Ngày 28-11-2020
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh Lễ Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Vọng 29/11/2020 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic
00:03 28/11/2020

Bài Ðọc I: Is 63, 16b-17; 64, 1. 3b-8

"Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Lạy Chúa, Chúa là Cha và là Ðấng Cứu Chuộc chúng con: danh Chúa đã có từ muôn đời. Lạy Chúa, tại sao Chúa để chúng con đi lạc xa đường Chúa, và làm cho tâm hồn chúng con trở nên chai đá, không còn biết kính sợ Chúa nữa? Vì các tôi tớ Chúa, các chi tộc thừa hưởng gia nghiệp Chúa, xin hãy đoái nhìn lại.

Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống: các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Chúa đã ngự xuống và các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Ðó là việc từ xưa đến nay chưa từng có ai nghe thấy; lạy Chúa, không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Chúa đã đón tiếp kẻ hân hoan thi hành công lý, và nhớ đến Chúa khi đi trong đường lối Chúa.

Này Chúa thịnh nộ, vì chúng con đã phạm tội. Chúng con đã luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi, thì làm sao sẽ được cứu rỗi? Tất cả chúng con đều đầy vết nhơ, và công nghiệp chúng con đều như chiếc áo dơ bẩn.

Và không còn ai kêu cầu thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa. Chúa đã ẩn nấp không cho chúng con nhìn thấy nữa, và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi. Tuy nhiên, lạy Chúa, Chúa là Cha chúng con, chúng con là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm, tất cả chúng con đều do tay Chúa làm nên.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4).

Xướng:

1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai!

Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần,

xin hiện ra trong sáng láng.

Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa,

và ngự tới để cứu độ chúng con.

2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại,

tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này.

Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy,

bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình.

3) Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa,

con người mà Chúa đã củng cố cho mình.

Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa,

Chúa cho chúng con được sống,

và chúng con ca tụng danh Ngài.

Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 3-9

"Chúng ta mong chờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, chúc cho anh em đầy ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô.

Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, vì ơn đã ban cho anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra. Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến. Thiên Chúa là Ðấng Trung Tín, đã kêu mời anh em hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Tv 84, 8

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 13, 33-37

"Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!"

Ðó là lời Chúa.
 
Tỉnh thức giữa những nguy hiểm liên tục xảy đến
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
01:35 28/11/2020
TỈNH THỨC GIỮA NHỮNG NGUY HIỂM LIÊN TỤC XẢY ĐẾN
(SUY NIỆM MÙA VỌNG)

1. Sống là chờ đợi. Bởi thời gian sống của đời người cũng là thời gian chờ đợi. Chờ đợi từ điều nhỏ nhất đến điều trực tiếp liên quan vận mạng vĩnh cửu của mỗi người. Có chờ đợi trong mệt mỏi, có chờ đợi mà lòng háo hức, hy vọng…

Đời thường, ta vẫn chờ đợi: chờ cái hẹn được thực hiện, chờ thiết bị đang sữa chữa, chờ một trận cầu. Người mẹ tần tảo nuôi con chờ một ngày con thành tài, thành nhân. Người chồng đi xa, chờ ngày hoàn thành công tác sum họp gia đình…

Đời sống đức tin, ta lại càng chờ đợi. Đó là sự chờ đợi những điều tốt đẹp mà đức tin mách bảo: niềm an ủi thiêng liêng khi gặp trắc trở, ơn Chúa để được thánh thiện, được hạnh phúc ngày sau trong đời bất diệt…

Chờ đợi nào, dù vui tươi hay mệt mỏi đều có ý nghĩa: Cho ta sống trong hy vọng. Có khi mong manh, vẫn là hy vọng, vẫn cần thiết cho cuộc đời làm người.

Nhờ hy vọng trong chờ đợi, ta làm mọi cách để giữ và phát triển hy vọng đó, cho nó vươn tới hiện thực. Cách riêng, với hy vọng sống vĩnh cửu, ta càng ra sức bảo vệ bằng một cuộc đời gắn bó với Chúa Kitô, sống trong và như Chúa Kitô.

Chúa Kitô đúc kết cách thức bảo vệ hy vọng vĩnh cửu, một niềm hy vọng lớn không thể tả của đời người trong một bài học ngắn gọn, súc tích: “Hãy tỉnh thức”.

Tỉnh thức luôn là chân lý cần thiết cho những ai chờ đợi. Chờ đợi niềm hy vọng vĩnh cửu càng đòi Kitô hữu phải tỉnh thức. Tỉnh thức luôn, tỉnh thức không lúc nào dừng để không sa hố tội lỗi là cách tốt nhất bảo vệ niềm hy vọng vĩnh cửu.

Một lần nữa bước vào mùa Vọng, Hội Thánh lặp lại chính bài học “tỉnh thức” mà Chúa Kitô dạy để nhắc ta bảo vệ đời vĩnh cửu của mình. Tôi nhìn thấy bài học tỉnh thức này ở nhiều khía cạnh của đời sống xã hội và tôn giáo, đời sống cá nhân và tập thể, đời sống tinh thần và vật chất, có khi phân biệt, nhưng cũng có khi đan xen vào nhau. Xin kể vài nguy hiểm đang đe dọa, buộc ta phải sống tỉnh thức.

2. Thông tin thời sự từ khắp nơi trên thế giới liên tục cho ta biết những nguy hiểm rình rập đe dọa cả thế giới. Chẳng hạn bất ngờ có những thiên tai như động đất, bão lũ, hạn hán, lở đất, lở núi, trượt bùn… giết chết cùng một lúc, ít thì cũng là vài chục người, nhiều cũng có đến từ vài ngàn người đến vài trăm ngàn người.

Tháng 10.2020 ghi đậm nét những trận thiên - nhân họa liên tiếp tấn công người miền Trung của Đất Việt quê mình. Bão dồn dập bão, lũ đè lên lũ, những thủy điện lớn nhỏ thi nhau cho nước chảy hết công suất, những cánh rừng đã bị kiệt sức từ lâu, những quả núi hay những ngọn đồi tự lúc nào đã không còn sức sống, những dãi đất nằm trơ thân không còn rễ cây chắn giữ... mạnh hơn trời giáng, cùng lúc giáng xuống thân phận, mạng sống, của cải của biết bao người lành, quanh năm chỉ thèm một cuộc sống yên ổn...

Nhiều bệnh lạ, cũng như chẳng còn lạ, nhiều loại dịch tễ nguy hiểm như sác, cúm gia cầm, HIV/AIDS, ung thư… tiếp tục giết chết không biết bao nhiêu người. Thời sự nhất mà cả loài người đang phải đối đầu là cúm Vũ Hán, trong khi vẫn chưa có thuốc chữa hay ngăn ngừa, sau một năm hoành hành (tháng 11.2019-11.2020, khởi phát từ Vũ Hán, Trung Quốc), đã khiến khoảng 55 triệu người bị nhiễm, trong đó có đến cả triệu rưỡi người vì nó mà vĩnh viễn rời bỏ trần gian.

Các loại bệnh nguy hiểm ấy, các cái chết tang thương ấy như không có chiều hướng giảm sút, ngược lại còn có vẻ như phát triển mạnh hơn và tăng từng ngày.

Tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, nếu không muốn nói là tăng mạnh như: tham ô, hối lộ, trộm cướp, ma túy, mại dâm, các loại cờ bạc, dị đoan, ngừa thai, phá thai, đồng tính luyến ái, nhất là tìm hưởng thụ trên thân xác con người...

Chính những tệ nạn ấy khiến con người khinh thường tư cách làm vợ chồng, làm cha mẹ khi hai người đến với nhau chỉ để thỏa mãn dục tính mà không kể đến sự tổn thương của hôn nhân đúng nghĩa.

Sự khinh thường ấy, kéo đến những thảm trạng kinh khủng khác như: nuôi con nuôi, ly dị, mang thai mướn, trẻ em mồ côi cha mẹ trong khi cha mẹ còn sống, trẻ em lang thang, bụi đời, lạm dụng quyền trẻ em trong các vấn đề về tính dục, lao động, chiến trường…

Những tội ác rùng rợn như: phá hủy môi trường cách vô tội vạ, khủng bố, thù hận, kỳ thị, gieo chiến tranh, buôn người, đánh bom tự sát, nổi loạn phá hoại an ninh… là những nguy hiểm vô cùng, làm tổn thương không chỉ đối với sinh mạng mà còn nơi tinh thần vì phải luôn sống trong cảnh bất an…

Óc hưởng thụ, óc bè phái, chủ nghĩa cá nhân cùng những quan niệm tự do sai lạc dẫn đến sự tìm cách tự giải thoát mình khỏi những ràng buộc đạo đức, chà đạp nhân phẩm mọi người… đang lan rộng vào tâm thức con người, kể cả những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ đạo đức, lẽ ra phải sống nêu gương, cũng bị lây nhiễm.

Lương tâm người thời đại xuống cấp trầm trọng. Bởi chính sự xuống cấp của lương tâm, gây ra không biết bao nhiêu quan niệm về những cái bình thường trở thành không bình thường, những cái bất thường trở thành bình thường.

- Chẳng hạn, chiếm đoạt của cải, bóc lột sức lao động là điều bất thường, nhưng rất nhiều người vẫn sống ung dung nhờ sự cướp của và cướp sức ấy.
- Chẳng hạn, xúc phạm thân thể của người khác không những là điều bất thường, mà còn là điều không bao giờ được phép, lại trở nên bình thường trong các nhà tù, trong những cuộc điều tra của những kẻ có thẩm quyền, thậm chí dùng nhục hình để tra tấn, để bức cung.

Nổi cộm hiện nay tại Việt Nam là thanh niên Hồ Duy Hải. 14 năm ngồi tù, hết lần này đến lần khác, hết tòa án thấp đến tòa án cao, mạng sống bị treo trên đầu sợi tóc như trò đùa, vẫn chưa chứng minh được có tội hay vô tội cách rốt ráo.

- Chẳng hạn, nạn ăn hối lộ, ăn cắp của công, là điều xấu, là tai hại, làm nghiêng cán cân công lý, làm đảo ngược chân lý và làm khổ sở vô cùng cho những người nghèo, người không quyền lực…, lẽ ra bất thường, lại cứ nhan nhãn từ lâu, gần như bình thường.

Không thể kể hết những đảo ngược của những điều bình thường và bất thường. Sự đảo ngược đó đem lại một số giá trị vật chất, một số lợi nhuận cho một số người, nhưng lại là sự tàn nhẫn vì làm cho nhiều người khốn đốn, thậm chí đau khổ; làm cho cả xã hội bị tha hóa; làm băng hoại đạo đức và bôi đen nền văn hóa thời đại; làm cho niềm tin giữa người với người vốn quý giá và cần thiết bị tổn thương, nặng hơn, đã dần dà biến mất…

3. Từ những chứng minh thực tế về những nguy hiểm liên tục xảy đến, gây nhiều cái chết về đời sống vật chất và tinh thần, đòi chúng ta càng phải tỉnh thức hơn bao giờ hết. Đó chính là sự khôn ngoan của ta. Đó chính là sứ điệp khẩn cấp trong mùa Vọng buộc ta phải nắm lấy.

Nhắc lại bài học “Hãy tỉnh thức” của Chúa Giêsu, mùa Vọng hướng ta về sự sống vĩnh cửu, cho ta biết, chờ đợi để đạt tới hy vọng vĩnh cửu không bao giờ là chờ đợi suông, nhưng luôn có phần cộng tác của ta bằng thái độ tỉnh thức.

Thử gợi vài việc đạo đức thực hành bài học tỉnh thức trong mùa Vọng nói riêng, trong sự chờ đợi niềm hy vọng vĩnh cửu suốt cuộc sống gian trần nói chung:

– Thành tâm nhìn nhận mình thật mong manh, yếu đuối, cuộc sống này chỉ tạm bợ, đầy giới hạn. Từ đó ta khiêm tốn hơn, sống có nhân, có nghĩa hơn.
– Sống tâm tình tạ ơn Chúa vì Người luôn tìm mọi cách, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh, mọi người anh em xung quanh… để thức tỉnh ta, đưa ta về sống gắn bó với Người.
– Tin vào tình yêu của Chúa, thực tâm nhìn nhận tội lỗi của mình, xin Chúa tha thứ. Đồng thời đừng để lương tâm rơi vào sự chai cứng, tàn nhẫn, gây đau khổ cho anh chị em quanh mình.
– Một ý thức cần phải có luôn luôn, đó là ý thức ta có thể chết bất cứ lúc nào. Những nguy hiểm giết hại ta có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Ý thức như thế, không phải để hoang mang, nhưng giúp ta bình tỉnh đón nhận thánh ý Chúa, đón nhận những hoàn cảnh lắm khi bất trắc, mà Chúa muốn ta phải đương đầu.
– Biết mọi nguy hiểm có thể đổ ập trên mình, ta sẽ bền vững trong đời sống cầu nguyện để được ở với Chúa, có Chúa đồng hành trong cuộc đời với ta.
– Không quên bổn phận san sẻ mất mát, khổ đau của anh chị em. Tận lực tận tình giúp họ, khi họ bị hiểm nguy đe dọa, hay đã xảy đến gây khốn đốn.

Vài gợi ý nhỏ hầu mong giúp sống mùa Vọng, mùa Vọng của năm 2020 và mùa Vọng của đời mình đang khi tiến về vĩnh cửu, chắc chưa là tất cả của một đời sống đạo đức. Dẫu sao vẫn là những điểm cần cho sự thức tỉnh của bản thân.

Nếu sống là chờ đợi, thì sống hướng về vĩnh cửu là chờ đợi gây không ít mỏi mòn, làm nhiều người lạc lối. Để sự chờ đợi trên đường về vĩnh cửu luôn đúng, luôn hợp ý Chúa, ta thực hành bài học tỉnh thức suốt đời như Chúa dạy và Hội Thánh mời gọi.
 
Choáng men Thiên đàng
Lm. Minh Anh
01:44 28/11/2020
CHOÁNG MEN THIÊN ĐÀNG
“Các con hãy giữ mình”.

Kính thưa Anh Chị em,

Hôm nay, ngày cuối của năm phụng vụ, Lời Chúa chứa chan niềm vui với những thị kiến kết thúc của sách Khải Huyền; vậy mà thú vị thay, Tin Mừng lại đưa ra một lời nhắn gửi, “Các con hãy giữ mình”. Có lẽ Chúa Giêsu thấy chúng ta dễ dàng ươn lười trong đời sống đức tin, trái tim chúng ta dễ trở nên ngái ngủ; lý do là vì, “chè chén say sưa và lo lắng việc đời”; Ngài khuyên chúng ta, hãy tập ‘choáng men thiên đàng’, hãy tĩnh thức và cầu nguyện hầu có thể đứng vững ngày Ngài đến.

Những thị kiến cuối cùng của sách Khải Huyền thật đẹp và đầy hứa hẹn. Gioan thấy dòng sông hằng sống lênh láng chảy từ ngai Thiên Chúa và Con Chiên, dòng nước nên nguồn sống cho cây cỏ và con người; những kẻ chiến thắng chiêm ngắm tôn nhan Thiên Chúa; “Sẽ không còn đêm tối, họ không cần đèn đuốc hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu soi họ và họ sẽ hiển trị muôn đời”. Phải chăng, đây là phúc kiến vốn không cần phải đợi đến ngày sau nhưng ngay hôm nay, Thiên Chúa đã ban cho những ai ‘choáng men thiên đàng’, những ai thuộc về Người.

Thế nhưng, niềm vui ấy có thể mai một khi con người mất cảnh giác, khi cuộc sống của nó chỉ biết xoay quanh chính mình, khi nó lãng quên Thiên Chúa và tha nhân; bấy giờ, con người sẽ trở nên lười biếng trong đời sống đức tin, bơ phờ trong đời sống nội tâm. Sự bơ phờ nội tâm phát xuất từ việc con người chỉ biết lẩn quẩn với chính mình; sự bơ phờ khiến nó bị nhốt kín bởi chính cuộc sống với các vấn đề và ‘những niềm riêng’ của nó. Và điều này thật mệt mỏi, buồn tẻ và đây là căn nguyên của sự thờ ơ và lười biếng mà Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay, “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời”.

“Say sưa và lo lắng việc đời” ở đây, không chỉ hiểu theo nghĩa đen, say những chất gây nghiện, nhưng còn ‘say tất cả’ những gì khiến con người xa rời Thiên Chúa; say sưa quyền lực, mải mê danh vọng, đắm đuối sắc dục và nô lệ tiền tài… tất cả những gì có thể khiến trái tim con người mỏi mệt, buồn ngủ vì thiếu tiết độ và xa lạ với những gì được gọi là ‘choáng men thiên đàng’.

Trong cuốn “Carlo Acutis, chuyên viên vi tính ở thiên đàng”, cha Guillaume Conquer, một nhà thừa sai hiện đại viết, “Acutis là một thanh niên ‘thiên niên kỷ’ có một trái tim tinh tuyền, mở đường ‘cho một thế hệ thánh mới’; một thanh niên đã từng nói, ‘Con hài lòng khi chết vì con đã sống cả cuộc đời mà không bỏ qua một phút nào không làm đẹp lòng Chúa’”. Will Conquer cho biết, “Trọn cuộc sống của anh làm chứng cho Bí tích Thánh Thể, xa lộ dẫn anh đến thiên đàng; cầu nguyện lần hạt, xưng tội hàng tuần với một đức tin mãnh liệt, kết hiệp hài hoà và vui vẻ với tình thương cho người anh em”; “Acutis say mê vi tính, lập trình sưu tập các phép lạ Thánh Thể; với anh, ‘Đơn giản nhưng không tầm thường’”; “Anh đến để nói chuyện và giúp chúng ta lắng nghe nhịp đập trái tim Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay; không phải đi tìm những chuyện phi thường, nhưng chấp nhận trong sự bình thường của thế giới, để nhìn thấy ân sủng phi thường của Thiên Chúa”; “Acutis, con người của một tâm hồn tinh tuyền và một ý hướng tinh tuyền; anh là ngôn sứ cho sự trong sạch”; “Các tâm hồn trong sạch thấy Chúa và họ làm cho chúng ta thấy Chúa vì họ toả rạng qua sự trong suốt của họ. Acutis là vậy, tình bạn với Chúa Giêsu là ‘số một’, nhưng phải hiểu đó là sự hoán cải của cả một cuộc đời. Hãy thử đi theo con đường Acutis đã đi, và đi tới một cách yên bình, chúng ta cũng sẽ đến được với sự thánh thiện”; chúng ta cũng sẽ ‘choáng men thiên đàng’.

