Chúa giải thoát họ. Và nơi Chúa cũng đang tràn đầy niềm vui. Thiên Chúa vui trong niềm vui tuyệt đỉnh của chính Người.
Từ đây họ sống niềm vui của tương lai đời họ, tương lai dân tộc họ là niềm vui trong Chúa. Và niềm vui của Chúa là niềm vui của họ, là "thành trì bảo vệ họ".
2. Xác tín niềm vui trong Chúa của chúng ta.
Sống những ngày mùa Vọng, Như người Cựu Ước vừa thoát ách lưu đày, chúng ta hãy tận hưởng niềm vui của Chúa bằng cách sống niềm vui trong Chúa.
Sống niềm vui trong Chúa là biết cậy dựa vào Chúa, tín thác đời mình trong tay Chúa, biết để Chúa an bài trong sự khôn ngoan quan phòng của Người.
Hãy xác tín mạnh mẽ như niềm xác tín của dân Chúa xưa, đó là: chỉ có niềm vui của Chúa mà chúng ta tận hưởng mới thực là "thành trì bảo vệ” chúng ta mà thôi.
Vui trong Chúa mới thực là vui, mới chính là niềm vui. Vui trong Chúa mới là niềm vui trọn vẹn. Vui trong Chúa chính là điểm nhấn, là đích đến của niềm vui. Vui trong Chúa là niềm vui bền đổ, mang đến cho người sở hữu nó sức sống vĩnh cửu.
Vui trong Chúa là niềm vui mang lấy sự hãnh diện của đức tin. Tin rằng, Thiên Chúa là gia nghiệp, là lẽ sống, là tình yêu, là nguồn đón nhận bền bỉ không chê chối ai, không bao giờ mai một, không bao giờ suy giảm.
Vui trong Chúa là tin tưởng tuyệt đối, một khi có Chúa, thì không còn gì đáng sợ. Bởi "án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại; thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa" (Sph 3, 15).
Vui trong Chúa còn là niềm ý thức rằng, trong mọi khó khăn, ta luôn có thể hướng về Chúa, Người không bao giờ từ chối những lời khẩn cầu của ta.
Vui trong Chúa là niềm vui có sức nuôi dưỡng trong ta tràn đầy hy vọng và can đảm, ngay cả khi đối diện khó khăn và đau khổ.
Vui trong Chúa còn là niềm vui xác tín: Không có bất cứ hoàn cảnh nào có thể cướp mất niềm bình an nội tâm mà Thiên Chúa trao ban cho bất cứ ai tin tưởng và yêu mến Người.
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:46 04/12/2019
Chương 21
KIÊN NHẪN
“Cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân.”
(Rm 12, 12)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")
-------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
KIÊN NHẪN
“Cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân.”
(Rm 12, 12)
1. Trong sự bình an của chúng ta có sự kiên nhẫn lớn nhất. (Thánh John Berchmans)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(trích dịch từ tiếng Hoa trong"Cách ngôn thần học tu đức")
-------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:50 04/12/2019
79. NHỤC CHƯỚNG NHỤC CHƯỚNG
Dương Quốc Trung là sủng thần thời Đường Huyền Tôn, hể khi mời khách uống rượu thì chú trọng xa xỉ cách kỳ lạ, lúc nào cũng ra lệnh cho thị nữ vợ lẽ bê một loại thức ăn để cung ứng cho khách dùng có tên là “nhục đài bàn”.
Mùa đông, ra lệnh cho thị nữ vây quanh để phòng chống lạnh, gọi là “nhục bình phong”. Lại tuyển trong các vợ lẽ người béo mập cao to đứng phía trước cản gió lạnh gọi là “nhục chướng, nhục chướng”.
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 79:
Xa xỉ đến như Dương Quốc Trung thì có gì là lạ, thời nay có những ông được bao che hơn cả sủng thần còn xa xỉ gấp trăm ngàn lần: họ dùng tiền của công ty ăn uống một đêm vài ngàn đô la Mỹ, họ không đem vợ bé của họ để hầu hạ khách nhưng để cho các cô tiếp viên nhà hàng săn sóc, họ không ăn uống nhiều nhưng thích nhục dục, họ không sợ lạnh nhưng thích “nhục bì”, họ không sợ nóng nhưng thích “nhục thể”…
“Nhục chướng” là lấy thịt làm vật để ngăn, nhưng ma quỷ thì thích dùng “nhục” để cám dỗ chúng ta vào vòng tội lỗi, cho nên người ta có thể chiến thắng tiền bạc, chiến thắng khó khăn, chiến thắng nóng lạnh, nhưng rất ít khi chiến thắng “nhục dục”.
Xa xỉ là chơi trội quá trán, chơi trội quá trán là vì đó không phải là tiền của mình, nên dễ dàng phạm tội.
Người Ki-tô hữu thì luôn đề cao cảnh giác với những cám dỗ kiểu xa xỉ này, bởi vì chính nó đã khiến cho nhiều bậc tu hành sa ngã, thì cũng sẽ làm cho họ điêu đứng chết không xong mà sống cũng không ổn…
“Nhục” nguy hiểm thật, nên cần phải cầu nguyện và hy sinh luôn..
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Dương Quốc Trung là sủng thần thời Đường Huyền Tôn, hể khi mời khách uống rượu thì chú trọng xa xỉ cách kỳ lạ, lúc nào cũng ra lệnh cho thị nữ vợ lẽ bê một loại thức ăn để cung ứng cho khách dùng có tên là “nhục đài bàn”.
Mùa đông, ra lệnh cho thị nữ vây quanh để phòng chống lạnh, gọi là “nhục bình phong”. Lại tuyển trong các vợ lẽ người béo mập cao to đứng phía trước cản gió lạnh gọi là “nhục chướng, nhục chướng”.
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 79:
Xa xỉ đến như Dương Quốc Trung thì có gì là lạ, thời nay có những ông được bao che hơn cả sủng thần còn xa xỉ gấp trăm ngàn lần: họ dùng tiền của công ty ăn uống một đêm vài ngàn đô la Mỹ, họ không đem vợ bé của họ để hầu hạ khách nhưng để cho các cô tiếp viên nhà hàng săn sóc, họ không ăn uống nhiều nhưng thích nhục dục, họ không sợ lạnh nhưng thích “nhục bì”, họ không sợ nóng nhưng thích “nhục thể”…
“Nhục chướng” là lấy thịt làm vật để ngăn, nhưng ma quỷ thì thích dùng “nhục” để cám dỗ chúng ta vào vòng tội lỗi, cho nên người ta có thể chiến thắng tiền bạc, chiến thắng khó khăn, chiến thắng nóng lạnh, nhưng rất ít khi chiến thắng “nhục dục”.
Xa xỉ là chơi trội quá trán, chơi trội quá trán là vì đó không phải là tiền của mình, nên dễ dàng phạm tội.
Người Ki-tô hữu thì luôn đề cao cảnh giác với những cám dỗ kiểu xa xỉ này, bởi vì chính nó đã khiến cho nhiều bậc tu hành sa ngã, thì cũng sẽ làm cho họ điêu đứng chết không xong mà sống cũng không ổn…
“Nhục” nguy hiểm thật, nên cần phải cầu nguyện và hy sinh luôn..
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Diễn tiến rất buồn: Lễ tuyên Chân Phước cho ĐTGM Fulton Sheen bất ngờ bị đình lại
Đặng Tự Do
08:31 04/12/2019
Buổi lễ tuyên Chân Phước cho vị Tôi tớ Chúa là Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen đã bị hoãn lại sau khi một số Giám Mục Hoa Kỳ yêu cầu Tòa Thánh trì hoãn buổi lễ này để có thêm thời gian kiểm tra. Ngày 3 tháng 12, giáo phận Peoria đã công bố quyết định đình hoãn này.
Theo dự trù trước đây, lễ tuyên Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Sheen sẽ diễn ra vào ngày 21 tháng 12. Bao nhiêu công việc chuẩn bị giờ đây bị hủy bỏ.
Đức Cha Daniel Jenky, Giám Mục Peoria cho biết:
“Thật vô cùng đáng tiếc là tôi đã được Tòa thánh thông báo rằng việc phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen phải bị hoãn lại”.
Ban đầu, vào ngày 18 tháng 11, giáo phận nhận được tin từ Vatican, cho biết Đức Thánh Cha Phanxicô đã chuẩn y án tuyên Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Sheen và buổi lễ tuyên Chân Phước sẽ diễn ra vào tháng sau. Nhưng vào ngày 2 tháng 12, “Tòa thánh đã quyết định hoãn ngày tuyên Chân Phước, theo yêu cầu của một vài thành viên trong Hội đồng Giám mục yêu cầu xem xét thêm.”
Đức Giám Mục Jenky cho biết ngài vô cùng đau buồn trước quyết định này. Đặc biệt, Đức cha Jenky tỏ ra rất âu lo cho các tín hữu, những người rất yêu mến Đức Tổng Giám Mục Sheen, có thể ngã lòng trước tin tức này.
Việc một vị đã được Đức Thánh Cha chuẩn y án tuyên Chân Phước hay tuyên Thánh mà giờ chót bị trì hoãn có lẽ chưa từng xảy ra trong lịch sử Giáo Hội.
Đức Cha Jenky cho biết ngài vững tin vào “sự thánh thiện rạng ngời” của Đức Tổng Giám Mục Sheen và “tin tưởng rằng cuối cùng Đức Tổng Giám Mục Sheen sẽ được tuyên Chân Phước.”
Đức Cha Jenky khẳng định niềm tin của mình rằng án tuyên Chân Phước và tuyên Thánh cho Đức Tổng Giám Mục Sheen sẽ được tiếp tục và thông cáo báo chí của giáo phận tuyên bố rằng “Đã có nhiều phép lạ” được báo cáo nhờ sự can thiệp của Đức Tổng Giám Mục Sheen, trong đó có một phép lạ chỉ mới diễn ra cách đây ba tuần trước.
Giáo phận Peoria không nêu lý do cụ thể dẫn đến việc đình hoãn này nhưng tuyên bố rõ ràng rằng sự chậm trễ này không phải là kết quả của bất kỳ cáo buộc lạm dụng trẻ vị thành niên.
Theo thông tấn xã Công Giáo CNA, việc đình hoãn này có thể là một sáng tác mới của Robert Hoatson. Vào năm 2007, lúc đó Robert Hoatson còn là một linh mục của Tổng giáo phận Newark. Hoeson tuyên bố đã chứng kiến hoặc nghe nói rằng Đức Tổng Giám Mục Sheen đã không trừng phạt đến nơi đến chốn các linh mục phạm vào tội lỗi lạm dụng tính dục. Hoatson cho biết ông đã biết về một số trường hợp lạm dụng thông qua chức vụ tư vấn mục vụ của mình.
Các cuộc kiểm tra sau đó cho thấy các cáo buộc của Hoatson chống lại Đức Tổng Giám Mục Sheen hoàn toàn không có cơ sở và đơn thuần chỉ dựa vào lời đồn.
Vào năm 2011, Hoatson đã bị huyền chức, trở thành một người giáo dân bình thường, và hiện đang lãnh đạo một tổ chức có tên Road to Recovery. Theo CNA, có thể Hoatson lại vừa tố cáo rằng Đức Tổng Giám Mục Sheen đã không phạt nặng nhưng chỉ di chuyển một linh mục phạm lỗi từ nơi này sang nơi khác.
Giáo phận nói rằng trong suốt quá trình điều tra án tuyên Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Sheen cuộc sống của ngài đã được kiểm tra kỹ lưỡng, và đã được chứng minh một cách dứt khoát rằng ngài là một mô hình mẫu mực cho các Kitô hữu và là mô hình lãnh đạo trong Giáo hội. Không bao giờ cuộc sống đức hạnh của ngài bị đặt thành vấn đề.
“Giáo phận Peoria không chút nghi ngờ rằng Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, người đã mang rất nhiều linh hồn đến với Chúa Giêsu Kitô trong đời mình, sẽ được công nhận là gương mẫu của sự thánh thiện và các nhân đức.”
Cuối cùng giáo phận bày tỏ niềm tin vững chắc rằng việc kiểm tra thêm cuối cùng càng cho thấy hương thơm thánh thiện của Đức Tổng Giám Mục Sheen càng tỏa ngát hương.
Source:Catholic News AgencyUpdated: Sheen beatification postponement not related to 2007 cover-up allegation, sources say
Theo dự trù trước đây, lễ tuyên Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Sheen sẽ diễn ra vào ngày 21 tháng 12. Bao nhiêu công việc chuẩn bị giờ đây bị hủy bỏ.
Đức Cha Daniel Jenky, Giám Mục Peoria cho biết:
“Thật vô cùng đáng tiếc là tôi đã được Tòa thánh thông báo rằng việc phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen phải bị hoãn lại”.
Ban đầu, vào ngày 18 tháng 11, giáo phận nhận được tin từ Vatican, cho biết Đức Thánh Cha Phanxicô đã chuẩn y án tuyên Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Sheen và buổi lễ tuyên Chân Phước sẽ diễn ra vào tháng sau. Nhưng vào ngày 2 tháng 12, “Tòa thánh đã quyết định hoãn ngày tuyên Chân Phước, theo yêu cầu của một vài thành viên trong Hội đồng Giám mục yêu cầu xem xét thêm.”
Đức Giám Mục Jenky cho biết ngài vô cùng đau buồn trước quyết định này. Đặc biệt, Đức cha Jenky tỏ ra rất âu lo cho các tín hữu, những người rất yêu mến Đức Tổng Giám Mục Sheen, có thể ngã lòng trước tin tức này.
Việc một vị đã được Đức Thánh Cha chuẩn y án tuyên Chân Phước hay tuyên Thánh mà giờ chót bị trì hoãn có lẽ chưa từng xảy ra trong lịch sử Giáo Hội.
Đức Cha Jenky cho biết ngài vững tin vào “sự thánh thiện rạng ngời” của Đức Tổng Giám Mục Sheen và “tin tưởng rằng cuối cùng Đức Tổng Giám Mục Sheen sẽ được tuyên Chân Phước.”
Đức Cha Jenky khẳng định niềm tin của mình rằng án tuyên Chân Phước và tuyên Thánh cho Đức Tổng Giám Mục Sheen sẽ được tiếp tục và thông cáo báo chí của giáo phận tuyên bố rằng “Đã có nhiều phép lạ” được báo cáo nhờ sự can thiệp của Đức Tổng Giám Mục Sheen, trong đó có một phép lạ chỉ mới diễn ra cách đây ba tuần trước.
Giáo phận Peoria không nêu lý do cụ thể dẫn đến việc đình hoãn này nhưng tuyên bố rõ ràng rằng sự chậm trễ này không phải là kết quả của bất kỳ cáo buộc lạm dụng trẻ vị thành niên.
Theo thông tấn xã Công Giáo CNA, việc đình hoãn này có thể là một sáng tác mới của Robert Hoatson. Vào năm 2007, lúc đó Robert Hoatson còn là một linh mục của Tổng giáo phận Newark. Hoeson tuyên bố đã chứng kiến hoặc nghe nói rằng Đức Tổng Giám Mục Sheen đã không trừng phạt đến nơi đến chốn các linh mục phạm vào tội lỗi lạm dụng tính dục. Hoatson cho biết ông đã biết về một số trường hợp lạm dụng thông qua chức vụ tư vấn mục vụ của mình.
Các cuộc kiểm tra sau đó cho thấy các cáo buộc của Hoatson chống lại Đức Tổng Giám Mục Sheen hoàn toàn không có cơ sở và đơn thuần chỉ dựa vào lời đồn.
Vào năm 2011, Hoatson đã bị huyền chức, trở thành một người giáo dân bình thường, và hiện đang lãnh đạo một tổ chức có tên Road to Recovery. Theo CNA, có thể Hoatson lại vừa tố cáo rằng Đức Tổng Giám Mục Sheen đã không phạt nặng nhưng chỉ di chuyển một linh mục phạm lỗi từ nơi này sang nơi khác.
Giáo phận nói rằng trong suốt quá trình điều tra án tuyên Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Sheen cuộc sống của ngài đã được kiểm tra kỹ lưỡng, và đã được chứng minh một cách dứt khoát rằng ngài là một mô hình mẫu mực cho các Kitô hữu và là mô hình lãnh đạo trong Giáo hội. Không bao giờ cuộc sống đức hạnh của ngài bị đặt thành vấn đề.
“Giáo phận Peoria không chút nghi ngờ rằng Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, người đã mang rất nhiều linh hồn đến với Chúa Giêsu Kitô trong đời mình, sẽ được công nhận là gương mẫu của sự thánh thiện và các nhân đức.”
Cuối cùng giáo phận bày tỏ niềm tin vững chắc rằng việc kiểm tra thêm cuối cùng càng cho thấy hương thơm thánh thiện của Đức Tổng Giám Mục Sheen càng tỏa ngát hương.
Source:Catholic News Agency
Cựu Chủ Tịch Hạ viện Mỹ, John Boehner: Ngày hạnh phúc nhất là ngày Đức Giáo Hoàng ở Đồi Capitol
Vũ Văn An
17:23 04/12/2019
Linh mục Matt Malone, chủ bút tập san America (https://www.americamagazine.org/america-profile-speaker-john-boehner-pope-francis-congress) của các cha Dòng Tên Hoa Kỳ vừa có cuộc gặp gỡ với Ông John Boehner, cựu Chủ Tịch Hạ Viện Mỹ, người đã sắp xếp buổi nói chuyện lịch sử của Đức Phanxicô trước lưỡng viện Hiệp Chúng Quốc và đã đích thân giới thiệu ngài với Lưỡng Viện năm 2015.
Cha nhắc lại ngày lịch sử ấy như sau:
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đứng ở lối vào giữa Hạ Viện Hoa Kỳ, chờ đợi giây phút của ngài. Ngài sắp sửa trở thành vị Giám Mục Thành Rome đầu tiên đọc diễn văn trước phiên họp chung của Quốc Hội Hoa Kỳ, và trông ngài hơi lo lắng một chút, có lẽ do viễn ảnh phải nói tiếng Anh thay vì nói tiếng mẹ đẻ Tây Ban Nha của ngài.
Ở cuối đàng kia của cánh giữa, trên chiếc bục nơi ông thường chủ tọa đã hơn 4 năm sóng gió nay, là Ông John Boehner, Chủ tịch thứ 53 của Hạ Viện. Ông có thể nhìn thấy Đức Giáo Hoàng ở lối vào, đứng dưới bức tranh nổi Môsê, một nhắc nhở cho thấy đây không phải lần đầu tiên một tiên tri đã ngỏ lời với một quốc gia đầy lo âu xao xuyến. Gần 25 năm qua, gần như từ ngày đến đây như dân biểu mới ra lò đại diện cho Quận Quốc Hội Thứ Tám của Ohio, Ông Boehner đã cố gắng giàn xếp một cuộc nói chuyện của một vị Giáo Hoàng. Nay, qua một dải rộng của căn phòng chật cứng, chính với Ông John Boehner mà vị cảnh vệ của Quốc Hội lên tiếng thưa: “Thưa Ông Chủ Tịch! Đức Giáo Hoàng của Tòa Thánh!”
Ông Boehner cắn môi dưới. Ông ráng không khóc. Sau khi Đức Phanxicô lên tới bục cao giữa tiếng hoan hô vang dội, Chủ tịch Quốc Hội chính thức giới thiệu Đức Giáo Hoàng. Giọng nói của ông ngập ngừng một lúc, rồi, lại một cái cắn môi. Rõ ràng ông không còn nhịn được lâu hơn nữa. Thực vậy, chỉ một khoảnh khắc sau đó, khi Đức Giáo Hoàng nói rằng ngài biết ơn vì được “ngỏ lời với phiên họp chung của Quốc Hội trên ‘lãnh thổ của những con người tự do và là nhà của những con người can đảm’, thì xúc cảm của Ông Boehner vỡ toang, khiến cử tọa của cả nước đều nhận thấy.
John Boehner vốn có tiếng từ lâu là người đàn ông dễ xúc động, không thể giấu xúc cảm trong những giời phút như thế này. Nhưng các quan sát viên lâu năm nghĩ rằng ngày ấy Ông có khác, thậm chí cường độ cao hơn nhiều. Robert Costa, phóng viên của tờ Washington Post, quan sát Ông Boehner sát nút suốt trong chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng. Một ngày sau bài nói chuyện, ông Costa viết: “Đây là một người đàn ông đang hết sức thoải mái sau nhiều tháng sóng gío trong hàng ngũ của ông, một người đàn ông nói rằng ông ta cảm thấy có phước. Nhưng chúng tôi nhận thấy có điều gì đó đã thay đổi”.
Non 24 giờ sau khi Đức Giáo Hoàng rời khỏi Đồi Capitol, vào ngày 15 tháng 9 năm 2015, Ông John Boehner làm các Đảng viên Cộng Hòa trong Quốc Hội ngạc nhiên khi công bố rằng ông sẽ không phục vụ hết nhiệm kỳ của mình. Ông sẽ từ chức chủ tịch Hạ Viện và rời khỏi Quốc Hội.
Quả thực một điều gì đó đã thay đổi dứt khoát.
‘Dean Martin’ của chính trị Hoa Kỳ (1)
Linh mục Malone kể về bản thân Ông Boehner:
Một làn khói thuốc lá báo hiệu tôi đang ở gần văn phòng của ông ta. Đó là mùa thu năm 2019 và sau một năm qua lại giữa chúng tôi, John Boehner đã đồng ý cho tôi phỏng vấn. Ông ấy bảo tôi: “Cha kiên trì gớm”. Theo như ông Boehner thấy, một trong những lợi ích của việc về hưu là không còn phải trả lời các câu hỏi của các nhà báo. Ông không hài lòng với tình trạng hiện tại của các phương tiện truyền thông; ông nói rằng, “tất cả đều có ý định lôi và kéo mọi người vào một trong hai phía, khiến ngày càng ít người ở giữa”.
Tuy nhiên, có lẽ ông ta thấy khó khăn hơn khi phải nói không với một nhà báo cũng là một linh mục. Điều đó giúp giải thích lý do tại sao tôi ở đây, vì các tu sĩ Dòng Tên chiếm một vị trí đặc biệt trong trái tim của ông Boehner.
Sau khi xuất ngũ khỏi Hải quân Hoa Kỳ, ông Boehner đăng ký học tại Đại học Xavier do Dòng Tên điều hành ở Cincinnati, năm 1977, trở thành thành viên đầu tiên trong gia đình ông tốt nghiệp đại học. Ông cần tới sáu năm để kiếm được mảnh bằng: vì ông cũng phải làm việc toàn thời gian để trả học phí và chu cấp cho vợ, Debbie và hai cô con gái của họ. Nhân viên đào tạo của đại học Xavier, cũng là một tu sĩ Dòng Tên, đã giúp ông sắp xếp lịch trình để ông có thể làm cả hai việc một lúc. Ông nói, “Các cụ Jebbies [tên lóng chỉ các cha Dòng Tên] luôn ở đó”.
Hiện nay, trong ít ngày mỗi tháng ở Washington, DC, ông Boehner treo mũ tại công ty luật Squire, Patton và Bogss, nhóm vận động hành lang lớn thứ ba ở nước này, nơi ông đại diện cho một loạt các khách hàng doanh nghiệp lớn và phục vụ trong ban giám đốc của công ty thuốc lá Reynold American. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã có một mối liên hệ gần gũi với những hãng thuốc lá lớn (ông từng bị chỉ trích nặng nề vào năm 1995 vì đã chuyển giao tiền quyên góp tranh cử từ những người vận động hành lang thuốc lá cho các thành viên tại phòng Hạ Viện), nhưng ít nhất ông đã dùng số tiền ấy để cải thiện một tình trạng xấu xa, đúng nghĩa. Khi tôi bước vào văn phòng của ông, ông Boehner vừa mới bước vào sau khi đã hút một trong năm điếu thuốc ông thường hút trong hai giờ.
Văn phòng của ông là một căn phòng khiêm tốn ở trong góc chứa đầy những vật kỷ niệm trong sự nghiệp của Quốc hội của ông – các hình ảnh với các vị tổng thống, tấm biển với tên ông vốn treo trên cửa văn phòng của ông trên đồi Capitol, một tấm bảng nhỏ với dòng chữ, “Lạy Chúa, biển của Chúa thật mênh mông, mà thuyền của con thì nhỏ nhoi làm sao!”. Nhưng cung cách xuề xòa, gần như uể oải mà ông dùng để chỉ cho tôi xem những thứ này cho thấy ông gần như thờ ơ với chúng, như thể chúng được trưng bầy ở đây chủ yếu vì lợi ích của những người đến thăm như tôi. Tính xa vắng của Ông Boehner, và tiếng tăm “lạnh lùng” của ông đã khiến các nhà quan sát nói rằng có lẽ ông muốn chạy theo nhóm Rat Pack (2) - một thứ “Dean Martin của nền chính trị Hoa kỳ”, như nhiều đồng nghiệp Cộng hòa đã mô tả ông. Quan sát gần, tôi có thể thấy tại sao: làn da rám nắng không bao giờ phai; mái tóc dường như không bao giờ hoàn toàn hoa râm, ngay cả việc chỉ còn vài tháng nữa là ông đã 70 tuổi rồi; cách ông đi đứng dễ dàng; giọng trầm sâu.
Trên chiếc kệ có một chai Johnny Walker. Một kệ khác, một chai Merlot. Tôi hòi ông “ông có phải là người sành sỏi không?”
Ông nói “không”, rồi đổi đề tài. Không ai đã nói John Boehner lắm lời. Đặt câu hỏi có hoặc không và bạn sẽ nhận được câu trả lời có hoặc không và không có gì khác.
Ông nói, “Đây là bức ảnh duy nhất trên lò sưởi của tôi ở Đồi Capitol”, vừa nói ông vừa nhặt một bức ảnh đóng khung của các nhà chơi golf huyền thoại Arnold Palmer và Jack Nicklaus. Ông Boehner mê trò chơi này và, mặc dù tạp chí Golf đã có lần mô tả cú đánh vung của ông như “khiến người ta phải né tránh” nhưng ông có “handicap” (3) thấp nhất là 4.8. Ông nói với tôi rằng bức ảnh được chụp ở ban công bên ngoài văn phòng ở Hạ Viện của ông. “Tôi đã đến gặp họ và nói, ‘Các ông đang nói về điều gì vậy?’ Và ông sẽ không tin đâu, chúng tôi đang nói về việc chúng ta rất dễ dàng chẩy nước mắt... Tất cả chúng ta đều có cùng một vấn đề. Đơn giản thế đấy".