Anh Chị em,

Có lẽ Chân phước Carlo Acutis là một trong những nhân vật nổi bật nhất của thế giới và của Giáo Hội trong năm 2020 xám xịt đang dần qua này, anh được cất nhắc vì đã ‘choáng men thiên đàng’ với sự trong suốt của bản thân, lòng sùng kính Thánh Thể, yêu mến Mẹ Maria và sống tình bạn với Chúa Giêsu qua tha nhân, nhất là đối với người nghèo. Sống được như Acutis là sống tĩnh thức; hôm nay, anh hẳn là mẫu gương sống động cho chúng ta noi theo trong mọi đấng bậc.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, kết thúc một năm phụng vụ, con cảm thấy xấu hổ, lòng đầy ăn năn, vì con đã quá ‘say sưa’ sự đời. Xin Đức Mẹ dạy con biết ra sức đổi mới tâm hồn, hầu con cũng có thể ‘choáng men thiêng đàng’ như vị thánh trẻ ‘Anh Cu Tí’ ngay hôm nay và suốt những ngày đời còn lại”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Mùa Trông Đợi Trong Nhãn Quan Chiêm Niệm Cát Minh.
Lm. Giuse Phan Quang Trí, O,Carm.
10:31 28/11/2020
Bốn tuần trước đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh, Giáo Hội bước vào Mùa Vọng vốn được xem là thời gian chuẩn bị. Trong thời gian ân sủng này, dân Kitô Giáo mặc lấy tâm tình của dân Do Thái xưa là náo nức trông chờ Chúa đến. Trong Mùa Vọng, các Kitô Hữu được thúc giục chuẩn bị tâm hồn trước là để kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa hạ sinh làm người tại Bêlem và cư ngụ giữa nhân loại chúng ta; sau là để hướng lòng về ngày Chúa Kitô giáng lâm lần thứ hai trong vinh quang của Người. Như thế, để cho Mùa Vọng thực sự có ý nghĩa đối với chúng ta và để có thể sống tròn đầy hai chiều kích sâu xa của “mùa trông đợi”, mỗi Kitô hữu hẳn nhiên cẩn phải thực hiện điều mà chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, điều mà Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng nhấn mạnh: “Anh em hãy tỉnh thức và hãy sẵn sàng” (x. Mc 13, 33 & Mt 24, 44).

Mùa Trông Đợi: Sống Tỉnh Thức

Không chỉ trong ngày Chúa Nhật khai mạc mà đúng hơn là trong suốt Mùa Vọng, mỗi khi cử hành Thánh Lễ, cộng đồng dân Chúa hướng tâm hồn lên cùng Chúa Cha trên trời và khẩn khoản nguyện xin rằng: “Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Khi ngự đến lần thứ nhất, mặc lấy thân xác yếu hèn, [Đức Kitô] đã thực hiện hồng ân mà Chúa đã dự định từ xưa và mở đường cứu độ đời đời cho chúng con: để khi Người đến lần thứ hai trong uy linh, nhờ hồng ân bấy giờ được tỏ hiện, chúng con sẽ lãnh nhận điều Chúa đã hứa, [điều] mà ngày nay chúng con đang tỉnh thức vững dạ đợi chờ.” (x. “Lời Tiền Tụng Mùa Vọng I”, Sách Lễ Rôma) Thực ra, “tỉnh thức và sẵn sàng” phải là thái độ sống hàng ngày của mỗi Kitô hữu chúng ta vì chúng ta hoàn toàn không biết khi nào “niềm hy vọng hồng phúc” ấy xảy đến với chúng ta (x. Mc 13, 33).

Tâm tình “trông đợi” và thái độ “thức tỉnh” là những điều căn bản mỗi Kitô hữu trưởng thành cần phải có nếu không muốn hành trình đức tin của họ trở nên vô vị và vô nghĩa. Còn hơn thế nữa, “tỉnh thức và nhạy bén với Lời Chúa” vốn được đánh giá là những giá trị nền tảng nhất của nền linh đạo chiêm niệm Cát Minh. Tu sĩ Cát Minh được mời gọi sống trong sự “tỉnh thức” liên lỉ vì đó là biểu hiện của một tâm hồn khao khát Thiên Chúa. Điều này không chỉ đúng khi chúng ta nói về căn tính người tu sĩ Cát Minh, nhưng còn rất đúng khi áp dụng vào đời sống của các thành viên giáo dân Dòng Ba Cát Minh nữa. Chương 10 Luật Dòng Cát Minh là bằng chứng điển hình cho thấy tâm tình Mùa Vọng rất gần với truyền thống chiêm niệm của Dòng Cát Minh, một trong những Dòng Tu cổ kính nhất của Giáo Hội Công Giáo Rôma.

Mùa Trông Đợi: Mến Chuộng Đường Lối Chúa

Trong số 24 chương (hay đúng hơn là 24 điều khoản) của bản Tu Luật do Thánh Albêtô Thượng Phụ Giêrusalem biên soạn trong khoảng thời gian 1206 - 1214 và sau đó được Đức Innôcentô IV bổ túc và phê chuẩn năm 1247, thì chương 10 được xem là “trái tim” của bản luật. Điều luật này nói rõ: “Mỗi [tu sĩ Cát Minh] sẽ ở trong tu phòng của mình hoặc gần đó, ngày đêm suy niệm luật Chúa và tỉnh thức cầu nguyện, trừ phi phải chu toàn nghĩa vụ khác.” Với vỏn vẹn vài hàng chữ ngắn gọn nhưng chương 10 chứa đựng thông điệp vô cùng lớn lao. Nó đề cập đến “cầu nguyện” như giá trị nền tảng nhất trong toàn bộ nền linh đạo Cát Minh. Có giả thuyết cho rằng, khoản luật này xuất xứ từ nguyện vọng của các ẩn sĩ Cát Minh tiên khởi. Những vị này, trước khi đến gặp thánh Albêtô, đã chuẩn bị trước một bản thảo gồm những điều họ mong muốn sẽ thực hiện nhằm theo đuổi lý tưởng “trung thành theo gương Chúa Giêsu Kitô – vivere in obsequio Jesu Christi” (Tu Luật Thánh Albêtô, Ch.2). Cho dù chúng ta không thể xác nhận giả thuyết này đúng hay sai, nhưng dựa vào đặc tính của bản văn, chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò và đóng góp của Đấng soạn luật thể hiện trong điều khoản quan trọng này.

Thánh Albêtô vốn am tường Kinh Thánh, đã khéo léo kết hợp ý tứ của 2 đoạn sách thánh tách biệt nhau để tạo nên một điều luật cô đọng giúp thể hiện đầy đủ nét đặc trưng của cái gọi “con đường Carmel”: Thánh Vịnh 1 trong Cựu Ước và Thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông Đồ trong Tân Ước. Đọc lại hai đoạn sách thánh vừa nhắc đến, chúng ta khám phá ra cách thức người Cát Minh sống Mùa Trông Đợi.

Mùa Trông Đợi: Xây Nhà Trên Đá

Người Cát Minh hiểu rằng “luật Chúa” và “cầu nguyện” không đơn thuần là bản văn, là câu chữ hay lời nói. “Suy niệm Luật Chúa” mang một ý nghĩa sâu xa hơn việc đọc và học thuộc lòng giới luật của Chúa rất nhiều. Đối với người Cát Minh, “suy gẫm Luật Chúa” là khao khát sống theo đường lối Chúa truyền ban. “Cầu nguyện liên lỉ” đối với họ là “sống tương quan”, là dành hết con người họ cho việc thực thi đường lối Chúa. Họ ham thích đường lối Thiên Chúa đến độ nhẩm đi nhắc lại để tránh không lãng quên Thiên Chúa một giây một phút nào trong cuộc đời họ. Như một hệ quả tất yếu, ngưởi Cát Minh thần tượng đường lối Chúa đến độ họ không muốn giữ riêng cho bản thân. Ngược lại họ loan truyền hiệu quả tích cực của việc tuân giữ huấn lệnh Chúa cho nhiều người biết hầu có thêm nhiều người cũng tiến bước theo đường lối Chúa:

Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân,

chẳng bước vào đường quân tội lỗi,

không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng,

nhưng vui thú với lề luật Chúa,

nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày.

Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước,

cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh,

cành lá chẳng khi nào tàn tạ.

Người như thế làm chi cũng sẽ thành. (Tv 1, 1-3)

Hơn nữa, anh chị em Cát Minh được chỉ thị để suy gẫm đường lối Thiên Chúa cả đêm lẫn ngày vì đó là cách hữu hiệu nhất để họ nhận ra đâu là điều Chúa muốn. Trên hành trình tiến bước theo đường lối thánh thiện ấy, nhờ “suy đi gẫm lại” hay nói cách khác nhờ “sống chung” với Lời Chúa mà người Cát Minh mới có thể kết hợp được với Đấng mà họ kiếm tìm trong đời sống cầu nguyện. Lắng nghe không chưa đủ, nhờ suy gẫm Lời ấy, người Cát Minh được soi sáng và thúc đẩy biến niềm cảm kích thiêng liêng thành hành động xác thực. Họ được Lời Chúa biến đổi. Tâm tình đi đôi với hành động, họ trở nên những người khôn ngoan biết xây nhà trên nền đá vững chắc. “Thật thế, trong quá khứ anh em đã sống theo sở thích dân ngoại: dâm ô, mê đắm, nhậu nhẹt, say sưa, chè chén, tin vơ thờ quấy, như vậy là quá đủ rồi… Thời cùng tận của vạn vật gần đến rồi. Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được” (1 Pr 4, 3 & 7). Qua những lời khuyên chân thành này, Thánh Phêrô Tông Đồ dùng chính kinh nghiệm vấp ngã của bản thân ngài để kêu gọi tất cả chúng ta, không chỉ anh chị em Cát Minh, từ bỏ quá khứ, tập trung vào hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Chẳng phải đây cũng là ba chiều kích thần học gắn liền với Mùa Vọng đấy sao?

Mùa Trông Đợi: Mùa Gặp Gỡ

Thánh Bênarđô, Viện Phụ (1090-1153), đã đưa ra 3 lối hiểu tuy khác biệt nhưng bổ túc cho nhau về mầu nhiệm Chúa Kitô giáng lâm, mầu nhiệm chính yếu mà Giáo Hội vẫn sốt sáng cử hành mỗi khi bước vào Mùa Vọng.

Có ba lần Chúa đến. Lần thứ ba ở giữa hai lần kia. Hai lần kia thật là rõ ràng, còn lần thứ ba ở giữa thì không. Lần đầu, Người xuất hiện trên mặt đất và ở với người phàm, như chính Người quả quyết, họ đã thấy và ghét Người. Còn lần cuối, mọi xác phàm sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta và chúng sẽ nhìn xem Đấng chúng đã đâm thâu. Lần giữa thì ẩn khuất, chỉ có những ai được tuyển chọn mới thấy Người trong lòng mình, và linh hồn những người ấy được cứu độ. Vậy lần đầu, Người đến mang xác phàm và phận mỏng manh; lần giữa, Người đến với thần khí và sức mạnh; còn lần cuối, Người đến trong vinh quang và oai hùng.

Xét về phương diện quá khứ, chúng ta hồi tưởng lại biến cố Ngôi Lời hạ sinh từ cung lòng Đức Trinh Nữ Maria nơi máng cỏ Bêlem cách đây hơn 2000 năm. Xét về phương diện tương lai, chúng ta trông đợi ngày thế mạt, ngày Con Người “uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến” để “tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương trời lại” (x. Mt 24, 30 & 25, 31). Xét về phương diện hiện tại, chúng ta sống trong sự chăm sóc ân cần của Chúa, nói theo Thánh Viện Phụ Bênarđô thì đây là khoảng thời gian Thiên Chúa “cho chúng ta được nghỉ ngơi và an ủi.” Nhắc đến nghỉ ngơi, chúng ta nhớ ngay đến hình ảnh cõi lòng thâm sâu, nơi mà trong truyền thống tu đức vẫn được xem là “chốn đi về” của mỗi người. Riêng đối với truyền thống Cát Minh, tâm hồn còn được nói đến như một ngôi “mật thất riêng tư” nơi chúng ta gặp gỡ Đấng chúng ta hằng khao khát kiếm tìm.

Mùa Trông Đợi: Tìm Về Tu Phòng Nội Tâm

Chương 10 Luật Thánh Albêtô nói đến “tu phòng”, nơi người Cát Minh sẽ chìm đắm trong chiêm niệm và sự hiện diện trìu mến của Thiên Chúa. Chắc hẳn anh chị em Cát Minh tại thế và cả anh chị em tín hữu thông thường khác sẽ thắc mắc tự hỏi không biết “tu phòng” của họ ở đâu khi mà họ không sống trong tu viện như các tu sĩ Dòng Cát Minh. Khúc mắc này nhanh chóng được giải đáp khi chúng ta đọc sách “Lâu Đài Nội Tâm” của Thánh Nữ Têrêxa Giêsu, nhà thần bí Thế kỷ XVI. Thánh Tiến Sĩ nói cho chúng ta biết tâm hồn của mỗi người chính là “tu phòng,” là lâu đài huyền nhiệm nơi Thiên Chúa hằng chờ mong để gặp gỡ chúng ta. Nhà thần bí Dòng Cát Minh còn cảnh báo chúng ta rằng hành trình “tìm về nội tâm” không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Thực tế, để đến được nơi “hẹn hò” chúng ta phải chiến đấu không ngừng hầu vượt qua nhiều gai chông trắc trở. Nếu như tu phòng của các ẩn sĩ trung cổ là hang động trên núi hay lều tranh giữa sa mạc hoang vu, nơi họ phải đối diện với rắn rết, bọ cạp, thú dữ và thời tiết khắc nghiệt… thì hành trình chúng ta tìm đến găp gỡ Thiên Chúa ngày hôm nay trong cô tịch và nguyện cầu cũng sẽ là những chặng đường đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu chống trả lại dục vọng, tính ích kỷ, thói kiêu ngạo, lòng hận thù và cả sự chán nản nữa. Hành trình tiến sâu vào mật thất trung tâm của Lâu Đài Nội Tâm cũng là hành trình Mùa Vọng của mỗi người chúng ta. Vì chúng ta biết chắc chắn đích đến là cuộc gặp gỡ giữa chúng ta và Ngôi Lời Thiên Chúa nên hành trình này đong đầy hy vọng. Chúng ta cũng biết rằng để đạt đến đích điểm đó chúng ta phải tự giải thoát chính mình khỏi tất cả mọi ràng buộc thế gian, do đó hành trình này là hành trình “sẵn sàng”. Càng dân thân trên hành trình này chúng ta càng thấy mình mong manh dễ vấp ngã, do đó chúng ta càng khiêm tốn cầu cứu ơn Chúa qua sự trợ giúp của các Thánh, điều này nhắc cho chúng ta biết “thức tỉnh” luôn mãi trên hành trình Mùa Vọng của đời mình.

Kết: Sẵn Sàng và Tỉnh Thức

Hành trình Mùa Trông Đợi của dân thánh Chúa được đánh dấu bởi “sự tỉnh thức và sẵn sàng”. Đối với người Cát Minh, mỗi giây phút trong hành trình tiến về đỉnh Cát Minh cũng chính là mỗi giây phút sống tâm tình Mùa Vọng. Nói cách khác, để thăng tiến trên đàng nhân đức, anh chị em Cát Minh nói riêng, các Kitô hữu nói chung, cần ý thức rằng mỗi giây phút trong đời họ phải đong đầy ý nghĩa của Mùa Trông Đợi: Luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Chúng ta tiến bước trên hành trình đức tin và biến nó thành hành trình tiến gần về phía Thiên Chúa. Hành trình này được thúc đẩy bởi tình mến và sẽ kết thúc cũng trong tình mến. Chúng ta được trang bị khí giới sẵn sàng chống trả mọi thử thách nhờ bám vào “huấn lệnh Chúa”. Thánh Bênarđô đảm bảo với anh chị em Cát Minh và với mỗi người chúng ta rằng khi chúng ta “ngày đêm suy gẫm luật Chúa và tỉnh thức cầu nguyện” chúng ta sẽ được Lời Chúa nuôi dưỡng và giữ gìn an toàn. “Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga 14, 23). Chúa Con cùng với Chúa Cha sẽ mãi luôn hiện diện và chúc phúc cho những tâm hồn đặt nền móng vững chãi trên Lời và Huấn Lệnh của Thiên Chúa (x. Mt 7, 24-27).

Lạy Chúa, con dâng lời ca tụng,

thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con.

Con vui thú với mệnh lệnh của Ngài

và hết lòng yêu mến.

Mệnh lệnh Ngài, con giơ tay đón nhận,

thánh chỉ Ngài, con sẽ gẫm suy.

Con cảm thấy lời Ngài đã hứa

ngọt ngào hơn mật ong trong miệng.

Con thành người sáng suốt nhờ huấn lệnh Ngài ban,

nên con ghét mọi đường nẻo gian tà.

Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,

là ánh sáng chỉ đường con đi.

(Tv 119: 12, 47-48, 103-105)

Lm. Giuse Phan Quang Trí, O,Carm.
 
Hãy Đợi Đi, Chúa Đang Trở Về !
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
21:11 28/11/2020
HÃY ĐỢI ĐI, CHÚA ĐANG TRỞ VỀ !

CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG NĂM B (2020)

Trong tiếng La Tinh, Mùa Vọng được gọi là ADVENTUS, xuất phát bởi động từ ADVENIRE hay ADVENTARE, có nghĩa “đến gần”, “đang tới”; nếu “kẻ đang đến” đó là một vị vua, một hoàng đế, thì gọi là “giá lâm” hay “quang lâm”.

Nhưng nếu có ai đang đến thì phải có kẻ đợi chờ, đón gặp; nếu có vị vua “giá lâm” thì phải có thần dân “sẵn sàng dàn chào đón rước”. Giáo Hội Việt Nam dùng từ “VỌNG” để diễn tả “ý nghĩa kép” ĐẾN và ĐỢI đó: vừa nhấn mạnh việc “Chúa đến lần thứ nhất” qua mầu nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh, đồng thời hướng tới ngày “Chúa đến lần thứ hai” khi “quang lâm” xét xử; vừa đề nghị thái độ và tâm tình vươn về phía trước, hướng đến đàng xa, để “đón đợi”, để “gặp gỡ. Gần là sẵn sàng cho đại lễ Giáng Sinh; xa là “sắp sẵn” để được “gọi vào hưởng Nước Trời” (Lời nguyện Nhập lễ).

Sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật I Mùa Vọng nầy đã trình bày thật rõ nét hai chiều kích ý nghĩa trên.

Từ “cảm nghiệm Chúa đến” của dân tộc Israel:

Có thể nói được, Israel là một dân tộc duy nhất có cảm nghiệm sâu xa và phong phú về Thiên Chúa và hoạt động của Ngài trong lịch sử. Mà cũng phải thôi, vì dân tộc nầy là “dân Chúa chọn”, “Dân riêng” của Thiên Chúa; toàn bộ lịch sử của dân Israel là “câu chuyện dài của Giao ước” giữa Thiên Chúa và dân tộc, của những lần Thiên Chúa thi ân, giải thoát, hay đoán phạt, răn đe… Đối với họ, nỗi khốn khổ lớn lao nhất, tình trạng bi đát nhất chính là bị “Thiên Chúa tuyệt giao”, ẩn mặt, như cách diễn tả của ngôn sứ Isaia: “Lạy Chúa, tại sao Chúa để chúng con đi lạc xa đường Chúa, và làm cho tâm hồn chúng con trở nên chai đá, không còn biết kính sợ Chúa nữa?... Và không còn ai kêu cầu thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa. Chúa đã ẩn nấp không cho chúng con nhìn thấy nữa, và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi”.

Từ cái “cảm nghiệm” về nỗi thống khổ và bi đát bị Chúa bỏ rơi, Chúa bỏ mặt đó, dân Israel lại cho thấy sự cần thiết tuyệt đối của việc Chúa đến viếng thăm, Chúa trở lại mối giao tình, thực thi Giao ước; mà không phải chỉ ý thức suông, họ khát khao, họ trông cậy, họ nguyện cầu tha thiết để Chúa đến: “Vì các tôi tớ Chúa, các chi tộc thừa hưởng gia nghiệp Chúa, xin hãy đoái nhìn lại. Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống… Chúa đã ngự xuống và các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Đó là việc từ xưa đến nay chưa từng có ai nghe thấy; lạy Chúa, không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa…”.

Khi hát lại những lời ca kinh tha thiết “Trời cao xin đổ sương mai, mây ơi hãy mưa Đấng Công Chính…”, dân Chúa của Mùa Vọng hôm nay sống lại chính cái cảm ngiệm “Chúa Đến” tuyệt vời đó giữa một xã hội con người mà lời của ngôn sứ Isaia vẫn chưa sai: “không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa”.

Đến thái độ “tỉnh thức” đợi chờ của Đức Kitô:

Về mặt con người, vì được nuôi dạy và lớn lên trong môi trường đức tin của cha ông, Đức Kitô đã cảm nghiệm thật rõ tình trạng sống đạo của dân tộc Ngài lúc bấy giờ: “không còn ai kêu cầu thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa”. Và Ngài đã dày công canh tân niềm tin bằng cách loan báo một Tin Vui về Nước Thiên Chúa, hiện thực nơi chính “Lời” và “hành động” của Ngài mà các ngôn sứ đã tiên báo: “Thần Khi Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4,18-19). Và điều đòi hỏi tối quan trọng, dứt khoát để đi vào Nước Thiên Chúa đó là thái độ “mở lòng ra để tin nhận Ngài”, là “hoán cải để đi theo lộ trình Bát Phúc” do Ngài đề nghị, là khiêm hạ nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi để phó thác cho lòng xót thương của Thiên Chúa…

Để làm được như thế, nhất là trong bối cảnh của một cuộc sống đầy phức tạp, cám dỗ từ chính nơi bản thân cho đến thế giới chung quanh, không phải cứ chủ quan cậy dựa vào “dầu đèn”, vào “kho lẫm chắc chắn”… mà phải là “sắp sẵn, khiêm hạ, chỉn chu” từ những chi tiết nhỏ, mà ngôn ngữ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Máccô đó là “Tỉnh thức”: “Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Điều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!”.

Sống “Tỉnh thức” giữa cuộc đời hôm nay:

Trong ngôn ngữ Tin Mừng, thái độ “đợi chờ”, “tỉnh thức” mà Chúa Giêsu đề nghị hoàn toàn mang tính chủ động và tích cực như câu chuyện “Nàng Penelope dệt Khăn đợi chồng” trong sử thi “Cuộc chiến thành Troa”: nàng Penelope chờ đợi chồng là tráng sĩ Ullisse chiến đấu phương xa không nản lòng, không mệt mỏi và khước từ mọi cám dỗ bằng cách “dệt cho xong tấm khăn”. Ban ngày dệt, ban đêm tháo. Mãi 20 năm sau mới gặp lại chồng…

Ý nghĩa “đợi chờ Chúa đến” của Mùa Vọng, một cách nào đó, cũng là một cuộc “dệt cho xong tấm khăn của cuộc đời mình” để gặp gỡ Thiên Chúa. Điều đó phải chăng muốn nói lên rằng:

Sống một cách “tỉnh thức” đó là không ngừng trang bị cho mình một đôi tai thính để biết lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe lẽ phải, lắng nghe lương tâm, lắng nghe Hội Thánh…

Sống một cách “tỉnh thức” đó chính là luôn có đôi mắt sáng để nhận ra Chúa nơi anh chị em và thấy Chúa hiện diện trong mọi biến cố của đời thường.

Sống một cách “tỉnh thức” là luôn trang bị cho mình một trí khôn minh mẩn để nhận ra đâu là thánh ý Thiên Chúa, đâu là dấu chỉ của Ngài để thực thi các trung thành và can đảm.

Sống một cách “tỉnh thức” là luôn có đôi tay mở rộng để phục vụ, đôi chân nhiệt thành loan báo tin Mừng, và trái tim nhạy cảm để yêu thương và biết nghiêng mình trên những thân phận khổ đau bất hạnh của đồng loại….

Như vậy, “tỉnh thức đợi chờ Chúa đến” đâu chỉ là “chuyện của tương lai”, của “ngày chung thẩm”, của “Ngày Chúa quang lâm xét xử địa cầu”… mà là chuyện của “hôm nay, bây giờ”. Nói cách khác, tương lai của chúng ta, vận mệnh đời đời của chúng ta bắt đầu ngay hôm nay, bây giờ.

Nhưng chúng ta đừng quên, “tỉnh thức” còn là một ơn trọng Thiên Chúa ban, như chính Thánh Phaolô xác quyết trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến. Thiên Chúa là Đấng Trung Tín, đã kêu mời anh em hiệp nhất với Con của Người, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

Vì thế, trong suốt Mùa Vọng nầy, Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh 24 gọi mời dân Chúa “Nâng tâm hồn lên cùng Chúa”, như lời Ca Nhập Lễ hôm nay:

“Con nâng tâm hồn lên cùng Chúa,

Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng nơi Ngài,

Xin Ngài đừng để con tủi nhục,

Đừng để quân thù đắc chí nhạo cười con.

Chẳng ai trông cậy Chúa,

Mà lại phải nhục nhằn.

Kết: Đợi Chúa, Chúa sẽ về.

Trong khuôn viên Đại học Tokyo có một tượng đài mang tên “CHÚ CHÓ ĐỢI CHỜ”. Thì ra, đây là bức tượng ghi nhớ chú chó Hachico của giáo sư Ueno... Sau khi ngài Ueno đột ngột qua đời, con cho Hachico mỗi ngày, trong suốt mười năm liền, ra đón đợi người chủ của mình tại ga tàu Shibuya cho tới chết. Tội làm sao con cho trung thành nhưng không gặp được chủ. Với chúng ta thì khác. Hôm nay, sứ điệp Mùa Vọng nói với chúng ta rằng: Hãy đợi Chúa đi, Chúa đang trở về. Vâng, Chúa đang trở về chính nơi bàn Tiệc Thánh Thể nầy; và chút nữa đây, Ngài trở về bằng chính Máu Thịt được trao ban cho chúng ta. Gặp được Chúa hôm nay, bây giờ, chắc chắn sẽ gặp Chúa trong ngày sau hết của đời mình hay trong ngày chung thẩm của hoàn vũ. Amen.

Trương Đình Hiền
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong công nghị tấn phong Hồng Y ngày 28/11/2020
J.B. Đặng Minh An dịch
13:57 28/11/2020

Công nghị tấn phong 13 tân Hồng Y đã diễn ra vào lúc 4 giờ chiều, giờ địa phương Rôma, ngày thứ Bẩy 28 tháng 11 tại Bàn thờ Ngai Tòa bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô, với một cộng đoàn khoảng một trăm người.

Có 11 vị Hồng Y tân cử hiện diện trong buổi lễ này. Hai vị không đến được do những hạn chế đi lại liên quan đến đại dịch coronavirus.

Trong 13 vị tân Hồng Y, có 9 vị dưới 80, nghĩa là có quyền bầu Giáo Hoàng.

Tính đến thời điểm trước buổi lễ này, Hồng Y Đoàn có 216 vị trong đó có 119 vị là Hồng Y Cử Tri và 97 vị đã quá tuổi 80.

Ngay sau công nghị tấn phong Hồng Y này, Giáo Hội có thêm 13 vị Hồng Y trong đó có 9 vị Hồng Y Cử Tri. Như thế, ngay sau nghi lễ này Giáo Hội có 229 Hồng Y trong đó có 128 Hồng Y Cử Tri.

Thông thường, các vị Giáo Hoàng thường chọn tấn phong Hồng Y cho các vị là Tổng Giám Mục hay ít nhất là Giám Mục. Tuy nhiên, trong công nghị tấn phong Hồng Y lần này có 3 linh mục được tấn phong Hồng Y. Trước hết là Cha Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng từ năm 1980 đến nay. Kế đến là Cha Mauro Gambetti, Bề trên của Tu viện dòng Phanxicô ở Assisi, và Đức Ông Enrico Feroci, linh mục quản xứ Santa Maria tại Castel di Leva, Rôma. Theo thông lệ, các linh mục cần phải được tấn phong Giám Mục trước khi được tấn phong Hồng Y. Cha Raniero Cantalamessa đã xin được miễn. Đức Ông Enrico Feroci được tấn phong Giám Mục vào ngày 15 tháng 11, và Cha Mauro Gambetti được tấn phong Giám Mục vào ngày 22 tháng 11.

Tron phần đầu lễ Đức Thánh Cha đã đọc một lời nguyện cho chính ngài như sau:

Chúng ta hãy cầu nguyện. Lạy Chúa là Thiên Chúa, Cha của vinh quang, nguồn gốc của mọi điều thiện hảo, Đấng không ngừng làm phong phú Giáo Hội trên khắp thế giới với một sự dư dật các ân sủng, và với lòng từ ái còn lớn hơn nữa trên Ngai Tòa của Thánh Phêrô Tông Đồ, mà Ngài đã thiết lập vượt trỗi trên tất cả những chức vụ khác: với sự quan phòng của Chúa xin ban cho con là người tôi tớ Chúa đây, có thể thực hiện một cách khôn ngoan chức vụ Ngài ủy thác cho con, trong niềm tin kiên vững rằng Chúa sẽ ban cho Giáo Hội phổ quát của Ngài tất cả những điều Chúa đã hứa.

Trước khi Đức Thánh Cha trao mũ đỏ, chiếc nhẫn và tước hiệu liên kết với một nhà thờ trong giáo phận Rôma hoặc một giáo phận phụ cận, cộng đoàn đã nghe bài Phúc Âm sau, trích từ Tin Mừng theo Thánh Máccô (Mc 10:32-45):

Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.”

Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”

Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”


Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

Chúa Giêsu và các môn đệ đang đi trên đường. Con đường là khung cảnh vừa được Thánh sử Máccô mô tả (Mc 10: 32-45). Con đường cũng luôn là khung cảnh cho cuộc hành trình của Giáo Hội: đó là con đường sự sống và lịch sử, là lịch sử cứu độ khi Giáo Hội đồng hành với Chúa Kitô và dẫn đến mầu nhiệm vượt qua của Người. Giêrusalem luôn nằm trước mắt chúng ta. Thập tự giá và sự phục sinh là một phần lịch sử của chúng ta; chúng là “ngày hôm nay” của chúng ta nhưng cũng luôn là mục tiêu trong hành trình của chúng ta.

Đoạn Tin Mừng này thường được đọc trong các công nghị tấn phong tân Hồng Y. Nó không chỉ đơn thuần là một “tấm phông nền” nhưng còn là một “tấm bảng chỉ đường” cho chúng ta, những người ngày nay đang cùng hành trình với Chúa Giêsu. Vì Ngài là sức mạnh của chúng ta, là Đấng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và sứ vụ của chúng ta.

Do đó, thưa anh em thân mến, chúng ta cần xem xét cẩn thận những lời mình vừa nghe.

Thánh Máccô nhấn mạnh rằng, trên đường, các môn đệ vừa “kinh hoàng” vừa “sợ hãi” (câu 32). Tại sao? Bởi vì họ biết điều gì đang chờ đợi họ ở Giêrusalem. Nhiều lần, Chúa Giêsu đã nói với họ một cách công khai về điều đó. Chúa biết những gì những người theo Ngài đang trải qua, Ngài cũng không thờ ơ với điều đó. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi bạn bè của mình; Ngài không bao giờ bỏ bê họ. Ngay cả khi có vẻ như Ngài đang đi theo con đường riêng của mình, Ngài vẫn luôn làm như vậy vì lợi ích của chúng ta. Tất cả những gì Ngài làm, Ngài đều làm cho chúng ta và cho sự cứu rỗi của chúng ta. Trong trường hợp cụ thể của Nhóm Mười Hai, Ngài làm điều này để chuẩn bị cho họ trước những thử thách sắp tới, để họ có thể gần gũi với Ngài, bây giờ và nhất là sau này, khi Ngài không còn ở giữa họ nữa. Để họ có thể luôn ở bên Ngài, và đi trên con đường của Ngài.

Biết rằng tâm hồn các môn đệ đang bối rối, Chúa Giêsu “một lần nữa” gọi Nhóm Mười Hai đến và nói với họ về “những điều gì sẽ xảy ra với mình” (câu 32). Chính chúng ta vừa được nghe: đó lời loan báo lần thứ ba về cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người. Đây là con đường do Con Thiên Chúa đi. Con đường do Người Tôi tớ Chúa chọn. Chúa Giêsu đồng hóa mình với con đường này, đến nỗi chính Người là con đường. Ngài nói: “Ta là đường” (Ga 14: 6). Chỉ có con đường này, và không còn con đường nào khác.

Tại thời điểm này, một biến cố đột ngột xảy ra, cho phép Chúa Giêsu mạc khải cho hai tông đồ Giacôbê và Gioan - nhưng thực sự là cho tất cả các môn đệ - về số phận dành cho họ. Chúng ta hãy hình dung cảnh tượng này: sau khi giải thích một lần nữa điều gì sẽ xảy ra với mình ở Giêrusalem, Chúa Giêsu nhìn thẳng vào mắt Nhóm Mười Hai, như thể muốn nói: “Anh em đã rõ chưa?” Sau đó Người tiếp tục cuộc hành trình của mình, đi trước cả nhóm. Hai môn đệ của Ngài, là Giacôbê và Gioan, tách khỏi những người khác. Các ông đến gần Chúa Giêsu và thổ lộ với Ngài điều họ muốn: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (câu 37). Như thế là các ông muốn đi một con đường khác. Không phải con đường của Chúa Giêsu, mà là một con đường khác. Có lẽ chính họ không nhận ra đó là con đường của những người đang “lợi dụng” Chúa cho sự thăng tiến của chính mình. Đó là những người - như Thánh Phaolô nói - hướng đến lợi ích của chính họ chứ không phải của Chúa Kitô (x. Pl 2:21). Thánh Augustinô đã nói về điều này trong bài giảng tuyệt vời của ngài về những mục tử (số 46). Một bài giảng mà chúng ta luôn luôn nhận được lợi ích khi đọc lại trong giờ Kinh Sách.

Chúa Giêsu lắng nghe Giacôbê và Gioan. Ngài không khó chịu hay tức giận. Sự kiên nhẫn của Người quả thực là vô hạn. Ngài nói với họ: “Anh em không biết mình đang xin gì” (câu 38). Bằng một cách nào đó, Người bào chữa cho họ, đồng thời trách móc họ: “Anh em không nhận ra rằng mình đã đi chệch hướng”. Ngay sau đó, mười môn đệ khác sẽ thể hiện bằng phản ứng phẫn nộ của họ đối với các con trai của ông Dêbêđê rằng hai người họ đã bị cám dỗ lệch đường ra sao.

Anh em thân mến, tất cả chúng ta đều yêu mến Chúa Giêsu, tất cả chúng ta đều muốn theo Ngài, nhưng chúng ta phải luôn cẩn thận để giữ mình đi đúng đường. Vì thể xác của chúng ta có thể ở với Người, nhưng trái tim của chúng ta có thể lang thang xa Người và vì vậy dẫn chúng ta lạc xa đường. Màu đỏ huyết trên áo choàng của vị Hồng Y, là màu của máu, nhưng đối với một tinh thần thế gian, nó có thể trở thành màu sắc của một sự “ưu việt” thế tục.

Trong bài Tin Mừng này, chúng ta luôn bị ấn tượng bởi sự tương phản rõ rệt giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Chúa Giêsu nhận thức được điều này; Người biết điều đó và Người chấp nhận nó. Tuy nhiên, sự tương phản vẫn còn đó: Chúa Giêsu đang đi trên đường, trong khi họ đang tách ra khỏi con đường. Hai con đường tách biệt không thể gặp nhau. Chỉ có Chúa, qua thập tự giá và sự phục sinh của mình, mới có thể cứu rỗi những người bạn đang lạc xa con đường và có nguy cơ bị lạc. Chính vì họ, cũng như vì tất cả những người khác, Chúa Giêsu đang hành trình đến Giêrusalem. Vì họ, và vì tất cả mọi người, Chúa Giêsu sẽ để cho thân mình tan nát và máu mình đổ ra. Vì họ và vì tất cả mọi người, Ngài sẽ sống lại từ trong cõi chết, tha thứ và biến đổi họ qua ân sủng của Thánh Linh. Cuối cùng, Người sẽ đưa họ trở lại đúng con đường của mình.

Thánh Máccô - như Matthêu và Luca - đã đưa câu chuyện này vào Tin Mừng của mình vì nó chứa đựng một chân lý cứu độ cần thiết cho Giáo hội trong mọi thời đại. Mặc dù Nhóm Mười Hai xem ra lung tung, nhưng bản văn này đã đi vào thư bộ Kinh Thánh vì nó tiết lộ sự thật về Chúa Giêsu và về chúng ta. Đối với chúng ta cũng vậy, trong thời đại của chúng ta, câu chuyện này là một thông điệp về ơn cứu rỗi. Chúng ta, Giáo hoàng và Hồng Y, cũng phải luôn thấy mình được phản ánh trong lời chân lý này. Nó là một thanh kiếm được mài sắc; nó cắt, nó gây đau đớn, nhưng nó cũng chữa lành, giải phóng và chuyển đổi chúng ta. Vì sự hoán cải có nghĩa chính xác là thế này: chúng ta phải chuyển từ việc lầm đường lạc lối sang hành trình trên đường của Chúa.

Xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ân sủng này, hôm nay và mãi mãi.

Nghi thức tấn phong Hồng Y

Sau bài huấn dụ, Đức Thánh Cha bắt đầu nghi thức tấn phong Hồng Y. Ngài nhắc nhở các tân Hồng Y: “Mang phẩm phục màu đỏ, các vị Hồng Y phải là những chứng nhân can trường của Chúa Kitô và Phúc Âm của Ngài tại thành Roma cũng như tại những nơi xa xăm nhất.”