Tôi hỏi ông ta sau đó rằng liệu ông ta có luôn như vậy không, một người dễ khóc. Ông nói “không. Ở một nơi nào đó trên đường, điều đó đã xảy ra. Có một số điều khó để tôi nói đến: con cái, binh lính, cựu chiến binh, một số trong những khoảnh khắc ấy. Thường có vấn đề. Nhân viên của tôi thường la tôi. Và tôi nói, ‘Nghe đây, chỉ là chuyện thường tình. Tôi sẽ không lo lắng về điều đó”.
Đức tin Công Giáo của ông là một trong những điều ông Boehner ít khi nói tới. Ông không thích trưng bầy cho mọi người thấy. Tôi hỏi ông liệu có một sự sùng kính, một nơi hoặc một vị thánh từng nói chuyện với ông hay không.
Ông trả lời “không. Tôi có hai nơi để đi”, ý muốn nói các nguồn để suy niệm thiêng liêng hàng ngày. “Tôi không nói gì về chuyện này, nhưng hai nơi tôi đến và nhận được sứ điệp trong ngày, sau đó tôi cuốc bộ. Tôi cuốc bộ khoảng một giờ mỗi sáng. Đó là lúc bắt đầu một cuộc hội thoại nghiêm túc”. “Hội thoại” ở đây, ông Boehner dường như muốn nói việc cầu nguyện, mặc dù ông không sử dụng chữ đó. “Đọc những sách sùng kính và suy nghĩ về nó là một chuyện, nhưng khi tôi cuốc bộ, có cả một cuộc trò chuyện kéo dài cả một giờ đồng hồ về bất cứ điều gì. Quả rất tốt đẹp”.
Đức tin của ông là một đức tin đơn giản, mặc dù không giản dị thái quá, phát sinh từ lòng đạo đức và sùng kính ông từng được dạy dỗ trong một thời thiều niên khó kiếm sống thuộc giai cấp lao động, vùng tây nam Ohio. Ông Boehner là một trong 12 đứa con trong một căn nhà hai phòng ngủ, một phòng tắm ở Reading, một ngoại ô của thành phố Cincinnati.
Ông nói, “Cha mẹ tôi là những người kiên nhẫn nhất mà Chúa từng đặt lên Trái đất” vừa nói ông vừa chẩy nước mắt, lần đầu tiên trong nhiều lần của chuyến viếng thăm của tôi. “tôi đã, phần nào, nhận được một liều thuốc kiên nhẫn lành mạnh đó”. Trong bài phát biểu từ giã của ông trước Quốc hội, ông Boehner nói với các đồng nghiệp của mình rằng “kiên nhẫn là điều làm cho mọi sự trở nên có thật”.
Ông cho hay, “Tuy nhiên, [đức tin] mới là nền tảng cho cách sống của cha mẹ tôi, và những gì các ngài dạy chúng tôi. Đơn giản như thế."
Để nhấn mạnh quan điểm của mình, ông Boehner nói với tôi rằng, khi còn là một thiếu niên, ông chơi bóng đá tại trường trung học Moeller, nơi huấn luyện viên huyền thọai của ông là Gerry Faust, người sẽ trở thành huấn luyện viên trưởng cho Đại học Notre Dame. Ông nhắc nhớ, “Chúng tôi đọc nhiều kinh Kính Mừng trước khi, trong khi, sau khi luyện tập bóng đá. Và Chúa ơi, ngày thi đấu, chúng tôi đi lễ. Chúng tôi cầu nguyện trước trận đấu, chúng tôi cầu nguyện trên xe buýt. Tôi có thể đọc một kinh Kính Mừng mỗi ngày suốt phần còn lại của đời tôi và tôi sẽ không bao giờ đọc một nửa kinh Kính Mừng như tôi đã đọc ở trường trung học”.
Vào giữa thập niên 1980, ông Boehner lập một thương nghiệp địa phương khi ông bắt đầu nghĩ rằng cuộc đời ông nên đi theo một nẻo khác. “Tôi bận bịu điều hành thương nghiệp của mình, tôi làm trong lĩnh vực đóng gói và kinh doanh đồ nhựa, và khi làm ăn như thế, tôi có tham gia hiệp hội chủ nhà trong khu phố của mình”, việc tham gia này đã nẩy sinh ý muốn hoạt động chính trị. Rồi, ông nói, “điều này dẫn đến điều kia”. “Điều kia” trước tiên là tranh cử thành công vào Hạ viện Ohio năm 1985. Sau bốn năm trong cơ quan lập pháp, với việc dân biểu đương nhiệm bị sa lầy trong một vụ tai tiếng bản thân, các người ủng hộ và bạn bè của ông Boehner khuyến khích ông nghĩ đến việc tranh cử vào ghế quốc hội.
Nhưng John Boehner không biết chắc. Ông tự vấn “Đây có phải là tôi không hay đây có phải là điều Chúa muốn tôi làm hay không? Vì vậy, tôi đã đi lễ 10 ngày liên tiếp. Dưới kia, bên dưới nhà thờ, trong nhà nguyện, 12 bà già và tôi xuất hiện. Tất cả họ đều nhìn tôi. Tôi xuất hiện vào ngày hôm sau. Tôi đã gây ra cả một cảnh tò mò cho những mệnh phụ này, tất cả những người mà tôi sẽ tìm biết sau này; nhưng sau 10 ngày, tôi như thể, ‘Được rồi, được lắm. Tôi nghĩ rằng đây là điều Người muốn tôi làm’. Và tôi đã làm thế”.
Ông nói “Điều tiếp theo như cha biết đấy, tôi là chủ tịch Hạ viện”.
Tuy nhiên, vài năm sau đó, sự việc không đơn giản như thế. Việc Ông Boehner leo lên chức chủ tịch đã gặp nhiều đình đốn, bao gồm cả việc ông thất bại khi tái tranh cử chức chủ tịch hội nghị của đảng Cộng hòa sau khi đảng này tổn thất trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 1998. Nhưng ông là một người sống còn.
“Ông đã đương đầu được các thách thức này, phục hồi và trở thành chủ tịch Hạ Viện”, đồng nghiệp quốc hội của ông, Mike Oxley, nói thế vào năm 2015. “Quả là một điều phi thường, và có lẽ là lần duy nhất xảy ra trong kiểu diễn biến đó".
Ông Boehner nói rằng ông cũng khá ngạc nhiên. Ông nói sau khi bước vào sinh hoạt công cộng, "35 năm không phải như thể ‘đây không phải là điều tôi sẽ làm với cuộc sống của tôi’. Nhưng tôi được tạo ra để làm những gì tôi đang làm với cuộc sống của mình, và bạn không nhận ra điều đó, đôi khi Thiên Chúa có những ý nghĩ khác”.
Tôi hỏi ông, “Ông có cảm thấy như ông đang được dẫn dắt hay không?”
Ông nói không do dự “Ồ, chắc chắn như thế. Không còn nghi ngờ chi nữa. Đến lúc trở thành chủ tịch Hạ Viện, tôi không bao giờ nghi ngờ việc Thiên Chúa quyết định tôi sẽ trở thành chủ tịch Hạ Viện. Không nghi ngờ gì nữa. Tôi hoàn toàn xác tín điều đó. Có những ngày tôi đã ngồi một mình trong văn phòng, nhìn chiếc trần nhà hình vòm này, được vẽ nhiều hình ảnh, trang trí muôn mầu. Tôi nhìn lên và thưa, ‘Xin chào? Xin chào? Ngài đã đặt con vào đây. Vậy, thưa Ngài, đâu là các câu giải đáp? Thế là các giải đáp xuất hiện, không hẳn nhanh như tôi muốn”.
Tôi ngạc nhiên một lúc trước sự nghịch lý. Một mặt, ông Boehner là một người khá miễn cưỡng thảo luận về đức tin của mình. Mặt khác, ông ta lại chắc chắn rằng Thiên Chúa muốn ông làm chủ tịch, và ông không bận tâm ai biết điều đó. Nói bởi một người khác, một câu tuyên bố như vậy có thể có vẻ cao ngạo hoặc tự phụ, nhưng ông Boehner dường như đang nói một điều gì đó khác hẳn. Điều tôi nghĩ ông muốn nói là Thiên Chúa phải làm điều đó bởi vì ông không thể tự mình làm được. Ông đơn giản không nghĩ cao ngạo về chính mình.
Tuy nhiên, ngay cả khi ông ta có những nghi ngờ về khả năng tự nhiên của mình, ông Boehner rõ ràng có tham vọng. Những người đàn ông và đàn bà không tham vọng sẽ không trở thành chủ tịch, ngoại trừ do tình cờ. Tuy nhiên, ông nói, khi đã thực hiện được tham vọng trở thành chủ tịch, điều quan trọng, là ông không cho phép công việc thay đổi ông”. Ông cho hay, “làm chủ tịch không bao giờ là vì tôi. Tôi đã nói điều đó ngày đầu tiên làm chủ tịch khi Nancy Pelosi trao cho tôi chiếc búa. Tôi nói về việc phục vụ. Tôi nói về Mùa Chay và nhận tro. ‘Ngươi là bụi đất, và từ bụi đất, và ngươi sẽ trở thành bụi đất’. Đại khái giống như thế. Cha biết những lời đó hơn tôi”.
Rồi, ông bồi thêm cho quan điểm của mình: “Tôi sẽ làm việc ngoài giờ, ngay cả trước khi tôi làm chủ tịch, chỉ để là tôi thôi... Đôi khi nhân viên của tôi nghĩ tôi quá giống tôi, nhưng thành tựu đáng tự hào nhất của tôi là sau 25 năm ở Washington, tôi vẫn là một chàng ngốc đã bước vào đó. Chỉ là một gã bình thường có một công việc lớn”.
Chính sách mở rộng cửa
Ông nói, nền giáo dục của John Boehner cho “công việc lớn” đó bắt đầu trong quán bar của ông bố, ở khu Carthage thành phố Cincinnati, nơi ông bắt đầu làm việc khi mới 8 tuổi. Ông bảo “những anh say rượu cứ ngồi ỳ ở đó suốt đêm và cha không muốn đồng ý với một gã như thế, nhưng cha cũng không muốn dính vào vụ đánh nhau với hắn suốt đêm, vì vậy cha phải tìm cách để bất đồng mà không làm phật ý”. Ông Boehner nói rằng đó là “một trong những bài học vĩ đại nhất từng giúp tôi trong sự nghiệp chính trị của mình”.
Tôi hỏi ông, “Khi ông còn là một đứa trẻ, khu phố của ông có thuộc Dân chủ hay không?”
Câu trả lời của ông làm tôi ngạc nhiên: “tôi không biết. Chúng tôi không biết chính trị. Chúng tôi không bao giờ nói tới chính trị. Chúng tôi là đảng Dân chủ Kennedy, nhưng không bao giờ trò chuyện về điều đó. Tôi không bao giờ nhớ một cuộc trò chuyện chính trị nào”.
"Khi nào ông quyết định không còn là Dân chủ Kennedy nữa?"
Ông trả lời “À, đầu thập niên 70. Tôi nghĩ, ‘Tôi không biết gì về anh chàng Muskie (4) này. Thật không? Tôi không nghĩ như vậy’. Và rồi năm ‘76: ‘À, tôi nghĩ Ford là lựa chọn tốt hơn. Và rồi, vào cuối thập niên 70, tôi biết tôi ủng hộ Ronald Reagan. Vâng, tôi là một đảng viên đảng Cộng hòa. Và điều buồn cười là toàn bộ gia đình tôi đều trở thành người Cộng hòa. Tôi chưa bao giờ có một cuộc trò chuyện với bất cứ ai trong số họ”.
Ông Boehner nói, Ông học được một bài học khác trong quán bar của ông bố. “Cha phải học cách đối phó với mọi gã ngốc đi vào qua cánh cửa. Cha tin tôi đi, khi cha là chủ tịch Hạ viện, tất cả họ đều bước vào qua cánh cửa”. Ông cho biết, trong suốt bốn năm làm chủ tịch, cánh cửa của ông luôn mở rộng cho người Dân chủ, người Cộng hòa, bất cứ ai. Và mọi người đều muốn một điều gì đó. Ông nói “Nếu tôi không thể làm điều đó, tôi đơn giản nói với họ rằng tôi không thể làm điều đó. Còn nếu có cơ hội làm điều đó, tôi sẽ nói với họ rằng có cơ hội để tôi làm điều đó. Tôi đơn giản nói với họ một cách trung thực nhất có thể”.
Ông Boehner đã giành được chiếc ghế chủ tịch với việc Đảng Cộng Hòa tiếp quản Hạ viện vào năm 2010, sau những lần làm lãnh tụ thiểu số và đa số tại Hạ viện. Ông là sự lựa chọn nhất trí của đảng Cộng hòa, nhưng thiện chí nhất thời đó đã không chứng minh được một điềm báo trước nào về nhiệm kỳ của ông. Nhiệm kỳ này diễn ra trong những năm giữa đầy hỗn loạn của thời Barack Obama làm tổng thống. Viêc bầu ông ta năm 2008 đã huy động nhiều lực lượng phản ứng dữ dội chưa bao giờ thấy. Sự trỗi dậy của phe cực hữu - Đảng Trà, đảng Tự do, lực lượng Fox News đi đến đâu đánh đến đó, đã bất ngờ tấn công giới lãnh đạo, trong đó có John Boehner. Các chính trị gia từng bị coi là bảo thủ xét theo hầu hết mọi tiêu chuẩn đột nhiên không còn bảo thủ đủ đối với làn sóng mới của các nhà hoạt động Cộng hòa, ngày càng chủ trương cô lập về các vấn đề đối ngoại và dân túy trong nước. Mặc dù việc thăng tiến của ông được tạo điều kiện thuận lợi một phần nhờ cuộc cách mạng của Gingrich năm 1994, nhưng xét theo nhiều cách, ông Boehner là một chính trị gia của thời Tiền Đảng Trà trong một thế giới Hậu Đảng Trà. Kết quả là, Chủ Tịch Boehner bị phe cực hữu cũng như phe tả làm cho điêu đứng.
Tuy nhiên, ông nói dù “lúc đó [trong thời tôi]bị phân cực”, nhưng ngày nay mọi điều còn tồi tệ hơn.
Ông trưng dẫn, “Tôi nghĩ tại các phương tiện truyền thông, nói chuyện trên đài phát thanh, truyền hình cáp, LinkedIn, YouTube, Twitter, internet, người ta chỉ cần qua đêm đã khởi sự được các tổ chức, loan truyền tin tức”. Ông thấy có việc mất dần cơ sở chung trong thời gian ông làm chủ tịch, và tôi có cảm giác Ông ấy cảm thấy bất lực trong việc ngăn chặn nó. Ông nói, “Đến nỗi khi đến gặp Tổng thống Obama, tôi phải lẻn vào Nhà Trắng, bởi vì nếu tôi đi vào ở chỗ báo chí luôn thấy tôi, báo chí cánh cữu sẽ nổi điên và báo chí cánh tả sẽ phát điên lên đối với Tổng thống Obama".
Dù ông Boehner thừa nhận rằng ông đã thất bại trong việc “trao đổi lớn” với Tổng thống Obama - thỏa thuận lớn, lưỡng đảng để giảm nợ quốc gia - ông vẫn nói ông không hối tiếc. “có một vài điều tôi ước chúng ta có thể làm nhưng không làm được, nhưng không, không một [hối tiếc] nào”. Ông nói, đó là vì, ông đã làm những gì ông nghĩ là đúng. Ông nói ông thường nói với các đồng nghiệp của ông, “nghe này, đây là những gì bố mẹ tôi đã dạy tôi, đây là những gì tôi đã dạy những đứa con của tôi và tôi sẽ dạy các ông. Nếu mỗi ngày họ đều làm những điều đúng, vì những lý do đúng, những điều đúng sẽ xảy ra... Dường như điều đó chưa bao giờ khó đối với tôi”.
Ông Boehner đổ lỗi cho giới truyền thông nhiều sự phân cực và tình trạng đáng tiếc của chính trị Mỹ, nhưng ông cũng gợi ý về những nguyên nhân khả hữu khác. Ví dụ, ông nhấn mạnh rằng ông là một người luôn lạc quan và ông được sinh ra với một nửa ly nước đầy. Tôi nghĩ ông tin điều đó, mặc dù tôi không tin rằng đó là sự thật: Ông có vẻ mơ tưởng (wishful) hơn, không phải cùng một điều. Khi tôi hỏi ông Boehner, cần phải làm gì để chỉnh đốn nền chính trị của đất nước, ông nói, “hoặc bàn tay Thiên Chúa hoặc một biến cố kinh hoàng nào đó” nghe có vẻ khá bi quan yếm thế.
Ông Boehner nói, phải có một lúc, đủ lớn “khiến người Mỹ phải nhìn lên và nói, ‘Ồ, vâng. Tôi có thể là người cấp tiến hoặc bảo thủ, Dân chủ hoặc Cộng hòa, nhưng trước tiên, tôi là một người Mỹ’, điều mà họ đã quên khuấy”.
Tôi hỏi liệu ông có vào chính trị hay không nếu ngày nay ông là một chàng trai trẻ. Ông đáp lại bằng một tiếng cười phá: “Không! Hãy bắn tôi đi, bắn tôi đi!” Tuy nhiên, ông cẩn thận nói thêm rằng “95% những người tôi phục vụ ở cả hai bên phòng Hạ viện đều là những người tốt lành, trung thực, những người đàng hoàng cố gắng làm những gì họ nghĩ là tốt nhất cho các cử tri của họ và cho đất nước. Chúng tôi có chung các bất đồng, nhưng thời đó chúng tôi hòa thuận hơn rất nhiều”.
Khi ông Boehner nói về các mối liên hệ của ông với một số đồng nghiệp cũ, có vẻ như ông đang mô tả cuộc sống từ rất lâu về trước, trong một thiên hà xa, rất xa, hơn là những điều như chúng đang được thực hiện ở Washington một vài năm trước đây. Chẳng hạn, tôi hỏi ông về những người đã truyền cảm hứng cho ông trong đời sống công cộng. Ông nói đến con sư tử cấp tiến quá cố của Massachusetts, “Ted Kennedy. Ted Kennedy và tôi, họ thường gọi chúng tôi là những chiếc chắn sách (bookends) chính trị. Vì trong khoảng năm năm, tôi là chủ tịch Ủy ban Giáo dục và Lực lượng Lao động Hạ viện, còn ông ta là người đứng đầu một ủy ban tương tự về phía Thượng viện. Chúng tôi đã làm tất cả những điều ấy với nhau, mọi luật lệ ấy với nhau. Chúng tôi chưa bao giờ được nghe như thế vì ông ta quen ra ngoài và gây ồn ào [vận động chống lại đảng Cộng hòa], nhưng ông là một nhà lập pháp nghiêm túc, người muốn hoàn thành công việc. Chúng tôi luôn hoàn thành công việc. Tôi học được rất nhiều bài học chính trị từ Teddy".
“Ông ta có phải là một người bạn?”
Ông thưa “Ồ, đúng. Người bạn thân. Vâng".
Washington nơi John Boehner, một người ủng hộ sự sống, ủng hộ thuốc lá, bảo thủ tài chính, có thể là bạn bè và là đối tác hữu dụng với một người vốn là biểu tượng của mọi điều đối nghịch dường như đã qua đi từ lâu rồi. Hay là chưa? Ông Boehner nói, nhiều điều vẫn được thực hiện ở Washington, nhưng khi người ta làm việc với cả cánh bên kia, các phương tiện truyền thông không tường thuật điều đó,. Ông nhắc đến Joe Biden, người, trong tư cách phó Tổng thống, ngồi cạnh ông Boehner khi Đức Giáo Hoàng phát biểu trước Quốc hội. Ông nói mỗi lúc một mơ tưởng hơn “Joe và tôi có thể làm bất cứ điều gì về bất cứ đề tài nào. Ông ta là một người dân chủ ôn hòa. Tôi là một người Cộng hòa bảo thủ, nhưng tôi không điên. Ông ta và tôi biết nhau, thích nhau, chúng tôi giải quyết đủ thứ công chuyện. Thành thật mà nói, không có điều gì chúng tôi không thể giải quyết”.
Tôi hỏi ông , “Vậy, điều gì ngăn chặn việc giải quyết các vụ lớn lao?”
Ông nói “À, mọi người khác. Cha phải nhớ, một nhà lãnh đạo không có người theo chỉ đơn giản là một người cuốc bộ”.
Dựa vào những điều ông vừa nói, tôi hỏi ông Boehner rằng ông sẽ bỏ phiếu như thế nào nếu năm 2020 trở thành sự lựa chọn giữa Joe Biden và Donald Trump. Ông lảng tránh, rồi nói thêm, với một ánh mắt khó chịu, “và cũng không phải là một câu hỏi công bằng”.
Trong khi ông Boehner có thể không hối tiếc về sự nghiệp chính trị của mình, ông có hối tiếc một điều. Tôi hỏi ông xem ông có cầu nguyện khá nhiều khi làm chủ tịch. Ông trả lời “Mỗi ngày, suốt ngày”. Rồi, ông dừng lại và nói thêm, không cần tôi gợi ý, rằng “một trong những điều tôi hối tiếc là tôi đã hiểu được sự cần thiết phải có mối liên hệ bản thân này với Chúa chúng ta sớm hơn. Ở đâu đó trên đường đi, trong hơn 30 năm qua, có lẽ 35 năm, tôi bắt đầu hiểu tầm quan trọng của mối liên hệ bản thân này, nơi Chúa là Vua của tôi, và là đồng chí của tôi, đồng nghiệp của tôi, bạn đồng hành của tôi”.
Một mình với Đức Phanxicô
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang đứng trên ban công của Quốc hội Hoa Kỳ, không xa nơi ông Boehner đã nói chuyện với ông Nicklaus và ông Palmer. Đức Giáo Hoàng vừa kết thúc bài diễn văn của ngài trước Quốc hội và bây giờ ngài đang chào đón đám đông 75.000 người tụ tập ở bên ngoài. Ông Boehner nói, “Họ đang hoan hô và tiếp tục làm vậy. Tôi không biết kế hoạch ra sao, vì vậy tôi cúi xuống và thưa, ‘Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha có thể nói một vài điều’”.
Đức Giáo Hoàng trả lời, “À, có, có”.
Đến lúc Đức Giáo Hoàng nói “Thiên Chúa chúc lành cho nước Mỹ”, ông Boehner đã bật khóc.
Tôi hỏi ông, “Tại sao đối với ông, việc Đức Giáo Hoàng nói chuyện với Quốc hội lại quan trọng đến thế? Tại sao ông đã kiên trì 20 năm trong việc cố gắng làm điều đó xẩy ra?"
Ông nói “Tôi không biết. Trường tiểu học Công Giáo, trường trung học Công Giáo, trường đại học Công Giáo. Tôi khá Công Giáo. Đức Giáo Hoàng luôn đóng một vai trò lớn lao”.
Đặc biệt, vị Giáo hoàng này đóng một vai trò lớn trong chương cuối cùng của sự nghiệp chính trị của ông Boehner. Đến mùa thu năm 2015, ông biết rằng ông sẽ không tái tranh cử. Thời thế đã thay đổi. Các đảng viên Cộng hòa ở Quốc Hội đã dần dần di chuyển nhiều hơn về cánh hữu trong nhiệm kỳ của ông. Việc nắm giữ chức chủ tịch của ông khá mỏng manh và ông Boehner biết rõ điều đó. Nhưng bất cứ thông báo nào về việc nghỉ hưu của ông vẫn còn vài tháng nữa, hoặc gần như thế, theo ông nghĩ.
Ông nói “Tôi đã gặp [Đức Giáo Hoàng] ở tầng một và ở đó, buổi lễ từ biệt đang diễn ra. Và tôi nhìn lên; chỉ có Đức Giáo hoàng và tôi. Không có một linh hồn nào khác, và Đức Giáo Hoàng giơ bàn tay trái của ngài và ngài nắm lấy cánh tay trái của tôi và kéo tôi đến bên cạnh ngài và bắt đầu nói điều tốt đẹp nhất mà chưa có ai từng nói với tôi. Ngài vẫn giữ chặt lấy tôi, cho tôi cái ôm khổng lồ bằng cánh tay phải và nói, ‘ông chủ tịch, ông có cầu nguyện cho tôi không’?
“Ai, con ấy hả?”
Đức Giáo Hoàng nói “đúng, đúng”.
Ông Boehner nói, trong 25 năm làm việc với tư cách thành viên của Quốc hội, “tôi đã không bao giờ thấy Đồi Capitol hạnh phúc hơn ngày hôm đó... Mọi thành viên đều ở đó. Có rất nhiều thành viên Công Giáo, nhưng các thành viên của đạo Tin lành, đạo Do Thái, đạo Hồi, tất cả đều hạnh phúc”.
Liệu Mỹ có thể lấy lại cảm thức hợp nhất vốn nổi bật ngày hôm đó hay không? Đóng vai trò người lạc quan, ông Boehner nói chúng ta có thể. “Người Mỹ, chúng ta vốn là những người mềm dẻo nhất mà Thiên Chúa từng đặt lên trên Trái đất. Chúng ta phạm sai lầm, nhưng chúng ta dường như tìm được đường thoát ra. Và đến một lúc nào đó, người dân Mỹ sẽ nói, 'Đủ rồi, tôi đã chán ngấy thứ ồn ào này. Tôi đã chán cảnh Washington là Washington. Tôi sẽ bỏ phiếu cho người khác”.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta có thể lấy lại được một phần tinh thần của ngày hôm đó, John Boehner đã nhận ra một điều khác khi nhìn Đức Giáo Hoàng rời khỏi Đồi Capitol: Sẽ không bao giờ có một ngày bằng ngày hôm đó. Vì vậy, khi ông Boehner về nhà tối hôm đó, ông đã nói với vợ mình, bà Debbie: “anh có thể đưa ra thông báo vào ngày mai".
Bà hỏi, “Thông báo cái gì chứ?”
“Thông báo anh sẽ rời khỏi nơi đây”.
Nhưng còn một người khác mà ông phải hỏi ý kiến, một điều khác mà ông Boehner phải làm trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Ông cần có một trong những “cuộc trò chuyện” đó.
Sáng sớm hôm sau, sau khi nhận được “thông điệp trong ngày”, ông cuốc bộ rất lâu. “Tôi cuốc bộ đến tận tiệm Pete’s Diner, nơi tôi từng ăn sáng cả 25 năm nay. Tôi cuốc bộ xuống Phố thứ hai từ tiệm Pete’s Diner và tôi đi ngang qua Nhà thờ Thánh Phêrô, nơi có một hang đá. Trong hang đá, có bức tượng Đức Trinh Nữ Maria.
“Tôi liếc nhìn vào đó và tôi nói, ‘Rồi. Hôm nay là ngày đây'"
Ghi Chú của người chuyển ngữ
(1) Dean Martin vốn được nuôi dậy thành người Công Giáo gốc Ý chân chính, nhưng không bao giờ nói đến đức tin của mình, làm như mình vô tôn giáo.
(2) Rat Pack là một nhóm không chính thức của các nhà trình diễn tụ tập quanh sòng bạc Las Vegas. Khởi đầu là nhóm bạn hữu tụ tập ở Los Angeles tại nhà của Humphrey Bogart và Lauren Bacall
(3) Trong môn chơi golf, "handicap" là một mức đo bằng số tiềm năng của người chơi dùng để xác định khả năng của họ trong việc thi đấu với nhau. Các cầu thủ càng có "handicap" thấp càng được đánh giá cao.
(4) Edmund Sixtus Muskie, 28/3/1914 – 26/3/1996) là một chính trị gia Hoa Kỳ, ngoại trưởng thứ 58 dưới thời Tổng thống Jimmy Carter, Thượng nghị sĩ đại diện Tiểu Bang Maine từ 1959-1980, Thống đốc thứ 64 của Maine từ 1955 tới 1959, và là ứng cử viên Phó Tổng Thống trong cuộc bầu cử na7m 1968.
Cha nhắc lại ngày lịch sử ấy như sau:
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đứng ở lối vào giữa Hạ Viện Hoa Kỳ, chờ đợi giây phút của ngài. Ngài sắp sửa trở thành vị Giám Mục Thành Rome đầu tiên đọc diễn văn trước phiên họp chung của Quốc Hội Hoa Kỳ, và trông ngài hơi lo lắng một chút, có lẽ do viễn ảnh phải nói tiếng Anh thay vì nói tiếng mẹ đẻ Tây Ban Nha của ngài.
Ở cuối đàng kia của cánh giữa, trên chiếc bục nơi ông thường chủ tọa đã hơn 4 năm sóng gió nay, là Ông John Boehner, Chủ tịch thứ 53 của Hạ Viện. Ông có thể nhìn thấy Đức Giáo Hoàng ở lối vào, đứng dưới bức tranh nổi Môsê, một nhắc nhở cho thấy đây không phải lần đầu tiên một tiên tri đã ngỏ lời với một quốc gia đầy lo âu xao xuyến. Gần 25 năm qua, gần như từ ngày đến đây như dân biểu mới ra lò đại diện cho Quận Quốc Hội Thứ Tám của Ohio, Ông Boehner đã cố gắng giàn xếp một cuộc nói chuyện của một vị Giáo Hoàng. Nay, qua một dải rộng của căn phòng chật cứng, chính với Ông John Boehner mà vị cảnh vệ của Quốc Hội lên tiếng thưa: “Thưa Ông Chủ Tịch! Đức Giáo Hoàng của Tòa Thánh!”
Ông Boehner cắn môi dưới. Ông ráng không khóc. Sau khi Đức Phanxicô lên tới bục cao giữa tiếng hoan hô vang dội, Chủ tịch Quốc Hội chính thức giới thiệu Đức Giáo Hoàng. Giọng nói của ông ngập ngừng một lúc, rồi, lại một cái cắn môi. Rõ ràng ông không còn nhịn được lâu hơn nữa. Thực vậy, chỉ một khoảnh khắc sau đó, khi Đức Giáo Hoàng nói rằng ngài biết ơn vì được “ngỏ lời với phiên họp chung của Quốc Hội trên ‘lãnh thổ của những con người tự do và là nhà của những con người can đảm’, thì xúc cảm của Ông Boehner vỡ toang, khiến cử tọa của cả nước đều nhận thấy.
John Boehner vốn có tiếng từ lâu là người đàn ông dễ xúc động, không thể giấu xúc cảm trong những giời phút như thế này. Nhưng các quan sát viên lâu năm nghĩ rằng ngày ấy Ông có khác, thậm chí cường độ cao hơn nhiều. Robert Costa, phóng viên của tờ Washington Post, quan sát Ông Boehner sát nút suốt trong chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng. Một ngày sau bài nói chuyện, ông Costa viết: “Đây là một người đàn ông đang hết sức thoải mái sau nhiều tháng sóng gío trong hàng ngũ của ông, một người đàn ông nói rằng ông ta cảm thấy có phước. Nhưng chúng tôi nhận thấy có điều gì đó đã thay đổi”.
Non 24 giờ sau khi Đức Giáo Hoàng rời khỏi Đồi Capitol, vào ngày 15 tháng 9 năm 2015, Ông John Boehner làm các Đảng viên Cộng Hòa trong Quốc Hội ngạc nhiên khi công bố rằng ông sẽ không phục vụ hết nhiệm kỳ của mình. Ông sẽ từ chức chủ tịch Hạ Viện và rời khỏi Quốc Hội.
Quả thực một điều gì đó đã thay đổi dứt khoát.
‘Dean Martin’ của chính trị Hoa Kỳ (1)
Linh mục Malone kể về bản thân Ông Boehner:
Một làn khói thuốc lá báo hiệu tôi đang ở gần văn phòng của ông ta. Đó là mùa thu năm 2019 và sau một năm qua lại giữa chúng tôi, John Boehner đã đồng ý cho tôi phỏng vấn. Ông ấy bảo tôi: “Cha kiên trì gớm”. Theo như ông Boehner thấy, một trong những lợi ích của việc về hưu là không còn phải trả lời các câu hỏi của các nhà báo. Ông không hài lòng với tình trạng hiện tại của các phương tiện truyền thông; ông nói rằng, “tất cả đều có ý định lôi và kéo mọi người vào một trong hai phía, khiến ngày càng ít người ở giữa”.
Tuy nhiên, có lẽ ông ta thấy khó khăn hơn khi phải nói không với một nhà báo cũng là một linh mục. Điều đó giúp giải thích lý do tại sao tôi ở đây, vì các tu sĩ Dòng Tên chiếm một vị trí đặc biệt trong trái tim của ông Boehner.
Sau khi xuất ngũ khỏi Hải quân Hoa Kỳ, ông Boehner đăng ký học tại Đại học Xavier do Dòng Tên điều hành ở Cincinnati, năm 1977, trở thành thành viên đầu tiên trong gia đình ông tốt nghiệp đại học. Ông cần tới sáu năm để kiếm được mảnh bằng: vì ông cũng phải làm việc toàn thời gian để trả học phí và chu cấp cho vợ, Debbie và hai cô con gái của họ. Nhân viên đào tạo của đại học Xavier, cũng là một tu sĩ Dòng Tên, đã giúp ông sắp xếp lịch trình để ông có thể làm cả hai việc một lúc. Ông nói, “Các cụ Jebbies [tên lóng chỉ các cha Dòng Tên] luôn ở đó”.
Hiện nay, trong ít ngày mỗi tháng ở Washington, DC, ông Boehner treo mũ tại công ty luật Squire, Patton và Bogss, nhóm vận động hành lang lớn thứ ba ở nước này, nơi ông đại diện cho một loạt các khách hàng doanh nghiệp lớn và phục vụ trong ban giám đốc của công ty thuốc lá Reynold American. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã có một mối liên hệ gần gũi với những hãng thuốc lá lớn (ông từng bị chỉ trích nặng nề vào năm 1995 vì đã chuyển giao tiền quyên góp tranh cử từ những người vận động hành lang thuốc lá cho các thành viên tại phòng Hạ Viện), nhưng ít nhất ông đã dùng số tiền ấy để cải thiện một tình trạng xấu xa, đúng nghĩa. Khi tôi bước vào văn phòng của ông, ông Boehner vừa mới bước vào sau khi đã hút một trong năm điếu thuốc ông thường hút trong hai giờ.
Văn phòng của ông là một căn phòng khiêm tốn ở trong góc chứa đầy những vật kỷ niệm trong sự nghiệp của Quốc hội của ông – các hình ảnh với các vị tổng thống, tấm biển với tên ông vốn treo trên cửa văn phòng của ông trên đồi Capitol, một tấm bảng nhỏ với dòng chữ, “Lạy Chúa, biển của Chúa thật mênh mông, mà thuyền của con thì nhỏ nhoi làm sao!”. Nhưng cung cách xuề xòa, gần như uể oải mà ông dùng để chỉ cho tôi xem những thứ này cho thấy ông gần như thờ ơ với chúng, như thể chúng được trưng bầy ở đây chủ yếu vì lợi ích của những người đến thăm như tôi. Tính xa vắng của Ông Boehner, và tiếng tăm “lạnh lùng” của ông đã khiến các nhà quan sát nói rằng có lẽ ông muốn chạy theo nhóm Rat Pack (2) - một thứ “Dean Martin của nền chính trị Hoa kỳ”, như nhiều đồng nghiệp Cộng hòa đã mô tả ông. Quan sát gần, tôi có thể thấy tại sao: làn da rám nắng không bao giờ phai; mái tóc dường như không bao giờ hoàn toàn hoa râm, ngay cả việc chỉ còn vài tháng nữa là ông đã 70 tuổi rồi; cách ông đi đứng dễ dàng; giọng trầm sâu.
Trên chiếc kệ có một chai Johnny Walker. Một kệ khác, một chai Merlot. Tôi hòi ông “ông có phải là người sành sỏi không?”
Ông nói “không”, rồi đổi đề tài. Không ai đã nói John Boehner lắm lời. Đặt câu hỏi có hoặc không và bạn sẽ nhận được câu trả lời có hoặc không và không có gì khác.
Ông nói, “Đây là bức ảnh duy nhất trên lò sưởi của tôi ở Đồi Capitol”, vừa nói ông vừa nhặt một bức ảnh đóng khung của các nhà chơi golf huyền thoại Arnold Palmer và Jack Nicklaus. Ông Boehner mê trò chơi này và, mặc dù tạp chí Golf đã có lần mô tả cú đánh vung của ông như “khiến người ta phải né tránh” nhưng ông có “handicap” (3) thấp nhất là 4.8. Ông nói với tôi rằng bức ảnh được chụp ở ban công bên ngoài văn phòng ở Hạ Viện của ông. “Tôi đã đến gặp họ và nói, ‘Các ông đang nói về điều gì vậy?’ Và ông sẽ không tin đâu, chúng tôi đang nói về việc chúng ta rất dễ dàng chẩy nước mắt... Tất cả chúng ta đều có cùng một vấn đề. Đơn giản thế đấy".
Tôi hỏi ông ta sau đó rằng liệu ông ta có luôn như vậy không, một người dễ khóc. Ông nói “không. Ở một nơi nào đó trên đường, điều đó đã xảy ra. Có một số điều khó để tôi nói đến: con cái, binh lính, cựu chiến binh, một số trong những khoảnh khắc ấy. Thường có vấn đề. Nhân viên của tôi thường la tôi. Và tôi nói, ‘Nghe đây, chỉ là chuyện thường tình. Tôi sẽ không lo lắng về điều đó”.
Đức tin Công Giáo của ông là một trong những điều ông Boehner ít khi nói tới. Ông không thích trưng bầy cho mọi người thấy. Tôi hỏi ông liệu có một sự sùng kính, một nơi hoặc một vị thánh từng nói chuyện với ông hay không.
Ông trả lời “không. Tôi có hai nơi để đi”, ý muốn nói các nguồn để suy niệm thiêng liêng hàng ngày. “Tôi không nói gì về chuyện này, nhưng hai nơi tôi đến và nhận được sứ điệp trong ngày, sau đó tôi cuốc bộ. Tôi cuốc bộ khoảng một giờ mỗi sáng. Đó là lúc bắt đầu một cuộc hội thoại nghiêm túc”. “Hội thoại” ở đây, ông Boehner dường như muốn nói việc cầu nguyện, mặc dù ông không sử dụng chữ đó. “Đọc những sách sùng kính và suy nghĩ về nó là một chuyện, nhưng khi tôi cuốc bộ, có cả một cuộc trò chuyện kéo dài cả một giờ đồng hồ về bất cứ điều gì. Quả rất tốt đẹp”.
Đức tin của ông là một đức tin đơn giản, mặc dù không giản dị thái quá, phát sinh từ lòng đạo đức và sùng kính ông từng được dạy dỗ trong một thời thiều niên khó kiếm sống thuộc giai cấp lao động, vùng tây nam Ohio. Ông Boehner là một trong 12 đứa con trong một căn nhà hai phòng ngủ, một phòng tắm ở Reading, một ngoại ô của thành phố Cincinnati.
Ông nói, “Cha mẹ tôi là những người kiên nhẫn nhất mà Chúa từng đặt lên Trái đất” vừa nói ông vừa chẩy nước mắt, lần đầu tiên trong nhiều lần của chuyến viếng thăm của tôi. “tôi đã, phần nào, nhận được một liều thuốc kiên nhẫn lành mạnh đó”. Trong bài phát biểu từ giã của ông trước Quốc hội, ông Boehner nói với các đồng nghiệp của mình rằng “kiên nhẫn là điều làm cho mọi sự trở nên có thật”.
Ông cho hay, “Tuy nhiên, [đức tin] mới là nền tảng cho cách sống của cha mẹ tôi, và những gì các ngài dạy chúng tôi. Đơn giản như thế."
Để nhấn mạnh quan điểm của mình, ông Boehner nói với tôi rằng, khi còn là một thiếu niên, ông chơi bóng đá tại trường trung học Moeller, nơi huấn luyện viên huyền thọai của ông là Gerry Faust, người sẽ trở thành huấn luyện viên trưởng cho Đại học Notre Dame. Ông nhắc nhớ, “Chúng tôi đọc nhiều kinh Kính Mừng trước khi, trong khi, sau khi luyện tập bóng đá. Và Chúa ơi, ngày thi đấu, chúng tôi đi lễ. Chúng tôi cầu nguyện trước trận đấu, chúng tôi cầu nguyện trên xe buýt. Tôi có thể đọc một kinh Kính Mừng mỗi ngày suốt phần còn lại của đời tôi và tôi sẽ không bao giờ đọc một nửa kinh Kính Mừng như tôi đã đọc ở trường trung học”.
Vào giữa thập niên 1980, ông Boehner lập một thương nghiệp địa phương khi ông bắt đầu nghĩ rằng cuộc đời ông nên đi theo một nẻo khác. “Tôi bận bịu điều hành thương nghiệp của mình, tôi làm trong lĩnh vực đóng gói và kinh doanh đồ nhựa, và khi làm ăn như thế, tôi có tham gia hiệp hội chủ nhà trong khu phố của mình”, việc tham gia này đã nẩy sinh ý muốn hoạt động chính trị. Rồi, ông nói, “điều này dẫn đến điều kia”. “Điều kia” trước tiên là tranh cử thành công vào Hạ viện Ohio năm 1985. Sau bốn năm trong cơ quan lập pháp, với việc dân biểu đương nhiệm bị sa lầy trong một vụ tai tiếng bản thân, các người ủng hộ và bạn bè của ông Boehner khuyến khích ông nghĩ đến việc tranh cử vào ghế quốc hội.
Nhưng John Boehner không biết chắc. Ông tự vấn “Đây có phải là tôi không hay đây có phải là điều Chúa muốn tôi làm hay không? Vì vậy, tôi đã đi lễ 10 ngày liên tiếp. Dưới kia, bên dưới nhà thờ, trong nhà nguyện, 12 bà già và tôi xuất hiện. Tất cả họ đều nhìn tôi. Tôi xuất hiện vào ngày hôm sau. Tôi đã gây ra cả một cảnh tò mò cho những mệnh phụ này, tất cả những người mà tôi sẽ tìm biết sau này; nhưng sau 10 ngày, tôi như thể, ‘Được rồi, được lắm. Tôi nghĩ rằng đây là điều Người muốn tôi làm’. Và tôi đã làm thế”.
Ông nói “Điều tiếp theo như cha biết đấy, tôi là chủ tịch Hạ viện”.
Tuy nhiên, vài năm sau đó, sự việc không đơn giản như thế. Việc Ông Boehner leo lên chức chủ tịch đã gặp nhiều đình đốn, bao gồm cả việc ông thất bại khi tái tranh cử chức chủ tịch hội nghị của đảng Cộng hòa sau khi đảng này tổn thất trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 1998. Nhưng ông là một người sống còn.
“Ông đã đương đầu được các thách thức này, phục hồi và trở thành chủ tịch Hạ Viện”, đồng nghiệp quốc hội của ông, Mike Oxley, nói thế vào năm 2015. “Quả là một điều phi thường, và có lẽ là lần duy nhất xảy ra trong kiểu diễn biến đó".
Ông Boehner nói rằng ông cũng khá ngạc nhiên. Ông nói sau khi bước vào sinh hoạt công cộng, "35 năm không phải như thể ‘đây không phải là điều tôi sẽ làm với cuộc sống của tôi’. Nhưng tôi được tạo ra để làm những gì tôi đang làm với cuộc sống của mình, và bạn không nhận ra điều đó, đôi khi Thiên Chúa có những ý nghĩ khác”.
Tôi hỏi ông, “Ông có cảm thấy như ông đang được dẫn dắt hay không?”
Ông nói không do dự “Ồ, chắc chắn như thế. Không còn nghi ngờ chi nữa. Đến lúc trở thành chủ tịch Hạ Viện, tôi không bao giờ nghi ngờ việc Thiên Chúa quyết định tôi sẽ trở thành chủ tịch Hạ Viện. Không nghi ngờ gì nữa. Tôi hoàn toàn xác tín điều đó. Có những ngày tôi đã ngồi một mình trong văn phòng, nhìn chiếc trần nhà hình vòm này, được vẽ nhiều hình ảnh, trang trí muôn mầu. Tôi nhìn lên và thưa, ‘Xin chào? Xin chào? Ngài đã đặt con vào đây. Vậy, thưa Ngài, đâu là các câu giải đáp? Thế là các giải đáp xuất hiện, không hẳn nhanh như tôi muốn”.
Tôi ngạc nhiên một lúc trước sự nghịch lý. Một mặt, ông Boehner là một người khá miễn cưỡng thảo luận về đức tin của mình. Mặt khác, ông ta lại chắc chắn rằng Thiên Chúa muốn ông làm chủ tịch, và ông không bận tâm ai biết điều đó. Nói bởi một người khác, một câu tuyên bố như vậy có thể có vẻ cao ngạo hoặc tự phụ, nhưng ông Boehner dường như đang nói một điều gì đó khác hẳn. Điều tôi nghĩ ông muốn nói là Thiên Chúa phải làm điều đó bởi vì ông không thể tự mình làm được. Ông đơn giản không nghĩ cao ngạo về chính mình.
Tuy nhiên, ngay cả khi ông ta có những nghi ngờ về khả năng tự nhiên của mình, ông Boehner rõ ràng có tham vọng. Những người đàn ông và đàn bà không tham vọng sẽ không trở thành chủ tịch, ngoại trừ do tình cờ. Tuy nhiên, ông nói, khi đã thực hiện được tham vọng trở thành chủ tịch, điều quan trọng, là ông không cho phép công việc thay đổi ông”. Ông cho hay, “làm chủ tịch không bao giờ là vì tôi. Tôi đã nói điều đó ngày đầu tiên làm chủ tịch khi Nancy Pelosi trao cho tôi chiếc búa. Tôi nói về việc phục vụ. Tôi nói về Mùa Chay và nhận tro. ‘Ngươi là bụi đất, và từ bụi đất, và ngươi sẽ trở thành bụi đất’. Đại khái giống như thế. Cha biết những lời đó hơn tôi”.
Rồi, ông bồi thêm cho quan điểm của mình: “Tôi sẽ làm việc ngoài giờ, ngay cả trước khi tôi làm chủ tịch, chỉ để là tôi thôi... Đôi khi nhân viên của tôi nghĩ tôi quá giống tôi, nhưng thành tựu đáng tự hào nhất của tôi là sau 25 năm ở Washington, tôi vẫn là một chàng ngốc đã bước vào đó. Chỉ là một gã bình thường có một công việc lớn”.
Chính sách mở rộng cửa
Ông nói, nền giáo dục của John Boehner cho “công việc lớn” đó bắt đầu trong quán bar của ông bố, ở khu Carthage thành phố Cincinnati, nơi ông bắt đầu làm việc khi mới 8 tuổi. Ông bảo “những anh say rượu cứ ngồi ỳ ở đó suốt đêm và cha không muốn đồng ý với một gã như thế, nhưng cha cũng không muốn dính vào vụ đánh nhau với hắn suốt đêm, vì vậy cha phải tìm cách để bất đồng mà không làm phật ý”. Ông Boehner nói rằng đó là “một trong những bài học vĩ đại nhất từng giúp tôi trong sự nghiệp chính trị của mình”.
Tôi hỏi ông, “Khi ông còn là một đứa trẻ, khu phố của ông có thuộc Dân chủ hay không?”
Câu trả lời của ông làm tôi ngạc nhiên: “tôi không biết. Chúng tôi không biết chính trị. Chúng tôi không bao giờ nói tới chính trị. Chúng tôi là đảng Dân chủ Kennedy, nhưng không bao giờ trò chuyện về điều đó. Tôi không bao giờ nhớ một cuộc trò chuyện chính trị nào”.
"Khi nào ông quyết định không còn là Dân chủ Kennedy nữa?"
Ông trả lời “À, đầu thập niên 70. Tôi nghĩ, ‘Tôi không biết gì về anh chàng Muskie (4) này. Thật không? Tôi không nghĩ như vậy’. Và rồi năm ‘76: ‘À, tôi nghĩ Ford là lựa chọn tốt hơn. Và rồi, vào cuối thập niên 70, tôi biết tôi ủng hộ Ronald Reagan. Vâng, tôi là một đảng viên đảng Cộng hòa. Và điều buồn cười là toàn bộ gia đình tôi đều trở thành người Cộng hòa. Tôi chưa bao giờ có một cuộc trò chuyện với bất cứ ai trong số họ”.
Ông Boehner nói, Ông học được một bài học khác trong quán bar của ông bố. “Cha phải học cách đối phó với mọi gã ngốc đi vào qua cánh cửa. Cha tin tôi đi, khi cha là chủ tịch Hạ viện, tất cả họ đều bước vào qua cánh cửa”. Ông cho biết, trong suốt bốn năm làm chủ tịch, cánh cửa của ông luôn mở rộng cho người Dân chủ, người Cộng hòa, bất cứ ai. Và mọi người đều muốn một điều gì đó. Ông nói “Nếu tôi không thể làm điều đó, tôi đơn giản nói với họ rằng tôi không thể làm điều đó. Còn nếu có cơ hội làm điều đó, tôi sẽ nói với họ rằng có cơ hội để tôi làm điều đó. Tôi đơn giản nói với họ một cách trung thực nhất có thể”.
Ông Boehner đã giành được chiếc ghế chủ tịch với việc Đảng Cộng Hòa tiếp quản Hạ viện vào năm 2010, sau những lần làm lãnh tụ thiểu số và đa số tại Hạ viện. Ông là sự lựa chọn nhất trí của đảng Cộng hòa, nhưng thiện chí nhất thời đó đã không chứng minh được một điềm báo trước nào về nhiệm kỳ của ông. Nhiệm kỳ này diễn ra trong những năm giữa đầy hỗn loạn của thời Barack Obama làm tổng thống. Viêc bầu ông ta năm 2008 đã huy động nhiều lực lượng phản ứng dữ dội chưa bao giờ thấy. Sự trỗi dậy của phe cực hữu - Đảng Trà, đảng Tự do, lực lượng Fox News đi đến đâu đánh đến đó, đã bất ngờ tấn công giới lãnh đạo, trong đó có John Boehner. Các chính trị gia từng bị coi là bảo thủ xét theo hầu hết mọi tiêu chuẩn đột nhiên không còn bảo thủ đủ đối với làn sóng mới của các nhà hoạt động Cộng hòa, ngày càng chủ trương cô lập về các vấn đề đối ngoại và dân túy trong nước. Mặc dù việc thăng tiến của ông được tạo điều kiện thuận lợi một phần nhờ cuộc cách mạng của Gingrich năm 1994, nhưng xét theo nhiều cách, ông Boehner là một chính trị gia của thời Tiền Đảng Trà trong một thế giới Hậu Đảng Trà. Kết quả là, Chủ Tịch Boehner bị phe cực hữu cũng như phe tả làm cho điêu đứng.
Tuy nhiên, ông nói dù “lúc đó [trong thời tôi]bị phân cực”, nhưng ngày nay mọi điều còn tồi tệ hơn.
Ông trưng dẫn, “Tôi nghĩ tại các phương tiện truyền thông, nói chuyện trên đài phát thanh, truyền hình cáp, LinkedIn, YouTube, Twitter, internet, người ta chỉ cần qua đêm đã khởi sự được các tổ chức, loan truyền tin tức”. Ông thấy có việc mất dần cơ sở chung trong thời gian ông làm chủ tịch, và tôi có cảm giác Ông ấy cảm thấy bất lực trong việc ngăn chặn nó. Ông nói, “Đến nỗi khi đến gặp Tổng thống Obama, tôi phải lẻn vào Nhà Trắng, bởi vì nếu tôi đi vào ở chỗ báo chí luôn thấy tôi, báo chí cánh cữu sẽ nổi điên và báo chí cánh tả sẽ phát điên lên đối với Tổng thống Obama".
Dù ông Boehner thừa nhận rằng ông đã thất bại trong việc “trao đổi lớn” với Tổng thống Obama - thỏa thuận lớn, lưỡng đảng để giảm nợ quốc gia - ông vẫn nói ông không hối tiếc. “có một vài điều tôi ước chúng ta có thể làm nhưng không làm được, nhưng không, không một [hối tiếc] nào”. Ông nói, đó là vì, ông đã làm những gì ông nghĩ là đúng. Ông nói ông thường nói với các đồng nghiệp của ông, “nghe này, đây là những gì bố mẹ tôi đã dạy tôi, đây là những gì tôi đã dạy những đứa con của tôi và tôi sẽ dạy các ông. Nếu mỗi ngày họ đều làm những điều đúng, vì những lý do đúng, những điều đúng sẽ xảy ra... Dường như điều đó chưa bao giờ khó đối với tôi”.