Tiếp đó, Đức Thánh Cha đã tuyên bố như sau:

“Vì vậy với quyền của Thiên Chúa toàn năng, của các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và quyền của chúng tôi, chúng tôi tấn phong và long trọng tuyên bố các anh em chúng tôi sau đây là Hồng Y của Giáo Hội Rôma.”
Rồi ngài lần lượt xướng tên các vị.

1. Đức Tổng Giám Mục Mario Grech, Tổng Thư Ký Thượng Hội Đồng Giám Mục
2. Đức Tổng Giám Mục Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Tuyên Thánh
3. Đức Tổng Giám Mục Antoine Kambanda của Tổng Giáo Phận Kigali (Rwanda)
4. Đức Tổng Giám Mục Wilton Daniel Gregory của Tổng Giáo Phận Washington DC (Hoa Kỳ)
5. Đức Tổng Giám Mục Jose F Advincula của Tổng Giáo Phận Capiz (Phi Luật Tân)
6. Đức Tổng Giám Mục Celestino Aós Braco, O.F.M. Cap. của Tổng Giáo Phận Santiago De Chile (Chí Lợi)
7. Đức Cha Cornelius Sim Giám Quản Tông Tòa của Brunei
8. Đức Tổng Giám Mục Augusto Paolo Lojudice của Tổng Giáo Phận Siena-Colle Di Val D’elsa-Montalcino (Ý)
9. Đức Tổng Giám Mục Mauro Gambetti, o.f.m. Tổng Giám Mục hiệu tòa Tisiduo
10. Đức Cha Felipe Arizmendi Esquivel Giám mục hiệu tòa của giáo phận San Cristóbal de las Casas (Mễ Tây Cơ)
11. Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, C.S. Tổng Giám Mục hiệu tòa Asolo, Đặc sứ của Đức Thánh Cha tại dòng Malta
12. Cha Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap. Giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng

Các vị Hồng Y Tân Cử đã đến quỳ trước Đức Thánh Cha để nhận mũ, nhẫn và giáo xứ hiệu tòa của mình.

Source:Holy See Press Office
 
Lịch sử tước vị Hồng Y và tình trạng Hồng Y đoàn sau công nghị tấn phong Hồng Y 28/11/2020
Đặng Tự Do
15:26 28/11/2020


Trách nhiệm của các vị Hồng Y là gì?

Từ Hồng Y tiếng Anh là Cardinal có nguồn gốc từ tiếng Latin cardo, có nghĩa là “bản lề” hay “then chốt”, “quan trọng”. Quyền hạn và trách vụ của Hồng Y như được biết đến ngày nay đã phát triển qua nhiều thời kỳ khác nhau trong lịch sử Giáo Hội. Lần đầu tiên thuật ngữ Hồng Y xuất hiện là trong cuốn tiểu sử của Đức Giáo Hoàng Stêphanô Đệ Tam, trong đó đề cập đến một chi tiết là Thượng Hội Đồng Rôma năm 769, đã quyết định rằng Đức Giáo Hoàng phải được chọn trong số các phó tế và linh mục có tước vị Hồng Y.

Ngày nay trách nhiệm chính của các vị Hồng Y là bầu Giáo Hoàng mới khi Đức Giáo Hoàng qua đời hoặc thoái vị. Trách nhiệm tiếp theo của các vị là phụ giúp Đức Giáo Hoàng trong việc cai quản Hội Thánh. Các vị có thể đứng đầu các bộ, các ủy ban, các Hội Đồng Tòa Thánh, các Tòa án; hoặc coi sóc các giáo phận trên thế giới.

Khi một vị Giáo Hoàng qua đời hay tuyên bố thoái vị, Giáo Hội rơi vào tình trạng trống ngôi Giáo Hoàng. Tất cả các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh đều bị ngưng chức, ngoại trừ vị Hồng Y Nhiếp Chính. Trách nhiệm của các vị Hồng Y, trong giai đoạn này, là phụ giúp vị Hồng Y Nhiếp Chính và bầu Giáo Hoàng mới.

Theo Tông hiến “Universi Dominici Gregis”, nghĩa là “Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa”, do Đức Gioan Phaolô 2 ban hành năm 1992 về những gì phải tuân giữ trong thời kỳ Tòa Thánh trống ngôi Giáo Hoàng, trong vai trò là vị chủ tịch của Tông Phòng, vị Hồng Y Nhiếp Chính chăm sóc, quản lý tài sản cũng như các quyền lợi của Tòa Thánh trong khi trống ngôi Giáo Hoàng. Ngài điều hành các công việc bình thường và đệ trình lên Hồng Y đoàn những gì quan trọng cần được phê chuẩn.

Ngài ấn định ngày bắt đầu các phiên họp của Hồng Y đoàn để chuẩn bị bầu Giáo Hoàng mới. Đức Hồng Y cũng lo liệu những gì cần thiết để chuẩn bị việc bầu Giáo Hoàng.

Hồng Y Nhiếp Chính cũng là người nhận lời tuyên thệ của các Hồng Y về việc giữ bí mật liên quan tới Cơ Mật Viện Bầu Giáo Hoàng.

Có bao nhiêu vị Hồng Y?

Kể từ khi xuất hiện Hồng Y Đoàn vào đầu thời Trung cổ, về mặt lịch sử, con số các vị trong Hồng Y Đoàn bị giới hạn bởi các Giáo Hoàng, các Công Đồng và ngay cả chính Hồng Y Đoàn.

Từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 15, Hồng Y Đoàn không bao giờ vượt quá ba mươi vị. Đức Giáo Hoàng Gioan 22 (1316–1334) đã chính thức hóa tiêu chuẩn này bằng cách giới hạn Hồng Y Đoàn ở mức 20 vị. Trong Cơ Mật Viện Bầu Đức Giáo Hoàng Innôcentê Đệ Lục vào năm 1352, các vị trong Hồng Y Đoàn đã giới hạn Hồng Y Đoàn ở mức 20, và ra lệnh rằng không thể tấn phong tân Hồng Y cho đến khi Hồng Y Đoàn giảm xuống chỉ còn còn 16. Tuy nhiên, chỉ một năm sau đó, Đức Giáo Hoàng Innôcentê Đệ Lục đã bác bỏ yêu sách này.

Đồng thời, vào cuối thế kỷ 14, thông lệ chỉ có các Hồng Y người Ý đã chấm dứt.

Dưới triều Đức Giáo Hoàng Sixtus Đệ Ngũ (1585–1590), vào ngày 3 tháng 12 năm 1586, ngài quy định rằng Hồng Y Đoàn gồm 70 vị và chia thành mười bốn Hồng Y đẳng phó tế, năm mươi Hồng Y đẳng linh mục và sáu Hồng Y đẳng giám mục.

Các vị Giáo Hoàng tiếp theo đã tôn trọng giới hạn đó cho đến khi Đức Giáo Hoàng Gioan 23 tăng số Hồng Y nhiều lần lên 88 vị vào tháng Giêng năm 1961 và Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục tiếp tục việc mở rộng này, lên tới 134 vị trong công nghị tấn phong Hồng Y thứ ba của ngài vào tháng 4 năm 1969.

Quyền bầu Giáo Hoàng của các vị Hồng Y?

Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục quyết định chỉ các Hồng Y dưới 80 tuổi mới vào thời điểm khai mạc Cơ Mật Viện Bầu Giáo Hoàng mới được quyền bỏ phiếu. Các vị có quyền bầu Giáo Hoàng được gọi là Hồng Y Cử Tri. Sau đó, vào năm 1975, Đức Phaolô Đệ Lục truyền rằng con số tối đa các vị Hồng Y Cử Tri là 120 vị.

Trong Tông hiến “Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa”, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quy định lại là các Hồng Y đã đến tuổi 80 trước ngày trống ngôi Giáo Hoàng thì mất quyền bầu cử.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc lại con số tối đa các Hồng Y Cử Tri là 120 vào năm 1996, tuy nhiên, tính đến khả năng nhiều Hồng Y qua đời, hoặc sẽ sớm quá tuổi 80, 4 trong số 9 công nghị tấn phong Hồng Y của ngài đã đưa số Hồng Y Cử Tri đạt mức cao nhất là 135 vào tháng 2 năm 2001 và một lần nữa vào tháng 10 năm 2003.

Ba trong số 5 công nghị tấn phong Hồng Y của Đức Bênêđíctô cũng dẫn đến việc vượt quá 120 Hồng Y Cử Tri, mức cao nhất là 125 vào năm 2012.

Cho đến nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có 6 công nghị tấn phong Hồng Y và lần nào cũng dẫn đến việc vượt quá 120 Hồng Y Cử Tri, đạt mức cao nhất là 128 vào tháng 10 năm 2019.

Giáo Hội hiện có bao nhiêu Hồng Y?

Tính đến ngày 27 tháng 11, Hồng Y Đoàn có 216 vị trong đó có 119 vị là Hồng Y Cử Tri và 97 vị đã quá tuổi 80.

Ngay sau công nghị tấn phong Hồng Y này, Giáo Hội có thêm 13 vị Hồng Y trong đó có 9 vị Hồng Y Cử Tri. Như thế, ngay sau nghi lễ tấn phong Hồng Y này: Giáo Hội có 229 Hồng Y trong đó có 128 Hồng Y Cử Tri.


Source:Wikipedia
 
Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm tân giám đốc ca đoàn Sistina
Đặng Tự Do
18:51 28/11/2020


Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm một giám đốc mới cho Ca đoàn Sistina vào hôm Chúa Nhật 22/11.

Vị được bổ nhiệm là một Đức Ông người Brazil, cha Marcos Pavan. Quyết định này được đưa ra vào ngày 22 tháng 11, Lễ Thánh Cecilia.

Cha Pavan đã từng là giám đốc lâm thời sau sự ra đi của linh mục Massimo Palombella, dòng Salêdiêng, vào tháng 7 năm 2019 sau nhiệm kỳ chín năm.

Văn phòng báo chí của Tòa Thánh đã thông báo vào tháng 9 năm 2018 rằng Đức Giáo Hoàng đã cho phép một cuộc điều tra về “các khía cạnh kinh tế và hành chính” của dàn hợp xướng.

Vào tháng Giêng năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành một tự sắc chuyển việc quản trị Dàn hợp xướng Nhà nguyện Sistina sang Văn phòng Các Cử hành Phụng vụ Giáo hoàng, thay vì Phủ Giáo hoàng như trước đây.

Đức Giáo Hoàng đã giao phó cho Đức Ông Guido Marini, phụ trách các nghi lễ của Đức Giáo Hoàng, công việc quản lý dàn hợp xướng và phác thảo những quy chế mới.

Cha Pavan, 58 tuổi, đã phục vụ trong ca đoàn Sistina từ năm 1998. Trước đây, ngài đã phụ trách Pueri Cantores, hay dàn hợp xướng của các bé trai trong ca đoàn Sistina.

Cha Pavan được đào tạo như một luật sư ở Brazil trước khi theo đuổi ơn gọi linh mục. Năm 1996, ngài được thụ phong linh mục cho Giáo phận Campo Limpo, có trụ sở tại thành phố Campo Limpo Paulista, một thành phố của bang São Paulo.

Dàn hợp xướng nhà nguyện Sistine bao gồm 20 ca sĩ chuyên nghiệp từ khắp nơi trên thế giới, cũng như một phần đông gấp ba gồm 35 cậu bé, tuổi từ 9 đến 13.

Với lịch sử 1,500 năm, Dàn hợp xướng Nhà nguyện Sistina được coi là dàn hợp xướng hoạt động lâu đời nhất trên thế giới.

Cha Massimo Palombella được đánh giá là người có nhiều sáng kiến nổi bật và đã đưa ca đoàn lên một tầm cao mới trong nhiệm kỳ 9 năm của ngài.


Source:Catholic News Agency
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Xuân Lộc: Ngày Giáo Phận- Ngày Hồng Ân
Nt Teresa Ngọc Lễ, O.P
21:17 28/11/2020
Chiều Thứ Năm, 26/11/2020, hơn 50.000 con cái Giáo Phận đã từng đoàn tiến về Núi Cúi, Trung Tâm Hành Hương Kính Mẹ Vô Nhiễm để tham dự Ngày Giáo Phận như Đức Cha Chánh Giáo phận mời gọi.

Bất chấp nắng, bụi, hay đoạn đường dài, mọi thành phần trong Giáo phận, từ giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, những người già trong gia đình hay ở viện dưỡng lão, những người cha người mẹ trong gia đình, những người trẻ, các thiếu nhi, những bệnh nhân, người khuyết tật, hay những ông bố bà mẹ cố gắng cõng mang, bồng bế theo đứa con bệnh tật, bại liệt…tất cả cố gắng vượt đường dài để đến với Đức Mẹ Núi Cúi. Quả là những hình ảnh xúc động, nhưng cũng là niềm vui và hạnh phúc cho mọi người và nhất là đối với Đức Cha Chánh Giáo Phận, quý Đức Cha và mọi mục tử đang chăm sóc đoàn chiên mình tại Giáo phận Xuân Lộc này.

Xem Hình

Dù chương trình bắt đầu từ 16 giờ chiều, nhưng ngay từ lúc 14 giờ, những đoàn xe đã tiến về Trung tâm, từ những chiếc lớn đến nhỏ, và cả xe máy, cứ từ từ nối đuôi nhau đi vào những bãi giữ xe, vào quảng trường- nơi sẽ cử hành Thánh Lễ. Có những người không hề kêu ca dù phải đi bộ quãng đường khá dài dưới nắng nóng để vào trung tâm lễ đài. Điều đó cho thấy rằng, nếu không phải vì đức tin, vì sự cậy trông và lòng mến Thiên Chúa và Đức Mẹ để họ có thể hy sinh đến vậy, thì chẳng có lý do nào để có thể lý giải được.

16 giờ, Giờ Kinh Mân Côi dâng Mẹ Maria được cất lên giữa quảng trường rộng bao la, nhưng vẫn rõ lời, thật sốt sắng và đong đầy nhiều tâm tình nguyện xin. Nếu phía trên là bầu trời cao vời vợi, thì ở mặt bằng độ cao giữa dãy núi và lòng hồ, con cái Giáo Phận như được Mẹ Maria bao phủ, đặt ở giữa thiên nhiên, trong một sự hòa quyện khó diễn tả. Trong lời kinh ngân vang “Kính Mừng Maria…” lặp đi lặp lại của muôn triệu con tim của con cái Giáo Phận cùng hiệp thông với quý Đức Cha Giáo phận, với các mục tử của mình trở thành bài ca tuyệt vời của lòng yêu mến Mẹ Maria mà toàn Giáo phận Xuân Lộc hướng về.

Liền kề sau Giờ Kinh Mân Côi dâng kính Mẹ Maria, Đức Cha Giáo phận đã chủ tế Thánh Lễ Mừng Kính Trọng Thể Mẹ Vô Nhiễm cùng với Đức Cha Phụ Tá Gioan Đỗ Văn Ngân, Đức Cha Cố Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, Đức Ông Vinh Sơn Đặng Văn Tú, và quý Cha trong Giáo Phận,

Tạ ơn Thiên Chúa vì món quà tuyệt vời là Đức Mẹ mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, ban cho Giáo Phận; xin Chúa chúc lành cho chương trình mục vụ của Giáo Phận 2020-2021; phó dâng mọi nỗ lực trong hành trình nên thánh, sống và làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa của mọi người và từng người; dâng những con cái Giáo phận đang đau khổ (người già, bệnh nhân, người nghèo, vợ chồng -gia đình gặp khó khăn…, là những ý lễ Đức Cha Chánh Giuse mời gọi mọi con cái Giáo phận hiệp thông trong Thánh Lễ, để “nhờ lời Đức Mẹ Maria chuyển cầu, Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta cầu xin.”

Trong bài giảng Thánh Lễ đại triều, Đức Cha Giáo phận đã nhấn mạnh đến những ý tưởng chính yếu và mời gọi con cái Giáo phận xác tín và thực hành sống như: tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa và chỉ tìm kiếm Chúa, mong có Chúa nhờ lời bầu cử của Mẹ Maria; bắt chước Mẹ Maria để tâm hồn được tinh khiết; và cuối cùng là thánh hóa những đau khổ để trở nên lời cầu nguyện cho người khác.

Nếu với lời mời gọi hãy bắt chước như Đức Maria, Đấng đã cộng tác trong chương trình ân huệ của Thiên Chúa ân ban cho Mẹ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Cha nói rằng, “Chúng ta không thể bắt chước được như Mẹ, nghĩa là có được ơn vô nhiễm, nhưng chúng ta có thể bắt chước như Đức Maria để cố gắng giữ những ân ban trong cuộc đời mà Thiên Chúa ban cho, để có thể được tinh tuyền trước mặt Thiên Chúa như Thánh Phaolô nói đến (x. Ep 1,4)”. Để rồi, trước biết bao điều mà mọi người cần cầu xin, Đức Cha khuyên “Chúng ta chỉ cần xin Đức Mẹ ban cho chúng ta biết trân trọng tình nghĩa với Chúa, biết rằng: chỉ cần có Chúa là đủ. Có Chúa là có hạnh phúc. Còn những ơn khác, Chúa sẽ ban cho sau.” Sau khi đã chia sẻ những suy niệm xoáy đến việc nhận ra “Chỉ cần Chúa, có Chúa là đủ”, Đức Cha bày tỏ “Uớc mong sao toàn Giáo phận khám phá ra chân lý này, và trở thành cuộc sống của mọi người.” Và rồi, nối kết đến những đau khổ mà từng gia đình hay mỗi người đều có, Đức Cha mời gọi “Chúng ta hãy thánh hóa những đau khổ lớn nhỏ của mình để dâng lên Thiên Chúa, như của lễ tình yêu, cầu nguyện cho đất nước Việt Nam, Giáo Hội Việt Nam, Giáo phận nhà, cho người thân, cho những tội nhân, và cho cả chính mình…để tất cả trở thành ân phúc cho chúng ta.”

Một Thánh Lễ quả thật sốt sắng và trang nghiêm dù lượng người tham dự thật quá lớn. Từ trên lễ đài, dù có khoảng cách về độ cao hay chiều dài, rộng, nhưng những lời kinh, tiếng hát, lời đáp thưa của anh chị em giáo dân nghe thật rõ, thật tâm tình, mà không cần đến những kỹ thuật khuếch đại hay công nghệ xử lý âm thanh. Và khi quan sát nhìn xuống phía nơi biết bao anh chị em giáo dân đang ngồi tham dự, lắng nghe, chẳng có mấy bóng người đi lại, khi mọi người kiên nhẫn ngồi hàng giờ ngoài trời, từ khi còn nắng cho đến khi bóng chiều buông hẳn. Quả là một bức tranh thật đẹp của tâm hồn, của một Ngày Giáo Phận đầy hồng ân.

Trước khi Đức Cha Giáo Phận công bố Năm Phụng vụ Mới 2020-2021, Đức Cha Phụ Tá Gioan Đỗ Văn Ngân đã thay mặt toàn thể mọi người tham dự dâng lời cám ơn Đức Cha Chánh Giuse, vì Ngài đã chăm sóc đoàn chiên Giáo phận bằng tất cả tình thương của người mục tử, mở ra Ngày Giáo Phận, để con cái có ngày được về với Mẹ Vô Nhiễm tại Núi Cúi, được lãnh nhận biết bao hồng ân. Đức Cha Phụ Tá cũng cám ơn tất cả quý Cha, quý ban phục vụ đã rất quảng đại, dày công, không ngại khó cho công tác tổ chức trước và sau được hoàn thành tốt đẹp.

Tiếp lời cám ơn của Đức Cha Phụ Tá Gioan, Đức Cha Chánh cũng đã cám ơn Đức Cha Phụ Tá Gioan trong vai trò Trưởng Ban Tổ Chức của Ngày Giáo Phận. Chính nhờ sự điều hành của Ngài, mọi công tác tổ chức từ chuẩn bị cho đến khi thực hiện đã hoàn thành thật tốt đẹp, và kết quả là một Thánh Lễ thật sốt sắng, trang nghiêm. Đức Cha cũng thay mặt con cái Giáo Phận dâng lời tri ân đến Đức Cha Cố Đa Minh, vì chính nhờ Ngài mà Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Núi Cúi mới có thể thành hiện thực, là nơi cho tất cả những ai yêu mến Đức Mẹ Maria có thể tìm về. Đồng thời, Đức Cha cũng bày tỏ niềm vui khi nhận thấy sự thánh thiện của con cái Chúa nơi Giáo phận Xuân Lộc trong ngày mọi người tụ họp về Núi Cúi, cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ trong tâm tình yêu mến, trang nghiêm. Thêm nữa, Đức Cha Giáo Phận đã chia sẻ những cảm xúc, những điều Ngài nhận ra khi gặp và chạm đến nhiều người có hoàn cảnh khó khăn như người già, bệnh nhân, những bố mẹ đang bồng ẵm đứa con tàn tật của mình… “Tôi nhìn thấy nhiều khuôn mặt thật an bình… như của hai vợ chồng đang bồng ẵm đứa con 18 tuổi bị bại liệt, khuôn mặt họ vẫn bình an. Và đó là lời loan báo của tình yêu Thiên Chúa trên con người.”

Sau đó, Đức Cha Chánh đã công bố Chủ đề Mục vụ 2020-2021 và mời gọi con cái Giáo phận thực thi “GIA ĐÌNH HÃY TRỞ NÊN MÁI ẤM CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT – ĐỒNG HÀNH VỚI NGƯỜI TRẺ TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH.” Vì chương trình Mục vụ chú tâm đến người trẻ, nên khi nhắc đến người trẻ trong phần đọc công bố Chủ đề Mục vụ này, Đức Cha Chánh Giáo Phận như trao gởi hết những thao thức, mong đợi của Ngài với giới trẻ qua biểu cảm trong cung giọng, để thấy những kỳ vọng Đức Cha đặt nơi người trẻ quan trọng như thế nào. “Với những người trẻ, các con thân mến, Cha muốn tất cả chúng con hãy có tương quan mật thiết với Chúa, với gia đình, và với Giáo phận…Các con hãy trở nên niềm hãnh diện của Giáo phận, là sứ giả đem Lòng thương xót của Chúa đến cho mọi người…”

Trước khi kết thúc Ngày Giáo Phận với Thánh Lễ Mừng Kính Mẹ Vô Nhiễm, Đức Giám Mục Giáo phận đã ban phép lành cuối lễ với Ơn Toàn Xá cho toàn thể những ai đến với Mẹ Maria, tham dự Thánh Lễ tại Trung Tâm Hành Hương Núi Cúi này.

Để có được một “Ngày Giáo Phận” hồng ân, với tất cả các hoạt động được chặt chẽ, ổn định, nhịp nhàng, an toàn, tạo nên sự trang nghiêm cho Thánh Lễ, Giờ Kinh, chính là nhờ sự nhiệt thành và quảng đại phục vụ của hơn 3500 thành viên, đặc biệt quý Cha, và nhất là công khó của Đức Cha Gioan Đỗ Văn Ngân, Giám Mục Phụ Tá, trong vai trò Trưởng ban Tổ chức.

Tin, ảnh: Nt. Teresa Ngọc Lễ, O.P, Ban TT Xuân Lộc
 
Văn Hóa
Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa, Chương Hai
Vũ Văn An
19:27 28/11/2020

Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa
Nguyên tác: Jaroslav Pelikan,
Bản tiếng Việt: Vũ Văn An





CHƯƠNG HAI: Khúc quanh lịch sử

Khi thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa sai Con của Người đi, sinh bởi người đàn bà, sinh dưới lề luật.

Các người cùng thời của Chúa Giêsu biết Người là một rabbi, nhưng là một rabbi có thừa tác vụ và giáo huấn lấy “Tin mừng của Thiên Chúa ‘Thời kỳ đã mãn, và nước Thiên Chúa đang ở trong tầm tay; hãy thống hối và tin vào tin mừng’” (Mc 1:14-15) làm nội dung chính. Nhiều người trong số các môn đệ tiên khởi của Người thấy việc mô tả Người như một tiên tri là điều không thể tránh được, nhưng suy nghĩ thêm dẫn họ đến chỗ chuyên biệt hóa điều khác biệt trong sứ mệnh tiên tri của Người: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1:1-3).

“Thời kỳ đã mãn... vào thời sau hết này”: Điều hiển nhiên từ những phát biểu như thế của các thế hệ tín hữu Kitô tiên khởi, khi họ thi hành trách vụ đi tìm một ngôn ngữ không bị suy sụp dưới sức nặng của điều họ tin có ý nghĩa về việc Chúa Giêsu xuất hiện, họ đã thấy họ cần phải sáng chế ra một thứ văn phạm về lịch sử. Các phạm trù vũ trụ và không gian, chứ không phải chỉ là các phạm trù lịch sử và thời gian, đã được khẩn trương đưa vào để phục vụ trách vụ này; và trước khi trách vụ này được hoàn tất, các môn đệ của Chúa Kitô đã khéo lo liệu biến hình các hệ thống siêu hình mà họ đã thừa hưởng từ triết học Hy Lạp. “Nhưng”, như Charles Norris Cochrane, một trong các phân tích gia khiêu khích và sâu sắc nhất của diễn trình này, từng nhận định, “sự phân rẽ giữa Kitô Giáo và chủ nghĩa Cổ Điển không ở phương diện nào rõ ràng và được nhấn mạnh bằng về phương diện lịch sử”. Ông kết luận “Quả thực, theo một nghĩa hết sức thực chất, nó đánh dấu đỉnh điểm của vấn đề giữa hai bên” (1). Nó cũng đánh dấu đỉnh điểm của vấn đề giữa giáo hội và hội đường. Tự gọi mình là Israel mới và Israel đích thực, Giáo Hội đã nhận làm của riêng sơ đồ ý nghĩa lịch sử vốn được nêu lên trong lúc giải thích việc cứu chuộc Israel do cuộc xuất hành ra khỏi Ai Cập hoàn tất, và thích ứng sơ đồ này vào việc cứu chuộc nhân loại do sự phục sinh của Chúa Giêsu từ cõi chết hoàn tất.

Như thế, giống mọi bức tranh khác trong lịch sử các mô tả về Chúa Giêsu, bức tranh này cũng phát xuất từ truyền thống Do Thái. Trong một ngôn ngữ khiến ta nhớ đến Edêkien, Đanien, và các trước tác khải huyền sau này của Do Thái Giáo, một trong các môn đệ tiên khởi của Người, người từng nghe Người tự gọi Người là “đầu hết và cuối hết”, nghĩa là, Chúa của lịch sử, đã tuyên bố:

“Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng. Đầu Người tóc trắng như len trắng, như tuyết; mắt Người như ngọn lửa hồng; chân Người giống như đồng đỏ được tôi luyện trong lò; và tiếng Người như tiếng nước lũ. Tay hữu Người cầm bảy ngôi sao và từ miệng Người phóng ra một thanh gươm hai lưỡi sắc bén. Mặt Người toả sáng như mặt trời chói lọi” (Kh 1: 12-16).

Ngoại trừ một số chi tiết (như giầy thay vì ‘chân giống như đồng đỏ được tôi luyện’) bức tranh khắc gỗ Vision of Seven Candlesticks (Thị Kiến Bẩy Cây Đèn Nến) của Albrecht Durer (thế kỷ 15), với “ý nghĩa siêu thực kỳ diệu”, trong đó, “tính ba chiều của không gian được nhấn mạnh và bác bỏ cùng một lúc” (2) trông gần như thể được dùng làm căn bản cho các lời lẽ trên của Sách Khải Huyền, hơn là ngược lại. Khuôn mặt uy nghi trong tranh khắc gỗ của Durer quả thực là Chúa của lịch sử, chủ quyền trên trời và dưới đất, vĩnh hằng và thời gian, và là cả “Anpha lẫn Ômêga, khởi thủy và cánh chung” (3).

Căn cứ vào các nguồn Do Thái đương thời, ta biết rằng việc công bố của chính Chúa Giêsu về nước Thiên Chúa, cũng như các công bố như thế của các môn đệ về Người, vang dội, bằng những âm sắc khải huyền Do Thái, nỗi mong chờ tha thiết được thấy cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trên các kẻ thù của Israel, từng được hứa hẹn đã lâu và bị trì hoãn quá thường, nay đang ló dạng. Thế hệ được Chúa Giêsu, và trước Người, Gioan Tẩy Giả, ngỏ lời công bố ấy, là thế hệ đang nhón gót “trông chờ” (Lc 3:15). Sách Công Vụ mô tả các môn đệ của Chúa Giêsu, cả sau các biến cố Thứ Sáu Tuần Thánh và Ngày Phục Sinh, vẫn hỏi Người ngay lúc Người sắp sửa lánh mặt hữu hình khỏi họ, “lạy Chúa, có phải nay là lúc Chúa phục hồi vương quốc Israel không?”. Người trả lời: “không phải là việc các con được biết thì giờ và mùa tháng mà Chúa Cha đã ấn định bằng thẩm quyền riêng của Người” (Cv 1:6-7).

Tuy nhiên, tránh né vấn đề sâu sắc nhất liên quan đến nỗi mong chờ Do Thái Giáo và Kitô Giáo tiên khởi đối với việc xuất hiện Nước Thiên Chúa bằng cách ngưng lại ở đó là điều quá dễ dàng. Vì đặc biệt trong thế kỷ 20, nền bác học Tân Ước buộc người ta phải xem xét vị thế mà nỗi mong chờ khải huyền kia vốn nắm được không những đối với các thính giả của Chúa Giêsu mà còn cả ở trong sứ điệp của chính Chúa Giêsu nữa (4). Nhiều lần trong sứ điệp của Chúa Giêsu, lời kêu gọi thống hối và lời mời gọi thay đổi đạo đức đã lấy lời hứa hẹn Parousia làm cơ sở: tức việc xuất hiện của Con Người trong đám mây vinh quang nay mai sẽ kết thúc lịch sử con người và sẽ đem tới một trật tự mới của nước Thiên Chúa. Một cách chuyên biệt, các giáo huấn luân lý của Bài Giảng Trên Núi, như lệnh truyền phải chìa má bên kia, ngoại trừ đối với Tolstoy, thường bị xem là một bộ luật đạo đức hoàn toàn không thực tiễn đối với cuộc sống đời thực, đã xuất hiện như một công bố những gì các môn đệ của Người phải làm trong thời gian chờ đợi ngắn ngủi xen kẽ giữa thừa tác vụ trần gian của Người và ngày tận cùng lịch sử. Theo tin mừng Mátthêu, Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người rằng “Các con sẽ không đi hết các thị trấn của Israel trước khi Con Người đến”; và cả ba Tin Mừng nhất lãm đều trích lời Người nói lúc gần kết thúc thừa tác vụ của Người rằng “Thật, Thầy bảo thật với các con, thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi mọi điều này xẩy ra. Trời và đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy sẽ không qua đi” (5).

Nhưng thế hệ đó đã không sống để thấy tất cả những điều đó: Con Người không xuất hiện, và trời và đất không qua đi. Người ta còn dám cho rằng “trọn lịch sử ‘Kitô Giáo’ cho tới tận nay, nghĩa là, lịch sử thực sự bên trong của nó, đặt căn bản trên việc triển hạn cuộc Parousia này, của việc chưa diễn ra cuộc Parousia này, một cuộc bãi bỏ cánh chung” (6). Sự thất vọng trước niềm hy vọng khải huyền về cuộc Tái Lâm này có nghĩa gì đối với lời hứa “lời Thầy sẽ không qua đi”? Con người Chúa Giêsu làm thế nào có thể và đã duy trì ra sao thế giá của Người khi giá trị của con người đó xem ra tùy thuộc ở lời tuyên bố về sự cáo chung sắp đến của lịch sư? Các học giả thế kỷ 20 đã tìm cách nhận diện cuộc khủng hoảng do sự thất vọng này đem tới như là chấn thương lớn của các thế kỷ đầu của Kitô Giáo và là nguồn làm xuất hiện giáo hội định chế và tín điều về con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên, một cách khá ngạc nhiên, giả thuyết chấn thương gây ra do việc “triển hạn cuộc Tái Lâm” tìm được rất ít củng cố nơi các nguồn thuộc thế kỷ thứ hai và thứ ba. Thay vào đó, các nguồn này cho thấy một sự kết hợp giữa một niềm hoài mong khải huyền mạnh mẽ rằng lịch sử sẽ kết thúc và việc sẵn lòng sống với viễn ảnh một lịch sử nhân bản vẫn tiếp tục, cả hai điều này đều tìm được biểu thức trong việc nhấn mạnh đến tính trung tâm của Chúa Giêsu.

Tư tưởng gia Bắc Phi Tertulianô, nhà văn Kitô hữu đầu tiên sử dụng tiếng Latinh, có thể là một minh họa cho sự kết hợp trên về cuối thế kỷ thứ hai (7).Cảnh cáo các đồng tín hữu của mình chống lại việc tham dự các buổi trình diễn hạ cấp của xã hội Rôma, Tertulianô thúc giục họ chờ đợi quang cảnh lớn lao hơn của những ngày vĩ đại đang đến, khi Chúa Kitô vinh hiển tái lâm trong một đoàn diễn hành chiến thắng giống như một người đại thắng Rôma và sẽ dẫn phía sau làm tù nhân của Người đủ các quân vương tổng trấn từng bách hại dân của Người, đủ các triết gia và thi sĩ từng chế nhạo sứ điệp của Người, đủ các tài tử và “các yếu nhân của tội lỗi” vốn nhạo cười các giới răn của Người. Và do đó, ông viết ở chỗ khác, “chúng ta không bao giờ tiến bước mà không được vũ trang... Với lời cầu nguyện, ta hãy chờ tiếng kèn của thiên thần” (8). Thế nhưng cũng một Tertulianô này, khi trả lời việc hoàng đế Rôma kết án ông tội phản nghịch, đã tuyên bố “chúng tôi cũng cầu nguyện cho các hoàng đế, cho các cộng sự viên của họ và mọi nhà cầm quyền, cho phúc lợi toàn thế giới, cho sự thắng lợi của hòa bình, cho việc trì hoãn ngày chung thẩm” (9). Những tuyên bố như thế về các hoàng đế Rôma, về một phương diện nào đó, quả là một chuẩn bị cho việc xuất hiện, vào thế kỷ thứ tư, của ý niệm hoàng đế Rôma theo Kitô Giáo, trị vì nhân danh Chúa Kitô và nhờ quyền năng của Người; nhưng trong ngữ cảnh lúc này, ta nên chú ý tới lời quả quyết: các Kitô hữu vốn cầu xin cho việc triển hạn cuộc tái lâm của Chúa Kitô.

Vì lời quả quyết trên của Tertulianô đại diện cho một cái hiểu mới mẻ về ý nghĩa của lịch sử, một cái hiểu theo đó Chúa Giêsu không phải chỉ là người kết thúc lịch sử bằng việc tái lâm trong tương lai, như thứ khải huyền ngây thơ và chiểu tự vốn nghĩ, nhưng còn là Khúc Quanh Lịch Sử, một lịch sử, dù vẫn còn tiếp diễn, đã được biến đổi và đảo ngược bởi lần đến đầu tiên của Người trong dĩ vãng.Tertulianô cũng được tưởng nhớ như một nhân vật chính trong lịch sử khai triển các tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi và ngôi vị Chúa Kitô, dự ứng trong các các công thức thần học của mình phần lớn các thành quả sau cùng của các cuộc tranh luận của hai thế kỷ 3 và 4. Tuy nhiên, trong các thế kỷ này, không phải chỉ có ý nghĩa thần học và tín điều của Chúa Giêsu như Con Thiên Chúa đã được đúc kết khi minh giải về tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi mà thôi, mà cả ý nghĩa văn hóa của Chúa Giêsu như chiếc bản lề của lịch sử và do đó như căn bản cho cả việc giải thích mới về diễn trình lịch sử lẫn thuật chép sử mới.

Việc giải thích mới mẻ diễn trình lịch sử đã bắt đầu với lịch Israel, mà mục tiêu chính nay được coi là cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Điều này trở thành hiển nhiên trong việc giải thích, và thao túng, truyền thống tiên tri của Thánh Kinh Do Thái. Khi mô tả cuộc xuất hành của con cái Israel khỏi cảnh nô lệ, tiên tri Hôsê, nhân danh Thiên Chúa, đã nói rằng “Khi Israel là một đứa bé, Ta thương nó, và từ Ai Cập, Ta gọi con Ta” (Hs 11:1); nhưng trong tay tin mừng gia Kitô Giáo, những lời này trở thành lời tiên đoán việc Thánh Gia trốn qua Ai Cập để tránh âm mưu sát hại của Vua Hêrốt (Mt 2:15). Các thánh vịnh được gọi là thánh vịnh tôn phong nhận diện Thiên Chúa như vua đích thực của Israel, dù Israel có các vua trần gian như Đavít, và thánh vịnh 96 công bố “Chúa thống trị!”; nhưng các triết gia và thi sĩ Kitô Giáo thêm vào bản văn một ám chỉ minh nhiên tới thập giá Chúa Kitô, và câu đó trờ thành “Chúa thống trị từ cây gỗ”, những chữ mà sau đó, họ kết án người Do Thái đã xóa bỏ (10). Các Kitô hữu lục lọi Thánh Kinh Do Thái tìm các lời ám chỉ về Chúa Kitô, thu thập chúng thành nhiều tuyển tập và chú giải (11). Các tiên tri của Israel đã tìm được mục tiêu và cùng đích của họ nơi Chúa Giêsu.