Ông Boehner đổ lỗi cho giới truyền thông nhiều sự phân cực và tình trạng đáng tiếc của chính trị Mỹ, nhưng ông cũng gợi ý về những nguyên nhân khả hữu khác. Ví dụ, ông nhấn mạnh rằng ông là một người luôn lạc quan và ông được sinh ra với một nửa ly nước đầy. Tôi nghĩ ông tin điều đó, mặc dù tôi không tin rằng đó là sự thật: Ông có vẻ mơ tưởng (wishful) hơn, không phải cùng một điều. Khi tôi hỏi ông Boehner, cần phải làm gì để chỉnh đốn nền chính trị của đất nước, ông nói, “hoặc bàn tay Thiên Chúa hoặc một biến cố kinh hoàng nào đó” nghe có vẻ khá bi quan yếm thế.
Ông Boehner nói, phải có một lúc, đủ lớn “khiến người Mỹ phải nhìn lên và nói, ‘Ồ, vâng. Tôi có thể là người cấp tiến hoặc bảo thủ, Dân chủ hoặc Cộng hòa, nhưng trước tiên, tôi là một người Mỹ’, điều mà họ đã quên khuấy”.
Tôi hỏi liệu ông có vào chính trị hay không nếu ngày nay ông là một chàng trai trẻ. Ông đáp lại bằng một tiếng cười phá: “Không! Hãy bắn tôi đi, bắn tôi đi!” Tuy nhiên, ông cẩn thận nói thêm rằng “95% những người tôi phục vụ ở cả hai bên phòng Hạ viện đều là những người tốt lành, trung thực, những người đàng hoàng cố gắng làm những gì họ nghĩ là tốt nhất cho các cử tri của họ và cho đất nước. Chúng tôi có chung các bất đồng, nhưng thời đó chúng tôi hòa thuận hơn rất nhiều”.
Khi ông Boehner nói về các mối liên hệ của ông với một số đồng nghiệp cũ, có vẻ như ông đang mô tả cuộc sống từ rất lâu về trước, trong một thiên hà xa, rất xa, hơn là những điều như chúng đang được thực hiện ở Washington một vài năm trước đây. Chẳng hạn, tôi hỏi ông về những người đã truyền cảm hứng cho ông trong đời sống công cộng. Ông nói đến con sư tử cấp tiến quá cố của Massachusetts, “Ted Kennedy. Ted Kennedy và tôi, họ thường gọi chúng tôi là những chiếc chắn sách (bookends) chính trị. Vì trong khoảng năm năm, tôi là chủ tịch Ủy ban Giáo dục và Lực lượng Lao động Hạ viện, còn ông ta là người đứng đầu một ủy ban tương tự về phía Thượng viện. Chúng tôi đã làm tất cả những điều ấy với nhau, mọi luật lệ ấy với nhau. Chúng tôi chưa bao giờ được nghe như thế vì ông ta quen ra ngoài và gây ồn ào [vận động chống lại đảng Cộng hòa], nhưng ông là một nhà lập pháp nghiêm túc, người muốn hoàn thành công việc. Chúng tôi luôn hoàn thành công việc. Tôi học được rất nhiều bài học chính trị từ Teddy".
“Ông ta có phải là một người bạn?”
Ông thưa “Ồ, đúng. Người bạn thân. Vâng".
Washington nơi John Boehner, một người ủng hộ sự sống, ủng hộ thuốc lá, bảo thủ tài chính, có thể là bạn bè và là đối tác hữu dụng với một người vốn là biểu tượng của mọi điều đối nghịch dường như đã qua đi từ lâu rồi. Hay là chưa? Ông Boehner nói, nhiều điều vẫn được thực hiện ở Washington, nhưng khi người ta làm việc với cả cánh bên kia, các phương tiện truyền thông không tường thuật điều đó,. Ông nhắc đến Joe Biden, người, trong tư cách phó Tổng thống, ngồi cạnh ông Boehner khi Đức Giáo Hoàng phát biểu trước Quốc hội. Ông nói mỗi lúc một mơ tưởng hơn “Joe và tôi có thể làm bất cứ điều gì về bất cứ đề tài nào. Ông ta là một người dân chủ ôn hòa. Tôi là một người Cộng hòa bảo thủ, nhưng tôi không điên. Ông ta và tôi biết nhau, thích nhau, chúng tôi giải quyết đủ thứ công chuyện. Thành thật mà nói, không có điều gì chúng tôi không thể giải quyết”.
Tôi hỏi ông , “Vậy, điều gì ngăn chặn việc giải quyết các vụ lớn lao?”
Ông nói “À, mọi người khác. Cha phải nhớ, một nhà lãnh đạo không có người theo chỉ đơn giản là một người cuốc bộ”.
Dựa vào những điều ông vừa nói, tôi hỏi ông Boehner rằng ông sẽ bỏ phiếu như thế nào nếu năm 2020 trở thành sự lựa chọn giữa Joe Biden và Donald Trump. Ông lảng tránh, rồi nói thêm, với một ánh mắt khó chịu, “và cũng không phải là một câu hỏi công bằng”.
Trong khi ông Boehner có thể không hối tiếc về sự nghiệp chính trị của mình, ông có hối tiếc một điều. Tôi hỏi ông xem ông có cầu nguyện khá nhiều khi làm chủ tịch. Ông trả lời “Mỗi ngày, suốt ngày”. Rồi, ông dừng lại và nói thêm, không cần tôi gợi ý, rằng “một trong những điều tôi hối tiếc là tôi đã hiểu được sự cần thiết phải có mối liên hệ bản thân này với Chúa chúng ta sớm hơn. Ở đâu đó trên đường đi, trong hơn 30 năm qua, có lẽ 35 năm, tôi bắt đầu hiểu tầm quan trọng của mối liên hệ bản thân này, nơi Chúa là Vua của tôi, và là đồng chí của tôi, đồng nghiệp của tôi, bạn đồng hành của tôi”.
Một mình với Đức Phanxicô
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang đứng trên ban công của Quốc hội Hoa Kỳ, không xa nơi ông Boehner đã nói chuyện với ông Nicklaus và ông Palmer. Đức Giáo Hoàng vừa kết thúc bài diễn văn của ngài trước Quốc hội và bây giờ ngài đang chào đón đám đông 75.000 người tụ tập ở bên ngoài. Ông Boehner nói, “Họ đang hoan hô và tiếp tục làm vậy. Tôi không biết kế hoạch ra sao, vì vậy tôi cúi xuống và thưa, ‘Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha có thể nói một vài điều’”.
Đức Giáo Hoàng trả lời, “À, có, có”.
Đến lúc Đức Giáo Hoàng nói “Thiên Chúa chúc lành cho nước Mỹ”, ông Boehner đã bật khóc.
Tôi hỏi ông, “Tại sao đối với ông, việc Đức Giáo Hoàng nói chuyện với Quốc hội lại quan trọng đến thế? Tại sao ông đã kiên trì 20 năm trong việc cố gắng làm điều đó xẩy ra?"
Ông nói “Tôi không biết. Trường tiểu học Công Giáo, trường trung học Công Giáo, trường đại học Công Giáo. Tôi khá Công Giáo. Đức Giáo Hoàng luôn đóng một vai trò lớn lao”.
Đặc biệt, vị Giáo hoàng này đóng một vai trò lớn trong chương cuối cùng của sự nghiệp chính trị của ông Boehner. Đến mùa thu năm 2015, ông biết rằng ông sẽ không tái tranh cử. Thời thế đã thay đổi. Các đảng viên Cộng hòa ở Quốc Hội đã dần dần di chuyển nhiều hơn về cánh hữu trong nhiệm kỳ của ông. Việc nắm giữ chức chủ tịch của ông khá mỏng manh và ông Boehner biết rõ điều đó. Nhưng bất cứ thông báo nào về việc nghỉ hưu của ông vẫn còn vài tháng nữa, hoặc gần như thế, theo ông nghĩ.
Ông nói “Tôi đã gặp [Đức Giáo Hoàng] ở tầng một và ở đó, buổi lễ từ biệt đang diễn ra. Và tôi nhìn lên; chỉ có Đức Giáo hoàng và tôi. Không có một linh hồn nào khác, và Đức Giáo Hoàng giơ bàn tay trái của ngài và ngài nắm lấy cánh tay trái của tôi và kéo tôi đến bên cạnh ngài và bắt đầu nói điều tốt đẹp nhất mà chưa có ai từng nói với tôi. Ngài vẫn giữ chặt lấy tôi, cho tôi cái ôm khổng lồ bằng cánh tay phải và nói, ‘ông chủ tịch, ông có cầu nguyện cho tôi không’?
“Ai, con ấy hả?”
Đức Giáo Hoàng nói “đúng, đúng”.
Ông Boehner nói, trong 25 năm làm việc với tư cách thành viên của Quốc hội, “tôi đã không bao giờ thấy Đồi Capitol hạnh phúc hơn ngày hôm đó... Mọi thành viên đều ở đó. Có rất nhiều thành viên Công Giáo, nhưng các thành viên của đạo Tin lành, đạo Do Thái, đạo Hồi, tất cả đều hạnh phúc”.
Liệu Mỹ có thể lấy lại cảm thức hợp nhất vốn nổi bật ngày hôm đó hay không? Đóng vai trò người lạc quan, ông Boehner nói chúng ta có thể. “Người Mỹ, chúng ta vốn là những người mềm dẻo nhất mà Thiên Chúa từng đặt lên trên Trái đất. Chúng ta phạm sai lầm, nhưng chúng ta dường như tìm được đường thoát ra. Và đến một lúc nào đó, người dân Mỹ sẽ nói, 'Đủ rồi, tôi đã chán ngấy thứ ồn ào này. Tôi đã chán cảnh Washington là Washington. Tôi sẽ bỏ phiếu cho người khác”.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta có thể lấy lại được một phần tinh thần của ngày hôm đó, John Boehner đã nhận ra một điều khác khi nhìn Đức Giáo Hoàng rời khỏi Đồi Capitol: Sẽ không bao giờ có một ngày bằng ngày hôm đó. Vì vậy, khi ông Boehner về nhà tối hôm đó, ông đã nói với vợ mình, bà Debbie: “anh có thể đưa ra thông báo vào ngày mai".
Bà hỏi, “Thông báo cái gì chứ?”
“Thông báo anh sẽ rời khỏi nơi đây”.
Nhưng còn một người khác mà ông phải hỏi ý kiến, một điều khác mà ông Boehner phải làm trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Ông cần có một trong những “cuộc trò chuyện” đó.
Sáng sớm hôm sau, sau khi nhận được “thông điệp trong ngày”, ông cuốc bộ rất lâu. “Tôi cuốc bộ đến tận tiệm Pete’s Diner, nơi tôi từng ăn sáng cả 25 năm nay. Tôi cuốc bộ xuống Phố thứ hai từ tiệm Pete’s Diner và tôi đi ngang qua Nhà thờ Thánh Phêrô, nơi có một hang đá. Trong hang đá, có bức tượng Đức Trinh Nữ Maria.
“Tôi liếc nhìn vào đó và tôi nói, ‘Rồi. Hôm nay là ngày đây'"
Ghi Chú của người chuyển ngữ
(1) Dean Martin vốn được nuôi dậy thành người Công Giáo gốc Ý chân chính, nhưng không bao giờ nói đến đức tin của mình, làm như mình vô tôn giáo.
(2) Rat Pack là một nhóm không chính thức của các nhà trình diễn tụ tập quanh sòng bạc Las Vegas. Khởi đầu là nhóm bạn hữu tụ tập ở Los Angeles tại nhà của Humphrey Bogart và Lauren Bacall
(3) Trong môn chơi golf, "handicap" là một mức đo bằng số tiềm năng của người chơi dùng để xác định khả năng của họ trong việc thi đấu với nhau. Các cầu thủ càng có "handicap" thấp càng được đánh giá cao.
(4) Edmund Sixtus Muskie, 28/3/1914 – 26/3/1996) là một chính trị gia Hoa Kỳ, ngoại trưởng thứ 58 dưới thời Tổng thống Jimmy Carter, Thượng nghị sĩ đại diện Tiểu Bang Maine từ 1959-1980, Thống đốc thứ 64 của Maine từ 1955 tới 1959, và là ứng cử viên Phó Tổng Thống trong cuộc bầu cử na7m 1968.
Thánh Mẫu Học giúp thăng tiến việc đối thoại và tình huynh đệ giữa các nền văn hóa
Thanh Quảng sdb
19:41 04/12/2019
Thánh Mẫu Học giúp thăng tiến việc đối thoại và tình huynh đệ giữa các nền văn hóa
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp tới Đại hội lần thứ XXIV của các Học viện Giáo hoàng nhân dịp trao Giải thưởng hàng để tưởng nhớ tới Tiến sĩ Carme López Calderón và Linh mục Ionuț-Cătălin Blidar về những dấn thân của họ trong lãnh vực nghiên cứu thần học.
(Tin Vatican)
Trong phần mở đầu của thông điệp, Đức Thánh Cha Phanxicô nhìn nhận những nỗ lực của các Học viện Giáo hoàng đã đưa những tri thức vào hành động qua những hợp tác và hành động giúp phát triển con người một cách chân chính và toàn vẹn.
ĐTC nói: Các Học viện như vậy thật là nơi lý tưởng và sức mạnh cho công cuộc truyền giáo.
Thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô được gửi tới những tham dự viên của đại hội công công lần thứ XXIV, qui tụ bảy Học viện Giáo hoàng, được điều phối bởi một Ủy ban mà Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi làm chủ tịch.
Đại hội năm nay với chủ đề là Maria, điểm hội tụ hòa bình của mọi nền văn hóa, được Học viện Thánh Mẫu học Quốc tế tổ chức để đánh dấu 60 năm Thánh Giáo hoàng John XXIII thiết lập vào ngày 8 tháng 12 năm 1959.
Mẹ Maria, thầy dậy của nhân loại
Đức Thánh Cha Phanxicô đã khai triển chủ đề Thánh Mẫu được chọn cho đại hội và suy tư ngắn gọn về những cách thế khác nhau mà các vị giáo hoàng khác nhau đã diễn tả sự tôn kính Đức Mẹ.
ĐTC nhắc nhớ những lúc ngặt nghèo của hai cuộc thế chiến đã khiến cho Đức Thánh Cha Piô XII đề xuất Mẹ Maria như ngọn hải đăng cho hòa bình giữa một xã hội hoảng loạn!
ĐTC nói tiếp: Công đồng Vatican thứ hai, tuyên xưng Mẹ là bà giáo của nhân loại và là mẫu gương cho Giáo hội trong sứ mệnh phục vụ những khát vọng thâm sâu nhất của tâm trí con người.
Niềm hy vọng chiến thắng những nỗi thống khổ
Đức Thánh Cha nói: Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã nhấn mạnh tới mối liên đới giữa Đức Trinh Nữ với các tín hữu. ĐTC cho rằng Đức Mẹ ban cho những người đương thời, những người bị áp bức bởi những nỗi thống khổ và cô đơn, một ánh nhìn thanh thản và an tâm về sự chiến thắng của niềm hy vọng trên những nỗi thống khổ và trông chờ một nền hòa bình trước một thế giới đầy gian khổ!
Mẹ là hiện thân của sự chiến thắng, là niềm hy vọng cho những nỗi thống khổ, là sự liên kết vượt trên những cô đơn, là sự bình yên trước những biến động, là niềm vui và nét đẹp trên những buồn tẻ và Mẹ là viễn ảnh trường cửu cho cuộc sống tạm bợ và bị kết liễu bằng sự chết!
Đưa Mẹ vào những vấn đề quan trọng của thời đại
Đức Thánh Cha chia sẻ Thánh Giáo hoàng John Paul II đã khẳng định rằng Thánh Mẫu Học được thừa nhận và duy trì trong nền thần học và có một vai trò quan yếu trong những vấn nạn quan trọng của thời đại qua các cuộc đối thoại.
Thánh Mẫu học và Thần học về Ngôi Lời
Cuối cùng, Đức Thánh Cha đề cập đến nhiều trường hợp trong đó Đức Nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI đã mời gọi các học giả nghiên cứu và suy tư về mối tương quan giữa Thánh Mẫu Học và thần học về Ngôi Lời. Trong thực tế, ĐTC nói: Học viện Thánh Mẫu Học luôn đồng hành với Tòa thánh và các Giáo hội địa phương trong mọi nỗ lực và đóng góp vào nền Thánh Mẫu Học.
Những cam kết này là một bằng chứng rõ ràng về cách Thánh Mẫu Học là một hiện thân cần thiết trong các cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa, nó có có một sức mạnh vun góp cho tình huynh đệ và hòa bình.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp tới Đại hội lần thứ XXIV của các Học viện Giáo hoàng nhân dịp trao Giải thưởng hàng để tưởng nhớ tới Tiến sĩ Carme López Calderón và Linh mục Ionuț-Cătălin Blidar về những dấn thân của họ trong lãnh vực nghiên cứu thần học.
(Tin Vatican)
Trong phần mở đầu của thông điệp, Đức Thánh Cha Phanxicô nhìn nhận những nỗ lực của các Học viện Giáo hoàng đã đưa những tri thức vào hành động qua những hợp tác và hành động giúp phát triển con người một cách chân chính và toàn vẹn.
ĐTC nói: Các Học viện như vậy thật là nơi lý tưởng và sức mạnh cho công cuộc truyền giáo.
Thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô được gửi tới những tham dự viên của đại hội công công lần thứ XXIV, qui tụ bảy Học viện Giáo hoàng, được điều phối bởi một Ủy ban mà Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi làm chủ tịch.
Đại hội năm nay với chủ đề là Maria, điểm hội tụ hòa bình của mọi nền văn hóa, được Học viện Thánh Mẫu học Quốc tế tổ chức để đánh dấu 60 năm Thánh Giáo hoàng John XXIII thiết lập vào ngày 8 tháng 12 năm 1959.
Mẹ Maria, thầy dậy của nhân loại
Đức Thánh Cha Phanxicô đã khai triển chủ đề Thánh Mẫu được chọn cho đại hội và suy tư ngắn gọn về những cách thế khác nhau mà các vị giáo hoàng khác nhau đã diễn tả sự tôn kính Đức Mẹ.
ĐTC nhắc nhớ những lúc ngặt nghèo của hai cuộc thế chiến đã khiến cho Đức Thánh Cha Piô XII đề xuất Mẹ Maria như ngọn hải đăng cho hòa bình giữa một xã hội hoảng loạn!
ĐTC nói tiếp: Công đồng Vatican thứ hai, tuyên xưng Mẹ là bà giáo của nhân loại và là mẫu gương cho Giáo hội trong sứ mệnh phục vụ những khát vọng thâm sâu nhất của tâm trí con người.
Niềm hy vọng chiến thắng những nỗi thống khổ
Đức Thánh Cha nói: Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã nhấn mạnh tới mối liên đới giữa Đức Trinh Nữ với các tín hữu. ĐTC cho rằng Đức Mẹ ban cho những người đương thời, những người bị áp bức bởi những nỗi thống khổ và cô đơn, một ánh nhìn thanh thản và an tâm về sự chiến thắng của niềm hy vọng trên những nỗi thống khổ và trông chờ một nền hòa bình trước một thế giới đầy gian khổ!
Mẹ là hiện thân của sự chiến thắng, là niềm hy vọng cho những nỗi thống khổ, là sự liên kết vượt trên những cô đơn, là sự bình yên trước những biến động, là niềm vui và nét đẹp trên những buồn tẻ và Mẹ là viễn ảnh trường cửu cho cuộc sống tạm bợ và bị kết liễu bằng sự chết!
Đưa Mẹ vào những vấn đề quan trọng của thời đại
Đức Thánh Cha chia sẻ Thánh Giáo hoàng John Paul II đã khẳng định rằng Thánh Mẫu Học được thừa nhận và duy trì trong nền thần học và có một vai trò quan yếu trong những vấn nạn quan trọng của thời đại qua các cuộc đối thoại.
Thánh Mẫu học và Thần học về Ngôi Lời
Cuối cùng, Đức Thánh Cha đề cập đến nhiều trường hợp trong đó Đức Nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI đã mời gọi các học giả nghiên cứu và suy tư về mối tương quan giữa Thánh Mẫu Học và thần học về Ngôi Lời. Trong thực tế, ĐTC nói: Học viện Thánh Mẫu Học luôn đồng hành với Tòa thánh và các Giáo hội địa phương trong mọi nỗ lực và đóng góp vào nền Thánh Mẫu Học.
Những cam kết này là một bằng chứng rõ ràng về cách Thánh Mẫu Học là một hiện thân cần thiết trong các cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa, nó có có một sức mạnh vun góp cho tình huynh đệ và hòa bình.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Rối Như Canh Hẹ Trước Đại Hội Đảng XIII
Phạm Trần
21:09 04/12/2019
Mỗi năm lên tuổi già đi, tưởng đâu đã được an nhàn, nào ngờ đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải tối mắt đấu tranh để tồn tại vì các chứng nan y: Suy thoái tư tưởng; Đạo đức xuống cấp; Tham nhũng; và, Lợi ích nhóm trong trong cán bộ,đảng viên.
Đe doạ hàng đầu cho sống còn của đảng hiện nay về mặt tư tưởng là đã có một số không nhỏ đảng viên quay lưng lại với Chủ nghĩa Cộng sản; công khai bài bác Mác-Lenin và đường lối lãnh đạo sai lầm và lỗi thời của đảng.
Vô số đảng viên không những đã coi thường lệnh phải bảo vệ chế độ bằng mọi giá mà còn thờ ơ với phong trào “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".
Tình trạng này đang dâng lên như con nước thủy triều trước thềm Đại hội đảng XIII, diễn ra vào tháng 01/2021.
Do đó khi Hiến pháp và Cương lĩnh đảng đều lấy Chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh làm nền tảng xây dựng đất nước mà bị nhiều đảng viên phủ nhận cả hai thì đảng lung lay là tất yếu.
Vì vậy không ngạc nhiên khi thấy Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên Giáo Trung ương, Võ Văn Thưởng phải cảnh báo:”Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng là vấn đề có tính quy luật và mang tính cấp bách trong tình hình hiện nay.”(báo Thanh Niên, ngày 05/07/2019)
Nhưng tại sao khẩn trường đến thế, vì theo ông Thưởng, những người xoay chiều chống đảng lại chính là:” Những cán bộ, đảng viên, kể cả những đảng viên từng giữ chức vụ cao trong bộ máy nhưng suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hóa.”
Vi vậy, ông Thưởng, 49 tuổi, đã gay gắt nói:” Những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong bộ máy chính trị là nhóm thế lực thù địch không khó để nhận ra nhưng rất khó đấu tranh.”
CHÁN ĐẢNG HƠN CƠM NGUỘI
Tại sao lại “khó đấu tranh” ? Ông Thưởng trả lời:”Vì là lực lượng "len lỏi và phức tạp".
Như vậy là rất căng. Mạng lưới an ninh nội bộ của đảng đã bị những kẻ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chui vào nhiều nơi khiến cho tình hình nội bộ khá phức tạp, rất khó biết ai là thù, ai là bạn.
Ông Thưởng đã hằn học đặt những cán bộ, đảng viên quay lưng lại đảng vào hàng ngũ “thế lực thù địch”, thay vì gọi họ là “thành phần cơ hội trong nước” như trước đây.
Nhưng “thế lực thù địch” này chiếm bao nhiêu phần trăm trong số hơn 4 triệu đảng viên ? Ông Thưởng không nói. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng giấu luôn, dù đã nhiều lần Lãnh đạo thừa nhận đó là “một số không nhỏ”.
Vẫn theo bài nói chuyện dài tới 75 phút tại Hội nghị báo cáo viên các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tháng 7/2019, ông Thưởng cho biết:”Các thế lực thù địch sử dụng các thủ đoạn, phương thức chống phá rất muôn hình vạn trạng, đặc biệt là sử dụng truyền thông đại chúng, sử dụng internet và truyền thông xã hội” để phổ biến quan điểm chống đảng.
“Trong khi đó”, ông Thưởng nói tiếp, “những người làm công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lại thụ động hơn, rơi vào tình trạng phải chờ định hướng, thậm chí là chờ chế độ chính sách và đây là vấn đề cần lưu ý khắc phục sớm.”
Thất bại của ngành Tuyên giáo không mới, vì người dân bây giờ đã thông minh hơn và biết tìm ra sự thật nhanh và chính xác hơn tuyên truyền của đảng.
Vì vậy, theo ghi nhận của báo Thanh Niên (05/07/2019), ông Thưởng yêu cầu các cấp Tuyên giáo:” Cần phải đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước. “Trong đánh giá các nghị quyết vẫn có một câu là tổ chức thực hiện nghị quyết là khâu yếu. Tôi cho rằng, quán triệt nghị quyết cũng là khâu yếu. Nhiều cuộc học nghị quyết tôi quan sát được tỷ lệ không nhỏ ngồi dưới xem iPad, iPhone, đọc tin, nhắn tin.”
Đây là bằng chứng khác cho thấy các Nghị quyết của đảng không còn hấp dẫn đồi với đảng viên. Sự nhàm chán, lập đi lập lại, chồng chéo lên nhau, đấm đá lẫn nhau, bản sau tồi hơn bản trước là chuyện thường tình trong nội bộ đảng.
Cho nên, lại không ngạc nhiên khi thấy ông Võ Văn Thưởng yêu cầu phải tăng cường kiểm soát người sử dụng Internet. Ông nói:”Từ nay tới Đại hội Đảng XIII, mỗi địa phương chắt lọc đối tượng trên địa bàn, xử lý một vài đảng viên, cá nhân, công dân sử dụng internet, mạng xã hội vi phạm luật An ninh mạng để xử lý thì tình hình sẽ tốt hơn rất nhiều.”
MẶT TRÁI CỦA MÁC-LENIN
Phía sau của chỉ thị này là mối xo xoắn vó lên của ngành Tuyên giáo trước sức mạnh của Internet và các mạng xã hội dân sự. Vì nhờ có Internet mà người dân Việt Nam, nhất là những người có học và giới Thanh niên đã biết nguyên nhân tại sao Chủ nghĩa Cộng sản đã sụp đổ ở nước Nga và Đông u từ 1989 đến 1992.
Họ cũng hiểu tại sao, đảng CSVN không dám ra khỏi qũy đạo Cộng sản nếu Trung Cộng chưa từ bỏ thứ gọi là “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”.
Do đó, trong bài viết về tổ chức Đại hội đảng bộ các cấp địa phương,từ tháng 4/2020 đến trước ngày 30/6/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu các cấp bảo đảm giữ vững tư tưởng với định hướng hàng đầu là phải:” Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng.”
Thứ đến là “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng”, và Báo chí và các cơ quan chức năng “phải huy động được lực lượng rộng rãi đẩy mạnh đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc, thù địch và những thông tin giả, xấu, độc, bịa đặt, xuyên tạc trên mạng xã hội, Internet, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng.”
Tuy nhiên, vì còn tình trạng thượng bất chính, hạ tắc loạn nên ông Trọng đã nhìn nhận :”Vẫn còn cấp ủy chưa khẳng định được trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, còn thụ động, trông chờ, ỷ lại, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân; có biểu hiện "trên nóng dưới lạnh", "trên có chính sách, dưới có đối sách"; dù có điều kiện, hoàn cảnh thuận lợi nhưng chưa khai thác, chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội, thậm chí còn để xảy ra tiêu cực, vi phạm pháp luật.”
PHAI NHẠT MUÔN NĂM
Nhưng mặc cho ông Trọng kêu gào và kiên định, rất nhiều đảng viên đã tự đặt mình ra ngoàii vòg cương tỏa của đảng để tự do suy nghĩ và tự do hành động theo ý muốn.
Một bài viết trên báo Quân đội Nhân dân (QĐND) ngày
27/11/2019 đã cho ta thấy mặt trái không thật của những điều đảng khoe như : thành công trong chống tham nhũng; đoàn kết trong nội bộ; thống nhất lãnh đạo; quyết chí một lòng theo đảng; tuyệt đối trung thành với đảng ; và, kiên định, giữ vững và bảo vệ nhà nước Xã hội chủ nghĩa do đảng lãnh đạo.
Nội dung bài viết “Nhạt phai lý tưởng cách mạng - “đường gần” dẫn đến suy thoái” đã phơi ra trắng đen giữa thật và giả trong tình hình cán bộ, đảng viên trước Đại hội đảng XIII.
Một số đoạn sau đây đã nói lên tất cả tình hình cán bộ, đảng viên, trong hơn một năm còn lại của Khóa đáng XII (2016-2021):
“Trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc và mặt trái kinh tế thị trường phần nào làm nhạt phai lý tưởng cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Sự nhạt phai đó biểu hiện dưới nhiều khía cạnh chệch choạc. Thay vì đề cao lý tưởng “Tổ quốc là trên hết”, nhiều người chỉ nhăm nhăm chăm lo quyền lợi cá nhân, bảo kê lợi ích nhóm, bất chấp pháp luật, chà đạp đạo lý để co kéo lợi ích tối đa về bản thân, gia đình và bộ phận nhỏ nhoi của mình.”
“Một bộ phận cán bộ do tham nhũng, vơ vét mà sa đà vào lối sống vinh thân phì gia, xa hoa, cách biệt với người dân, không quan tâm đến cuộc sống vất vả của biết bao người lao động và dân nghèo.
Thay vì thực hiện phương châm “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tìm mọi kẽ hở của cơ chế, “khe hổng” của chính sách, luật pháp để bòn rút của công, gây nhiễu nhương, phiền hà doanh nghiệp và người dân mà thực chất là muốn người khác phải lót tay cho mình thì mới giải quyết công việc hanh thông.”
“Thay vì “nói đi đôi với làm”, “nói đúng quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng”, thì một bộ phận cán bộ, đảng viên lại nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo, phát ngôn vô tổ chức, vô ý thức kỷ luật, gây tổn hại đến uy tín, danh dự của Đảng, tác động xấu đến dư luận xã hội. Rồi tình trạng một số cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao khi đăng đàn, viết báo, viết sách thì lên mặt “đức cao vọng trọng” để khuyên răn, chỉ bảo, giáo huấn cấp dưới và nhân dân phải đề cao lý tưởng, coi trọng đạo đức, nâng tầm văn hóa, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng phía sau những lời hay ý đẹp, mỹ từ ấy là một tâm địa ích kỷ, nhỏ nhen, ham hố tầm thường của chính người trong cuộc.”
VẪN NHƯ CŨ
Ngoài ra, cũng nên nhìn qua nội dung một bài viết khác về tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị của đảng viên trong báo Quản lý Nhà nước (QLNN) ngày 16/06/2019.
Bái viết mở đầu:”Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, do tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị (TTCT), đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên (CBĐV) diễn biến phức tạp.”
Báo này nhắc lại rằng từ Đại hội Đảng XII năm 2016, Trung ương đã nhấn mạnh: “Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên”.
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa XII), Đảng thừa nhận:” Suy thoái TTCT, đạo đức, lối sống của CBĐV không những không được đẩy lùi mà còn biểu hiện rõ nét hơn. Vì vậy, Đảng đã ra nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về TTCT, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.”
Vậy suy thoáii về Tư tưởng-Chính trị của đảng viên là gì ?
Báo QLNN giải thích:”Trước hết, sự suy thoái về TTCT có thể nhận diện qua một số biểu hiện cụ thể như: phai nhạt lý tưởng cách mạng; nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; khi có khuyết điểm thì giấu giếm, thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật.”
Ngoài ra báo này cũng nêu lên những đặc tính xấu của cán bộ, đảng viên như là:” Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng. Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức. Vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện. Thiếu gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị và đời sống sinh hoạt hằng ngày.”
TRƯỚC MẮT ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG
Vậy tình hình hiện nay , sau 10 Hội nghị Trung ương, có gì thay đổi khá hơn trong Đạo đức, lối sống và tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên không ?
Bài viết trả lời cho Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng:”Thực tế hiện nay, tình trạng suy thoái về TTCT, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ CBĐV chưa bị đẩy lùi mà còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn. Một số cán bộ sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, cơ hội; không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình trục lợi. Có nơi bổ nhiệm cán bộ tràn lan, sai nguyên tắc, gây bức xúc trong xã hội, điển hình như vụ Trịnh Xuân Thanh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang; vụ ở Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương có 46 người thì 44 người là cán bộ lãnh đạo quản lý….
Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng và cá nhân, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đến mức phải thi hành kỷ luật….”
Như thế thì tình hình có nhiễu nhương, rối ren không hay toàn là chuyện do các Thế lực thù địch trong và ngoài nước đã cấu kết với nhau tung ra vu khống cho đảng?
Hai ông Nguyễn Phú Trọng và Võ Văn Thưởng phải nói sao cho dân xuôi tai, dừng để cho “diễn biến hòa bình” giật mất lá cờ thi đua thì nguy to. -/-
Phạm Trần
(12/019)
Đe doạ hàng đầu cho sống còn của đảng hiện nay về mặt tư tưởng là đã có một số không nhỏ đảng viên quay lưng lại với Chủ nghĩa Cộng sản; công khai bài bác Mác-Lenin và đường lối lãnh đạo sai lầm và lỗi thời của đảng.
Vô số đảng viên không những đã coi thường lệnh phải bảo vệ chế độ bằng mọi giá mà còn thờ ơ với phong trào “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".
Tình trạng này đang dâng lên như con nước thủy triều trước thềm Đại hội đảng XIII, diễn ra vào tháng 01/2021.
Do đó khi Hiến pháp và Cương lĩnh đảng đều lấy Chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh làm nền tảng xây dựng đất nước mà bị nhiều đảng viên phủ nhận cả hai thì đảng lung lay là tất yếu.
Vì vậy không ngạc nhiên khi thấy Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên Giáo Trung ương, Võ Văn Thưởng phải cảnh báo:”Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng là vấn đề có tính quy luật và mang tính cấp bách trong tình hình hiện nay.”(báo Thanh Niên, ngày 05/07/2019)
Nhưng tại sao khẩn trường đến thế, vì theo ông Thưởng, những người xoay chiều chống đảng lại chính là:” Những cán bộ, đảng viên, kể cả những đảng viên từng giữ chức vụ cao trong bộ máy nhưng suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hóa.”
Vi vậy, ông Thưởng, 49 tuổi, đã gay gắt nói:” Những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong bộ máy chính trị là nhóm thế lực thù địch không khó để nhận ra nhưng rất khó đấu tranh.”
CHÁN ĐẢNG HƠN CƠM NGUỘI
Tại sao lại “khó đấu tranh” ? Ông Thưởng trả lời:”Vì là lực lượng "len lỏi và phức tạp".
Như vậy là rất căng. Mạng lưới an ninh nội bộ của đảng đã bị những kẻ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chui vào nhiều nơi khiến cho tình hình nội bộ khá phức tạp, rất khó biết ai là thù, ai là bạn.
Ông Thưởng đã hằn học đặt những cán bộ, đảng viên quay lưng lại đảng vào hàng ngũ “thế lực thù địch”, thay vì gọi họ là “thành phần cơ hội trong nước” như trước đây.
Nhưng “thế lực thù địch” này chiếm bao nhiêu phần trăm trong số hơn 4 triệu đảng viên ? Ông Thưởng không nói. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng giấu luôn, dù đã nhiều lần Lãnh đạo thừa nhận đó là “một số không nhỏ”.
Vẫn theo bài nói chuyện dài tới 75 phút tại Hội nghị báo cáo viên các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tháng 7/2019, ông Thưởng cho biết:”Các thế lực thù địch sử dụng các thủ đoạn, phương thức chống phá rất muôn hình vạn trạng, đặc biệt là sử dụng truyền thông đại chúng, sử dụng internet và truyền thông xã hội” để phổ biến quan điểm chống đảng.
“Trong khi đó”, ông Thưởng nói tiếp, “những người làm công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lại thụ động hơn, rơi vào tình trạng phải chờ định hướng, thậm chí là chờ chế độ chính sách và đây là vấn đề cần lưu ý khắc phục sớm.”
Thất bại của ngành Tuyên giáo không mới, vì người dân bây giờ đã thông minh hơn và biết tìm ra sự thật nhanh và chính xác hơn tuyên truyền của đảng.
Vì vậy, theo ghi nhận của báo Thanh Niên (05/07/2019), ông Thưởng yêu cầu các cấp Tuyên giáo:” Cần phải đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước. “Trong đánh giá các nghị quyết vẫn có một câu là tổ chức thực hiện nghị quyết là khâu yếu. Tôi cho rằng, quán triệt nghị quyết cũng là khâu yếu. Nhiều cuộc học nghị quyết tôi quan sát được tỷ lệ không nhỏ ngồi dưới xem iPad, iPhone, đọc tin, nhắn tin.”
Đây là bằng chứng khác cho thấy các Nghị quyết của đảng không còn hấp dẫn đồi với đảng viên. Sự nhàm chán, lập đi lập lại, chồng chéo lên nhau, đấm đá lẫn nhau, bản sau tồi hơn bản trước là chuyện thường tình trong nội bộ đảng.
Cho nên, lại không ngạc nhiên khi thấy ông Võ Văn Thưởng yêu cầu phải tăng cường kiểm soát người sử dụng Internet. Ông nói:”Từ nay tới Đại hội Đảng XIII, mỗi địa phương chắt lọc đối tượng trên địa bàn, xử lý một vài đảng viên, cá nhân, công dân sử dụng internet, mạng xã hội vi phạm luật An ninh mạng để xử lý thì tình hình sẽ tốt hơn rất nhiều.”
MẶT TRÁI CỦA MÁC-LENIN
Phía sau của chỉ thị này là mối xo xoắn vó lên của ngành Tuyên giáo trước sức mạnh của Internet và các mạng xã hội dân sự. Vì nhờ có Internet mà người dân Việt Nam, nhất là những người có học và giới Thanh niên đã biết nguyên nhân tại sao Chủ nghĩa Cộng sản đã sụp đổ ở nước Nga và Đông u từ 1989 đến 1992.
Họ cũng hiểu tại sao, đảng CSVN không dám ra khỏi qũy đạo Cộng sản nếu Trung Cộng chưa từ bỏ thứ gọi là “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”.
Do đó, trong bài viết về tổ chức Đại hội đảng bộ các cấp địa phương,từ tháng 4/2020 đến trước ngày 30/6/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu các cấp bảo đảm giữ vững tư tưởng với định hướng hàng đầu là phải:” Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng.”
Thứ đến là “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng”, và Báo chí và các cơ quan chức năng “phải huy động được lực lượng rộng rãi đẩy mạnh đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc, thù địch và những thông tin giả, xấu, độc, bịa đặt, xuyên tạc trên mạng xã hội, Internet, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng.”
Tuy nhiên, vì còn tình trạng thượng bất chính, hạ tắc loạn nên ông Trọng đã nhìn nhận :”Vẫn còn cấp ủy chưa khẳng định được trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, còn thụ động, trông chờ, ỷ lại, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân; có biểu hiện "trên nóng dưới lạnh", "trên có chính sách, dưới có đối sách"; dù có điều kiện, hoàn cảnh thuận lợi nhưng chưa khai thác, chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội, thậm chí còn để xảy ra tiêu cực, vi phạm pháp luật.”
PHAI NHẠT MUÔN NĂM
Nhưng mặc cho ông Trọng kêu gào và kiên định, rất nhiều đảng viên đã tự đặt mình ra ngoàii vòg cương tỏa của đảng để tự do suy nghĩ và tự do hành động theo ý muốn.
Một bài viết trên báo Quân đội Nhân dân (QĐND) ngày
27/11/2019 đã cho ta thấy mặt trái không thật của những điều đảng khoe như : thành công trong chống tham nhũng; đoàn kết trong nội bộ; thống nhất lãnh đạo; quyết chí một lòng theo đảng; tuyệt đối trung thành với đảng ; và, kiên định, giữ vững và bảo vệ nhà nước Xã hội chủ nghĩa do đảng lãnh đạo.
Nội dung bài viết “Nhạt phai lý tưởng cách mạng - “đường gần” dẫn đến suy thoái” đã phơi ra trắng đen giữa thật và giả trong tình hình cán bộ, đảng viên trước Đại hội đảng XIII.
Một số đoạn sau đây đã nói lên tất cả tình hình cán bộ, đảng viên, trong hơn một năm còn lại của Khóa đáng XII (2016-2021):
“Trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc và mặt trái kinh tế thị trường phần nào làm nhạt phai lý tưởng cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Sự nhạt phai đó biểu hiện dưới nhiều khía cạnh chệch choạc. Thay vì đề cao lý tưởng “Tổ quốc là trên hết”, nhiều người chỉ nhăm nhăm chăm lo quyền lợi cá nhân, bảo kê lợi ích nhóm, bất chấp pháp luật, chà đạp đạo lý để co kéo lợi ích tối đa về bản thân, gia đình và bộ phận nhỏ nhoi của mình.”
“Một bộ phận cán bộ do tham nhũng, vơ vét mà sa đà vào lối sống vinh thân phì gia, xa hoa, cách biệt với người dân, không quan tâm đến cuộc sống vất vả của biết bao người lao động và dân nghèo.
Thay vì thực hiện phương châm “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tìm mọi kẽ hở của cơ chế, “khe hổng” của chính sách, luật pháp để bòn rút của công, gây nhiễu nhương, phiền hà doanh nghiệp và người dân mà thực chất là muốn người khác phải lót tay cho mình thì mới giải quyết công việc hanh thông.”
“Thay vì “nói đi đôi với làm”, “nói đúng quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng”, thì một bộ phận cán bộ, đảng viên lại nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo, phát ngôn vô tổ chức, vô ý thức kỷ luật, gây tổn hại đến uy tín, danh dự của Đảng, tác động xấu đến dư luận xã hội. Rồi tình trạng một số cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao khi đăng đàn, viết báo, viết sách thì lên mặt “đức cao vọng trọng” để khuyên răn, chỉ bảo, giáo huấn cấp dưới và nhân dân phải đề cao lý tưởng, coi trọng đạo đức, nâng tầm văn hóa, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng phía sau những lời hay ý đẹp, mỹ từ ấy là một tâm địa ích kỷ, nhỏ nhen, ham hố tầm thường của chính người trong cuộc.”
VẪN NHƯ CŨ
Ngoài ra, cũng nên nhìn qua nội dung một bài viết khác về tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị của đảng viên trong báo Quản lý Nhà nước (QLNN) ngày 16/06/2019.
Bái viết mở đầu:”Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, do tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị (TTCT), đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên (CBĐV) diễn biến phức tạp.”
Báo này nhắc lại rằng từ Đại hội Đảng XII năm 2016, Trung ương đã nhấn mạnh: “Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên”.
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa XII), Đảng thừa nhận:” Suy thoái TTCT, đạo đức, lối sống của CBĐV không những không được đẩy lùi mà còn biểu hiện rõ nét hơn. Vì vậy, Đảng đã ra nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về TTCT, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.”
Vậy suy thoáii về Tư tưởng-Chính trị của đảng viên là gì ?
Báo QLNN giải thích:”Trước hết, sự suy thoái về TTCT có thể nhận diện qua một số biểu hiện cụ thể như: phai nhạt lý tưởng cách mạng; nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; khi có khuyết điểm thì giấu giếm, thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật.”
Ngoài ra báo này cũng nêu lên những đặc tính xấu của cán bộ, đảng viên như là:” Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng. Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức. Vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện. Thiếu gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị và đời sống sinh hoạt hằng ngày.”
TRƯỚC MẮT ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG
Vậy tình hình hiện nay , sau 10 Hội nghị Trung ương, có gì thay đổi khá hơn trong Đạo đức, lối sống và tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên không ?
Bài viết trả lời cho Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng:”Thực tế hiện nay, tình trạng suy thoái về TTCT, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ CBĐV chưa bị đẩy lùi mà còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn. Một số cán bộ sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, cơ hội; không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình trục lợi. Có nơi bổ nhiệm cán bộ tràn lan, sai nguyên tắc, gây bức xúc trong xã hội, điển hình như vụ Trịnh Xuân Thanh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang; vụ ở Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương có 46 người thì 44 người là cán bộ lãnh đạo quản lý….
Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng và cá nhân, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đến mức phải thi hành kỷ luật….”
Như thế thì tình hình có nhiễu nhương, rối ren không hay toàn là chuyện do các Thế lực thù địch trong và ngoài nước đã cấu kết với nhau tung ra vu khống cho đảng?
Hai ông Nguyễn Phú Trọng và Võ Văn Thưởng phải nói sao cho dân xuôi tai, dừng để cho “diễn biến hòa bình” giật mất lá cờ thi đua thì nguy to. -/-
Phạm Trần
(12/019)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Luận Về Chân Lý
Trần Xuân Thời
04:12 04/12/2019
Từ cổ chí kim, nhân thế đi tìm chân lý cơ hồ như không bao giờ biết mệt mỏi. Chủ đích là để tìm giải đáp cho các vấn nạn về Đấng Tạo Hóa, vũ trụ, đời người và người ở đời, tiền sinh, hậu kiếp.
Nhiều triết gia đã ví con người đi tìm chân lý như những con thiêu thân bay chung quanh ánh sáng của ngọn đèn. Ngọn đèn tượng trưng cho Ánh sáng, Chân lý, Linh quang, Điển quang hay Đấng Tối Cao. Phải chăng chung quy chỉ có một Chân lý tối hậu hay một Hóa Công, tất cả đều đồng quy về một điểm…Nhìn chung từ Âu sang Á, triết lý nhân sinh được dựa trên hai tín niệm hệ chính là Hữu thần (Theism) và Vô thần (Atheism).
Nói một cách tổng quát, hữu thần tin tưởng vũ trụ và nhân loại do một vị Thần tác tạo nên được nhân loại gọi qua nhiều danh xưng như thần Zeus, Dieu, God hay Thượng đế, Hóa công… Con người có linh hồn bất diệt. Vô thần không tin vào sự hiện hữu của thần linh, con người không có linh hồn, tự nhiên sinh ra và chết là hết. Ngoài hai môn phái nầy, môn phái thứ ba là môn phái Bất khả Tri Luận (Agnosticism) chủ trương trí tuệ con người hữu hạn không thể xác nhận hay phủ nhận về sự hiện hữu của thần linh.
1-Triết học Tây Phương
Từ thế kỷ thứ sáu (VI) trước Công nguyên, các triết gia Hy Lạp đã nghiên cứu về vũ trụ. Họ hiểu một cách khái quát là vũ trụ do thần linh tạo nên. Quan niệm nầy đã được thể hiện qua tác phẩm Thần Minh Luận (Theogonie) của thi hào Hesiode. Theo Thần Minh Luận thi vũ trụ khởi nguyên là một khối hổn mang, thuộc phần vụ của thần Chaos, thần hổn mang chi sơ. Vũ trụ là một vực thẵm trống rổng mà có lẻ thiên văn học ngày nay gọi là “Black hole”. Trong đó có thần Eros (Cha Trời) sinh sản ra muôn vật, muôn loài trong vũ trụ; thần Gaia (Mẹ Đất), nuôi nấng vạn vật, và Thượng đế hay Zeus cai quản và ngự trị toàn vũ trụ.
Nói đến thần linh chỉ có lòng tin (faith) mà không thể chứng minh được bằng kiểm chứng khoa học. Vì khoa học là khoa nghiên cứu về vật chất hữu hình, không thấy được linh hồn trong khi giải phẩu óc, cũng không thấy được tình yêu khi mỗ tim. Trái lại tình yêu là một thực thể không thể phủ nhận được. Một số triết gia Hy Lạp nghiên cứu về con người, sự kết cấu của vũ trụ và những hành chất cơ bản của thiên nhiên (khoa Particle Physics).
(1)-Nhà toán học kiêm triết gia Thales (624-546 B.C./ trước Công nguyên) cho rằng nguyên chất cơ bản cho sự biến thái của vạn vật là nước. Trong tất cả những mầm sống đều có nước. Thales còn là một thiên tài về thiên văn học, ông đã tiên đoán được một cách chính xác hiện tượng nhật thực xảy ra năm 585 trước Công nguyên theo chu kỳ âm lịch.
(2)-Triết gia Anaximene (585-528 B.C.) cho rằng nguyên chất cơ bản, đơn nhất và vô hạn định là khí (pneuma). Khí nâng đở con người và sinh vật. Anaximene đã bàn về định luật tất định, nghĩa là vạn vật sẽ trở về nguyên lý từ chổ chúng đã sinh ra, “tro bụi sẽ trở về tro bụi”.
(3)-Nhà toán học Pythagore (570-496 B.C.) đã bàn đến sự tu luyện khổ hạnh để đạt đến tình trạng xuất thần. Con người chỉ có thể hiểu được bản tính của linh hồn qua trạng thái xuất thần, hồn lìa khỏi xác. Trong nghi lễ tế tự, người hành lễ dùng rượu say sưa để dễ xuất thần và hòa đồng với thần linh. Quan niệm về hồn và xác thể hiện tính cách nhị nguyên: Thân xác là phần khả tử, có sinh thì có diệt. Linh hồn là phần bất tử, nhập vào thể xác, “hồn nhập thể” sống tạm bợ trong xác. Nếu sống công chính, thánh thiện, linh hồn sẽ được giải thoát sau khi chết. Nếu không, linh hồn sẽ nhập vào một sinh vật khác, quan niệm nầy tương tự quan niệm về luân hồi của triết học Ấn độ (Hinduism).
(4)-Triết gia Heraclite (544-484 B.C.) cho rằng nguyên chất cơ bản của vũ trụ là lửa. Vũ trụ là một khối lửa linh động. Mọi sự vật đều biến dịch, trôi chảy như một dòng sông. “Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông”, cũng như “tôi không có thể gặp lại tâm hồn tôi chiều nay”. Mọi sự đều biến chuyển từng giờ, từng khắc hay vô thường.
(5)-Triết gia Empedocle (492-432 B.C.), vũ trụ được cấu tạo bằng 4 nguyên chất: Lửa, Nước, Khí và Đất. Quan niệm nấy gần với quan niệm của Kinh Dịch về ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa và Thổ. Khi các nguyên chất này hòa hợp thì có sự sống và khi các nguyên chất nầy tách rời tạo nên sự hủy diệt. Cảnh vật, nhân sinh biến đổi qua chu kỳ kết hợp, giống như tình yêu, liên kết, tạo ra sự sống và phân tán, thù hận, tan rã đem đến sự hủy diệt.
(6)-Triết gia Leucippe và Democrite đã phát kiến ra một ý niệm mới: Ý niệm về nguyên tử. Nguyên tử (atom) là đơn vị bất khả phân của các nguyên chất cơ bản, là đơn vị nhỏ nhất về vật lý không thể phân hóa thêm nữa. Leucippe và Democrite dùng vật lý để giải thích linh hồn. Linh hồn được cấu tạo bằng những nguyên tử tròn trĩnh của lửa, di động trong toàn châu thân nhờ sự hô hấp, nhờ đó sự sống mới tồn tại được. Democrite cũng đưa ra ý niệm khoái lạc và đau khổ. Làm việc thiện mang lại sự thỏa mãn, sung sướng, khoái lạc. Làm việc độc ác mang lại sự đau khổ, tâm động và phiền não. Trong Đạo Đức Học có câu ”Khoái lạc và đau khổ là hai kẻ thù địch mà thần quyến không hoà giải nỗi cho nên trói chúng lại với nhau và bắt đánh bạn với nhau suốt đời”.
Quan niệm nầy hữu lý vì người quốc gia không nên gây thù, chuốc oán với nhau. Vì thù hận và trả thù chỉ được thỏa mãn trong chốc lát và tạo nên sự đau khổ triền miên. Tha thứ sẽ được thỏa mãn lâu dài. Từ bi, hỷ xã, vị tha, bác ái, sẽ khiến cho hồn lành trong xác mạnh do ảnh hưởng tâm sinh lý. Con người phải tìm hạnh phúc vĩnh cữu, trường tồn, xa lìa những khoái lạc tạm bợ, dễ tan biến hay dễ hư nát của trần gian. Sung sướng trong sự chí thiện, hoàn hảo sẽ mang lại tinh thần minh mẫn, hay minh triết. Chỉ có minh triết mới giúp con người phân biệt được thiện, ác. Chỉ có minh triết mới giúp con người vươn lên đến sự thỏa mãn hoàn hảo nhất. “Be perfect as your heavenly Father is perfect” ( Mt 5:48). Hãy trở nên toàn thiện vì Thiên Chúa tạo nên vũ trụ và nhân loại là Đấng toàn thiện, toàn mỹ.