Điều trên cũng xẩy ra với vương quốc Israel, được các Kitô hữu coi như nay đã trở thành vương quốc chân chính của Thiên Chúa, mà Đấng Kitô chịu đóng đinh thống trị “từ cây gỗ”. Israel đã bị thay đổi thành một vương quốc dưới sự thống trị của Vua Saun; nhưng “khi ông bị bác bỏ và nằm xoài ngoài mặt trận, dòng dõi ông cũng bị bác bỏ để không vị vua nào phát xuất từ dòng dõi này, thì Đavít kế ngôi vương quốc, mà con trai được chủ yếu gọi là Kitô”. Vua Đavít, người “đã trở thành một loại khởi điểm và khởi đầu cho tuổi trẻ của dân Thiên Chúa” đã thiết lập Giêrusalem làm thủ đô của vương quốc; thế nhưng, ngay trong tư cách vua của “Giêrusalem trần thế” ấy, ông vẫn là “con của Giêrusalem thiên giới”. Ông nhận được lời hứa: “hậu duệ ông sẽ cai trị Giêrusalem mãi mãi” (12). Nhưng Đavít trong tư cách vua đã nhìn quá chính ông và vương quốc của ông tới vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, nên đã tuyên bố trong Thánh Vịnh 45 mà, theo cách giải thích lịch sử của Kitô Giáo, như ngỏ cùng Chúa Kitô vua rằng “Ngôi báu ngài, lạy Thiên Chúa, sẽ trường tồn vạn kỷ. Vương trượng ngài, vương trượng công minh; ngài ưa điều chính trực, ghét điều gian ác. Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên Chúa của ngài
đã xức dầu cho ngài [Bản Bẩy Mươi bằng tiếng Hy Lạp: echrisen se = tấn phong ngài là Đấng Kitô] vượt trổi các đồng liêu bằng dầu thơm hoan lạc” (Tv 45: 6-7) (*).

Như thế, Đavít gọi Người là Thiên Chúa ngay ở dòng đầu, và sau đó, đã xưng hô với Người như cả vua lẫn Đấng Kitô, vị vua chân chính được xức dầu để “trổi vượt hơn, và khác biệt với, những vị ngày xưa vốn được xức dầu một cách tượng trưng” (13). Một cuộc duyệt lại tòan bộ lịch sử của các vương quốc Giuđa và Israel bị phân chia dựa trên điều “ơn quan phòng của Thiên Chúa hoặc ra lệnh hoặc cho phép” cho thấy dù các vị vua bắt đầu với Rehoboam, con Salômôn, “qua các lời nói và hành động khó hiểu của họ đã không tiên báo điều có thể thuộc về Chúa Kitô và giáo hội”, tuy thế họ vẫn chỉ về Đấng Kitô. Khi các vương quốc chia rẽ sau cùng được thống nhất dưới quyền một ông hoàng ở Giêrusalem, thì điều này có mục đích dự ứng về Chúa Kitô như vị vua duy nhất; thế nhưng vương quốc của họ không còn thẩm quyền hay chủ quyền gì nữa, vì “Chúa Kitô coi họ chỉ như các chư hầu của người Rôma” (14).

Lịch sử các thay đổi và các hình thức tiếp nối nhau của chức tư tế ở Israel, theo luận điểm Kitô Giáo, cũng chỉ có nghĩa khi được nhìn theo viễn tượng lấy Chúa Giêsu làm khúc quanh của nó. Chức tư tế nhà Lêvi của Aaron chỉ có tính tạm thời, không hơn không kém là một chiếc bóng mà bản chất thực, cuối cùng, nay đã xuất hiện dưới vị tư tế đích thực là Chúa Giêsu Kitô; vì “Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi” (Dt 7:24). Lời đe dọa và lời tiên tri ngỏ với Eli thượng tế (1Sm 2:27-36) “Ta sẽ làm chỗi dậy cho Ta một tư tế trung thành: nó sẽ làm theo như lòng Ta muốn, như hồn Ta mong” đã không nên trọn trong chức tư tế và các tư tế của Israel, tất cả đều có tính tạm thời, nhưng đã xuất hiện qua Chúa Giêsu Kitô” như thầy cả thượng phẩm (15). Mặc dù trong Tân Ước, hạn từ tư tế chưa bao giờ được nói đến một cách minh nhiên để chỉ các thừa tác viên của giáo hội Kitô Giáo, cả với các tông đồ của Chúa Giêsu trong thừa tác vụ của họ cũng thế, mà chỉ chỉ về Chúa Giêsu như một tư tế hoặc các tư tế của Cưu Ước hay mọi tín hữu đều là tư tế, nhưng chẳng bao lâu sau đó, giáo hội đã dùng hạn từ này cho hàng giáo sĩ thụ phong của mình (16). Lịch sử chức tư tế, do đó, được coi như bắt đầu với hình bóng xa xôi của Menkixêđê, người từng dâng lễ vật “bánh cùng rượu”, và sau đó, nhận được hình thức dứt khoát nơi Aaron, anh trai của Môsê; nhưng tất cả đều dẫn tới Chúa Giêsu Kitô và từ Người, dẫn tới chức linh mục của giáo hội Tân Ước và lễ hy sinh của Thánh Lễ (17).

Như thế, toàn bộ lịch sử Israel đã đạt tới khúc quanh của nó nơi Chúa Giêsu như tiên tri, tư tế và vua (18). Theo cùng cách này, Người được nhận diện như khúc quanh trong toàn bộ lịch sử của mọi quốc gia trên thế giới khi lịch sử ấy được tóm gọn trong lịch sử “chúa tể các quốc gia” là đế quốc La Mã. Mặc dù điều này trên thực tế là chủ đề quán xuyến (leitmotif) trong các thế kỷ thứ 3, thứ 4 và thứ 5, nhưng công trình đồ sộ và gây ảnh hưởng hơn cả của việc nhận diện ấy là điều mà chính tác giả cuốn sách, trong phần nói đầu, nói là “nhiệm vụ vĩ đại và gay go”, đó là cuốn “Kinh Thành Thiên Chúa” (19). Đối với nhiệm vụ định vị Chúa Giêsu trong lịch sử thế giới cũng như đối với nhiệm vụ giải thích con người và giáo huấn của Chúa Giêsu cho Dân Ngoại, Tân Ước, vì là sách chủ yếu viết bởi các Kitô hữu gốc Do Thái, nên đã cung cấp ít hướng dẫn minh nhiên hơn là việc nó định vị Người trong lịch sử Israel. Nhưng quả nó có nói Người chỉ đến khi thời gian viên mãn (20).

Phỏng theo ngôn ngữ Phaolô trên, một nhà văn Kitô giáo tiên khởi, trong một cố gắng giải thích tại sao Thiên Chúa đã chờ đợi lâu đến thế, đã chia lịch sử thế giới thành hai “thời” hay “thời đại” dưạ trên “khuôn mẫu” vừa được khám phá vừa được thiết lập nơi Chúa Giêsu (21). Các người khác, cũng thế, đã cố gắng thiết lập một nối kết nào đó giữa việc Chúa Giêsu xuất hiện và lịch sử Rôma, sớm khởi đầu với các chương đầu tiên của Tin Mừng Luca với các ngôn từ nói về “sắc lệnh từ Xêda Augustô truyền ra khắp thế giới phải đăng ký” và về “năm thứ 15 thời trị vì của Xêda Tibêriô” (22). Nhưng chất xúc tác đối với việc khảo sát tường tận mối nối kết này là lời tố cáo cho rằng việc thay thế các thần của Rôma bằng Chúa Kitô đã giáng sự nổi giận và trừng phạt của các thần xuống thành phố và khiến cho Rôma phải sụp đổ. Vì, như Thánh Augustinô chủ trương, “không những trước khi Chúa Kitô bắt đầu giảng dậy, mà thậm chí trước khi Người được sinh ra bởi Trinh Nữ”, lịch sử Rôma đã được đặc trưng bởi “nhiều tội ác ghê tởm của các thời trước”, những cái ác, thêm vào đó, còn trở nên “không thể dung tha và rất kinh khiếp” không phải lúc Rôma bị đánh bại về quân sự mà khi nó đạt được đại thắng quân sự (23). Thực thế, “khi Carthage bị hủy diệt và cộng hòa Rôma được giải thoát khỏi lý do lớn lao khiến nó âu lo, thì đó là hàng loạt những tội ác tác hại phát sinh ngay tức khắc từ điều kiện phồn thịnh của các sự việc”, trên hết là sự tập trung “luật thèm khát” trong tay “một số ít mạnh hơn” trong khi “mọi người khác kiệt lực và mệt mỏi” phải chịu ách của họ (24). Không phải Rôma không đương đầu được với thất trận và suy thoái mà họ không đương đầu được với phồn thịnh và chiến thắng. Cho nên, việc mở rộng đế quốc Rôma, mà những kẻ tố cáo đổ lỗi cho Chúa Kitô đã đảo ngược, không tự động có ích lợi hiển nhiên cho nhân loại; vì, như câu phương ngôn năng được lặp đi lặp lại của Thánh Augustinô, “nếu công lý bị bãi bỏ, thì đế quốc còn là gì ngoài cái tên lạ chỉ sự ăn cắp (grande latrocinium)?” (25).

Mặt khác, theo Thánh Augustinô, người ta có thể tìm được dấu vết của nhiều thành tựu rõ ràng vĩ đại của Rôma mà sử gia Rôma Sallust từng kể ra: tham vọng của nó và “lòng thèm muốn vinh quang” và uy thế của nó, những điều vốn hành xử như để hạn chế thói hư và vô luân (26). Thiên Chúa, Đấng hành động và được biết đến nơi Chúa Kitô, cũng sử dụng các phẩm tính này khi thi hành các mục đích của lịch sử, vốn là kết quả không do may mắn hay tình cờ hoặc quyền lực của các vì sao nhưng do “trật tự sự vật và thời gian, dấu kín khỏi chúng ta, nhưng hoàn toàn được biết rõ nơi [Thiên Chúa, Đấng]... cai trị như chúa tể và bổ nhiệm như thống đốc” (27). Ý niệm “trật tự sự vật và thời gian”, điều mà Thánh Kinh gọi là “hàng loạt các thế hệ” được Thánh Augustinô cực lực bênh vực chống lại lý thuyết cho rằng lịch sử tự nó lặp lại, “cùng một biến cố thời gian được tái diễn bởi cùng một vòng xoay (revolutions)” và chu kỳ “định kỳ” (28). Và luận điểm giải quyết chống lại thuyết chu kỳ trong lịch sử là cuộc đời và con người Chúa Giêsu Kitô: vì “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta một lần cho tất cả, và khi đã chỗi dậy, Người không còn chết nữa”, điều cũng đúng là Platông từng giảng dậy tại Academy vào một thời điểm trong lịch sử, không lặp đi lặp lại “trong vô lượng chu kỳ vẫn còn tiếp diễn” (29). Chính việc xem xét cuộc đời, cái chết và phục sinh của Chúa Kitô, như một biến cố đơn nhất và không thể lặp lại, thế nhưng cùng một lúc lại như một sứ điệp và “mầu nhiệm được công bố từ khởi nguyên nhân loại” (30) đã làm cho Christopher Dawson gọi Thánh Augustinô, tuy hơi quá đáng một chút, “không những là người sáng lập ra triết lý Kitô giáo về lịch sử” mà “thực sự còn là người đầu tiên trên thế giới khám phá ra ý nghĩa của thời gian” (31).

Như thế, thời gian và lịch sử là điều chủ yếu đối với Thánh Augustinô, chủ yếu theo nghĩa đen của chữ crucialis, như thuộc về crux Christi, thập giá Chúa Kitô (một cách dùng của chữ crucialis mà thực ra không có tiền lệ cổ điển và thậm chí cả giáo phụ nào, từ ngữ trong tiếng Anh có lẽ là do Francis Bacon sáng chế) (32): lịch sử cây thập giá của Chúa Kitô vừa là công trình cứu chuộc của Người vừa là gương sáng của Người để ta noi theo (33). Nhưng các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu, nhìn như khúc quanh của lịch sử, không phải chỉ ảnh hưởng tới việc giải thích lịch sử này; nó còn chịu trách nhiệm đối với việc quan tâm được tái sinh lực hoá và được biến đổi trong việc viết lịch sử nữa. Mặc dù Thánh Augustinô không những soạn thảo nhiều loại văn thể khác nhau nhưng trong cuốn Tự Thú của mình, ngài còn tạo ra một văn thể chưa hề có tiền lệ đúng nghĩa, bất luận là cổ điển hay có tính chất Kitô giáo, tuy nhiên, ngài chưa bao giờ đặt tay viết lịch sử theo lối thuật chuyện có lẽ trừ một hai công trình gây tranh cãi có vết tích của loại lịch sử này. Nhưng hai tác giả Kitô giáo Hy Lạp thuộc thế kỷ trước Thánh Augustinô, tức Eusebiô thành Xêdarê và Athanasiô thành Alexandria có thể cung cấp tài liệu cho loại chép sử này lấy linh hứng từ cuộc đời Chúa Giêsu Kitô. Sự kiện họ đứng ở phiá đối lập trong cuộc tranh luận vĩ đại của thế kỷ thứ tư về mối liên hệ giữa con người Chúa Giêsu Kitô và Thiên Tính (Godhead) khiến sự đóng góp chung của họ vào việc chép sử càng thêm đáng lưu ý.

Mặc dù Eusebiô đôi khi bị tố cáo là quá lạc quan, thậm chí còn thiếu trung thực nữa (34), nhưng công trình của ông như một sử gia của ba thế kỷ đầu thì chắc chắn đã làm ông trở thành người không thể thiếu đối với bất cứ cố gắng nào để hiểu thời kỳ này: nếu người ta lấy bất cứ cuốn sách giáo sử thời nay nào viết về thời kỳ đó rồi bôi bỏ các dữ kiện phát xuất từ Eusebiô, thì hẳn họ chỉ còn lại rất ít điều. Trong tư cách tác giả hai cuốn sách có ý định biện hộ cho sứ điệp Kitô giáo, tức cuốn Chuẩn Bị Tin Mừng và cuốn Chứng Minh Tin Mừng, và như sử gia chính của các sách hộ giáo trong các thế kỷ trước đó, Eusebiô phê phán các người đi trước vì đã chú tâm tới “các luận điểm” hơn là “các biến cố” (35). Trong cuốn Lịch sử Giáo hội của ông, ông bắt tay sửa lại sự mất quân bình ấy và để làm như thế một cách cụ thể, ông đã viết lịch sử dưới ánh sáng cuộc đời Chúa Giêsu.

Trong lời nói đầu cho cuốn sách, ông trình bầy 2 luận bác do những người ngoại đạo phê phán Chúa Kitô và Kitô giáo: Chúa Kitô là “người mới xuất hiện gần đây trong lịch sử loài người” và nước của Chúa Kitô “bị giấu giếm ở một ngõ ngách nào đó trên thế giới”. Nói tóm lại, Chúa Kitô “vừa mới mẻ vừa hẻo lánh”. Ông trả lời các luận bác này bằng cách, trước nhất và quan trọng nhất, là mô tả chính lịch sử của Chúa Giêsu (36). Theo Eusebiô, lịch sử này trải dài tới tận thuở ban đầu của kinh nghiệm con người, vì tất cả những ai Thiên Chúa đã xuất hiện với đều được gọi là Kitô hữu “trong sự kiện chứ không phải chỉ là cái tên” (37). Nhưng lịch sử cũng trải dài đến tận thời của tác giả; vì cũng như đối với các sử gia cổ điểncổ thời, Eusebiô tập trung vào các biến cố đương thời. Ấy thế nhưng, có một sự khác biệt căn bản: theo Eusebiô, biến cố có tính quyết định trong lịch sử ông đang thuật lại không diễn ra lúc ông đang sống, nhưng đã diễn ra trong đời sống Chúa Giêsu Kitô. Như một học giả đã viết “ông lưu tâm tới việc, dựa vào dự án của Thiên Chúa dành cho thế giới, nắm được các hệ luận lịch sử phổ quát của việc Chúa Giêsu bước vào thế giới” (38). Để trình bầy rõ các hệ luận này, ông không đưa ra các luận điểm mà là các biến cố: ông viết trình thuật lịch sử mà khúc quanh của nó là “triều vua Augustô” lúc Chúa Giêsu Kitô sinh ra (39).

Là người cùng thời và đôi khi đối nghịch với Eusebiô, Thánh Athanasiô thành Alexandria, được tưởng niệm chủ yếu nhờ các công trình của ngài về thần học tín lý và bút chiến. Thế nhưng, xét về nhiều phương diện, cuốn sách gây ảnh hưởng nhất được ngài viết chỉ đề cập đến tín lý và bút chiến một cách tình cờ. Đó là cuốn Cuộc đời Thánh Antôn, cuốn tiểu sử viết về vị khai sáng ra phong trào đơn tu Kitô Giáo ở Ai Cập, cuốn sách mà cả những người chỉ trích Thánh Athanasiô hơn cả cũng buộc phải khen ngợi (40). Dường như cuốn sách, ít nhất một phần, được viết cho độc giả Phương Tây và lúc tác giả còn sống đã được dịch từ tiếng Hy Lạp sang tiếng La Tinh, và dưới hình thức này, đã gây ảnh hưởng lớn đối với việc trở lại của Thánh Augustinô (41). Vì mục đích hiện tại, Cuộc đời Thánh Antôn được coi như điển hình hàng đầu của lối viết sử mới và lối viết tiểu sử mới lấy hứng từ đời sống Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.
Chắc chắn, có nhiều điểm tương tự giữa nó và các cuốn tiểu sử bằng tiếng Hy Lạp của người ngoại giáo. Cuốn nổi tiếng Những Cuộc Đời Song Hành của Plutarch cho ta một số tương tự này, dù những điểm khác biệt thì rõ ràng hơn nhiều. Một trong những nghiên cứu tỉ mỉ nhất về văn thể của cuốn tiếng Hy Lạp Cuộc đời Các Thánh, tức nghiên cứu của Karl Holl, đã đặc biệt coi các cuốn tiểu sử của Posidonius và Apollonius thành Tyana là điển hình (42). Dù mục đích của cuốn sách là trình bầy Thánh Antôn như hiện thân của một lý tưởng, điều này vẫn không ngăn cản Thánh Athanasiô mô tả đời ngài bằng những hạn từ cụ thể như cuộc đấu tranh trong cuộc sống, một cuộc đấu tranh chỉ chấm dứt với cái chết. Suốt cuốn sách là một cố gắng nhằm mô tả cuộc đời Thánh Antôn như “công trình của Chúa Cứu Thế nơi Thánh Antôn” (43). Điều rõ ràng là Thánh Antôn chọn lối sống đơn tu vì ở đây, ngài có thể vâng theo giáo huấn của Chúa Giêsu cách hữu hiệu hơn cả (44). Cuộc đời Thánh Antôn đầy những câu truyện phép lạ cũng như rất chi tiết trong việc thuật lại các bài giảng chống lạc giáo của Thánh Antôn. Johannes Quasten, sử gia hàng đầu của chúng ta về nền văn chương Kitô giáo tiên khởi, đã chính xác tóm tắt vị trí của cuốn Cuộc đời Thánh Antôn của Thánh Anathasiô trong lịch sử viết tiểu sử như sau:

“Không còn hoài nghi chi nữa mẫu mực cổ điển xưa về [hạnh, Vita] các bậc anh hùng và loại hạnh mới hơn về các bậc hiền nhân đã gợi hứng cho Thánh Athanasiô. Nhưng thành tựu vĩ đại của ngài vẫn là: ngài đúc lại các lối phát biểu được thừa hưởng này về các lý tưởng bình dân trong khuôn đúc Kitô giáo và cho thấy cũng một anh hùng tính nơi người mô phỏng Chúa Kitô được sự trợ giúp của sức mạnh ơn thánh. Như thế, ngài đã tạo ra một loại viết tiểu sử mới được dùng làm mẫu mực cho toàn bộ lối viết sử thánh bằng tiếng Hy Lạp và La Tinh sau này” (45).