(7)-Triết gia Protagoras (480-410 B.C.) cho rằng con người là thước đo của vạn vật. Sự vật thể hiện trước mắt của chúng ta như hình hài, màu sắc, nóng lạnh nhờ giác quan của chúng ta thu nhận hay tri giác được (perception) Mỗi người tri giác tín hiệu từ bên ngoài qua giác quan, trí tuệ gạn lọc, cảm nhận sự vật một cách khác nhau nên sắc thái và ý nghĩa sự vật sẽ khác nhau. Nói khác đi, tùy theo “cặp kính ta đeo mà mọi vật bên ngoài đều thay đổi”. Protagoras còn cho rằng con người là một hiện hữu biệt lập, không lệ thuộc thần linh. Một là không biết thần linh có hay không, hai là chuyện thần linh quá khó khăn mà cuộc đời thì ngắn ngủi, do đó nên chú tâm vào những gì thuộc con người mà thôi. Có lẽ khi tu luyện đạt đến trình độ minh triết như quan niệm của Democrite thì đương nhiên con người vươn lên và thông hiệp với thần thánh, giai đoạn “Nhi tri thiên mệnh”. Nếu “không mong mỏi được thấy Thần linh thì sẽ không bao giờ thấy được Thần linh”. Vì vậy, nhân loại phảì vươn cao và mong ước một cách đam mê mới mong gặp gở đươc thần linh! Ultreya/ Forward!
2- Triết học Đông phương
(1)-Song hành với triết học Hy Lạp, nền văn minh Ấn độ đã lưu lại cho nhân thế một nền triết lý rất phong phú, đầy tính chất thần linh trong nổ lực đi tìm chân lý của cuộc đời. Kho tàng triết học Ấn độ (Hinduism) được thể hiện qua các bộ kinh sách như kinh Vedas, kinh Upanishad, kinh Bhagavad Gita… Các bộ kinh nầy có thể được viết từ khỏang năm 4000 đến năm 800 trước Công nguyên. Các kinh sách nầy đề cập đến sự tương liên giữa người (Atman:/ internal self, soul, tiểu ngã, linh hồn) và Tạo hóa (Brahman/ Absolute being pervading the universe) : đại ngã, vũ trụ, đấng tạo hóa) và quan niệm về luân hồi (Samara: the cycle of repeated birth and death through incarnation), nghiệp chướng (Karma: good action brings good next life and vice-versa) . Linh hồn bất diệt, hết kiếp nầy lại tái sinh (rebirth) vào kiếp khác. Cuộc đời cứ tử sinh, sinh tử cho đến khi thoát được vòng nghiệp chướng. Muốn thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp chướng, con người phải biết tu tâm, dưỡng tánh, sống đạo hạnh để thoát khỏi vòng luân hồi (moksha: gaining liberation from birth and death cycle).
(2)-Thiền môn Jainism chủ trương không màng đến đời sống vật chất, đi chân không, uống nước lã, không mặc áo quần vì áo quần chỉ làm vướng bận thân xác… sống xa chốn phồn hoa đô hội đến chốn thâm sơn cùng cốc để tu luyện.
(3)-Môn phái Duy vật (Materialism) lý luận rằng nếu đời là bể khổ, thì phương pháp diệt khổ không phải là tu trì mà tìm sự say sưa, khoái lạc để tiêu trừ sự đau khổ. Môn phái nầy chỉ tin vào thế giới hữu hình, phủ nhận thế giới vô hình, chết là hết. Chủ trương nầy tương đồng với quan niệm của Epicure (Hy Lạp). Epicure là triết gia đầu tiên nêu lên vấn đề phủ nhận linh hồn bất diệt. Ông chủ trương con người không có linh hồn, chỉ là thể xác, chết là hết. Môn phái nầy có lẻ là tiền thân của chủ nghĩa vô thần (Atheism).
(4)-Môn phái Phật học (Buddhism) do Đức Phật Thích Ca sáng lập với chân lý Tứ Diệu Đề và Bát giới… Ngài là Thái Tử Gautama Siddharta (563-483 B.C.) của tiểu quốc Ca Tì La Vệ. Theo tục truyền, Ngài sinh ra đã có 32 tướng tốt, nếu xuất gia tu hành thì sẽ thành Phật. Ngài thấy thế nhân đau khổ, bỏ gia đình, đế nghiệp vào rừng tu luyện cho đến khi đắc đạo… Theo Ngài, sở dĩ thế nhân đau khổ là vì tham sân si, thất tình lục dục… tất cả đều do vô minh. Muốn diệt khổ, thế nhân phải diệt dục. Phương pháp của Ngài là phương pháp tự lực cánh sinh (self-help approach). Tự tu luyện, không lệ thuộc vào sự phù trì của thần linh. Nhân thế nên tự cứu khổ theo giới luật mà Ngài đã truyền dạy mới mong thoát được vòng luân hồi, nghiệp chướng sau khi lâm chung. Đến Đại hội thứ 2 của Phật hoc, khoảng năm 373 B.C. trước công nguyên, Phật học chia làm hai môn phái. Phái Tiểu Thừa (Hynayana/Theravada) theo phương thức hành đạo nguyên thủy của Đức Phật, truyền qua Tích Lan, Miến điện, Thái Lan… Môn phái Đại Thừa (Mahayana) truyền qua Trung Hoa, Nhật bản, Đại hàn, Việt Nam…
(5)-Tại vùng Trung Đông, Môn phái Hồi học (Islamism) bành trướng mạnh mẽ từ thời Giáo chủ Mohammed (A.D.570-632) sau Công nguyên. Islam hay triết học Hồi có nghĩa là “Phụng thờ Đấng Tạo Hóa”. Coran là kinh thánh của Hồi giáo thể hiện triết lý hành đạo và nguyên tắc xử thế, giải quyết thế sự. Tín hữu Hồi thờ Chúa duy nhất là Allah. Ngài là đấng toàn năng tạo dựng nên vũ trụ và nhân thế. Thể thức hành đạo dựa trên 5 quy điều chính:
(a) Chỉ thờ một Chúa duy nhất. (b) Cầu nguyện để ca tụng Thiên Chúa: sáng, trưa, chiều, tối và trước khi đi ngủ, (c) Ăn chay hãm mình trọn một tháng trong một năm (d) Làm phước lành, bố thí cho kẻ nghèo khó, già cả bệnh hoạn theo tỷ suất lợi tức hằng năm, (e) Hành hương thánh địa Mekka ít nhất một lần trong suốt cuộc đời. Số tín đồ khoảng 800 triệu, đứng hạng nhì sau Thiên Chúa Giáo. Môn phái Hồi cũng chia làm nhiều môn phái, là tôn giáo mạnh nhất ở Trung đông.
(6)-Tại Trung hoa, Nho học (Confucianism) và Lão học (Taoism) cũng đã phát triển đồng thời với các môn phái triết học Hy lạp, Ấn độ. Đức Khổng Tử (551-479 B.C.) đã từng chu du liệt quốc để quảng bá triết thuyết của ngài dựa trên Tam Cương, Ngũ Thường, Ngũ Luân, Tam Tòng, Tứ Đức… nhằm cải tiến luân lý cá nhân để xây dựng cộng đồng xã hội…Muốn làm người xứng đáng, kẻ trượng phu phải biết hành hiệp. “Thượng vi đức, hạ vi dân, sắp hai chữ quân thần mà ghánh vác (Nguyễn Công Trứ), theo cương thường đạo nghĩa, từ sự tìm tòi học hỏi ( investigation of things, để cách vật chí tri (extention of the knowled ge), thành tâm (will becomes sincere) chánh ý (mind is rectified), đến tu thân (personal life is cultivated), tề gia ( family is regulated), trị quốc ( state is put in order), và bình thiên hạ (peace is established throughout the world)…
Chữ Tu, theo nguyên nghĩa gồm chữ Nhân là người và chữ Văn là vẻ đẹp. Chữ nhân viết thẳng đứng với ý nghĩa vươn lên đến sự hoàn mỹ (perfection). Tu là giai đoạn căn bản và cần nhiều cố gắng của bản thân, tự rèn luyện học tập để phát triển kiến thức và tâm đạo. “Đại học chi đạo, tại minh minh đức…”
Người có kiến văn, trí dục, cần có đức dục để tạo nên con người tài đức song toàn. “Trong thiên hạ có ba cái đại họa: Một là không có tài mà giữ chức vụ cao, hai là không có công mà được thưởng, ba là không có tội mà bị phạt”. Dân tộc nào lâm vào ba đại họa nầy, dân tộc sẽ đói khổ, suy vong. Sống ở đời phải có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, luôn luôn giữ hành vi chính trực. “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi “. Một ngày mà không nghĩ đến điều thiện thì mọi điều ác sẽ dấy lên. Thêm vaò đó, môt khi con ngươi nghĩ đến ý niệm xấu hay tốt, cả Trời, dất đều biết.”’Nhân tâm sinh nhất niệm. Thiên điạ tận giai tri”! (when people’s mind give birth to a thought, both Heaven and earth know all). Ý niệm tốt đuợc thiên thần (angel) hổ trợ, ý niêm ấu được ma vương (satan) tán thưởng!
Triết học Trung hoa quan niệm Trời chỉ giúp người biết tự lực tự cường. “Thiên hành kiện dĩ tự cường bất tức. Cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chí” (Kinh dịch). Quan niệm nầy tương đồng với quan niệm của tây phuơng “Aide toi, le ciel t’aidera” hay “God helps those who help themselves”.
Chung quy nhân loại vẫn nổ lực không ngừng, tự thánh hóa bản thân mình bằng nhiều phương cách khác nhau.
3- Sự Tương Đồng trong Ý Niệm Tu Hành
Mọi phương cách tu thân thánh thiện đều có thể đồng quy vào một điểm là đi tìm chân lý, nhắm đến cứu cánh giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi để đạt đến đời sống vĩnh cửu. Trừ những kẻ lạc đạo, vô thần, đa số các tôn giáo đều có những điển mô tương đồng: Chân lý nhân loại đi tìm là chân lý giúp con người được đắc đạo “The true light that enlightens everyone” (Thông điệp Veritatis Splendor). của ĐGH John Paul II). Các bậc thánh nhân trong nhiều hoàn cảnh đã bỏ giàu sang phú quý, thân bằng quyến thuộc, cuộc đời thế tục, chấp nhận lý tưởng sống đời sống tu trì, hoặc đến chốn cùng cốc thâm sơn, vô vi tịch mịch để tu luyện mong tìm phương cách cứu rỗi hoặc hy sinh cuộc đời để đi tìm chân lý.
Thánh Kinh cũng xác nhận “Everyone who has left houses or brothers, or sisters or father or mother or children or lands for my name’s sake, will receive a hundredfold and inherit internal life” (Mt 19:29). Những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái, địa ốc, vì danh Thầy thì sẽ được công đức gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.
Đức Khổng Tử giữ phương vị của một “vạn thế sư biểu”, phù thế giáo một vài câu thanh nghị, dù nhân thế tranh bá đồ vương, loạn lạc. Ngài vẫn luôn luôn xử thế thuận theo thiên mệnh “Thuận thiên giả tồn”. “One who despise man’s sin remains the model for moral action in accordance with Lord’s commands”.
Đức Lão Tử sống với thiên nhiên, để tu tâm dưỡng tánh, tìm chân lý cho cuộc đời. Thông Điệp Humanae Vitae cũng đã viết “The natural moral law expresses and lays down the purposes, rights and duties which are based upon the bodily and spiritual nature of the human person. Therefore, the law cannot be thought of as simply as sets of norms on the biological level. Rather it must be defined as the rational order whereby man is called by the Creator to direct and regulate his life and his actions and in particular to make use of his own body”. Sống theo luật thiên nhiên tức là sống theo tiếng gọi và sự điều hướng của Thượng Đế. Các bậc thánh nhân đã đóng góp vào hành trình cải tiến cuộc đời trần thế, tìm hiểu ý nghĩa cuộc đời và giúp nhân thế hướng dẫn đến đời sống vĩnh cửu mai hậu.
Như vậy các hoc thuyết (doctrine) về tín ngưởng nhằm hướng dẫn nhân loai làm việc lành phước đức để đầu tư vào đời sau. “Được lời lãi cả thê’ gian mà mất linh hồn cũng chẵng được ích gì”. Những người lương thiện, những bậc tu trì đắc đạo trong bất cứ tôn giáo nào, suốt đời sống theo lương tâm chính trực, bằng cách này hay cách khác, đều cũng có thể được hưởng phước đời đời!
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II, vào đầu tháng 11 năm 1999, trong cuộc viếng thăm Ấn Độ, đã công bố Tông Thư: Giáo Hội tại Á Châu:
“Giáo Hội Công Giáo tỏ lòng cung kính và ngưởng mộ tất cả truyền thống tinh thần của các Tôn Giáo Á Châu và muốn dấn thân trong cuộc đối thoại chân thành với các tín hữu của các tôn giáo. Những giá trị tôn giáo mà các đạo giáo dân gian giảng dạy đang chờ đón sự viên mãn trong Đức Giêsu Kitô”. “Asia is also the cradle of the world’s major religions—Judaism, Christianity, Islam and Hinduism. It is the birthplace of many other spiritual traditions such as Buddhism, Taoism, Confucianism, Zoroastrianism, Jainism, Sikhism and Shintoism. Millions also espouse traditional or tribal religions, with varying degrees of structured ritual and formal religious teaching. The Church has the deepest respect for these traditions and seeks to engage in sincere dialogue with their followers. The religious values they teach await their fulfilment in Jesus Christ.”
Tông Thư Veritatis Splendor và Tông thư Ecclesia in Asia giúp chúng ta am hiểu thêm công việc của Thiên Chúa qua các phương cách cứu rỗi tiềm ẩn trong chủ trương tổng quát: “Ngoài Giáo Hội Công Giáo, không có sự cứu rỗi- Extra Ecclesiam, nulla salus” và “No one can enter the Kingdom of God unless he is first born of water and Spirit. (Jn 3:5).
Từ thuở tạo thiên lâp địa, từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, con người đã tin vào một Đấng Tạo Hóa (Creator). Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776, đã minh định nhân loại được sinh ra bình đẵng và được Tạo hóa ban cho những quyền bất khả tương nhượng trong đó có quyền được sinh sống, được tự do và tìm kiếm hạnh phúc.” All men are created equal, that they are endowned by their Creator with certain unalienable Rights...”
Thánh Thomas Aquino (1225-1274 AD) trong tác phẩm “Tổng Luận về Thần học- Summa Theologica”) đã viết “Đấng Tạo hóa toàn năng là đệ nhất nguyên nhân/ tác nhân, (First Cause/ agent) tạo nên muôn loài và vũ trụ. “Đấng Thượng Đế nội tại (immanent) ở trong vạn vật và trong nội tâm hay lương tri của mỗi người nên trên bình diện tự nhiên Thiên Chúa đã đương nhiên hiện hữu trong tâm trí của con người rồi.” Triêt học cổ của Trung hoa cũng đồng quan điểm: “Nhất nhân chi tâm tức thiên địa chi tâm”. Tâm linh cuả nhân thế cũng là tâm linh của Trời đất.
Vì thế, những tín hữu có lòng cao thượng trong các giáo hội trên trần thế là những tín hữu không những yêu chuộng những người đồng tín ngưởng của mình mà còn yêu chuộng cả những người không cùng tín ngưởng nhưng có lòng thành. Quan niệm nầy được Công đồng Vatican II (1962-1965) minh xác qua Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes. 4): “The Church’s Pastors… speaking with love and mercy not only to believers but to all people of good will” vì ơn Cứu Độ của Thiên Chúa được ban cho mọi người. “Salvation is open to all”.
Để xác minh ý niệm cứu rỗi ( salvation) một cách rộng rãi, Công Đồng Vatican II đã tuyên bố đối với những ai, không vì lỗi của họ, không biết gì về Thiên Chúa và Giáo hội, nhưng cố công tìm kiếm Thiên Chúa với lương tâm chính trực, có thể được sự sống đời đời ….Vì lòng thành và chân lý tìm thấy trong những người nầy đang chờ đón sự viên mãn trong Đức Giêsu Kitô. “Those who without any fault do not know anything about Christ or His Church, yet who search for God with sincere hearts and under the influence of grace, try to put into effect the will of God as known to them through the dictate of conscience…can obtain eternal salvation…Nor does divine Providence deny the help that are necessary for salvation to those who, through no fault of their own, have not yet attained to the express recognition of God, yet who strive, not without divine grace to lead an upright life. For whatever goodness and truth is found in them is considered by the Church as preparation for the Gospel and bestowed by Him who enlightens everyone that may be in the end has life” (Lumen Gentium 16- Ánh Sáng Muôn Dân). Do đó, không có ý niệm kỳ thi tôn giaó trong chủ trương của các bậc chân tu. Hành vi kỳ thị tôn giaó phát xuất từ những người bất chính muốn lợi dụng tôn giáo để gây phân hoá, hận thù nhằm phục vụ tà tâm của mình.
4- Tuân Giữ các Giới Răn
Các tín ngưởng đều có các giới răn, giới luật. Tuân giữ các giới răn tức là tuân luật. Luật này hướng dẫn con người đến chân lý. “If you wish to enter eternal life, keep His commandments” (Mt 19:18) Người ta thường nói: “Sống không có kỷ luật, thì chết sẽ không được vinh quang”. Thiên đàng, Niết bàn, Cõi phúc đều có giá cả.
Con người có quyền sống tự do theo quan niệm của cá nhân mình, miễn quyền tự do cá nhân không gây phương hại cho sự an sinh thể chất và bình an trong tâm hồn của nguời khác. “Tự do chân chính là tự do làm điều lành, lánh điều dữ.” Tuy nhiên, sống buông thả, tự do, tư tại “Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp, trong thú yên hà cuộc tỉnh say”, mà không chịu niệm kinh hôm sớm, giữ cho lục căn thanh tịnh, xa lánh tội lỗi thì khó có thể hưởng được phước đời đời. ”Nhất nhật bất niệm thiện chư ác giai tự khởi”. Một ngày mà không niệm thiện, ác tâm sẽ dấy lên.
Dĩ nhiên không ai bắt buộc mình phải tuân giữ giới luật, nhưng nếu muốn được hưởng phước đời thì phải làm lành lánh dữ trong lời nói cũng như hành động. Nói khác đi, khi tuân giữ các giới luật, con người tuân giữ một cách tự nguyện. Thiên Chúa khuyên nhân thế hãy theo Ngài vì Ngài là Đường, là Chân lý, là Sự sống. “Theo Ta, các con sẽ biết được chân lý và chân lý sẽ giải thoát các con”. “Come, follow me, you will know the truth, and the truth will make you free”.
Tâm lý chung của con người là muốn biết sư thực về mọi sự có liên quan đến đời sống của mình, của đoàn thể, của quốc gia, nếu không, sẽ không tránh được sự băn khoăn, khắc khoải. Biết sự thực, chúng ta có cơ may thoát khỏi những oan trái, tục lụy, xích xiềng của thế trần. Nỗi đau của VNCH là dân, quân, cán, chính không được môt phen tử chiến với địch quân trước khi bị gông cùm, khổ ải, phiêu bạt tha phương. Phần vì cấp lãnh đạo thiếu khả năng tiên liệu thời cuộc, thiếu sách lược ứng phó lúc quốc gia lâm nguy. Phần kkác, giới lãnh đạo không công bố đúng lúc thưc trạng quốc gia cho quốc dân, để chuẩn bị tinh thần đối kháng, rốt cuộc xảy ra tình trạng hoảng loạn, vở dàn tan nghé... Sự “mất niềm tin” vaò giới lãnh đạo. đến nay sau 44 năm vẫn còn phương hại đền các nỗ lực phục quốc.
Thượng Đế không bắt buộc thế nhân phải tuân luật vì Ngài đã ban cho con người ý chí tự do (free will). Có tự do hành động, con người mới có thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Có tự do hành đạo, con người mới có công đức. Tín ngưởng nào cũng khuyên nhân thế phải biết tôn trọng quyền cá nhân tự quyết. (self-determination). Sự ép buộc tuân luật lệ chỉ áp dụng cho thuở thiếu thời vì khi đó lý trí chưa trưỏng thành, chưa ý thức được những gì nên nói và những việc không nên làm, còn vô minh?. Khi còn vô minh thì sự “Tuân giữ các giới luật là nguồn gốc của sự khôn ngoan -Fear of law, which is the beginning of wisdom” (Prv.17). Vô minh (ignorance) có thể phân ra hai loại: Một loại vượt ra ngoài sự hiểu biết của nhân thế, bất khả tri (invincible ignorance/incapable of being overcome or defeated), không thể hiểu được. Loại vô minh thứ hai có thể cải thiện được ( vincible ignorance/ capable of being overcome, defated) bằng cách tầm thầy học đạo, sưu tâm, học hỏi để giảm bớt sự vô minh.
Mặc dù, thế giới có nhiều chủng tộc nên có nhiều văn hoá khác nhau nên quan niệm về thiện ác có thể khác nhau hay thiện ác là một ý niệm tương đối vì “Bên này núi Pyrénées là chân lý thì bên kia là sai lạc”. Nhưng thế thượng thường tình, có những điều ác “malum in se”, có nghĩa là tự nó đã là ác theo thiên luật cũng như nhân luật cấm đoán (malum prohibitum) như tội giết người, không xã hội nào dung tha. Ngoài ra, sự phân biệt thiện ác chẵng những do luật lệ của mỗi quốc gia, giới luật của mỗi tôn giáo truyền dạy, mà lương tâm con người cũng vừa là nhân chứng (witness) vừa là quan tòa (judge) phán xét hành vi của mỗi người.
Lương tâm (conscience), cũng như vô thức, tuy vô hình, nhưng âm thầm, tiềm ẩn, điều hướng hành vi của con người. Con người có thể che mắt luật pháp, che mắt thiên hạ về hành vi bất chính của mình, nhưng không thể che mắt lương tâm. Vì thế, người đời thường không làm việc trái lương tâm, phần vì sợ bị lương tâm cắn rứt, phần khác vì sợ hậu quả không được vào cõi phúc đời sau. Lương tâm là quan toà của Thiên luật (natural/divine law). ”Cọp giết người cọp yên ngủ. Người giết người thức đủ năm canh”. Trong tận đáy lòng của mỗi người có một loại luật, luật nầy không ràng buộc như luật đời (man-made law), nhưng mời gọi con người làm lành, lánh dữ. “In the depth of his conscience, man detects a law which does not impose on himself, but which hold him to obedience. Always summon him to love good and avoid evil, the voice of conscience can when necessary speak to his heart more specifically: Do this and sun that” (Rom. 2: 14-16).
Đúng vậy, tiếng lương tâm, khi cần sẽ khuyên con người làm điều lành và lánh điều ác. Lương tâm có trách nhiệm nên cũng có quyền hạn, đó quyền chế tài khiến cho những người phạm tội thường bị lương tâm cắn rứt…và nhờ đó, có khi tội nhân thú tội trước vi Linh huớng (Spiritual advisor) để xin hoà giãi hay cơ quan công lực để xin đền tội.
Những kẻ theo chủ thuyết vô thần (atheism) thường có những hành vi vô nhân, thất đức vì họ đã bán linh hồn cho quỷ. Một điều quan trọng là khi tâm trí vô minh (invincible ignorance), lương tâm dễ bị lầm lẫn. Vô minh có thể do trạng thái tâm trí bị hà tì, rối loạn thần kinh (psychopath) không đủ lý trí sáng suốt để phân biệt được phải, trái hoặc không có ý chí (will) vững mạnh để chon sự lành, lánh sự dữ, khiến cho lương tâm bị lầm lẫn (erroneous conscience) có khi làm sai làm sai mà tưởng là đúng!
Tôn giáo hướng thượng hành vi con người thì các chế độ đốc tài lại cho là thuốc phiện (the opiate of the people). Các chế độ đôc tài vi phạm tự do tôn giáo, xóa bỏ luân lý cổ truyền, chiếm đoạt tài sản của các giáo hội, bách hại thiện nam, tín nữ …vì những người cầm quyền trong các chế độ độc tài được tẩy não, theo duy vật biện chứng, chỉ tin vào những gì hữu hình và không tin con người có linh hồn hay hậu kiếp.
Cán bộ vô thần luôn luôn tâm động, trí quẩn, không thấy được ánh sáng chân lý. Họ chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện “La fin justifie les moyens”, là chủ trương trái luân thường đạo lý. Giết địa chủ để cải cách điền địa là bằng chứng của lương tâm lầm lẫn vì làm chuyện xấu không thể có kết quả tốt. “It is not licit to do evil that good may come of it”. Thiên lý, nhân luật liệt loại hành động phi nhân như sát nhân là loại “malum in se”. Tự bản chất các hành vi nầy là hành vi vô luân. “Whatever is hostile to life itself, such as any kind of homicide, genocide, euthanasia, and voluntary suicide …all these and the like are a disgrace” (Gaudium et Spes)
Những nguời không có tín ngưởng thường sống trong tình trạng ấu trỉ, chưa trưởng thành như Tổng Thống thứ 30 của Hoa Ký Calvin Coolidge (1923-1929) đã nhận xét “Only when men begin to worship, they begin to grow”. Chỉ khi nào con người có tín ngưởng mới trưởng thành. Những người tôn thờ chủ nghĩa vô thần là những người chưa trưởng thành về trí tuệ, mê muội, chưa liễu ngộ, chưa được mặc khải, chưa được đốn ngộ, sống trong thế giới vô minh, vấp phải hết lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác. Vì thế chính quyền các chế độc tài rất sợ quần chúng được tự do, vì luật hoàn mỹ nhất là luật tự do hành động. “The perfect law is the law of liberty” (Jm 1:25).
Những người theo chủ trương vô thần càng ngày càng lãnh hội được ngoài thế giới hữu hình còn có thế giới vô hình và trở lại hữu thần. Sự bành trướng của các tôn giáo trong các xã hội vô thần là một chứng minh cụ thể cho nhận định nầy. Ngay trong các xã hội độc tài, khuynh hướng vô thần không chế ngự nỗi khuynh hướng hữu thần, nên đảng cầm quyến phải dùng những phương pháp đàn áp, ngăn cản sự tự do hành đạo của các tôn giáo và tạo nên các tổ chức ma giáo “quốc doanh” để phục vụ chủ trương vô thần. Cộng sản sống trong ”ma giới” đầy si mê, lầm lạc “Ma đưa lối, qủy đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”! (Nguyễn Du).
Sở dĩ các chính quyền vô thần hay dùng bạo lực là vì các chính quyền vô thần không có khả năng thuyết phục, và mất năng lực thu hút kể cả với giới vô sản. Cộng đồng quốc tế vô thần càng ngày càng thu hẹp và đang đi đến chổ triệt tiêu …
Con người khi chưa ý thức hay cảm nghiệm đuợc thế giới linh thiêng, chưa biết thờ phụng đấng Chí tôn thì trí tuệ sẽ vô minh và chưa được trưởng thành. Họ không phân biệt được phải, trái, vấp phải hết lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác… cho đến lúc sụp đổ toàn diện như Liên bang Sô Viết… mới biết tập tểnh xây dựng lại tương lai với sự trợ lực về cả tinh thần lẩn vật chất của thế giới hữu thần trong tinh thần vị tha, bác ái. Người nhân ái thường chủ trương “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường bạo”. “Lấy lời lành mà khuyên người, mở miệng dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội”.