Một cuốn tiểu sử thời Trung Cổ kiểu trên như cuốn Cuộc đời Cuthbert của Thánh Bede là điển hình của truyền thống do Cuộc đời Thánh Antôn tạo ra; như một nghiên cứu gần đây đã nhận xét, “Chuyện thông thường là việc nhận thấy rằng một người thánh thiện như Cuthbert mô phỏng cuộc đời Chúa Kitô và các thánh, nhưng ta có khuynh hướng quên thực tại và các hệ luận của một việc mô phỏng như thế khi nói về tiểu sử” (46). Cuộc đời Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng là khúc quanh cho cả cuộc đời của Cuthbert (cuộc đời ngài sống) lẫn Cuộc đời Cuthbert (cuộc đời được Thánh Bede viết về).

Sau cùng, chính lịch của Âu Châu, một lịch sau đó đã trở thành lịch của hầu hết thế giới hiện đại, đã diễn biến tới chỗ nhìn nhận quan điểm trên về ý nghĩa của nhân vật Giêsu như khúc quanh của lịch sử, khúc quanh cho cả lịch sử như một diễn trình lẫn lịch sử như một trình thuật. Như chúng ta đã ghi nhận, các sử gia Kitô giáo từ Thánh Luca tới Eusebiô và sau đó đã duy trì hệ thống của Rôma trong việc định ngày tháng cho các biến cố bằng triều đại hay hoàng đế. Ngày tháng của triều đại hoàng đế, ngược lại, được trưng dẫn theo bảng niên đại (chronology), tính từ ngày dã sử Romulus và Remus thiết lập ra Rôma viết tắt là A.U.C. nghĩa là Ab Urbe Condita [từ ngày thành lập kinh thành] (vốn là tựa đề công trình của Livy mà nay ta gọi là Lịch Sử Rôma). Việc bách hại giáo hội dưới thời Diocletian, người cai trị từ năm 284 tới năm 305, đã dẫn một nhóm Kitô hữu định lịch của họ từ điều họ gọi là Thời Các Tử Đạo. Thí dụ, Bảng Chú Dẫn Các Chữ Ngày Lễ của Thánh Athanasiô (Index to the Festal Letters of Athanasius) thế kỷ thứ tư được sắp xếp theo lịch ngày tháng trong một năm của Ai Cập, nhưng định năm của Chữ Ngày Lễ đầu tiên là “năm 44 Thời Diocletian” nghĩa là Năm Của Chúa 327 (47). Đó là hệ thống lịch vẫn còn được Kitô hữu Coptic của Thánh Athanasiô ở Ai Cập, cũng như các Kitô hữu Ethiopia, duy trì.

Nhưng đến thế kỷ thứ sáu, một đan sĩ người Schyth sống ở Rôma, tên là Dionysius Exiguus (“Denis Nhỏ”) đề nghị một hệ thống mới để tính ngày. Hệ thống này không được đặt tên theo thần thọai ngoại giáo với việc thành lập ra Rôma bởi Romulus và Remus, cũng không theo Diocletian, kẻ bách hại, mà theo việc nhập thể của Chúa Giêsu Kitô, nhất là theo ngày truyền tin việc Người sinh ra cho Trinh Nữ Maria bởi thiên thần Gabrien, 25 tháng 3, năm 753 A.U.C. Vì những lý do đến nay vẫn còn mù mờ, Dionysius Exiguus tính lầm từ 4 đến 7 năm, phát sinh ra sự bất thường qua đó có khi người ta bảo Chúa Giêsu sinh ra năm 4 B.C. (trước Chúa Kitô). Tuy nhiên, bỏ ra ngoài chuyện vặt vãnh này, việc Dionysius ấn định ra “thời đại Chúa Kitô” dần dần trở thành nhất định, dù diễn trình thiết lập nó cần nhiều thế kỷ, và nay đã thành phổ quát (48). Từ đó, ngày tháng lịch sử và tiểu sử được đánh dấu là A.D. (năm của Chúa) và B.C. (trước Chúa Kitô), theo “các năm của Chúa chúng ta”. Ngay cuộc đời của kẻ Phản Kitô cũng được đặt niên biểu theo niên biểu của Chúa Kitô; các tiểu sử của kẻ thù Người cũng được viết cách này, đến nỗi ta nói tới việc Nêrông chết năm 68 A.D. và Stalin chết năm 1953 A.D. Dù sao, theo chiều hướng này, và không chỉ theo chiều hướng này, mọi người buộc phải thừa nhận rằng vì Chúa Giêsu thành Nadarét, lịch sử không bao giờ còn như trước nữa.
_____________________________________________
(*) Bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ hơi khác: “Ngôi báu Thiên Chúa tặng ban cho ngài sẽ trường tồn vạn kỷ, vương trượng ngài, vương trượng công minh; ngài ưa điều chính trực, ghét điều gian ác. Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên Chúa của ngài đã tôn phong ngài vượt trổi các đồng liêu mà xức cho dầu thơm hoan lạc”.

Ghi chú

(1) Charles Norris Cochrane, Christianity and Classical Culture: A Study of Thougth and Action from Augustus to Augustine (Oxford: Clarendon Press, 1944) tr. 456
(2) Erwin Panopfsky, The Life and Art of Albrecht Durer, 4Th Ed. (Princeton: Princeton University Ptress, 1955) tr.56-57
(3) Kh 21:6; 1:8.
(4) Hai cố gắng sâu sắc nhất đề cập đến vấn đề này là Amos Wilder, Ethics and Eschatology in the Teachings of Jesus, rev. ed. (New York, Harper, 1950), và Rudolf Otto, The Kingdom of God and the Son of Man, bản dịch của Floyd V. Filson and Bertram Lee Wolff (London, Lutterworth 1938).
(5) Mt 10:23; Mc 13:30; Lc 21:32
(6) Schweitzer, Quest of Historical Jesus, tr. 360.
(7) Jaroslav Pelikan, “The Eschatology of Tertullian”, Church History 21 (1952) 108-22
(8) Tertullian, On Spectacles 30; on Prayer 29
(9) Tertullian, Apology 39
(10) Tv 96:10; Thánh Justin, Dialogue with Trypho 73:1; Venantius Fortunatus, Carmina 2.7
(11) Thánh Irenaeus, Proof of Apostolic Preaching; Cyprian, Testimonies
(12) Thánh Augustine, City of God 16.43; 17.20; 17.4
(13) Thánh Augustine, City of God 17.16; Eusebius, Ecclecsiatical History 1.3.15-15
(14) Thánh Augustine, City of God17.20-23
(15) Thánh Augustine, City of God 17.5-5
(16) Pelikan, Christian Tradition 1:25-26
(17) Fred. L. Horton Jr, The Melchizedek Tradition: A Critical Examination of the Sources of the Fifth Century A.D. and in te Epistle to the Hebrews (Cambridge: Cambridge Univerity Press, 1976)
(18) Eusebius, Ecclesiatical History 1.19; Thánh Augustine, City of God 17.4; John Calvin, Institutes of the Christian Religion 2.15, McNeil ed. 1:494-503
(19) Peter Brown, Augustine of Hippo. A Biography (London: Faber and Faber, 1969) tr. 299-312
(20) Ep. 1:10; Gl 4:4
(21) Epistle to Diognetus 9
(22) Lc 2:1; 3:1; Eusebius, Ecclecsiatical History 1.5.2
(23) Thánh Augustine, City of God 2.18-19
(24) Thánh Augustine, City of God 1.30
(25) Thánh Augustine, City of God 4.3-4
(26) Sallust, Catilina 7; Augustine, City of God 5.12-13
(27) Thánh Augustine, City of God 4.33; 5.1; 5.11
(28) Thánh Augustine, City of God 16.10; 12.18
(29) Thánh Augustine, City of God 12.13; Origen, Against Celsus 4.67
(30) Thánh Augustine, City of God 7.32
(31) Christopher Dawson, “St Augustine and his Age” trong St Augustine , ed. Martin C, d’Arcy (New York: Meridian Books, 1957) tr. 69
(32) Xem Oxford English Dictionary, s.v. “crecial”
(33) Thánh Augustine, on the Creed 9
(34) Martin Werner, Die Entstehung des christlichen Dogmas (Bern: Paul Haupt, 1941) tr. 112-113, xem thêm tr.50
(35) Eusebius, Preparation of the Gospel 1.3.6-7
(36) Tôi đã thích ứng ở đây một số tư liệu trong cuốn sách của tôi The Finality of Jesus Christ in an Age of Universal History (London: Lutterworth, 1965) tr. 48-56
(37) Eusebius, Ecclecsiatical History 1.4.6
(38) C.F. Georg Heinrici, Das Urchristentum in der Kircheneschichte des Eusebius (Leipzig: Verlag der Durr’schen Buchhandlung, 1894) tr. 21
(39) Eusebius, Ecclecsiatical History 4.26.7, trích dẫn Melito thành Sardis
(40) Eduard Schwartz, Zur Geschichte des Athanasius (Berlin: Walter de Gruyter, 1959) tr. 286 n. 3
(41) Xem tr. 112
(42) Karl Holl, “Die schriftstellerisch Form des griechischen Heiligenlebens”, Gesammelte Aufsatze zur Kirchengeschichte, 3 vols.(1928; tái bản, Darmstadt: Wissenschaftliche Buchgesellschaft, 1964) 2.249-69
(43) Thánh Athanasius, Life of Anthony 7
(44) Thánh Athanasius, Life of Anthony 1-2
(45) Johannes Quasten, Patrology, 3 vols. cho đến nay (Westminster, Md.: Newman Press, 1951-),3:43
(46) Judith H. Anderson, Biographical Truth: The Representation of Historical Persons in Tudor-Stuart Writing (New Haven: Yale University Press, 1984) tr.21-22
(47) Xem bản dịch và bảng hữu ích do Archibald Robettson soạn, Nicene and Post-Nicene Fathers of the Church 4:502-03
(48) Bruno Krusch, Studien zur christlichen-mittelatterlichen Chronologie: Die Entstehung unserer heutigen Zeitrechnung, 2 vol. (Berlin: Akademie des Wissenchaften, 1938) 2:59-87.
 
VietCatholic TV
Lời Ca Nguyện Cầu: Mùa Xuân Đợi Trông Tình Yêu
Giáo Hội Năm Châu
03:14 28/11/2020
 
Phóng sự đặc biệt về Công Nghị Tấn Phong Hồng Y tại Đền Thờ Thánh Phêrô ngày 28/11/2020
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
15:57 28/11/2020


Công nghị tấn phong 13 tân Hồng Y đã diễn ra vào lúc 4 giờ chiều, giờ địa phương Rôma, ngày thứ Bẩy 28 tháng 11 tại Bàn thờ Ngai Tòa bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô, với một cộng đoàn khoảng một trăm người.

Có 11 vị Hồng Y tân cử hiện diện trong buổi lễ này. Hai vị không đến được do những hạn chế đi lại liên quan đến đại dịch coronavirus.

Trong 13 vị tân Hồng Y, có 9 vị dưới 80, nghĩa là có quyền bầu Giáo Hoàng.

Tính đến thời điểm trước buổi lễ này, Hồng Y Đoàn có 216 vị trong đó có 119 vị là Hồng Y Cử Tri và 97 vị đã quá tuổi 80.

Ngay sau công nghị tấn phong Hồng Y này, Giáo Hội có thêm 13 vị Hồng Y trong đó có 9 vị Hồng Y Cử Tri. Như thế, ngay sau nghi lễ này Giáo Hội có 229 Hồng Y trong đó có 128 Hồng Y Cử Tri.

Thông thường, các vị Giáo Hoàng thường chọn tấn phong Hồng Y cho các vị là Tổng Giám Mục hay ít nhất là Giám Mục. Tuy nhiên, trong công nghị tấn phong Hồng Y lần này có 3 linh mục được tấn phong Hồng Y. Trước hết là Cha Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng từ năm 1980 đến nay. Kế đến là Cha Mauro Gambetti, Bề trên của Tu viện dòng Phanxicô ở Assisi, và Đức Ông Enrico Feroci, linh mục quản xứ Santa Maria tại Castel di Leva, Rôma. Theo thông lệ, các linh mục cần phải được tấn phong Giám Mục trước khi được tấn phong Hồng Y. Cha Raniero Cantalamessa đã xin được miễn. Đức Ông Enrico Feroci được tấn phong Giám Mục vào ngày 15 tháng 11, và Cha Mauro Gambetti được tấn phong Giám Mục vào ngày 22 tháng 11.

Tron phần đầu lễ Đức Thánh Cha đã đọc một lời nguyện cho chính ngài như sau:

Chúng ta hãy cầu nguyện. Lạy Chúa là Thiên Chúa, Cha của vinh quang, nguồn gốc của mọi điều thiện hảo, Đấng không ngừng làm phong phú Giáo Hội trên khắp thế giới với một sự dư dật các ân sủng, và với lòng từ ái còn lớn hơn nữa trên Ngai Tòa của Thánh Phêrô Tông Đồ, mà Ngài đã thiết lập vượt trỗi trên tất cả những chức vụ khác: với sự quan phòng của Chúa xin ban cho con là người tôi tớ Chúa đây, có thể thực hiện một cách khôn ngoan chức vụ Ngài ủy thác cho con, trong niềm tin kiên vững rằng Chúa sẽ ban cho Giáo Hội phổ quát của Ngài tất cả những điều Chúa đã hứa.

Trước khi Đức Thánh Cha trao mũ đỏ, chiếc nhẫn và tước hiệu liên kết với một nhà thờ trong giáo phận Rôma hoặc một giáo phận phụ cận, cộng đoàn đã nghe bài Phúc Âm sau, trích từ Tin Mừng theo Thánh Máccô (Mc 10:32-45):

Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.”

Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”

Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”


Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

Chúa Giêsu và các môn đệ đang đi trên đường. Con đường là khung cảnh vừa được Thánh sử Máccô mô tả (Mc 10: 32-45). Con đường cũng luôn là khung cảnh cho cuộc hành trình của Giáo Hội: đó là con đường sự sống và lịch sử, là lịch sử cứu độ khi Giáo Hội đồng hành với Chúa Kitô và dẫn đến mầu nhiệm vượt qua của Người. Giêrusalem luôn nằm trước mắt chúng ta. Thập tự giá và sự phục sinh là một phần lịch sử của chúng ta; chúng là “ngày hôm nay” của chúng ta nhưng cũng luôn là mục tiêu trong hành trình của chúng ta.

Đoạn Tin Mừng này thường được đọc trong các công nghị tấn phong tân Hồng Y. Nó không chỉ đơn thuần là một “tấm phông nền” nhưng còn là một “tấm bảng chỉ đường” cho chúng ta, những người ngày nay đang cùng hành trình với Chúa Giêsu. Vì Ngài là sức mạnh của chúng ta, là Đấng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và sứ vụ của chúng ta.

Do đó, thưa anh em thân mến, chúng ta cần xem xét cẩn thận những lời mình vừa nghe.

Thánh Máccô nhấn mạnh rằng, trên đường, các môn đệ vừa “kinh hoàng” vừa “sợ hãi” (câu 32). Tại sao? Bởi vì họ biết điều gì đang chờ đợi họ ở Giêrusalem. Nhiều lần, Chúa Giêsu đã nói với họ một cách công khai về điều đó. Chúa biết những gì những người theo Ngài đang trải qua, Ngài cũng không thờ ơ với điều đó. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi bạn bè của mình; Ngài không bao giờ bỏ bê họ. Ngay cả khi có vẻ như Ngài đang đi theo con đường riêng của mình, Ngài vẫn luôn làm như vậy vì lợi ích của chúng ta. Tất cả những gì Ngài làm, Ngài đều làm cho chúng ta và cho sự cứu rỗi của chúng ta. Trong trường hợp cụ thể của Nhóm Mười Hai, Ngài làm điều này để chuẩn bị cho họ trước những thử thách sắp tới, để họ có thể gần gũi với Ngài, bây giờ và nhất là sau này, khi Ngài không còn ở giữa họ nữa. Để họ có thể luôn ở bên Ngài, và đi trên con đường của Ngài.

Biết rằng tâm hồn các môn đệ đang bối rối, Chúa Giêsu “một lần nữa” gọi Nhóm Mười Hai đến và nói với họ về “những điều gì sẽ xảy ra với mình” (câu 32). Chính chúng ta vừa được nghe: đó lời loan báo lần thứ ba về cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người. Đây là con đường do Con Thiên Chúa đi. Con đường do Người Tôi tớ Chúa chọn. Chúa Giêsu đồng hóa mình với con đường này, đến nỗi chính Người là con đường. Ngài nói: “Ta là đường” (Ga 14: 6). Chỉ có con đường này, và không còn con đường nào khác.

Tại thời điểm này, một biến cố đột ngột xảy ra, cho phép Chúa Giêsu mạc khải cho hai tông đồ Giacôbê và Gioan - nhưng thực sự là cho tất cả các môn đệ - về số phận dành cho họ. Chúng ta hãy hình dung cảnh tượng này: sau khi giải thích một lần nữa điều gì sẽ xảy ra với mình ở Giêrusalem, Chúa Giêsu nhìn thẳng vào mắt Nhóm Mười Hai, như thể muốn nói: “Anh em đã rõ chưa?” Sau đó Người tiếp tục cuộc hành trình của mình, đi trước cả nhóm. Hai môn đệ của Ngài, là Giacôbê và Gioan, tách khỏi những người khác. Các ông đến gần Chúa Giêsu và thổ lộ với Ngài điều họ muốn: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (câu 37). Như thế là các ông muốn đi một con đường khác. Không phải con đường của Chúa Giêsu, mà là một con đường khác. Có lẽ chính họ không nhận ra đó là con đường của những người đang “lợi dụng” Chúa cho sự thăng tiến của chính mình. Đó là những người - như Thánh Phaolô nói - hướng đến lợi ích của chính họ chứ không phải của Chúa Kitô (x. Pl 2:21). Thánh Augustinô đã nói về điều này trong bài giảng tuyệt vời của ngài về những mục tử (số 46). Một bài giảng mà chúng ta luôn luôn nhận được lợi ích khi đọc lại trong giờ Kinh Sách.

Chúa Giêsu lắng nghe Giacôbê và Gioan. Ngài không khó chịu hay tức giận. Sự kiên nhẫn của Người quả thực là vô hạn. Ngài nói với họ: “Anh em không biết mình đang xin gì” (câu 38). Bằng một cách nào đó, Người bào chữa cho họ, đồng thời trách móc họ: “Anh em không nhận ra rằng mình đã đi chệch hướng”. Ngay sau đó, mười môn đệ khác sẽ thể hiện bằng phản ứng phẫn nộ của họ đối với các con trai của ông Dêbêđê rằng hai người họ đã bị cám dỗ lệch đường ra sao.

Anh em thân mến, tất cả chúng ta đều yêu mến Chúa Giêsu, tất cả chúng ta đều muốn theo Ngài, nhưng chúng ta phải luôn cẩn thận để giữ mình đi đúng đường. Vì thể xác của chúng ta có thể ở với Người, nhưng trái tim của chúng ta có thể lang thang xa Người và vì vậy dẫn chúng ta lạc xa đường. Màu đỏ huyết trên áo choàng của vị Hồng Y, là màu của máu, nhưng đối với một tinh thần thế gian, nó có thể trở thành màu sắc của một sự “ưu việt” thế tục.

Trong bài Tin Mừng này, chúng ta luôn bị ấn tượng bởi sự tương phản rõ rệt giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Chúa Giêsu nhận thức được điều này; Người biết điều đó và Người chấp nhận nó. Tuy nhiên, sự tương phản vẫn còn đó: Chúa Giêsu đang đi trên đường, trong khi họ đang tách ra khỏi con đường. Hai con đường tách biệt không thể gặp nhau. Chỉ có Chúa, qua thập tự giá và sự phục sinh của mình, mới có thể cứu rỗi những người bạn đang lạc xa con đường và có nguy cơ bị lạc. Chính vì họ, cũng như vì tất cả những người khác, Chúa Giêsu đang hành trình đến Giêrusalem. Vì họ, và vì tất cả mọi người, Chúa Giêsu sẽ để cho thân mình tan nát và máu mình đổ ra. Vì họ và vì tất cả mọi người, Ngài sẽ sống lại từ trong cõi chết, tha thứ và biến đổi họ qua ân sủng của Thánh Linh. Cuối cùng, Người sẽ đưa họ trở lại đúng con đường của mình.

Thánh Máccô - như Matthêu và Luca - đã đưa câu chuyện này vào Tin Mừng của mình vì nó chứa đựng một chân lý cứu độ cần thiết cho Giáo hội trong mọi thời đại. Mặc dù Nhóm Mười Hai xem ra lung tung, nhưng bản văn này đã đi vào thư bộ Kinh Thánh vì nó tiết lộ sự thật về Chúa Giêsu và về chúng ta. Đối với chúng ta cũng vậy, trong thời đại của chúng ta, câu chuyện này là một thông điệp về ơn cứu rỗi. Chúng ta, Giáo hoàng và Hồng Y, cũng phải luôn thấy mình được phản ánh trong lời chân lý này. Nó là một thanh kiếm được mài sắc; nó cắt, nó gây đau đớn, nhưng nó cũng chữa lành, giải phóng và chuyển đổi chúng ta. Vì sự hoán cải có nghĩa chính xác là thế này: chúng ta phải chuyển từ việc lầm đường lạc lối sang hành trình trên đường của Chúa.

Xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ân sủng này, hôm nay và mãi mãi.

Nghi thức tấn phong Hồng Y

Sau bài huấn dụ, Đức Thánh Cha bắt đầu nghi thức tấn phong Hồng Y. Ngài nhắc nhở các tân Hồng Y: “Mang phẩm phục màu đỏ, các vị Hồng Y phải là những chứng nhân can trường của Chúa Kitô và Phúc Âm của Ngài tại thành Roma cũng như tại những nơi xa xăm nhất.”

Tiếp đó, Đức Thánh Cha đã tuyên bố như sau:

“Vì vậy với quyền của Thiên Chúa toàn năng, của các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và quyền của chúng tôi, chúng tôi tấn phong và long trọng tuyên bố các anh em chúng tôi sau đây là Hồng Y của Giáo Hội Rôma.”

Rồi ngài lần lượt xướng tên các vị.

1. Đức Tổng Giám Mục Mario Grech, Tổng Thư Ký Thượng Hội Đồng Giám Mục

2. Đức Tổng Giám Mục Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Tuyên Thánh

3. Đức Tổng Giám Mục Antoine Kambanda của Tổng Giáo Phận Kigali (Rwanda)

4. Đức Tổng Giám Mục Wilton Daniel Gregory của Tổng Giáo Phận Washington DC (Hoa Kỳ)

5. Đức Tổng Giám Mục Jose F Advincula của Tổng Giáo Phận Capiz (Phi Luật Tân)

6. Đức Tổng Giám Mục Celestino Aós Braco, O.F.M. Cap. của Tổng Giáo Phận Santiago De Chile (Chí Lợi)

7. Đức Cha Cornelius Sim Giám Quản Tông Tòa của Brunei

8. Đức Tổng Giám Mục Augusto Paolo Lojudice của Tổng Giáo Phận Siena-Colle Di Val D’elsa-Montalcino (Ý)

9. Đức Tổng Giám Mục Mauro Gambetti, o.f.m. Tổng Giám Mục hiệu tòa Tisiduo

10. Đức Cha Felipe Arizmendi Esquivel Giám mục hiệu tòa của giáo phận San Cristóbal de las Casas (Mễ Tây Cơ)

11. Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, C.S. Tổng Giám Mục hiệu tòa Asolo, Đặc sứ của Đức Thánh Cha tại dòng Malta

12. Cha Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap. Giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng

Các vị Hồng Y Tân Cử đã đến quỳ trước Đức Thánh Cha để nhận mũ, nhẫn và giáo xứ hiệu tòa của mình.


Source:Holy See Press Office
 
Chiến thắng vào giờ chót tại Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ mang lại hy vọng cho người Công Giáo New York
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
18:46 28/11/2020

Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đứng về phía Đức Cha Nicholas DiMarzio trong vụ kiện chống tiểu bang New York

Tối thứ Tư 25 tháng 11, Tối Cao Pháp Viện truyền rằng các hạn chế của tiểu bang New York trong thời gian xảy ra đại dịch coronavirus đã vi phạm sự bảo vệ của Tu chính án thứ nhất đối với hoạt động tự do tôn giáo. Sau phán quyết, Đức Giám Mục Brooklyn, là nguyên đơn trong vụ kiện, nói rằng việc thờ phượng cần phải được coi là điều thiết yếu trong đại dịch coronavirus.

“Đã đến lúc – lẽ ra phải nói trước đó - rằng, trong khi đại dịch đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng, thì không có chỗ nào trong Hiến pháp dung thứ cho các sắc lệnh hành pháp được vẽ vời nhằm mở lại các cửa hàng rượu và cửa hàng xe đạp nhưng lại đóng cửa các nhà thờ, hội đường Do Thái và đền thờ Hồi giáo,” Thẩm Phán Neil Gorsuch đã viết như trên trong phán quyết vào tối thứ Tư, trong đó tạm thời ngăn chặn các hạn chế đối với việc thờ phượng được ban hành vào ngày 6 tháng 10 bởi Thống đốc New York Andrew Cuomo.

Phán quyết của Tối Cao Pháp Viện là tạm thời, vì các vụ kiện do Giáo phận Brooklyn và các hội đường Do Thái ở New York sẽ tiếp tục, mặc dù quyết định của Tòa án Tối cao có thể sẽ ảnh hưởng nặng nề đến kết quả của những vụ kiện đó.

Các giới hạn của tiểu bang cấm hơn 10 người tham dự các buổi lễ tôn giáo trong các vùng được tiểu bang chỉ định là “vùng màu đỏ” và 25 người ở “vùng màu cam”.

“Ở các khu vực màu đỏ, trong khi một hội đường Do Thái hoặc một nhà thờ Công Giáo không được nhận quá 10 người, các doanh nghiệp trong vùng được xếp vào loại 'thiết yếu' có thể nhận bao nhiêu người tùy thích. Và danh sách các doanh nghiệp 'thiết yếu' như thế bao gồm những thứ như cơ sở châm cứu, khuôn viên cắm trại, nhà để xe, tất cả các nhà máy sản xuất hóa chất và vi điện tử và tất cả các phương tiện vận chuyển.”

“Những phân loại như thế dẫn đến kết quả đáng lo ngại,” phán quyết của Tối Cao Pháp Viện cho biết thêm.

“Không có một bằng chứng nào cho thấy những người nộp đơn đã góp phần vào việc lây lan COVID-19. Trái lại, họ còn có nhiều quy tắc khác được thông qua để giảm thiểu rủi ro cho những người tham dự các buổi lễ tôn giáo.”

Tối Cao Pháp Viện cũng phàn nàn rằng sức chứa của các nhà thờ Công Giáo và các hội đường Do Thái Giáo đã không được tiểu bang tính đến khi quy định số người tham dự tối đa tại một buổi lễ tôn giáo.

Phán quyết của Tối Cao Pháp Viện nhấn mạnh rằng:

“Ngay cả trong thời đại dịch, Hiến pháp không thể bị bỏ quên và lãng quên.”

Quyết định 5-4 cho thấy Thẩm phán mới được xác nhận Amy Coney Barrett đã đứng về phía Đức Cha Nicholas DiMarzio, trong khi Chánh án John Roberts đứng về phía tiểu bang New York cùng với ba thẩm phán cấp tiến.

Trong một tuyên bố hôm thứ Năm 26 tháng 11, Đức Cha Nicholas DiMarzio, Giám Mục Brooklyn cho biết ngài “hài lòng với quyết định của các Thẩm phán tại Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, là những người đã công nhận sự vi phạm rõ ràng Tu chính án đầu tiên của tiểu bang New York và vấn đề cần được khắc phục khẩn cấp trong trường hợp này”.

“Tôi tự hào được lãnh đạo Giáo phận Brooklyn và đấu tranh cho quyền thờ phượng thiêng liêng và hợp hiến của chúng ta.”

“Các nhà thờ của chúng ta không phải là nguyên nhân của bất kỳ vụ bùng phát nào. Chúng ta đã thực hiện cuộc chiến pháp lý của mình đến mức này vì chúng ta phải được coi là thiết yếu.”


Source:Catholic News Agency


1. Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm tân giám đốc ca đoàn Sistina

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm một giám đốc mới cho Ca đoàn Sistina vào hôm Chúa Nhật.

Vị được bổ nhiệm là một Đức Ông người Brazil, cha Marcos Pavan. Quyết định này được đưa ra vào ngày 22 tháng 11, Lễ Thánh Cecilia.

Cha Pavan đã từng là giám đốc lâm thời sau sự ra đi của linh mục Massimo Palombella, dòng Salêdiêng, vào tháng 7 năm 2019 sau nhiệm kỳ chín năm.

Văn phòng báo chí của Tòa Thánh đã thông báo vào tháng 9 năm 2018 rằng Đức Giáo Hoàng đã cho phép một cuộc điều tra về “các khía cạnh kinh tế và hành chính” của dàn hợp xướng.

Vào tháng Giêng năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành một tự sắc chuyển việc quản trị Dàn hợp xướng Nhà nguyện Sistina sang Văn phòng Các Cử hành Phụng vụ Giáo hoàng, thay vì Phủ Giáo hoàng như trước đây.

Đức Giáo Hoàng đã giao phó cho Đức Ông Guido Marini, phụ trách các nghi lễ của Đức Giáo Hoàng, công việc quản lý dàn hợp xướng và phác thảo những quy chế mới.

Cha Pavan, 58 tuổi, đã phục vụ trong ca đoàn Sistina từ năm 1998. Trước đây, ngài đã phụ trách Pueri Cantores, hay dàn hợp xướng của các bé trai trong ca đoàn Sistina.

Cha Pavan được đào tạo như một luật sư ở Brazil trước khi theo đuổi ơn gọi linh mục. Năm 1996, ngài được thụ phong linh mục cho Giáo phận Campo Limpo, có trụ sở tại thành phố Campo Limpo Paulista, một thành phố của bang São Paulo.

Dàn hợp xướng nhà nguyện Sistine bao gồm 20 ca sĩ chuyên nghiệp từ khắp nơi trên thế giới, cũng như một phần đông gấp ba gồm 35 cậu bé, tuổi từ 9 đến 13.

Với lịch sử 1,500 năm, Dàn hợp xướng Nhà nguyện Sistina được coi là dàn hợp xướng hoạt động lâu đời nhất trên thế giới.

Cha Massimo Palombella được đánh giá là người có nhiều sáng kiến nổi bật và đã đưa ca đoàn lên một tầm cao mới trong nhiệm kỳ 9 năm của ngài.


Source:Catholic News Agency

2. Chính quyền Palestine có thể phải áp đặt các hạn chế liên quan đến với tổ chức lễ Giáng sinh ở Bethlehem

Bộ Y tế Palestine đã khuyến cáo các giới hạn nghiêm ngặt đối với lễ Giáng sinh ở Bethlehem năm nay do sự bùng phát của coronavirus.

Các lễ kỷ niệm ở thị trấn Bethlem, được Kinh thánh đề cập đến và được các tín hữu Kitô tôn kính vì là nơi sinh của Chúa Giêsu thường có hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới tham dự.

Nhưng năm nay, Bộ Y tế đã khuyến nghị lễ thắp sáng cây thông Noel ở Quảng trường Máng Cỏ chỉ nên giới hạn trong vòng 50 người. Bên cạnh đó, ánh sáng của cây Giáng Sinh và các nhà hàng trong khu vực phải đóng cửa lúc 9 giờ tối trong suốt mùa Giáng sinh. Trong khuyến nghị của mình được công bố vào hôm thứ Bảy, Bộ Y tế cho biết các cử hành phụng vụ có công chúng tham dự vào đêm Giáng sinh cũng nên có số lượng người tham dự hạn chế.

Nền kinh tế của Bethlehem, với đầy khách sạn, cửa hàng quà tặng và nhà hàng, chủ yếu dựa vào mùa Giáng sinh. Việc hủy bỏ hoặc thu nhỏ lại các lễ kỷ niệm sẽ giáng một đòn khác vào một nền kinh tế vốn đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng coronavirus trong năm nay.

Các quan chức Palestine dự kiến sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc tổ chức lễ Giáng sinh trong những ngày tới. Sân bay quốc tế của Israel - điểm nhập cảnh chính của du khách nước ngoài - đã đóng cửa trong nhiều tháng qua, hạn chế nghiêm trọng số lượng khách hành hương.

Khu vực Tây Ngạn cũng đang trong thời kỳ gia tăng các trường hợp nhiễm coronavirus, trong khi Israel chỉ đang mới từ từ mở cửa sau một đợt đóng cửa được áp dụng vào tháng 9 nhằm khống chế sự hoành hành của dịch bệnh. Thị trấn Nazareth ở phía bắc Israel, được các Kitô hữu tôn kính vì là nơi Chúa Giêsu đã trải qua thời thơ ấu của Chúa Giêsu, đã bị chỉ định là một trong các khu vực ‘hạn chế’, trong đó nhà cầm quyền giới hạn gắt gao các di chuyển ra vào khu vực ít nhất trong vài ngày tới.


Source:Crux

3. Các tổ chức bác ái ở Ý tặng mì ống cho Ðức Thánh Cha giúp người nghèo.

Bốn tổ chức bác ái hoạt động tại miền Taranto ở phía nam nước Ý là Stabat Mater Ets, O.D.I., Amic.A và Cantiere Laboratorio - đã tặng cho Ðức Thánh Cha hai tấn mì ống để phân phát cho những “người nghèo mới” do đại dịch coronavirus gây ra.

Ðức Hồng Y Konrad Krajewski, quan phát chẩn của Ðức Thánh Cha, đã được các tổ chức trên liên lạc, và sau đó họ đã quyết định tặng mì ống cho Ðức Thánh Cha, với khẩu hiệu “Mì ống cho người nghèo của Ðức Thánh Cha”.

Các tổ chức tham gia quyên góp cho Ðức Thánh Cha đều có cơ sở ở miền nam nước Ý, nơi tỷ lệ nghèo đói có xu hướng cao hơn phần còn lại của đất nước. Trong nhiều năm, chính miền Taranto đã phải chịu đựng tác động của khủng hoảng kinh tế và xã hội, bao gồm cả tỷ lệ thất nghiệp cao.

Hôm 17 tháng 11, những người đứng đầu mỗi tổ chức đã trao cho Ðức Tổng Giám mục của tổng giáo phận Taranto, Filippo Santoro, gần 500 ký mì ống “Lori Puglia” cho người nghèo trong tổng giáo phận của ngài. Cũng trong cuộc họp đó, họ yêu cầu Ðức Cha Santoro trao thêm phần mì ống cho Ðức Hồng Y Krajewski để ngài có thể phân phát cho người nghèo.

Nói về việc quyên góp, các tổ chức nói “bạn không thể đứng nhìn những người ở cạnh chúng ta đang đau khổ, bạn không thể nhắm mắt và vờ như không có gì xảy ra.”

Ðức Cha Santoro nhận định: “Trong thời điểm đại dịch coronavirus này, thái độ đúng đắn là trách nhiệm và chia sẻ. Và điều này dẫn đến những sáng kiến đáng khen ngợi, bởi vì chúng nhắc lại rằng niềm hy vọng Kitô không đầu hàng trước bất cứ điều gì”.

Theo báo Corriere di Taranto, nghĩa là Tin Chiều Taranto, số hàng sẽ được chi nhánh của công ty Lori Puglia ở thành phố Altamura giao đến cho Ðức Hồng Y vào ngày 5 tháng 12. Công ty là một trong những nhà sản xuất mì ống hàng đầu của Ý, cung cấp hơn 100 loại khác nhau.

Theo tổ chức Caritas quốc tế ở Ý, từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2020, 15% các gia đình bị giảm một nửa hoặc hoàn toàn thu nhập. Các theo dõi cho thấy số người cần được các giáo phận và giáo xứ giúp đỡ đang gia tăng. Ðây là những “người nghèo mới”, nghĩa là lần đầu tiên họ gặp khó khăn kinh tế và cần được giúp đỡ.


Source:CNA