5- Yêu Mến Tha Nhân
Tôn giáo dạy con người yêu mến đồng loại. Chính sách “Chiêu hồi” những kẻ lầm đường lạc lối cũng bắt nguồn từ ý niệm nhân đạo. Ngược lại chính quyền XHCN tàn bạo, sau khi xâm lược miền Nam đã đày ải, giam cầm hằng trăm ngàn quân, công, cán, chính VNCH một cách vô lương tâm, khiến cho họ thân tàn ma dại, gia đình ly tán, những kẻ vô thần độc ác không sao kể xiết.
Thờ phượng đấng chí tôn và yêu thương đồng loại phải đồng nhịp, song hành như bóng với hình. Chúa GiêSu đã yêu mến nhân loại và đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. “Greater love has no man than this, that man lays down his life for his friends”. Thánh Gioan nói rằng: Nếu ai bảo rằng tôi mến Chúa mà ghét tha nhân thì đương sự là kẻ nói dối. Vì y không yêu mến tha nhân, người mà y thấy, thì làm sao có thể mến Chúa, người mà y không thấy. “If anyone said I love God and hates his brothers, he is a liar, for he has not love his brothers whom he has seen, cannot love God, whom he has not seen”. Đức Phật đã hy sinh đời sống vương giả, quyết tâm vào rừng tu luyện để mong cứu nhân độ thế thoát vòng luân hồi, nghiệp chướng.
Trong đời sống hằng ngày, những kẻ nói một đường làm một nẽo thường bị thiên hạ bình phẩm là những kẻ “khẩu phật, tâm xà”. Chúng ta là những người hữu thần, có tín tưởng , tin có đấng Tạo Hóa, sáng tạo nên vũ trụ và con người, hoặc, nếu không tin vào đấng Tạo Hoá, thì c ũng tin có linh hồn, có tiền thân, hậu kiếp. Các tôn giáo đều khuyên nhân thế sống thánh thiện đời này để đạt đến cứu cánh là đời sống vĩnh cửu mai hậu. Chân lý chung quy chỉ có một, không có hai chân lý tối hậu.
Mỗi cá nhân, trong thâm tâm, nội giới, được tự do chấp nhận tín ngưởng của mình là tín ngưởng lý tưởng, là chánh đạo. Nhưng để cho nhân loại được thái bình, thịnh thế, chúng ta cần tôn trọng các tín niệm hệ khác. để gia đạo nhân loại đuợc yên vui trong tinh thần tôn trọng tư do tôn giáo.
Tất cả các phương thức hành đạo chính trực đều được xem như những con suối, con sông đổ vào bể cả. Bể cả chân lý. Dưới biển cá lớn nuốt cá bé. Trên rừng, thú lớn ăn thú nhỏ. Con người được thụ tạo đều có lý trí để suy xét và tự do để hành động trong tình thương yêu đồng loại. Nhờ văn hóa truyền thụ từ đời này sang đời khác, con người thụ hưởng được biết bao nhiêu pho sách thánh hiền, dĩ nhiên là phải biết hoà đồng trên đường tu thân để chuẩn bị về nơi quê thật. …
“Giáo Hội Công Giáo tỏ lòng cung kính và ngưởng mộ tất cả truyền thống tinh thần của các Tôn Giáo Á Châu và muốn dấn thân trong cuộc đối thoại chân thành với các tín hữu của các tôn giáo. Những giá trị tôn giáo mà các đạo giáo dân gian giảng dạy đang chờ đón sự viên mãn trong Đức Giêsu Kitô Giáo “The Church has the deepest respect for these traditions and seeks to engage in sincere dialogue with their followers. The religious values they teach await their fulfilment in Jesus Christ.” (Thánh GH Gioan Phao Lồ II- Ecclesia in Asia).
Con người có đủ thông minh, thần trí để biết đường nào phải đi và việc gì phải làm: Thánh hóa bản thân và phục vụ nhân quần xã hội, tôn thờ đấng chí tôn theo tín niệm riêng của mỗi người. Tôn giáo là tình trạng thăng hoa của cuộc sống. Mọi phương thức hành động chính trực đều mang lại bình an trong tâm hồn. Mọi hành vi thiện, ác ở đời này đều sẽ được phản dưởng (feedback) xứng hợp. “Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc, Vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ hoạ”. Nợ đời, Trời trả!
Làm tốt được khen ngợi, tâm hồn sẽ được bình thản, trí tuệ được thông minh, cơ thể được khỏe mạnh, hồn lành trong xác mạnh (mens sana in corpore sano). Nhờ đó, quyết định sẽ được sáng suốt. Ngôn hành từ tốn, lễ độ sẽ gặt hái được kết quả tốt. Ngược lại, những người tham sân si, tham lam sinh ra gây hấn, si mê lầm lạc chỉ chuốc lấy thất bại, và phiền não.
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Ai quyết tâm đi tìm chân lý và hướng thượng cuộc đời trong tinh thần – Tu là cõi phúc – đều hưởng được sự bình an trong tâm hồn, tức là hưởng được hạnh phúc, Thiên đàng, Niết bàn, Cõi phúc ở trần gian và sẽ có cơ duyên hưởng được giải thoát, sống đời sống vĩnh cữu mai hậu.
Cái luân hồi chẵng tại đâu xa
Nghiệp duyên vốn tại mình ta
Nơi vuông tấc đủ thiên đàng, địa ngục “ ( Nguyễn Công Trứ)
Về phương diện cộng đồng, xã hội, quốc gia, dân tộc, phương thức vương đạo “Cách vật chí tri (extension of knowledge by investigating things), thành tâm (then the will becomes sincere), chánh ý (the mind is rectified), tu thân (the personal life is cultivated), tề gia (the family is regulated), trị quốc (the state is put in order), bình thiên hạ (peace established throughout the world) ” vẫn là hoàng đạo vậy.
Nhiều triết gia đã ví con người đi tìm chân lý như những con thiêu thân bay chung quanh ánh sáng của ngọn đèn. Ngọn đèn tượng trưng cho Ánh sáng, Chân lý, Linh quang, Điển quang hay Đấng Tối Cao. Phải chăng chung quy chỉ có một Chân lý tối hậu hay một Hóa Công, tất cả đều đồng quy về một điểm…Nhìn chung từ Âu sang Á, triết lý nhân sinh được dựa trên hai tín niệm hệ chính là Hữu thần (Theism) và Vô thần (Atheism).
Nói một cách tổng quát, hữu thần tin tưởng vũ trụ và nhân loại do một vị Thần tác tạo nên được nhân loại gọi qua nhiều danh xưng như thần Zeus, Dieu, God hay Thượng đế, Hóa công… Con người có linh hồn bất diệt. Vô thần không tin vào sự hiện hữu của thần linh, con người không có linh hồn, tự nhiên sinh ra và chết là hết. Ngoài hai môn phái nầy, môn phái thứ ba là môn phái Bất khả Tri Luận (Agnosticism) chủ trương trí tuệ con người hữu hạn không thể xác nhận hay phủ nhận về sự hiện hữu của thần linh.
1-Triết học Tây Phương
Từ thế kỷ thứ sáu (VI) trước Công nguyên, các triết gia Hy Lạp đã nghiên cứu về vũ trụ. Họ hiểu một cách khái quát là vũ trụ do thần linh tạo nên. Quan niệm nầy đã được thể hiện qua tác phẩm Thần Minh Luận (Theogonie) của thi hào Hesiode. Theo Thần Minh Luận thi vũ trụ khởi nguyên là một khối hổn mang, thuộc phần vụ của thần Chaos, thần hổn mang chi sơ. Vũ trụ là một vực thẵm trống rổng mà có lẻ thiên văn học ngày nay gọi là “Black hole”. Trong đó có thần Eros (Cha Trời) sinh sản ra muôn vật, muôn loài trong vũ trụ; thần Gaia (Mẹ Đất), nuôi nấng vạn vật, và Thượng đế hay Zeus cai quản và ngự trị toàn vũ trụ.
Nói đến thần linh chỉ có lòng tin (faith) mà không thể chứng minh được bằng kiểm chứng khoa học. Vì khoa học là khoa nghiên cứu về vật chất hữu hình, không thấy được linh hồn trong khi giải phẩu óc, cũng không thấy được tình yêu khi mỗ tim. Trái lại tình yêu là một thực thể không thể phủ nhận được. Một số triết gia Hy Lạp nghiên cứu về con người, sự kết cấu của vũ trụ và những hành chất cơ bản của thiên nhiên (khoa Particle Physics).
(1)-Nhà toán học kiêm triết gia Thales (624-546 B.C./ trước Công nguyên) cho rằng nguyên chất cơ bản cho sự biến thái của vạn vật là nước. Trong tất cả những mầm sống đều có nước. Thales còn là một thiên tài về thiên văn học, ông đã tiên đoán được một cách chính xác hiện tượng nhật thực xảy ra năm 585 trước Công nguyên theo chu kỳ âm lịch.
(2)-Triết gia Anaximene (585-528 B.C.) cho rằng nguyên chất cơ bản, đơn nhất và vô hạn định là khí (pneuma). Khí nâng đở con người và sinh vật. Anaximene đã bàn về định luật tất định, nghĩa là vạn vật sẽ trở về nguyên lý từ chổ chúng đã sinh ra, “tro bụi sẽ trở về tro bụi”.
(3)-Nhà toán học Pythagore (570-496 B.C.) đã bàn đến sự tu luyện khổ hạnh để đạt đến tình trạng xuất thần. Con người chỉ có thể hiểu được bản tính của linh hồn qua trạng thái xuất thần, hồn lìa khỏi xác. Trong nghi lễ tế tự, người hành lễ dùng rượu say sưa để dễ xuất thần và hòa đồng với thần linh. Quan niệm về hồn và xác thể hiện tính cách nhị nguyên: Thân xác là phần khả tử, có sinh thì có diệt. Linh hồn là phần bất tử, nhập vào thể xác, “hồn nhập thể” sống tạm bợ trong xác. Nếu sống công chính, thánh thiện, linh hồn sẽ được giải thoát sau khi chết. Nếu không, linh hồn sẽ nhập vào một sinh vật khác, quan niệm nầy tương tự quan niệm về luân hồi của triết học Ấn độ (Hinduism).
(4)-Triết gia Heraclite (544-484 B.C.) cho rằng nguyên chất cơ bản của vũ trụ là lửa. Vũ trụ là một khối lửa linh động. Mọi sự vật đều biến dịch, trôi chảy như một dòng sông. “Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông”, cũng như “tôi không có thể gặp lại tâm hồn tôi chiều nay”. Mọi sự đều biến chuyển từng giờ, từng khắc hay vô thường.
(5)-Triết gia Empedocle (492-432 B.C.), vũ trụ được cấu tạo bằng 4 nguyên chất: Lửa, Nước, Khí và Đất. Quan niệm nấy gần với quan niệm của Kinh Dịch về ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa và Thổ. Khi các nguyên chất này hòa hợp thì có sự sống và khi các nguyên chất nầy tách rời tạo nên sự hủy diệt. Cảnh vật, nhân sinh biến đổi qua chu kỳ kết hợp, giống như tình yêu, liên kết, tạo ra sự sống và phân tán, thù hận, tan rã đem đến sự hủy diệt.
(6)-Triết gia Leucippe và Democrite đã phát kiến ra một ý niệm mới: Ý niệm về nguyên tử. Nguyên tử (atom) là đơn vị bất khả phân của các nguyên chất cơ bản, là đơn vị nhỏ nhất về vật lý không thể phân hóa thêm nữa. Leucippe và Democrite dùng vật lý để giải thích linh hồn. Linh hồn được cấu tạo bằng những nguyên tử tròn trĩnh của lửa, di động trong toàn châu thân nhờ sự hô hấp, nhờ đó sự sống mới tồn tại được. Democrite cũng đưa ra ý niệm khoái lạc và đau khổ. Làm việc thiện mang lại sự thỏa mãn, sung sướng, khoái lạc. Làm việc độc ác mang lại sự đau khổ, tâm động và phiền não. Trong Đạo Đức Học có câu ”Khoái lạc và đau khổ là hai kẻ thù địch mà thần quyến không hoà giải nỗi cho nên trói chúng lại với nhau và bắt đánh bạn với nhau suốt đời”.
Quan niệm nầy hữu lý vì người quốc gia không nên gây thù, chuốc oán với nhau. Vì thù hận và trả thù chỉ được thỏa mãn trong chốc lát và tạo nên sự đau khổ triền miên. Tha thứ sẽ được thỏa mãn lâu dài. Từ bi, hỷ xã, vị tha, bác ái, sẽ khiến cho hồn lành trong xác mạnh do ảnh hưởng tâm sinh lý. Con người phải tìm hạnh phúc vĩnh cữu, trường tồn, xa lìa những khoái lạc tạm bợ, dễ tan biến hay dễ hư nát của trần gian. Sung sướng trong sự chí thiện, hoàn hảo sẽ mang lại tinh thần minh mẫn, hay minh triết. Chỉ có minh triết mới giúp con người phân biệt được thiện, ác. Chỉ có minh triết mới giúp con người vươn lên đến sự thỏa mãn hoàn hảo nhất. “Be perfect as your heavenly Father is perfect” ( Mt 5:48). Hãy trở nên toàn thiện vì Thiên Chúa tạo nên vũ trụ và nhân loại là Đấng toàn thiện, toàn mỹ.
(7)-Triết gia Protagoras (480-410 B.C.) cho rằng con người là thước đo của vạn vật. Sự vật thể hiện trước mắt của chúng ta như hình hài, màu sắc, nóng lạnh nhờ giác quan của chúng ta thu nhận hay tri giác được (perception) Mỗi người tri giác tín hiệu từ bên ngoài qua giác quan, trí tuệ gạn lọc, cảm nhận sự vật một cách khác nhau nên sắc thái và ý nghĩa sự vật sẽ khác nhau. Nói khác đi, tùy theo “cặp kính ta đeo mà mọi vật bên ngoài đều thay đổi”. Protagoras còn cho rằng con người là một hiện hữu biệt lập, không lệ thuộc thần linh. Một là không biết thần linh có hay không, hai là chuyện thần linh quá khó khăn mà cuộc đời thì ngắn ngủi, do đó nên chú tâm vào những gì thuộc con người mà thôi. Có lẽ khi tu luyện đạt đến trình độ minh triết như quan niệm của Democrite thì đương nhiên con người vươn lên và thông hiệp với thần thánh, giai đoạn “Nhi tri thiên mệnh”. Nếu “không mong mỏi được thấy Thần linh thì sẽ không bao giờ thấy được Thần linh”. Vì vậy, nhân loại phảì vươn cao và mong ước một cách đam mê mới mong gặp gở đươc thần linh! Ultreya/ Forward!
2- Triết học Đông phương
(1)-Song hành với triết học Hy Lạp, nền văn minh Ấn độ đã lưu lại cho nhân thế một nền triết lý rất phong phú, đầy tính chất thần linh trong nổ lực đi tìm chân lý của cuộc đời. Kho tàng triết học Ấn độ (Hinduism) được thể hiện qua các bộ kinh sách như kinh Vedas, kinh Upanishad, kinh Bhagavad Gita… Các bộ kinh nầy có thể được viết từ khỏang năm 4000 đến năm 800 trước Công nguyên. Các kinh sách nầy đề cập đến sự tương liên giữa người (Atman:/ internal self, soul, tiểu ngã, linh hồn) và Tạo hóa (Brahman/ Absolute being pervading the universe) : đại ngã, vũ trụ, đấng tạo hóa) và quan niệm về luân hồi (Samara: the cycle of repeated birth and death through incarnation), nghiệp chướng (Karma: good action brings good next life and vice-versa) . Linh hồn bất diệt, hết kiếp nầy lại tái sinh (rebirth) vào kiếp khác. Cuộc đời cứ tử sinh, sinh tử cho đến khi thoát được vòng nghiệp chướng. Muốn thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp chướng, con người phải biết tu tâm, dưỡng tánh, sống đạo hạnh để thoát khỏi vòng luân hồi (moksha: gaining liberation from birth and death cycle).
(2)-Thiền môn Jainism chủ trương không màng đến đời sống vật chất, đi chân không, uống nước lã, không mặc áo quần vì áo quần chỉ làm vướng bận thân xác… sống xa chốn phồn hoa đô hội đến chốn thâm sơn cùng cốc để tu luyện.
(3)-Môn phái Duy vật (Materialism) lý luận rằng nếu đời là bể khổ, thì phương pháp diệt khổ không phải là tu trì mà tìm sự say sưa, khoái lạc để tiêu trừ sự đau khổ. Môn phái nầy chỉ tin vào thế giới hữu hình, phủ nhận thế giới vô hình, chết là hết. Chủ trương nầy tương đồng với quan niệm của Epicure (Hy Lạp). Epicure là triết gia đầu tiên nêu lên vấn đề phủ nhận linh hồn bất diệt. Ông chủ trương con người không có linh hồn, chỉ là thể xác, chết là hết. Môn phái nầy có lẻ là tiền thân của chủ nghĩa vô thần (Atheism).
(4)-Môn phái Phật học (Buddhism) do Đức Phật Thích Ca sáng lập với chân lý Tứ Diệu Đề và Bát giới… Ngài là Thái Tử Gautama Siddharta (563-483 B.C.) của tiểu quốc Ca Tì La Vệ. Theo tục truyền, Ngài sinh ra đã có 32 tướng tốt, nếu xuất gia tu hành thì sẽ thành Phật. Ngài thấy thế nhân đau khổ, bỏ gia đình, đế nghiệp vào rừng tu luyện cho đến khi đắc đạo… Theo Ngài, sở dĩ thế nhân đau khổ là vì tham sân si, thất tình lục dục… tất cả đều do vô minh. Muốn diệt khổ, thế nhân phải diệt dục. Phương pháp của Ngài là phương pháp tự lực cánh sinh (self-help approach). Tự tu luyện, không lệ thuộc vào sự phù trì của thần linh. Nhân thế nên tự cứu khổ theo giới luật mà Ngài đã truyền dạy mới mong thoát được vòng luân hồi, nghiệp chướng sau khi lâm chung. Đến Đại hội thứ 2 của Phật hoc, khoảng năm 373 B.C. trước công nguyên, Phật học chia làm hai môn phái. Phái Tiểu Thừa (Hynayana/Theravada) theo phương thức hành đạo nguyên thủy của Đức Phật, truyền qua Tích Lan, Miến điện, Thái Lan… Môn phái Đại Thừa (Mahayana) truyền qua Trung Hoa, Nhật bản, Đại hàn, Việt Nam…
(5)-Tại vùng Trung Đông, Môn phái Hồi học (Islamism) bành trướng mạnh mẽ từ thời Giáo chủ Mohammed (A.D.570-632) sau Công nguyên. Islam hay triết học Hồi có nghĩa là “Phụng thờ Đấng Tạo Hóa”. Coran là kinh thánh của Hồi giáo thể hiện triết lý hành đạo và nguyên tắc xử thế, giải quyết thế sự. Tín hữu Hồi thờ Chúa duy nhất là Allah. Ngài là đấng toàn năng tạo dựng nên vũ trụ và nhân thế. Thể thức hành đạo dựa trên 5 quy điều chính:
(a) Chỉ thờ một Chúa duy nhất. (b) Cầu nguyện để ca tụng Thiên Chúa: sáng, trưa, chiều, tối và trước khi đi ngủ, (c) Ăn chay hãm mình trọn một tháng trong một năm (d) Làm phước lành, bố thí cho kẻ nghèo khó, già cả bệnh hoạn theo tỷ suất lợi tức hằng năm, (e) Hành hương thánh địa Mekka ít nhất một lần trong suốt cuộc đời. Số tín đồ khoảng 800 triệu, đứng hạng nhì sau Thiên Chúa Giáo. Môn phái Hồi cũng chia làm nhiều môn phái, là tôn giáo mạnh nhất ở Trung đông.
(6)-Tại Trung hoa, Nho học (Confucianism) và Lão học (Taoism) cũng đã phát triển đồng thời với các môn phái triết học Hy lạp, Ấn độ. Đức Khổng Tử (551-479 B.C.) đã từng chu du liệt quốc để quảng bá triết thuyết của ngài dựa trên Tam Cương, Ngũ Thường, Ngũ Luân, Tam Tòng, Tứ Đức… nhằm cải tiến luân lý cá nhân để xây dựng cộng đồng xã hội…Muốn làm người xứng đáng, kẻ trượng phu phải biết hành hiệp. “Thượng vi đức, hạ vi dân, sắp hai chữ quân thần mà ghánh vác (Nguyễn Công Trứ), theo cương thường đạo nghĩa, từ sự tìm tòi học hỏi ( investigation of things, để cách vật chí tri (extention of the knowled ge), thành tâm (will becomes sincere) chánh ý (mind is rectified), đến tu thân (personal life is cultivated), tề gia ( family is regulated), trị quốc ( state is put in order), và bình thiên hạ (peace is established throughout the world)…
Chữ Tu, theo nguyên nghĩa gồm chữ Nhân là người và chữ Văn là vẻ đẹp. Chữ nhân viết thẳng đứng với ý nghĩa vươn lên đến sự hoàn mỹ (perfection). Tu là giai đoạn căn bản và cần nhiều cố gắng của bản thân, tự rèn luyện học tập để phát triển kiến thức và tâm đạo. “Đại học chi đạo, tại minh minh đức…”
Người có kiến văn, trí dục, cần có đức dục để tạo nên con người tài đức song toàn. “Trong thiên hạ có ba cái đại họa: Một là không có tài mà giữ chức vụ cao, hai là không có công mà được thưởng, ba là không có tội mà bị phạt”. Dân tộc nào lâm vào ba đại họa nầy, dân tộc sẽ đói khổ, suy vong. Sống ở đời phải có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, luôn luôn giữ hành vi chính trực. “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi “. Một ngày mà không nghĩ đến điều thiện thì mọi điều ác sẽ dấy lên. Thêm vaò đó, môt khi con ngươi nghĩ đến ý niệm xấu hay tốt, cả Trời, dất đều biết.”’Nhân tâm sinh nhất niệm. Thiên điạ tận giai tri”! (when people’s mind give birth to a thought, both Heaven and earth know all). Ý niệm tốt đuợc thiên thần (angel) hổ trợ, ý niêm ấu được ma vương (satan) tán thưởng!
Triết học Trung hoa quan niệm Trời chỉ giúp người biết tự lực tự cường. “Thiên hành kiện dĩ tự cường bất tức. Cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chí” (Kinh dịch). Quan niệm nầy tương đồng với quan niệm của tây phuơng “Aide toi, le ciel t’aidera” hay “God helps those who help themselves”.
Chung quy nhân loại vẫn nổ lực không ngừng, tự thánh hóa bản thân mình bằng nhiều phương cách khác nhau.
3- Sự Tương Đồng trong Ý Niệm Tu Hành
Mọi phương cách tu thân thánh thiện đều có thể đồng quy vào một điểm là đi tìm chân lý, nhắm đến cứu cánh giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi để đạt đến đời sống vĩnh cửu. Trừ những kẻ lạc đạo, vô thần, đa số các tôn giáo đều có những điển mô tương đồng: Chân lý nhân loại đi tìm là chân lý giúp con người được đắc đạo “The true light that enlightens everyone” (Thông điệp Veritatis Splendor). của ĐGH John Paul II). Các bậc thánh nhân trong nhiều hoàn cảnh đã bỏ giàu sang phú quý, thân bằng quyến thuộc, cuộc đời thế tục, chấp nhận lý tưởng sống đời sống tu trì, hoặc đến chốn cùng cốc thâm sơn, vô vi tịch mịch để tu luyện mong tìm phương cách cứu rỗi hoặc hy sinh cuộc đời để đi tìm chân lý.
Thánh Kinh cũng xác nhận “Everyone who has left houses or brothers, or sisters or father or mother or children or lands for my name’s sake, will receive a hundredfold and inherit internal life” (Mt 19:29). Những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái, địa ốc, vì danh Thầy thì sẽ được công đức gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.
Đức Khổng Tử giữ phương vị của một “vạn thế sư biểu”, phù thế giáo một vài câu thanh nghị, dù nhân thế tranh bá đồ vương, loạn lạc. Ngài vẫn luôn luôn xử thế thuận theo thiên mệnh “Thuận thiên giả tồn”. “One who despise man’s sin remains the model for moral action in accordance with Lord’s commands”.
Đức Lão Tử sống với thiên nhiên, để tu tâm dưỡng tánh, tìm chân lý cho cuộc đời. Thông Điệp Humanae Vitae cũng đã viết “The natural moral law expresses and lays down the purposes, rights and duties which are based upon the bodily and spiritual nature of the human person. Therefore, the law cannot be thought of as simply as sets of norms on the biological level. Rather it must be defined as the rational order whereby man is called by the Creator to direct and regulate his life and his actions and in particular to make use of his own body”. Sống theo luật thiên nhiên tức là sống theo tiếng gọi và sự điều hướng của Thượng Đế. Các bậc thánh nhân đã đóng góp vào hành trình cải tiến cuộc đời trần thế, tìm hiểu ý nghĩa cuộc đời và giúp nhân thế hướng dẫn đến đời sống vĩnh cửu mai hậu.
Như vậy các hoc thuyết (doctrine) về tín ngưởng nhằm hướng dẫn nhân loai làm việc lành phước đức để đầu tư vào đời sau. “Được lời lãi cả thê’ gian mà mất linh hồn cũng chẵng được ích gì”. Những người lương thiện, những bậc tu trì đắc đạo trong bất cứ tôn giáo nào, suốt đời sống theo lương tâm chính trực, bằng cách này hay cách khác, đều cũng có thể được hưởng phước đời đời!
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II, vào đầu tháng 11 năm 1999, trong cuộc viếng thăm Ấn Độ, đã công bố Tông Thư: Giáo Hội tại Á Châu:
“Giáo Hội Công Giáo tỏ lòng cung kính và ngưởng mộ tất cả truyền thống tinh thần của các Tôn Giáo Á Châu và muốn dấn thân trong cuộc đối thoại chân thành với các tín hữu của các tôn giáo. Những giá trị tôn giáo mà các đạo giáo dân gian giảng dạy đang chờ đón sự viên mãn trong Đức Giêsu Kitô”. “Asia is also the cradle of the world’s major religions—Judaism, Christianity, Islam and Hinduism. It is the birthplace of many other spiritual traditions such as Buddhism, Taoism, Confucianism, Zoroastrianism, Jainism, Sikhism and Shintoism. Millions also espouse traditional or tribal religions, with varying degrees of structured ritual and formal religious teaching. The Church has the deepest respect for these traditions and seeks to engage in sincere dialogue with their followers. The religious values they teach await their fulfilment in Jesus Christ.”
Tông Thư Veritatis Splendor và Tông thư Ecclesia in Asia giúp chúng ta am hiểu thêm công việc của Thiên Chúa qua các phương cách cứu rỗi tiềm ẩn trong chủ trương tổng quát: “Ngoài Giáo Hội Công Giáo, không có sự cứu rỗi- Extra Ecclesiam, nulla salus” và “No one can enter the Kingdom of God unless he is first born of water and Spirit. (Jn 3:5).
Từ thuở tạo thiên lâp địa, từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, con người đã tin vào một Đấng Tạo Hóa (Creator). Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776, đã minh định nhân loại được sinh ra bình đẵng và được Tạo hóa ban cho những quyền bất khả tương nhượng trong đó có quyền được sinh sống, được tự do và tìm kiếm hạnh phúc.” All men are created equal, that they are endowned by their Creator with certain unalienable Rights...”
Thánh Thomas Aquino (1225-1274 AD) trong tác phẩm “Tổng Luận về Thần học- Summa Theologica”) đã viết “Đấng Tạo hóa toàn năng là đệ nhất nguyên nhân/ tác nhân, (First Cause/ agent) tạo nên muôn loài và vũ trụ. “Đấng Thượng Đế nội tại (immanent) ở trong vạn vật và trong nội tâm hay lương tri của mỗi người nên trên bình diện tự nhiên Thiên Chúa đã đương nhiên hiện hữu trong tâm trí của con người rồi.” Triêt học cổ của Trung hoa cũng đồng quan điểm: “Nhất nhân chi tâm tức thiên địa chi tâm”. Tâm linh cuả nhân thế cũng là tâm linh của Trời đất.
Vì thế, những tín hữu có lòng cao thượng trong các giáo hội trên trần thế là những tín hữu không những yêu chuộng những người đồng tín ngưởng của mình mà còn yêu chuộng cả những người không cùng tín ngưởng nhưng có lòng thành. Quan niệm nầy được Công đồng Vatican II (1962-1965) minh xác qua Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes. 4): “The Church’s Pastors… speaking with love and mercy not only to believers but to all people of good will” vì ơn Cứu Độ của Thiên Chúa được ban cho mọi người. “Salvation is open to all”.
Để xác minh ý niệm cứu rỗi ( salvation) một cách rộng rãi, Công Đồng Vatican II đã tuyên bố đối với những ai, không vì lỗi của họ, không biết gì về Thiên Chúa và Giáo hội, nhưng cố công tìm kiếm Thiên Chúa với lương tâm chính trực, có thể được sự sống đời đời ….Vì lòng thành và chân lý tìm thấy trong những người nầy đang chờ đón sự viên mãn trong Đức Giêsu Kitô. “Those who without any fault do not know anything about Christ or His Church, yet who search for God with sincere hearts and under the influence of grace, try to put into effect the will of God as known to them through the dictate of conscience…can obtain eternal salvation…Nor does divine Providence deny the help that are necessary for salvation to those who, through no fault of their own, have not yet attained to the express recognition of God, yet who strive, not without divine grace to lead an upright life. For whatever goodness and truth is found in them is considered by the Church as preparation for the Gospel and bestowed by Him who enlightens everyone that may be in the end has life” (Lumen Gentium 16- Ánh Sáng Muôn Dân). Do đó, không có ý niệm kỳ thi tôn giaó trong chủ trương của các bậc chân tu. Hành vi kỳ thị tôn giaó phát xuất từ những người bất chính muốn lợi dụng tôn giáo để gây phân hoá, hận thù nhằm phục vụ tà tâm của mình.
4- Tuân Giữ các Giới Răn
Các tín ngưởng đều có các giới răn, giới luật. Tuân giữ các giới răn tức là tuân luật. Luật này hướng dẫn con người đến chân lý. “If you wish to enter eternal life, keep His commandments” (Mt 19:18) Người ta thường nói: “Sống không có kỷ luật, thì chết sẽ không được vinh quang”. Thiên đàng, Niết bàn, Cõi phúc đều có giá cả.
Con người có quyền sống tự do theo quan niệm của cá nhân mình, miễn quyền tự do cá nhân không gây phương hại cho sự an sinh thể chất và bình an trong tâm hồn của nguời khác. “Tự do chân chính là tự do làm điều lành, lánh điều dữ.” Tuy nhiên, sống buông thả, tự do, tư tại “Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp, trong thú yên hà cuộc tỉnh say”, mà không chịu niệm kinh hôm sớm, giữ cho lục căn thanh tịnh, xa lánh tội lỗi thì khó có thể hưởng được phước đời đời. ”Nhất nhật bất niệm thiện chư ác giai tự khởi”. Một ngày mà không niệm thiện, ác tâm sẽ dấy lên.
Dĩ nhiên không ai bắt buộc mình phải tuân giữ giới luật, nhưng nếu muốn được hưởng phước đời thì phải làm lành lánh dữ trong lời nói cũng như hành động. Nói khác đi, khi tuân giữ các giới luật, con người tuân giữ một cách tự nguyện. Thiên Chúa khuyên nhân thế hãy theo Ngài vì Ngài là Đường, là Chân lý, là Sự sống. “Theo Ta, các con sẽ biết được chân lý và chân lý sẽ giải thoát các con”. “Come, follow me, you will know the truth, and the truth will make you free”.
Tâm lý chung của con người là muốn biết sư thực về mọi sự có liên quan đến đời sống của mình, của đoàn thể, của quốc gia, nếu không, sẽ không tránh được sự băn khoăn, khắc khoải. Biết sự thực, chúng ta có cơ may thoát khỏi những oan trái, tục lụy, xích xiềng của thế trần. Nỗi đau của VNCH là dân, quân, cán, chính không được môt phen tử chiến với địch quân trước khi bị gông cùm, khổ ải, phiêu bạt tha phương. Phần vì cấp lãnh đạo thiếu khả năng tiên liệu thời cuộc, thiếu sách lược ứng phó lúc quốc gia lâm nguy. Phần kkác, giới lãnh đạo không công bố đúng lúc thưc trạng quốc gia cho quốc dân, để chuẩn bị tinh thần đối kháng, rốt cuộc xảy ra tình trạng hoảng loạn, vở dàn tan nghé... Sự “mất niềm tin” vaò giới lãnh đạo. đến nay sau 44 năm vẫn còn phương hại đền các nỗ lực phục quốc.
Thượng Đế không bắt buộc thế nhân phải tuân luật vì Ngài đã ban cho con người ý chí tự do (free will). Có tự do hành động, con người mới có thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Có tự do hành đạo, con người mới có công đức. Tín ngưởng nào cũng khuyên nhân thế phải biết tôn trọng quyền cá nhân tự quyết. (self-determination). Sự ép buộc tuân luật lệ chỉ áp dụng cho thuở thiếu thời vì khi đó lý trí chưa trưỏng thành, chưa ý thức được những gì nên nói và những việc không nên làm, còn vô minh?. Khi còn vô minh thì sự “Tuân giữ các giới luật là nguồn gốc của sự khôn ngoan -Fear of law, which is the beginning of wisdom” (Prv.17). Vô minh (ignorance) có thể phân ra hai loại: Một loại vượt ra ngoài sự hiểu biết của nhân thế, bất khả tri (invincible ignorance/incapable of being overcome or defeated), không thể hiểu được. Loại vô minh thứ hai có thể cải thiện được ( vincible ignorance/ capable of being overcome, defated) bằng cách tầm thầy học đạo, sưu tâm, học hỏi để giảm bớt sự vô minh.
Mặc dù, thế giới có nhiều chủng tộc nên có nhiều văn hoá khác nhau nên quan niệm về thiện ác có thể khác nhau hay thiện ác là một ý niệm tương đối vì “Bên này núi Pyrénées là chân lý thì bên kia là sai lạc”. Nhưng thế thượng thường tình, có những điều ác “malum in se”, có nghĩa là tự nó đã là ác theo thiên luật cũng như nhân luật cấm đoán (malum prohibitum) như tội giết người, không xã hội nào dung tha. Ngoài ra, sự phân biệt thiện ác chẵng những do luật lệ của mỗi quốc gia, giới luật của mỗi tôn giáo truyền dạy, mà lương tâm con người cũng vừa là nhân chứng (witness) vừa là quan tòa (judge) phán xét hành vi của mỗi người.
Lương tâm (conscience), cũng như vô thức, tuy vô hình, nhưng âm thầm, tiềm ẩn, điều hướng hành vi của con người. Con người có thể che mắt luật pháp, che mắt thiên hạ về hành vi bất chính của mình, nhưng không thể che mắt lương tâm. Vì thế, người đời thường không làm việc trái lương tâm, phần vì sợ bị lương tâm cắn rứt, phần khác vì sợ hậu quả không được vào cõi phúc đời sau. Lương tâm là quan toà của Thiên luật (natural/divine law). ”Cọp giết người cọp yên ngủ. Người giết người thức đủ năm canh”. Trong tận đáy lòng của mỗi người có một loại luật, luật nầy không ràng buộc như luật đời (man-made law), nhưng mời gọi con người làm lành, lánh dữ. “In the depth of his conscience, man detects a law which does not impose on himself, but which hold him to obedience. Always summon him to love good and avoid evil, the voice of conscience can when necessary speak to his heart more specifically: Do this and sun that” (Rom. 2: 14-16).
Đúng vậy, tiếng lương tâm, khi cần sẽ khuyên con người làm điều lành và lánh điều ác. Lương tâm có trách nhiệm nên cũng có quyền hạn, đó quyền chế tài khiến cho những người phạm tội thường bị lương tâm cắn rứt…và nhờ đó, có khi tội nhân thú tội trước vi Linh huớng (Spiritual advisor) để xin hoà giãi hay cơ quan công lực để xin đền tội.
Những kẻ theo chủ thuyết vô thần (atheism) thường có những hành vi vô nhân, thất đức vì họ đã bán linh hồn cho quỷ. Một điều quan trọng là khi tâm trí vô minh (invincible ignorance), lương tâm dễ bị lầm lẫn. Vô minh có thể do trạng thái tâm trí bị hà tì, rối loạn thần kinh (psychopath) không đủ lý trí sáng suốt để phân biệt được phải, trái hoặc không có ý chí (will) vững mạnh để chon sự lành, lánh sự dữ, khiến cho lương tâm bị lầm lẫn (erroneous conscience) có khi làm sai làm sai mà tưởng là đúng!
Tôn giáo hướng thượng hành vi con người thì các chế độ đốc tài lại cho là thuốc phiện (the opiate of the people). Các chế độ đôc tài vi phạm tự do tôn giáo, xóa bỏ luân lý cổ truyền, chiếm đoạt tài sản của các giáo hội, bách hại thiện nam, tín nữ …vì những người cầm quyền trong các chế độ độc tài được tẩy não, theo duy vật biện chứng, chỉ tin vào những gì hữu hình và không tin con người có linh hồn hay hậu kiếp.
Cán bộ vô thần luôn luôn tâm động, trí quẩn, không thấy được ánh sáng chân lý. Họ chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện “La fin justifie les moyens”, là chủ trương trái luân thường đạo lý. Giết địa chủ để cải cách điền địa là bằng chứng của lương tâm lầm lẫn vì làm chuyện xấu không thể có kết quả tốt. “It is not licit to do evil that good may come of it”. Thiên lý, nhân luật liệt loại hành động phi nhân như sát nhân là loại “malum in se”. Tự bản chất các hành vi nầy là hành vi vô luân. “Whatever is hostile to life itself, such as any kind of homicide, genocide, euthanasia, and voluntary suicide …all these and the like are a disgrace” (Gaudium et Spes)
Những nguời không có tín ngưởng thường sống trong tình trạng ấu trỉ, chưa trưởng thành như Tổng Thống thứ 30 của Hoa Ký Calvin Coolidge (1923-1929) đã nhận xét “Only when men begin to worship, they begin to grow”. Chỉ khi nào con người có tín ngưởng mới trưởng thành. Những người tôn thờ chủ nghĩa vô thần là những người chưa trưởng thành về trí tuệ, mê muội, chưa liễu ngộ, chưa được mặc khải, chưa được đốn ngộ, sống trong thế giới vô minh, vấp phải hết lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác. Vì thế chính quyền các chế độc tài rất sợ quần chúng được tự do, vì luật hoàn mỹ nhất là luật tự do hành động. “The perfect law is the law of liberty” (Jm 1:25).
Những người theo chủ trương vô thần càng ngày càng lãnh hội được ngoài thế giới hữu hình còn có thế giới vô hình và trở lại hữu thần. Sự bành trướng của các tôn giáo trong các xã hội vô thần là một chứng minh cụ thể cho nhận định nầy. Ngay trong các xã hội độc tài, khuynh hướng vô thần không chế ngự nỗi khuynh hướng hữu thần, nên đảng cầm quyến phải dùng những phương pháp đàn áp, ngăn cản sự tự do hành đạo của các tôn giáo và tạo nên các tổ chức ma giáo “quốc doanh” để phục vụ chủ trương vô thần. Cộng sản sống trong ”ma giới” đầy si mê, lầm lạc “Ma đưa lối, qủy đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”! (Nguyễn Du).
Sở dĩ các chính quyền vô thần hay dùng bạo lực là vì các chính quyền vô thần không có khả năng thuyết phục, và mất năng lực thu hút kể cả với giới vô sản. Cộng đồng quốc tế vô thần càng ngày càng thu hẹp và đang đi đến chổ triệt tiêu …
Con người khi chưa ý thức hay cảm nghiệm đuợc thế giới linh thiêng, chưa biết thờ phụng đấng Chí tôn thì trí tuệ sẽ vô minh và chưa được trưởng thành. Họ không phân biệt được phải, trái, vấp phải hết lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác… cho đến lúc sụp đổ toàn diện như Liên bang Sô Viết… mới biết tập tểnh xây dựng lại tương lai với sự trợ lực về cả tinh thần lẩn vật chất của thế giới hữu thần trong tinh thần vị tha, bác ái. Người nhân ái thường chủ trương “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường bạo”. “Lấy lời lành mà khuyên người, mở miệng dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội”.
5- Yêu Mến Tha Nhân
Tôn giáo dạy con người yêu mến đồng loại. Chính sách “Chiêu hồi” những kẻ lầm đường lạc lối cũng bắt nguồn từ ý niệm nhân đạo. Ngược lại chính quyền XHCN tàn bạo, sau khi xâm lược miền Nam đã đày ải, giam cầm hằng trăm ngàn quân, công, cán, chính VNCH một cách vô lương tâm, khiến cho họ thân tàn ma dại, gia đình ly tán, những kẻ vô thần độc ác không sao kể xiết.
Thờ phượng đấng chí tôn và yêu thương đồng loại phải đồng nhịp, song hành như bóng với hình. Chúa GiêSu đã yêu mến nhân loại và đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. “Greater love has no man than this, that man lays down his life for his friends”. Thánh Gioan nói rằng: Nếu ai bảo rằng tôi mến Chúa mà ghét tha nhân thì đương sự là kẻ nói dối. Vì y không yêu mến tha nhân, người mà y thấy, thì làm sao có thể mến Chúa, người mà y không thấy. “If anyone said I love God and hates his brothers, he is a liar, for he has not love his brothers whom he has seen, cannot love God, whom he has not seen”. Đức Phật đã hy sinh đời sống vương giả, quyết tâm vào rừng tu luyện để mong cứu nhân độ thế thoát vòng luân hồi, nghiệp chướng.
Trong đời sống hằng ngày, những kẻ nói một đường làm một nẽo thường bị thiên hạ bình phẩm là những kẻ “khẩu phật, tâm xà”. Chúng ta là những người hữu thần, có tín tưởng , tin có đấng Tạo Hóa, sáng tạo nên vũ trụ và con người, hoặc, nếu không tin vào đấng Tạo Hoá, thì c ũng tin có linh hồn, có tiền thân, hậu kiếp. Các tôn giáo đều khuyên nhân thế sống thánh thiện đời này để đạt đến cứu cánh là đời sống vĩnh cửu mai hậu. Chân lý chung quy chỉ có một, không có hai chân lý tối hậu.
Mỗi cá nhân, trong thâm tâm, nội giới, được tự do chấp nhận tín ngưởng của mình là tín ngưởng lý tưởng, là chánh đạo. Nhưng để cho nhân loại được thái bình, thịnh thế, chúng ta cần tôn trọng các tín niệm hệ khác. để gia đạo nhân loại đuợc yên vui trong tinh thần tôn trọng tư do tôn giáo.
Tất cả các phương thức hành đạo chính trực đều được xem như những con suối, con sông đổ vào bể cả. Bể cả chân lý. Dưới biển cá lớn nuốt cá bé. Trên rừng, thú lớn ăn thú nhỏ. Con người được thụ tạo đều có lý trí để suy xét và tự do để hành động trong tình thương yêu đồng loại. Nhờ văn hóa truyền thụ từ đời này sang đời khác, con người thụ hưởng được biết bao nhiêu pho sách thánh hiền, dĩ nhiên là phải biết hoà đồng trên đường tu thân để chuẩn bị về nơi quê thật. …
“Giáo Hội Công Giáo tỏ lòng cung kính và ngưởng mộ tất cả truyền thống tinh thần của các Tôn Giáo Á Châu và muốn dấn thân trong cuộc đối thoại chân thành với các tín hữu của các tôn giáo. Những giá trị tôn giáo mà các đạo giáo dân gian giảng dạy đang chờ đón sự viên mãn trong Đức Giêsu Kitô Giáo “The Church has the deepest respect for these traditions and seeks to engage in sincere dialogue with their followers. The religious values they teach await their fulfilment in Jesus Christ.” (Thánh GH Gioan Phao Lồ II- Ecclesia in Asia).
Con người có đủ thông minh, thần trí để biết đường nào phải đi và việc gì phải làm: Thánh hóa bản thân và phục vụ nhân quần xã hội, tôn thờ đấng chí tôn theo tín niệm riêng của mỗi người. Tôn giáo là tình trạng thăng hoa của cuộc sống. Mọi phương thức hành động chính trực đều mang lại bình an trong tâm hồn. Mọi hành vi thiện, ác ở đời này đều sẽ được phản dưởng (feedback) xứng hợp. “Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc, Vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ hoạ”. Nợ đời, Trời trả!
Làm tốt được khen ngợi, tâm hồn sẽ được bình thản, trí tuệ được thông minh, cơ thể được khỏe mạnh, hồn lành trong xác mạnh (mens sana in corpore sano). Nhờ đó, quyết định sẽ được sáng suốt. Ngôn hành từ tốn, lễ độ sẽ gặt hái được kết quả tốt. Ngược lại, những người tham sân si, tham lam sinh ra gây hấn, si mê lầm lạc chỉ chuốc lấy thất bại, và phiền não.
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Ai quyết tâm đi tìm chân lý và hướng thượng cuộc đời trong tinh thần – Tu là cõi phúc – đều hưởng được sự bình an trong tâm hồn, tức là hưởng được hạnh phúc, Thiên đàng, Niết bàn, Cõi phúc ở trần gian và sẽ có cơ duyên hưởng được giải thoát, sống đời sống vĩnh cữu mai hậu.
Cái luân hồi chẵng tại đâu xa
Nghiệp duyên vốn tại mình ta
Nơi vuông tấc đủ thiên đàng, địa ngục “ ( Nguyễn Công Trứ)
Về phương diện cộng đồng, xã hội, quốc gia, dân tộc, phương thức vương đạo “Cách vật chí tri (extension of knowledge by investigating things), thành tâm (then the will becomes sincere), chánh ý (the mind is rectified), tu thân (the personal life is cultivated), tề gia (the family is regulated), trị quốc (the state is put in order), bình thiên hạ (peace established throughout the world) ” vẫn là hoàng đạo vậy.
VietCatholic TV
Giám Mục Trung Quốc hô hào yêu chế độ hơn yêu mến Giáo Hội, trọng phép nước hơn phép đạo
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:34 04/12/2019
“Tình yêu dành cho quê hương phải lớn hơn tình yêu dành cho Giáo Hội; và phép nước phải trọng hơn phép đạo”, Giám Mục Trung Quốc Phòng Hưng Diệu (Fang Xingyao - 房興耀) nói như trên trong Hội Nghị Tham Vấn Chính Trị Về Các Tôn Giáo được tổ chức vào ngày 26 tháng 11 vừa qua tại thủ đô Bắc Kinh.
Cuộc họp được chủ tọa bởi Uông Dương (Wang Yang - 汪洋), chủ tịch Ủy Ban Tham Vấn Chính Trị Toàn Quốc, gọi tắt là CPPCCP, và là một thành viên trong Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, với sự tham gia của các chuyên gia, học giả, các nhân vật tôn giáo và các cố vấn chính trị.
Mục đích của hội nghị này là phát triển một hệ thống “ý thức hệ tôn giáo với đặc điểm Trung Quốc, phù hợp với yêu cầu của thời đại” do Chủ tịch Tập Cận Bình triệu tập nhằm mục đính “Trung Hoa hóa” các tôn giáo. Theo thông tấn xã Asia News của Liên Hiệp Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, điều này có nguy cơ đặt các tôn giáo dưới sự thống trị của Đảng Cộng sản ngay cả về mặt thần học.
Ông Phòng Hưng Diệu là giám mục Yên Đài (Yantai - 烟台)thuộc tỉnh Sơn Đông (Shandong - 山东) và là thành viên của Ban Thường vụ CPPCC. Ông cũng là chủ tịch của Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc và là phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Trung Quốc. Cả hai cơ cấu này đều không được Tòa thánh công nhận.
Tuyên bố của Giám Mục Phòng Hưng Diệu đã được tường thuật trong một bài viết dài được công bố trên trang web của CPCPC, trong đó những người tham gia đều đề cao tinh thần yêu nước.
Một số người Công Giáo Trung Quốc xem những lời của Giám Mục Phòng Hưng Diệu, về tầm quan trọng tuyệt đối của tình yêu đối với quê hương và luật pháp quốc gia, như là một thứ gây ô nhiễm cho mối quan hệ hiệp nhất của người Công Giáo với Tòa Thánh. Tòa Thánh luôn nói rằng “một người Công Giáo tốt” cũng là một “công dân tốt”, nghĩa là không đặt tình yêu quê hương và tình yêu đối với Giáo Hội ở thế đối kháng với nhau. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, trong Thư gửi người Công Giáo Trung Quốc (năm 2007) đã nhấn mạnh đến yếu tố này, và kêu gọi nhà cầm quyền Trung Quốc dành không gian cho tự do tôn giáo, để Giáo Hội có thể “thúc đẩy công lý” cho xã hội (số 4).
Source:Asia NewsBishop Fang Xingyao: The homeland before the Church; Chinese law before Canon law
Cuộc họp được chủ tọa bởi Uông Dương (Wang Yang - 汪洋), chủ tịch Ủy Ban Tham Vấn Chính Trị Toàn Quốc, gọi tắt là CPPCCP, và là một thành viên trong Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, với sự tham gia của các chuyên gia, học giả, các nhân vật tôn giáo và các cố vấn chính trị.
Mục đích của hội nghị này là phát triển một hệ thống “ý thức hệ tôn giáo với đặc điểm Trung Quốc, phù hợp với yêu cầu của thời đại” do Chủ tịch Tập Cận Bình triệu tập nhằm mục đính “Trung Hoa hóa” các tôn giáo. Theo thông tấn xã Asia News của Liên Hiệp Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, điều này có nguy cơ đặt các tôn giáo dưới sự thống trị của Đảng Cộng sản ngay cả về mặt thần học.
Ông Phòng Hưng Diệu là giám mục Yên Đài (Yantai - 烟台)thuộc tỉnh Sơn Đông (Shandong - 山东) và là thành viên của Ban Thường vụ CPPCC. Ông cũng là chủ tịch của Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc và là phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Trung Quốc. Cả hai cơ cấu này đều không được Tòa thánh công nhận.
Tuyên bố của Giám Mục Phòng Hưng Diệu đã được tường thuật trong một bài viết dài được công bố trên trang web của CPCPC, trong đó những người tham gia đều đề cao tinh thần yêu nước.
Một số người Công Giáo Trung Quốc xem những lời của Giám Mục Phòng Hưng Diệu, về tầm quan trọng tuyệt đối của tình yêu đối với quê hương và luật pháp quốc gia, như là một thứ gây ô nhiễm cho mối quan hệ hiệp nhất của người Công Giáo với Tòa Thánh. Tòa Thánh luôn nói rằng “một người Công Giáo tốt” cũng là một “công dân tốt”, nghĩa là không đặt tình yêu quê hương và tình yêu đối với Giáo Hội ở thế đối kháng với nhau. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, trong Thư gửi người Công Giáo Trung Quốc (năm 2007) đã nhấn mạnh đến yếu tố này, và kêu gọi nhà cầm quyền Trung Quốc dành không gian cho tự do tôn giáo, để Giáo Hội có thể “thúc đẩy công lý” cho xã hội (số 4).
Source:Asia News
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, 4/12/2019, ĐTC nói: bói toán ma thuật không phải là thực hành Kitô giáo
VietCatholic Network
20:43 04/12/2019
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:
1- Tiếp Kiến Chung với Đức Thánh Cha, thứ Tư ngày 4 tháng 12, 2019.
2- Đức Thánh Cha bổ nhiệm Giám mục giáo phận Phan Thiết.
3- Vatican đón một số người xin tị nạn đến Ý.
4- Đức Thánh Cha gởi sứ điệp nhân ngày quốc tế người khuyết tật.
5- Đức Thánh Cha dâng thánh lễ kỷ niệm 25 năm thành lập văn phòng tuyên úy Công Giáo Congo tại Roma.
6- Tông Thư "Dấu chỉ tuyệt vời" về ý nghĩa và giá trị của hang đá Giáng sinh.
7- Giám mục Australia phản đối quy định mới buộc linh mục tiết lộ bí mật tòa giải tội.
8- Thượng Hội Đống Giám Mục Đức mở phiên họp thảo luận các vấn đề cải cách Giáo hội Đức.
9- Giám mục Anh kêu gọi bỏ phiếu cho ứng viên ủng hộ phẩm giá và sự sống con người.
10- Chương trình DREAM của Cộng đồng Thánh Egidio cho 11 quốc gia Châu Phi phòng chống AIDS.
11- Giới thiệu Thánh Ca: Một Lần Cho Muôn Đời.
Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết