Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
01:01 06/11/2025
43. Đức khiêm tốn là nhận ra địa vị vốn có của mình, là nhìn nhận mình rất đáng khinh dễ.
(Thánh Laurence)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
--------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
01:07 06/11/2025
88. NHỔ LÔNG BÁCH LINH
Người phương bắc gọi chim Bách Xà là chim Bách Linh, nó khôn khéo lanh lợi, các loại âm thanh của chim, loại nào nó cũng đều bắt chước y chang.
Có một thầy giáo rất thích chim Bách Linh, thuê một thằng nhỏ làm công chuyên môn nuôi nó, và thường đem con chim quý đi chơi trên phố. Ngày nọ trời nóng, ông ta cho chim Bách Linh tắm, dặn dò thằng nhỏ làm công:
- “Cẩn thận coi nó, nếu rơi một cái lông thì đánh gảy chân mày đó.”
Nói xong thì đi.
Vợ ông ta muốn thằng đầy tớ đi làm việc, thằng đầy tớ nói:
- “Tiểu nhân không dám bỏ đi, nếu mà chim Bách Linh rơi một cái lông, thì ông chủ sẽ đánh gảy chân tôi”.
Lão gia rất sợ vợ, nên khi nghe đầy tớ nói thì bà đem con chim Bách Linh trong lồng ra, nhổ sạch lông và bỏ vào lại trong lồng. Lão gia trở về, nhìn thấy con chim Bách Linh không còn cái lông nào thì giận dữ nói:
- “Đứa nào nhổ lông nó?”
Tên đầy tớ nhỏ không dám nói, bà vợ lên tiếng:
- “Tôi nhổ đó, ông tính sao đây?”
Lão gia mặt một đống rất tức cười, nói:
- “Nhổ rất giỏi, mát mẻ hơn cả tắm nữa !”
(Hi đàm lục)
Suy tư 88:
Có những ông chồng thích làm tướng làm tá với người ngoài, về nhà thì sợ vợ như sợ cọp cái; có những ông chồng thường hay nạt nộ cấp dưới nịnh hót cấp trên, nhưng vợ trừng mắt một cái thì mặt mày...xanh lè, người ta gọi những ông chồng này là “anh hùng sợ vợ”.
Con chim Bích Linh là loại chim quý, ông thầy giáo thích là phải, nhưng cái thích này đã bị cái hung hăng của bà vợ làm cho tê tái cõi lòng...
Ước gì tất cả mọi người –không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng- đều có ơn kính sợ Thiên Chúa của Đức Chúa Thánh Thần, để dù họ làm tổng thống, làm chủ tịch nước, làm bộ trưởng, hoặc làm bề trên, hoặc có chức quyền trong xã hội, thì đều vì ơn kính sợ này, mà mưu ích lợi cho mọi người, kiến tạo hòa bình cho thế giới, đem bình an cho các thành viên trong cộng đoàn, trở thành mẫu mực cho mọi người...
Mà người Ki-tô hữu thì luôn có ơn Kính Sợ Thiên Chúa này từ khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Người phương bắc gọi chim Bách Xà là chim Bách Linh, nó khôn khéo lanh lợi, các loại âm thanh của chim, loại nào nó cũng đều bắt chước y chang.
Có một thầy giáo rất thích chim Bách Linh, thuê một thằng nhỏ làm công chuyên môn nuôi nó, và thường đem con chim quý đi chơi trên phố. Ngày nọ trời nóng, ông ta cho chim Bách Linh tắm, dặn dò thằng nhỏ làm công:
- “Cẩn thận coi nó, nếu rơi một cái lông thì đánh gảy chân mày đó.”
Nói xong thì đi.
Vợ ông ta muốn thằng đầy tớ đi làm việc, thằng đầy tớ nói:
- “Tiểu nhân không dám bỏ đi, nếu mà chim Bách Linh rơi một cái lông, thì ông chủ sẽ đánh gảy chân tôi”.
Lão gia rất sợ vợ, nên khi nghe đầy tớ nói thì bà đem con chim Bách Linh trong lồng ra, nhổ sạch lông và bỏ vào lại trong lồng. Lão gia trở về, nhìn thấy con chim Bách Linh không còn cái lông nào thì giận dữ nói:
- “Đứa nào nhổ lông nó?”
Tên đầy tớ nhỏ không dám nói, bà vợ lên tiếng:
- “Tôi nhổ đó, ông tính sao đây?”
Lão gia mặt một đống rất tức cười, nói:
- “Nhổ rất giỏi, mát mẻ hơn cả tắm nữa !”
(Hi đàm lục)
Suy tư 88:
Có những ông chồng thích làm tướng làm tá với người ngoài, về nhà thì sợ vợ như sợ cọp cái; có những ông chồng thường hay nạt nộ cấp dưới nịnh hót cấp trên, nhưng vợ trừng mắt một cái thì mặt mày...xanh lè, người ta gọi những ông chồng này là “anh hùng sợ vợ”.
Con chim Bích Linh là loại chim quý, ông thầy giáo thích là phải, nhưng cái thích này đã bị cái hung hăng của bà vợ làm cho tê tái cõi lòng...
Ước gì tất cả mọi người –không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng- đều có ơn kính sợ Thiên Chúa của Đức Chúa Thánh Thần, để dù họ làm tổng thống, làm chủ tịch nước, làm bộ trưởng, hoặc làm bề trên, hoặc có chức quyền trong xã hội, thì đều vì ơn kính sợ này, mà mưu ích lợi cho mọi người, kiến tạo hòa bình cho thế giới, đem bình an cho các thành viên trong cộng đoàn, trở thành mẫu mực cho mọi người...
Mà người Ki-tô hữu thì luôn có ơn Kính Sợ Thiên Chúa này từ khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
ĐẤNG BIẾT TỎNG
Lm. Dominic Minh Anh
17:34 06/11/2025
ĐẤNG BIẾT TỎNG
“Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?”.
“Những gì tôi có thể làm, là những gì tôi phải làm! Những gì tôi phải làm, nhờ ơn Chúa, tôi sẽ làm! Và tôi ước không bao giờ phải nghe Ngài phàn nàn, ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?’” - Edward Hale.
Kính thưa Anh Chị em,
“Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?”. Đây là nghi vấn ông Chủ dành cho người quản gia và cho cả chúng ta hôm nay. Thực ra, Thiên Chúa không cần ‘nghe’ gì về một ai, vì Ngài là ‘Đấng biết tỏng!’.
Chúa biết hết mọi sự! Tuy nhiên, khi xem lại hồ sơ cuộc sống mỗi người, rất có thể Ngài vẫn hỏi như thế - không để kết án, mà để đánh động - hầu mời chúng ta nhìn lại mình dưới ánh sáng của tình yêu. Chắc hẳn, không ai có thể đứng vững trước ánh nhìn của Chúa và sẽ không có một ‘thủ thuật lươn khươn’ nào trước Ngài! Liệu bạn và tôi có bị buộc tội là ‘phung phí’ ân sủng, ‘hoang phí’ thời gian và ‘lãng phí’ cơ hội? Những gì Chúa ban - đức tin, Lời Chúa, các Bí tích, gương thánh nhân, tài năng, của cải - liệu chúng ta là những kẻ ‘hoài của?’. “Sự xấu hổ trước mặt Thiên Chúa chính là chuyển động đầu tiên của ân sủng!” - Jean Vanier.
Như người quản gia, chúng ta được chất vấn; như anh ta, bạn và tôi có dám đánh cược vào ‘canh bạc xót thương’ của Đấng vừa biết hết, vừa tha hết? Khiêm tốn nhìn nhận và bắt đầu lại, khẩn xin ơn tha thứ để sống liêm chính, xa lánh tinh thần thế tục... là những gì thật cấp thiết. Ước gì như Phaolô, chúng ta có thể nói một cách an lòng khi nhìn lại, “Trong Đức Kitô Giêsu, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa!” - bài đọc một - và có thể xác tín, qua chúng ta, “Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Lời Chúa cảnh báo mỗi người chúng ta về ‘thói thời thượng thiêng liêng’ vốn có thể len lỏi vào đời sống mọi đấng bậc. ‘Thói thời thượng thiêng liêng’ đó bộc lộ qua thái độ tham nhũng quyền lực, khoe mẽ chức danh, trí tráo ngôn từ, vay mượn tri thức… vốn sẽ kiến tạo một nhân cách ‘nghèo’ - nhân bản, tu đức, thần học - một bản ngã ‘cùn’ mà sớm muộn thiên hạ đều biết tỏng. Con đường ấy chỉ dẫn đến những ngõ cụt, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. “Quyền lực, nếu không được lương tâm chế ngự, sẽ ăn mòn linh hồn trước khi làm hư thế giới!” - C.S. Lewis.
Anh Chị em,
“Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?”, câu hỏi của Chủ dạy chúng ta khiêm tốn, biết xấu hổ và thống hối. Ai nhận ra mình ‘được biết’ từ trong ra ngoài mà vẫn được yêu, người ấy không thể coi thường người khác. Chính từ đó, chúng ta học biết thế nào là phải hoán cải. Chỉ khi nhìn tha nhân bằng ánh mắt của ‘Đấng biết tỏng’, chúng ta mới biết thế nào là yêu trong sự thật và khiêm tốn chu toàn mọi sự trong sự thật. “Thật là một nỗi hổ thẹn diễm phúc khi con người cảm thấy sức nặng của ‘sự thật chính mình’ trước mặt Thiên Chúa!” - Henry Newman.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cám ơn Chúa đã không công bố bản “tổng kết quản lý” của con cho thiên hạ, vì nếu như thế, có lẽ con sẽ phải rao bán cả linh hồn để bịt miệng thế gian!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
“Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?”.
“Những gì tôi có thể làm, là những gì tôi phải làm! Những gì tôi phải làm, nhờ ơn Chúa, tôi sẽ làm! Và tôi ước không bao giờ phải nghe Ngài phàn nàn, ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?’” - Edward Hale.
Kính thưa Anh Chị em,
“Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?”. Đây là nghi vấn ông Chủ dành cho người quản gia và cho cả chúng ta hôm nay. Thực ra, Thiên Chúa không cần ‘nghe’ gì về một ai, vì Ngài là ‘Đấng biết tỏng!’.
Chúa biết hết mọi sự! Tuy nhiên, khi xem lại hồ sơ cuộc sống mỗi người, rất có thể Ngài vẫn hỏi như thế - không để kết án, mà để đánh động - hầu mời chúng ta nhìn lại mình dưới ánh sáng của tình yêu. Chắc hẳn, không ai có thể đứng vững trước ánh nhìn của Chúa và sẽ không có một ‘thủ thuật lươn khươn’ nào trước Ngài! Liệu bạn và tôi có bị buộc tội là ‘phung phí’ ân sủng, ‘hoang phí’ thời gian và ‘lãng phí’ cơ hội? Những gì Chúa ban - đức tin, Lời Chúa, các Bí tích, gương thánh nhân, tài năng, của cải - liệu chúng ta là những kẻ ‘hoài của?’. “Sự xấu hổ trước mặt Thiên Chúa chính là chuyển động đầu tiên của ân sủng!” - Jean Vanier.
Như người quản gia, chúng ta được chất vấn; như anh ta, bạn và tôi có dám đánh cược vào ‘canh bạc xót thương’ của Đấng vừa biết hết, vừa tha hết? Khiêm tốn nhìn nhận và bắt đầu lại, khẩn xin ơn tha thứ để sống liêm chính, xa lánh tinh thần thế tục... là những gì thật cấp thiết. Ước gì như Phaolô, chúng ta có thể nói một cách an lòng khi nhìn lại, “Trong Đức Kitô Giêsu, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa!” - bài đọc một - và có thể xác tín, qua chúng ta, “Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Lời Chúa cảnh báo mỗi người chúng ta về ‘thói thời thượng thiêng liêng’ vốn có thể len lỏi vào đời sống mọi đấng bậc. ‘Thói thời thượng thiêng liêng’ đó bộc lộ qua thái độ tham nhũng quyền lực, khoe mẽ chức danh, trí tráo ngôn từ, vay mượn tri thức… vốn sẽ kiến tạo một nhân cách ‘nghèo’ - nhân bản, tu đức, thần học - một bản ngã ‘cùn’ mà sớm muộn thiên hạ đều biết tỏng. Con đường ấy chỉ dẫn đến những ngõ cụt, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. “Quyền lực, nếu không được lương tâm chế ngự, sẽ ăn mòn linh hồn trước khi làm hư thế giới!” - C.S. Lewis.
Anh Chị em,
“Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?”, câu hỏi của Chủ dạy chúng ta khiêm tốn, biết xấu hổ và thống hối. Ai nhận ra mình ‘được biết’ từ trong ra ngoài mà vẫn được yêu, người ấy không thể coi thường người khác. Chính từ đó, chúng ta học biết thế nào là phải hoán cải. Chỉ khi nhìn tha nhân bằng ánh mắt của ‘Đấng biết tỏng’, chúng ta mới biết thế nào là yêu trong sự thật và khiêm tốn chu toàn mọi sự trong sự thật. “Thật là một nỗi hổ thẹn diễm phúc khi con người cảm thấy sức nặng của ‘sự thật chính mình’ trước mặt Thiên Chúa!” - Henry Newman.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cám ơn Chúa đã không công bố bản “tổng kết quản lý” của con cho thiên hạ, vì nếu như thế, có lẽ con sẽ phải rao bán cả linh hồn để bịt miệng thế gian!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Nguyên văn Văn kiện Mater Populi Fidelis của Bộ Giáo lý Đức tin
Vũ Văn An
01:36 06/11/2025
BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
Ghi chú Giáo lý về Một số Tước hiệu của Đức Mẹ
Về Sự Hợp Tác của Đức Maria trong Công trình Cứu Độ
Trình bầy
Ghi chú này đáp lại khá nhiều yêu cầu và đề xuất đã được gửi đến Tòa Thánh trong những thập niên gần đây, đặc biệt Bộ này, liên quan đến các vấn đề về lòng sùng kính Đức Mẹ và một số tước hiệu Đức Mẹ. Đây là những vấn đề mà các Đức Giáo Hoàng gần đây quan tâm và đã được đề cập nhiều lần trong ba mươi năm qua trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau của Bộ, chẳng hạn như các Đại hội và Hội nghị Thường kỳ. Điều này cho phép Bộ biên soạn một khối lượng tài liệu phong phú và dồi dào, nuôi dưỡng suy tư này.
Trong khi minh xác ý nghĩa của một số tước hiệu và cách diễn đạt liên quan đến Đức Mẹ, bản văn này cũng nhằm thâm hậu nền tảng đúng đắn của lòng sùng kính Đức Mẹ bằng cách nêu rõ vị trí của Đức Maria trong mối tương quan của Mẹ với các tín hữu dưới ánh sáng Mầu nhiệm Chúa Kitô như Đấng Trung Gian và Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Điều này đòi hỏi một lòng trung thành sâu sắc với bản sắc Công Giáo, đồng thời cũng đòi hỏi một nỗ lực đại kết đặc biệt.
Chủ đề trung tâm xuyên suốt tất cả các trang này là tình mẫu tử của Đức Maria đối với các tín hữu. Chủ đề này xuất hiện nhiều lần trong văn kiện, với những tuyên bố được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, mỗi lần đều có những xem xét mới, làm phong phú và hoàn thiện chúng theo một vòng xoáy ốc.
Lòng sùng kính Thánh Mẫu, mà tình mẫu tử của Đức Maria tạo ra, được trình bày ở đây như một kho tàng của Giáo hội. Lòng sùng kính của dân trung thành của Thiên Chúa– những người tìm thấy ở Đức Maria nơi nương náu, sức mạnh, sự dịu dàng và hy vọng – không được suy gẫm ở đây để sửa chữa nó, nhưng trên hết, để trân trọng, ngưỡng mộ và khuyến khích nó. Bởi vì lòng sùng kính này là một biểu thức đầy huyền nhiệm và tượng trưng của một thái độ tin tưởng vào Chúa theo tinh thần Tin Mừng, được Chúa Thánh Thần tự do khơi dậy trong các tín hữu. Thực thế, người nghèo “cũng tìm thấy tình yêu thương và lòng trìu mến của Thiên Chúa nơi khuôn mặt Đức Maria. Nơi Mẹ, họ thấy phản chiếu thông điệp cốt lõi của Tin mừng.” [1]
Tuy nhiên, có một số nhóm suy tư về Đức Mẹ, các ấn phẩm, các chương trình sùng kính mới, và thậm chí cả những yêu cầu về tín điều Thánh Mẫu không có cùng đặc điểm với lòng sùng kính bình dân. Thay vào đó, tựu chung, họ đề xuất một sự phát triển tín điều đặc thù và lên tiếng một cách mạnh mẽ thông qua mạng xã hội, thường gây hoang mang cho các tín hữu bình thường. Đôi khi, những sáng kiến này thậm chí còn bao gồm việc diễn giải lại các cách diễn đạt đã được sử dụng trong quá khứ với nhiều ý nghĩa khác nhau. Tài liệu này xem xét những đề xuất như vậy để cho thấy một số người đáp ứng lòng sùng kính Đức Mẹ một cách chân chính ra sao nhờ được gợi hứng từ Tin mừng, và những người khác nên tránh chúng ra sao vì chúng không thúc đẩy việc chiêm niệm đúng đắn sự hài hòa của toàn bộ sứ điệp Kitô giáo.
Hơn nữa, nhiều đoạn trong Ghi chú này cung cấp một sự phát triển Kinh Thánh rộng lớn để cho thấy lòng sùng kính Thánh Mẫu chân chính không chỉ được tìm thấy trong Truyền thống phong phú của Giáo hội mà còn trong Kinh Thánh. Dấu ấn Kinh Thánh nổi bật của văn kiện này được đi kèm với các bản văn của các Giáo phụ và Tiến sĩ Hội thánh, cũng như của các vị Giáo hoàng gần đây. Do đó, thay vì đề xuất những giới hạn, Ghi chú này tìm cách đồng hành và duy trì tình yêu của Đức Maria và niềm tin vào sự chuyển cầu của Mẹ.
Hồng Y Victor Manuel Fernández
Bộ trưởng
[1] Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Đại hội đồng lần thứ V của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Văn kiện Kết luận (Aparecida, 13-31 tháng 5 năm 2007), đoạn 265. Được trích dẫn trong đoạn 78 của Ghi chú này.
Dẫn nhập
27. [Mater Populi Fidelis] Mẹ của Dân Trung thành [1] được các Kitô hữu nhìn với lòng trìu mến và ngưỡng mộ bởi vì, nhờ ân sủng làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô, Đức Maria là biểu thức hoàn hảo nhất của hành động Chúa Kitô biến đổi nhân tính của chúng ta. Mẹ là biểu hiện nữ tính của tất cả những gì ân sủng Chúa Kitô có thể thực hiện được nơi một con người. Trước vẻ đẹp ấy và được tình yêu thương lay động, trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều tín hữu đã tìm cách dùng những lời lẽ mỹ miều nhất để ca ngợi vị trí đặc biệt của Mẹ bên Chúa Kitô.
2. Gần đây, Thánh Bộ này đã công bố các Quy tắc Tiến hành Phân định các Hiện tượng Được cho là Siêu nhiên.[2] Một số danh xưng[3] và biểu thức thường được sử dụng để chỉ Đức Trinh Nữ Maria liên quan đến những hiện tượng này. Tuy nhiên, những danh xưng này — một số đã xuất hiện trong các tác phẩm của các Giáo phụ — không phải lúc nào cũng được sử dụng chính xác, và ý nghĩa của chúng đôi khi bị thay đổi hoặc hiểu sai. Ngoài các vấn đề về thuật ngữ, một số danh xưng còn gây ra những khó khăn đáng kể về nội dung vì chúng thường có nguy cơ dẫn đến sự hiểu lầm về vai trò của Đức Maria, điều này gây ra những hậu quả nghiêm trọng ở các bình diện Kitô học, Giáo hội học[4] và nhân học[5].
3. Vấn đề chính trong việc giải thích những danh hiệu đó khi áp dụng cho Đức Trinh Nữ Maria là làm thế nào để hiểu mối liên hệ của ngài với công trình cứu chuộc của Chúa Kitô — tức là, “đâu là ý nghĩa của sự hợp tác độc đáo của Đức Maria trong kế hoạch cứu rỗi?” [7] Tài liệu này, không có ý định bao quát hay trình bày cặn kẽ, nhưng tìm cách duy trì sự cân bằng cần thiết phải được thiết lập trong các mầu nhiệm Kitô giáo giữa sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô và sự cộng tác của Đức Maria trong công trình cứu độ, và tìm cách cho thấy điều này được thể hiện như thế nào qua các tước hiệu khác nhau của Đức Maria.
Sự Cộng Tác của Đức Maria trong Công Trình Cứu Độ
4. Theo truyền thống, sự cộng tác của Đức Maria trong công trình cứu độ được tiếp cận từ hai góc nhìn: sự tham gia của ngài vào công trình cứu chuộc khách quan mà Chúa Kitô đã hoàn thành trong cuộc đời trần thế của Người — đặc biệt là trong Mầu Nhiệm Vượt Qua — và ảnh hưởng mà ngài hiện đang có đối với những người đã được cứu chuộc. Thật vậy, hai vấn đề này có liên quan với nhau và không thể được xem xét tách biệt nhau.
5. Sự tham gia của Đức Maria vào công trình cứu độ của Chúa Kitô được chứng thực trong Kinh Thánh, trình bày biến cố cứu độ được hoàn thành nơi Chúa Giêsu Kitô như một lời hứa trong Cựu Ước và như một sự ứng nghiệm trong Tân Ước. Đức Maria được báo trước trong sách Sáng Thế 3:15 bởi vì ngài là người phụ nữ được chia sẻ chiến thắng cuối cùng trên con rắn. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu gọi Đức Maria là “Người Đàn Bà [Woman]” trên đồi Can-va-ri-ô (Ga 19:26). Tương tự như vậy, tại Cana, Người gọi ngài là “Người Đàn Bà” (Ga 2:4), ám chỉ Đức Maria và vai trò của ngài, cùng với Người, trong “giờ” Thập Giá.
6. Trong “giờ” đó, sự hợp tác của Đức Maria xuất hiện khi ngài lặp lại lời “Xin Vâng” của biến cố Truyền Tin. Trong khoảnh khắc thiêng liêng đó, Tin mừng chuyển từ việc đặt trên môi Chúa Giêsu từ “Người Đàn Bà” (Ga 19:26) sang việc trình bầy ngài như “Mẹ” (Ga 19:27). Khi Tin mừng giải thích rằng, để đáp lại, người môn đệ (đại diện cho tất cả chúng ta) đã đón nhận ngài, Tin mừng sử dụng một động từ (lambanō), trong Tin mừng này, mang nghĩa “đón nhận” vì đức tin (x. Ga 1:11-12; 5:43; và 13:20). Tin mừng thứ tư sử dụng cùng động từ này để diễn tả việc Ánh Sáng đã đến với những người thuộc về Người, nhưng họ đã không “đón nhận” Người (Ga 1:11). Nói cách khác, người môn đệ thay thế chúng ta bên cạnh Đức Maria đã đón nhận Mẹ như một người mẹ trong đức tin. Chỉ sau khi trao phó chúng ta cho Đức Maria làm mẹ, Chúa Giêsu mới thừa nhận rằng “mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:28). Sự ám chỉ long trọng này về sự hoàn tất ngăn chặn mọi diễn giải hời hợt về sự kiện này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với chúng ta là một phần của sự hoàn tất kế hoạch thần linh, được thực hiện trong Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô. Tương tự như vậy, Sách Khải Huyền trình bày “Người Đàn Bà” (Kh 12:1) là mẹ của Đấng Mê-xi-a (x. Kh 12:5) và là mẹ của “những người con khác của bà” (Kh 12:17).
7. Cần nhớ rằng Đức Maria thành Na-da-rét có thể được coi là “nhân chứng đặc ân”[8] của các biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu[9] xuất hiện trong các sách Tin mừng (x. Lc 1-2; Mt 1-2). Trong lời tựa của Tin mừng, Luca thông báo cho độc giả rằng “vì nhiều người đã bắt tay vào việc biên soạn một trình thuật về những điều đã được thực hiện giữa chúng ta, đúng như những người đã chứng kiến từ ban đầu đã truyền lại cho chúng ta”, nên ngài cũng quyết định “điều tra lại mọi sự một cách chính xác” (Lc 1:1-3). Trong số những nhân chứng đó, Đức Maria nổi bật như là nhân vật chính trực tiếp trong việc thụ thai, sinh ra và thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Điều tương tự cũng có thể nói về các tường thuật về Cuộc Khổ Nạn, vì Đức Maria “đứng gần thập giá Chúa Giêsu” với tư cách là “mẹ Người” (Ga 19:25), và cũng nói về giai đoạn trước Lễ Ngũ Tuần, khi các Tông đồ “chuyên tâm cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu” (Cv 1:14).
8. Tin mừng Luca trình bày Đức Maria như “Con Gái Xion” mới, người đón nhận và truyền lại niềm vui cứu độ. Luca thu thập những lời hứa tiên tri báo trước niềm vui cứu thế (x. Xp 3:14-17; Dcr 9:9). Nơi Đức Maria, những lời hứa đó được ứng nghiệm, khiến Gioan Tẩy Giả nhảy mừng (x. Lc 1:41). Bà Êlisabét tự nhận mình không xứng đáng được Đức Maria viếng thăm, bà nói: “Tôi là ai mà Mẹ Chúa tôi đến với tôi?” (Lc 1:43). Bà không nói: “Tôi là ai mà Chúa tôi đến với tôi?” nhưng đề cập trực tiếp đến người mẹ, qua đó chỉ ra mối liên hệ không thể tách rời giữa sứ mệnh của Chúa Kitô và sứ mệnh của Đức Maria. Bà Êlisabét nói đầy tràn Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,41), do đó thái độ của bà đối với Đức Maria được trình bày như một mẫu gương về đức tin. Sau đó, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, bà Êlisabét nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang được chúc phúc!” (Lc 1,42). Điều đáng chú ý là, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, việc bà gọi Chúa Giêsu là “có phúc” là chưa đủ; bà cũng gọi mẹ của Người là “có phúc”, nhận thức rằng họ đã kết hợp mật thiết trong khoảnh khắc vui mừng của Đấng Thiên Sai này. Ở đây, Đức Maria xuất hiện như một người được chúc phúc một cách trổi vượt: “Phúc cho em là người đã tin” (Lc 1,45); “thần trí tôi vui mừng” (Lc 1,47); “mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1,48). Mô tả này càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta lưu ý rằng, trong Tin mừng Luca, phúc lành này không được xem như một trạng thái tinh thần mà là sự ứng nghiệm lời hứa về Đấng Mê-xi-a giữa những người bé nhỏ (x. Lc 6:20-22), những người sẽ nhận được “phần thưởng lớn lao” (Lc 6:23).
9. Về sự phát triển thần học của những chủ đề này trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, các Giáo phụ chủ yếu quan tâm đến chức làm mẹ thần linh của Đức Maria (Theotokos), sự đồng trinh trọn đời (Aeiparthenos), sự thánh thiện hoàn hảo của Đức Maria như một người không hề vướng bận tội lỗi suốt cuộc đời (Panagia), và vai trò của Đức Maria là Evà Mới,[10] suy tư về sự liên kết của Đức Maria với Công trình Cứu chuộc của Chúa Kitô trong bối cảnh mầu nhiệm Nhập thể. Lời “Xin Vâng” của Đức Maria với sứ điệp của sứ thần Gabrien – để Ngôi Lời Thiên Chúa có thể trở nên xác phàm trong cung lòng Mẹ (x. Lc 1,26-37) – mở ra cho nhân loại khả thể thần hóa. Vì lý do này, Thánh Augustinô gọi Đức Trinh Nữ là “người cộng tác” vào Công trình Cứu chuộc của Chúa Kitô, qua đó nhấn mạnh cả hành động của Đức Maria bên cạnh Chúa Kitô cũng như sự tùng phục của Mẹ đối với Người, vì Đức Maria cộng tác với Chúa Kitô để “các tín hữu có thể được sinh ra trong Giáo hội.”[11] Vì lý do này, chúng ta có thể gọi Mẹ là Mẹ của Dân Trung thành của Thiên Chúa.
10. Trong thiên niên kỷ đầu tiên, việc suy tư về Đức Trinh Nữ Maria trong Giáo hội không thể tách rời khỏi phụng vụ. Sự đa dạng to lớn và phong phú của các truyền thống phụng vụ Kitô giáo Đông phương đã tìm cách trở thành tiếng vang trung thành của Kinh Thánh, các Công đồng và các Giáo phụ. Lex orandi, sau này phát triển thành lex credendi, đã định hình nên Thánh mẫu học Đông phương thông qua nghệ thuật thánh ca, nghệ thuật biểu tượng và lòng đạo đức bình dân.[12] Ví dụ, bắt đầu từ thế kỷ thứ năm, các lễ kính Đức Mẹ Maria đầu tiên được thiết lập ở Đông phương và sau đó, bắt đầu từ thế kỷ thứ bảy, lan sang phương Tây. Các Giáo hội Đông phương tưởng niệm sự tham gia của Mẹ Thiên Chúa vào công trình cứu độ không chỉ trong các kinh anaphora và phụng vụ Thánh Thể mà trên hết, thông qua các bản văn thánh ca được sử dụng trong các Giờ kinh chính thức của họ, hiện diện trong các truyền thống phụng vụ khác nhau của Kitô giáo Đông phương. Tuyển tập thánh ca của họ đầy rẫy những sáng tác dành riêng cho Đức Maria, với những ẩn dụ Kinh Thánh,[13] cho phép đào sâu hơn vào mầu nhiệm Nhập Thể và ý nghĩa của mầu nhiệm này đối với ơn cứu chuộc của chúng ta trong Chúa Kitô. Những thánh ca này sử dụng ngôn ngữ đầy tính biểu tượng thi ca, có khả năng truyền tải sự kinh ngạc và thán phục của những ai – mang cùng bản tính với Đức Maria – chiêm ngưỡng những kỳ công mà Đấng Toàn Năng đã thực hiện nơi Mẹ.[14]
11. Giáo huấn của các Công đồng Chung đầu tiên bắt đầu phác họa tín điều về Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, sau này được công bố tại Công đồng Êphêsô. Kitô giáo Đông phương luôn duy trì các tín điều được xác định bởi các công đồng đầu tiên này, ít nhất là trong số các Giáo hội đã chấp nhận Công đồng Êphêsô và Can-xê-đoan. Đồng thời, trong các truyền thống phụng vụ, thánh ca và biểu tượng của mình, Kitô giáo Đông phương đã tiếp nhận những câu chuyện và truyền thuyết phổ biến về Đức Maria về thời thơ ấu và cái chết của Chúa Giêsu. Những tường thuật như vậy tìm cách nuôi dưỡng lòng đạo đức của dân Chúa bằng cách cất lên tiếng nói trữ tình của những hình ảnh thi ca, với mục đích duy nhất là khơi dậy sự kinh ngạc. Lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa này cũng được thể hiện qua nghệ thuật ảnh tượng, cung cấp hình ảnh mô tả về Đức Maria và Ngôi Lời Nhập Thể. Điều đáng chú ý là các ảnh tượng truyền thống của những Giáo hội này — có liên hệ với các Công đồng Êphêsô và Can-xê-đoan — chủ yếu miêu tả Đức Maria là “Theotokos” (“Mẹ Thiên Chúa”).[15] Các ảnh tượng thuộc loại này được tạo ra để chiêm ngưỡng Đức Trinh Nữ Maria, người trình diện Con mình, Chúa Giêsu Hài Đồng, cho thế giới và ôm lấy Người trong khi cũng cầu bầu cho nhân loại trước Người. Do đó, nghệ thuật ảnh tượng Đức Maria Đông phương, như một giáo lý sơ truyền [kerygma] và lời nhắc nhở trực quan đầy màu sắc về thần học của các Công đồng sơ khai và các Giáo phụ, tìm cách trở thành bản dịch trực quan của các tước hiệu được áp dụng riêng cho Đức Trinh Nữ.[16] Vì lý do này, các ảnh tượng phải được “đọc” dưới ánh sáng của phụng vụ và các thánh ca của Giáo hội. Đức Maria không phải là đối tượng của lòng sùng kính được đặt cạnh Chúa Kitô, nhưng Mẹ được đưa vào mầu nhiệm Chúa Kitô qua mầu nhiệm Nhập Thể.[17] Mẹ là ảnh tượng trong đó Chúa Kitô được tôn kính. Mẹ là Theotokos, Đức Mẹ Đồng Trinh, Đấng trao ban Con mình, Chúa Giêsu Kitô, cho chúng ta. Đồng thời, Mẹ cũng là Odēgētria, Đấng dùng tay chỉ cho chúng ta Con Đường duy nhất, đó là Chúa Kitô.
12. Bắt đầu từ thế kỷ XII, thần học phương Tây[18] đã hướng sự chú ý đến mối tương quan gắn kết Đức Mẹ Đồng Trinh với mầu nhiệm Cứu Chuộc đẫm máu của Chúa Kitô trên đồi Can-va-ri-ô, liên kết lời tiên tri của Si-mê-ong về lưỡi gươm với Thập Giá của Chúa Kitô. Sự hiện diện của Đức Maria dưới chân Thập Giá được xem là dấu chỉ của lòng kiên cường Kitô giáo, tràn đầy tình mẫu tử. Thánh Ber-na-đô thành Clairvaux đã nói về sự cộng tác của Đức Mẹ vào hy lễ cứu chuộc khi bình luận về việc Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ.[19] Arnold, một người bạn của Thánh Ber-na-đô và là viện phụ dòng Biển Đức ở Bonneval (sau năm 1159), là người đầu tiên xem xét sự hợp tác của Đức Maria với hy lễ trên đồi Can-va-ri-ô, đứng cạnh Con của Mẹ, Chúa Giêsu Kitô.[20]
13. Sự hợp tác của Đức Mẹ với Con của Mẹ trong công trình Cứu Độ đã được Huấn quyền Giáo hội dạy.[21] Như Công đồng Vatican II tuyên bố, “vì vậy, các Giáo phụ thánh thiện đã đúng khi nhìn Đức Maria không chỉ là một dụng cụ thụ động trong tay Thiên Chúa, mà còn là người tự do cộng tác vào công trình cứu độ nhân loại qua đức tin và sự vâng phục.” [22] Sự cộng tác này không chỉ hiện diện trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu (khi thụ thai, sinh ra, tử nạn và Phục sinh) mà còn trong suốt cuộc đời của Giáo hội.
14. Tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội làm nổi bật tính ưu việt và duy nhất của Chúa Kitô trong công trình Cứu Chuộc, vì tín điều này dạy rằng Đức Maria – người đầu tiên được cứu chuộc – đã được Chúa Kitô cứu chuộc và được Chúa Thánh Thần biến đổi, trước bất cứ hành động nào có thể xảy ra của chính mình.[23] Từ điều kiện đặc biệt này là người đầu tiên được Chúa Kitô cứu chuộc và người đầu tiên được Chúa Thánh Thần biến đổi, Đức Maria có thể cộng tác mạnh mẽ và sâu sắc hơn với Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần, trở thành nguyên mẫu,[24] khuôn mẫu và tấm gương cho những gì Thiên Chúa muốn thực hiện nơi mỗi người được cứu chuộc.[25]
15. Sự cộng tác của Đức Maria vào công trình cứu độ mang cấu trúc Ba Ngôi, vì đó là hoa trái sáng kiến của Chúa Cha, Đấng “đã đoái nhìn đến phận hèn của nữ tỳ Người” (Lc 1,48); nó phát xuất từ sự tự hủy của Chúa Con, Đấng đã hạ mình xuống mặc lấy thân phận tôi tớ (x. Pl 2,7-8); và đó là hiệu quả của ân sủng Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,28.30), Đấng đã chuẩn bị tâm hồn người thiếu nữ thành Na-da-rét để đáp lại lời Truyền Tin và trong suốt cuộc đời hiệp thông với Chúa Con. Thánh Phaolô VI dạy rằng “nơi Đức Trinh Nữ Maria, mọi sự đều quy chiếu về Chúa Kitô và tùy thuộc vào Người. Chính vì hướng về Chúa Kitô mà Thiên Chúa Cha, từ muôn đời, đã chọn Mẹ làm Mẹ thánh thiện và trang điểm cho Mẹ bằng những hồng ân của Chúa Thánh Thần mà không ai khác có thể ban cho Mẹ.”[26] Lời “Xin Vâng” của Đức Maria không chỉ là một điều kiện tiên quyết cho một điều gì đó có thể được thực hiện mà không cần sự đồng ý và hợp tác của Mẹ. Chức làm mẹ của Mẹ không chỉ mang tính sinh học, cũng không thụ động về bản chất,[27] mà là một chức làm mẹ “hoàn toàn chủ động”[28], được kết hợp với mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô như một khí cụ mà Chúa Cha đã muốn trong kế hoạch cứu độ của Người. Mẹ là “bảo chứng cho thấy Người thực sự là người, ‘sinh ra bởi một người nữ’ (Gl 4:4)” và, sau khi tín điều Ni-xê-a được công bố, Mẹ cũng được nhìn nhận như là “Theotokos, Đấng cưu mang Thiên Chúa.”[29]
Những danh xưng ám chỉ sự cộng tác của Đức Maria trong công trình cứu độ
16. Trong số những danh xưng được dùng để kêu cầu Đức Maria (“Mẹ của Lòng Thương Xót,” “Niềm Hy Vọng của Người Nghèo,” “Phù Hộ các Kitô Hữu,” “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp,” “Đấng Bào Chữa cho chúng ta,” v.v.), có một số danh xưng nhấn mạnh hơn đến sự cộng tác của Mẹ vào công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, chẳng hạn như “Đồng Công Cứu Chuộc” và “Đấng Trung Gian.”
Đồng Công Cứu Chuộc
17. Danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc” xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỷ XV như một sự sửa đổi cho lời cầu khẩn “Redemptrix” (viết tắt của danh xưng “Mẹ Đấng Cứu Chuộc”), vốn được gán cho Đức Maria từ thế kỷ X. Thánh Ber-na-đô đã dành cho Đức Maria một vai trò dưới chân Thập Giá, từ đó nảy sinh danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc”, xuất hiện lần đầu tiên trong một bài thánh ca khuyết danh từ Salzburg vào thế kỷ XV.[30] Mặc dù danh xưng “Redemptrix” vẫn tồn tại trong suốt thế kỷ XVI và XVII, nhưng nó đã hoàn toàn biến mất vào thế kỷ XVIII, và được thay thế bằng danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc [Coredemptrix]”. Nghiên cứu thần học về sự cộng tác của Đức Maria vào Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô trong nửa đầu thế kỷ XX đã dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về ý nghĩa của danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc”.[31]
18. Một số vị Giáo hoàng đã sử dụng tước hiệu “Đồng Công Cứu Chuộc” mà không giải thích nhiều về ý nghĩa của nó.[32] Nhìn chung, các ngài đã trình bày tước hiệu này theo hai cách chuyên biệt: ám chỉ đến chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria (trong chừng mực ngài, với tư cách là Mẹ, đã làm cho Công trình Cứu Chuộc được Chúa Kitô hoàn thành[33] trở thành khả hữu) hoặc ám chỉ đến sự kết hợp của Mẹ với Chúa Kitô trên Thập Giá cứu chuộc.[34] Công đồng Vatican II đã tránh sử dụng tước hiệu này vì lý do tín lý, mục vụ và đại kết. Thánh Gioan Phaolô II đã gọi Đức Maria là “Đồng Công Cứu Chuộc” ít nhất bảy lần, đặc biệt liên hệ tước hiệu này với giá trị cứu độ của những đau khổ của chúng ta khi chúng được dâng hiến cùng với những đau khổ của Chúa Kitô, Đấng mà Đức Maria được kết hợp đặc biệt trên Thập Giá.[35]
19. Trong phiên họp Thường lệ (Feria) IV ngày 21 tháng 2 năm 1996, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, lúc đó là Tổng Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã được hỏi liệu yêu cầu của phong trào Vox Populi Mariae Mediatrici về việc định nghĩa một tín điều tuyên bố Đức Maria là “Đấng Đồng Cứu Chuộc” hay “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng” có được chấp nhận hay không. Trong ý kiến cá nhân, ngài trả lời: “Phản đối. Ý nghĩa chính xác của những tước hiệu này không rõ ràng, và giáo lý chứa đựng trong đó chưa chín muồi. Một giáo lý được định nghĩa về đức tin thần linh thuộc về Depositum Fidei — tức là thuộc về mặc khải thần linh được truyền đạt trong Kinh Thánh và truyền thống tông đồ. Tuy nhiên, không rõ giáo lý được diễn đạt trong những tước hiệu này hiện diện như thế nào trong Kinh Thánh và truyền thống tông đồ.”[36] Sau đó, vào năm 2002, ngài đã công khai bày tỏ quan điểm phản đối việc sử dụng danh xưng này: “Công thức ‘Đồng Công Cứu Chuộc’ đi quá xa, ra ngoài ngôn ngữ của Kinh Thánh và của các Giáo Phụ, và do đó gây ra nhiều hiểu lầm… Mọi sự đều đến từ Người [Chúa Kitô], như Thư gửi tín hữu Êphêsô và đặc biệt là Thư gửi tín hữu Côlôsê đã cho chúng ta biết; Đức Maria cũng là tất cả những gì Mẹ là nhờ Người. Hạn từ ‘Đồng Công Cứu Chuộc’ sẽ làm lu mờ nguồn gốc này.” Mặc dù Đức Hồng Y Ratzinger không phủ nhận rằng có thể có những ý định tốt và những khía cạnh giá trị trong đề xuất sử dụng danh xưng này, nhưng ngài vẫn cho rằng chúng “đang được diễn đạt sai lầm”. [37]
20. Đức Hồng Y Ratzinger lúc bấy giờ đã nhắc đến Thư gửi tín hữu Ê-phê-sô và Cô-lô-sê, trong đó từ vựng và sức mạnh thần học của các bài thánh ca trình bày vị trí trung tâm cứu chuộc độc đáo của Chúa Con nhập thể theo cách không chừa chỗ cho bất cứ hình thức trung gian nào khác — vì “mọi phước lành thiêng liêng” được ban cho chúng ta “trong Đức Kitô” (Ê-phê-sô 1:3); chúng ta được nhận làm con cái nhờ Người (x. Ê-phê-sô 1:5); trong Người, chúng ta đã được ban ân sủng (x. Ê-phê-sô 1:6); “chúng ta được cứu chuộc nhờ máu Người” (Ê-phê-sô 1:7); và ân sủng của Người đã “được ban tràn đầy cho chúng ta” (Ê-phê-sô 1:8). “Trong Người, chúng ta đã được thừa hưởng gia nghiệp, vì đã được tiền định” (Ê-phê-sô 1:11). Trong Người, “tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa đã vui lòng ngự trị” (Cl 1:19), và vì Người và qua Người, Thiên Chúa đã muốn “hòa giải muôn vật” (Cl 1:20). Lời ca ngợi vị thế độc nhất của Chúa Kitô như vậy mời gọi chúng ta đặt mọi thụ tạo vào một vị thế sẵn sàng đón nhận Người và luôn thận trọng, cung kính mỗi khi đề xuất bất cứ hình thức hợp tác nào với Người trong lãnh vực Cứu Chuộc.
21. Ít nhất ba lần, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bày tỏ sự phản đối rõ ràng việc sử dụng danh hiệu “Đồng Công Cứu Chuộc”; ngài lập luận rằng Đức Maria “không bao giờ muốn chiếm đoạt bất cứ điều gì của Con mình cho riêng mình. Mẹ không bao giờ tự nhận mình là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Không, Mẹ chỉ là một môn đệ.”[38] Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô là hoàn hảo và không cần thêm thắt; do đó, “Đức Mẹ không muốn tước bỏ bất cứ danh hiệu nào của Chúa Giêsu… Mẹ không xin cho mình trở thành một Đấng bán cứu chuộc hay một Đấng đồng cứu chuộc: không. Chỉ có một Đấng Cứu Chuộc, và danh hiệu này không thể bị sao chép.”[39] Chúa Kitô “là Đấng Cứu Chuộc duy nhất; không có Đấng đồng cứu chuộc nào với Chúa Kitô.”[40] Vì “hy lễ Thập Giá, được dâng lên trong tinh thần yêu thương và vâng phục, mang đến sự thỏa mãn dồi dào và vô hạn nhất.”[41] Mặc dù chúng ta có thể mở rộng hiệu quả của nó trên thế giới (x. Cl 1:24), nhưng cả Giáo Hội lẫn Đức Maria đều không thể thay thế hoặc hoàn thiện công trình cứu chuộc của Con Thiên Chúa nhập thể, vốn đã hoàn hảo và không cần thêm thắt.
22. Vì cần phải giải thích vai trò phụ thuộc của Đức Maria đối với Chúa Kitô trong công trình Cứu Chuộc, nên sẽ không thích hợp nếu dùng danh hiệu “Đồng công Cứu Chuộc” để định nghĩa sự hợp tác của Đức Maria. Danh xưng này có nguy cơ làm lu mờ sự trung gian cứu độ độc nhất của Chúa Kitô và do đó có thể tạo ra sự nhầm lẫn và mất cân bằng trong sự hài hòa của các chân lý đức tin Kitô giáo, vì “ngoài Người ra, không có ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ đó mà được cứu độ” (Cv 4,12). Khi một thành ngữ đòi hỏi nhiều giải thích lặp đi lặp lại để tránh đi chệch khỏi ý nghĩa đúng đắn, thì thành ngữ đó không phục vụ cho đức tin của dân Chúa và trở nên vô ích. Trong trường hợp này, thành ngữ “Đồng công cứu chuộc” không giúp tôn vinh Đức Maria là người cộng tác đầu tiên và quan trọng nhất trong công trình Cứu chuộc và ân sủng, vì nó mang nguy cơ làm lu mờ vai trò độc nhất của Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa làm người vì ơn cứu độ của chúng ta, là Đấng duy nhất có khả năng dâng lên Chúa Cha một hy lễ vô giá – mà điều đó cũng sẽ không phải là một vinh dự đích thực cho Mẹ của Người. Thật vậy, với tư cách là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1:38), Đức Maria hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô và yêu cầu chúng ta “hãy làm bất cứ điều gì Người bảo các anh làm” (Ga 2:5).
Đấng Trung Gian
23. Khái niệm trung gian xuất hiện trong các Giáo phụ Đông phương từ thế kỷ thứ sáu. Trong các thế kỷ tiếp theo, Thánh Anrê thành Crete[42], Thánh Germanô thành Constantinople[43] và Thánh Gioan Đamascenô[44] đã sử dụng danh hiệu này với nhiều ý nghĩa khác nhau. Ở phương Tây, thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên hơn từ thế kỷ thứ mười hai, mặc dù nó không được chính thức công nhận là một luận đề giáo lý cho đến thế kỷ thứ mười bảy. Năm 1921, Đức Hồng Y Mercier, Tổng Giám mục Mechelen — với sự hợp tác học thuật của Đại học Công Giáo Louvain và sự hỗ trợ của các giám mục, giáo sĩ và giáo dân Bỉ — đã kiến nghị Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV ban hành một định nghĩa tín lý về sự trung gian phổ quát của Đức Maria. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha đã không chấp thuận yêu cầu này; ngài chỉ chấp thuận một ngày lễ với Thánh lễ riêng và Phụng vụ Đức Maria Trung Gian.[45] Từ đó cho đến năm 1950, nghiên cứu thần học về vấn đề này tiếp tục phát triển cho đến giai đoạn chuẩn bị của Công đồng Vatican II. Công đồng không đưa ra các tuyên bố tín điều[46] nhưng ưu tiên trình bày một tổng hợp sâu rộng “của giáo lý Công Giáo về vị trí dành cho Đức Trinh Nữ Maria trong trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Hội Thánh.”[47]
24. Lời Kinh Thánh về vai trò trung gian độc nhất của Chúa Kitô là lời kết luận chắc chắn. Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất, “vì chỉ có một Thiên Chúa, và chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là con người Đức Kitô Giêsu, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho mọi người” (1 Tm 2:5-6). Hội Thánh đã làm sáng tỏ vị trí độc nhất này của Chúa Kitô dựa trên sự kiện Người là Con Thiên Chúa vĩnh cửu và vô hạn, được kết hợp ngôi vị với nhân tính mà Người đã đảm nhận. Điều này chỉ dành riêng cho nhân tính của Chúa Kitô, và những hệ quả phát sinh từ đó chỉ có thể được áp dụng đúng đắn cho Người. Theo nghĩa chính xác này, vai trò của Ngôi Lời Nhập Thể là độc nhất và duy nhất. Với sự rõ ràng này trong Lời Chúa được mặc khải, cần đặc biệt thận trọng khi áp dụng thuật ngữ “Đấng Trung Gian” cho Đức Maria. Để đối phó với xu hướng mở rộng phạm vi hợp tác của Đức Maria thông qua danh hiệu này, việc xác định phạm vi giá trị cũng như giới hạn của nó là rất hữu ích.
25. Một mặt, chúng ta không thể bỏ qua sự kiện hạn từ “trung gian” thường được sử dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống thường nhật, nơi nó được hiểu đơn giản là sự hợp tác, hỗ trợ hoặc chuyển cầu. Do đó, không thể tránh khỏi việc thuật ngữ này được áp dụng cho Đức Maria theo nghĩa phụ thuộc. Được sử dụng theo cách này, nó không có ý định thêm bất cứ hiệu lực hay sức mạnh nào cho sự trung gian độc nhất của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật.
26. Mặt khác, rõ ràng là Đức Maria đã có một vai trò trung gian thực sự trong việc cho phép Con Thiên Chúa Nhập Thể trong nhân loại chúng ta, vì Đấng Cứu Chuộc sẽ được “sinh ra bởi một người nữ” (Gal 4:4). Trình thuật Truyền Tin cho thấy điều này không chỉ liên quan đến một sự trung gian sinh học vì nó làm nổi bật sự tham gia tích cực của Đức Maria trong việc đặt câu hỏi (x. Lc 1:29, 34) và chấp nhận với một quyết tâm vững chắc: “xin vâng” (Lc 1:38). Lời đáp trả của Đức Maria đã mở ra cánh cổng Cứu Chuộc mà toàn thể nhân loại đã mong đợi và được các thánh mô tả bằng một vở kịch đầy chất thơ.[48] Tại tiệc cưới Cana, Đức Maria cũng hoàn thành vai trò trung gian khi ngài trình bày nhu cầu của đôi tân hôn với Chúa Giêsu (x. Ga 2:3) và hướng dẫn các gia nhân tuân theo chỉ dẫn của Người (x. Ga 2:5).
27. Thuật ngữ của Công đồng Vatican II về sự trung gian chủ yếu ám chỉ Chúa Kitô; đôi khi cũng ám chỉ Đức Maria, nhưng theo một cách rõ ràng là phụ thuộc.[49] Thực tế, Công đồng thích sử dụng một thuật ngữ khác cho Mẹ: một thuật ngữ tập trung vào sự hợp tác[50] hay sự trợ giúp của người mẹ.[51] Giáo huấn của Công đồng đã hình thành rõ ràng quan điểm về sự chuyển cầu của người mẹ, sử dụng các thành ngữ như “sự chuyển cầu đa dạng” và “sự trợ giúp của người mẹ”.[52] Hai khía cạnh này cùng nhau xác định bản chất cụ thể của sự hợp tác của Đức Maria vào hành động của Chúa Kitô qua Chúa Thánh Thần. Nói một cách chính xác, chúng ta không thể nói về bất cứ sự trung gian nào khác trong ân sủng ngoài sự trung gian của Con Thiên Chúa nhập thể.[53] Do đó, chúng ta phải luôn nhớ lại, và không bao giờ được che giấu, niềm xác tín Kitô giáo rằng “phải được tin vững chắc như một yếu tố thường hằng của đức tin Giáo hội” liên quan đến “chân lý của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa và Đấng Cứu Độ duy nhất, qua biến cố nhập thể, tử nạn và phục sinh, đã đưa lịch sử cứu độ đến chỗ viên mãn, và lịch sử ấy đặt nơi Người sự viên mãn và trung tâm của nó.”[54]
Đức Maria trong sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô
28. Đồng thời, chúng ta cần nhớ rằng tính duy nhất [unicity] trong sự trung gian của Chúa Kitô có tính “bao hàm [inclusive]”. Người ban cho chúng ta nhiều hình thức tham gia vào kế hoạch cứu độ của Người, bởi vì, khi hiệp thông với Người, tất cả chúng ta, một cách nào đó, có thể trở thành những người cộng tác với Thiên Chúa và là “trung gian” cho nhau (x. 1 Cr 3,9). Chính nhờ quyền năng vô biên của Chúa Kitô, Người có thể nâng anh chị em mình lên, giúp họ có khả năng cộng tác đích thực vào việc hoàn thành kế hoạch của Người. Công đồng Vatican II khẳng định rằng “sự trung gian duy nhất của Đấng Cứu Chuộc không loại trừ nhưng đúng hơn, tạo nên một sự hợp tác đa dạng, chỉ là sự thông phần vào một nguồn mạch duy nhất.”[55] Vì lý do này, “nội dung của sự trung gian tham gia này cần được đào sâu hơn, nhưng phải luôn nhất quán với nguyên lý trung gian duy nhất của Chúa Kitô.”[56] Thật vậy, Giáo Hội trải dài trong thời gian và thông truyền khắp nơi những hiệu quả của Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô,[57] và Đức Maria giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim của Mẹ Giáo Hội.[58]
29. Sự tham gia của Đức Maria vào công trình của Chúa Kitô trở nên rõ ràng khi chúng ta bắt đầu từ niềm xác tín rằng Chúa Phục Sinh thúc đẩy, biến đổi, và cho phép các tín hữu cộng tác với Người trong công việc của Người. Điều này không xảy ra do sự yếu đuối, bất lực, hay nhu cầu nào đó từ phía Chúa Kitô, nhưng là do quyền năng vinh quang của Người, quyền năng có thể đón nhận chúng ta, một cách rộng lượng và tự do, như những người cộng tác trong công việc của Người. Điều cần nhấn mạnh trong trường hợp này là khi Chúa Kitô cho phép chúng ta đồng hành với Người và — dưới sự thúc đẩy của ân sủng Người — cống hiến hết mình, thì cuối cùng chính quyền năng và lòng thương xót của Người được tôn vinh.
Sinh hoa trái trong Chúa Kitô Vinh Hiển
30. Đoạn văn sau đây đặc biệt soi sáng liên quan đến chủ đề này: “Ai tin vào Ta cũng sẽ làm những việc Ta làm; và họ sẽ làm những việc lớn lao hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:12). Các tín hữu được kết hợp với Chúa Kitô phục sinh, Đấng đã trở về bên hữu Chúa Cha, có thể thực hiện những việc vượt xa những kỳ công mà Chúa Giêsu trần thế đã làm, nhưng luôn luôn nhờ sự kết hợp của họ với Chúa Kitô vinh quang qua đức tin. Điều này được chứng minh, chẳng hạn, qua sự mở rộng kỳ diệu của Hội Thánh sơ khai, khi Đấng Phục Sinh chia sẻ công việc này với Hội Thánh của Người (x. Mc 16:15). Bằng cách này, vinh quang của Chúa Kitô không hề bị suy giảm mà còn được làm cho hiển thị hơn nữa, tự cho thấy mình là một quyền lực có khả năng biến đổi các tín hữu và làm cho họ sinh hoa kết trái cùng với Người.
31. Trong số các Giáo Phụ, ý tưởng này đã được diễn đạt rõ nét trong các bài chú giải của họ về Ga 7:37-39, vì một số người đã giải thích lời hứa của Chúa Kitô về “những dòng nước hằng sống” là ám chỉ đến các tín hữu. Theo cách giải thích này, chính các tín hữu, được biến đổi bởi ân sủng của Chúa Kitô, trở thành nguồn suối cho người khác. Origen giải thích rằng Chúa thực hiện những gì Người đã loan báo trong Gioan 7:38 bằng cách làm cho những dòng nước chảy ra từ chúng ta: “linh hồn con người, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, tự nó có thể chứa đựng và tuôn trào những giếng nước, suối nguồn và sông ngòi.”[59] Thánh Ambrôsiô đã khuyên chúng ta hãy uống từ cạnh sườn mở của Chúa Kitô, “để mạch nước tuôn trào dẫn đến sự sống đời đời có thể tràn ngập trong anh em.”[60] Thánh Tôma Aquinô đã diễn tả điều này bằng cách nói rằng nếu một tín hữu “vội vàng chia sẻ những ân huệ khác nhau đã nhận được từ Thiên Chúa, thì nước hằng sống sẽ tuôn chảy từ trái tim người ấy.”[61]
32. Nếu điều này đúng với mỗi tín hữu – những người mà sự cộng tác với Chúa Kitô ngày càng sinh hoa kết trái đến mức người ấy để mình được biến đổi bởi ân sủng – thì điều này càng phải được khẳng định nơi Đức Maria một cách độc đáo và tối cao biết bao. Bởi vì Mẹ là Đấng “đầy ân sủng” (Lc 1:28) và là Đấng đã nói, mà không hề gây trở ngại cho công trình của Thiên Chúa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa; xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Mẹ là Mẹ đã ban cho thế gian Đấng Cứu Chuộc và Ân Sủng, đã đứng vững dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), chịu đau khổ bên cạnh Con mình và dâng lên nỗi đau của trái tim người mẹ bị lưỡi gươm đâm thâu (x. Lc 2,35). Từ khi Nhập Thể đến thập giá và Phục Sinh, Mẹ đã kết hợp với Chúa Kitô theo cách độc nhất vô nhị và vượt xa bất cứ tín hữu nào khác.
33. Tất cả những điều này không phải do công trạng riêng của Mẹ, nhưng bởi vì công trạng của Chúa Kitô trên Thập Giá đã được áp dụng trọn vẹn cho Mẹ – một cách đặc biệt và tiên báo – để tôn vinh Chúa và Đấng Cứu Độ duy nhất.[62] Cuối cùng, Mẹ là một bài ca ngợi hiệu năng của ân sủng Thiên Chúa, đến nỗi bất cứ sự công nhận nào về vẻ đẹp của Mẹ đều ngay lập tức hướng về sự tôn vinh nguồn mạch nguyên thủy của mọi điều tốt lành: Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự vĩ đại vô song của Đức Maria nằm ở những gì Mẹ đã lãnh nhận và trong sự sẵn sàng tin tưởng của Mẹ để cho Chúa Thánh Thần chiếm hữu mình. Khi chúng ta cố gắng gán cho Mẹ những vai trò tích cực song song với vai trò của Chúa Kitô, chúng ta đang rời xa vẻ đẹp vô song vốn chỉ có ở Mẹ. Cụm từ “sự trung gian tham dự” có thể diễn tả một ý nghĩa chính xác và quý giá về vai trò của Đức Maria, nhưng nếu bị hiểu sai, nó có thể dễ dàng làm lu mờ hoặc thậm chí mâu thuẫn với vai trò đó. Sự trung gian của Chúa Kitô, trong một số khía cạnh có thể là “bao gồm” hoặc được chia sẻ, trong những khía cạnh khác lại là loại trừ và không thể truyền đạt.
Mẹ của các tín hữu
34. Trong trường hợp của Đức Maria, sự trung gian này diễn ra theo cách của một người mẹ,[63] giống như Mẹ đã làm ở Cana[64] và như đã được xác nhận trên thập giá.[65] Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích điều này như sau: “Mẹ là một người Mẹ. Và đây là danh hiệu Mẹ đã nhận được từ Chúa Giêsu, ngay tại đó, vào lúc thập giá (x. Ga 19:26-27). Các con của Mẹ, Mẹ là Mẹ… Mẹ đã nhận được hồng ân làm Mẹ của Người và bổn phận đồng hành với chúng con như Mẹ, làm Mẹ chúng con.”[66]
35. Danh xưng “Mẹ” bắt nguồn từ Kinh Thánh và các Giáo Phụ. Nó được Huấn Quyền trình bày, và nội dung của nó được phát triển dần dần cho đến giáo huấn của Công đồng Vatican II[67] và việc sử dụng thuật ngữ “chức làm mẹ thiêng liêng” trong Thông điệp Redemptoris Mater.[68] Chức làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria bắt nguồn từ chức làm mẹ thể lý của Mẹ đối với Con Thiên Chúa. Bằng việc mang thai Chúa Kitô về mặt thể lý – qua việc Mẹ tự do và tin tưởng chấp nhận sứ mệnh đó – Đức Maria, trong đức tin, cũng đã sinh ra tất cả các Kitô hữu, những chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Nói cách khác, Mẹ đã sinh ra Chúa Kitô toàn thể: Đầu và các chi thể.[69]
36. Sự tham gia của Đức Trinh Nữ Maria, với tư cách là Mẹ, vào cuộc đời của Con Mẹ – từ Nhập Thể đến Thập Giá và Phục Sinh – mang lại một tính chất độc đáo và riêng biệt cho sự cộng tác của Mẹ vào công trình cứu chuộc của Người, đặc biệt đối với Giáo Hội, “khi [Giáo Hội] chiêm ngưỡng tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria đối với tất cả các thành viên của Nhiệm Thể; trong lời cầu khẩn tin tưởng của mình [với Mẹ]; khi Giáo Hội trải nghiệm sự chuyển cầu của Đấng bênh vực và trợ giúp của mình.”[70] Khía cạnh mẫu thân này đặc trưng cho mối tương quan của Đức Trinh Nữ với Chúa Kitô và sự cộng tác của Mẹ trong mọi khoảnh khắc của công trình cứu độ. Trong sứ mệnh làm Mẹ, Đức Maria có một mối tương quan đặc biệt với Đấng Cứu Chuộc và với những người đã được cứu chuộc, trong đó Mẹ là người đầu tiên: “Đức Maria là điển hình [typos, kiểu mẫu] của Giáo Hội và của sự tái sinh diễn ra trong Giáo Hội”; thực vậy, Mẹ là biểu tượng và “hình ảnh thu nhỏ của chính Giáo Hội”.[71] Chức làm mẹ này được sinh ra từ sự hiến thân trọn vẹn của Mẹ và ơn gọi trở thành người phục vụ mầu nhiệm.[72] Trong chức làm mẹ của Đức Maria, tất cả những gì chúng ta có thể nói về chức làm mẹ theo ân sủng và về vị trí hiện tại của Mẹ trong toàn thể Giáo Hội đều được tổng hợp.
37. Chức làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria có một số đặc điểm có tính định tín:
(a) Nó được đặt nền tảng trên sự thật rằng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và chức làm mẹ của Mẹ được mở rộng đến các môn đệ của Chúa Kitô[73] và thậm chí đến toàn thể nhân loại.[74] Về phương diện này, sự hợp tác của Đức Maria là duy nhất và khác biệt với sự hợp tác của tất cả “các thụ tạo khác”. [75] Sự chuyển cầu của Mẹ không mang đặc điểm của sự trung gian tư tế (như của Chúa Kitô), nhưng thay vào đó được đặt trong trật tự và sự tương đồng với thiên chức làm mẹ. [76] Bằng cách liên kết sự chuyển cầu của Đức Maria với công trình của Chúa Kitô, những ân huệ Chúa ban cho chúng ta được trình bày với khía cạnh làm mẹ, thấm đẫm sự dịu dàng và gần gũi của Người Mẹ[77] được Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta (x. Ga 19:27).
b) Sự hợp tác làm mẹ của Đức Maria trong Chúa Kitô, và do đó, mang tính tham gia. Nói cách khác, nó bao gồm “sự chia sẻ nguồn mạch duy nhất, đó là sự trung gian của chính Chúa Kitô”. [78] Đức Maria bước vào sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô một cách hoàn toàn bản vị. [79] Vai trò làm mẹ của Mẹ “không hề che khuất hay làm giảm đi sự trung gian độc nhất này của Chúa Kitô, mà đúng hơn, cho thấy sức mạnh của sự trung gian đó. Mọi ảnh hưởng cứu rỗi của Đức Trinh Nữ Maria” đối với chúng ta đều xuất phát từ “sự phong phú dồi dào của công đức Chúa Kitô, nương tựa vào sự trung gian của Người, hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian đó và rút ra mọi sức mạnh từ đó.”[80] Trong thiên chức làm mẹ của ngài, Đức Maria không phải là một chướng ngại vật được đặt giữa con người và Chúa Kitô. Ngược lại, vai trò làm mẹ của Mẹ được kết hợp bất khả phân ly với vai trò của Chúa Kitô và hướng về Người. Hiểu theo cách này, thiên chức làm mẹ của Đức Maria không tìm cách làm suy yếu lòng tôn thờ độc nhất chỉ dành cho Chúa Kitô mà thôi, nhưng đúng hơn, tìm cách khơi dậy lòng tôn thờ đó.[81] Vì vậy, người ta phải tránh những danh hiệu và cách diễn đạt trình bày Đức Maria như một loại “cột thu lôi” trước công lý của Chúa, như thể Mẹ là một sự thay thế cần thiết trước sự thiếu hụt của lòng thương xót của Thiên Chúa. Công đồng Vatican II đã tái khẳng định lòng sùng kính dành cho Đức Maria phải như thế nào, cụ thể là “một lòng sùng kính hướng đến trung tâm Kitô học của đức tin Kitô giáo, theo cách mà ‘khi Mẹ được tôn vinh, thì Chúa Con… được nhận biết, yêu mến và tôn vinh một cách xứng đáng.’”[82] Cuối cùng, chức làm mẹ của Đức Maria phụ thuộc[83] — vào việc Chúa Cha tuyển chọn, vào công trình của Chúa Kitô, và vào hoạt động của Chúa Thánh Thần.
c) Giáo Hội không chỉ là điểm quy chiếu cho chức làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria, mà chính trong chiều kích bí tích của Giáo Hội, chức làm mẹ của Mẹ luôn được triển khai.[84] Đức Maria hành động với Giáo Hội, trong Giáo Hội và cho Giáo Hội. Việc thực thi chức làm mẹ của Mẹ được tìm thấy trong sự hiệp thông của Giáo Hội chứ không phải bên ngoài Giáo Hội, dẫn dắt và đồng hành với Giáo Hội. Giáo Hội học biết chức làm mẹ của chính mình từ Đức Maria[85] — trong việc đón nhận Lời Chúa, Đấng truyền giáo, hoán cải và loan báo Chúa Kitô; trong hồng ân của đời sống bí tích Rửa Tội và Thánh Thể; và trong việc giáo dục và đào tạo của người mẹ giúp con cái Thiên Chúa được sinh ra và lớn lên.[86] Vì lý do này, có thể nói rằng “tính sinh hoa trái của Giáo hội cũng giống như tính sinh hoa trái của Đức Maria; nó được thể hiện trong cuộc sống của các thành viên của Giáo hội đến mức họ sống lại, ‘thu nhỏ’, những gì Mẹ đã sống, nghĩa là họ yêu thương theo tình yêu của Chúa Giêsu.”[87] Là Mẹ, Đức Maria chờ đợi Chúa Kitô được sinh ra trong chúng ta[88] và không thay thế Người; điều tương tự cũng đúng với Giáo hội. Do đó, “nhờ những ân sủng dồi dào tuôn chảy từ cạnh sườn mở của Chúa Kitô, theo những cách khác nhau, Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria và tất cả các tín hữu trở thành những dòng nước hằng sống. Bằng cách này, Chúa Kitô biểu lộ vinh quang của Người trong và qua sự nhỏ bé của chúng ta.”[89]
Lời cầu bầu
38. Đức Maria được kết hợp với Chúa Kitô một cách độc đáo bởi thiên chức làm mẹ và bởi sự đầy ân sủng của Mẹ. Điều này được ám chỉ trong lời chào của thiên thần (x. Lc 1,28), trong đó sử dụng một từ (kecharitōmenē) chỉ được tìm thấy ở đây và không nơi nào khác trong Kinh Thánh. Mẹ, Đấng đã nhận được trong lòng mình sức mạnh của Chúa Thánh Thần và trở thành Mẹ Thiên Chúa, bởi cùng một Thần Khí đó, trở thành Mẹ của Giáo Hội.[90] Nhờ sự kết hợp đặc biệt này trong thiên chức làm mẹ và trong ân sủng, lời cầu nguyện của Mẹ cho chúng ta có một giá trị và hiệu quả không thể so sánh với bất cứ lời chuyển cầu nào khác. Thánh Gioan Phaolô II đã kết nối danh hiệu “Đấng Trung Gian” với vai trò chuyển cầu của người mẹ này, lưu ý rằng Đức Maria “đặt mình ‘ở giữa’, nghĩa là, Mẹ hành động như một người trung gian không phải như một người ngoài cuộc, mà trong tư cách là một người mẹ. Mẹ biết rằng, trong tư cách như thế, Mẹ có thể chỉ cho Con Mẹ thấy những nhu cầu của nhân loại.”[91]
39. Đức tin Công Giáo đọc thấy trong Kinh Thánh rằng những ai đang ở với Thiên Chúa trên thiên đàng có thể tiếp tục thực hiện các hành động yêu thương bằng cách cầu bầu cho chúng ta và đồng hành với chúng ta. Ví dụ, chúng ta thấy rằng các thiên thần là “những thần khí phục vụ được sai đi để phục vụ, vì lợi ích của những người sẽ được cứu rỗi” (Dt 1:14). Kinh Thánh nói về các sứ mệnh được thực hiện bởi các thiên thần (x. Tb 5:4; 12:12; Cv 12:7-11; Kh 8:3-5). Các thiên thần đã phục vụ Chúa Giêsu trong sa mạc trong những cơn cám dỗ của Người (x. Mt 4:11) và trong Cuộc Khổ Nạn của Người (x. Lc 22:43). Các Thánh Vịnh hứa với chúng ta rằng “Vì ngươi, Người đã truyền cho các thiên thần gìn giữ ngươi trên khắp các nẻo đường” (Tv 91:11).
40. Những đoạn văn này cho chúng ta biết rằng thiên đàng không hoàn toàn tách biệt với trái đất, điều này mở ra khả thể những người trên thiên đàng có thể cầu bầu cho chúng ta. Sách Da-ca-ri-a trình bày một thiên thần của Thiên Chúa phán rằng: “Lạy Chúa các đạo binh, đến bao giờ Ngài còn không thương xót Giê-ru-sa-lem và các thành Giu-đa, là những nơi Ngài đã nổi giận trong bảy mươi năm qua?” (Dcr 1:12). Tương tự, sách Khải Huyền nói về những “người bị giết”, tức là các vị tử đạo trên trời, những người can thiệp bằng cách cầu xin Thiên Chúa hành động trên mặt đất để giải thoát chúng ta khỏi bất công: “Tôi thấy dưới bàn thờ linh hồn của những người đã bị giết vì lời Thiên Chúa và vì lời chứng mà họ đã rao giảng. Họ lớn tiếng kêu lên: “Lạy Chúa là Đấng chí thánh và chân thật, đến bao giờ Chúa mới xét xử và không đòi báo thù cho máu chúng con trên những người sống trên mặt đất?” (Kh 6:9-10). Ngay trong truyền thống Do Thái giáo Hy Lạp, đã có niềm tin cho rằng những người công chính đã chết sẽ cầu bầu cho dân (x. 2 Mcb 15:12-14).
41. Đức Maria, trên trời, yêu thương “những người còn lại trong dòng dõi mình” (Kh 12:17), và vì thế, như xưa Mẹ đã đồng hành với lời cầu nguyện của các Tông đồ khi họ nhận được Chúa Thánh Thần (x. Cv 1:14), thì nay, từ trời, Mẹ cũng đồng hành với lời cầu nguyện của chúng ta bằng lời chuyển cầu của Mẹ. Bằng cách này, Mẹ tiếp tục thái độ phục vụ và lòng cảm thương được Mẹ biểu lộ tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2:1-11), khi Mẹ vẫn hướng về Chúa Giêsu mà thưa: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2:3). Trong bài ca ngợi khen của Mẹ, chúng ta thấy Đức Maria là một người phụ nữ của dân ngài, người Mẹ ngợi khen Thiên Chúa vì “Người đã nâng cao những kẻ khiêm nhường, ban của đầy dư” (Lc 1,52-53), và vì “Người đã cứu giúp Israel, tôi tớ Người, vì Người nhớ lại lời hứa thương xót, lời Người đã hứa với tổ tiên chúng ta” (Lc 1,54-55); và chúng ta nhận ra sự nhanh chóng của Mẹ khi Mẹ lên đường không chút chậm trễ để giúp đỡ người chị họ Êlisabét (x. Lc 1,39-40). Vì những lý do này, Dân Thiên Chúa tin tưởng vững chắc vào lời chuyển cầu của Mẹ.
42. Trong số những người được chọn và được vinh quang với Chúa Kitô, người trước hết và trên hết là Mẹ của Người. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng Đức Maria có một sự cộng tác độc đáo vào công trình cứu độ mà Chúa Kitô thực hiện trong Hội Thánh của Người. Nhờ lời chuyển cầu này, Đức Maria có thể trở thành dấu chỉ từ mẫu của lòng thương xót Chúa cho chúng ta. Bằng cách này, vì Người đã tự ý muốn điều đó, Chúa ban cho hành động của Người nơi chúng ta một khuôn mặt từ mẫu.[92]
Sự gần gũi từ mẫu
43. Nhiều lời cầu khẩn, hình ảnh và đền thánh dâng kính Đức Mẹ cho thấy tình mẫu tử đích thực của Đức Maria, vốn xích lại gần cuộc sống của con cái ngài. Một ví dụ điển hình là việc Mẹ hiện ra với Thánh Juan Diego trên đồi Tepeyac và nói với ngài bằng những lời dịu dàng của một người mẹ: “Juan, con trai út và yêu dấu của mẹ.” Khi Thánh Juan Diego bày tỏ những khó khăn trong việc thực hiện sứ mệnh được giao phó, Đức Maria đã cho ngài thấy sức mạnh của tình mẫu tử: “Mẹ chẳng ở đây sao, Mẹ là mẹ của con?... Con chẳng ở trong lòng áo choàng của Mẹ, trong vòng tay Mẹ sao?”[93]
44. Kinh nghiệm về tình mẫu tử của Đức Maria, mà Thánh Juan Diego đã trải qua, là kinh nghiệm bản thân của tất cả các Kitô hữu đón nhận tình mẫu tử của Đức Maria và đặt “những nhu cầu hằng ngày” của mình vào tay Mẹ, tin tưởng mở lòng họ ra “để cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ và nhận được sự che chở an ủi của Mẹ.”[94] Bên cạnh những biểu hiện phi thường về sự gần gũi của Mẹ, còn có những biểu hiện thường xuyên và hằng ngày về tình mẫu tử của Mẹ trong cuộc sống của tất cả con cái Mẹ. Ngay cả khi chúng ta không cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ, Mẹ vẫn tỏ mình gần gũi với chúng ta như một người Mẹ để giúp chúng ta nhận ra tình yêu của Chúa Cha, chiêm ngắm hồng ân cứu độ của Chúa Kitô, và đón nhận hành động thánh hóa của Chúa Thánh Thần. Giá trị của sự gần gũi của tình mẫu tử này với Giáo hội lớn lao đến nỗi các mục tử không được để nó bị lạm dụng cho các mục đích chính trị. Trong nhiều dịp khác nhau, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo về điều này và bày tỏ sự quan ngại về “nhiều đề xuất mang tính ý thức hệ và văn hóa khác nhau tìm cách chiếm đoạt cho riêng mình cuộc gặp gỡ của một dân tộc với Mẹ của họ.”[95]
Mẹ Ân Sủng
45. Cách hiểu về tước hiệu “Mẹ của các tín hữu” này cho phép chúng ta nói về vai trò của Đức Maria trong mối liên hệ với đời sống ân sủng của chúng ta. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số cách diễn đạt có thể được chấp nhận về mặt thần học có thể dễ dàng trở nên nặng nề với những khái niệm và biểu tượng truyền tải những quan niệm khó chấp nhận hơn. Ví dụ, Đức Maria đôi khi được miêu tả như thể ngài sở hữu một kho tàng ân sủng tách biệt với Thiên Chúa. Trong những trường hợp như vậy một quan niệm, không rõ ràng lắm rằng chính Chúa – với sự toàn năng quảng đại và tự do của Người – đã muốn liên kết Mẹ với việc chia sẻ sự sống thần linh phát xuất từ trung tâm duy nhất là Trái Tim Chúa Kitô, chứ không phải từ Trái Tim Đức Maria.[96] Mẹ cũng thường được miêu tả hoặc tưởng tượng như một nguồn mạch tuôn chảy mọi ân sủng. Nếu xét đến sự kiện sự ngự trị nội tại của Ba Ngôi (ân sủng bất tạo) và sự tham dự của chúng ta vào sự sống thần linh (ân sủng tạo dựng) là không thể tách rời, chúng ta không thể nghĩ rằng mầu nhiệm này phụ thuộc vào một cuộc “quá giang [passage]” qua bàn tay của Đức Maria. Những quan niệm như vậy nâng Đức Maria lên cao đến mức vị trí trung tâm của chính Chúa Kitô có thể biến mất, hoặc ít nhất, trở nên có điều kiện. Đức Hồng Y Ratzinger đã khẳng định rằng tước hiệu “Đức Maria, Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng” không được đặt nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải.[97] Phù hợp với niềm tin này, chúng ta có thể nhận ra những khó khăn mà tước hiệu này đặt ra, cả về mặt suy tư thần học lẫn linh đạo.
46. Để tránh những khó khăn này, chức làm mẹ của Đức Maria trong trật tự ân sủng phải được hiểu như một sự trợ giúp chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Điều này có thể thấy qua việc, một mặt, lời chuyển cầu từ mẫu của Mẹ[98] là biểu hiện của “sự trợ giúp từ mẫu”[99] cho phép chúng ta nhận ra Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại. Mặt khác, sự hiện diện từ mẫu của Mẹ trong cuộc đời chúng ta không ngăn cản những hành động khác nhau của Đức Maria nhằm khuyến khích chúng ta mở lòng đón nhận hoạt động của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Bằng cách này, Mẹ giúp chúng ta – bằng nhiều cách khác nhau – chuẩn bị bản thân để đón nhận sự sống ân sủng mà chỉ có Chúa mới có thể tuôn đổ vào trong chúng ta.
47. Sự cứu rỗi của chúng ta chỉ là công trình của ân sủng cứu độ của Chúa Kitô chứ không phải của bất cứ ai khác. Thánh Augustinô khẳng định rằng “vương quốc sự chết này chỉ bị tiêu diệt nơi bất cứ con người nào nhờ ân sủng của Đấng Cứu Thế,”[100] và ngài đã giải thích rõ ràng điểm này dưới ánh sáng của sự cứu chuộc người bất chính: “Ai lại muốn chết cho một người bất chính, cho một người vô đạo, ngoài Chúa Kitô, Đấng công chính đến mức có thể biện minh cho cả những người bất chính? Vì vậy, thưa anh em, chúng ta không có công trạng nào, mà chỉ có tội. Mặc dù công trạng của con người thuộc loại như vậy, nhưng lòng thương xót của Người không bỏ rơi họ và… thay vì hình phạt phải chịu, Người đã ban cho họ ân sủng mà họ không đáng được hưởng… [Người đã làm điều này] để cứu chuộc chúng ta, không phải bằng vàng hay bạc, mà bằng giá máu của Người đổ ra.”[101] Vì vậy, khi Thánh Tôma Aquinô hỏi liệu có ai có thể tạo công đức cho người khác không, ngài trả lời rằng “không ai có thể tạo công đức cho người khác ân sủng đầu tiên của họ, ngoài Chúa Kitô.”[102] Không một con người nào khác có thể tạo công đức theo nghĩa chặt chẽ (de condigno), và về điểm này, không còn nghi ngờ gì nữa: “không ai có thể công chính nếu không được ban cho công nghiệp của Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”[103] Tương tự như vậy, sự viên mãn ân sủng của Đức Maria hiện hữu bởi vì Mẹ đã lãnh nhận ân sủng cách nhưng không, trước bất cứ hành động nào của riêng Mẹ, “nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại.”[104] Chỉ có công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình cho đến cùng, mới được áp dụng cho chúng ta để chúng ta được nên công chính – vì công chính này “kết thúc trong sự thiện hảo vĩnh cửu của sự tham gia của Thiên Chúa, nên là một công trình vĩ đại hơn cả việc tạo dựng trời đất.”[105]
48. Tuy nhiên, chúng ta có thể tham gia bằng cách mong muốn điều tốt lành cho người khác, và thật phù hợp (congruo) khi Thiên Chúa làm nên trọn ước muốn bác ái này, một ước muốn có thể được diễn tả “trong lời cầu nguyện” hoặc “bằng các công việc thương xót.”[106] Đúng là chỉ có Thiên Chúa mới có thể tuôn đổ ân sủng, vì khả năng này “vượt tầm cỡ bản chất của chúng ta”[107] và có một khoảng cách vô hạn[108] giữa bản chất của chúng ta và sự sống thần linh của Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa có thể ban tặng ân sủng này, đáp ứng ước muốn của Mẹ, người nhờ đó hân hoan kết hợp với công trình của Thiên Chúa như một người tôi tớ khiêm nhường.
49. Cũng như ở Cana, Đức Maria không nói với Chúa Kitô những gì Người nên làm. Thay vào đó, Mẹ cầu bầu bằng cách trình bày với Người những thiếu sót, nhu cầu và đau khổ của chúng ta để Người có thể hành động với quyền năng thần linh của Người:[109] “Họ hết rượu rồi” (Ga 2:3). Ngay cả ngày nay, Mẹ vẫn giúp chúng ta chuẩn bị cho hành động của Thiên Chúa:[110] “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga 2:5). Lời Mẹ không chỉ là một gợi ý đơn thuần mà trở thành một phương pháp sư phạm mẫu tử đích thực, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Chúa Kitô.[111] Đức Maria lắng nghe, quyết định và hành động[112] để giúp chúng ta mở lòng mình ra với Chúa Kitô và với ân sủng của Người,[113] bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới hoạt động trong tận cùng con người chúng ta.
Nơi Chỉ Thiên Chúa Mới Có Thể Với Tới
50. Như Sách Giáo Lý nhắc nhở chúng ta, ơn thánh hóa “trước hết và trên hết là ân huệ của Chúa Thánh Thần, Đấng công chính hóa và thánh hóa chúng ta.”[114] Nó không chỉ đơn thuần là một sự trợ giúp hay một năng lực mà chúng ta sở hữu, nhưng là “ân huệ nhưng không được Thiên Chúa ban cho chúng ta bằng chính sự sống của Người, được Chúa Thánh Thần đổ tràn vào linh hồn chúng ta,”[115] một điều có thể được mô tả như sự ngự trị của Ba Ngôi trong bản thể sâu thẳm nhất của chúng ta, như tình bạn với Thiên Chúa, và như giao ước với Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có thể thực hiện điều này bởi vì nó bao gồm việc vượt qua một sự mất cân xứng “vô hạn”.[116] Sự tự hiến của Ba Ngôi — qua đó chính Thiên Chúa đã “đi vào”[117] (illabitur) linh hồn — hàm ý một sự biến đổi cố hữu trong phần sâu thẳm nhất của người tín hữu.[118] Để mô tả hành động “đi vào” phần sâu thẳm nhất của chúng ta, Thánh Tôma Aquinô sử dụng động từ illabi, chỉ có thể áp dụng cho Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Người, không phải là một thụ tạo, mới có thể chạm đến phần sâu thẳm nhất của chúng ta mà không xâm phạm đến tự do và bản sắc của chúng ta.[119] Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới vươn tới trung tâm sâu thẳm nhất của chúng ta để mang lại sự nâng cao và biến đổi khi Người hiến mình làm Bạn, và do đó, “không thụ tạo nào có thể ban ân sủng.”[120] Thánh Tôma nhắc lại điểm này khi nói về ân sủng bí tích: là nguyên nhân chính, “chỉ có Thiên Chúa tạo ra hiệu quả bên trong của bí tích: thứ nhất, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể đi vào linh hồn nơi hiệu quả bí tích diễn ra (và không có tác nhân nào có thể hoạt động ngay lập tức ở nơi họ không hiện diện): thứ hai, bởi vì ân sủng, là hiệu quả bên trong của bí tích, phát xuất từ một mình Thiên Chúa.”[121]
51. Các tác giả khác cũng đã diễn đạt theo cách tương tự.[122] Trong bối cảnh này, cần phải nhấn mạnh đến Thánh Bonaventura, người đã dạy rằng khi Thiên Chúa hoạt động với ân sủng thánh hóa nơi một con người, Người làm cho người đó hoàn toàn gần gũi với Người.[123] Nhờ ân sủng, Thiên Chúa trở nên hoàn toàn gần gũi với con người, với một sự gần gũi tuyệt đối, một sự “đi vào” tận sâu thẳm nhất của con người mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể vươn tới được.[124] Vậy, ân sủng tạo dựng không hoạt động như một “trung gian” mà là hiệu quả trực tiếp của tình bạn được Thiên Chúa ban tặng, trực tiếp chạm đến trái tim con người. Và vì vậy, vì chính Thiên Chúa là Đấng mang lại sự biến đổi cho con người khi Người hiến mình làm Bạn, nên không có trung gian nào giữa Thiên Chúa và con người được biến đổi.[125] Chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng đi vào sâu thẳm như vậy, để thánh hóa chúng ta đến mức trở nên tuyệt đối trực tiếp với chúng ta, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm như vậy mà không làm con người ra hư vô.[126]
52. Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa vĩnh cửu và tự nhiên[127] đã mặc lấy bản tính con người, chiếm một vị trí độc nhất trong công trình cứu độ. Được kết hợp ngôi vị với Chúa Con nhờ ân sủng “chắc chắn vô hạn,”[128] nhân tính này đã nhận được ân sủng “theo cách cao cả nhất; và do đó, từ sự trổi vượt của ân sủng mà Người đã nhận được, chính từ Người mà ân sủng này được ban cho những người khác, và điều này thuộc về bản tính của Đầu.”[129] Nhân tính của Người tham gia vào việc tuôn đổ ân sủng thánh hóa, ân sủng này chẩy tràn hoặc “tràn đầy”[130] từ đó. Do đó, “theo một nghĩa nào đó, Người là nguồn mạch của mọi ân sủng theo nhân tính của Người” với tư cách là Đầu mà từ đó ân sủng tuôn chảy đến những người khác (“in alios transfunderetur”). [131] Bản tính con người này không thể tách rời khỏi ơn cứu độ của chúng ta, vì “với việc nhập thể, mọi hành động cứu độ của Ngôi Lời Thiên Chúa luôn được thực hiện trong sự hiệp nhất với bản tính nhân loại được Người đã đảm nhận để cứu độ mọi người.”[132] Qua bản tính nhân loại đã đảm nhận này, Con Thiên Chúa “đã kết hợp một cách nào đó với mỗi người” và trong bản tính đó, Người “đã ban sự sống cho chúng ta nhờ máu Người đã đổ ra một cách tự do.”[133] Nhờ ân sủng, các tín hữu được kết hợp với Chúa Kitô và tham dự vào Mầu nhiệm Vượt qua của Người, để họ có thể sống một sự kết hợp mật thiết và duy nhất với Người, điều mà Thánh Phaolô đã diễn tả bằng những lời này: “Không còn phải là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
53. Không một con người nào – ngay cả các Tông đồ hay Đức Trinh Nữ – có thể hành động như một người phân phát ân sủng phổ quát. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban ân sủng,[134] và Người làm như vậy thông qua nhân tính của Chúa Kitô[135] vì “con người Chúa Kitô sở hữu sự viên mãn tối cao của ân sủng, vì là Con Một của Chúa Cha.”[136] Mặc dù Đức Trinh Nữ Maria là “đầy ân sủng” và “Mẹ Thiên Chúa” một cách tuyệt vời, nhưng giống như chúng ta, Mẹ là con gái nuôi của Chúa Cha và, như Dante Alighieri đã viết, “con gái của Con ngài.”[137] Mẹ cộng tác vào công trình cứu độ bằng một sự tham gia phát sinh và phụ thuộc. Do đó, bất cứ diễn đạt nào về “sự trung gian” của Mẹ trong ân sủng phải được hiểu là một sự tương tự xa vời với Chúa Kitô và sự trung gian độc nhất của Người.[138]
54. Trong sự gần gũi [immediacy] hoàn hảo giữa con người và Thiên Chúa trong việc thông truyền ân sủng, ngay cả Mẹ Maria cũng không thể can thiệp. Cả tình bạn với Chúa Giêsu Kitô lẫn sự ngự trị của Ba Ngôi đều không thể được quan niệm như một điều gì đó đến với chúng ta thông qua Mẹ Maria hay các thánh. Trong mọi trường hợp, điều chúng ta có thể nói là Mẹ Maria mong muốn điều tốt lành này cho chúng ta và Mẹ cầu xin điều đó, cùng với chúng ta. Phụng vụ, cũng là lex credendi (luật đức tin), cho phép chúng ta tái khẳng định sự hợp tác này của Đức Maria, không phải trong việc thông truyền ân sủng mà trong sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ. Thực vậy, khi giải thích ý nghĩa của đặc ân được ban cho Đức Maria được hướng đến lợi ích của dân Chúa, phụng vụ trọng thể lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội khẳng định rằng Mẹ đã trở thành “Đấng bầu cử ân sủng”[139] — nghĩa là Mẹ chuyển cầu bằng cách cầu xin Thiên Chúa cho chúng ta được lãnh nhận ân sủng.
55. Như Công đồng Vatican II dạy, “ảnh hưởng cứu độ của Đức Trinh Nữ Maria… không hề cản trở sự kết hợp trực tiếp của các tín hữu với Chúa Kitô, nhưng, đúng hơn, nuôi dưỡng nó.”[140] Vì lý do này, chúng ta nên tránh bất cứ mô tả nào gợi ý về sự tuôn đổ ân sủng theo từng giai đoạn giống như trường phái Tân Platông, như thể ân sủng của Thiên Chúa đang tuôn đổ qua nhiều trung gian khác nhau (như Đức Maria) trong khi nguồn gốc tối hậu của nó (Thiên Chúa) vẫn tách biệt khỏi trái tim chúng ta. Những cách giải thích như vậy gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự hiểu biết đúng đắn về cuộc gặp gỡ mật thiết, trực tiếp và tức thời mà ân sủng tạo ra giữa Chúa và trái tim người tín hữu.[141] Thực tế là chỉ có Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi, mới công chính hóa.[142] Chỉ có Thiên Chúa mới nâng chúng ta lên để vượt qua sự mất cân xứng vô hạn ngăn cách chúng ta với sự sống thần linh; chỉ có Người hành động trong chúng ta với sự ngự trị Ba Ngôi của Người; chỉ có Người mới bước vào trong chúng ta và biến đổi chúng ta, khiến chúng ta trở thành những người thông phần vào sự sống thần linh của Người. Sẽ không tôn trọng Đức Maria khi gán cho ngài bất cứ sự trung gian nào trong việc hoàn thành công trình này, vốn chỉ thuộc về Thiên Chúa.
Nước Hằng Sống Chảy tràn
61. Đồng thời, vì Đức Maria đầy ân sủng và vì điều thiện luôn tìm cách truyền đạt chính nó cho người khác, nên ý niệm về một loại “dòng chảy” ân sủng từ Đức Maria dễ dàng xuất hiện – một ý niệm chỉ có thể mang ý nghĩa phù hợp nếu nó không mâu thuẫn với những gì đã được nói đến ở trên. Cách diễn giải như vậy không gây khó khăn gì nếu chúng ta đặc biệt đề cập đến các hình thức hợp tác đã được thảo luận (sự chuyển cầu của Đức Maria và sự gần gũi mẫu tử của Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa), và được Công đồng Vatican II trình bày như một sự hợp tác đa dạng của tạo vật “cùng chia sẻ một nguồn mạch duy nhất này”. [143]
61. Vai trò chuẩn bị cơ bản mà các tín hữu, đặc biệt là Đức Maria, đảm nhận khi họ hợp tác với Thiên Chúa trong việc Người thông ban ân sủng, được diễn tả trong cách diễn giải truyền thống về “những dòng nước hằng sống” tuôn chảy từ trái tim các tín hữu (x. Ga 7:37-39). Mặc dù hình ảnh mạnh mẽ này có thể được hiểu như thể các tín hữu là những kênh dẫn truyền ân sủng thánh hóa một cách hoàn hảo, nhưng các Giáo phụ đã nói về sự tuôn đổ này của những dòng sông Thần Khí trong bối cảnh các hành động chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa, chẳng hạn như rao giảng, việc giảng dạy và những cách thức khác để truyền đạt ân huệ của Lời được mặc khải.
58. Origen áp dụng hình ảnh “những dòng nước hằng sống” vào việc nghiên cứu Kinh Thánh hoặc tri nhận các ý nghĩa thiêng liêng của nó.[144] Đối với Thánh Xi-ri-lô thành Alexandria, dòng nước tràn ngập này biểu thị việc giảng dạy các mầu nhiệm đức tin[145] — “khai tâm mầu nhiệm tinh ròng” theo nghĩa sâu xa nhất của nó, không chỉ đơn thuần là trí thức mà còn liên quan đến toàn bộ thiên hướng hoặc sự chuẩn bị của con người đón nhận ân sủng của Thiên Chúa.[146] Thánh Xi-ri-lô thành Giêrusalem cho rằng hình ảnh này biểu thị việc giảng dạy Kinh Thánh khi sự việc được đưa ra ánh sáng.[147] Thánh Gioan Kim Khẩu liên kết nó với sự khôn ngoan của Stêphanô hoặc thẩm quyền của lời Thánh Phêrô.[148] Thánh Ambrôsiô khẳng định: “Đây là những dòng sông lắng nghe lời Thiên Chúa bằng tai của chúng, và chúng nói, để chúng có thể đổ lời vào lòng mỗi người;”[149] và ngài áp dụng điều đó như sau: “xin cho nước của giáo lý thiên thượng tuôn trào… xin cho những giọt sương của “Lời Chúa được rảy”[150] vào lòng mỗi người.[151] Đối với Thánh Giêrônimô cũng vậy, nước là lời dạy của Đấng Cứu Thế,[152] cũng như đối với Thánh Grêgôriô Cả, người còn dạy rằng nước biểu thị “ý chí đạo đức hướng đến người lân cận”.[153] Những giải thích này về “những dòng nước hằng sống”, mà các tín hữu tuôn đổ, tập trung vào kiến thức Kinh Thánh và các mầu nhiệm của nó. Chúng thường không chỉ đề cập đến kiến thức trí thức mà còn đến kiến thức “khôn ngoan” và sự soi sáng của tâm hồn, để tâm hồn có thể mở ra với chính thực tại của các Mầu nhiệm.
59. Trong số các Giáo phụ và Tiến sĩ Hội thánh, chúng ta cũng tìm thấy một giải thích rộng hơn, bao gồm – ngoài việc giảng thuyết và dạy giáo lý – các công việc giúp đỡ người khác trong những nhu cầu của họ hoặc đóng vai trò như một chứng tá của tình yêu. Theo cách này, Thánh Hilariô thành Poitiers hiểu những dòng nước hằng sống biểu thị các công việc của Chúa Thánh Thần thông qua các nhân đức hoạt động vì lợi ích của người lân cận.[154] Thánh Augustinô áp dụng hình ảnh này cho “thiện chí mà [một người] muốn chăm sóc lợi ích của người lân cận”. [155] Vào thời Trung Cổ, quan điểm này tiếp tục cho đến Thánh Tôma Aquinô, người mà “những dòng nước hằng sống” được biểu lộ khi một người “nhanh chóng hành động để giúp đỡ người khác và chia sẻ với họ những ân huệ khác nhau mà họ đã nhận được từ Thiên Chúa”, vì một người như vậy “sẽ có dòng nước hằng sống chảy từ trái tim mình”. [156]
60. Khi Thánh Tôma nói về “những ân huệ khác nhau” để phục vụ người lân cận, ngài muốn ám chỉ các ân huệ đặc sủng khác nhau bởi vì, ngài lưu ý, “như đã nói (1 Cr 12:10), ‘người này được ban ơn nói tiếng lạ, người kia được ban ơn chữa lành, v.v.’” [157] Khía cạnh này cũng hiện diện trong tư tưởng của Thánh Xi-ri-lô thành Giêrusalem, người chỉ ra rằng những dòng nước của Chúa Thánh Thần — được truyền qua các tín hữu — được thể hiện khi “Thánh Linh khiến một người trở thành thầy dạy chân lý thần linh, soi dẫn người khác nói tiên tri, ban cho người khác quyền lực trừ quỷ… chỉ cho người khác cách giúp đỡ người nghèo, dạy người khác ăn chay và sống đời khổ hạnh.”[158]
61. Cũng có thể nói tương tự về cách giải thích câu Ga 14:12, khi nói đến việc các tín hữu thực hiện “những việc lớn hơn” (meizona) so với những việc Chúa Kitô đã làm trong cuộc đời trần thế của Người. Các tín hữu tham gia vào công việc của Chúa Kitô bao lâu, họ còn khơi dậy đức tin của người khác thông qua việc rao giảng Lời Chúa, như Ga 17:20 đã nói rõ: “những ai sẽ tin vào Ta qua lời của họ.” Ý tưởng tương tự cũng được ngụ ý trong Ga 14:6-11, nơi các việc làm của Chúa Kitô bày tỏ Chúa Cha (câu 8) và các việc làm của các tín hữu — tập trung vào việc rao giảng Tin mừng bằng lời nói của họ — được đặt bên cạnh các việc làm của Người. Thật vậy, Chúa Giêsu tuyên bố: “Nếu họ giữ lời Thầy, thì họ cũng sẽ giữ lời anh em” (Ga 15:20c), và cũng như bất cứ ai nghe Lời Chúa Kitô thì được sự sống đời đời (x. Ga 5:24), Chúa Giêsu cũng tuyên bố rằng những người khác sẽ tin qua lời của các tín hữu (x. Ga 17:20). Tuy nhiên, điều này không chỉ liên quan đến lời nói của họ mà còn cả chứng tá hùng hồn của họ. Chính vì vậy, Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha cho các tín hữu của Người được hiệp nhất: để “thế gian tin” (Ga 17:21).
Tình Yêu Tự Hiến trong Thế Gian
62. Tin mừng Gioan liên kết chặt chẽ tình bác ái huynh đệ với việc chia sẻ điều tốt đẹp này. Thật vậy, lời khẳng định: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14:15) song hành với lời tuyên bố: “Ai tin vào Thầy, thì người ấy cũng sẽ làm những việc Thầy làm” (Ga 14:12). Khi Chúa Kitô nói về hoa trái mà Người mong đợi nơi các môn đệ, cuối cùng Người đồng nhất hóa hoa trái ấy với tình yêu thương huynh đệ (x. Ga 15:16-17). Tương tự như vậy, sau khi thảo luận về những việc phi thường khác nhau mà các tín hữu có thể thực hiện (x. 1 Cr 12), Thánh Phaolô đề xuất một con đường tuyệt vời hơn khi ngài nói: “Anh em hãy khao khát những ân huệ lớn lao hơn [ta meizona], và tôi sẽ chỉ cho anh em một con đường tuyệt vời hơn [kath’hyperbolēn]”: đó là tình yêu thương (1 Cr 12:31, x. 13:1). Những việc bác ái đối với tha nhân — ngay cả những công việc hằng ngày hay những nỗ lực thay đổi thế giới này — khi đó có thể trở thành một kênh dẫn để cộng tác với công trình cứu độ của Chúa Kitô.
63. Các vị giáo hoàng gần đây cũng đã bày tỏ những ý tưởng tương tự. Thánh Gioan XXIII đã dạy rằng “vì họ hiệp nhất trong tâm trí và tinh thần với Đấng Cứu Chuộc thần linh ngay cả khi họ tham gia vào các công việc của thế giới, nên công việc của họ trở thành sự tiếp nối công việc của Người, thấm nhuần quyền năng cứu chuộc… để mở rộng cho người khác những hoa trái của ơn cứu chuộc.”[159] Thánh Gioan Phaolô II hiểu sự hợp tác này như một sự tái thiết, cùng với Chúa Kitô, những điều tốt đẹp đã bị tổn hại trên thế giới vì tội lỗi, vì “Trái Tim Chúa Kitô muốn cần đến sự hợp tác của chúng ta để tái thiết lòng tốt và vẻ đẹp”; thực vậy, ngài nói tiếp, “đây chính là sự đền bù đích thực mà Trái Tim Đấng Cứu Thế đã yêu cầu.”[160] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI khẳng định rằng “với tư cách là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, con người trở thành chủ thể của đức ái; họ được mời gọi biến mình thành khí cụ ân sủng để tuôn đổ đức ái của Thiên Chúa và dệt nên những mạng lưới đức ái. Động lực của đức ái được đón nhận và trao ban này chính là điều làm nảy sinh giáo huấn xã hội của Giáo Hội.”[161] Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dạy rằng, đối với Thánh Têrêsa thành Lisieux, điều quan trọng không chỉ là để cho Trái Tim Chúa Kitô lấp đầy trái tim ngài, qua niềm tín thác trọn vẹn của ngài, bằng vẻ đẹp của tình yêu Người, mà còn là để cho tình yêu ấy, qua cuộc đời ngài, lan tỏa đến những người khác và do đó biến đổi thế giới” theo cách “được thể hiện trong những hành động yêu thương huynh đệ, qua đó chúng ta chữa lành những vết thương của Giáo Hội và của thế giới. Bằng cách này, chúng ta trao ban sức mạnh chữa lành của Trái Tim Chúa Kitô.”[162]
64. Sự hợp tác này, được thực hiện nhờ Chúa Kitô và được khơi dậy bởi hoạt động của Chúa Thánh Thần, trong trường hợp của Đức Maria, được phân biệt với sự hợp tác của bất cứ con người nào khác do đặc tính mẫu tử mà chính Chúa Kitô ở trên thập giá đã ban cho Mẹ.
Các Tiêu chuẩn
65. Bất cứ cách hiểu nào khác về sự hợp tác của Đức Maria trong trật tự ân sủng —đặc biệt nếu người ta có ý định gán cho Mẹ một hình thức can thiệp hoàn hảo, công cụ hoàn hảo, hoặc nguyên nhân thứ cấp nào đó trong việc thông truyền ơn thánh hóa[163]—phải đặc biệt chú ý đến một số tiêu chuẩn đã được ngụ ý trong Hiến chế Tín lý Lumen Gentium:
a) Chúng ta phải suy gẫm cách Đức Maria nuôi dưỡng “sự kết hợp trực tiếp”[164] của chúng ta với Chúa — mà chính Chúa tạo ra bằng cách ban ân sủng và chúng ta chỉ có thể nhận được từ Thiên Chúa[165]—và không nên nghĩ rằng sự kết hợp của chúng ta với Đức Maria trực tiếp hơn sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô. Nguy cơ này hiện diện, trên hết, trong ý niệm cho rằng Chúa Kitô ban cho chúng ta Đức Maria như một công cụ hoặc như một nguyên nhân thứ cấp và hoàn thiện hóa trong việc thông truyền ân sủng của Người.
b) Công đồng Vatican II nhấn mạnh rằng “ảnh hưởng cứu rỗi của Đức Trinh Nữ Maria đối với con người không bắt nguồn từ bất cứ sự nhất thiết nội tại nào mà từ sự sắp đặt của Thiên Chúa.”[166] Ảnh hưởng này chỉ có thể được suy nghĩ dưới ánh sáng của quyết định tự do của Thiên Chúa, Đấng – mặc dù hành động của chính Người tràn đầy và dư dật – nhưng lại tự do và không đòi hỏi việc kết hợp Đức Maria với công trình của Người. Do đó, không thể chấp nhận việc trình bày hành động của Đức Maria như thể Thiên Chúa cần đến ngài để hoàn thành ơn cứu độ.
c) Chúng ta phải hiểu sự trung gian của Đức Maria không phải là một sự hỗ trợ bổ sung giúp Thiên Chúa hoạt động trọn vẹn, phong phú hơn và đẹp đẽ hơn; thay vào đó, sự trung gian của Mẹ phải được hiểu theo cách “nó không lấy đi bất cứ điều gì cũng không thêm bất cứ điều gì vào phẩm giá và hiệu năng của Chúa Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất.”[167] Khi giải thích sự trung gian của Đức Maria, cần nhấn mạnh rằng chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Cứu Độ chúng ta và chỉ có Thiên Chúa mới áp dụng công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, công nghiệp duy nhất cần thiết và hoàn toàn đủ cho việc công chính hóa chúng ta. Đức Maria không thay thế Chúa trong bất cứ hành động nào mà Người chưa làm (tức là, Mẹ không lấy đi bất cứ điều gì của Người) cũng không bổ sung cho Người (tức là, Mẹ không thêm gì cho Người). Vì Mẹ không thêm bất cứ điều gì vào sự trung gian cứu độ của Chúa Kitô trong việc thông truyền ân sủng, nên Mẹ không nên được coi là tác nhân công cụ của sự ban tặng tự do đó.[168] Nếu Mẹ đồng hành với một hành động của Chúa Kitô — nhờ công trình của chính Người — thì Mẹ không bao giờ được coi là song hành với Người. Đúng hơn, được liên kết với Chúa Kitô, Đức Maria là người nhận được một hồng ân từ Con của Mẹ, hồng ân đặt Mẹ vượt lên trên chính mình, một hồng ân cho phép Mẹ đồng hành với công trình của Chúa với bản tính làm mẹ của mình. Vậy, chúng ta trở lại điểm an toàn nhất, đó là sự đóng góp của Đức Maria trong việc chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa; trong bối cảnh đó, người ta thực sự có thể nghĩ về Mẹ như đang hành động để đóng góp một điều gì đó của riêng mình trong chừng mực Mẹ “có thể gây ra một số sắp xếp nào đó”[169] cho những người khác. Bởi vì “Việc đạt đến đích cuối cùng thuộc quyền năng tối cao, còn các quyền năng thấp hơn đóng góp vào việc đạt được đích đó, bằng cách chuẩn bị cho người ta nhận được nó.” [170]
66. Tất cả những điều đã nói ở trên không hề xúc phạm hay hạ nhục Đức Maria, bởi vì toàn thể con người của Mẹ hướng về Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1:46). Đối với Đức Maria, không có vinh quang nào khác ngoài vinh quang của Thiên Chúa. Là Mẹ, Mẹ càng vui mừng hơn khi thấy Chúa Kitô biểu lộ vẻ đẹp vô tận, vô biên của vinh quang thần linh của Người bằng cách chữa lành, biến đổi và lấp đầy tâm hồn những người con mà Mẹ đã đồng hành trên con đường đến với Chúa. Vì vậy, bất cứ ánh mắt nào hướng về Mẹ mà làm chúng ta xao lãng Chúa Kitô hoặc đặt Mẹ ngang hàng với Con Thiên Chúa đều nằm ngoài động lực đặc trưng của một đức tin đích thực Thánh Mẫu.
Các Ân sủng
67. Một số tước hiệu, chẳng hạn như “Đấng Trung Gian của Mọi Ân sủng”, có những giới hạn không ủng hộ việc hiểu đúng đắn về vị trí độc nhất của Đức Maria. Thật vậy, Đức Maria, người đầu tiên được cứu chuộc, không thể là Đấng Trung Gian của ân sủng mà chính Người đã lãnh nhận. Đây không phải là một điểm nhỏ nhặt, bởi vì nó cho thấy một điều cốt lõi: ngay cả trong trường hợp của Đức Maria, ân sủng đã đến trước ngài và đến từ sáng kiến hoàn toàn tự do của Ba Ngôi Thiên Chúa, xét theo công nghiệp của Chúa Kitô. Giống như tất cả chúng ta, Đức Maria không xứng đáng được công chính hóa bởi một hành động trước đó của chính ngài,[171] và cũng không xứng đáng được công chính hóa bởi bất cứ hành động nào sau đó.[172] Ngay cả trong trường hợp của Đức Maria, tình bạn của Người với Thiên Chúa nhờ ân sủng luôn được ban tặng một cách nhưng không. Hình ảnh đáng trân trọng của ngài là bằng chứng tối cao cho sự tiếp nhận đầy tin tưởng của một người, hơn bất cứ ai khác, đã mở lòng mình ra một cách ngoan ngoãn và hoàn toàn tin tưởng vào công trình của Chúa Kitô, và đồng thời, là dấu chỉ vĩ đại nhất của sức mạnh biến đổi của ân sủng đó.
68. Mặt khác, danh hiệu “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng” có nguy cơ mô tả Đức Maria như người phân phát những điều tốt lành hoặc năng lượng thiêng liêng ngoài mối tương quan bản thân của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, thuật ngữ “ân sủng”, khi được dùng để chỉ sự trợ giúp từ mẫu của Đức Maria vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời chúng ta, có thể mang một ý nghĩa chấp nhận được. Dạng số nhiều diễn tả tất cả những sự trợ giúp – kể cả vật chất – mà Chúa có thể ban cho chúng ta khi Người lắng nghe lời chuyển cầu của Mẹ Người. Những sự trợ giúp này, đến lượt nó, chuẩn bị tâm hồn chúng ta mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Bằng cách này, Đức Maria, với tư cách là Mẹ, có sự hiện diện trong đời sống thường nhật của các tín hữu lớn lao hơn nhiều so với sự gần gũi mà bất cứ vị thánh nào khác có thể có.
69. Qua lời chuyển cầu của ngài, Đức Maria có thể cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta những thúc đẩy nội tâm của Chúa Thánh Thần, được gọi là “hiện sủng”. Đây là những sự trợ giúp do Chúa Thánh Thần ban, hoạt động ngay cả trong các tội nhân để chuẩn bị cho họ được nên công chính,[173] và khuyến khích những người đã được nên công chính nhờ ơn thánh hóa tiếp tục tăng trưởng. Chính theo nghĩa chuyên biệt này mà tước hiệu “Mẹ Ân Sủng” phải được hiểu. Mẹ khiêm nhường cộng tác để chúng ta mở lòng đón nhận Chúa, Đấng duy nhất có thể công chính hóa chúng ta qua tác động của ơn thánh hóa: nghĩa là khi Thiên Chúa đổ tràn sự sống Ba Ngôi của Người vào chúng ta, ngự trong chúng ta như một Người Bạn, và cho chúng ta được thông phần vào sự sống thần linh của Người. Đây là công trình độc quyền của Chúa. Đồng thời, điều này không loại trừ khả thể các lời nói, hình ảnh hay những lời nhắc nhở khác nhau mà chúng ta nhận được qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria có thể giúp chúng ta kiên trì trong cuộc sống, chuẩn bị tâm hồn đón nhận ân sủng được Chúa khấng ban, hoặc trưởng thành trong đời sống ân sủng mà chúng ta đã lãnh nhận cách nhưng không.
70. Những trợ giúp này đến từ Chúa được trao ban cho chúng ta với một khía cạnh từ mẫu, tràn đầy sự dịu dàng và gần gũi của Người Mẹ mà Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta (x. Ga 19:25-28). Bằng cách này, Mẹ Maria thực hiện một hoạt động độc đáo để giúp chúng ta mở lòng mình ra với Chúa Kitô và với ân sủng thánh hóa của Người, là ơn nâng đỡ và chữa lành chúng ta. Bất cứ khi nào Mẹ mang đến cho chúng ta những “động lực” khác nhau, thì những điều này luôn phải được hiểu là những lời nhắc nhở để mở lòng mình ra với Đấng duy nhất đang hoạt động trong tận cùng con người chúng ta.
Sự kết hợp của chúng ta với Mẹ Maria
71. Công đồng Vatican II thích gọi Mẹ Maria là “Mẹ trong trật tự ân sủng”[174], điều này diễn tả rõ nét tính phổ quát của sự hợp tác từ mẫu của Mẹ Maria. Danh xưng này không thể phủ nhận theo nghĩa chính xác, vì Mẹ là Mẹ Chúa Kitô: Đấng là Ân Sủng tuyệt hảo và là Tác Giả của mọi ân sủng.
72. Chức làm mẹ của Đức Maria trong trật tự ân sủng này — bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô — cũng hàm ý rằng mỗi môn đệ thiết lập với Đức Maria “một mối tương quan độc nhất và không thể lặp lại”. Thánh Gioan Phaolô II đã đề cập đến “chiều kích Đức Maria trong đời sống của một môn đệ Chúa Kitô”, được diễn tả như “một lời đáp trả tình yêu của một người, và đặc biệt, tình yêu của một người mẹ”.[175] Thật vậy, đời sống ân sủng bao gồm mối tương quan của chúng ta với Mẹ Chúa Kitô, vì sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô nhờ ân sủng cũng bao hàm sự kết hợp với Đức Maria trong một mối tương quan tin tưởng, dịu dàng và hết lòng yêu thương.
Người Môn Đệ Đầu Tiên
73. Mẹ là “người môn đệ đầu tiên, người học hỏi tốt nhất đường lối của Chúa Giêsu”.[176] Đức Maria là người đầu tiên trong số những người “nghe lời Thiên Chúa và giữ lấy” (Lc 11:28). Mẹ là người đầu tiên đặt mình giữa những người hèn mọn và nghèo khó của Chúa, để dạy chúng ta tin tưởng chờ đợi và đón nhận ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa. Như thế, Đức Maria “là Mẹ đã trở thành ‘môn đệ’ đầu tiên của Con mình; là người đầu tiên mà Người dường như đã nói: ‘Hãy theo Ta’, ngay cả trước khi Người ngỏ lời kêu gọi này với các Tông đồ hay bất cứ ai khác (x. Ga 1,43).”[177] Mẹ là mẫu gương về đức tin và đức ái cho Giáo Hội qua việc vâng phục thánh ý Chúa Cha, cộng tác vào công trình cứu chuộc của Con mình và mở lòng đón nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần.[178] Vì lý do này, Thánh Augustinô đã nói rằng “đối với Đức Maria, việc trở thành môn đệ của Chúa Kitô có ý nghĩa hơn là việc trở thành Mẹ của Chúa Kitô.”[179] Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng “Mẹ là môn đệ hơn là Mẹ.”[180] Cuối cùng, Đức Maria là “người đầu tiên và hoàn hảo nhất trong các môn đệ của Chúa Kitô.”[181]
74. Đối với mỗi Kitô hữu, Đức Maria là “người đầu tiên ‘tin’, và chính với đức tin của ngài trong tư cách Hiền Thê và Mẫu thân, Mẹ muốn hành động trên tất cả những ai phó thác cho Mẹ như con cái của Mẹ.”[182] Mẹ làm điều đó với một tình yêu thương tràn đầy những dấu chỉ gần gũi, giúp họ trưởng thành trong đời sống thiêng liêng, dạy họ biết cách để ân sủng của Chúa Kitô hoạt động ngày càng nhiều hơn. Trong mối tương quan yêu thương và tin tưởng này, Mẹ, Đấng “đầy ân sủng”, dạy mỗi Kitô hữu đón nhận ân sủng, gìn giữ ân sủng đã nhận được và suy niệm về công trình Thiên Chúa đang thực hiện trong cuộc sống của họ (x. Lc 2:19).
75. Nếu những cách diễn đạt hoặc danh xưng như đã đề cập ở trên xuất hiện trong các trường hợp được cho là hiện tượng siêu nhiên đã nhận được phán quyết tích cực từ Giáo hội, thì cần lưu ý rằng “bất cứ khi nào Bộ ban hành Nihil obstat… những hiện tượng như vậy không trở thành đối tượng của đức tin, nghĩa là các tín hữu không bắt buộc phải chấp nhận đức tin đối với chúng.”[183]
Mẹ của Dân Trung Thành của Thiên Chúa
76. “Đức Maria, người môn đệ đầu tiên, là Mẹ.”[184] Trên Thập Giá, Chúa Kitô đã trao phó chúng ta cho Đức Maria, và vì vậy “Người đã đưa chúng ta đến với Mẹ vì Người không muốn chúng ta hành trình mà không có mẹ.”[185] Mẹ là Người Mẹ tin tưởng đã trở thành “Mẹ của tất cả các tín hữu”;[186] đồng thời, Mẹ là “Mẹ của Giáo hội loan báo Tin Mừng,”[187] Đấng đón nhận chúng ta như Thiên Chúa đã muốn kêu gọi chúng ta—nghĩa là, không chỉ là những cá nhân biệt lập mà là một dân tộc đang trên hành trình[188]: “Mẹ Maria của chúng ta luôn muốn bước đi ở bên cạnh chúng ta, luôn gần gũi chúng ta, giúp đỡ chúng ta bằng lời chuyển cầu và tình yêu của Mẹ.”[189] Mẹ là Mẹ của Dân Trung thành của Thiên Chúa, “di chuyển giữa dân mình bằng sự chăm sóc dịu dàng và yêu thương; Mẹ đón nhận những lo lắng và phiền muộn của họ như của chính mình.”[190]
Tình Yêu Dừng Lại, Chiêm Ngưỡng Mầu Nhiệm, và Tận Hưởng Mầu Nhiệm trong Thinh Lặng
77. Dân Trung thành của Thiên Chúa không xa rời Chúa Kitô hay Tin Mừng khi họ đến gần Đức Maria; đúng hơn, họ có thể nhìn thấy “trong hình ảnh người mẹ này tất cả các mầu nhiệm của Tin Mừng.”[191] Trong khuôn mặt người mẹ, họ nhìn thấy sự phản chiếu Chúa, Đấng tìm kiếm chúng ta (x. Lc 15:4-8), Đấng đến gặp chúng ta với vòng tay rộng mở (x. Lc 15:20), Đấng dừng lại trước mặt chúng ta (x. Lc 18:40), Đấng cúi xuống và nâng chúng ta lên sát má Người (x. Hs 11:4), Đấng nhìn chúng ta với tình yêu (x. Mc 10:21), một người không lên án chúng ta (x. Ga 8:11; Hs 11:9). Nơi khuôn mặt hiền mẫu của Mẹ, nhiều người nghèo nhận ra Chúa, Đấng “đã hạ bệ những kẻ quyền thế khỏi ngai vàng và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1:52). Khuôn mặt của Mẹ ca ngợi mầu nhiệm Nhập Thể. Nơi khuôn mặt của Người Mẹ bị lưỡi gươm đâm thâu (x. Lc 2:35), Dân Thiên Chúa nhận ra mầu nhiệm Thập Giá, và cũng nơi khuôn mặt ấy – được tắm trong ánh sáng phục sinh – họ nhận ra rằng Chúa Kitô đang sống. Và chính Mẹ, người đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách sung mãn, đã nâng đỡ các Tông đồ cầu nguyện trong Phòng Tiệc Ly (x. Cv 1:14). Do đó, chúng ta có thể nói rằng “đức tin của Đức Maria, theo chứng tá tông đồ của Giáo hội, bằng cách nào đó vẫn tiếp tục trở thành đức tin của Dân Thiên Chúa đang lữ hành.”[192]
78. Như các giám mục Mỹ Latinh đã khẳng định, người nghèo “tìm thấy tình thương và lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi khuôn mặt của Đức Maria. Trong đó, họ thấy phản ảnh sứ điệp Tin Mừng cốt yếu.”[193] Dân chúng, trong sự giản dị và nghèo khó, không tách biệt Đức Mẹ vinh quang khỏi Đức Maria thành Na-da-rét mà chúng ta tìm thấy trong các sách Tin mừng. Trái lại, họ nhận ra sự giản dị đằng sau vinh quang và biết rằng Đức Maria vẫn luôn là một trong số họ. Mẹ là người, giống như bất cứ người mẹ nào, đã cưu mang con mình trong lòng, cho con bú và yêu thương nuôi dạy con với sự giúp đỡ của Thánh Giuse — nhưng Mẹ cũng đã trải qua những biến động và bấp bênh của thiên chức làm mẹ (x. Lc 2,48-50). Mẹ là người ca ngợi Thiên Chúa, Đấng “đã ban của đầy dư cho kẻ đói, và đuổi người giàu về tay trắng” (Lc 1,53); Mẹ đau khổ cùng đôi tân hôn hết rượu cho tiệc cưới (x. Ga 2,3); Mẹ biết vội vã ra đi giúp đỡ người chị họ đang cần được giúp đỡ (x. Lc 1,39-40); Mẹ để mình bị thương như bị lưỡi gươm đâm thâu, vì lịch sử dân tộc mình, nơi Con Mẹ là “dấu chỉ của sự mâu thuẫn” (Lc 2,34); Mẹ hiểu thế nào là di dân hay lưu đày (x. Mt 2,13-15); Mẹ, trong cảnh nghèo khó, chỉ có thể dâng hai chú chim bồ câu non (x. Lc 2,24); và Mẹ hiểu thế nào là bị khinh miệt vì xuất thân từ một gia đình thợ mộc nghèo (x. Mc 6,3-4). Dân chúng đau khổ nhận ra Đức Maria đang đồng hành với họ, nên họ tìm đến Mẹ để cầu xin Mẹ giúp đỡ.[194]
79. Sự gần gũi của Mẹ khơi dậy lòng sùng kính Đức Mẹ “bình dân” mang nhiều hình thức khác nhau nơi các dân tộc. Những khuôn mặt khác nhau của Đức Maria – Hàn Quốc, Mexico, Congo, Ý, và rất nhiều dân tộc khác – là những cách thức Tin Mừng được hội nhập văn hóa, phản ảnh “lòng nhân từ của Thiên Chúa”[195] ở khắp mọi nơi trên trái đất, chạm đến tận cốt lõi của các dân tộc chúng ta.
80. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng đức tin của dân Chúa, nơi vô số anh chị em đồng đạo tự phát nhận ra Đức Maria là Mẹ, giống như chính Chúa Kitô đã khuyến khích chúng ta làm như vậy trên thập giá. dân Chúa thích hành hương đến các đền thánh Đức Mẹ khác nhau, tìm thấy ở đó niềm an ủi và sức mạnh để kiên trì – giống như những người, giữa những mệt mỏi và đau đớn, nhận được sự âu yếm của Mẹ. Hội nghị Aparecida đã có thể diễn tả một cách rõ ràng và đẹp đẽ giá trị thần học sâu sắc của trải nghiệm này. Không gì kết thúc Bản Ghi chú này tốt hơn những lời này:
“Chúng tôi nhấn mạnh đến những cuộc hành hương, nơi dân Chúa có thể được nhận ra trong hành trình của họ. Ở đó, người tín hữu hân hoan với niềm vui cảm thấy được bao quanh bởi biết bao anh chị em, cùng nhau tiến về Thiên Chúa, Đấng đang chờ đợi họ. Chính Chúa Kitô đã trở thành một người hành hương, và bước đi giữa những người nghèo. Quyết định lên đường đến đền thánh đã là một lời tuyên xưng đức tin; bước đi là một bài ca hy vọng đích thực; và việc đến nơi là cuộc gặp gỡ của tình yêu. Ánh mắt của người hành hương hướng về một hình ảnh tượng trưng cho tình yêu thương và sự gần gũi của Thiên Chúa. Tình yêu dừng lại, chiêm ngắm mầu nhiệm và tận hưởng trong thinh lặng. Tình yêu cũng rung động, trút bỏ hết gánh nặng đau thương và ước mơ của mình. Lời cầu nguyện tin tưởng, tuôn trào chân thành, là biểu hiện tốt nhất của một trái tim đã từ bỏ sự tự mãn, nhận ra rằng một mình mình không thể làm gì. Một trải nghiệm tâm linh sống động được gói gọn trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.”[196]
Lạy Mẹ của Dân Trung Thành của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, trong buổi tiếp kiến dành cho vị Tổng Trưởng ký tên dưới đây cùng với Thư ký Phân Bộ Giáo Lý của Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 7 tháng 10, Lễ Đức Mẹ Mân Côi, đã phê chuẩn Ghi chú này, được quyết định trong Phiên họp Thường kỳ của Bộ này ngày 26 tháng 3 năm 2025, và ngài đã ra lệnh công bố.
Ban hành tại Rôma, tại trụ sở Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 4 tháng 11 năm 2025, Lễ Thánh Charles Borromeo.
Hồng Y Victor Manuel Fernández
Tổng Trưởng
Đức Ông Armando Matteo
Thư ký, Phân Bộ Giáo Lý
Giáo hoàng Lêô XIV
07.10.2025
__________________
[1] X. Au-gus-ti-nô, De sancta virginitate, 6: PL 40, 399.
[2] Bộ Giáo lý Đức tin, Các Quy tắc Tiến hành Phân định các Hiện tượng Được cho là Siêu nhiên (17 tháng 5 năm 2024).
[3] Trong một số hiện tượng, hay những lần hiện ra này, Đức Trinh Nữ Đức Maria được gọi bằng các tước hiệu như “Đồng Công Cứu Chuộc”, “Đấng Cứu Chuộc”, “Linh Mục”, “Đấng Trung Gian”, “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng”, “Mẹ Ân Sủng”, “Mẹ Thiêng Liêng”, v.v.
[4] Xem Đức Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 26: AAS 66 (1974), 136-139.
[5] Xem ibid., 28: AAS 66 (1974), 139-141.
[6] Xem ibid., 37: AAS 66 (1974), 148-149.
[7] Đức Gioan Phaolô II, Buổi Triều Yết Chung (9 tháng 4 năm 1997), đoạn 1. 3: L’Osservatore Romano, 10 tháng 4 năm 1997, 4.
[8] Đức Phanxicô, Bài giảng cho Năm Thánh Ngoại thường về Lòng Thương Xót: Thánh Lễ và Mở Cửa Thánh (8 tháng 12 năm 2015): AAS 108 (2016), 8.
[9] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 26: AAS 79 (1987), 396.
[10] Mối tương quan giữa Ađam và Chúa Kitô được tìm thấy trong các bản văn của Thánh Phaolô (xem Rm 5:18-19 và 1 Cr 15:22) cho phép các Giáo phụ thiết lập mối tương quan song song giữa Evà và Đức Maria. Ví dụ, Thánh Justin Tử đạo, Dialogus cum Tryphone, 100, 5-6: PG 6, 710CD-711A; Irenaeus thành Lyons, Adversus haereses, III, 22, 4: PG 7/1, 959C-960A; Tertullian, De carne Christi, 17, 5: PL 1, 782B. Sự tương đồng đối lập này giữa Evà và Đức Maria là cách tiếp cận đầu tiên mà các Giáo phụ đã thực hiện đối với chủ đề về sự hợp tác của Trinh nữ trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô: nếu Evà mang đến sự diệt vong, thì đức tin của Đức Maria mang đến cho chúng ta sự cứu rỗi. Sự phong phú của chứng từ giáo phụ mô tả Trinh nữ là Evà mới cung cấp một số yếu tố thần học đáng lưu ý: (a) Đức Maria và "người phụ nữ", bởi vì trong Đức Maria, người phụ nữ lấy lại được vẻ huy hoàng ban đầu của mình và tìm thấy sự hoàn thành cuối cùng của mình; (b) Đức Maria và Chúa Kitô là người phối ngẫu-bạn đời, người tạo thành với Con của mình cặp đôi mẫu mực và cứu rỗi của sự quy tụ hoặc phục hồi Đấng Mê-xi-a; (c) Đức Maria và Giáo Hội, qua đó một mối tương quan kép được thiết lập giữa Đức Maria và Giáo Hội: mối tương quan vừa là mẫu gương (như nguyên mẫu) vừa là Mẹ của Giáo Hội.
[11] Au-gus-ti-nô, De sancta virginitate, 6: PL 40, 399.
[12] Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 31: AAS 79 (1987), 402-403.
[13] Ví dụ, xem Ephrem, Hymni de Nativitate: SC 459; Gioan Đamascenô, In dormitione Deiparae I, 8: SC 80, 100-104.
[14] Ví dụ, xem Octoëchus magnus, Rome 1885, 152: “Chúng con đã được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ Mẹ, ôi Theotokos, Đấng trọn đời đồng trinh; vì Mẹ đã sinh ra Thiên Chúa làm người vì chúng con. Vì vậy, như điều phải làm, tất cả chúng con thành tâm tôn vinh Mẹ” (dịch từ nguyên bản Hy Lạp của Theotokion trong bài thơ Kathisma sau khổ đầu tiên). Một ví dụ quan trọng hơn về cách diễn đạt lòng sùng kính Đức Mẹ là bài Hymnus Akathistos nổi tiếng gồm hai mươi bốn khổ (thế kỷ thứ năm); tựa đề chỉ đơn giản có nghĩa là bài thánh ca này phải được nghe khi đứng, chứ không phải khi ngồi (như Tin mừng được nghe khi đứng) như một dấu hiệu của lòng tôn kính đặc biệt đối với Đức Trinh Nữ Maria. Trong bài thánh ca đó, nhà thơ đã tô điểm cho Đức Maria bằng những tính từ và ẩn dụ tượng trưng tuyệt đẹp, cầu xin Mẹ chấp nhận lời dâng hiến đầy thi vị của ông và cầu bầu cho sự cứu rỗi nhân loại khỏi tội lỗi trần gian (xem E.M. Toniolo, OSM, Akathistos Inno alla Madre di Dio, Rome 2017).
[15] Bằng chứng lâu đời nhất về danh hiệu này có từ thế kỷ thứ ba ở Ai Cập. Xem Papyrus 470 của Thư viện John Rylands (Manchester, Vương quốc Anh), trong đó có phần lớn lời cầu khẩn Đức Mẹ bằng tiếng Hy Lạp. Phiên bản tiếng Latinh của lời cầu nguyện này như sau: “Sub tuum praesidium confugimus, Sancta Dei Genetrix. Nostras deprecationes ne despicias in necessitatibus, sed a periculis cunctis libera nos semper, Virgo gloriosa et benedicta” (bản tiếng Việt: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời, xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện, trong cơn gian nan thiếu thốn, Đức Nữ Đồng Trinh hiển vinh sáng láng hằng chữa chúng con cho khỏi mọi sự dữ. Amen.”; bản dịch tiếng Anh, Little Office of the Blessed Virgin Mary , Catholic Book Publishing, New Jersey 1988, 186).
[16] Các ảnh tượng biểu tượng truyền thống về Đức Trinh Nữ tuân theo một loạt các mô hình đã được thiết lập rõ ràng, đặc biệt: Odēghētria (“Người chỉ đường”), trong đó Mẹ chỉ tay chỉ đường đến với Chúa Giêsu, con Mẹ, đang ngồi trong lòng Mẹ; Eleousa (“Sự dịu dàng”), thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa Mẹ và Con, với Chúa Con áp má vào má Mẹ; Platytera (“Rộng rãi hơn cả bầu trời”), bởi vì ngài mang Chúa Kitô trong mình, được mô tả là Hài Nhi trên ngực. Từ ba mô hình này, hầu hết các mô hình khác bắt nguồn từ đó, chẳng hạn như Galaktotrophousa, người nuôi dưỡng Hài Nhi bằng sữa của mình; Kyriōtissa hay “Lệnh Bà”, người bế Hài Nhi trên đầu gối như trên ngai vàng; Panagia (“Toàn Thánh”), khoác áo choàng đỏ thể hiện sự trọn vẹn của sự thánh thiện; và Deēsis, nơi Đức Maria xuất hiện bên phải Chúa Con của ngài, ngự trên ngai vàng uy nghi (Pantokratōr) đang cầu bầu cho chúng ta, thường bên cạnh Thánh Gioan Tẩy Giả ở bên trái. Trong các ảnh tượng khác, Đức Maria xuất hiện cầu bầu cùng các vị thánh khác — thường bao gồm cả Thánh Gioan Tẩy Giả, với tư cách là những đại diện cuối cùng của Giao Ước Cũ và đồng thời là những thành viên đầu tiên của dân mới.
[17] X. Đức Bênêđictô XVI, Buổi tiếp kiến chung (27 tháng 5 năm 2009): L’Osservatore Romano, 28 tháng 5 năm 2009, 1; Gregory thành Narek, Prex 26 và 80: Ad Deiparam; SC 78, 160-164, 428-432.
[18] Các tác giả Đông phương như Thánh Jacob thành Serugh (X 521), Thánh Romanos Melodist (X555-562), Thánh Gioan Đamascenô (X749) và Gioan Geometres (X1000) đã đề cập đến chủ đề về sự cộng tác của Đức Maria với hy lễ cứu chuộc của Chúa Kitô trên thập giá.
[19] X. Ber-na-đô thành Clairvaux, In Purificationem Deiparae, III, 2: PL 183, 370C.
[20] X. Arnold thành Bonneval, De laudibus B. M. Virginis, I, 3c. 12,4: PL 189, 1727A.
[21] Trong Huấn quyền trước Công đồng Vatican II, những điều sau đây nổi bật: Đức Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 597-619; Leo XIII, Thông điệp Iucunda Semper Expectatione (8 tháng 9 năm 1894): ASS 27 (1894-1851), 177-184; Thông điệp Adiutricem Populi (5 tháng 9 năm 1895): ASS 28 (1895-1896), 129-136; Đức Piô X, Thông điệp Ad Diem Illum Laetissimum (2 tháng 2 năm 1904): ASS 36 (1903-1904), 453; Bênêđictô XV, Tông thư Inter Sodalicia a la Cofradía de Ntra. Sra de la Buena Muerte (22 tháng 3 năm 1918): AAS 10 (1918), 182; Đức Piô XI, Thông điệp Miserentissimus Redemptor (8 tháng 5 năm 1928): AAS 20 (1928), 165-178; Đức Piô XII, Thông điệp Mystici Corporis Christi (29/6/1943): AAS 35 (1943), 193-248; Thông điệp Ad Caeli Reginam (11/10/1954): AAS 46 (1954), 634-635.
[22] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium (21/11/1964), 56: AAS 57 (1965), 60.
[23] X. Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 616 (DH 2803): “Nữ trinh Diễm phúc Maria, ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai, nhờ ân sủng và đặc ân đặc biệt của Thiên Chúa Toàn Năng và nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại, đã được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ của Tội Nguyên Tổ”; Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 53: AAS 57 (1965), 58: “Được cứu chuộc một cách cao cả hơn nhờ công nghiệp của Con mình.”
[24] X. Ambrose, Exp. Evàngelii secundum Lucam, II, 7: PL 15, 1555.
[25] X. Đức Phanxicô, Kinh Truyền Tin (15 tháng 8 năm 2013): L’Osservatore Romano, 17-18 tháng 8 năm 2013, 8.
[26] Đức Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 25: AAS 66 (1974), 135.
[27] Mẹ không chỉ đơn thuần là một “người mẹ-người vú nuôi”. Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 20: AAS 79 (1987), 361-433, 384-387.
[28] Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng lễ trọng Truyền tin (25 tháng 3 năm 2006): AAS 98 (2006), 330; xem Đức Phaolô VI, Tông huấn Signum Magnum (13 tháng 5 năm 1967), 5: AAS 59 (1967), 469: “Ngay khi được sứ thần Gabriel trấn an rằng Thiên Chúa đã chọn ngài làm người mẹ tinh tuyền của Con Một Người, Đức Maria đã không ngần ngại chấp nhận một công việc đòi hỏi tất cả sức lực của bản chất mỏng manh của mình và tuyên bố: ‘Này tôi là nữ tỳ của Chúa; xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần nói’ (Lc 1:38).”
[29] H.U. von Balthasar, Theo-Drama: Lý thuyết kịch thần học: Dramatis Personae: Những con người trong Chúa Kitô, tập 3, dịch bởi G. Harrison, San Francisco 1992, 295. X. Cyril thành Alexandria, Thư thứ hai gửi Nestorius: “Vì lý do này [các Giáo phụ] đã không ngần ngại nói về Đức Trinh Nữ thánh thiện là Mẹ Thiên Chúa”: DH 251; và Công đồng Êphêsô, can. 1: DH 252.
[30] Theo như chúng ta biết cho đến ngày nay, sự kiện này xảy ra vào thế kỷ XV khi một nhà soạn thánh ca dòng Biển Đức để lại cho hậu thế lời cầu nguyện viết tay sau đây, được lưu giữ tại Tu viện Thánh Phêrô ở Salzburg: “Pia, dulcis et goodness / nullo prorsus luctu digna / si fletum hinc eligeres / ut compassa Redemptori / captivato transgressori / tu corredemptrix fieres” (“Yêu thương, ngọt ngào và nhân hậu / hoàn toàn không đáng phải chịu bất cứ nỗi đau buồn nào / nếu từ nay ngài chọn khóc lóc / như một người cùng chịu đau khổ với Đấng Cứu Chuộc / cho tội nhân bị giam cầm / ngài sẽ là đồng công cứu chuộc”): De compassione BMV, 20: G.M. Dreves (biên tập), Analecta Hymnica Medii Aevi, XLVI, Leipzig 1905, n. 79, 127.
[31] Các nhà thần học hiểu danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc” theo nhiều cách khác nhau: (a) Sự hợp tác trực tiếp, mang tính Kitô giáo, hay tối đa, đặt sự hợp tác của Đức Maria gần gũi, trực tiếp và ngay trước Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô (sự cứu chuộc khách quan). Theo cách hiểu này, công trạng của Đức Maria, mặc dù phụ thuộc vào Chúa Kitô, nhưng sẽ có giá trị cứu chuộc cho sự cứu rỗi; (b) sự hợp tác trung gian hay tối thiểu, sẽ giới hạn trong lời “Xin Vâng” của Mẹ trong biến cố Truyền Tin. Đây sẽ là sự hợp tác trung gian, làm cho sự Nhập Thể trở thành khả thi như một bước mở đầu cho Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô; (c) Sự hợp tác trực tiếp nhưng mang tính tiếp nhận hay mang tính Giáo Hội, hợp tác trong công trình cứu chuộc khách quan trong chừng mực Mẹ chấp nhận hoa trái của hy lễ cứu chuộc của Đấng Cứu Thế, đại diện cho Giáo Hội. Đây sẽ là một sự hợp tác trực tiếp nhưng cũng mang tính tiếp nhận, vì Đức Maria đơn giản đã chấp nhận Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô, qua đó trở thành “Giáo Hội đầu tiên”.
[32] Dưới triều đại giáo hoàng của Thánh Piô X, danh hiệu “Đồng công cứu chuộc” xuất hiện trong một văn kiện của Thánh bộ Nghi lễ và hai văn kiện của Bộ Văn phòng Thánh. X. Thánh bộ Nghi lễ, Dolores Virginis Deiparae (13 tháng 5 năm 1908): ASS 41 (1908), 409; Thánh bộ Văn phòng Thánh, Sắc lệnh Sunt quos amor (26 tháng 6 năm 1913): AAS 5 (1913), 364, ca ngợi tập tục thêm vào tên Chúa Giêsu tên “của mẹ Người, Đấng Đồng công cứu chuộc của chúng ta, Đức Maria Rất Thánh”; Oración indulgenciada (22 tháng 1 năm 1914): AAS 6 (1914), 108, trong đó Đức Maria được gọi là “Đấng Đồng công cứu chuộc nhân loại”. Đức Giáo Hoàng đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Đồng Công Cứu Chuộc” là Đức Piô XI trong một Sắc lệnh ngày 20 tháng 7 năm 1925 về Nữ Vương Mân Côi Pompeii: Đức Piô XI, Ad B.V.M. a Sacratissimo Rosario in Valle Pompeiana, in Sacra Paenitentiaria Apostolica, Enchiridion indulgentiarum, Rome 1952, số 628: “Xin Mẹ cũng hãy nhớ rằng trên đồi Canvê, Mẹ đã trở thành Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, hợp tác với sự đóng đinh của trái tim Mẹ để cứu rỗi thế giới, cùng với Người Con chịu đóng đinh của Mẹ;” Xem Diễn văn “Ecco di Nuovo” gửi các tín hữu hành hương từ Giáo phận Vicenza (ngày 30 tháng 11 năm 1933): L’Osservatore Romano, ngày 1 tháng 12 năm 1933, 1.
[33] Xem Đức Piô XI, Thông điệp phát thanh nhân dịp bế mạc Năm Thánh Cứu Chuộc tại Lộ Đức (28/04/1935): LʼOsservatore Romano 28/29/04/1935, 1.
[34] X. Đức Piô XI, Ad B.V.M. a Sacratissimo Rosario in Valle Pompeiana, in Sacra Paenitentiaria Apostolica, Enchiridion indulgentiarum, Rome 1952, n. 628.
[35] X. Đức Gioan Phaolô II, Tiếp kiến chung (10/12/1980): Insegnamenti III/2 (1980), 1646; Tiếp kiến chung (8 tháng 9 năm 1982): Insegnamenti V/3 (1982), 404; Kinh Truyền Tin (4/11/1984): Insegnamenti VII/2 (1984), 1151; Bài giảng tại Đền Đức Mẹ Bình Minh ở Guayaquil (Ecuador) (31 tháng 1 năm 1985): Insegnamenti VIII/1 (1985), 319; Kinh Truyền Tin (31 tháng 3 năm 1985): Insegnamenti VIII/1 (1985), 890; Diễn văn gửi các tín hữu hành hương của “Opera Federativa Trasporto Ammalati a Lourdes” (24 tháng 3 năm 1990): Insegnamenti XIII/1 (1990), 743; Kinh Truyền Tin (6 tháng 10 năm 1991): Insegnamenti XIV/2 (1991), 756. Tuy nhiên, sau Feria IV của Bộ Giáo lý Đức tin vào ngày 21 tháng 2 năm 1996, Thánh Gioan Phaolô II đã ngừng sử dụng tước hiệu “Đồng công cứu chuộc”. Điều quan trọng cần lưu ý là danh hiệu này không xuất hiện trong Thông điệp Redemptoris Mater ngày 25 tháng 3 năm 1987 của ngài — văn kiện tuyệt vời trong đó Thánh Gioan Phaolô II giải thích vai trò của Đức Maria trong công trình Cứu chuộc.
[36] J. Ratzinger, Biên bản Hội nghị Feria IV ngày 21 tháng 2 năm 1996, trong Văn khố của Bộ Giáo lý Đức tin.
[37] J. Ratzinger – P. Seewald, Thiên Chúa và Thế giới: Tin và Sống trong Thời đại Chúng ta: Đối thoại với Peter Seewald, dịch. H. Taylor, San Francisco 2002, 306.
[38] Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Đức Mẹ Guadalupe (12 tháng 12 năm 2019): AAS 112 (2020), 9.
[39] Đức Phanxicô, Suy niệm hàng ngày về “Đức Mẹ Sầu Bi: Người Môn Đệ và Mẹ” (3 tháng 4 năm 2020): L’Osservatore Romano, 4 tháng 4 năm 2020, 8.
[40] Đức Phanxicô, Tiếp kiến chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8.
[41] Đức Piô XII, Thông điệp Haurietis Aquas (15/5/1956), 10: AAS 48 (1956), 321.
[42] X. Thánh Anrê thành Crete, In Nativitatem Mariae, IV: PG 97, 865A.
[43] So sánh với Đức Giáo Hoàng Constantinople, In Annuntiationem s. Deiparae: PG 98, 322BC.
[44] So sánh với Gioan Damascene, In dormitionem Deiparae, I: PG 96, 712B-713A.
[45] Ngày 12 tháng 1 năm 1921, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV — theo lời thỉnh cầu của Đức Hồng Y Désiré-Joseph Mercier — đã ban cho toàn thể nước Bỉ Lễ Đức Trinh Nữ Maria “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng”, được cử hành hàng năm vào ngày 31 tháng 5. Sau đó, theo lời thỉnh cầu, Tòa Thánh đã ban cùng Lễ Đức Mẹ và Thánh Lễ này cho nhiều giáo phận và dòng tu khác: so sánh với AAS 13 (1921), 345.
[46] So sánh với Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63; Học viện Giáo hoàng Quốc tế về Đức Mẹ, “Một Tín điều Đức Mẹ Mới? Bình luận về Tuyên bố của Học viện Đức Mẹ”, L’Osservatore Romano (Bản tiếng Anh hàng tuần), ngày 25 tháng 6 năm 1997, 10: “Hiến chế Lumen gentium, do sự lựa chọn thận trọng không chứa đựng một định nghĩa tín lý về sự trung gian, đã được chấp thuận với 2.151 phiếu bầu trong số 2,156 phiếu… Chỉ mới 33 năm sau khi ban hành Lumen gentium… bối cảnh giáo hội, thần học và chú giải… về cơ bản không thay đổi.” Lời khẳng định này của Học viện Giáo hoàng Quốc tế về Đức Mẹ đã được bổ sung vào Tuyên bố của Ủy ban Thần học được thành lập trong khuôn khổ Đại hội Đức Mẹ học Quốc tế lần thứ 12 (Czestochowa, 12-24 tháng 8 năm 1996), trong đó Ủy ban này cho rằng việc định nghĩa tín điều về Đức Maria là “Đấng Trung gian”, “Đấng Đồng công cứu chuộc” và “Đấng Bào chữa” là không phù hợp. Xem Ủy ban Thần học của Đại hội Czestochowa, “Yêu cầu định nghĩa tín điều về Đức Maria là Đấng Trung gian, Đấng Đồng công cứu chuộc và Đấng Bào chữa”: L’Osservatore Romano (Bản tiếng Anh hàng tuần), 25 tháng 6 năm 1997, 10.
[47] Đức Phaolô VI, Diễn văn bế mạc Khóa họp thứ ba của Khóa họp thứ hai Công Đồng Vatican (21/11/1964): AAS 56 (1964), 1014.
[48] X. Bernard ở Clairvaux, Hom. in laudibus Virginis Matris, IV, 8: PL 183, 83CD-84AB.
[49] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 55-62: AAS 57 (1965), 59-63.
[50] Xem ibid., 53, 56, 61, 63: AAS 57 (1965), 59; 60; 63; 64.
[51] X. ibid., 60, 62, 63, 65: AAS 57 (1965), 62; 63; 64; 65.
[52] Ibid., 62: AAS 57 (1965), 63.
[53] X. Đức Phanxicô, Buổi Tiếp kiến Chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8.
[54] Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên bố Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), đoạn 13: AAS 92 (2000), 754-755.
[55] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.
[56] Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên bố Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), đoạn 14.
[57] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 1: AAS 57 (1965), 5; Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 112: AAS 105 (2013), 1066.
[58] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 65: AAS 57 (1965), 64-65; Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 288: AAS 105 (2013), 1136.
[59] Origen, In Numeros homilae, XII, 1: PG 12, 657.
[60] Ambrose, Thư tín. 29, 24: PL 16, 1106D.
[61] Thomas Aquinas, Commentaria super Ioannem, ch. 7, bài giảng. 5.
[62] X. Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 616 (DH 2803): “nhờ ân sủng và đặc ân đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng và xét về công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại”.
[63] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 38: AAS 79 (1987), 411.
[64] X. ibid., 21: AAS 79 (1987), 387-389.
[65] X. ibid., 23: AAS 79 (1987), 390-391.
[66] Đức Phanxicô, Suy niệm hằng ngày “Đức Mẹ Sầu Bi: Môn đệ và Mẹ” (3 tháng 4 năm 2020).
[67] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 55-62: AAS 57 (1965), 59-63.
[68] X. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 4: AAS 79 (1987), 421.
[69] X. Đức Phaolô VI, Diễn văn bế mạc Khóa họp thứ ba của Công đồng Vatican II (21 tháng 11 năm 1964): AAS 56 (1964), 1015: “Vậy, Đức Maria, với tư cách là Mẹ Chúa Kitô, cũng phải được xem là Mẹ của các tín hữu và của tất cả các mục tử; nghĩa là của Hội Thánh”; Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, đoạn 963.
[70] Đức Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 22: AAS 66 (1974), 133.
[71] H.U. von Balthasar, Theo-Drama: Lý thuyết Kịch nghệ Thần học: Dramatis Personae: Những Ngôi Vị trong Chúa Kitô, tập 3, dịch bởi G. Harrison, San Francisco 1992, 333.
[72] X. Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 56: AAS 57 (1965), 60: “[Bà] đã hoàn toàn hiến thân, như một nữ tỳ của Chúa, cho con người và công trình của Con mình, dưới quyền và với Người, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc, nhờ ân sủng của Thiên Chúa Toàn năng.”
[73] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 23: AAS 79 (1987), 391.
[74] Xem Đức Gioan Phaolô II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 69: AAS 57 (1965), 66: “Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.”
[75] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 38: AAS 79 (1987), 411; xem Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý, Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965), 63. Nội dung về chức làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria hiện diện trong các bản văn giáo phụ đầu tiên và có nền tảng Kinh Thánh chủ yếu trong Tin mừng Thánh Gioan — cụ thể là trong trình thuật về Thập Giá.
[76] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 21: AAS 79 (1987), 388: “[Thông tin] về biến cố Cana phác họa những gì thực sự được thể hiện như một kiểu làm mẹ mới theo tinh thần chứ không chỉ theo xác thịt, nghĩa là sự quan tâm của Đức Maria đối với con người, việc Mẹ đến với họ trong muôn vàn nhu cầu và mong muốn của họ.”
[77] Xem Đức Phanxicô, Bài giảng lễ trọng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (1 tháng 1 năm 2020): AAS 112 (2020), 19.
[78] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 38: AAS 79 (1987), 411-412; xem Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.
[79] Xem Đức Gioan Phaolô II, Buổi Tiếp kiến Chung (9 tháng 4 năm 1997), 2: L’Osservatore Romano, 10 tháng 4 năm 1997, 4: “Đức Maria… đã cộng tác trong suốt biến cố này và trong vai trò làm mẹ; do đó, sự cộng tác của Mẹ bao trùm toàn bộ công trình cứu độ của Chúa Kitô.”
[80] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62; Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, đoạn 970.
[81] Xem Đức Phanxicô, Buổi Tiếp kiến Chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8: “[Đức Maria] chỉ Đấng Trung gian: Mẹ là Đấng Trung gian. Sự hiện diện của Mẹ ở khắp mọi nơi trong nghệ thuật ảnh tượng Kitô giáo, đôi khi rất nổi bật, nhưng luôn luôn liên quan đến Con của Mẹ và trong sự kết nối với Người. Đôi tay, ánh mắt, cử chỉ của Mẹ là một ‘bài giáo lý’ sống động, luôn chỉ ra viên đá góc tường, trung tâm: Chúa Giêsu. Đức Maria hoàn toàn hướng về Người (x. GLHTCG, 2674).”
[82] Đức Gioan Phaolô II, Tông thư Rosarium Virginis Mariae (16 tháng 10 năm 2002), 4, trích dẫn Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 66: AAS 57 (1965), 65.
[83] Xem Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63: “[Vai trò phụ thuộc này của Đức Maria.”
[84] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 40: AAS 79 (1987), 414-415.
[85] Cùng nguồn, 43: AAS 79 (1987), 420.
[86] X. Đức Phanxicô, Diễn văn nhân dịp đọc kinh Mân Côi tại Vương cung thánh đường Thánh Đức Maria Cả, (4 tháng 5 năm 2013): L’Osservatore Romano, 6-7 tháng 5 năm 2013, 7.
[87] Đức Leo XIV, Bài giảng trong Thánh lễ Năm Thánh của Tòa thánh (9 tháng 6 năm 2025): L’Osservatore Romano, 10 tháng 6 năm 2025, 2.
[88] X. Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin Mừng (24 tháng 11 năm 2013), 285: AAS 105 (2013), 1135.
[89] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 176: L’Osservatore Romano, 24 tháng 10 năm 2024, 10.
[90] X. Đức Phanxicô, Tiếp kiến chung (18 tháng 11 năm 2020): L’Osservatore Romano, 18 tháng 11 năm 2020, 11.
[91] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 21: AAS 79 (1987), 388-389.
[92] X. Phanxicô, Bài giảng Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (01/01/2024): L’Osservatore Romano, 02/01/2024, 2.
[93] J.L. Guerrero Rosado, Nican mopohua: Aquí se cuenta… el gran acontecimento, Cuautitlán 2003, nn. 23, 119.
[94] Đức Gioan Phaolô II, Tiếp kiến chung (13 tháng 8 năm 1997), 4: L’Osservatore Romano, 14 tháng 8 năm 1997, 4.
[95] Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Đức Mẹ Guadalupe (12 tháng 12 năm 2022): L'Osservatore Romano, 13 tháng 12 năm 2022, 8; xem. Bài giảng Lễ Đức Mẹ Guadalupe (12 tháng 12 năm 2023): L’Osservatore Romano, 13 tháng 12 năm 2023, 11.
[96] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965), 11; Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 96: AAS 116 (2024), 1398.
[97] X. J. Ratzinger, Biên bản Feria IV ngày 21 tháng 2 năm 1996, trong Văn khố của Bộ Giáo lý Đức tin.
[98] Xem. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 21: AAS 79 (1987), 389. Đặc tính chuyển cầu của sự trung gian mẫu tử của Đức Maria là giáo huấn thường xuyên của các Giáo hoàng gần đây. Cf. Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 597-619; Leo XIII, Thông điệp Adiutricem Populi (5 tháng 9 năm 1895): ASS 28 (1895-1896), 129-136; Đức Piô X, Thông điệp Ad Diem Illum (02/02/1904): AAS 36 (1903-1904), 455; Đức Piô XII, Thông điệp Ad Caeli Reginam (11/10/1954), 17: AAS 46 (1954), 636.
[99] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.
[100] Thánh Augustinô, De peccatorum Meriis et remissione et de Baptisto parvulorum, I, 11, 13: CSEL 60, 14.
[101] Thánh Augustinô, Bài giảng 23/A: CCSL 41, 322.
[102] Thánh Thomas Aquinas, Thần học tổng hợp, I-II, q. 114, A. 6, đồng.
[103] Công đồng Trent, Khóa VI. Sắc lệnh về Sự Công chính hóa, ch. 7: ĐH 1530.
[104] Đức Piô IX, Tông Hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 616.
[105] Thánh Thomas Aquinas, Thần học tổng hợp, I-II, q. 113, A. 9, đồng.
[106] Như trên, q. 114, A. 6, quảng cáo 3.
[107] Như trên, q. 114, A. 5, đồng.
[108] X. như đã dẫn, q. 114, A. 1, đồng.
[109] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 21: AAS 79 (1987), 389.
[110] Xem Đức Phanxicô, Buổi Triều Yết Chung (8 tháng 6 năm 2016): L’Osservatore Romano, 9 tháng 6 năm 2016, 8.
[111] Xem Đức Phanxicô, Buổi Triều Yết Chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8; Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, đoạn 2764.
[112] Xem Đức Phanxicô, Diễn văn của Đức Thánh Cha trong Giờ Kinh Mân Côi (31 tháng 5 năm 2013): L’Osservatore Romano, 2 tháng 6 năm 2013, 8.
[113] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965), 63.
[114] Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo, par. 2003.
[115] Như trên, số 1999.
[116] X. Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, I-II, q. 114, a.1, co.; Quaestiones disputatae de Veritate, 27, a. 3, ad.10.
[117] Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, III, q. 64, A. 1, co.: “solus Deus illabitur animae.”
[118] X. Công đồng Trent, Khóa VI. Sắc lệnh về Sự Công chính hóa, ch. 7 (DH 1528-1531), và Điều 11 của Bộ Luật Công Chính Hóa (DH 1561).
[119] X. Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 28, A. 2, ad.8; Summa contra gentiles, II, cap. 98, n. 18; ibid., III, cap. 88, n. 6.
[120] X. Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 27, A. 3, s.c. 5.
[121] Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, III, q. 64, A. 1, co.
[122] Chẳng hạn, xem Gennadius xứ Massilia, De ecclesiasticis dogmatibus, 83: PL 58, 999B; John Cassian, Collationes, VII, 13: PL 49, 683A; Jerome, Interpretatio libri Didymium de Spiritu Sancto, 60: PL 23, 158C..
[123] X. Thánh Bonaventure, Collationes in Hexaemeron, XXI, 18: Opera Omnia, V, Quaracchi 1891, 434.
[124] X. Thánh Bonaventure, Sententiarum Lib. I, d.14, a. 2, q. 2, ad 2: Opera Omnia, I, Quaracchi 1891, 250.
[125] X. như đã dẫn, q. 2, quỹ. 3, 251.
[126] X. như đã dẫn, q. 2, quỹ. 4 và 8, 251-252.
[127] X. Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I, q. 33, A. 3; như đã dẫn., III, q. 23, A. 4.
[128] Thánh Thomas Aquinas, Compendium theologiae, I, no. 215; xem. Tổng luận Thần học, III, q. 2, A. 10.
[129] Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, III, q. 8, A. 5, đồng.; xem. như đã dẫn, q. 2, A. 12; Một. 9; q. 48, A. 1.
[130] Thánh Thomas Aquinas, Compendium theologiae, I, no. 214.
[131] Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 29, A. 5, co.
[132] Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên bố Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), 10; xem. Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 59-63: AAS 116 (2024), 1386-1387.
[133] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (7/12/1965), 22: AAS 58 (1966), 1042-1043.
[134] X. Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, I-II, q. 112, A. 1, co.
[135] X. Thomas Aquinas, In Ioannes Evàngelium, cap. 1, câu 16, bài 10; Tổng luận Thần học, I-II, q. 112, A. 1, ad.1.
[136] Thomas Aquinas, Compendium theologiae, I, no. 214.
[137] Dante Alighieri, Thần khúc, Paradiso, XXXIII, 1.
[138] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60, 62: AAS 57 (1965), 62-63; Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, III, q. 26.
[139] Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, Kinh Tiền tụng cho Lễ trọng Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Sách Lễ Rôma, Nhà xuất bản Sách Công Giáo, New Jersey 2011, 873.
[140] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62.
[141] Xem Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, đoạn 2002.
[142] Xem Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận Thần học I, câu 25, câu 3, mục 4. Cũng như công trình sáng tạo, sự công chính hóa “thuộc về một mình Thiên Chúa để thực hiện ngay lập tức.”
[143] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.
[144] Xem Origen, In Genesim homiliae XIII, 3-4: PG 12, 232B-234CD.
[145] X. Thánh Cyril thành Alexandria, In Ioannis Evàngelium, II, 4, 13-14: PG 73, 300C.
[146] X. Thánh Cyril thành Alexandria, Commentarius in Isaiam Prophetam, V, II, 55, 1-2: PG 70, 1220A.
[147] X. Thánh Cyril thành Jerusalem, Catechesis mystagogica, XVI, 11: PG 33, 932C.
[148] X. John Chrysostom, Hom. In Ioannem, 51, 1: PG 59, 283.
[149] Ambrose, Explanatio Psalmorum XII, Ps. 48, 4, 2: PL 14, 1157A.
[150] Ambrose., De Noe, 19, 70: PL 14, 395A.
[151] X. Ambrose, Explanatio Psalmorum XII, Ps. 48, 4, 2: PL 14, 1157A.
[152] X. Jerome, Comm. in Zachariam, III, 14, 8.9: PL 25, 1528 C.
[153] Thánh Gregory Cả, Hom. in Ezechielem, I, 10, 6: PL 76, 888B.
[154] X. Thánh Hilary, Tractatus in Psalmos, 64, 14: PL 9, 421B.
[155] Thánh Augustinô, In Ioannis Evàngelium, 32, 4: PL 35, 1643D.
[156] Thánh Thomas Aquinas, Super Ioannem, chap. 7, bài giảng. 5.
[157] Đã dẫn.; xem. Tổng luận Thần học, II-II, q. 178, A. 1, s.c.
[158] Thánh Cyril thành Jerusalem, Catechesis mystagogica XVI, 12: PG 33, 933B.
[159] Thánh Gioan XXIII, Thông điệp Mater et Magistra (15/5/1961): AAS 53 (1961), 462.
[160] Đức Gioan Phaolô II, Thư gửi Bề trên Tổng quyền của Dòng Chúa Giêsu, Paray-le-Monial (5 tháng 10 năm 1986): L’Osservatore Romano, 6 tháng 10 năm 1986, 7, được Đức Phanxicô trích dẫn, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 182: AAS 116 (2024), 1427.
[161] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 5: AAS 101 (2009), 643.
[162] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 198, 200: AAS 116 (2024), 1432.
[163] X. Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, I-II, q. 5, A. 6, co. và như trên, ad.1; Những câu hỏi tranh luận về Chân lý, q. 27, A. 3, s.c. 5. Những lập luận mà Thánh Thomas Aquinas sử dụng để giải thích tại sao chỉ có Thiên Chúa chứ không phải thụ tạo nào mới có thể ban ân sủng thì không thể bị coi là bị thay thế, kể cả trong công trình của ngài hay sau đó.
[164] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62; xem. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I, q. 25, A. 3, ad.4; Scriptum super Sententiis., II, d. 26, q. 1, A. 2, co.; như đã dẫn., IV, d. 5, q. 1, A. 3, qc. 1, ad.1.
[165] X. Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 27, A. 3, s.c.5. Một lần nữa, người ta có thể nhắc lại rằng: “Sed mentem, in qua est gratia, nulla creatura illabitur”.
[166] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62.
[167] Cùng nguồn, 62: AAS 57 (1965), 63.
[168] X. Thánh Thomas Aquinas, Summa contra Gentiles, II, ch. 21, no. 7. Một tác nhân công cụ đóng góp một điều gì đó của riêng nó: “Omne agens instrumentale exequitur actionem principalis agentis per aliquam actionem propriam et connaturalem sibi.”
[169] Như trên, III, ch. 147, mệnh giá. 6; xem, Summa Theologiae, I, q. 45, A. 5, co.
[170] Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I-II, q. 5, A. 6, ad 1.
[171] Xem Công đồng Trentô, Phiên họp VI. Decretum de iustificatione, 8: DH 1532.
[172] Xem Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I-II, q. 114, a. 5, co.: “Khi ai có ân sủng, thì ân sủng đã có không phải là công trạng.” Mặc dù người được công chính hóa có thể xứng đáng được tăng trưởng trong đời sống ân sủng, nhưng việc được công chính hóa, trở thành bạn của Thiên Chúa nhờ ân sủng, sẽ luôn luôn là hoàn toàn nhưng không.
[173] Điều mà Thánh Tôma Aquinô gọi là “sự sắp đặt cuối cùng”, xảy ra đồng thời với việc tuôn đổ ơn thánh hóa, chính là công trình trực tiếp của ân sủng. Đó là “sự sắp đặt cuối cùng mà hình thức tất yếu phải tuân theo”: Thánh Tôma Aquinô, Sententia Metaphysicae, lib. 5, lect. 2, n. 5; so sánh Scriptum super Sententiis, I, d. 17, q. 2, A. 3, co.; Summa contra gentiles, lib. 2, mũ lưỡi trai. 19, n. 6; Compendium theologiae, I, n. 105.
[174] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965), 63.
[175] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 45: AAS 79 (1987), 422-423.
[176] Đức Phanxicô, Tiếp kiến chung (18 tháng 11 năm 2020): L’Osservatore Romano, 18 tháng 11 năm 2020, 11.
[177] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 20: AAS 79 (1987), 387.
[178] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 53: AAS 57 (1965), 58-59.
[179] Thánh Au-gus-ti-nô, Bài giảng 72/A, 7: CCSL 41Ab, 117.
[180] Đức Phanxicô, Buổi tiếp kiến chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8.
[181] Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 35: AAS 66 (1974), 147.
[182] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 46: AAS 79 (1987), 424.
[183] Bộ Giáo lý Đức tin, Các quy tắc tiến hành trong việc phân định các hiện tượng được cho là siêu nhiên (17 tháng 5 năm 2024), đoạn 1. 12: AAS 116 (2024), 782.
[184] Đức Phanxicô, Tiếp kiến chung (16 tháng 2 năm 2022): L’Osservatore Romano, 16 tháng 2 năm 2022, 2.
[185] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 285: AAS 105 (2013), 1134-1135.
[186] Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25/12/2005), 42: AAS 98 (2006), 252.
[187] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 284: AAS 105 (2013), 1134.
[188] X. như trên, 113: AAS 105 (2013), 1067.
[189] Đức Leo XIV, Phép lành Tòa thánh đầu tiên “Urbi et Orbi” (8 tháng 5 năm 2025): L’Osservatore Romano, 9 tháng 5 năm 2025, 3.
[190] Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 37 (15 tháng 8 năm 2022): AAS 114 (2022), 1255.
[191] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 285: AAS 105 (2013), 1135.
[192] Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 28: AAS 79 (1987), 398.
[193] Mỹ Latinh và Hội đồng Giám mục Caribe, Đại hội đồng lần thứ V của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe (Aparecida, 13-31 tháng 5 năm 2007), đoạn 265.
[194] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 35: AAS 79 (1987), 407.
[195] Đức Phanxicô, Bài giảng lễ trọng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (1 tháng 1 năm 2024): AAS 116 (2024), 20.
[196] Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Đại hội đồng lần thứ V của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe (Aparecida, 13-31 tháng 5 năm 2007), đoạn 259.
Mater Populi Fidelis
Ghi chú Giáo lý về Một số Tước hiệu của Đức Mẹ
Về Sự Hợp Tác của Đức Maria trong Công trình Cứu Độ
Trình bầy
Ghi chú này đáp lại khá nhiều yêu cầu và đề xuất đã được gửi đến Tòa Thánh trong những thập niên gần đây, đặc biệt Bộ này, liên quan đến các vấn đề về lòng sùng kính Đức Mẹ và một số tước hiệu Đức Mẹ. Đây là những vấn đề mà các Đức Giáo Hoàng gần đây quan tâm và đã được đề cập nhiều lần trong ba mươi năm qua trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau của Bộ, chẳng hạn như các Đại hội và Hội nghị Thường kỳ. Điều này cho phép Bộ biên soạn một khối lượng tài liệu phong phú và dồi dào, nuôi dưỡng suy tư này.
Trong khi minh xác ý nghĩa của một số tước hiệu và cách diễn đạt liên quan đến Đức Mẹ, bản văn này cũng nhằm thâm hậu nền tảng đúng đắn của lòng sùng kính Đức Mẹ bằng cách nêu rõ vị trí của Đức Maria trong mối tương quan của Mẹ với các tín hữu dưới ánh sáng Mầu nhiệm Chúa Kitô như Đấng Trung Gian và Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Điều này đòi hỏi một lòng trung thành sâu sắc với bản sắc Công Giáo, đồng thời cũng đòi hỏi một nỗ lực đại kết đặc biệt.
Chủ đề trung tâm xuyên suốt tất cả các trang này là tình mẫu tử của Đức Maria đối với các tín hữu. Chủ đề này xuất hiện nhiều lần trong văn kiện, với những tuyên bố được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, mỗi lần đều có những xem xét mới, làm phong phú và hoàn thiện chúng theo một vòng xoáy ốc.
Lòng sùng kính Thánh Mẫu, mà tình mẫu tử của Đức Maria tạo ra, được trình bày ở đây như một kho tàng của Giáo hội. Lòng sùng kính của dân trung thành của Thiên Chúa– những người tìm thấy ở Đức Maria nơi nương náu, sức mạnh, sự dịu dàng và hy vọng – không được suy gẫm ở đây để sửa chữa nó, nhưng trên hết, để trân trọng, ngưỡng mộ và khuyến khích nó. Bởi vì lòng sùng kính này là một biểu thức đầy huyền nhiệm và tượng trưng của một thái độ tin tưởng vào Chúa theo tinh thần Tin Mừng, được Chúa Thánh Thần tự do khơi dậy trong các tín hữu. Thực thế, người nghèo “cũng tìm thấy tình yêu thương và lòng trìu mến của Thiên Chúa nơi khuôn mặt Đức Maria. Nơi Mẹ, họ thấy phản chiếu thông điệp cốt lõi của Tin mừng.” [1]
Tuy nhiên, có một số nhóm suy tư về Đức Mẹ, các ấn phẩm, các chương trình sùng kính mới, và thậm chí cả những yêu cầu về tín điều Thánh Mẫu không có cùng đặc điểm với lòng sùng kính bình dân. Thay vào đó, tựu chung, họ đề xuất một sự phát triển tín điều đặc thù và lên tiếng một cách mạnh mẽ thông qua mạng xã hội, thường gây hoang mang cho các tín hữu bình thường. Đôi khi, những sáng kiến này thậm chí còn bao gồm việc diễn giải lại các cách diễn đạt đã được sử dụng trong quá khứ với nhiều ý nghĩa khác nhau. Tài liệu này xem xét những đề xuất như vậy để cho thấy một số người đáp ứng lòng sùng kính Đức Mẹ một cách chân chính ra sao nhờ được gợi hứng từ Tin mừng, và những người khác nên tránh chúng ra sao vì chúng không thúc đẩy việc chiêm niệm đúng đắn sự hài hòa của toàn bộ sứ điệp Kitô giáo.
Hơn nữa, nhiều đoạn trong Ghi chú này cung cấp một sự phát triển Kinh Thánh rộng lớn để cho thấy lòng sùng kính Thánh Mẫu chân chính không chỉ được tìm thấy trong Truyền thống phong phú của Giáo hội mà còn trong Kinh Thánh. Dấu ấn Kinh Thánh nổi bật của văn kiện này được đi kèm với các bản văn của các Giáo phụ và Tiến sĩ Hội thánh, cũng như của các vị Giáo hoàng gần đây. Do đó, thay vì đề xuất những giới hạn, Ghi chú này tìm cách đồng hành và duy trì tình yêu của Đức Maria và niềm tin vào sự chuyển cầu của Mẹ.
Hồng Y Victor Manuel Fernández
Bộ trưởng
[1] Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Đại hội đồng lần thứ V của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Văn kiện Kết luận (Aparecida, 13-31 tháng 5 năm 2007), đoạn 265. Được trích dẫn trong đoạn 78 của Ghi chú này.
Dẫn nhập
27. [Mater Populi Fidelis] Mẹ của Dân Trung thành [1] được các Kitô hữu nhìn với lòng trìu mến và ngưỡng mộ bởi vì, nhờ ân sủng làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô, Đức Maria là biểu thức hoàn hảo nhất của hành động Chúa Kitô biến đổi nhân tính của chúng ta. Mẹ là biểu hiện nữ tính của tất cả những gì ân sủng Chúa Kitô có thể thực hiện được nơi một con người. Trước vẻ đẹp ấy và được tình yêu thương lay động, trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều tín hữu đã tìm cách dùng những lời lẽ mỹ miều nhất để ca ngợi vị trí đặc biệt của Mẹ bên Chúa Kitô.
2. Gần đây, Thánh Bộ này đã công bố các Quy tắc Tiến hành Phân định các Hiện tượng Được cho là Siêu nhiên.[2] Một số danh xưng[3] và biểu thức thường được sử dụng để chỉ Đức Trinh Nữ Maria liên quan đến những hiện tượng này. Tuy nhiên, những danh xưng này — một số đã xuất hiện trong các tác phẩm của các Giáo phụ — không phải lúc nào cũng được sử dụng chính xác, và ý nghĩa của chúng đôi khi bị thay đổi hoặc hiểu sai. Ngoài các vấn đề về thuật ngữ, một số danh xưng còn gây ra những khó khăn đáng kể về nội dung vì chúng thường có nguy cơ dẫn đến sự hiểu lầm về vai trò của Đức Maria, điều này gây ra những hậu quả nghiêm trọng ở các bình diện Kitô học, Giáo hội học[4] và nhân học[5].
3. Vấn đề chính trong việc giải thích những danh hiệu đó khi áp dụng cho Đức Trinh Nữ Maria là làm thế nào để hiểu mối liên hệ của ngài với công trình cứu chuộc của Chúa Kitô — tức là, “đâu là ý nghĩa của sự hợp tác độc đáo của Đức Maria trong kế hoạch cứu rỗi?” [7] Tài liệu này, không có ý định bao quát hay trình bày cặn kẽ, nhưng tìm cách duy trì sự cân bằng cần thiết phải được thiết lập trong các mầu nhiệm Kitô giáo giữa sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô và sự cộng tác của Đức Maria trong công trình cứu độ, và tìm cách cho thấy điều này được thể hiện như thế nào qua các tước hiệu khác nhau của Đức Maria.
Sự Cộng Tác của Đức Maria trong Công Trình Cứu Độ
4. Theo truyền thống, sự cộng tác của Đức Maria trong công trình cứu độ được tiếp cận từ hai góc nhìn: sự tham gia của ngài vào công trình cứu chuộc khách quan mà Chúa Kitô đã hoàn thành trong cuộc đời trần thế của Người — đặc biệt là trong Mầu Nhiệm Vượt Qua — và ảnh hưởng mà ngài hiện đang có đối với những người đã được cứu chuộc. Thật vậy, hai vấn đề này có liên quan với nhau và không thể được xem xét tách biệt nhau.
5. Sự tham gia của Đức Maria vào công trình cứu độ của Chúa Kitô được chứng thực trong Kinh Thánh, trình bày biến cố cứu độ được hoàn thành nơi Chúa Giêsu Kitô như một lời hứa trong Cựu Ước và như một sự ứng nghiệm trong Tân Ước. Đức Maria được báo trước trong sách Sáng Thế 3:15 bởi vì ngài là người phụ nữ được chia sẻ chiến thắng cuối cùng trên con rắn. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu gọi Đức Maria là “Người Đàn Bà [Woman]” trên đồi Can-va-ri-ô (Ga 19:26). Tương tự như vậy, tại Cana, Người gọi ngài là “Người Đàn Bà” (Ga 2:4), ám chỉ Đức Maria và vai trò của ngài, cùng với Người, trong “giờ” Thập Giá.
6. Trong “giờ” đó, sự hợp tác của Đức Maria xuất hiện khi ngài lặp lại lời “Xin Vâng” của biến cố Truyền Tin. Trong khoảnh khắc thiêng liêng đó, Tin mừng chuyển từ việc đặt trên môi Chúa Giêsu từ “Người Đàn Bà” (Ga 19:26) sang việc trình bầy ngài như “Mẹ” (Ga 19:27). Khi Tin mừng giải thích rằng, để đáp lại, người môn đệ (đại diện cho tất cả chúng ta) đã đón nhận ngài, Tin mừng sử dụng một động từ (lambanō), trong Tin mừng này, mang nghĩa “đón nhận” vì đức tin (x. Ga 1:11-12; 5:43; và 13:20). Tin mừng thứ tư sử dụng cùng động từ này để diễn tả việc Ánh Sáng đã đến với những người thuộc về Người, nhưng họ đã không “đón nhận” Người (Ga 1:11). Nói cách khác, người môn đệ thay thế chúng ta bên cạnh Đức Maria đã đón nhận Mẹ như một người mẹ trong đức tin. Chỉ sau khi trao phó chúng ta cho Đức Maria làm mẹ, Chúa Giêsu mới thừa nhận rằng “mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:28). Sự ám chỉ long trọng này về sự hoàn tất ngăn chặn mọi diễn giải hời hợt về sự kiện này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với chúng ta là một phần của sự hoàn tất kế hoạch thần linh, được thực hiện trong Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô. Tương tự như vậy, Sách Khải Huyền trình bày “Người Đàn Bà” (Kh 12:1) là mẹ của Đấng Mê-xi-a (x. Kh 12:5) và là mẹ của “những người con khác của bà” (Kh 12:17).
7. Cần nhớ rằng Đức Maria thành Na-da-rét có thể được coi là “nhân chứng đặc ân”[8] của các biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu[9] xuất hiện trong các sách Tin mừng (x. Lc 1-2; Mt 1-2). Trong lời tựa của Tin mừng, Luca thông báo cho độc giả rằng “vì nhiều người đã bắt tay vào việc biên soạn một trình thuật về những điều đã được thực hiện giữa chúng ta, đúng như những người đã chứng kiến từ ban đầu đã truyền lại cho chúng ta”, nên ngài cũng quyết định “điều tra lại mọi sự một cách chính xác” (Lc 1:1-3). Trong số những nhân chứng đó, Đức Maria nổi bật như là nhân vật chính trực tiếp trong việc thụ thai, sinh ra và thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Điều tương tự cũng có thể nói về các tường thuật về Cuộc Khổ Nạn, vì Đức Maria “đứng gần thập giá Chúa Giêsu” với tư cách là “mẹ Người” (Ga 19:25), và cũng nói về giai đoạn trước Lễ Ngũ Tuần, khi các Tông đồ “chuyên tâm cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu” (Cv 1:14).
8. Tin mừng Luca trình bày Đức Maria như “Con Gái Xion” mới, người đón nhận và truyền lại niềm vui cứu độ. Luca thu thập những lời hứa tiên tri báo trước niềm vui cứu thế (x. Xp 3:14-17; Dcr 9:9). Nơi Đức Maria, những lời hứa đó được ứng nghiệm, khiến Gioan Tẩy Giả nhảy mừng (x. Lc 1:41). Bà Êlisabét tự nhận mình không xứng đáng được Đức Maria viếng thăm, bà nói: “Tôi là ai mà Mẹ Chúa tôi đến với tôi?” (Lc 1:43). Bà không nói: “Tôi là ai mà Chúa tôi đến với tôi?” nhưng đề cập trực tiếp đến người mẹ, qua đó chỉ ra mối liên hệ không thể tách rời giữa sứ mệnh của Chúa Kitô và sứ mệnh của Đức Maria. Bà Êlisabét nói đầy tràn Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,41), do đó thái độ của bà đối với Đức Maria được trình bày như một mẫu gương về đức tin. Sau đó, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, bà Êlisabét nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang được chúc phúc!” (Lc 1,42). Điều đáng chú ý là, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, việc bà gọi Chúa Giêsu là “có phúc” là chưa đủ; bà cũng gọi mẹ của Người là “có phúc”, nhận thức rằng họ đã kết hợp mật thiết trong khoảnh khắc vui mừng của Đấng Thiên Sai này. Ở đây, Đức Maria xuất hiện như một người được chúc phúc một cách trổi vượt: “Phúc cho em là người đã tin” (Lc 1,45); “thần trí tôi vui mừng” (Lc 1,47); “mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1,48). Mô tả này càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta lưu ý rằng, trong Tin mừng Luca, phúc lành này không được xem như một trạng thái tinh thần mà là sự ứng nghiệm lời hứa về Đấng Mê-xi-a giữa những người bé nhỏ (x. Lc 6:20-22), những người sẽ nhận được “phần thưởng lớn lao” (Lc 6:23).
9. Về sự phát triển thần học của những chủ đề này trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, các Giáo phụ chủ yếu quan tâm đến chức làm mẹ thần linh của Đức Maria (Theotokos), sự đồng trinh trọn đời (Aeiparthenos), sự thánh thiện hoàn hảo của Đức Maria như một người không hề vướng bận tội lỗi suốt cuộc đời (Panagia), và vai trò của Đức Maria là Evà Mới,[10] suy tư về sự liên kết của Đức Maria với Công trình Cứu chuộc của Chúa Kitô trong bối cảnh mầu nhiệm Nhập thể. Lời “Xin Vâng” của Đức Maria với sứ điệp của sứ thần Gabrien – để Ngôi Lời Thiên Chúa có thể trở nên xác phàm trong cung lòng Mẹ (x. Lc 1,26-37) – mở ra cho nhân loại khả thể thần hóa. Vì lý do này, Thánh Augustinô gọi Đức Trinh Nữ là “người cộng tác” vào Công trình Cứu chuộc của Chúa Kitô, qua đó nhấn mạnh cả hành động của Đức Maria bên cạnh Chúa Kitô cũng như sự tùng phục của Mẹ đối với Người, vì Đức Maria cộng tác với Chúa Kitô để “các tín hữu có thể được sinh ra trong Giáo hội.”[11] Vì lý do này, chúng ta có thể gọi Mẹ là Mẹ của Dân Trung thành của Thiên Chúa.
10. Trong thiên niên kỷ đầu tiên, việc suy tư về Đức Trinh Nữ Maria trong Giáo hội không thể tách rời khỏi phụng vụ. Sự đa dạng to lớn và phong phú của các truyền thống phụng vụ Kitô giáo Đông phương đã tìm cách trở thành tiếng vang trung thành của Kinh Thánh, các Công đồng và các Giáo phụ. Lex orandi, sau này phát triển thành lex credendi, đã định hình nên Thánh mẫu học Đông phương thông qua nghệ thuật thánh ca, nghệ thuật biểu tượng và lòng đạo đức bình dân.[12] Ví dụ, bắt đầu từ thế kỷ thứ năm, các lễ kính Đức Mẹ Maria đầu tiên được thiết lập ở Đông phương và sau đó, bắt đầu từ thế kỷ thứ bảy, lan sang phương Tây. Các Giáo hội Đông phương tưởng niệm sự tham gia của Mẹ Thiên Chúa vào công trình cứu độ không chỉ trong các kinh anaphora và phụng vụ Thánh Thể mà trên hết, thông qua các bản văn thánh ca được sử dụng trong các Giờ kinh chính thức của họ, hiện diện trong các truyền thống phụng vụ khác nhau của Kitô giáo Đông phương. Tuyển tập thánh ca của họ đầy rẫy những sáng tác dành riêng cho Đức Maria, với những ẩn dụ Kinh Thánh,[13] cho phép đào sâu hơn vào mầu nhiệm Nhập Thể và ý nghĩa của mầu nhiệm này đối với ơn cứu chuộc của chúng ta trong Chúa Kitô. Những thánh ca này sử dụng ngôn ngữ đầy tính biểu tượng thi ca, có khả năng truyền tải sự kinh ngạc và thán phục của những ai – mang cùng bản tính với Đức Maria – chiêm ngưỡng những kỳ công mà Đấng Toàn Năng đã thực hiện nơi Mẹ.[14]
11. Giáo huấn của các Công đồng Chung đầu tiên bắt đầu phác họa tín điều về Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, sau này được công bố tại Công đồng Êphêsô. Kitô giáo Đông phương luôn duy trì các tín điều được xác định bởi các công đồng đầu tiên này, ít nhất là trong số các Giáo hội đã chấp nhận Công đồng Êphêsô và Can-xê-đoan. Đồng thời, trong các truyền thống phụng vụ, thánh ca và biểu tượng của mình, Kitô giáo Đông phương đã tiếp nhận những câu chuyện và truyền thuyết phổ biến về Đức Maria về thời thơ ấu và cái chết của Chúa Giêsu. Những tường thuật như vậy tìm cách nuôi dưỡng lòng đạo đức của dân Chúa bằng cách cất lên tiếng nói trữ tình của những hình ảnh thi ca, với mục đích duy nhất là khơi dậy sự kinh ngạc. Lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa này cũng được thể hiện qua nghệ thuật ảnh tượng, cung cấp hình ảnh mô tả về Đức Maria và Ngôi Lời Nhập Thể. Điều đáng chú ý là các ảnh tượng truyền thống của những Giáo hội này — có liên hệ với các Công đồng Êphêsô và Can-xê-đoan — chủ yếu miêu tả Đức Maria là “Theotokos” (“Mẹ Thiên Chúa”).[15] Các ảnh tượng thuộc loại này được tạo ra để chiêm ngưỡng Đức Trinh Nữ Maria, người trình diện Con mình, Chúa Giêsu Hài Đồng, cho thế giới và ôm lấy Người trong khi cũng cầu bầu cho nhân loại trước Người. Do đó, nghệ thuật ảnh tượng Đức Maria Đông phương, như một giáo lý sơ truyền [kerygma] và lời nhắc nhở trực quan đầy màu sắc về thần học của các Công đồng sơ khai và các Giáo phụ, tìm cách trở thành bản dịch trực quan của các tước hiệu được áp dụng riêng cho Đức Trinh Nữ.[16] Vì lý do này, các ảnh tượng phải được “đọc” dưới ánh sáng của phụng vụ và các thánh ca của Giáo hội. Đức Maria không phải là đối tượng của lòng sùng kính được đặt cạnh Chúa Kitô, nhưng Mẹ được đưa vào mầu nhiệm Chúa Kitô qua mầu nhiệm Nhập Thể.[17] Mẹ là ảnh tượng trong đó Chúa Kitô được tôn kính. Mẹ là Theotokos, Đức Mẹ Đồng Trinh, Đấng trao ban Con mình, Chúa Giêsu Kitô, cho chúng ta. Đồng thời, Mẹ cũng là Odēgētria, Đấng dùng tay chỉ cho chúng ta Con Đường duy nhất, đó là Chúa Kitô.
12. Bắt đầu từ thế kỷ XII, thần học phương Tây[18] đã hướng sự chú ý đến mối tương quan gắn kết Đức Mẹ Đồng Trinh với mầu nhiệm Cứu Chuộc đẫm máu của Chúa Kitô trên đồi Can-va-ri-ô, liên kết lời tiên tri của Si-mê-ong về lưỡi gươm với Thập Giá của Chúa Kitô. Sự hiện diện của Đức Maria dưới chân Thập Giá được xem là dấu chỉ của lòng kiên cường Kitô giáo, tràn đầy tình mẫu tử. Thánh Ber-na-đô thành Clairvaux đã nói về sự cộng tác của Đức Mẹ vào hy lễ cứu chuộc khi bình luận về việc Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ.[19] Arnold, một người bạn của Thánh Ber-na-đô và là viện phụ dòng Biển Đức ở Bonneval (sau năm 1159), là người đầu tiên xem xét sự hợp tác của Đức Maria với hy lễ trên đồi Can-va-ri-ô, đứng cạnh Con của Mẹ, Chúa Giêsu Kitô.[20]
13. Sự hợp tác của Đức Mẹ với Con của Mẹ trong công trình Cứu Độ đã được Huấn quyền Giáo hội dạy.[21] Như Công đồng Vatican II tuyên bố, “vì vậy, các Giáo phụ thánh thiện đã đúng khi nhìn Đức Maria không chỉ là một dụng cụ thụ động trong tay Thiên Chúa, mà còn là người tự do cộng tác vào công trình cứu độ nhân loại qua đức tin và sự vâng phục.” [22] Sự cộng tác này không chỉ hiện diện trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu (khi thụ thai, sinh ra, tử nạn và Phục sinh) mà còn trong suốt cuộc đời của Giáo hội.
14. Tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội làm nổi bật tính ưu việt và duy nhất của Chúa Kitô trong công trình Cứu Chuộc, vì tín điều này dạy rằng Đức Maria – người đầu tiên được cứu chuộc – đã được Chúa Kitô cứu chuộc và được Chúa Thánh Thần biến đổi, trước bất cứ hành động nào có thể xảy ra của chính mình.[23] Từ điều kiện đặc biệt này là người đầu tiên được Chúa Kitô cứu chuộc và người đầu tiên được Chúa Thánh Thần biến đổi, Đức Maria có thể cộng tác mạnh mẽ và sâu sắc hơn với Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần, trở thành nguyên mẫu,[24] khuôn mẫu và tấm gương cho những gì Thiên Chúa muốn thực hiện nơi mỗi người được cứu chuộc.[25]
15. Sự cộng tác của Đức Maria vào công trình cứu độ mang cấu trúc Ba Ngôi, vì đó là hoa trái sáng kiến của Chúa Cha, Đấng “đã đoái nhìn đến phận hèn của nữ tỳ Người” (Lc 1,48); nó phát xuất từ sự tự hủy của Chúa Con, Đấng đã hạ mình xuống mặc lấy thân phận tôi tớ (x. Pl 2,7-8); và đó là hiệu quả của ân sủng Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,28.30), Đấng đã chuẩn bị tâm hồn người thiếu nữ thành Na-da-rét để đáp lại lời Truyền Tin và trong suốt cuộc đời hiệp thông với Chúa Con. Thánh Phaolô VI dạy rằng “nơi Đức Trinh Nữ Maria, mọi sự đều quy chiếu về Chúa Kitô và tùy thuộc vào Người. Chính vì hướng về Chúa Kitô mà Thiên Chúa Cha, từ muôn đời, đã chọn Mẹ làm Mẹ thánh thiện và trang điểm cho Mẹ bằng những hồng ân của Chúa Thánh Thần mà không ai khác có thể ban cho Mẹ.”[26] Lời “Xin Vâng” của Đức Maria không chỉ là một điều kiện tiên quyết cho một điều gì đó có thể được thực hiện mà không cần sự đồng ý và hợp tác của Mẹ. Chức làm mẹ của Mẹ không chỉ mang tính sinh học, cũng không thụ động về bản chất,[27] mà là một chức làm mẹ “hoàn toàn chủ động”[28], được kết hợp với mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô như một khí cụ mà Chúa Cha đã muốn trong kế hoạch cứu độ của Người. Mẹ là “bảo chứng cho thấy Người thực sự là người, ‘sinh ra bởi một người nữ’ (Gl 4:4)” và, sau khi tín điều Ni-xê-a được công bố, Mẹ cũng được nhìn nhận như là “Theotokos, Đấng cưu mang Thiên Chúa.”[29]
Những danh xưng ám chỉ sự cộng tác của Đức Maria trong công trình cứu độ
16. Trong số những danh xưng được dùng để kêu cầu Đức Maria (“Mẹ của Lòng Thương Xót,” “Niềm Hy Vọng của Người Nghèo,” “Phù Hộ các Kitô Hữu,” “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp,” “Đấng Bào Chữa cho chúng ta,” v.v.), có một số danh xưng nhấn mạnh hơn đến sự cộng tác của Mẹ vào công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, chẳng hạn như “Đồng Công Cứu Chuộc” và “Đấng Trung Gian.”
Đồng Công Cứu Chuộc
17. Danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc” xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỷ XV như một sự sửa đổi cho lời cầu khẩn “Redemptrix” (viết tắt của danh xưng “Mẹ Đấng Cứu Chuộc”), vốn được gán cho Đức Maria từ thế kỷ X. Thánh Ber-na-đô đã dành cho Đức Maria một vai trò dưới chân Thập Giá, từ đó nảy sinh danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc”, xuất hiện lần đầu tiên trong một bài thánh ca khuyết danh từ Salzburg vào thế kỷ XV.[30] Mặc dù danh xưng “Redemptrix” vẫn tồn tại trong suốt thế kỷ XVI và XVII, nhưng nó đã hoàn toàn biến mất vào thế kỷ XVIII, và được thay thế bằng danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc [Coredemptrix]”. Nghiên cứu thần học về sự cộng tác của Đức Maria vào Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô trong nửa đầu thế kỷ XX đã dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về ý nghĩa của danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc”.[31]
18. Một số vị Giáo hoàng đã sử dụng tước hiệu “Đồng Công Cứu Chuộc” mà không giải thích nhiều về ý nghĩa của nó.[32] Nhìn chung, các ngài đã trình bày tước hiệu này theo hai cách chuyên biệt: ám chỉ đến chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria (trong chừng mực ngài, với tư cách là Mẹ, đã làm cho Công trình Cứu Chuộc được Chúa Kitô hoàn thành[33] trở thành khả hữu) hoặc ám chỉ đến sự kết hợp của Mẹ với Chúa Kitô trên Thập Giá cứu chuộc.[34] Công đồng Vatican II đã tránh sử dụng tước hiệu này vì lý do tín lý, mục vụ và đại kết. Thánh Gioan Phaolô II đã gọi Đức Maria là “Đồng Công Cứu Chuộc” ít nhất bảy lần, đặc biệt liên hệ tước hiệu này với giá trị cứu độ của những đau khổ của chúng ta khi chúng được dâng hiến cùng với những đau khổ của Chúa Kitô, Đấng mà Đức Maria được kết hợp đặc biệt trên Thập Giá.[35]
19. Trong phiên họp Thường lệ (Feria) IV ngày 21 tháng 2 năm 1996, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, lúc đó là Tổng Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã được hỏi liệu yêu cầu của phong trào Vox Populi Mariae Mediatrici về việc định nghĩa một tín điều tuyên bố Đức Maria là “Đấng Đồng Cứu Chuộc” hay “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng” có được chấp nhận hay không. Trong ý kiến cá nhân, ngài trả lời: “Phản đối. Ý nghĩa chính xác của những tước hiệu này không rõ ràng, và giáo lý chứa đựng trong đó chưa chín muồi. Một giáo lý được định nghĩa về đức tin thần linh thuộc về Depositum Fidei — tức là thuộc về mặc khải thần linh được truyền đạt trong Kinh Thánh và truyền thống tông đồ. Tuy nhiên, không rõ giáo lý được diễn đạt trong những tước hiệu này hiện diện như thế nào trong Kinh Thánh và truyền thống tông đồ.”[36] Sau đó, vào năm 2002, ngài đã công khai bày tỏ quan điểm phản đối việc sử dụng danh xưng này: “Công thức ‘Đồng Công Cứu Chuộc’ đi quá xa, ra ngoài ngôn ngữ của Kinh Thánh và của các Giáo Phụ, và do đó gây ra nhiều hiểu lầm… Mọi sự đều đến từ Người [Chúa Kitô], như Thư gửi tín hữu Êphêsô và đặc biệt là Thư gửi tín hữu Côlôsê đã cho chúng ta biết; Đức Maria cũng là tất cả những gì Mẹ là nhờ Người. Hạn từ ‘Đồng Công Cứu Chuộc’ sẽ làm lu mờ nguồn gốc này.” Mặc dù Đức Hồng Y Ratzinger không phủ nhận rằng có thể có những ý định tốt và những khía cạnh giá trị trong đề xuất sử dụng danh xưng này, nhưng ngài vẫn cho rằng chúng “đang được diễn đạt sai lầm”. [37]
20. Đức Hồng Y Ratzinger lúc bấy giờ đã nhắc đến Thư gửi tín hữu Ê-phê-sô và Cô-lô-sê, trong đó từ vựng và sức mạnh thần học của các bài thánh ca trình bày vị trí trung tâm cứu chuộc độc đáo của Chúa Con nhập thể theo cách không chừa chỗ cho bất cứ hình thức trung gian nào khác — vì “mọi phước lành thiêng liêng” được ban cho chúng ta “trong Đức Kitô” (Ê-phê-sô 1:3); chúng ta được nhận làm con cái nhờ Người (x. Ê-phê-sô 1:5); trong Người, chúng ta đã được ban ân sủng (x. Ê-phê-sô 1:6); “chúng ta được cứu chuộc nhờ máu Người” (Ê-phê-sô 1:7); và ân sủng của Người đã “được ban tràn đầy cho chúng ta” (Ê-phê-sô 1:8). “Trong Người, chúng ta đã được thừa hưởng gia nghiệp, vì đã được tiền định” (Ê-phê-sô 1:11). Trong Người, “tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa đã vui lòng ngự trị” (Cl 1:19), và vì Người và qua Người, Thiên Chúa đã muốn “hòa giải muôn vật” (Cl 1:20). Lời ca ngợi vị thế độc nhất của Chúa Kitô như vậy mời gọi chúng ta đặt mọi thụ tạo vào một vị thế sẵn sàng đón nhận Người và luôn thận trọng, cung kính mỗi khi đề xuất bất cứ hình thức hợp tác nào với Người trong lãnh vực Cứu Chuộc.
21. Ít nhất ba lần, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bày tỏ sự phản đối rõ ràng việc sử dụng danh hiệu “Đồng Công Cứu Chuộc”; ngài lập luận rằng Đức Maria “không bao giờ muốn chiếm đoạt bất cứ điều gì của Con mình cho riêng mình. Mẹ không bao giờ tự nhận mình là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Không, Mẹ chỉ là một môn đệ.”[38] Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô là hoàn hảo và không cần thêm thắt; do đó, “Đức Mẹ không muốn tước bỏ bất cứ danh hiệu nào của Chúa Giêsu… Mẹ không xin cho mình trở thành một Đấng bán cứu chuộc hay một Đấng đồng cứu chuộc: không. Chỉ có một Đấng Cứu Chuộc, và danh hiệu này không thể bị sao chép.”[39] Chúa Kitô “là Đấng Cứu Chuộc duy nhất; không có Đấng đồng cứu chuộc nào với Chúa Kitô.”[40] Vì “hy lễ Thập Giá, được dâng lên trong tinh thần yêu thương và vâng phục, mang đến sự thỏa mãn dồi dào và vô hạn nhất.”[41] Mặc dù chúng ta có thể mở rộng hiệu quả của nó trên thế giới (x. Cl 1:24), nhưng cả Giáo Hội lẫn Đức Maria đều không thể thay thế hoặc hoàn thiện công trình cứu chuộc của Con Thiên Chúa nhập thể, vốn đã hoàn hảo và không cần thêm thắt.
22. Vì cần phải giải thích vai trò phụ thuộc của Đức Maria đối với Chúa Kitô trong công trình Cứu Chuộc, nên sẽ không thích hợp nếu dùng danh hiệu “Đồng công Cứu Chuộc” để định nghĩa sự hợp tác của Đức Maria. Danh xưng này có nguy cơ làm lu mờ sự trung gian cứu độ độc nhất của Chúa Kitô và do đó có thể tạo ra sự nhầm lẫn và mất cân bằng trong sự hài hòa của các chân lý đức tin Kitô giáo, vì “ngoài Người ra, không có ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ đó mà được cứu độ” (Cv 4,12). Khi một thành ngữ đòi hỏi nhiều giải thích lặp đi lặp lại để tránh đi chệch khỏi ý nghĩa đúng đắn, thì thành ngữ đó không phục vụ cho đức tin của dân Chúa và trở nên vô ích. Trong trường hợp này, thành ngữ “Đồng công cứu chuộc” không giúp tôn vinh Đức Maria là người cộng tác đầu tiên và quan trọng nhất trong công trình Cứu chuộc và ân sủng, vì nó mang nguy cơ làm lu mờ vai trò độc nhất của Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa làm người vì ơn cứu độ của chúng ta, là Đấng duy nhất có khả năng dâng lên Chúa Cha một hy lễ vô giá – mà điều đó cũng sẽ không phải là một vinh dự đích thực cho Mẹ của Người. Thật vậy, với tư cách là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1:38), Đức Maria hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô và yêu cầu chúng ta “hãy làm bất cứ điều gì Người bảo các anh làm” (Ga 2:5).
Đấng Trung Gian
23. Khái niệm trung gian xuất hiện trong các Giáo phụ Đông phương từ thế kỷ thứ sáu. Trong các thế kỷ tiếp theo, Thánh Anrê thành Crete[42], Thánh Germanô thành Constantinople[43] và Thánh Gioan Đamascenô[44] đã sử dụng danh hiệu này với nhiều ý nghĩa khác nhau. Ở phương Tây, thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên hơn từ thế kỷ thứ mười hai, mặc dù nó không được chính thức công nhận là một luận đề giáo lý cho đến thế kỷ thứ mười bảy. Năm 1921, Đức Hồng Y Mercier, Tổng Giám mục Mechelen — với sự hợp tác học thuật của Đại học Công Giáo Louvain và sự hỗ trợ của các giám mục, giáo sĩ và giáo dân Bỉ — đã kiến nghị Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV ban hành một định nghĩa tín lý về sự trung gian phổ quát của Đức Maria. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha đã không chấp thuận yêu cầu này; ngài chỉ chấp thuận một ngày lễ với Thánh lễ riêng và Phụng vụ Đức Maria Trung Gian.[45] Từ đó cho đến năm 1950, nghiên cứu thần học về vấn đề này tiếp tục phát triển cho đến giai đoạn chuẩn bị của Công đồng Vatican II. Công đồng không đưa ra các tuyên bố tín điều[46] nhưng ưu tiên trình bày một tổng hợp sâu rộng “của giáo lý Công Giáo về vị trí dành cho Đức Trinh Nữ Maria trong trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Hội Thánh.”[47]
24. Lời Kinh Thánh về vai trò trung gian độc nhất của Chúa Kitô là lời kết luận chắc chắn. Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất, “vì chỉ có một Thiên Chúa, và chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là con người Đức Kitô Giêsu, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho mọi người” (1 Tm 2:5-6). Hội Thánh đã làm sáng tỏ vị trí độc nhất này của Chúa Kitô dựa trên sự kiện Người là Con Thiên Chúa vĩnh cửu và vô hạn, được kết hợp ngôi vị với nhân tính mà Người đã đảm nhận. Điều này chỉ dành riêng cho nhân tính của Chúa Kitô, và những hệ quả phát sinh từ đó chỉ có thể được áp dụng đúng đắn cho Người. Theo nghĩa chính xác này, vai trò của Ngôi Lời Nhập Thể là độc nhất và duy nhất. Với sự rõ ràng này trong Lời Chúa được mặc khải, cần đặc biệt thận trọng khi áp dụng thuật ngữ “Đấng Trung Gian” cho Đức Maria. Để đối phó với xu hướng mở rộng phạm vi hợp tác của Đức Maria thông qua danh hiệu này, việc xác định phạm vi giá trị cũng như giới hạn của nó là rất hữu ích.
25. Một mặt, chúng ta không thể bỏ qua sự kiện hạn từ “trung gian” thường được sử dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống thường nhật, nơi nó được hiểu đơn giản là sự hợp tác, hỗ trợ hoặc chuyển cầu. Do đó, không thể tránh khỏi việc thuật ngữ này được áp dụng cho Đức Maria theo nghĩa phụ thuộc. Được sử dụng theo cách này, nó không có ý định thêm bất cứ hiệu lực hay sức mạnh nào cho sự trung gian độc nhất của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật.
26. Mặt khác, rõ ràng là Đức Maria đã có một vai trò trung gian thực sự trong việc cho phép Con Thiên Chúa Nhập Thể trong nhân loại chúng ta, vì Đấng Cứu Chuộc sẽ được “sinh ra bởi một người nữ” (Gal 4:4). Trình thuật Truyền Tin cho thấy điều này không chỉ liên quan đến một sự trung gian sinh học vì nó làm nổi bật sự tham gia tích cực của Đức Maria trong việc đặt câu hỏi (x. Lc 1:29, 34) và chấp nhận với một quyết tâm vững chắc: “xin vâng” (Lc 1:38). Lời đáp trả của Đức Maria đã mở ra cánh cổng Cứu Chuộc mà toàn thể nhân loại đã mong đợi và được các thánh mô tả bằng một vở kịch đầy chất thơ.[48] Tại tiệc cưới Cana, Đức Maria cũng hoàn thành vai trò trung gian khi ngài trình bày nhu cầu của đôi tân hôn với Chúa Giêsu (x. Ga 2:3) và hướng dẫn các gia nhân tuân theo chỉ dẫn của Người (x. Ga 2:5).
27. Thuật ngữ của Công đồng Vatican II về sự trung gian chủ yếu ám chỉ Chúa Kitô; đôi khi cũng ám chỉ Đức Maria, nhưng theo một cách rõ ràng là phụ thuộc.[49] Thực tế, Công đồng thích sử dụng một thuật ngữ khác cho Mẹ: một thuật ngữ tập trung vào sự hợp tác[50] hay sự trợ giúp của người mẹ.[51] Giáo huấn của Công đồng đã hình thành rõ ràng quan điểm về sự chuyển cầu của người mẹ, sử dụng các thành ngữ như “sự chuyển cầu đa dạng” và “sự trợ giúp của người mẹ”.[52] Hai khía cạnh này cùng nhau xác định bản chất cụ thể của sự hợp tác của Đức Maria vào hành động của Chúa Kitô qua Chúa Thánh Thần. Nói một cách chính xác, chúng ta không thể nói về bất cứ sự trung gian nào khác trong ân sủng ngoài sự trung gian của Con Thiên Chúa nhập thể.[53] Do đó, chúng ta phải luôn nhớ lại, và không bao giờ được che giấu, niềm xác tín Kitô giáo rằng “phải được tin vững chắc như một yếu tố thường hằng của đức tin Giáo hội” liên quan đến “chân lý của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa và Đấng Cứu Độ duy nhất, qua biến cố nhập thể, tử nạn và phục sinh, đã đưa lịch sử cứu độ đến chỗ viên mãn, và lịch sử ấy đặt nơi Người sự viên mãn và trung tâm của nó.”[54]
Đức Maria trong sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô
28. Đồng thời, chúng ta cần nhớ rằng tính duy nhất [unicity] trong sự trung gian của Chúa Kitô có tính “bao hàm [inclusive]”. Người ban cho chúng ta nhiều hình thức tham gia vào kế hoạch cứu độ của Người, bởi vì, khi hiệp thông với Người, tất cả chúng ta, một cách nào đó, có thể trở thành những người cộng tác với Thiên Chúa và là “trung gian” cho nhau (x. 1 Cr 3,9). Chính nhờ quyền năng vô biên của Chúa Kitô, Người có thể nâng anh chị em mình lên, giúp họ có khả năng cộng tác đích thực vào việc hoàn thành kế hoạch của Người. Công đồng Vatican II khẳng định rằng “sự trung gian duy nhất của Đấng Cứu Chuộc không loại trừ nhưng đúng hơn, tạo nên một sự hợp tác đa dạng, chỉ là sự thông phần vào một nguồn mạch duy nhất.”[55] Vì lý do này, “nội dung của sự trung gian tham gia này cần được đào sâu hơn, nhưng phải luôn nhất quán với nguyên lý trung gian duy nhất của Chúa Kitô.”[56] Thật vậy, Giáo Hội trải dài trong thời gian và thông truyền khắp nơi những hiệu quả của Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô,[57] và Đức Maria giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim của Mẹ Giáo Hội.[58]
29. Sự tham gia của Đức Maria vào công trình của Chúa Kitô trở nên rõ ràng khi chúng ta bắt đầu từ niềm xác tín rằng Chúa Phục Sinh thúc đẩy, biến đổi, và cho phép các tín hữu cộng tác với Người trong công việc của Người. Điều này không xảy ra do sự yếu đuối, bất lực, hay nhu cầu nào đó từ phía Chúa Kitô, nhưng là do quyền năng vinh quang của Người, quyền năng có thể đón nhận chúng ta, một cách rộng lượng và tự do, như những người cộng tác trong công việc của Người. Điều cần nhấn mạnh trong trường hợp này là khi Chúa Kitô cho phép chúng ta đồng hành với Người và — dưới sự thúc đẩy của ân sủng Người — cống hiến hết mình, thì cuối cùng chính quyền năng và lòng thương xót của Người được tôn vinh.
Sinh hoa trái trong Chúa Kitô Vinh Hiển
30. Đoạn văn sau đây đặc biệt soi sáng liên quan đến chủ đề này: “Ai tin vào Ta cũng sẽ làm những việc Ta làm; và họ sẽ làm những việc lớn lao hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:12). Các tín hữu được kết hợp với Chúa Kitô phục sinh, Đấng đã trở về bên hữu Chúa Cha, có thể thực hiện những việc vượt xa những kỳ công mà Chúa Giêsu trần thế đã làm, nhưng luôn luôn nhờ sự kết hợp của họ với Chúa Kitô vinh quang qua đức tin. Điều này được chứng minh, chẳng hạn, qua sự mở rộng kỳ diệu của Hội Thánh sơ khai, khi Đấng Phục Sinh chia sẻ công việc này với Hội Thánh của Người (x. Mc 16:15). Bằng cách này, vinh quang của Chúa Kitô không hề bị suy giảm mà còn được làm cho hiển thị hơn nữa, tự cho thấy mình là một quyền lực có khả năng biến đổi các tín hữu và làm cho họ sinh hoa kết trái cùng với Người.
31. Trong số các Giáo Phụ, ý tưởng này đã được diễn đạt rõ nét trong các bài chú giải của họ về Ga 7:37-39, vì một số người đã giải thích lời hứa của Chúa Kitô về “những dòng nước hằng sống” là ám chỉ đến các tín hữu. Theo cách giải thích này, chính các tín hữu, được biến đổi bởi ân sủng của Chúa Kitô, trở thành nguồn suối cho người khác. Origen giải thích rằng Chúa thực hiện những gì Người đã loan báo trong Gioan 7:38 bằng cách làm cho những dòng nước chảy ra từ chúng ta: “linh hồn con người, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, tự nó có thể chứa đựng và tuôn trào những giếng nước, suối nguồn và sông ngòi.”[59] Thánh Ambrôsiô đã khuyên chúng ta hãy uống từ cạnh sườn mở của Chúa Kitô, “để mạch nước tuôn trào dẫn đến sự sống đời đời có thể tràn ngập trong anh em.”[60] Thánh Tôma Aquinô đã diễn tả điều này bằng cách nói rằng nếu một tín hữu “vội vàng chia sẻ những ân huệ khác nhau đã nhận được từ Thiên Chúa, thì nước hằng sống sẽ tuôn chảy từ trái tim người ấy.”[61]
32. Nếu điều này đúng với mỗi tín hữu – những người mà sự cộng tác với Chúa Kitô ngày càng sinh hoa kết trái đến mức người ấy để mình được biến đổi bởi ân sủng – thì điều này càng phải được khẳng định nơi Đức Maria một cách độc đáo và tối cao biết bao. Bởi vì Mẹ là Đấng “đầy ân sủng” (Lc 1:28) và là Đấng đã nói, mà không hề gây trở ngại cho công trình của Thiên Chúa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa; xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Mẹ là Mẹ đã ban cho thế gian Đấng Cứu Chuộc và Ân Sủng, đã đứng vững dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), chịu đau khổ bên cạnh Con mình và dâng lên nỗi đau của trái tim người mẹ bị lưỡi gươm đâm thâu (x. Lc 2,35). Từ khi Nhập Thể đến thập giá và Phục Sinh, Mẹ đã kết hợp với Chúa Kitô theo cách độc nhất vô nhị và vượt xa bất cứ tín hữu nào khác.
33. Tất cả những điều này không phải do công trạng riêng của Mẹ, nhưng bởi vì công trạng của Chúa Kitô trên Thập Giá đã được áp dụng trọn vẹn cho Mẹ – một cách đặc biệt và tiên báo – để tôn vinh Chúa và Đấng Cứu Độ duy nhất.[62] Cuối cùng, Mẹ là một bài ca ngợi hiệu năng của ân sủng Thiên Chúa, đến nỗi bất cứ sự công nhận nào về vẻ đẹp của Mẹ đều ngay lập tức hướng về sự tôn vinh nguồn mạch nguyên thủy của mọi điều tốt lành: Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự vĩ đại vô song của Đức Maria nằm ở những gì Mẹ đã lãnh nhận và trong sự sẵn sàng tin tưởng của Mẹ để cho Chúa Thánh Thần chiếm hữu mình. Khi chúng ta cố gắng gán cho Mẹ những vai trò tích cực song song với vai trò của Chúa Kitô, chúng ta đang rời xa vẻ đẹp vô song vốn chỉ có ở Mẹ. Cụm từ “sự trung gian tham dự” có thể diễn tả một ý nghĩa chính xác và quý giá về vai trò của Đức Maria, nhưng nếu bị hiểu sai, nó có thể dễ dàng làm lu mờ hoặc thậm chí mâu thuẫn với vai trò đó. Sự trung gian của Chúa Kitô, trong một số khía cạnh có thể là “bao gồm” hoặc được chia sẻ, trong những khía cạnh khác lại là loại trừ và không thể truyền đạt.
Mẹ của các tín hữu
34. Trong trường hợp của Đức Maria, sự trung gian này diễn ra theo cách của một người mẹ,[63] giống như Mẹ đã làm ở Cana[64] và như đã được xác nhận trên thập giá.[65] Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích điều này như sau: “Mẹ là một người Mẹ. Và đây là danh hiệu Mẹ đã nhận được từ Chúa Giêsu, ngay tại đó, vào lúc thập giá (x. Ga 19:26-27). Các con của Mẹ, Mẹ là Mẹ… Mẹ đã nhận được hồng ân làm Mẹ của Người và bổn phận đồng hành với chúng con như Mẹ, làm Mẹ chúng con.”[66]
35. Danh xưng “Mẹ” bắt nguồn từ Kinh Thánh và các Giáo Phụ. Nó được Huấn Quyền trình bày, và nội dung của nó được phát triển dần dần cho đến giáo huấn của Công đồng Vatican II[67] và việc sử dụng thuật ngữ “chức làm mẹ thiêng liêng” trong Thông điệp Redemptoris Mater.[68] Chức làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria bắt nguồn từ chức làm mẹ thể lý của Mẹ đối với Con Thiên Chúa. Bằng việc mang thai Chúa Kitô về mặt thể lý – qua việc Mẹ tự do và tin tưởng chấp nhận sứ mệnh đó – Đức Maria, trong đức tin, cũng đã sinh ra tất cả các Kitô hữu, những chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Nói cách khác, Mẹ đã sinh ra Chúa Kitô toàn thể: Đầu và các chi thể.[69]
36. Sự tham gia của Đức Trinh Nữ Maria, với tư cách là Mẹ, vào cuộc đời của Con Mẹ – từ Nhập Thể đến Thập Giá và Phục Sinh – mang lại một tính chất độc đáo và riêng biệt cho sự cộng tác của Mẹ vào công trình cứu chuộc của Người, đặc biệt đối với Giáo Hội, “khi [Giáo Hội] chiêm ngưỡng tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria đối với tất cả các thành viên của Nhiệm Thể; trong lời cầu khẩn tin tưởng của mình [với Mẹ]; khi Giáo Hội trải nghiệm sự chuyển cầu của Đấng bênh vực và trợ giúp của mình.”[70] Khía cạnh mẫu thân này đặc trưng cho mối tương quan của Đức Trinh Nữ với Chúa Kitô và sự cộng tác của Mẹ trong mọi khoảnh khắc của công trình cứu độ. Trong sứ mệnh làm Mẹ, Đức Maria có một mối tương quan đặc biệt với Đấng Cứu Chuộc và với những người đã được cứu chuộc, trong đó Mẹ là người đầu tiên: “Đức Maria là điển hình [typos, kiểu mẫu] của Giáo Hội và của sự tái sinh diễn ra trong Giáo Hội”; thực vậy, Mẹ là biểu tượng và “hình ảnh thu nhỏ của chính Giáo Hội”.[71] Chức làm mẹ này được sinh ra từ sự hiến thân trọn vẹn của Mẹ và ơn gọi trở thành người phục vụ mầu nhiệm.[72] Trong chức làm mẹ của Đức Maria, tất cả những gì chúng ta có thể nói về chức làm mẹ theo ân sủng và về vị trí hiện tại của Mẹ trong toàn thể Giáo Hội đều được tổng hợp.
37. Chức làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria có một số đặc điểm có tính định tín:
(a) Nó được đặt nền tảng trên sự thật rằng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và chức làm mẹ của Mẹ được mở rộng đến các môn đệ của Chúa Kitô[73] và thậm chí đến toàn thể nhân loại.[74] Về phương diện này, sự hợp tác của Đức Maria là duy nhất và khác biệt với sự hợp tác của tất cả “các thụ tạo khác”. [75] Sự chuyển cầu của Mẹ không mang đặc điểm của sự trung gian tư tế (như của Chúa Kitô), nhưng thay vào đó được đặt trong trật tự và sự tương đồng với thiên chức làm mẹ. [76] Bằng cách liên kết sự chuyển cầu của Đức Maria với công trình của Chúa Kitô, những ân huệ Chúa ban cho chúng ta được trình bày với khía cạnh làm mẹ, thấm đẫm sự dịu dàng và gần gũi của Người Mẹ[77] được Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta (x. Ga 19:27).
b) Sự hợp tác làm mẹ của Đức Maria trong Chúa Kitô, và do đó, mang tính tham gia. Nói cách khác, nó bao gồm “sự chia sẻ nguồn mạch duy nhất, đó là sự trung gian của chính Chúa Kitô”. [78] Đức Maria bước vào sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô một cách hoàn toàn bản vị. [79] Vai trò làm mẹ của Mẹ “không hề che khuất hay làm giảm đi sự trung gian độc nhất này của Chúa Kitô, mà đúng hơn, cho thấy sức mạnh của sự trung gian đó. Mọi ảnh hưởng cứu rỗi của Đức Trinh Nữ Maria” đối với chúng ta đều xuất phát từ “sự phong phú dồi dào của công đức Chúa Kitô, nương tựa vào sự trung gian của Người, hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian đó và rút ra mọi sức mạnh từ đó.”[80] Trong thiên chức làm mẹ của ngài, Đức Maria không phải là một chướng ngại vật được đặt giữa con người và Chúa Kitô. Ngược lại, vai trò làm mẹ của Mẹ được kết hợp bất khả phân ly với vai trò của Chúa Kitô và hướng về Người. Hiểu theo cách này, thiên chức làm mẹ của Đức Maria không tìm cách làm suy yếu lòng tôn thờ độc nhất chỉ dành cho Chúa Kitô mà thôi, nhưng đúng hơn, tìm cách khơi dậy lòng tôn thờ đó.[81] Vì vậy, người ta phải tránh những danh hiệu và cách diễn đạt trình bày Đức Maria như một loại “cột thu lôi” trước công lý của Chúa, như thể Mẹ là một sự thay thế cần thiết trước sự thiếu hụt của lòng thương xót của Thiên Chúa. Công đồng Vatican II đã tái khẳng định lòng sùng kính dành cho Đức Maria phải như thế nào, cụ thể là “một lòng sùng kính hướng đến trung tâm Kitô học của đức tin Kitô giáo, theo cách mà ‘khi Mẹ được tôn vinh, thì Chúa Con… được nhận biết, yêu mến và tôn vinh một cách xứng đáng.’”[82] Cuối cùng, chức làm mẹ của Đức Maria phụ thuộc[83] — vào việc Chúa Cha tuyển chọn, vào công trình của Chúa Kitô, và vào hoạt động của Chúa Thánh Thần.
c) Giáo Hội không chỉ là điểm quy chiếu cho chức làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria, mà chính trong chiều kích bí tích của Giáo Hội, chức làm mẹ của Mẹ luôn được triển khai.[84] Đức Maria hành động với Giáo Hội, trong Giáo Hội và cho Giáo Hội. Việc thực thi chức làm mẹ của Mẹ được tìm thấy trong sự hiệp thông của Giáo Hội chứ không phải bên ngoài Giáo Hội, dẫn dắt và đồng hành với Giáo Hội. Giáo Hội học biết chức làm mẹ của chính mình từ Đức Maria[85] — trong việc đón nhận Lời Chúa, Đấng truyền giáo, hoán cải và loan báo Chúa Kitô; trong hồng ân của đời sống bí tích Rửa Tội và Thánh Thể; và trong việc giáo dục và đào tạo của người mẹ giúp con cái Thiên Chúa được sinh ra và lớn lên.[86] Vì lý do này, có thể nói rằng “tính sinh hoa trái của Giáo hội cũng giống như tính sinh hoa trái của Đức Maria; nó được thể hiện trong cuộc sống của các thành viên của Giáo hội đến mức họ sống lại, ‘thu nhỏ’, những gì Mẹ đã sống, nghĩa là họ yêu thương theo tình yêu của Chúa Giêsu.”[87] Là Mẹ, Đức Maria chờ đợi Chúa Kitô được sinh ra trong chúng ta[88] và không thay thế Người; điều tương tự cũng đúng với Giáo hội. Do đó, “nhờ những ân sủng dồi dào tuôn chảy từ cạnh sườn mở của Chúa Kitô, theo những cách khác nhau, Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria và tất cả các tín hữu trở thành những dòng nước hằng sống. Bằng cách này, Chúa Kitô biểu lộ vinh quang của Người trong và qua sự nhỏ bé của chúng ta.”[89]
Lời cầu bầu
38. Đức Maria được kết hợp với Chúa Kitô một cách độc đáo bởi thiên chức làm mẹ và bởi sự đầy ân sủng của Mẹ. Điều này được ám chỉ trong lời chào của thiên thần (x. Lc 1,28), trong đó sử dụng một từ (kecharitōmenē) chỉ được tìm thấy ở đây và không nơi nào khác trong Kinh Thánh. Mẹ, Đấng đã nhận được trong lòng mình sức mạnh của Chúa Thánh Thần và trở thành Mẹ Thiên Chúa, bởi cùng một Thần Khí đó, trở thành Mẹ của Giáo Hội.[90] Nhờ sự kết hợp đặc biệt này trong thiên chức làm mẹ và trong ân sủng, lời cầu nguyện của Mẹ cho chúng ta có một giá trị và hiệu quả không thể so sánh với bất cứ lời chuyển cầu nào khác. Thánh Gioan Phaolô II đã kết nối danh hiệu “Đấng Trung Gian” với vai trò chuyển cầu của người mẹ này, lưu ý rằng Đức Maria “đặt mình ‘ở giữa’, nghĩa là, Mẹ hành động như một người trung gian không phải như một người ngoài cuộc, mà trong tư cách là một người mẹ. Mẹ biết rằng, trong tư cách như thế, Mẹ có thể chỉ cho Con Mẹ thấy những nhu cầu của nhân loại.”[91]
39. Đức tin Công Giáo đọc thấy trong Kinh Thánh rằng những ai đang ở với Thiên Chúa trên thiên đàng có thể tiếp tục thực hiện các hành động yêu thương bằng cách cầu bầu cho chúng ta và đồng hành với chúng ta. Ví dụ, chúng ta thấy rằng các thiên thần là “những thần khí phục vụ được sai đi để phục vụ, vì lợi ích của những người sẽ được cứu rỗi” (Dt 1:14). Kinh Thánh nói về các sứ mệnh được thực hiện bởi các thiên thần (x. Tb 5:4; 12:12; Cv 12:7-11; Kh 8:3-5). Các thiên thần đã phục vụ Chúa Giêsu trong sa mạc trong những cơn cám dỗ của Người (x. Mt 4:11) và trong Cuộc Khổ Nạn của Người (x. Lc 22:43). Các Thánh Vịnh hứa với chúng ta rằng “Vì ngươi, Người đã truyền cho các thiên thần gìn giữ ngươi trên khắp các nẻo đường” (Tv 91:11).
40. Những đoạn văn này cho chúng ta biết rằng thiên đàng không hoàn toàn tách biệt với trái đất, điều này mở ra khả thể những người trên thiên đàng có thể cầu bầu cho chúng ta. Sách Da-ca-ri-a trình bày một thiên thần của Thiên Chúa phán rằng: “Lạy Chúa các đạo binh, đến bao giờ Ngài còn không thương xót Giê-ru-sa-lem và các thành Giu-đa, là những nơi Ngài đã nổi giận trong bảy mươi năm qua?” (Dcr 1:12). Tương tự, sách Khải Huyền nói về những “người bị giết”, tức là các vị tử đạo trên trời, những người can thiệp bằng cách cầu xin Thiên Chúa hành động trên mặt đất để giải thoát chúng ta khỏi bất công: “Tôi thấy dưới bàn thờ linh hồn của những người đã bị giết vì lời Thiên Chúa và vì lời chứng mà họ đã rao giảng. Họ lớn tiếng kêu lên: “Lạy Chúa là Đấng chí thánh và chân thật, đến bao giờ Chúa mới xét xử và không đòi báo thù cho máu chúng con trên những người sống trên mặt đất?” (Kh 6:9-10). Ngay trong truyền thống Do Thái giáo Hy Lạp, đã có niềm tin cho rằng những người công chính đã chết sẽ cầu bầu cho dân (x. 2 Mcb 15:12-14).
41. Đức Maria, trên trời, yêu thương “những người còn lại trong dòng dõi mình” (Kh 12:17), và vì thế, như xưa Mẹ đã đồng hành với lời cầu nguyện của các Tông đồ khi họ nhận được Chúa Thánh Thần (x. Cv 1:14), thì nay, từ trời, Mẹ cũng đồng hành với lời cầu nguyện của chúng ta bằng lời chuyển cầu của Mẹ. Bằng cách này, Mẹ tiếp tục thái độ phục vụ và lòng cảm thương được Mẹ biểu lộ tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2:1-11), khi Mẹ vẫn hướng về Chúa Giêsu mà thưa: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2:3). Trong bài ca ngợi khen của Mẹ, chúng ta thấy Đức Maria là một người phụ nữ của dân ngài, người Mẹ ngợi khen Thiên Chúa vì “Người đã nâng cao những kẻ khiêm nhường, ban của đầy dư” (Lc 1,52-53), và vì “Người đã cứu giúp Israel, tôi tớ Người, vì Người nhớ lại lời hứa thương xót, lời Người đã hứa với tổ tiên chúng ta” (Lc 1,54-55); và chúng ta nhận ra sự nhanh chóng của Mẹ khi Mẹ lên đường không chút chậm trễ để giúp đỡ người chị họ Êlisabét (x. Lc 1,39-40). Vì những lý do này, Dân Thiên Chúa tin tưởng vững chắc vào lời chuyển cầu của Mẹ.
42. Trong số những người được chọn và được vinh quang với Chúa Kitô, người trước hết và trên hết là Mẹ của Người. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng Đức Maria có một sự cộng tác độc đáo vào công trình cứu độ mà Chúa Kitô thực hiện trong Hội Thánh của Người. Nhờ lời chuyển cầu này, Đức Maria có thể trở thành dấu chỉ từ mẫu của lòng thương xót Chúa cho chúng ta. Bằng cách này, vì Người đã tự ý muốn điều đó, Chúa ban cho hành động của Người nơi chúng ta một khuôn mặt từ mẫu.[92]
Sự gần gũi từ mẫu
43. Nhiều lời cầu khẩn, hình ảnh và đền thánh dâng kính Đức Mẹ cho thấy tình mẫu tử đích thực của Đức Maria, vốn xích lại gần cuộc sống của con cái ngài. Một ví dụ điển hình là việc Mẹ hiện ra với Thánh Juan Diego trên đồi Tepeyac và nói với ngài bằng những lời dịu dàng của một người mẹ: “Juan, con trai út và yêu dấu của mẹ.” Khi Thánh Juan Diego bày tỏ những khó khăn trong việc thực hiện sứ mệnh được giao phó, Đức Maria đã cho ngài thấy sức mạnh của tình mẫu tử: “Mẹ chẳng ở đây sao, Mẹ là mẹ của con?... Con chẳng ở trong lòng áo choàng của Mẹ, trong vòng tay Mẹ sao?”[93]
44. Kinh nghiệm về tình mẫu tử của Đức Maria, mà Thánh Juan Diego đã trải qua, là kinh nghiệm bản thân của tất cả các Kitô hữu đón nhận tình mẫu tử của Đức Maria và đặt “những nhu cầu hằng ngày” của mình vào tay Mẹ, tin tưởng mở lòng họ ra “để cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ và nhận được sự che chở an ủi của Mẹ.”[94] Bên cạnh những biểu hiện phi thường về sự gần gũi của Mẹ, còn có những biểu hiện thường xuyên và hằng ngày về tình mẫu tử của Mẹ trong cuộc sống của tất cả con cái Mẹ. Ngay cả khi chúng ta không cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ, Mẹ vẫn tỏ mình gần gũi với chúng ta như một người Mẹ để giúp chúng ta nhận ra tình yêu của Chúa Cha, chiêm ngắm hồng ân cứu độ của Chúa Kitô, và đón nhận hành động thánh hóa của Chúa Thánh Thần. Giá trị của sự gần gũi của tình mẫu tử này với Giáo hội lớn lao đến nỗi các mục tử không được để nó bị lạm dụng cho các mục đích chính trị. Trong nhiều dịp khác nhau, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo về điều này và bày tỏ sự quan ngại về “nhiều đề xuất mang tính ý thức hệ và văn hóa khác nhau tìm cách chiếm đoạt cho riêng mình cuộc gặp gỡ của một dân tộc với Mẹ của họ.”[95]
Mẹ Ân Sủng
45. Cách hiểu về tước hiệu “Mẹ của các tín hữu” này cho phép chúng ta nói về vai trò của Đức Maria trong mối liên hệ với đời sống ân sủng của chúng ta. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số cách diễn đạt có thể được chấp nhận về mặt thần học có thể dễ dàng trở nên nặng nề với những khái niệm và biểu tượng truyền tải những quan niệm khó chấp nhận hơn. Ví dụ, Đức Maria đôi khi được miêu tả như thể ngài sở hữu một kho tàng ân sủng tách biệt với Thiên Chúa. Trong những trường hợp như vậy một quan niệm, không rõ ràng lắm rằng chính Chúa – với sự toàn năng quảng đại và tự do của Người – đã muốn liên kết Mẹ với việc chia sẻ sự sống thần linh phát xuất từ trung tâm duy nhất là Trái Tim Chúa Kitô, chứ không phải từ Trái Tim Đức Maria.[96] Mẹ cũng thường được miêu tả hoặc tưởng tượng như một nguồn mạch tuôn chảy mọi ân sủng. Nếu xét đến sự kiện sự ngự trị nội tại của Ba Ngôi (ân sủng bất tạo) và sự tham dự của chúng ta vào sự sống thần linh (ân sủng tạo dựng) là không thể tách rời, chúng ta không thể nghĩ rằng mầu nhiệm này phụ thuộc vào một cuộc “quá giang [passage]” qua bàn tay của Đức Maria. Những quan niệm như vậy nâng Đức Maria lên cao đến mức vị trí trung tâm của chính Chúa Kitô có thể biến mất, hoặc ít nhất, trở nên có điều kiện. Đức Hồng Y Ratzinger đã khẳng định rằng tước hiệu “Đức Maria, Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng” không được đặt nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải.[97] Phù hợp với niềm tin này, chúng ta có thể nhận ra những khó khăn mà tước hiệu này đặt ra, cả về mặt suy tư thần học lẫn linh đạo.
46. Để tránh những khó khăn này, chức làm mẹ của Đức Maria trong trật tự ân sủng phải được hiểu như một sự trợ giúp chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Điều này có thể thấy qua việc, một mặt, lời chuyển cầu từ mẫu của Mẹ[98] là biểu hiện của “sự trợ giúp từ mẫu”[99] cho phép chúng ta nhận ra Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại. Mặt khác, sự hiện diện từ mẫu của Mẹ trong cuộc đời chúng ta không ngăn cản những hành động khác nhau của Đức Maria nhằm khuyến khích chúng ta mở lòng đón nhận hoạt động của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Bằng cách này, Mẹ giúp chúng ta – bằng nhiều cách khác nhau – chuẩn bị bản thân để đón nhận sự sống ân sủng mà chỉ có Chúa mới có thể tuôn đổ vào trong chúng ta.
47. Sự cứu rỗi của chúng ta chỉ là công trình của ân sủng cứu độ của Chúa Kitô chứ không phải của bất cứ ai khác. Thánh Augustinô khẳng định rằng “vương quốc sự chết này chỉ bị tiêu diệt nơi bất cứ con người nào nhờ ân sủng của Đấng Cứu Thế,”[100] và ngài đã giải thích rõ ràng điểm này dưới ánh sáng của sự cứu chuộc người bất chính: “Ai lại muốn chết cho một người bất chính, cho một người vô đạo, ngoài Chúa Kitô, Đấng công chính đến mức có thể biện minh cho cả những người bất chính? Vì vậy, thưa anh em, chúng ta không có công trạng nào, mà chỉ có tội. Mặc dù công trạng của con người thuộc loại như vậy, nhưng lòng thương xót của Người không bỏ rơi họ và… thay vì hình phạt phải chịu, Người đã ban cho họ ân sủng mà họ không đáng được hưởng… [Người đã làm điều này] để cứu chuộc chúng ta, không phải bằng vàng hay bạc, mà bằng giá máu của Người đổ ra.”[101] Vì vậy, khi Thánh Tôma Aquinô hỏi liệu có ai có thể tạo công đức cho người khác không, ngài trả lời rằng “không ai có thể tạo công đức cho người khác ân sủng đầu tiên của họ, ngoài Chúa Kitô.”[102] Không một con người nào khác có thể tạo công đức theo nghĩa chặt chẽ (de condigno), và về điểm này, không còn nghi ngờ gì nữa: “không ai có thể công chính nếu không được ban cho công nghiệp của Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”[103] Tương tự như vậy, sự viên mãn ân sủng của Đức Maria hiện hữu bởi vì Mẹ đã lãnh nhận ân sủng cách nhưng không, trước bất cứ hành động nào của riêng Mẹ, “nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại.”[104] Chỉ có công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình cho đến cùng, mới được áp dụng cho chúng ta để chúng ta được nên công chính – vì công chính này “kết thúc trong sự thiện hảo vĩnh cửu của sự tham gia của Thiên Chúa, nên là một công trình vĩ đại hơn cả việc tạo dựng trời đất.”[105]
48. Tuy nhiên, chúng ta có thể tham gia bằng cách mong muốn điều tốt lành cho người khác, và thật phù hợp (congruo) khi Thiên Chúa làm nên trọn ước muốn bác ái này, một ước muốn có thể được diễn tả “trong lời cầu nguyện” hoặc “bằng các công việc thương xót.”[106] Đúng là chỉ có Thiên Chúa mới có thể tuôn đổ ân sủng, vì khả năng này “vượt tầm cỡ bản chất của chúng ta”[107] và có một khoảng cách vô hạn[108] giữa bản chất của chúng ta và sự sống thần linh của Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa có thể ban tặng ân sủng này, đáp ứng ước muốn của Mẹ, người nhờ đó hân hoan kết hợp với công trình của Thiên Chúa như một người tôi tớ khiêm nhường.
49. Cũng như ở Cana, Đức Maria không nói với Chúa Kitô những gì Người nên làm. Thay vào đó, Mẹ cầu bầu bằng cách trình bày với Người những thiếu sót, nhu cầu và đau khổ của chúng ta để Người có thể hành động với quyền năng thần linh của Người:[109] “Họ hết rượu rồi” (Ga 2:3). Ngay cả ngày nay, Mẹ vẫn giúp chúng ta chuẩn bị cho hành động của Thiên Chúa:[110] “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga 2:5). Lời Mẹ không chỉ là một gợi ý đơn thuần mà trở thành một phương pháp sư phạm mẫu tử đích thực, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Chúa Kitô.[111] Đức Maria lắng nghe, quyết định và hành động[112] để giúp chúng ta mở lòng mình ra với Chúa Kitô và với ân sủng của Người,[113] bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới hoạt động trong tận cùng con người chúng ta.
Nơi Chỉ Thiên Chúa Mới Có Thể Với Tới
50. Như Sách Giáo Lý nhắc nhở chúng ta, ơn thánh hóa “trước hết và trên hết là ân huệ của Chúa Thánh Thần, Đấng công chính hóa và thánh hóa chúng ta.”[114] Nó không chỉ đơn thuần là một sự trợ giúp hay một năng lực mà chúng ta sở hữu, nhưng là “ân huệ nhưng không được Thiên Chúa ban cho chúng ta bằng chính sự sống của Người, được Chúa Thánh Thần đổ tràn vào linh hồn chúng ta,”[115] một điều có thể được mô tả như sự ngự trị của Ba Ngôi trong bản thể sâu thẳm nhất của chúng ta, như tình bạn với Thiên Chúa, và như giao ước với Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có thể thực hiện điều này bởi vì nó bao gồm việc vượt qua một sự mất cân xứng “vô hạn”.[116] Sự tự hiến của Ba Ngôi — qua đó chính Thiên Chúa đã “đi vào”[117] (illabitur) linh hồn — hàm ý một sự biến đổi cố hữu trong phần sâu thẳm nhất của người tín hữu.[118] Để mô tả hành động “đi vào” phần sâu thẳm nhất của chúng ta, Thánh Tôma Aquinô sử dụng động từ illabi, chỉ có thể áp dụng cho Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Người, không phải là một thụ tạo, mới có thể chạm đến phần sâu thẳm nhất của chúng ta mà không xâm phạm đến tự do và bản sắc của chúng ta.[119] Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới vươn tới trung tâm sâu thẳm nhất của chúng ta để mang lại sự nâng cao và biến đổi khi Người hiến mình làm Bạn, và do đó, “không thụ tạo nào có thể ban ân sủng.”[120] Thánh Tôma nhắc lại điểm này khi nói về ân sủng bí tích: là nguyên nhân chính, “chỉ có Thiên Chúa tạo ra hiệu quả bên trong của bí tích: thứ nhất, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể đi vào linh hồn nơi hiệu quả bí tích diễn ra (và không có tác nhân nào có thể hoạt động ngay lập tức ở nơi họ không hiện diện): thứ hai, bởi vì ân sủng, là hiệu quả bên trong của bí tích, phát xuất từ một mình Thiên Chúa.”[121]
51. Các tác giả khác cũng đã diễn đạt theo cách tương tự.[122] Trong bối cảnh này, cần phải nhấn mạnh đến Thánh Bonaventura, người đã dạy rằng khi Thiên Chúa hoạt động với ân sủng thánh hóa nơi một con người, Người làm cho người đó hoàn toàn gần gũi với Người.[123] Nhờ ân sủng, Thiên Chúa trở nên hoàn toàn gần gũi với con người, với một sự gần gũi tuyệt đối, một sự “đi vào” tận sâu thẳm nhất của con người mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể vươn tới được.[124] Vậy, ân sủng tạo dựng không hoạt động như một “trung gian” mà là hiệu quả trực tiếp của tình bạn được Thiên Chúa ban tặng, trực tiếp chạm đến trái tim con người. Và vì vậy, vì chính Thiên Chúa là Đấng mang lại sự biến đổi cho con người khi Người hiến mình làm Bạn, nên không có trung gian nào giữa Thiên Chúa và con người được biến đổi.[125] Chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng đi vào sâu thẳm như vậy, để thánh hóa chúng ta đến mức trở nên tuyệt đối trực tiếp với chúng ta, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm như vậy mà không làm con người ra hư vô.[126]
52. Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa vĩnh cửu và tự nhiên[127] đã mặc lấy bản tính con người, chiếm một vị trí độc nhất trong công trình cứu độ. Được kết hợp ngôi vị với Chúa Con nhờ ân sủng “chắc chắn vô hạn,”[128] nhân tính này đã nhận được ân sủng “theo cách cao cả nhất; và do đó, từ sự trổi vượt của ân sủng mà Người đã nhận được, chính từ Người mà ân sủng này được ban cho những người khác, và điều này thuộc về bản tính của Đầu.”[129] Nhân tính của Người tham gia vào việc tuôn đổ ân sủng thánh hóa, ân sủng này chẩy tràn hoặc “tràn đầy”[130] từ đó. Do đó, “theo một nghĩa nào đó, Người là nguồn mạch của mọi ân sủng theo nhân tính của Người” với tư cách là Đầu mà từ đó ân sủng tuôn chảy đến những người khác (“in alios transfunderetur”). [131] Bản tính con người này không thể tách rời khỏi ơn cứu độ của chúng ta, vì “với việc nhập thể, mọi hành động cứu độ của Ngôi Lời Thiên Chúa luôn được thực hiện trong sự hiệp nhất với bản tính nhân loại được Người đã đảm nhận để cứu độ mọi người.”[132] Qua bản tính nhân loại đã đảm nhận này, Con Thiên Chúa “đã kết hợp một cách nào đó với mỗi người” và trong bản tính đó, Người “đã ban sự sống cho chúng ta nhờ máu Người đã đổ ra một cách tự do.”[133] Nhờ ân sủng, các tín hữu được kết hợp với Chúa Kitô và tham dự vào Mầu nhiệm Vượt qua của Người, để họ có thể sống một sự kết hợp mật thiết và duy nhất với Người, điều mà Thánh Phaolô đã diễn tả bằng những lời này: “Không còn phải là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
53. Không một con người nào – ngay cả các Tông đồ hay Đức Trinh Nữ – có thể hành động như một người phân phát ân sủng phổ quát. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban ân sủng,[134] và Người làm như vậy thông qua nhân tính của Chúa Kitô[135] vì “con người Chúa Kitô sở hữu sự viên mãn tối cao của ân sủng, vì là Con Một của Chúa Cha.”[136] Mặc dù Đức Trinh Nữ Maria là “đầy ân sủng” và “Mẹ Thiên Chúa” một cách tuyệt vời, nhưng giống như chúng ta, Mẹ là con gái nuôi của Chúa Cha và, như Dante Alighieri đã viết, “con gái của Con ngài.”[137] Mẹ cộng tác vào công trình cứu độ bằng một sự tham gia phát sinh và phụ thuộc. Do đó, bất cứ diễn đạt nào về “sự trung gian” của Mẹ trong ân sủng phải được hiểu là một sự tương tự xa vời với Chúa Kitô và sự trung gian độc nhất của Người.[138]
54. Trong sự gần gũi [immediacy] hoàn hảo giữa con người và Thiên Chúa trong việc thông truyền ân sủng, ngay cả Mẹ Maria cũng không thể can thiệp. Cả tình bạn với Chúa Giêsu Kitô lẫn sự ngự trị của Ba Ngôi đều không thể được quan niệm như một điều gì đó đến với chúng ta thông qua Mẹ Maria hay các thánh. Trong mọi trường hợp, điều chúng ta có thể nói là Mẹ Maria mong muốn điều tốt lành này cho chúng ta và Mẹ cầu xin điều đó, cùng với chúng ta. Phụng vụ, cũng là lex credendi (luật đức tin), cho phép chúng ta tái khẳng định sự hợp tác này của Đức Maria, không phải trong việc thông truyền ân sủng mà trong sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ. Thực vậy, khi giải thích ý nghĩa của đặc ân được ban cho Đức Maria được hướng đến lợi ích của dân Chúa, phụng vụ trọng thể lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội khẳng định rằng Mẹ đã trở thành “Đấng bầu cử ân sủng”[139] — nghĩa là Mẹ chuyển cầu bằng cách cầu xin Thiên Chúa cho chúng ta được lãnh nhận ân sủng.
55. Như Công đồng Vatican II dạy, “ảnh hưởng cứu độ của Đức Trinh Nữ Maria… không hề cản trở sự kết hợp trực tiếp của các tín hữu với Chúa Kitô, nhưng, đúng hơn, nuôi dưỡng nó.”[140] Vì lý do này, chúng ta nên tránh bất cứ mô tả nào gợi ý về sự tuôn đổ ân sủng theo từng giai đoạn giống như trường phái Tân Platông, như thể ân sủng của Thiên Chúa đang tuôn đổ qua nhiều trung gian khác nhau (như Đức Maria) trong khi nguồn gốc tối hậu của nó (Thiên Chúa) vẫn tách biệt khỏi trái tim chúng ta. Những cách giải thích như vậy gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự hiểu biết đúng đắn về cuộc gặp gỡ mật thiết, trực tiếp và tức thời mà ân sủng tạo ra giữa Chúa và trái tim người tín hữu.[141] Thực tế là chỉ có Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi, mới công chính hóa.[142] Chỉ có Thiên Chúa mới nâng chúng ta lên để vượt qua sự mất cân xứng vô hạn ngăn cách chúng ta với sự sống thần linh; chỉ có Người hành động trong chúng ta với sự ngự trị Ba Ngôi của Người; chỉ có Người mới bước vào trong chúng ta và biến đổi chúng ta, khiến chúng ta trở thành những người thông phần vào sự sống thần linh của Người. Sẽ không tôn trọng Đức Maria khi gán cho ngài bất cứ sự trung gian nào trong việc hoàn thành công trình này, vốn chỉ thuộc về Thiên Chúa.
Nước Hằng Sống Chảy tràn
61. Đồng thời, vì Đức Maria đầy ân sủng và vì điều thiện luôn tìm cách truyền đạt chính nó cho người khác, nên ý niệm về một loại “dòng chảy” ân sủng từ Đức Maria dễ dàng xuất hiện – một ý niệm chỉ có thể mang ý nghĩa phù hợp nếu nó không mâu thuẫn với những gì đã được nói đến ở trên. Cách diễn giải như vậy không gây khó khăn gì nếu chúng ta đặc biệt đề cập đến các hình thức hợp tác đã được thảo luận (sự chuyển cầu của Đức Maria và sự gần gũi mẫu tử của Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa), và được Công đồng Vatican II trình bày như một sự hợp tác đa dạng của tạo vật “cùng chia sẻ một nguồn mạch duy nhất này”. [143]
61. Vai trò chuẩn bị cơ bản mà các tín hữu, đặc biệt là Đức Maria, đảm nhận khi họ hợp tác với Thiên Chúa trong việc Người thông ban ân sủng, được diễn tả trong cách diễn giải truyền thống về “những dòng nước hằng sống” tuôn chảy từ trái tim các tín hữu (x. Ga 7:37-39). Mặc dù hình ảnh mạnh mẽ này có thể được hiểu như thể các tín hữu là những kênh dẫn truyền ân sủng thánh hóa một cách hoàn hảo, nhưng các Giáo phụ đã nói về sự tuôn đổ này của những dòng sông Thần Khí trong bối cảnh các hành động chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa, chẳng hạn như rao giảng, việc giảng dạy và những cách thức khác để truyền đạt ân huệ của Lời được mặc khải.
58. Origen áp dụng hình ảnh “những dòng nước hằng sống” vào việc nghiên cứu Kinh Thánh hoặc tri nhận các ý nghĩa thiêng liêng của nó.[144] Đối với Thánh Xi-ri-lô thành Alexandria, dòng nước tràn ngập này biểu thị việc giảng dạy các mầu nhiệm đức tin[145] — “khai tâm mầu nhiệm tinh ròng” theo nghĩa sâu xa nhất của nó, không chỉ đơn thuần là trí thức mà còn liên quan đến toàn bộ thiên hướng hoặc sự chuẩn bị của con người đón nhận ân sủng của Thiên Chúa.[146] Thánh Xi-ri-lô thành Giêrusalem cho rằng hình ảnh này biểu thị việc giảng dạy Kinh Thánh khi sự việc được đưa ra ánh sáng.[147] Thánh Gioan Kim Khẩu liên kết nó với sự khôn ngoan của Stêphanô hoặc thẩm quyền của lời Thánh Phêrô.[148] Thánh Ambrôsiô khẳng định: “Đây là những dòng sông lắng nghe lời Thiên Chúa bằng tai của chúng, và chúng nói, để chúng có thể đổ lời vào lòng mỗi người;”[149] và ngài áp dụng điều đó như sau: “xin cho nước của giáo lý thiên thượng tuôn trào… xin cho những giọt sương của “Lời Chúa được rảy”[150] vào lòng mỗi người.[151] Đối với Thánh Giêrônimô cũng vậy, nước là lời dạy của Đấng Cứu Thế,[152] cũng như đối với Thánh Grêgôriô Cả, người còn dạy rằng nước biểu thị “ý chí đạo đức hướng đến người lân cận”.[153] Những giải thích này về “những dòng nước hằng sống”, mà các tín hữu tuôn đổ, tập trung vào kiến thức Kinh Thánh và các mầu nhiệm của nó. Chúng thường không chỉ đề cập đến kiến thức trí thức mà còn đến kiến thức “khôn ngoan” và sự soi sáng của tâm hồn, để tâm hồn có thể mở ra với chính thực tại của các Mầu nhiệm.
59. Trong số các Giáo phụ và Tiến sĩ Hội thánh, chúng ta cũng tìm thấy một giải thích rộng hơn, bao gồm – ngoài việc giảng thuyết và dạy giáo lý – các công việc giúp đỡ người khác trong những nhu cầu của họ hoặc đóng vai trò như một chứng tá của tình yêu. Theo cách này, Thánh Hilariô thành Poitiers hiểu những dòng nước hằng sống biểu thị các công việc của Chúa Thánh Thần thông qua các nhân đức hoạt động vì lợi ích của người lân cận.[154] Thánh Augustinô áp dụng hình ảnh này cho “thiện chí mà [một người] muốn chăm sóc lợi ích của người lân cận”. [155] Vào thời Trung Cổ, quan điểm này tiếp tục cho đến Thánh Tôma Aquinô, người mà “những dòng nước hằng sống” được biểu lộ khi một người “nhanh chóng hành động để giúp đỡ người khác và chia sẻ với họ những ân huệ khác nhau mà họ đã nhận được từ Thiên Chúa”, vì một người như vậy “sẽ có dòng nước hằng sống chảy từ trái tim mình”. [156]
60. Khi Thánh Tôma nói về “những ân huệ khác nhau” để phục vụ người lân cận, ngài muốn ám chỉ các ân huệ đặc sủng khác nhau bởi vì, ngài lưu ý, “như đã nói (1 Cr 12:10), ‘người này được ban ơn nói tiếng lạ, người kia được ban ơn chữa lành, v.v.’” [157] Khía cạnh này cũng hiện diện trong tư tưởng của Thánh Xi-ri-lô thành Giêrusalem, người chỉ ra rằng những dòng nước của Chúa Thánh Thần — được truyền qua các tín hữu — được thể hiện khi “Thánh Linh khiến một người trở thành thầy dạy chân lý thần linh, soi dẫn người khác nói tiên tri, ban cho người khác quyền lực trừ quỷ… chỉ cho người khác cách giúp đỡ người nghèo, dạy người khác ăn chay và sống đời khổ hạnh.”[158]
61. Cũng có thể nói tương tự về cách giải thích câu Ga 14:12, khi nói đến việc các tín hữu thực hiện “những việc lớn hơn” (meizona) so với những việc Chúa Kitô đã làm trong cuộc đời trần thế của Người. Các tín hữu tham gia vào công việc của Chúa Kitô bao lâu, họ còn khơi dậy đức tin của người khác thông qua việc rao giảng Lời Chúa, như Ga 17:20 đã nói rõ: “những ai sẽ tin vào Ta qua lời của họ.” Ý tưởng tương tự cũng được ngụ ý trong Ga 14:6-11, nơi các việc làm của Chúa Kitô bày tỏ Chúa Cha (câu 8) và các việc làm của các tín hữu — tập trung vào việc rao giảng Tin mừng bằng lời nói của họ — được đặt bên cạnh các việc làm của Người. Thật vậy, Chúa Giêsu tuyên bố: “Nếu họ giữ lời Thầy, thì họ cũng sẽ giữ lời anh em” (Ga 15:20c), và cũng như bất cứ ai nghe Lời Chúa Kitô thì được sự sống đời đời (x. Ga 5:24), Chúa Giêsu cũng tuyên bố rằng những người khác sẽ tin qua lời của các tín hữu (x. Ga 17:20). Tuy nhiên, điều này không chỉ liên quan đến lời nói của họ mà còn cả chứng tá hùng hồn của họ. Chính vì vậy, Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha cho các tín hữu của Người được hiệp nhất: để “thế gian tin” (Ga 17:21).
Tình Yêu Tự Hiến trong Thế Gian
62. Tin mừng Gioan liên kết chặt chẽ tình bác ái huynh đệ với việc chia sẻ điều tốt đẹp này. Thật vậy, lời khẳng định: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14:15) song hành với lời tuyên bố: “Ai tin vào Thầy, thì người ấy cũng sẽ làm những việc Thầy làm” (Ga 14:12). Khi Chúa Kitô nói về hoa trái mà Người mong đợi nơi các môn đệ, cuối cùng Người đồng nhất hóa hoa trái ấy với tình yêu thương huynh đệ (x. Ga 15:16-17). Tương tự như vậy, sau khi thảo luận về những việc phi thường khác nhau mà các tín hữu có thể thực hiện (x. 1 Cr 12), Thánh Phaolô đề xuất một con đường tuyệt vời hơn khi ngài nói: “Anh em hãy khao khát những ân huệ lớn lao hơn [ta meizona], và tôi sẽ chỉ cho anh em một con đường tuyệt vời hơn [kath’hyperbolēn]”: đó là tình yêu thương (1 Cr 12:31, x. 13:1). Những việc bác ái đối với tha nhân — ngay cả những công việc hằng ngày hay những nỗ lực thay đổi thế giới này — khi đó có thể trở thành một kênh dẫn để cộng tác với công trình cứu độ của Chúa Kitô.
63. Các vị giáo hoàng gần đây cũng đã bày tỏ những ý tưởng tương tự. Thánh Gioan XXIII đã dạy rằng “vì họ hiệp nhất trong tâm trí và tinh thần với Đấng Cứu Chuộc thần linh ngay cả khi họ tham gia vào các công việc của thế giới, nên công việc của họ trở thành sự tiếp nối công việc của Người, thấm nhuần quyền năng cứu chuộc… để mở rộng cho người khác những hoa trái của ơn cứu chuộc.”[159] Thánh Gioan Phaolô II hiểu sự hợp tác này như một sự tái thiết, cùng với Chúa Kitô, những điều tốt đẹp đã bị tổn hại trên thế giới vì tội lỗi, vì “Trái Tim Chúa Kitô muốn cần đến sự hợp tác của chúng ta để tái thiết lòng tốt và vẻ đẹp”; thực vậy, ngài nói tiếp, “đây chính là sự đền bù đích thực mà Trái Tim Đấng Cứu Thế đã yêu cầu.”[160] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI khẳng định rằng “với tư cách là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, con người trở thành chủ thể của đức ái; họ được mời gọi biến mình thành khí cụ ân sủng để tuôn đổ đức ái của Thiên Chúa và dệt nên những mạng lưới đức ái. Động lực của đức ái được đón nhận và trao ban này chính là điều làm nảy sinh giáo huấn xã hội của Giáo Hội.”[161] Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dạy rằng, đối với Thánh Têrêsa thành Lisieux, điều quan trọng không chỉ là để cho Trái Tim Chúa Kitô lấp đầy trái tim ngài, qua niềm tín thác trọn vẹn của ngài, bằng vẻ đẹp của tình yêu Người, mà còn là để cho tình yêu ấy, qua cuộc đời ngài, lan tỏa đến những người khác và do đó biến đổi thế giới” theo cách “được thể hiện trong những hành động yêu thương huynh đệ, qua đó chúng ta chữa lành những vết thương của Giáo Hội và của thế giới. Bằng cách này, chúng ta trao ban sức mạnh chữa lành của Trái Tim Chúa Kitô.”[162]
64. Sự hợp tác này, được thực hiện nhờ Chúa Kitô và được khơi dậy bởi hoạt động của Chúa Thánh Thần, trong trường hợp của Đức Maria, được phân biệt với sự hợp tác của bất cứ con người nào khác do đặc tính mẫu tử mà chính Chúa Kitô ở trên thập giá đã ban cho Mẹ.
Các Tiêu chuẩn
65. Bất cứ cách hiểu nào khác về sự hợp tác của Đức Maria trong trật tự ân sủng —đặc biệt nếu người ta có ý định gán cho Mẹ một hình thức can thiệp hoàn hảo, công cụ hoàn hảo, hoặc nguyên nhân thứ cấp nào đó trong việc thông truyền ơn thánh hóa[163]—phải đặc biệt chú ý đến một số tiêu chuẩn đã được ngụ ý trong Hiến chế Tín lý Lumen Gentium:
a) Chúng ta phải suy gẫm cách Đức Maria nuôi dưỡng “sự kết hợp trực tiếp”[164] của chúng ta với Chúa — mà chính Chúa tạo ra bằng cách ban ân sủng và chúng ta chỉ có thể nhận được từ Thiên Chúa[165]—và không nên nghĩ rằng sự kết hợp của chúng ta với Đức Maria trực tiếp hơn sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô. Nguy cơ này hiện diện, trên hết, trong ý niệm cho rằng Chúa Kitô ban cho chúng ta Đức Maria như một công cụ hoặc như một nguyên nhân thứ cấp và hoàn thiện hóa trong việc thông truyền ân sủng của Người.
b) Công đồng Vatican II nhấn mạnh rằng “ảnh hưởng cứu rỗi của Đức Trinh Nữ Maria đối với con người không bắt nguồn từ bất cứ sự nhất thiết nội tại nào mà từ sự sắp đặt của Thiên Chúa.”[166] Ảnh hưởng này chỉ có thể được suy nghĩ dưới ánh sáng của quyết định tự do của Thiên Chúa, Đấng – mặc dù hành động của chính Người tràn đầy và dư dật – nhưng lại tự do và không đòi hỏi việc kết hợp Đức Maria với công trình của Người. Do đó, không thể chấp nhận việc trình bày hành động của Đức Maria như thể Thiên Chúa cần đến ngài để hoàn thành ơn cứu độ.
c) Chúng ta phải hiểu sự trung gian của Đức Maria không phải là một sự hỗ trợ bổ sung giúp Thiên Chúa hoạt động trọn vẹn, phong phú hơn và đẹp đẽ hơn; thay vào đó, sự trung gian của Mẹ phải được hiểu theo cách “nó không lấy đi bất cứ điều gì cũng không thêm bất cứ điều gì vào phẩm giá và hiệu năng của Chúa Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất.”[167] Khi giải thích sự trung gian của Đức Maria, cần nhấn mạnh rằng chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Cứu Độ chúng ta và chỉ có Thiên Chúa mới áp dụng công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, công nghiệp duy nhất cần thiết và hoàn toàn đủ cho việc công chính hóa chúng ta. Đức Maria không thay thế Chúa trong bất cứ hành động nào mà Người chưa làm (tức là, Mẹ không lấy đi bất cứ điều gì của Người) cũng không bổ sung cho Người (tức là, Mẹ không thêm gì cho Người). Vì Mẹ không thêm bất cứ điều gì vào sự trung gian cứu độ của Chúa Kitô trong việc thông truyền ân sủng, nên Mẹ không nên được coi là tác nhân công cụ của sự ban tặng tự do đó.[168] Nếu Mẹ đồng hành với một hành động của Chúa Kitô — nhờ công trình của chính Người — thì Mẹ không bao giờ được coi là song hành với Người. Đúng hơn, được liên kết với Chúa Kitô, Đức Maria là người nhận được một hồng ân từ Con của Mẹ, hồng ân đặt Mẹ vượt lên trên chính mình, một hồng ân cho phép Mẹ đồng hành với công trình của Chúa với bản tính làm mẹ của mình. Vậy, chúng ta trở lại điểm an toàn nhất, đó là sự đóng góp của Đức Maria trong việc chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa; trong bối cảnh đó, người ta thực sự có thể nghĩ về Mẹ như đang hành động để đóng góp một điều gì đó của riêng mình trong chừng mực Mẹ “có thể gây ra một số sắp xếp nào đó”[169] cho những người khác. Bởi vì “Việc đạt đến đích cuối cùng thuộc quyền năng tối cao, còn các quyền năng thấp hơn đóng góp vào việc đạt được đích đó, bằng cách chuẩn bị cho người ta nhận được nó.” [170]
66. Tất cả những điều đã nói ở trên không hề xúc phạm hay hạ nhục Đức Maria, bởi vì toàn thể con người của Mẹ hướng về Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1:46). Đối với Đức Maria, không có vinh quang nào khác ngoài vinh quang của Thiên Chúa. Là Mẹ, Mẹ càng vui mừng hơn khi thấy Chúa Kitô biểu lộ vẻ đẹp vô tận, vô biên của vinh quang thần linh của Người bằng cách chữa lành, biến đổi và lấp đầy tâm hồn những người con mà Mẹ đã đồng hành trên con đường đến với Chúa. Vì vậy, bất cứ ánh mắt nào hướng về Mẹ mà làm chúng ta xao lãng Chúa Kitô hoặc đặt Mẹ ngang hàng với Con Thiên Chúa đều nằm ngoài động lực đặc trưng của một đức tin đích thực Thánh Mẫu.
Các Ân sủng
67. Một số tước hiệu, chẳng hạn như “Đấng Trung Gian của Mọi Ân sủng”, có những giới hạn không ủng hộ việc hiểu đúng đắn về vị trí độc nhất của Đức Maria. Thật vậy, Đức Maria, người đầu tiên được cứu chuộc, không thể là Đấng Trung Gian của ân sủng mà chính Người đã lãnh nhận. Đây không phải là một điểm nhỏ nhặt, bởi vì nó cho thấy một điều cốt lõi: ngay cả trong trường hợp của Đức Maria, ân sủng đã đến trước ngài và đến từ sáng kiến hoàn toàn tự do của Ba Ngôi Thiên Chúa, xét theo công nghiệp của Chúa Kitô. Giống như tất cả chúng ta, Đức Maria không xứng đáng được công chính hóa bởi một hành động trước đó của chính ngài,[171] và cũng không xứng đáng được công chính hóa bởi bất cứ hành động nào sau đó.[172] Ngay cả trong trường hợp của Đức Maria, tình bạn của Người với Thiên Chúa nhờ ân sủng luôn được ban tặng một cách nhưng không. Hình ảnh đáng trân trọng của ngài là bằng chứng tối cao cho sự tiếp nhận đầy tin tưởng của một người, hơn bất cứ ai khác, đã mở lòng mình ra một cách ngoan ngoãn và hoàn toàn tin tưởng vào công trình của Chúa Kitô, và đồng thời, là dấu chỉ vĩ đại nhất của sức mạnh biến đổi của ân sủng đó.
68. Mặt khác, danh hiệu “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng” có nguy cơ mô tả Đức Maria như người phân phát những điều tốt lành hoặc năng lượng thiêng liêng ngoài mối tương quan bản thân của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, thuật ngữ “ân sủng”, khi được dùng để chỉ sự trợ giúp từ mẫu của Đức Maria vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời chúng ta, có thể mang một ý nghĩa chấp nhận được. Dạng số nhiều diễn tả tất cả những sự trợ giúp – kể cả vật chất – mà Chúa có thể ban cho chúng ta khi Người lắng nghe lời chuyển cầu của Mẹ Người. Những sự trợ giúp này, đến lượt nó, chuẩn bị tâm hồn chúng ta mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Bằng cách này, Đức Maria, với tư cách là Mẹ, có sự hiện diện trong đời sống thường nhật của các tín hữu lớn lao hơn nhiều so với sự gần gũi mà bất cứ vị thánh nào khác có thể có.
69. Qua lời chuyển cầu của ngài, Đức Maria có thể cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta những thúc đẩy nội tâm của Chúa Thánh Thần, được gọi là “hiện sủng”. Đây là những sự trợ giúp do Chúa Thánh Thần ban, hoạt động ngay cả trong các tội nhân để chuẩn bị cho họ được nên công chính,[173] và khuyến khích những người đã được nên công chính nhờ ơn thánh hóa tiếp tục tăng trưởng. Chính theo nghĩa chuyên biệt này mà tước hiệu “Mẹ Ân Sủng” phải được hiểu. Mẹ khiêm nhường cộng tác để chúng ta mở lòng đón nhận Chúa, Đấng duy nhất có thể công chính hóa chúng ta qua tác động của ơn thánh hóa: nghĩa là khi Thiên Chúa đổ tràn sự sống Ba Ngôi của Người vào chúng ta, ngự trong chúng ta như một Người Bạn, và cho chúng ta được thông phần vào sự sống thần linh của Người. Đây là công trình độc quyền của Chúa. Đồng thời, điều này không loại trừ khả thể các lời nói, hình ảnh hay những lời nhắc nhở khác nhau mà chúng ta nhận được qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria có thể giúp chúng ta kiên trì trong cuộc sống, chuẩn bị tâm hồn đón nhận ân sủng được Chúa khấng ban, hoặc trưởng thành trong đời sống ân sủng mà chúng ta đã lãnh nhận cách nhưng không.
70. Những trợ giúp này đến từ Chúa được trao ban cho chúng ta với một khía cạnh từ mẫu, tràn đầy sự dịu dàng và gần gũi của Người Mẹ mà Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta (x. Ga 19:25-28). Bằng cách này, Mẹ Maria thực hiện một hoạt động độc đáo để giúp chúng ta mở lòng mình ra với Chúa Kitô và với ân sủng thánh hóa của Người, là ơn nâng đỡ và chữa lành chúng ta. Bất cứ khi nào Mẹ mang đến cho chúng ta những “động lực” khác nhau, thì những điều này luôn phải được hiểu là những lời nhắc nhở để mở lòng mình ra với Đấng duy nhất đang hoạt động trong tận cùng con người chúng ta.
Sự kết hợp của chúng ta với Mẹ Maria
71. Công đồng Vatican II thích gọi Mẹ Maria là “Mẹ trong trật tự ân sủng”[174], điều này diễn tả rõ nét tính phổ quát của sự hợp tác từ mẫu của Mẹ Maria. Danh xưng này không thể phủ nhận theo nghĩa chính xác, vì Mẹ là Mẹ Chúa Kitô: Đấng là Ân Sủng tuyệt hảo và là Tác Giả của mọi ân sủng.
72. Chức làm mẹ của Đức Maria trong trật tự ân sủng này — bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô — cũng hàm ý rằng mỗi môn đệ thiết lập với Đức Maria “một mối tương quan độc nhất và không thể lặp lại”. Thánh Gioan Phaolô II đã đề cập đến “chiều kích Đức Maria trong đời sống của một môn đệ Chúa Kitô”, được diễn tả như “một lời đáp trả tình yêu của một người, và đặc biệt, tình yêu của một người mẹ”.[175] Thật vậy, đời sống ân sủng bao gồm mối tương quan của chúng ta với Mẹ Chúa Kitô, vì sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô nhờ ân sủng cũng bao hàm sự kết hợp với Đức Maria trong một mối tương quan tin tưởng, dịu dàng và hết lòng yêu thương.
Người Môn Đệ Đầu Tiên
73. Mẹ là “người môn đệ đầu tiên, người học hỏi tốt nhất đường lối của Chúa Giêsu”.[176] Đức Maria là người đầu tiên trong số những người “nghe lời Thiên Chúa và giữ lấy” (Lc 11:28). Mẹ là người đầu tiên đặt mình giữa những người hèn mọn và nghèo khó của Chúa, để dạy chúng ta tin tưởng chờ đợi và đón nhận ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa. Như thế, Đức Maria “là Mẹ đã trở thành ‘môn đệ’ đầu tiên của Con mình; là người đầu tiên mà Người dường như đã nói: ‘Hãy theo Ta’, ngay cả trước khi Người ngỏ lời kêu gọi này với các Tông đồ hay bất cứ ai khác (x. Ga 1,43).”[177] Mẹ là mẫu gương về đức tin và đức ái cho Giáo Hội qua việc vâng phục thánh ý Chúa Cha, cộng tác vào công trình cứu chuộc của Con mình và mở lòng đón nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần.[178] Vì lý do này, Thánh Augustinô đã nói rằng “đối với Đức Maria, việc trở thành môn đệ của Chúa Kitô có ý nghĩa hơn là việc trở thành Mẹ của Chúa Kitô.”[179] Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng “Mẹ là môn đệ hơn là Mẹ.”[180] Cuối cùng, Đức Maria là “người đầu tiên và hoàn hảo nhất trong các môn đệ của Chúa Kitô.”[181]
74. Đối với mỗi Kitô hữu, Đức Maria là “người đầu tiên ‘tin’, và chính với đức tin của ngài trong tư cách Hiền Thê và Mẫu thân, Mẹ muốn hành động trên tất cả những ai phó thác cho Mẹ như con cái của Mẹ.”[182] Mẹ làm điều đó với một tình yêu thương tràn đầy những dấu chỉ gần gũi, giúp họ trưởng thành trong đời sống thiêng liêng, dạy họ biết cách để ân sủng của Chúa Kitô hoạt động ngày càng nhiều hơn. Trong mối tương quan yêu thương và tin tưởng này, Mẹ, Đấng “đầy ân sủng”, dạy mỗi Kitô hữu đón nhận ân sủng, gìn giữ ân sủng đã nhận được và suy niệm về công trình Thiên Chúa đang thực hiện trong cuộc sống của họ (x. Lc 2:19).
75. Nếu những cách diễn đạt hoặc danh xưng như đã đề cập ở trên xuất hiện trong các trường hợp được cho là hiện tượng siêu nhiên đã nhận được phán quyết tích cực từ Giáo hội, thì cần lưu ý rằng “bất cứ khi nào Bộ ban hành Nihil obstat… những hiện tượng như vậy không trở thành đối tượng của đức tin, nghĩa là các tín hữu không bắt buộc phải chấp nhận đức tin đối với chúng.”[183]
Mẹ của Dân Trung Thành của Thiên Chúa
76. “Đức Maria, người môn đệ đầu tiên, là Mẹ.”[184] Trên Thập Giá, Chúa Kitô đã trao phó chúng ta cho Đức Maria, và vì vậy “Người đã đưa chúng ta đến với Mẹ vì Người không muốn chúng ta hành trình mà không có mẹ.”[185] Mẹ là Người Mẹ tin tưởng đã trở thành “Mẹ của tất cả các tín hữu”;[186] đồng thời, Mẹ là “Mẹ của Giáo hội loan báo Tin Mừng,”[187] Đấng đón nhận chúng ta như Thiên Chúa đã muốn kêu gọi chúng ta—nghĩa là, không chỉ là những cá nhân biệt lập mà là một dân tộc đang trên hành trình[188]: “Mẹ Maria của chúng ta luôn muốn bước đi ở bên cạnh chúng ta, luôn gần gũi chúng ta, giúp đỡ chúng ta bằng lời chuyển cầu và tình yêu của Mẹ.”[189] Mẹ là Mẹ của Dân Trung thành của Thiên Chúa, “di chuyển giữa dân mình bằng sự chăm sóc dịu dàng và yêu thương; Mẹ đón nhận những lo lắng và phiền muộn của họ như của chính mình.”[190]
Tình Yêu Dừng Lại, Chiêm Ngưỡng Mầu Nhiệm, và Tận Hưởng Mầu Nhiệm trong Thinh Lặng
77. Dân Trung thành của Thiên Chúa không xa rời Chúa Kitô hay Tin Mừng khi họ đến gần Đức Maria; đúng hơn, họ có thể nhìn thấy “trong hình ảnh người mẹ này tất cả các mầu nhiệm của Tin Mừng.”[191] Trong khuôn mặt người mẹ, họ nhìn thấy sự phản chiếu Chúa, Đấng tìm kiếm chúng ta (x. Lc 15:4-8), Đấng đến gặp chúng ta với vòng tay rộng mở (x. Lc 15:20), Đấng dừng lại trước mặt chúng ta (x. Lc 18:40), Đấng cúi xuống và nâng chúng ta lên sát má Người (x. Hs 11:4), Đấng nhìn chúng ta với tình yêu (x. Mc 10:21), một người không lên án chúng ta (x. Ga 8:11; Hs 11:9). Nơi khuôn mặt hiền mẫu của Mẹ, nhiều người nghèo nhận ra Chúa, Đấng “đã hạ bệ những kẻ quyền thế khỏi ngai vàng và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1:52). Khuôn mặt của Mẹ ca ngợi mầu nhiệm Nhập Thể. Nơi khuôn mặt của Người Mẹ bị lưỡi gươm đâm thâu (x. Lc 2:35), Dân Thiên Chúa nhận ra mầu nhiệm Thập Giá, và cũng nơi khuôn mặt ấy – được tắm trong ánh sáng phục sinh – họ nhận ra rằng Chúa Kitô đang sống. Và chính Mẹ, người đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách sung mãn, đã nâng đỡ các Tông đồ cầu nguyện trong Phòng Tiệc Ly (x. Cv 1:14). Do đó, chúng ta có thể nói rằng “đức tin của Đức Maria, theo chứng tá tông đồ của Giáo hội, bằng cách nào đó vẫn tiếp tục trở thành đức tin của Dân Thiên Chúa đang lữ hành.”[192]
78. Như các giám mục Mỹ Latinh đã khẳng định, người nghèo “tìm thấy tình thương và lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi khuôn mặt của Đức Maria. Trong đó, họ thấy phản ảnh sứ điệp Tin Mừng cốt yếu.”[193] Dân chúng, trong sự giản dị và nghèo khó, không tách biệt Đức Mẹ vinh quang khỏi Đức Maria thành Na-da-rét mà chúng ta tìm thấy trong các sách Tin mừng. Trái lại, họ nhận ra sự giản dị đằng sau vinh quang và biết rằng Đức Maria vẫn luôn là một trong số họ. Mẹ là người, giống như bất cứ người mẹ nào, đã cưu mang con mình trong lòng, cho con bú và yêu thương nuôi dạy con với sự giúp đỡ của Thánh Giuse — nhưng Mẹ cũng đã trải qua những biến động và bấp bênh của thiên chức làm mẹ (x. Lc 2,48-50). Mẹ là người ca ngợi Thiên Chúa, Đấng “đã ban của đầy dư cho kẻ đói, và đuổi người giàu về tay trắng” (Lc 1,53); Mẹ đau khổ cùng đôi tân hôn hết rượu cho tiệc cưới (x. Ga 2,3); Mẹ biết vội vã ra đi giúp đỡ người chị họ đang cần được giúp đỡ (x. Lc 1,39-40); Mẹ để mình bị thương như bị lưỡi gươm đâm thâu, vì lịch sử dân tộc mình, nơi Con Mẹ là “dấu chỉ của sự mâu thuẫn” (Lc 2,34); Mẹ hiểu thế nào là di dân hay lưu đày (x. Mt 2,13-15); Mẹ, trong cảnh nghèo khó, chỉ có thể dâng hai chú chim bồ câu non (x. Lc 2,24); và Mẹ hiểu thế nào là bị khinh miệt vì xuất thân từ một gia đình thợ mộc nghèo (x. Mc 6,3-4). Dân chúng đau khổ nhận ra Đức Maria đang đồng hành với họ, nên họ tìm đến Mẹ để cầu xin Mẹ giúp đỡ.[194]
79. Sự gần gũi của Mẹ khơi dậy lòng sùng kính Đức Mẹ “bình dân” mang nhiều hình thức khác nhau nơi các dân tộc. Những khuôn mặt khác nhau của Đức Maria – Hàn Quốc, Mexico, Congo, Ý, và rất nhiều dân tộc khác – là những cách thức Tin Mừng được hội nhập văn hóa, phản ảnh “lòng nhân từ của Thiên Chúa”[195] ở khắp mọi nơi trên trái đất, chạm đến tận cốt lõi của các dân tộc chúng ta.
80. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng đức tin của dân Chúa, nơi vô số anh chị em đồng đạo tự phát nhận ra Đức Maria là Mẹ, giống như chính Chúa Kitô đã khuyến khích chúng ta làm như vậy trên thập giá. dân Chúa thích hành hương đến các đền thánh Đức Mẹ khác nhau, tìm thấy ở đó niềm an ủi và sức mạnh để kiên trì – giống như những người, giữa những mệt mỏi và đau đớn, nhận được sự âu yếm của Mẹ. Hội nghị Aparecida đã có thể diễn tả một cách rõ ràng và đẹp đẽ giá trị thần học sâu sắc của trải nghiệm này. Không gì kết thúc Bản Ghi chú này tốt hơn những lời này:
“Chúng tôi nhấn mạnh đến những cuộc hành hương, nơi dân Chúa có thể được nhận ra trong hành trình của họ. Ở đó, người tín hữu hân hoan với niềm vui cảm thấy được bao quanh bởi biết bao anh chị em, cùng nhau tiến về Thiên Chúa, Đấng đang chờ đợi họ. Chính Chúa Kitô đã trở thành một người hành hương, và bước đi giữa những người nghèo. Quyết định lên đường đến đền thánh đã là một lời tuyên xưng đức tin; bước đi là một bài ca hy vọng đích thực; và việc đến nơi là cuộc gặp gỡ của tình yêu. Ánh mắt của người hành hương hướng về một hình ảnh tượng trưng cho tình yêu thương và sự gần gũi của Thiên Chúa. Tình yêu dừng lại, chiêm ngắm mầu nhiệm và tận hưởng trong thinh lặng. Tình yêu cũng rung động, trút bỏ hết gánh nặng đau thương và ước mơ của mình. Lời cầu nguyện tin tưởng, tuôn trào chân thành, là biểu hiện tốt nhất của một trái tim đã từ bỏ sự tự mãn, nhận ra rằng một mình mình không thể làm gì. Một trải nghiệm tâm linh sống động được gói gọn trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.”[196]
Lạy Mẹ của Dân Trung Thành của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, trong buổi tiếp kiến dành cho vị Tổng Trưởng ký tên dưới đây cùng với Thư ký Phân Bộ Giáo Lý của Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 7 tháng 10, Lễ Đức Mẹ Mân Côi, đã phê chuẩn Ghi chú này, được quyết định trong Phiên họp Thường kỳ của Bộ này ngày 26 tháng 3 năm 2025, và ngài đã ra lệnh công bố.
Ban hành tại Rôma, tại trụ sở Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngày 4 tháng 11 năm 2025, Lễ Thánh Charles Borromeo.
Hồng Y Victor Manuel Fernández
Tổng Trưởng
Đức Ông Armando Matteo
Thư ký, Phân Bộ Giáo Lý
Giáo hoàng Lêô XIV
07.10.2025
__________________
[1] X. Au-gus-ti-nô, De sancta virginitate, 6: PL 40, 399.
[2] Bộ Giáo lý Đức tin, Các Quy tắc Tiến hành Phân định các Hiện tượng Được cho là Siêu nhiên (17 tháng 5 năm 2024).
[3] Trong một số hiện tượng, hay những lần hiện ra này, Đức Trinh Nữ Đức Maria được gọi bằng các tước hiệu như “Đồng Công Cứu Chuộc”, “Đấng Cứu Chuộc”, “Linh Mục”, “Đấng Trung Gian”, “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng”, “Mẹ Ân Sủng”, “Mẹ Thiêng Liêng”, v.v.
[4] Xem Đức Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 26: AAS 66 (1974), 136-139.
[5] Xem ibid., 28: AAS 66 (1974), 139-141.
[6] Xem ibid., 37: AAS 66 (1974), 148-149.
[7] Đức Gioan Phaolô II, Buổi Triều Yết Chung (9 tháng 4 năm 1997), đoạn 1. 3: L’Osservatore Romano, 10 tháng 4 năm 1997, 4.
[8] Đức Phanxicô, Bài giảng cho Năm Thánh Ngoại thường về Lòng Thương Xót: Thánh Lễ và Mở Cửa Thánh (8 tháng 12 năm 2015): AAS 108 (2016), 8.
[9] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 26: AAS 79 (1987), 396.
[10] Mối tương quan giữa Ađam và Chúa Kitô được tìm thấy trong các bản văn của Thánh Phaolô (xem Rm 5:18-19 và 1 Cr 15:22) cho phép các Giáo phụ thiết lập mối tương quan song song giữa Evà và Đức Maria. Ví dụ, Thánh Justin Tử đạo, Dialogus cum Tryphone, 100, 5-6: PG 6, 710CD-711A; Irenaeus thành Lyons, Adversus haereses, III, 22, 4: PG 7/1, 959C-960A; Tertullian, De carne Christi, 17, 5: PL 1, 782B. Sự tương đồng đối lập này giữa Evà và Đức Maria là cách tiếp cận đầu tiên mà các Giáo phụ đã thực hiện đối với chủ đề về sự hợp tác của Trinh nữ trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô: nếu Evà mang đến sự diệt vong, thì đức tin của Đức Maria mang đến cho chúng ta sự cứu rỗi. Sự phong phú của chứng từ giáo phụ mô tả Trinh nữ là Evà mới cung cấp một số yếu tố thần học đáng lưu ý: (a) Đức Maria và "người phụ nữ", bởi vì trong Đức Maria, người phụ nữ lấy lại được vẻ huy hoàng ban đầu của mình và tìm thấy sự hoàn thành cuối cùng của mình; (b) Đức Maria và Chúa Kitô là người phối ngẫu-bạn đời, người tạo thành với Con của mình cặp đôi mẫu mực và cứu rỗi của sự quy tụ hoặc phục hồi Đấng Mê-xi-a; (c) Đức Maria và Giáo Hội, qua đó một mối tương quan kép được thiết lập giữa Đức Maria và Giáo Hội: mối tương quan vừa là mẫu gương (như nguyên mẫu) vừa là Mẹ của Giáo Hội.
[11] Au-gus-ti-nô, De sancta virginitate, 6: PL 40, 399.
[12] Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 31: AAS 79 (1987), 402-403.
[13] Ví dụ, xem Ephrem, Hymni de Nativitate: SC 459; Gioan Đamascenô, In dormitione Deiparae I, 8: SC 80, 100-104.
[14] Ví dụ, xem Octoëchus magnus, Rome 1885, 152: “Chúng con đã được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ Mẹ, ôi Theotokos, Đấng trọn đời đồng trinh; vì Mẹ đã sinh ra Thiên Chúa làm người vì chúng con. Vì vậy, như điều phải làm, tất cả chúng con thành tâm tôn vinh Mẹ” (dịch từ nguyên bản Hy Lạp của Theotokion trong bài thơ Kathisma sau khổ đầu tiên). Một ví dụ quan trọng hơn về cách diễn đạt lòng sùng kính Đức Mẹ là bài Hymnus Akathistos nổi tiếng gồm hai mươi bốn khổ (thế kỷ thứ năm); tựa đề chỉ đơn giản có nghĩa là bài thánh ca này phải được nghe khi đứng, chứ không phải khi ngồi (như Tin mừng được nghe khi đứng) như một dấu hiệu của lòng tôn kính đặc biệt đối với Đức Trinh Nữ Maria. Trong bài thánh ca đó, nhà thơ đã tô điểm cho Đức Maria bằng những tính từ và ẩn dụ tượng trưng tuyệt đẹp, cầu xin Mẹ chấp nhận lời dâng hiến đầy thi vị của ông và cầu bầu cho sự cứu rỗi nhân loại khỏi tội lỗi trần gian (xem E.M. Toniolo, OSM, Akathistos Inno alla Madre di Dio, Rome 2017).
[15] Bằng chứng lâu đời nhất về danh hiệu này có từ thế kỷ thứ ba ở Ai Cập. Xem Papyrus 470 của Thư viện John Rylands (Manchester, Vương quốc Anh), trong đó có phần lớn lời cầu khẩn Đức Mẹ bằng tiếng Hy Lạp. Phiên bản tiếng Latinh của lời cầu nguyện này như sau: “Sub tuum praesidium confugimus, Sancta Dei Genetrix. Nostras deprecationes ne despicias in necessitatibus, sed a periculis cunctis libera nos semper, Virgo gloriosa et benedicta” (bản tiếng Việt: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời, xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện, trong cơn gian nan thiếu thốn, Đức Nữ Đồng Trinh hiển vinh sáng láng hằng chữa chúng con cho khỏi mọi sự dữ. Amen.”; bản dịch tiếng Anh, Little Office of the Blessed Virgin Mary , Catholic Book Publishing, New Jersey 1988, 186).
[16] Các ảnh tượng biểu tượng truyền thống về Đức Trinh Nữ tuân theo một loạt các mô hình đã được thiết lập rõ ràng, đặc biệt: Odēghētria (“Người chỉ đường”), trong đó Mẹ chỉ tay chỉ đường đến với Chúa Giêsu, con Mẹ, đang ngồi trong lòng Mẹ; Eleousa (“Sự dịu dàng”), thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa Mẹ và Con, với Chúa Con áp má vào má Mẹ; Platytera (“Rộng rãi hơn cả bầu trời”), bởi vì ngài mang Chúa Kitô trong mình, được mô tả là Hài Nhi trên ngực. Từ ba mô hình này, hầu hết các mô hình khác bắt nguồn từ đó, chẳng hạn như Galaktotrophousa, người nuôi dưỡng Hài Nhi bằng sữa của mình; Kyriōtissa hay “Lệnh Bà”, người bế Hài Nhi trên đầu gối như trên ngai vàng; Panagia (“Toàn Thánh”), khoác áo choàng đỏ thể hiện sự trọn vẹn của sự thánh thiện; và Deēsis, nơi Đức Maria xuất hiện bên phải Chúa Con của ngài, ngự trên ngai vàng uy nghi (Pantokratōr) đang cầu bầu cho chúng ta, thường bên cạnh Thánh Gioan Tẩy Giả ở bên trái. Trong các ảnh tượng khác, Đức Maria xuất hiện cầu bầu cùng các vị thánh khác — thường bao gồm cả Thánh Gioan Tẩy Giả, với tư cách là những đại diện cuối cùng của Giao Ước Cũ và đồng thời là những thành viên đầu tiên của dân mới.
[17] X. Đức Bênêđictô XVI, Buổi tiếp kiến chung (27 tháng 5 năm 2009): L’Osservatore Romano, 28 tháng 5 năm 2009, 1; Gregory thành Narek, Prex 26 và 80: Ad Deiparam; SC 78, 160-164, 428-432.
[18] Các tác giả Đông phương như Thánh Jacob thành Serugh (X 521), Thánh Romanos Melodist (X555-562), Thánh Gioan Đamascenô (X749) và Gioan Geometres (X1000) đã đề cập đến chủ đề về sự cộng tác của Đức Maria với hy lễ cứu chuộc của Chúa Kitô trên thập giá.
[19] X. Ber-na-đô thành Clairvaux, In Purificationem Deiparae, III, 2: PL 183, 370C.
[20] X. Arnold thành Bonneval, De laudibus B. M. Virginis, I, 3c. 12,4: PL 189, 1727A.
[21] Trong Huấn quyền trước Công đồng Vatican II, những điều sau đây nổi bật: Đức Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 597-619; Leo XIII, Thông điệp Iucunda Semper Expectatione (8 tháng 9 năm 1894): ASS 27 (1894-1851), 177-184; Thông điệp Adiutricem Populi (5 tháng 9 năm 1895): ASS 28 (1895-1896), 129-136; Đức Piô X, Thông điệp Ad Diem Illum Laetissimum (2 tháng 2 năm 1904): ASS 36 (1903-1904), 453; Bênêđictô XV, Tông thư Inter Sodalicia a la Cofradía de Ntra. Sra de la Buena Muerte (22 tháng 3 năm 1918): AAS 10 (1918), 182; Đức Piô XI, Thông điệp Miserentissimus Redemptor (8 tháng 5 năm 1928): AAS 20 (1928), 165-178; Đức Piô XII, Thông điệp Mystici Corporis Christi (29/6/1943): AAS 35 (1943), 193-248; Thông điệp Ad Caeli Reginam (11/10/1954): AAS 46 (1954), 634-635.
[22] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium (21/11/1964), 56: AAS 57 (1965), 60.
[23] X. Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 616 (DH 2803): “Nữ trinh Diễm phúc Maria, ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai, nhờ ân sủng và đặc ân đặc biệt của Thiên Chúa Toàn Năng và nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại, đã được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ của Tội Nguyên Tổ”; Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 53: AAS 57 (1965), 58: “Được cứu chuộc một cách cao cả hơn nhờ công nghiệp của Con mình.”
[24] X. Ambrose, Exp. Evàngelii secundum Lucam, II, 7: PL 15, 1555.
[25] X. Đức Phanxicô, Kinh Truyền Tin (15 tháng 8 năm 2013): L’Osservatore Romano, 17-18 tháng 8 năm 2013, 8.
[26] Đức Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 25: AAS 66 (1974), 135.
[27] Mẹ không chỉ đơn thuần là một “người mẹ-người vú nuôi”. Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 20: AAS 79 (1987), 361-433, 384-387.
[28] Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng lễ trọng Truyền tin (25 tháng 3 năm 2006): AAS 98 (2006), 330; xem Đức Phaolô VI, Tông huấn Signum Magnum (13 tháng 5 năm 1967), 5: AAS 59 (1967), 469: “Ngay khi được sứ thần Gabriel trấn an rằng Thiên Chúa đã chọn ngài làm người mẹ tinh tuyền của Con Một Người, Đức Maria đã không ngần ngại chấp nhận một công việc đòi hỏi tất cả sức lực của bản chất mỏng manh của mình và tuyên bố: ‘Này tôi là nữ tỳ của Chúa; xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần nói’ (Lc 1:38).”
[29] H.U. von Balthasar, Theo-Drama: Lý thuyết kịch thần học: Dramatis Personae: Những con người trong Chúa Kitô, tập 3, dịch bởi G. Harrison, San Francisco 1992, 295. X. Cyril thành Alexandria, Thư thứ hai gửi Nestorius: “Vì lý do này [các Giáo phụ] đã không ngần ngại nói về Đức Trinh Nữ thánh thiện là Mẹ Thiên Chúa”: DH 251; và Công đồng Êphêsô, can. 1: DH 252.
[30] Theo như chúng ta biết cho đến ngày nay, sự kiện này xảy ra vào thế kỷ XV khi một nhà soạn thánh ca dòng Biển Đức để lại cho hậu thế lời cầu nguyện viết tay sau đây, được lưu giữ tại Tu viện Thánh Phêrô ở Salzburg: “Pia, dulcis et goodness / nullo prorsus luctu digna / si fletum hinc eligeres / ut compassa Redemptori / captivato transgressori / tu corredemptrix fieres” (“Yêu thương, ngọt ngào và nhân hậu / hoàn toàn không đáng phải chịu bất cứ nỗi đau buồn nào / nếu từ nay ngài chọn khóc lóc / như một người cùng chịu đau khổ với Đấng Cứu Chuộc / cho tội nhân bị giam cầm / ngài sẽ là đồng công cứu chuộc”): De compassione BMV, 20: G.M. Dreves (biên tập), Analecta Hymnica Medii Aevi, XLVI, Leipzig 1905, n. 79, 127.
[31] Các nhà thần học hiểu danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc” theo nhiều cách khác nhau: (a) Sự hợp tác trực tiếp, mang tính Kitô giáo, hay tối đa, đặt sự hợp tác của Đức Maria gần gũi, trực tiếp và ngay trước Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô (sự cứu chuộc khách quan). Theo cách hiểu này, công trạng của Đức Maria, mặc dù phụ thuộc vào Chúa Kitô, nhưng sẽ có giá trị cứu chuộc cho sự cứu rỗi; (b) sự hợp tác trung gian hay tối thiểu, sẽ giới hạn trong lời “Xin Vâng” của Mẹ trong biến cố Truyền Tin. Đây sẽ là sự hợp tác trung gian, làm cho sự Nhập Thể trở thành khả thi như một bước mở đầu cho Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô; (c) Sự hợp tác trực tiếp nhưng mang tính tiếp nhận hay mang tính Giáo Hội, hợp tác trong công trình cứu chuộc khách quan trong chừng mực Mẹ chấp nhận hoa trái của hy lễ cứu chuộc của Đấng Cứu Thế, đại diện cho Giáo Hội. Đây sẽ là một sự hợp tác trực tiếp nhưng cũng mang tính tiếp nhận, vì Đức Maria đơn giản đã chấp nhận Công trình Cứu Chuộc của Chúa Kitô, qua đó trở thành “Giáo Hội đầu tiên”.
[32] Dưới triều đại giáo hoàng của Thánh Piô X, danh hiệu “Đồng công cứu chuộc” xuất hiện trong một văn kiện của Thánh bộ Nghi lễ và hai văn kiện của Bộ Văn phòng Thánh. X. Thánh bộ Nghi lễ, Dolores Virginis Deiparae (13 tháng 5 năm 1908): ASS 41 (1908), 409; Thánh bộ Văn phòng Thánh, Sắc lệnh Sunt quos amor (26 tháng 6 năm 1913): AAS 5 (1913), 364, ca ngợi tập tục thêm vào tên Chúa Giêsu tên “của mẹ Người, Đấng Đồng công cứu chuộc của chúng ta, Đức Maria Rất Thánh”; Oración indulgenciada (22 tháng 1 năm 1914): AAS 6 (1914), 108, trong đó Đức Maria được gọi là “Đấng Đồng công cứu chuộc nhân loại”. Đức Giáo Hoàng đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Đồng Công Cứu Chuộc” là Đức Piô XI trong một Sắc lệnh ngày 20 tháng 7 năm 1925 về Nữ Vương Mân Côi Pompeii: Đức Piô XI, Ad B.V.M. a Sacratissimo Rosario in Valle Pompeiana, in Sacra Paenitentiaria Apostolica, Enchiridion indulgentiarum, Rome 1952, số 628: “Xin Mẹ cũng hãy nhớ rằng trên đồi Canvê, Mẹ đã trở thành Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, hợp tác với sự đóng đinh của trái tim Mẹ để cứu rỗi thế giới, cùng với Người Con chịu đóng đinh của Mẹ;” Xem Diễn văn “Ecco di Nuovo” gửi các tín hữu hành hương từ Giáo phận Vicenza (ngày 30 tháng 11 năm 1933): L’Osservatore Romano, ngày 1 tháng 12 năm 1933, 1.
[33] Xem Đức Piô XI, Thông điệp phát thanh nhân dịp bế mạc Năm Thánh Cứu Chuộc tại Lộ Đức (28/04/1935): LʼOsservatore Romano 28/29/04/1935, 1.
[34] X. Đức Piô XI, Ad B.V.M. a Sacratissimo Rosario in Valle Pompeiana, in Sacra Paenitentiaria Apostolica, Enchiridion indulgentiarum, Rome 1952, n. 628.
[35] X. Đức Gioan Phaolô II, Tiếp kiến chung (10/12/1980): Insegnamenti III/2 (1980), 1646; Tiếp kiến chung (8 tháng 9 năm 1982): Insegnamenti V/3 (1982), 404; Kinh Truyền Tin (4/11/1984): Insegnamenti VII/2 (1984), 1151; Bài giảng tại Đền Đức Mẹ Bình Minh ở Guayaquil (Ecuador) (31 tháng 1 năm 1985): Insegnamenti VIII/1 (1985), 319; Kinh Truyền Tin (31 tháng 3 năm 1985): Insegnamenti VIII/1 (1985), 890; Diễn văn gửi các tín hữu hành hương của “Opera Federativa Trasporto Ammalati a Lourdes” (24 tháng 3 năm 1990): Insegnamenti XIII/1 (1990), 743; Kinh Truyền Tin (6 tháng 10 năm 1991): Insegnamenti XIV/2 (1991), 756. Tuy nhiên, sau Feria IV của Bộ Giáo lý Đức tin vào ngày 21 tháng 2 năm 1996, Thánh Gioan Phaolô II đã ngừng sử dụng tước hiệu “Đồng công cứu chuộc”. Điều quan trọng cần lưu ý là danh hiệu này không xuất hiện trong Thông điệp Redemptoris Mater ngày 25 tháng 3 năm 1987 của ngài — văn kiện tuyệt vời trong đó Thánh Gioan Phaolô II giải thích vai trò của Đức Maria trong công trình Cứu chuộc.
[36] J. Ratzinger, Biên bản Hội nghị Feria IV ngày 21 tháng 2 năm 1996, trong Văn khố của Bộ Giáo lý Đức tin.
[37] J. Ratzinger – P. Seewald, Thiên Chúa và Thế giới: Tin và Sống trong Thời đại Chúng ta: Đối thoại với Peter Seewald, dịch. H. Taylor, San Francisco 2002, 306.
[38] Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Đức Mẹ Guadalupe (12 tháng 12 năm 2019): AAS 112 (2020), 9.
[39] Đức Phanxicô, Suy niệm hàng ngày về “Đức Mẹ Sầu Bi: Người Môn Đệ và Mẹ” (3 tháng 4 năm 2020): L’Osservatore Romano, 4 tháng 4 năm 2020, 8.
[40] Đức Phanxicô, Tiếp kiến chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8.
[41] Đức Piô XII, Thông điệp Haurietis Aquas (15/5/1956), 10: AAS 48 (1956), 321.
[42] X. Thánh Anrê thành Crete, In Nativitatem Mariae, IV: PG 97, 865A.
[43] So sánh với Đức Giáo Hoàng Constantinople, In Annuntiationem s. Deiparae: PG 98, 322BC.
[44] So sánh với Gioan Damascene, In dormitionem Deiparae, I: PG 96, 712B-713A.
[45] Ngày 12 tháng 1 năm 1921, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV — theo lời thỉnh cầu của Đức Hồng Y Désiré-Joseph Mercier — đã ban cho toàn thể nước Bỉ Lễ Đức Trinh Nữ Maria “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng”, được cử hành hàng năm vào ngày 31 tháng 5. Sau đó, theo lời thỉnh cầu, Tòa Thánh đã ban cùng Lễ Đức Mẹ và Thánh Lễ này cho nhiều giáo phận và dòng tu khác: so sánh với AAS 13 (1921), 345.
[46] So sánh với Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63; Học viện Giáo hoàng Quốc tế về Đức Mẹ, “Một Tín điều Đức Mẹ Mới? Bình luận về Tuyên bố của Học viện Đức Mẹ”, L’Osservatore Romano (Bản tiếng Anh hàng tuần), ngày 25 tháng 6 năm 1997, 10: “Hiến chế Lumen gentium, do sự lựa chọn thận trọng không chứa đựng một định nghĩa tín lý về sự trung gian, đã được chấp thuận với 2.151 phiếu bầu trong số 2,156 phiếu… Chỉ mới 33 năm sau khi ban hành Lumen gentium… bối cảnh giáo hội, thần học và chú giải… về cơ bản không thay đổi.” Lời khẳng định này của Học viện Giáo hoàng Quốc tế về Đức Mẹ đã được bổ sung vào Tuyên bố của Ủy ban Thần học được thành lập trong khuôn khổ Đại hội Đức Mẹ học Quốc tế lần thứ 12 (Czestochowa, 12-24 tháng 8 năm 1996), trong đó Ủy ban này cho rằng việc định nghĩa tín điều về Đức Maria là “Đấng Trung gian”, “Đấng Đồng công cứu chuộc” và “Đấng Bào chữa” là không phù hợp. Xem Ủy ban Thần học của Đại hội Czestochowa, “Yêu cầu định nghĩa tín điều về Đức Maria là Đấng Trung gian, Đấng Đồng công cứu chuộc và Đấng Bào chữa”: L’Osservatore Romano (Bản tiếng Anh hàng tuần), 25 tháng 6 năm 1997, 10.
[47] Đức Phaolô VI, Diễn văn bế mạc Khóa họp thứ ba của Khóa họp thứ hai Công Đồng Vatican (21/11/1964): AAS 56 (1964), 1014.
[48] X. Bernard ở Clairvaux, Hom. in laudibus Virginis Matris, IV, 8: PL 183, 83CD-84AB.
[49] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 55-62: AAS 57 (1965), 59-63.
[50] Xem ibid., 53, 56, 61, 63: AAS 57 (1965), 59; 60; 63; 64.
[51] X. ibid., 60, 62, 63, 65: AAS 57 (1965), 62; 63; 64; 65.
[52] Ibid., 62: AAS 57 (1965), 63.
[53] X. Đức Phanxicô, Buổi Tiếp kiến Chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8.
[54] Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên bố Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), đoạn 13: AAS 92 (2000), 754-755.
[55] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.
[56] Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên bố Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), đoạn 14.
[57] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 1: AAS 57 (1965), 5; Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 112: AAS 105 (2013), 1066.
[58] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 65: AAS 57 (1965), 64-65; Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 288: AAS 105 (2013), 1136.
[59] Origen, In Numeros homilae, XII, 1: PG 12, 657.
[60] Ambrose, Thư tín. 29, 24: PL 16, 1106D.
[61] Thomas Aquinas, Commentaria super Ioannem, ch. 7, bài giảng. 5.
[62] X. Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 616 (DH 2803): “nhờ ân sủng và đặc ân đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng và xét về công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại”.
[63] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 38: AAS 79 (1987), 411.
[64] X. ibid., 21: AAS 79 (1987), 387-389.
[65] X. ibid., 23: AAS 79 (1987), 390-391.
[66] Đức Phanxicô, Suy niệm hằng ngày “Đức Mẹ Sầu Bi: Môn đệ và Mẹ” (3 tháng 4 năm 2020).
[67] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 55-62: AAS 57 (1965), 59-63.
[68] X. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 4: AAS 79 (1987), 421.
[69] X. Đức Phaolô VI, Diễn văn bế mạc Khóa họp thứ ba của Công đồng Vatican II (21 tháng 11 năm 1964): AAS 56 (1964), 1015: “Vậy, Đức Maria, với tư cách là Mẹ Chúa Kitô, cũng phải được xem là Mẹ của các tín hữu và của tất cả các mục tử; nghĩa là của Hội Thánh”; Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, đoạn 963.
[70] Đức Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 22: AAS 66 (1974), 133.
[71] H.U. von Balthasar, Theo-Drama: Lý thuyết Kịch nghệ Thần học: Dramatis Personae: Những Ngôi Vị trong Chúa Kitô, tập 3, dịch bởi G. Harrison, San Francisco 1992, 333.
[72] X. Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 56: AAS 57 (1965), 60: “[Bà] đã hoàn toàn hiến thân, như một nữ tỳ của Chúa, cho con người và công trình của Con mình, dưới quyền và với Người, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc, nhờ ân sủng của Thiên Chúa Toàn năng.”
[73] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 23: AAS 79 (1987), 391.
[74] Xem Đức Gioan Phaolô II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 69: AAS 57 (1965), 66: “Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.”
[75] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 38: AAS 79 (1987), 411; xem Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý, Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965), 63. Nội dung về chức làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria hiện diện trong các bản văn giáo phụ đầu tiên và có nền tảng Kinh Thánh chủ yếu trong Tin mừng Thánh Gioan — cụ thể là trong trình thuật về Thập Giá.
[76] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 21: AAS 79 (1987), 388: “[Thông tin] về biến cố Cana phác họa những gì thực sự được thể hiện như một kiểu làm mẹ mới theo tinh thần chứ không chỉ theo xác thịt, nghĩa là sự quan tâm của Đức Maria đối với con người, việc Mẹ đến với họ trong muôn vàn nhu cầu và mong muốn của họ.”
[77] Xem Đức Phanxicô, Bài giảng lễ trọng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (1 tháng 1 năm 2020): AAS 112 (2020), 19.
[78] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 38: AAS 79 (1987), 411-412; xem Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.
[79] Xem Đức Gioan Phaolô II, Buổi Tiếp kiến Chung (9 tháng 4 năm 1997), 2: L’Osservatore Romano, 10 tháng 4 năm 1997, 4: “Đức Maria… đã cộng tác trong suốt biến cố này và trong vai trò làm mẹ; do đó, sự cộng tác của Mẹ bao trùm toàn bộ công trình cứu độ của Chúa Kitô.”
[80] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62; Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, đoạn 970.
[81] Xem Đức Phanxicô, Buổi Tiếp kiến Chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8: “[Đức Maria] chỉ Đấng Trung gian: Mẹ là Đấng Trung gian. Sự hiện diện của Mẹ ở khắp mọi nơi trong nghệ thuật ảnh tượng Kitô giáo, đôi khi rất nổi bật, nhưng luôn luôn liên quan đến Con của Mẹ và trong sự kết nối với Người. Đôi tay, ánh mắt, cử chỉ của Mẹ là một ‘bài giáo lý’ sống động, luôn chỉ ra viên đá góc tường, trung tâm: Chúa Giêsu. Đức Maria hoàn toàn hướng về Người (x. GLHTCG, 2674).”
[82] Đức Gioan Phaolô II, Tông thư Rosarium Virginis Mariae (16 tháng 10 năm 2002), 4, trích dẫn Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 66: AAS 57 (1965), 65.
[83] Xem Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63: “[Vai trò phụ thuộc này của Đức Maria.”
[84] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 40: AAS 79 (1987), 414-415.
[85] Cùng nguồn, 43: AAS 79 (1987), 420.
[86] X. Đức Phanxicô, Diễn văn nhân dịp đọc kinh Mân Côi tại Vương cung thánh đường Thánh Đức Maria Cả, (4 tháng 5 năm 2013): L’Osservatore Romano, 6-7 tháng 5 năm 2013, 7.
[87] Đức Leo XIV, Bài giảng trong Thánh lễ Năm Thánh của Tòa thánh (9 tháng 6 năm 2025): L’Osservatore Romano, 10 tháng 6 năm 2025, 2.
[88] X. Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin Mừng (24 tháng 11 năm 2013), 285: AAS 105 (2013), 1135.
[89] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 176: L’Osservatore Romano, 24 tháng 10 năm 2024, 10.
[90] X. Đức Phanxicô, Tiếp kiến chung (18 tháng 11 năm 2020): L’Osservatore Romano, 18 tháng 11 năm 2020, 11.
[91] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 21: AAS 79 (1987), 388-389.
[92] X. Phanxicô, Bài giảng Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (01/01/2024): L’Osservatore Romano, 02/01/2024, 2.
[93] J.L. Guerrero Rosado, Nican mopohua: Aquí se cuenta… el gran acontecimento, Cuautitlán 2003, nn. 23, 119.
[94] Đức Gioan Phaolô II, Tiếp kiến chung (13 tháng 8 năm 1997), 4: L’Osservatore Romano, 14 tháng 8 năm 1997, 4.
[95] Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Đức Mẹ Guadalupe (12 tháng 12 năm 2022): L'Osservatore Romano, 13 tháng 12 năm 2022, 8; xem. Bài giảng Lễ Đức Mẹ Guadalupe (12 tháng 12 năm 2023): L’Osservatore Romano, 13 tháng 12 năm 2023, 11.
[96] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965), 11; Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 96: AAS 116 (2024), 1398.
[97] X. J. Ratzinger, Biên bản Feria IV ngày 21 tháng 2 năm 1996, trong Văn khố của Bộ Giáo lý Đức tin.
[98] Xem. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 21: AAS 79 (1987), 389. Đặc tính chuyển cầu của sự trung gian mẫu tử của Đức Maria là giáo huấn thường xuyên của các Giáo hoàng gần đây. Cf. Piô IX, Tông hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 597-619; Leo XIII, Thông điệp Adiutricem Populi (5 tháng 9 năm 1895): ASS 28 (1895-1896), 129-136; Đức Piô X, Thông điệp Ad Diem Illum (02/02/1904): AAS 36 (1903-1904), 455; Đức Piô XII, Thông điệp Ad Caeli Reginam (11/10/1954), 17: AAS 46 (1954), 636.
[99] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.
[100] Thánh Augustinô, De peccatorum Meriis et remissione et de Baptisto parvulorum, I, 11, 13: CSEL 60, 14.
[101] Thánh Augustinô, Bài giảng 23/A: CCSL 41, 322.
[102] Thánh Thomas Aquinas, Thần học tổng hợp, I-II, q. 114, A. 6, đồng.
[103] Công đồng Trent, Khóa VI. Sắc lệnh về Sự Công chính hóa, ch. 7: ĐH 1530.
[104] Đức Piô IX, Tông Hiến Ineffabilis Deus (8 tháng 12 năm 1854): Pontificis Maximi Acta. Pars prima, Rome 1854, 616.
[105] Thánh Thomas Aquinas, Thần học tổng hợp, I-II, q. 113, A. 9, đồng.
[106] Như trên, q. 114, A. 6, quảng cáo 3.
[107] Như trên, q. 114, A. 5, đồng.
[108] X. như đã dẫn, q. 114, A. 1, đồng.
[109] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 21: AAS 79 (1987), 389.
[110] Xem Đức Phanxicô, Buổi Triều Yết Chung (8 tháng 6 năm 2016): L’Osservatore Romano, 9 tháng 6 năm 2016, 8.
[111] Xem Đức Phanxicô, Buổi Triều Yết Chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8; Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, đoạn 2764.
[112] Xem Đức Phanxicô, Diễn văn của Đức Thánh Cha trong Giờ Kinh Mân Côi (31 tháng 5 năm 2013): L’Osservatore Romano, 2 tháng 6 năm 2013, 8.
[113] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965), 63.
[114] Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo, par. 2003.
[115] Như trên, số 1999.
[116] X. Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, I-II, q. 114, a.1, co.; Quaestiones disputatae de Veritate, 27, a. 3, ad.10.
[117] Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, III, q. 64, A. 1, co.: “solus Deus illabitur animae.”
[118] X. Công đồng Trent, Khóa VI. Sắc lệnh về Sự Công chính hóa, ch. 7 (DH 1528-1531), và Điều 11 của Bộ Luật Công Chính Hóa (DH 1561).
[119] X. Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 28, A. 2, ad.8; Summa contra gentiles, II, cap. 98, n. 18; ibid., III, cap. 88, n. 6.
[120] X. Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 27, A. 3, s.c. 5.
[121] Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, III, q. 64, A. 1, co.
[122] Chẳng hạn, xem Gennadius xứ Massilia, De ecclesiasticis dogmatibus, 83: PL 58, 999B; John Cassian, Collationes, VII, 13: PL 49, 683A; Jerome, Interpretatio libri Didymium de Spiritu Sancto, 60: PL 23, 158C..
[123] X. Thánh Bonaventure, Collationes in Hexaemeron, XXI, 18: Opera Omnia, V, Quaracchi 1891, 434.
[124] X. Thánh Bonaventure, Sententiarum Lib. I, d.14, a. 2, q. 2, ad 2: Opera Omnia, I, Quaracchi 1891, 250.
[125] X. như đã dẫn, q. 2, quỹ. 3, 251.
[126] X. như đã dẫn, q. 2, quỹ. 4 và 8, 251-252.
[127] X. Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I, q. 33, A. 3; như đã dẫn., III, q. 23, A. 4.
[128] Thánh Thomas Aquinas, Compendium theologiae, I, no. 215; xem. Tổng luận Thần học, III, q. 2, A. 10.
[129] Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, III, q. 8, A. 5, đồng.; xem. như đã dẫn, q. 2, A. 12; Một. 9; q. 48, A. 1.
[130] Thánh Thomas Aquinas, Compendium theologiae, I, no. 214.
[131] Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 29, A. 5, co.
[132] Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên bố Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), 10; xem. Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 59-63: AAS 116 (2024), 1386-1387.
[133] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (7/12/1965), 22: AAS 58 (1966), 1042-1043.
[134] X. Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, I-II, q. 112, A. 1, co.
[135] X. Thomas Aquinas, In Ioannes Evàngelium, cap. 1, câu 16, bài 10; Tổng luận Thần học, I-II, q. 112, A. 1, ad.1.
[136] Thomas Aquinas, Compendium theologiae, I, no. 214.
[137] Dante Alighieri, Thần khúc, Paradiso, XXXIII, 1.
[138] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60, 62: AAS 57 (1965), 62-63; Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, III, q. 26.
[139] Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, Kinh Tiền tụng cho Lễ trọng Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Sách Lễ Rôma, Nhà xuất bản Sách Công Giáo, New Jersey 2011, 873.
[140] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62.
[141] Xem Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, đoạn 2002.
[142] Xem Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận Thần học I, câu 25, câu 3, mục 4. Cũng như công trình sáng tạo, sự công chính hóa “thuộc về một mình Thiên Chúa để thực hiện ngay lập tức.”
[143] Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965), 63.
[144] Xem Origen, In Genesim homiliae XIII, 3-4: PG 12, 232B-234CD.
[145] X. Thánh Cyril thành Alexandria, In Ioannis Evàngelium, II, 4, 13-14: PG 73, 300C.
[146] X. Thánh Cyril thành Alexandria, Commentarius in Isaiam Prophetam, V, II, 55, 1-2: PG 70, 1220A.
[147] X. Thánh Cyril thành Jerusalem, Catechesis mystagogica, XVI, 11: PG 33, 932C.
[148] X. John Chrysostom, Hom. In Ioannem, 51, 1: PG 59, 283.
[149] Ambrose, Explanatio Psalmorum XII, Ps. 48, 4, 2: PL 14, 1157A.
[150] Ambrose., De Noe, 19, 70: PL 14, 395A.
[151] X. Ambrose, Explanatio Psalmorum XII, Ps. 48, 4, 2: PL 14, 1157A.
[152] X. Jerome, Comm. in Zachariam, III, 14, 8.9: PL 25, 1528 C.
[153] Thánh Gregory Cả, Hom. in Ezechielem, I, 10, 6: PL 76, 888B.
[154] X. Thánh Hilary, Tractatus in Psalmos, 64, 14: PL 9, 421B.
[155] Thánh Augustinô, In Ioannis Evàngelium, 32, 4: PL 35, 1643D.
[156] Thánh Thomas Aquinas, Super Ioannem, chap. 7, bài giảng. 5.
[157] Đã dẫn.; xem. Tổng luận Thần học, II-II, q. 178, A. 1, s.c.
[158] Thánh Cyril thành Jerusalem, Catechesis mystagogica XVI, 12: PG 33, 933B.
[159] Thánh Gioan XXIII, Thông điệp Mater et Magistra (15/5/1961): AAS 53 (1961), 462.
[160] Đức Gioan Phaolô II, Thư gửi Bề trên Tổng quyền của Dòng Chúa Giêsu, Paray-le-Monial (5 tháng 10 năm 1986): L’Osservatore Romano, 6 tháng 10 năm 1986, 7, được Đức Phanxicô trích dẫn, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 182: AAS 116 (2024), 1427.
[161] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 5: AAS 101 (2009), 643.
[162] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 198, 200: AAS 116 (2024), 1432.
[163] X. Thánh Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, I-II, q. 5, A. 6, co. và như trên, ad.1; Những câu hỏi tranh luận về Chân lý, q. 27, A. 3, s.c. 5. Những lập luận mà Thánh Thomas Aquinas sử dụng để giải thích tại sao chỉ có Thiên Chúa chứ không phải thụ tạo nào mới có thể ban ân sủng thì không thể bị coi là bị thay thế, kể cả trong công trình của ngài hay sau đó.
[164] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62; xem. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I, q. 25, A. 3, ad.4; Scriptum super Sententiis., II, d. 26, q. 1, A. 2, co.; như đã dẫn., IV, d. 5, q. 1, A. 3, qc. 1, ad.1.
[165] X. Thánh Thomas Aquinas, Quaestiones disputatae de Veritate, q. 27, A. 3, s.c.5. Một lần nữa, người ta có thể nhắc lại rằng: “Sed mentem, in qua est gratia, nulla creatura illabitur”.
[166] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965), 62.
[167] Cùng nguồn, 62: AAS 57 (1965), 63.
[168] X. Thánh Thomas Aquinas, Summa contra Gentiles, II, ch. 21, no. 7. Một tác nhân công cụ đóng góp một điều gì đó của riêng nó: “Omne agens instrumentale exequitur actionem principalis agentis per aliquam actionem propriam et connaturalem sibi.”
[169] Như trên, III, ch. 147, mệnh giá. 6; xem, Summa Theologiae, I, q. 45, A. 5, co.
[170] Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I-II, q. 5, A. 6, ad 1.
[171] Xem Công đồng Trentô, Phiên họp VI. Decretum de iustificatione, 8: DH 1532.
[172] Xem Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I-II, q. 114, a. 5, co.: “Khi ai có ân sủng, thì ân sủng đã có không phải là công trạng.” Mặc dù người được công chính hóa có thể xứng đáng được tăng trưởng trong đời sống ân sủng, nhưng việc được công chính hóa, trở thành bạn của Thiên Chúa nhờ ân sủng, sẽ luôn luôn là hoàn toàn nhưng không.
[173] Điều mà Thánh Tôma Aquinô gọi là “sự sắp đặt cuối cùng”, xảy ra đồng thời với việc tuôn đổ ơn thánh hóa, chính là công trình trực tiếp của ân sủng. Đó là “sự sắp đặt cuối cùng mà hình thức tất yếu phải tuân theo”: Thánh Tôma Aquinô, Sententia Metaphysicae, lib. 5, lect. 2, n. 5; so sánh Scriptum super Sententiis, I, d. 17, q. 2, A. 3, co.; Summa contra gentiles, lib. 2, mũ lưỡi trai. 19, n. 6; Compendium theologiae, I, n. 105.
[174] Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965), 63.
[175] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 45: AAS 79 (1987), 422-423.
[176] Đức Phanxicô, Tiếp kiến chung (18 tháng 11 năm 2020): L’Osservatore Romano, 18 tháng 11 năm 2020, 11.
[177] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 20: AAS 79 (1987), 387.
[178] X. Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 53: AAS 57 (1965), 58-59.
[179] Thánh Au-gus-ti-nô, Bài giảng 72/A, 7: CCSL 41Ab, 117.
[180] Đức Phanxicô, Buổi tiếp kiến chung (24 tháng 3 năm 2021): L’Osservatore Romano, 24 tháng 3 năm 2021, 8.
[181] Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (2 tháng 2 năm 1974), 35: AAS 66 (1974), 147.
[182] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 46: AAS 79 (1987), 424.
[183] Bộ Giáo lý Đức tin, Các quy tắc tiến hành trong việc phân định các hiện tượng được cho là siêu nhiên (17 tháng 5 năm 2024), đoạn 1. 12: AAS 116 (2024), 782.
[184] Đức Phanxicô, Tiếp kiến chung (16 tháng 2 năm 2022): L’Osservatore Romano, 16 tháng 2 năm 2022, 2.
[185] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 285: AAS 105 (2013), 1134-1135.
[186] Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25/12/2005), 42: AAS 98 (2006), 252.
[187] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 284: AAS 105 (2013), 1134.
[188] X. như trên, 113: AAS 105 (2013), 1067.
[189] Đức Leo XIV, Phép lành Tòa thánh đầu tiên “Urbi et Orbi” (8 tháng 5 năm 2025): L’Osservatore Romano, 9 tháng 5 năm 2025, 3.
[190] Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 37 (15 tháng 8 năm 2022): AAS 114 (2022), 1255.
[191] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 285: AAS 105 (2013), 1135.
[192] Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25/03/1987), 28: AAS 79 (1987), 398.
[193] Mỹ Latinh và Hội đồng Giám mục Caribe, Đại hội đồng lần thứ V của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe (Aparecida, 13-31 tháng 5 năm 2007), đoạn 265.
[194] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3 năm 1987), 35: AAS 79 (1987), 407.
[195] Đức Phanxicô, Bài giảng lễ trọng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (1 tháng 1 năm 2024): AAS 116 (2024), 20.
[196] Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Đại hội đồng lần thứ V của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe (Aparecida, 13-31 tháng 5 năm 2007), đoạn 259.
Đức Giáo Hoàng: Hiến Chương Đại Kết Mới hướng hành trình chung cho các Giáo Hội Châu Âu
Thanh Quảng sdb
14:36 06/11/2025
Đức Giáo Hoàng: Hiến Chương Đại Kết Mới hướng hành trình chung cho các Giáo Hội Châu Âu

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV gặp gỡ các vị ký kết Hiến Chương Đại Kết mới, và mời gọi các Giám mục Châu Âu thuộc nhiều Giáo Hội Kitô giáo khác nhau lắng nghe nhau để rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô hiệu quả hơn.
(Tin Vatican - Devin Watkins)
Hôm thứ Năm (6/11/2025), Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã gặp gỡ các thành viên của Ủy ban Liên hiệp Hội đồng các Giáo Hội Châu Âu (CEC) và các Hội đồng Giám mục Châu Âu (CCEE).
Buổi triều yết của Đức Giáo Hoàng diễn ra một ngày sau khi đại diện các Giáo Hội Kitô giáo tại Châu Âu ký kết Hiến Chương Đại Kết mới, một văn kiện đóng vai trò là nền tảng cho sự hợp tác đại kết Châu Âu, tại Tu viện Ba Suối Nguồn ở Rome.
Trong bài phát biểu của mình, Đức Giáo Hoàng cho biết văn kiện cập nhật này - được ký kết 25 năm sau Hiến Chương Đại Kết đầu tiên - nhằm giải quyết hành trình đại kết không ngừng phát triển của các Kitô hữu tại Châu Âu, đồng thời đáp ứng những mối quan tâm hiện đại trong việc loan báo Tin Mừng.
ĐGH lưu ý rằng châu Âu đã chứng kiến những thế hệ mới được sinh ra và những người đến từ những vùng đất xa xôi, mang theo “những lịch sử và biểu hiện văn hóa đa dạng”.
Ngài nói: “Mặc dù thực sự có những dấu hiệu tích cực và đáng khích lệ về sự phát triển ở một số khu vực của châu Âu, nhưng đồng thời nhiều cộng đồng Kitô giáo ngày càng cảm thấy mình là thiểu số”.
Đức Giáo Hoàng Lêô khuyến khích các Giáo hội châu Âu hãy lắng nghe những tiếng nói và câu chuyện mới, để các Kitô hữu có thể học cách thúc đẩy tốt hơn việc đối thoại và tình huynh đệ giữa “bão táp của bạo lực và chiến tranh”.
Ngài nói: “Trong tất cả mọi tình huống, ân sủng, lòng thương xót và bình an của Chúa thực sự rất quan trọng, vì chỉ có sự giúp đỡ của Thiên Chúa mới chỉ cho chúng ta cách thức thuyết phục tốt đẹp nhất để loan báo Chúa Kitô trong những bối cảnh đầy thách thức này”.
Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng Thiên Chúa “nói với và thông qua dân thánh của Ngài”, và gọi Hiến chương Đại kết là một minh chứng cho “sự sẵn lòng của các Giáo hội ở châu Âu trong việc nhìn nhận lịch sử của chúng ta qua ánh mắt của Chúa Kitô”.
Đức Thánh Cha nói thêm rằng Chúa Thánh Thần sẽ cho phép các Kitô hữu châu Âu khám phá những lĩnh vực mà họ đã thành công trong việc cùng nhau loan báo Tin Mừng, cũng như những lúc họ còn thiếu sót.
Ngài nói: “Hiến chương không chỉ gợi ý những phương pháp mà còn nhấn mạnh đến những người bạn đồng hành trên hành trình và những con đường khả thi phía trước. Khi làm như vậy, chúng ta luôn cởi mở đón nhận những thúc đẩy và những điều bất ngờ của Chúa Thánh Thần!”
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã liên kết hành trình đại kết của Giáo Hội Công Giáo với hành trình công đồng, chỉ ra rằng Hiến chương Đại kết nhấn mạnh đến hành trình của Kitô hữu ở châu Âu trong việc lắng nghe lẫn nhau và cùng nhau phân định những cách thức tốt nhất để rao giảng Tin Mừng.
Ngài nói: “Một trong những thành tựu đáng chú ý của quá trình sửa đổi Hiến chương là khả năng cùng nhau chia sẻ quan điểm về những thách thức đương đại và vạch ra các ưu tiên cho tương lai của lục địa, đồng thời vẫn duy trì niềm tin vững chắc vào sự liên quan bất tận của Tin Mừng”.
Kết luận, Đức Giáo Hoàng Lêô nhắc lại chuyến viếng thăm sắp tới của ngài đến địa điểm diễn ra Công đồng Nicaea năm 325, nơi ngài sẽ cầu nguyện cùng các nhà lãnh đạo của các cộng đồng Kitô giáo khác.
“Trong Năm Thánh này,” Đức Giáo Hoàng kết luận, “tôi cũng mong muốn công bố với toàn thể người dân châu Âu rằng ‘Chúa Giêsu Kitô là Niềm Hy Vọng của chúng ta,’ vì Ngài vừa là con đường chúng ta phải theo, vừa là đích đến cuối cùng của hành trình tâm linh của chúng ta.”

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV gặp gỡ các vị ký kết Hiến Chương Đại Kết mới, và mời gọi các Giám mục Châu Âu thuộc nhiều Giáo Hội Kitô giáo khác nhau lắng nghe nhau để rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô hiệu quả hơn.
(Tin Vatican - Devin Watkins)
Hôm thứ Năm (6/11/2025), Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã gặp gỡ các thành viên của Ủy ban Liên hiệp Hội đồng các Giáo Hội Châu Âu (CEC) và các Hội đồng Giám mục Châu Âu (CCEE).
Buổi triều yết của Đức Giáo Hoàng diễn ra một ngày sau khi đại diện các Giáo Hội Kitô giáo tại Châu Âu ký kết Hiến Chương Đại Kết mới, một văn kiện đóng vai trò là nền tảng cho sự hợp tác đại kết Châu Âu, tại Tu viện Ba Suối Nguồn ở Rome.
Trong bài phát biểu của mình, Đức Giáo Hoàng cho biết văn kiện cập nhật này - được ký kết 25 năm sau Hiến Chương Đại Kết đầu tiên - nhằm giải quyết hành trình đại kết không ngừng phát triển của các Kitô hữu tại Châu Âu, đồng thời đáp ứng những mối quan tâm hiện đại trong việc loan báo Tin Mừng.
ĐGH lưu ý rằng châu Âu đã chứng kiến những thế hệ mới được sinh ra và những người đến từ những vùng đất xa xôi, mang theo “những lịch sử và biểu hiện văn hóa đa dạng”.
Ngài nói: “Mặc dù thực sự có những dấu hiệu tích cực và đáng khích lệ về sự phát triển ở một số khu vực của châu Âu, nhưng đồng thời nhiều cộng đồng Kitô giáo ngày càng cảm thấy mình là thiểu số”.
Đức Giáo Hoàng Lêô khuyến khích các Giáo hội châu Âu hãy lắng nghe những tiếng nói và câu chuyện mới, để các Kitô hữu có thể học cách thúc đẩy tốt hơn việc đối thoại và tình huynh đệ giữa “bão táp của bạo lực và chiến tranh”.
Ngài nói: “Trong tất cả mọi tình huống, ân sủng, lòng thương xót và bình an của Chúa thực sự rất quan trọng, vì chỉ có sự giúp đỡ của Thiên Chúa mới chỉ cho chúng ta cách thức thuyết phục tốt đẹp nhất để loan báo Chúa Kitô trong những bối cảnh đầy thách thức này”.
Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng Thiên Chúa “nói với và thông qua dân thánh của Ngài”, và gọi Hiến chương Đại kết là một minh chứng cho “sự sẵn lòng của các Giáo hội ở châu Âu trong việc nhìn nhận lịch sử của chúng ta qua ánh mắt của Chúa Kitô”.
Đức Thánh Cha nói thêm rằng Chúa Thánh Thần sẽ cho phép các Kitô hữu châu Âu khám phá những lĩnh vực mà họ đã thành công trong việc cùng nhau loan báo Tin Mừng, cũng như những lúc họ còn thiếu sót.
Ngài nói: “Hiến chương không chỉ gợi ý những phương pháp mà còn nhấn mạnh đến những người bạn đồng hành trên hành trình và những con đường khả thi phía trước. Khi làm như vậy, chúng ta luôn cởi mở đón nhận những thúc đẩy và những điều bất ngờ của Chúa Thánh Thần!”
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã liên kết hành trình đại kết của Giáo Hội Công Giáo với hành trình công đồng, chỉ ra rằng Hiến chương Đại kết nhấn mạnh đến hành trình của Kitô hữu ở châu Âu trong việc lắng nghe lẫn nhau và cùng nhau phân định những cách thức tốt nhất để rao giảng Tin Mừng.
Ngài nói: “Một trong những thành tựu đáng chú ý của quá trình sửa đổi Hiến chương là khả năng cùng nhau chia sẻ quan điểm về những thách thức đương đại và vạch ra các ưu tiên cho tương lai của lục địa, đồng thời vẫn duy trì niềm tin vững chắc vào sự liên quan bất tận của Tin Mừng”.
Kết luận, Đức Giáo Hoàng Lêô nhắc lại chuyến viếng thăm sắp tới của ngài đến địa điểm diễn ra Công đồng Nicaea năm 325, nơi ngài sẽ cầu nguyện cùng các nhà lãnh đạo của các cộng đồng Kitô giáo khác.
“Trong Năm Thánh này,” Đức Giáo Hoàng kết luận, “tôi cũng mong muốn công bố với toàn thể người dân châu Âu rằng ‘Chúa Giêsu Kitô là Niềm Hy Vọng của chúng ta,’ vì Ngài vừa là con đường chúng ta phải theo, vừa là đích đến cuối cùng của hành trình tâm linh của chúng ta.”
Các Giáo phận Hoa Kỳ Sinh hoa trái nhiều nhất dựa vào các Con số Thống kê
Vũ Văn An
15:04 06/11/2025

Tương quan qua lại không phải là quan hệ nhân quả, nhưng dường như có một cái giá khủng khiếp cho các linh hồn khi một giáo phận Hoa Kỳ đạt to71i hơn 700,000 người Công Giáo: tổng số rửa tội, trở lại đạo, chủng sinh và kết hôn chắc chắn sẽ giảm xuống dưới mức trung bình.
J. J. Ziegler của Catholic World Report, ngày 3 tháng 11, 2025 nhận định như trên. Ông cho hay: theo dữ liệu được công bố trong ấn bản năm 2024 của The Official Catholic Directory, trong đó ghi lại số liệu thống kê của năm trước đó, trong một Giáo phận nghi lễ Latinh trung bình tại Hoa Kỳ cứ mỗi 113 người Công Giáo, thì có một lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh mỗi năm; cứ mỗi 413 người Công Giáo, có một lễ tiếp nhận người không phải trẻ sơ sinh vào Giáo hội mỗi năm; cứ mỗi 453 người Công Giáo, có một lễ cưới mỗi năm, và cứ mỗi 14,473 người Công Giáo, có một chủng sinh giáo phận.
Trong một loạt bài phân tích về các chủng sinh, lễ cưới, lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh và việc tiếp nhận các tín hữu không phải trẻ sơ sinh vào Giáo hội—một danh mục bao gồm lễ rửa tội cho người lớn, lễ rửa tội cho trẻ vị thành niên không phải là trẻ sơ sinh và việc tiếp nhận các Kitô hữu đã chịu phép rửa tội vào hiệp thông trọn vẹn—tôi đã tìm thấy những khác biệt đáng kể giữa các giáo phận trên toàn quốc Hoa Kỳ:
* Với một chủng sinh giáo phận cho mỗi 1,904 người Công Giáo, Giáo phận Rapid City đứng đầu cả nước về tỷ lệ chủng sinh giáo phận so với người Công Giáo; không có chủng sinh nào, Giáo phận Fairbanks xếp cuối cùng (thứ 175). Với một chủng sinh cho mỗi 169,933 người Công Giáo, Giáo phận Brownsville xếp gần cuối. Do đó, một người Công Giáo ở Giáo phận Rapid City có khả năng trở thành chủng sinh giáo phận cao hơn 89 lần so với một người Công Giáo ở Giáo phận Brownsville.
* Với một trẻ sơ sinh được rửa tội cho mỗi 48 người Công Giáo, Giáo phận Nashville đứng đầu cả nước về tỷ lệ này; với một trẻ sơ sinh được rửa tội cho mỗi 603 người Công Giáo, Giáo phận Lubbock đứng cuối cùng. Do đó, Giáo phận Nashville có tỷ lệ rửa tội cho trẻ sơ sinh cao hơn 12 lần so với Giáo phận Lubbock. Sự khác biệt về tỷ lệ rửa tội cho trẻ sơ sinh giữa các giáo phận trong cả nước rõ rệt hơn nhiều so với sự khác biệt về tỷ lệ sinh giữa các tiểu bang trong cả nước (trang 26-27).
Giáo phận Raleigh xếp hạng cao nhất tiếp nhận một người không phải trẻ sơ sinh vào Giáo hội cho mỗi 71 người Công Giáo—tỷ lệ này cao hơn 34 lần so với Tổng giáo phận Newark xếp hạng cuối cùng, nơi cứ 2,448 người Công Giáo thì có một người không phải trẻ sơ sinh được tiếp nhận vào Giáo hội.
* Một người Công Giáo ở Giáo phận Salina xếp hạng cao nhất (cứ 178 người Công Giáo thì có một đám cưới) có khả năng kết hôn trong Giáo hội cao hơn 15 lần so với một người Công Giáo ở Giáo phận Lubbock xếp hạng cuối cùng (cứ 2,722 người Công Giáo thì có một đám cưới). Sự khác biệt về tỷ lệ kết hôn giữa các giáo phận trên toàn quốc rõ ràng hơn nhiều so với sự khác biệt về tỷ lệ kết hôn dân sự giữa các tiểu bang.
Mặc dù chắc chắn có những thước đo khác về mức độ sinh hoa trái, bốn hạng mục này có thể được sử dụng chung để đo lường mức độ sinh hoa trái của mỗi giáo phận trên toàn quốc. Các số liệu thống kê trong Danh bạ có những giới hạn riêng, nhưng chúng vẫn là những số liệu thống kê tốt nhất mà các nhà báo ngày nay, các nhà sử học tương lai và những người Công Giáo quan tâm khác có thể tham khảo.
Dù thừa nhận những giới hạn của số liệu thống kê và thừa nhận tính ưu việt của ân sủng thiêng liêng, người ta vẫn có thể khẳng định rằng các giáo phận thu hút số lượng chủng sinh và người trở lại đạo cao theo tỷ lệ tương ứng có một tương lai tương đối tươi sáng. Các giáo phận có tỷ lệ kết hôn và rửa tội trẻ sơ sinh cao theo tỷ lệ tương ứng có một tương lai tương đối tươi sáng. Họ đang sản sinh ra lượng hoa trái tương đối cao, không giống như cây vả cằn cỗi trong dụ ngôn của Chúa Kitô (Lu-ca 13:6-9).
Các giáo phận sinh hoa trái nhất và kém sinh hoa trái nhất của Hoa Kỳ
Bảng ở phần kết luận của bài viết bao gồm thứ hạng của từng giáo phận trong số 175 giáo phận theo nghi lễ Latinh trên toàn quốc trong mỗi hạng mục, cũng như tỷ lệ chủng sinh, lễ cưới, lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh và lễ đón tiếp người không phải là trẻ sơ sinh so với người Công Giáo. Tôi đã cân nhắc bốn hạng mục này một cách bình đẳng để xác định thứ hạng về mức độ sinh hoa trái chung của giáo phận.
Tôi đã làm tròn tỷ lệ đến số nguyên gần nhất. Ví dụ, trong hạng mục rửa tội cho trẻ sơ sinh, Giáo phận Fairbanks (một lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh trên 70.7 người Công Giáo) được xếp hạng cao hơn Tổng giáo phận Anchorage-Juneau (một lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh trên 71. 4 người Công Giáo), nhưng cả hai đều được liệt kê là có một lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh trên 71 người Công Giáo. Tất cả dữ liệu đều được lấy từ Sách Hướng Dẫn [Directry], ngoại trừ hai trường hợp: để trả lời câu hỏi của tôi, hai giáo phận báo cáo không có dữ liệu trong các danh mục riêng lẻ trong Sách Hướng Dẫn đã gửi cho tôi dữ liệu mà họ đã quên gửi cho Sách Hướng Dẫn.
Theo thước đo chung về mức độ hiệu quả được mô tả ở trên, Giáo phận Nashville và Tulsa đồng hạng nhất trong số các giáo phận hiệu quả nhất cả nước. Các giáo phận khác trong 10 giáo phận dẫn đầu là Giáo phận Wichita, Savannah, Knoxville, Birmingham, Grand Island và Salina, Tổng giáo phận Indianapolis và Giáo phận Memphis.
Từ vị trí thứ 11 đến thứ 20 là các Giáo phận Kansas City-St. Joseph, Rapid City, Lexington, Jefferson City, Evansville, Jackson và Amarillo, Tổng Giáo phận Kansas City ở Kansas, và các Giáo phận Fort Wayne-South Bend và Bismarck.
Theo các tiêu chuẩn được mô tả ở trên, mười giáo phận kém hiệu quả nhất, theo thứ tự ngược lại (từ vị trí thứ 175 đến 166), là các Giáo phận Brownsville, El Paso và Norwich, Tổng Giáo phận Las Vegas, các Giáo phận San Diego, Lubbock và Portland (ở Maine), Tổng Giáo phận New York, và các Giáo phận Laredo và Sacramento.
Ba viên chức của Giáo phận Brownsville, ba viên chức của Giáo phận Lubbock, hai viên chức của Giáo phận El Paso, hai viên chức của Giáo phận Laredo, một viên chức của Tổng giáo phận New York và một viên chức của Giáo phận Sacramento đã không trả lời yêu cầu bình luận cho loạt bài viết này.
Từ vị trí 156 đến 165 là các Giáo phận Corpus Christi, Gallup, Phoenix, Metuchen, Erie, Rochester và Fort Worth, Tổng giáo phận San Antonio, và các Giáo phận Providence và Buffalo.
Các nhận sét
Trong bảng, tôi đã nhóm các giáo phận trên toàn quốc theo các giáo tỉnh để làm nổi bật sự khác biệt giữa các vùng. Và sự khác biệt giữa các vùng chắc chắn tồn tại: tất cả các giáo phận ở một số tiểu bang miền Trung Tây và miền Nam đều có mức sinh hoạt cao hơn mức trung bình, trong khi tất cả các giáo phận ở Đông Bắc và miền Nam California đều có mức sinh hoạt thấp hơn mức trung bình.
Nhưng giữa các khu vực khác nhau, có sự khác biệt đáng ngạc nhiên về thứ hạng. Ví dụ:
* Tại Georgia, Giáo phận Savannah xếp hạng 4 giáp với Tổng giáo phận Atlanta xếp hạng 142 (bản đồ).
* Tại Illinois, Giáo phận Peoria (đồng hạng 21) giáp với Giáo phận Joliet (hạng 119) và Rockford (hạng 126) (bản đồ).
* Tại Ohio, Giáo phận Steubenville (đồng hạng 21) và Tổng giáo phận Cincinnati (hạng 55) giáp với Giáo phận Columbus (hạng 117) (bản đồ).
* Tại Colorado, Giáo phận Pueblo (hạng 24) giáp với Giáo phận Colorado Springs (hạng 143) (bản đồ).
* Tại Michigan, Giáo phận Lansing (hạng 47) và Gaylord (hạng 55) tiếp giáp với Giáo phận Saginaw (hạng 141) (bản đồ).
* Trong khi tất cả các giáo phận ở Kansas đều có mức độ sinh hoa trái cao hơn mức trung bình, Giáo phận Dodge City (hạng 84) lại kém sinh hoa trái hơn đáng kể so với Giáo phận Wichita (hạng 3), Giáo phận Salina (hạng 8) và Tổng giáo phận Kansas City (hạng 18) (bản đồ).
* Giáo phận Oakland (hạng 57) và Stockton (hạng 59) có mức độ sinh sôi nảy nở cao hơn đáng kể so với các giáo phận khác ở California. Một trong những điểm sáng ở California là số lượng các giáo phận có tỷ lệ rửa tội cho trẻ sơ sinh tương đối cao, bao gồm các Giáo phận Stockton (thứ 4), Fresno (thứ 21) và Oakland (thứ 27), Tổng giáo phận Los Angeles (thứ 35) và Giáo phận Monterey (thứ 36) (bản đồ).
* Có sự khác biệt rõ rệt trong Tiểu bang Texas: ví dụ, Giáo phận Amarillo (thứ 17) giáp với Giáo phận Lubbock (thứ 170) (bản đồ).
Một số giáo phận kém hiệu quả nhất của quốc gia nằm dọc biên giới Hoa Kỳ-Mexico. Tuy nhiên, hai giáo phận biên giới—San Angelo (thứ 54) và Las Cruces (thứ 65)—có tỷ lệ hiệu quả cao hơn mức trung bình.
Tương tự, một số giáo phận kém hiệu quả nhất của quốc gia nằm ở các thành phố lớn. Đồng thời, Tổng giáo phận Indianapolis (thứ 9) có trụ sở chính tại thành phố lớn thứ 16 của quốc gia, và Jacksonville, thành phố lớn thứ 10 của quốc gia, nằm trong Giáo phận St. Augustine (đồng hạng 21 về mức độ sinh hoa trái).
Chia tách các giáo phận lớn: một trách nhiệm đạo đức?
Vậy thì, một số thành phố lớn nhất của quốc gia lại nằm trong các giáo phận sinh hoa trái. Đồng thời, không một giáo phận nào với hơn 700,000 người Công Giáo có mức độ sinh hoa trái cao hơn mức trung bình.
Trong biểu đồ xuất hiện sau bảng xếp hạng, tôi so sánh dân số của giáo phận với mức độ sinh sôi nảy nở của giáo phận. Các giáo phận sinh sôi nảy nở nhất (xếp hạng 1, 2, 3, v.v.) nằm ở phía bên trái của biểu đồ; các giáo phận có thứ hạng thấp nhất (thứ 173, 174, 175) nằm ở phía bên phải.
Biểu đồ cho thấy các giáo phận nhỏ có thể có mức sinh hoa trái cao hơn mức trung bình, trung bình hoặc dưới mức trung bình. Tuy nhiên, 24 giáo phận với hơn 700,000 tín hữu Công Giáo, vì lý do nào đó, đều có mức sinh sôi nảy nở dưới mức trung bình—có lẽ vì giám mục và các viên chức giáo phận khác chắc chắn xa cách với tín hữu Công Giáo trung bình hơn so với các giáo phận vừa và nhỏ.
Tương quan không phải là quan hệ nhân quả, nhưng dường như có một cái giá khủng khiếp cho các linh hồn khi một giáo phận ở Mỹ có hơn 700,000 tín hữu Công Giáo: tổng số tín hữu rửa tội, trở lại đạo, chủng sinh và kết hôn chắc chắn sẽ giảm xuống dưới mức trung bình. Điều này cho thấy có thể có trách nhiệm đạo đức trong việc chia tách các giáo phận lớn nhất quốc gia.
Đồng thời, khi dân số của một giáo phận vượt qua ngưỡng 700,000, các giáo phận không nhất thiết sẽ trở nên kém sinh hoa trái hơn khi chúng lớn hơn. Tổng giáo phận Los Angeles, với 3.82 triệu tín đồ Công Giáo, là giáo phận lớn nhất cả nước và xếp hạng 124 về mức độ sinh hoa trái. Mặc dù Tổng giáo phận Los Angeles có dưới mức sinh hoa trái trung bình, giáo phận này sinh hoa trái hơn 51 giáo phận trên toàn quốc. Những nhận xét tương tự cũng có thể được thực hiện về Tổng giáo phận Chicago (giáo phận lớn thứ ba của quốc gia) xếp hạng 135 và Tổng giáo phận Galveston-Houston (giáo phận lớn thứ sáu của quốc gia) xếp hạng 121.
Nếu có trách nhiệm đạo đức trong việc chia tách ít nhất một số giáo phận lớn nhất của quốc gia, thì dường như bất cứ sự chia tách nào cũng nên bắt đầu với những giáo phận ít sinh hoa trái nhất của quốc gia:
* Nếu Giáo phận Brownsville (1,19 triệu người Công Giáo), xếp hạng 175 về mức độ sinh hoa trái, bị chia tách, liệu hai giáo phận được chia tách có thể có số lượng chủng sinh cao hơn và tỷ lệ kết hôn, rửa tội cho trẻ sơ sinh và trở lại đạo cao hơn không?
* Nếu Giáo phận El Paso (716,000 tín hữu Công Giáo), xếp hạng 174 về mức độ sinh sôi nảy nở, bị chia tách, liệu hai giáo phận mới được thành lập có cơ hội phát triển mạnh mẽ như các giáo phận lân cận: San Angelo (xếp hạng 54) và Las Cruces (xếp hạng 65) không?
Tương tự, nếu Giáo phận San Diego (xếp hạng 171) (1.38 triệu tín hữu Công Giáo) bị chia tách, liệu hai giáo phận mới được thành lập có thể phát triển mạnh mẽ như các Giáo phận lân cận là Orange (xếp hạng 145) và San Bernardino (xếp hạng 139) không? Nếu Tổng giáo phận New York (xếp hạng 168) (3.26 triệu tín hữu Công Giáo) bị chia tách, liệu ít nhất một trong hai giáo phận mới được thành lập có thể phát triển mạnh mẽ như Giáo phận Albany (xếp hạng 133) hoặc Giáo phận Rockville Centre gần đó (xếp hạng 130) không?
Vào tháng 8, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã chia tách Tổng giáo phận Santo Domingo rộng lớn tại Cộng hòa Dominica; với 3.48 triệu người Công Giáo, tổng giáo phận này có nhiều tín hữu Công Giáo hơn Tổng giáo phận New York hay Tổng giáo phận Chicago.
Xét đến thứ hạng hiệu quả tương đối thấp của tất cả các giáo phận lớn tại Hoa Kỳ, có lẽ đã đến lúc cần làm theo.
Các cuộc viếng thăm tông tòa và các tân Hồng Y
Tuy nhiên, chỉ riêng quy mô không thể giải thích được thứ hạng hiệu quả thấp của nhiều giáo phận kém hiệu quả nhất cả nước. Vì lợi ích của các linh hồn, có lẽ đã đến lúc Tòa Thánh nên thực hiện các cuộc viếng thăm tông tòa đối với 10% số giáo phận ở mỗi quốc gia có hiệu quả kém nhất theo các tiêu chuẩn này, hoặc theo các tiêu chuẩn khác do Tòa Thánh xác định.
Đồng thời, các giáo phận hiệu quả nhất ở Hoa Kỳ (cũng như các quốc gia khác) chắc chắn có nhiều điều khôn ngoan để chia sẻ với Giáo hội hoàn vũ. Ví dụ, các viên chức của Giáo phận Wichita, giáo phận xếp hạng ba, đã chỉ ra những hành động được thực hiện bốn thập niên trước bởi cố Giám mục Eugene Gerber, người đã hết lòng khuyến khích việc thờ phượng Thánh Thể liên tục và việc quản lý; nhờ 40 năm nhấn mạnh vào việc quản lý, các trường Công Giáo ở đó không thu học phí. Việc bổ nhiệm các giám mục và các viên chức khác của các giáo phận hiệu quả nhất làm thành viên và cố vấn cho các cơ quan và hội đồng của Vatican có thể thúc đẩy việc chia sẻ những hiểu biết như vậy.
Trong triều giáo hoàng của mình, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm các giám mục phó ở Haiti, Panama, Bồ Đào Nha, Guatemala, Nigeria, Hoa Kỳ (San Diego), Ý, Ghana, Malaysia, Pháp, Philippines và các nơi khác làm Hồng Y. Những tiền lệ như vậy khiến việc bổ nhiệm các giám mục phó tương tự từ các giáo phận hiệu quả nhất ở Hoa Kỳ - chẳng hạn như giám mục Hồng Y ở Nashville, Tulsa hoặc Wichita - trở nên khả thi hơn.
Chia sẻ những hiểu biết sâu sắc về những khó khăn của giáo phận Massachusetts trong việc thu hút ơn gọi linh mục, Đức Cha William Byrne của Springfield cho biết:
Khi tôi đến làm giám mục tại giáo phận này vào cuối năm 2020, nơi đây không có chủng sinh. Tôi đã đặt mục tiêu gia tăng ơn gọi linh mục trong chức giám mục của mình. Tôi tự coi mình là người hướng dẫn ơn gọi chính, với tư cách là giám mục… Tôi mang nhu cầu về nhiều ơn gọi hơn vào lời cầu nguyện hàng ngày của mình, dâng nhiều giờ thánh cho ý chỉ này. Tôi chân thành tin rằng chúng ta đang chuyển hướng, nhưng tôi cũng biết rằng để khôi phục ơn gọi vẫn còn nhiều việc phải làm, công việc mà tôi cam kết thực hiện.
Nguyện xin lời cầu nguyện của các tín hữu Hoa Kỳ cùng với lời cầu nguyện của Đức Cha Byrne lên tới Tòa Thiên Chúa Toàn Năng, để giáo phận của ngài – và tất cả các giáo phận của Hoa Kỳ – có thể phát triển và sinh hoa kết trái trong những năm tới.
7 sự kiện thú vị về Thánh Martin de Porres, vị thánh da đen đầu tiên của Mỹ Châu
Đặng Tự Do
17:20 06/11/2025
Vào ngày 3 tháng 11, Giáo Hội Công Giáo mừng lễ Thánh Martin de Porres, một tu sĩ dòng Đa Minh người Peru, người đã sống một cuộc đời phục vụ khiêm nhường và bác ái, và trở thành vị thánh da đen đầu tiên của Mỹ Châu.
Sau đây là bảy sự thật hấp dẫn về vị thánh truyền cảm hứng này:
1. Cha của ngài từ chối thừa nhận ngài.
De Porres sinh ra tại Lima, Peru, vào năm 1579. Ngài là con trai của một quý tộc Tây Ban Nha và cựu nô lệ da đen người Panama. Cha ngài, Don Juan de Porres, từ chối công khai thừa nhận con trai mình là con ruột vì Martin là người da đen, giống như mẹ ngài. Việc mang trong mình hai dòng máu đã trở thành một thách thức đối với Martin de Porres trong suốt cuộc đời.
2. Ngài bắt đầu hành nghề y từ khi chưa đầy 13 tuổi.
De Porres từng học việc cho một bác sĩ, và trước tuổi 13, ngài bắt đầu học nghề y. Cuối cùng, ngài trở thành y sĩ, vào thời điểm đó, ngài thực hiện các thủ thuật y khoa và phẫu thuật nhỏ như nhổ răng hoặc làm sạch áp xe.
3. Ngài phải đối mặt với sự phân biệt đối xử vì là người Dominica.
De Porres gia nhập dòng Đa Minh năm 1603. Việc trở thành một tu sĩ Đa Minh quả là một thử thách đối với de Porres, bởi vì luật Peru thời bấy giờ cấm người lai gia nhập dòng tu. Vì vậy, ngài sống cùng cộng đồng và làm công việc chân tay, được mệnh danh là “vị thánh chổi” vì sự siêng năng dọn dẹp khu nhà ở của các tu sĩ Đa Minh.
Cuối cùng, bất chấp luật lệ, ngài được phép gia nhập dòng, và làm việc tại bệnh xá, chăm sóc người bệnh và những người nghèo khổ ở Peru. “Tôi chữa lành cho họ, nhưng Chúa mới chữa lành cho họ”, de Porres thường nói khi chữa bệnh. Ngài cũng có nhiệm vụ đi xin của bố thí để cộng đồng dùng vào việc cung cấp quần áo và thức ăn cho người nghèo. Ngài cũng thành lập một trại trẻ mồ côi và trồng một vườn cây ăn quả, nơi những người nghèo có thể tự do lấy trái cây dự trữ trong một ngày.
4. Ngài bay lên và di chuyển bằng hai phương tiện.
De Porres là người cầu nguyện rất sâu sắc, đến nỗi nhiều anh em đã chứng kiến ngài bay lên trong lời cầu nguyện tha thiết và ôm lấy cây thánh giá bị đóng đinh. De Porres cũng được tường trình có khả năng xuất hiện ở 2 vị trí xa nhau, và một số người cùng thời với ngài nói rằng họ đã gặp ngài ở những nơi xa xôi như Nhật Bản ngay cả khi ngài vẫn còn ở Lima. Một số người khẳng định ngài đã hiện ra với họ một cách siêu nhiên sau những cánh cửa đóng kín hoặc trong những hoàn cảnh không thể tưởng tượng được.
5. Ngài từ chối ăn thịt.
De Porres rất yêu động vật. Ngài từ chối ăn thịt và điều hành một bệnh viện thú y dành cho những con vật bị bệnh dường như tìm đến sự giúp đỡ của ngài. Hình ảnh vị thánh này thường bao gồm mèo, chó, và thậm chí cả những con chuột mà ngài đã thể hiện lòng trắc ẩn.
6. Ngài là vị thánh bảo trợ của nhiều nghề lao động chân tay.
De Porres được biết đến với nhiều nhiệm vụ khác nhau mà ngài đã đảm nhiệm, và nhờ đó ngài được phong thánh bổn mạng cho thợ cắt tóc, người bệnh và người quét dọn đường phố. Nhân kỷ niệm 50 năm ngày phong thánh cho Thánh Martin de Porres, Cha Juan Anguerri, giám đốc Nhà tế bần Thánh Martin de Porres, đã phát biểu: “Những công việc này thường không được đền đáp, nhưng qua sự phục vụ khiêm nhường của mình, Thánh Martin đã gửi một thông điệp để hồi sinh những công việc này.”
7. Ngài được phong thánh hơn 300 năm sau khi qua đời.
Martin de Porres qua đời vào ngày 3 tháng 11 năm 1639, hưởng thọ 60 tuổi. Ngài được Đức Giáo Hoàng John XXIII phong thánh vào ngày 16 tháng 5 năm 1962. Trong thánh lễ phong thánh, Đức Giáo Hoàng John XXIII đã gọi ngài là “Martin Bác ái”.
Source:Catholic News Agency
Vương cung thánh đường Thánh Bênêđíctô của Ý mở cửa trở lại sau 9 năm bị phá hủy bởi trận động đất
Đặng Tự Do
17:21 06/11/2025
Nhà thờ Thánh Bênêđíctô ở Norcia, Ý, đã mở cửa trở lại để tham quan vào cuối tuần này sau dự án kéo dài bốn năm nhằm xây dựng lại công trình thế kỷ 13 bị san phẳng bởi trận động đất năm 2016.
Đức Tổng Giám Mục Renato Boccardo của Spoleto-Norcia đã khánh thành nhà thờ mới được xây dựng lại vào ngày 31 tháng 10, đêm trước Lễ Các Thánh. Vương cung thánh đường đánh dấu nơi sinh của Thánh Bênêđíctô, người sáng lập dòng Bênêđíctô và là cha đẻ của đời sống tu trì phương Tây. Ngài cũng là đồng thánh bổn mạng của Âu Châu.
Chín năm trước, vào ngày 30 tháng 10, một trận động đất mạnh 6,6 độ richter - trận động đất cuối cùng trong một loạt trận động đất chết người xảy ra ở miền trung nước Ý từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2016 - đã gần như phá hủy hoàn toàn vương cung thánh đường, chỉ còn lại mặt tiền.
Một tu viện liền kề của các tu sĩ dòng Bênêđíctô, những người trông coi vương cung thánh đường vào thời điểm đó, cũng đã bị phá hủy trong trận động đất tháng 10 năm 2016.
Việc tái thiết Vương cung thánh đường và hầm mộ bắt đầu vào tháng 12 năm 2021 và sử dụng tối đa vật liệu ban đầu, đồng thời kết hợp thiết kế chống động đất và khả năng tiếp cận cho người khuyết tật. Dự án có chi phí 15 triệu euro (khoảng 17 triệu đô la).
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phát biểu trong thông điệp gửi đến lễ cung hiến Vương cung thánh đường: “Việc trùng tu di tích quan trọng này, có giá trị lịch sử và nghệ thuật to lớn cũng như là trung tâm sôi động của tinh thần Bênêđíctô, thể hiện dấu hiệu hữu hình của cuộc hành trình đầy thách thức nhằm tái sinh tôn giáo được toàn thể cộng đồng giáo phận thực hiện trong những năm gần đây”.
Trong bài giảng tại Thánh lễ cung hiến ngày 31 tháng 10, Boccardo cho biết: “Cánh cửa của Vương cung thánh đường mở ra hôm nay để chào đón tất cả những ai đến đây để tìm kiếm ánh sáng và sức mạnh cho hành trình đời sống Kitô hữu.”
“Là những người tin Chúa, chúng ta ý thức rõ rằng một tòa nhà nguy nga tráng lệ không đủ để biến nơi đó thành nhà Chúa giữa những ngôi nhà của con người,” ngài nói. “Chỉ một cộng đồng, mỗi ngày trôi qua, nhiệt thành sống cuộc tìm kiếm chân thành về những gì chân thật, tốt lành và công bằng trong mắt mình, mới có thể có Chúa ở gần.”
“Khốn cho chúng ta,” ngài nói tiếp, “nếu chúng ta chỉ giới hạn bản thân mình vào việc dâng lên Người vẻ đẹp của ngôi nhà thờ này nếu nó không tương xứng với vẻ đẹp của một dân tộc được xây dựng xung quanh Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể, những người xây dựng các mối quan hệ huynh đệ, những người cam kết xây dựng một xã hội chào đón và nhân hậu hơn đối với tất cả mọi người, những người không ngừng tìm kiếm sự khôn ngoan để phân biệt thiện và ác, phân biệt điều xây dựng với điều phá hủy, điều còn lại với điều qua đi, và những người thực hành tình yêu Kitô giáo hằng ngày.”
Một tu viện Bênêđíctô được xây dựng ở Norcia vào thế kỷ thứ 10 nhưng đã bị Quân đội Napoleon đóng cửa vào những năm 1800. Một nhóm tu sĩ người Mỹ đã tái lập cộng đồng này ở Norcia vào năm 1999.
Sau trận động đất năm 2016, cộng đồng tu viện đã chuyển đến một tu viện Capuchin cũ cách thị trấn khoảng 2,4 km về phía đông. Họ đã hoàn thành việc xây dựng lại cơ sở vật chất bị hư hại do động đất bên ngoài Norcia vào giữa năm 2024, và cộng đồng đã được nâng lên thành một tu viện.
Tu viện San Benedetto ở Monte nổi tiếng với nghề nấu bia và là trung tâm sôi động của dòng tu Bênêđíctô ở vùng Umbria, miền trung nước Ý.
Source:Catholic News Agency
Hàng trăm người thiệt mạng trong vụ thảm sát tại bệnh viện Darfur trong bối cảnh cuộc nội chiến đẫm máu ở Sudan
Đặng Tự Do
17:21 06/11/2025
Bằng chứng rõ ràng về vụ thảm sát dân thường quy mô lớn ở Sudan đã xuất hiện vào thứ sáu, bao gồm hình ảnh vệ tinh về các thi thể và mặt đất đẫm máu chụp bên ngoài một bệnh viện ở Darfur.
Hơn 460 bệnh nhân và người nhà của họ được báo cáo là đã bị bắn chết tại Bệnh viện Phụ sản Saudi ở El Fasher vào thứ Ba sau khi quân đội Sudan đầu hàng thành phố này vào tay các chiến binh bán quân sự vào Chúa Nhật sau 18 tháng bao vây.
Theo các bản tin, lực lượng chính phủ vẫn kiểm soát được thủ đô Khartoum.
Vụ thảm sát là thảm kịch mới nhất trong cuộc xung đột đã nhấn chìm khu vực phía tây Darfur kể từ khi cuộc nội chiến toàn diện nổ ra vào năm 2023.
Theo Báo cáo theo dõi xung đột toàn cầu của Hội đồng quan hệ đối ngoại, cuộc chiến giữa các phe phái quân sự đối địch - Quân đội Sudan, gọi tắt là SAF và Lực lượng hỗ trợ nhanh, gọi tắt là RSF - đã cướp đi sinh mạng của khoảng 150.000 người và khiến 14 triệu người phải di dời.
Vào tháng Giêng, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố RSF đã phạm tội diệt chủng đối với các nhóm sắc tộc phi Ả Rập ở Sudan. Liên Hiệp Quốc đã mô tả tình hình ở Sudan là “cuộc khủng hoảng nhân đạo và di cư tàn khốc nhất thế giới”.
Cựu Ngoại trưởng Antony Blinken đầu năm nay cho biết rằng “đàn ông và trẻ em trai - thậm chí cả trẻ sơ sinh - theo từng nhóm dân tộc” đã bị giết và các chiến binh RSF “cố tình tấn công vào phụ nữ và trẻ em gái thuộc một số nhóm dân tộc nhất định để cưỡng hiếp và thực hiện các hình thức bạo lực tình dục tàn bạo khác”, CNN đưa tin.
Theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, những hành động tàn bạo xảy ra ở Sudan cấu thành tội ác thanh trừng sắc tộc. Trong báo cáo năm 2024, tổ chức này cho biết “các tội ác chống lại loài người và tội ác chiến tranh lan rộng đã được thực hiện trong bối cảnh chiến dịch thanh trừng sắc tộc chống lại người Massalit và các nhóm dân tộc không phải người Ả Rập khác”.
Cộng hòa Sudan, nằm ở Đông Bắc Phi Châu, có dân số khoảng 50 triệu người, trong đó 90,7% là người Hồi giáo, với cộng đồng Kitô giáo chiếm đa số. Năm 2019, một cuộc cách mạng đã lật đổ Tổng thống Omar al-Bashir, chấm dứt hàng thập niên cai trị độc tài. Hai năm sau, tướng Abdel Fattah al-Burhan, nhà lãnh đạo quân sự, và chỉ huy lực lượng bán quân sự Mohamed Hamdan Dagalo, đã lật đổ các nhà lãnh đạo dân sự và giành lấy quyền lực. Lực lượng của hai bên đã quay sang tấn công lẫn nhau vào tháng 4 năm 2023, đẩy đất nước vào chiến tranh.
Vào tháng 9, Giáo hoàng Lêô XIV đã kêu gọi các nhà lãnh đạo đối địch của Sudan chấm dứt bạo lực trong nước để có thể cung cấp viện trợ nhân đạo rất cần thiết cho 260.000 người được tường trình đang mắc kẹt trong các trại tị nạn nội địa, gọi tắt là IDP ở el-Fasher.
“Tin tức bi thảm đang đến từ Sudan, đặc biệt là từ Darfur,” Đức Giáo Hoàng Lêô nói. “Tại el-Fasher, nhiều thường dân bị mắc kẹt trong thành phố, nạn nhân của nạn đói và bạo lực. Tại Tarasin, một trận lở đất kinh hoàng đã gây ra nhiều cái chết, để lại nỗi đau và sự tuyệt vọng. Và như thể điều đó chưa đủ, dịch tả đang lây lan đe dọa hàng trăm ngàn người vốn đã kiệt sức.”
“ Tôi chân thành kêu gọi những người có trách nhiệm và cộng đồng quốc tế hãy bảo đảm các hành lang nhân đạo được mở và thực hiện phản ứng phối hợp để ngăn chặn thảm họa nhân đạo này”.
“Đây là một cuộc chiến bị lãng quên vì người dân thực sự bị lãng quên”, Giám mục Christian Carlassare của Bentiu ở Nam Sudan nói với OSV News.
“Thật không may, đây là cuộc chiến bị lãng quên đối với cộng đồng quốc tế, nhưng nó không bị lãng quên đối với các thương gia vũ khí, những người đang kiếm được rất nhiều lợi nhuận từ cuộc chiến này”, ông nói với hãng tin này.
Theo Liên Hiệp Quốc, Sudan đang trở thành “cuộc khủng hoảng nạn đói lớn nhất thế giới trong lịch sử gần đây”. Theo Liên Hiệp Quốc, có tới 24,6 triệu người - hơn một nửa dân số - đang “thiếu an ninh lương thực”.
Vào tháng 2, các cơ quan Dịch vụ Cứu trợ Công Giáo và Caritas đã cảnh báo rằng việc chính quyền Tổng thống Trump đóng băng viện trợ thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ sẽ làm trầm trọng thêm tình hình vốn đã nguy hiểm.
Source:Catholic News Agency
Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt vương cung thánh đường Laterano bên Roma
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
17:37 06/11/2025
Khuôn mặt vương cung thánh đường Laterano bên Roma
Người đi hành hương, hay cả khách du lịch sang Roma thường đến thăm viếng vương cung thánh đường Laterano.
Vào những dịp Giáo hội Công giáo tổ chức năm Thánh, người tín hữu Chúa Kito đến vương cung thánh đường Laterano bước qua cửa Năm Thánh lãnh nhận ơn toàn xá.
Hằng năm Giáo hội mừng lễ thánh hiến Vương cung thánh đường Laterano bên Roma vào ngày 09.11.
Đâu là ý nghĩa đạo đức thần học ngôi thánh đường dành cho việc phụng tự?
Vương cung thánh đường Laterano bên, Roma còn được gọi là đại vương cung thánh đường Giovanni in Laterano, như dòng chữ ở ngoài cửa ra vào viết: „mater et caput“ Thánh đường mẹ và đầu của mọi thánh đường trong thành phố Roma và trên toàn thế giới“
Vương cung thánh đường Laterano được xây dựng dưới thời Hoàng đế Contanstino trên phần đất của dòng tộc gia đình Laterani, và được Đức giáo hoàg Sivester 1., dâng kính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc, thánh hiến khánh thành ngày 09.11.324.
Sau đó vào thế kỷ IX. vương cung thánh đường Laterano được thánh hiến dưới tên Thánh Gioan Tẩy gỉa. Và vào thế kỷ XII. Thánh tông đồ Gioan, người viết Phúc âm Chúa Giêsu, được thêm vào. Nên vương cung thánh đường có chùm tên dài: Đại vương cung thánh đường kính đấng rất thánh Cứu Chuộc và Thánh Gioan tẩy giả cùng Thánh Gioan Thánh sử Laterano.
Vương Cung thánh đường Gioan Laterano là một trong bốn đại vương thánh đường ở thành phố vĩnh cửu Roma: Thánh Phero, Đức Bà cả, Thánh Phaolo ngoại thành và Laterano. Vương cung thánh đường Laterano là nhà thờ chính tòa của Đức giáo hoàng.
Từ năm 313 các vị Giáo Hoàng của Giáo hội Công giáo, đến 1309 bắt đầu thời kỳ các đức Giáo Hoàng Vatican phải sống lưu vong ở Avignon bên Pháp, đều cư ngụ ở Laterano.
Năm 1377 chấm dứt thời sống lưu vong bên Avignon Đức Giáo Hoàng trở về Roma, nhưng Laterano đã xuống cấp hư hại nhiều. Nên vùng Vatican trở thành nơi cư ngụ của Đức giáo Hoàng. Năm 1586 Laterano được xây dựng mới lại và trở thành nơi cư ngụ mùa hè của đức giáo hoàng.
Trong vương cung thánh đường Laterano có di tịch thánh thủ cấp của Thánh tông đồ Phero và thủ cấp của Thánh Phaolô, từ thời đức gíao hàng Urbano V. ( 1362-1370) được chứa đựng trong bình chén thánh nơi bàn thờ.
Vương Cung thánh đường Laterano có cửa Năm Thánh: Santa Porta. Cửa nầy được mở ra vào những dịp Năm Thánh, để cho mọi người tín hữu Chúa Kitô bước qua lãnh nhận ơn toàn xá. Vương cung thánh đường Laterano dài 92, 5 mét, cao 23,6 mét
Ở vương cung thánh đường Laterano là nơi đã diễn ra 05 Công đồng của Gáo hội Công gíao vào thời Trung cổ. Vì thế có tên Công đồng Laterano.
Trong nếp sống đạo đức của Giáo hội, khi một thánh đường, một nhà nguyện được xây, có lễ nghi thánh hiến khánh thành ngôi nhà thờ mới dành cho việc cầu nguyện dâng lễ thờ kính Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh. Và ngôi thánh đường mới thường được chọn đặt tên dâng kính Chúa Giêsu, hay Đức mẹ hay một vị Thánh nào.
Ngôi thánh đường được xây dựng bằng vật liệu do con người chế biến làm ra theo nếp sống văn hóa thời đại nơi mỗi quốc gia đất nước địa phương. Nhưng còn có ngôi thánh đường khác hơn nữa.
Thánh Phaolo trong thư mục vụ gửi Giáo đoàn Côrinthô nói đến ngôi thánh đường khác nữa: đền thờ. Ngôi đền thờ này là con người do Thiên Chúa xây dựng làm nên: „Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.“ (1 Cor 3,11).
Con người chúng ta không là viên gạch, viên ngói, khúc gỗ, tảng đá, hạt cát trong một ngôi nhà kiến trúc. Nhưng trong ngôi nhà Giáo hội có nhiều con người khác nhau: gìa, trẻ, lớn, bé, nam, nữ… Dẫu có nhiều khác biệt nhau, nhưng tất cả có một mẫu số chung: Chúng ta thuộc về Chúa Giêsu Kitô.
Cũng vậy, nhìn vào một ngôi thánh đường được xây dựng do nhiều viên gạch, đá, gỗ,, sắt thép, những cửa to nhỏ khác biệt nhau. Nhưng tất cả những thành phần đó đều có một chung hợp: Chúng là những thành phần kiến tạo nên ngôi thánh đường.
Ngôi nhà nào, ngôi biệt thự nào, ngôi thánh đường nào cũng được xây dựng trên một nền móng vừa sâu xuống lòng đất, vừa vững chắc kiên cố không để bị thấm nước. Có thế công trình xây dựng lên cao mới đứng vững kiên cố không bị mục ướt sụp đổ.
Nền móng ngôi đền thờ tâm hồn con người là Chúa Giêsu Kitô. Trên nền tảng Ngài, sự chết, sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta như những viên đá sống động trong công trình ngôi nhà của Giáo hội
„ Lễ thánh hiến vương cung thánh đường Laterano gợi nhắc nhớ đến một mầu nhiệm luôn thời sự: Thiên Chúa hằng muốn xây ngôi đền thờ tinh thần, nơi đó tinh thần và chân lý được thờ kính. ( Ga 4,23-24).
Ngày lễ này cũng nhắc nhớ đến sự qua trọng của những công trình xây dựng bằng vật liệu, nơi đó Cộng đoàn tín hữu Chúa tụ họp đọc kinh cầu nguyện cử hành các nghi lễ phụng vụ ca tụng Chúa. Mỗi Cộng đoàn xứ đạo có bổn phận gìn giữ ngôi thánh đường của chỗ mình.Vì ngôi thánh đường thể hiện giá trị cao đẹp nếp sống tôn giáo và văn hóa. „ ( Đức giáo hoàng Benedicktô XVI., Kinh Truyền tin ngày (09.11.2008 ).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người đi hành hương, hay cả khách du lịch sang Roma thường đến thăm viếng vương cung thánh đường Laterano.
Vào những dịp Giáo hội Công giáo tổ chức năm Thánh, người tín hữu Chúa Kito đến vương cung thánh đường Laterano bước qua cửa Năm Thánh lãnh nhận ơn toàn xá.
Hằng năm Giáo hội mừng lễ thánh hiến Vương cung thánh đường Laterano bên Roma vào ngày 09.11.
Đâu là ý nghĩa đạo đức thần học ngôi thánh đường dành cho việc phụng tự?
Vương cung thánh đường Laterano bên, Roma còn được gọi là đại vương cung thánh đường Giovanni in Laterano, như dòng chữ ở ngoài cửa ra vào viết: „mater et caput“ Thánh đường mẹ và đầu của mọi thánh đường trong thành phố Roma và trên toàn thế giới“
Vương cung thánh đường Laterano được xây dựng dưới thời Hoàng đế Contanstino trên phần đất của dòng tộc gia đình Laterani, và được Đức giáo hoàg Sivester 1., dâng kính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc, thánh hiến khánh thành ngày 09.11.324.
Sau đó vào thế kỷ IX. vương cung thánh đường Laterano được thánh hiến dưới tên Thánh Gioan Tẩy gỉa. Và vào thế kỷ XII. Thánh tông đồ Gioan, người viết Phúc âm Chúa Giêsu, được thêm vào. Nên vương cung thánh đường có chùm tên dài: Đại vương cung thánh đường kính đấng rất thánh Cứu Chuộc và Thánh Gioan tẩy giả cùng Thánh Gioan Thánh sử Laterano.
Vương Cung thánh đường Gioan Laterano là một trong bốn đại vương thánh đường ở thành phố vĩnh cửu Roma: Thánh Phero, Đức Bà cả, Thánh Phaolo ngoại thành và Laterano. Vương cung thánh đường Laterano là nhà thờ chính tòa của Đức giáo hoàng.
Từ năm 313 các vị Giáo Hoàng của Giáo hội Công giáo, đến 1309 bắt đầu thời kỳ các đức Giáo Hoàng Vatican phải sống lưu vong ở Avignon bên Pháp, đều cư ngụ ở Laterano.
Năm 1377 chấm dứt thời sống lưu vong bên Avignon Đức Giáo Hoàng trở về Roma, nhưng Laterano đã xuống cấp hư hại nhiều. Nên vùng Vatican trở thành nơi cư ngụ của Đức giáo Hoàng. Năm 1586 Laterano được xây dựng mới lại và trở thành nơi cư ngụ mùa hè của đức giáo hoàng.
Trong vương cung thánh đường Laterano có di tịch thánh thủ cấp của Thánh tông đồ Phero và thủ cấp của Thánh Phaolô, từ thời đức gíao hàng Urbano V. ( 1362-1370) được chứa đựng trong bình chén thánh nơi bàn thờ.
Vương Cung thánh đường Laterano có cửa Năm Thánh: Santa Porta. Cửa nầy được mở ra vào những dịp Năm Thánh, để cho mọi người tín hữu Chúa Kitô bước qua lãnh nhận ơn toàn xá. Vương cung thánh đường Laterano dài 92, 5 mét, cao 23,6 mét
Ở vương cung thánh đường Laterano là nơi đã diễn ra 05 Công đồng của Gáo hội Công gíao vào thời Trung cổ. Vì thế có tên Công đồng Laterano.
Trong nếp sống đạo đức của Giáo hội, khi một thánh đường, một nhà nguyện được xây, có lễ nghi thánh hiến khánh thành ngôi nhà thờ mới dành cho việc cầu nguyện dâng lễ thờ kính Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh. Và ngôi thánh đường mới thường được chọn đặt tên dâng kính Chúa Giêsu, hay Đức mẹ hay một vị Thánh nào.
Ngôi thánh đường được xây dựng bằng vật liệu do con người chế biến làm ra theo nếp sống văn hóa thời đại nơi mỗi quốc gia đất nước địa phương. Nhưng còn có ngôi thánh đường khác hơn nữa.
Thánh Phaolo trong thư mục vụ gửi Giáo đoàn Côrinthô nói đến ngôi thánh đường khác nữa: đền thờ. Ngôi đền thờ này là con người do Thiên Chúa xây dựng làm nên: „Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.“ (1 Cor 3,11).
Con người chúng ta không là viên gạch, viên ngói, khúc gỗ, tảng đá, hạt cát trong một ngôi nhà kiến trúc. Nhưng trong ngôi nhà Giáo hội có nhiều con người khác nhau: gìa, trẻ, lớn, bé, nam, nữ… Dẫu có nhiều khác biệt nhau, nhưng tất cả có một mẫu số chung: Chúng ta thuộc về Chúa Giêsu Kitô.
Cũng vậy, nhìn vào một ngôi thánh đường được xây dựng do nhiều viên gạch, đá, gỗ,, sắt thép, những cửa to nhỏ khác biệt nhau. Nhưng tất cả những thành phần đó đều có một chung hợp: Chúng là những thành phần kiến tạo nên ngôi thánh đường.
Ngôi nhà nào, ngôi biệt thự nào, ngôi thánh đường nào cũng được xây dựng trên một nền móng vừa sâu xuống lòng đất, vừa vững chắc kiên cố không để bị thấm nước. Có thế công trình xây dựng lên cao mới đứng vững kiên cố không bị mục ướt sụp đổ.
Nền móng ngôi đền thờ tâm hồn con người là Chúa Giêsu Kitô. Trên nền tảng Ngài, sự chết, sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta như những viên đá sống động trong công trình ngôi nhà của Giáo hội
„ Lễ thánh hiến vương cung thánh đường Laterano gợi nhắc nhớ đến một mầu nhiệm luôn thời sự: Thiên Chúa hằng muốn xây ngôi đền thờ tinh thần, nơi đó tinh thần và chân lý được thờ kính. ( Ga 4,23-24).
Ngày lễ này cũng nhắc nhớ đến sự qua trọng của những công trình xây dựng bằng vật liệu, nơi đó Cộng đoàn tín hữu Chúa tụ họp đọc kinh cầu nguyện cử hành các nghi lễ phụng vụ ca tụng Chúa. Mỗi Cộng đoàn xứ đạo có bổn phận gìn giữ ngôi thánh đường của chỗ mình.Vì ngôi thánh đường thể hiện giá trị cao đẹp nếp sống tôn giáo và văn hóa. „ ( Đức giáo hoàng Benedicktô XVI., Kinh Truyền tin ngày (09.11.2008 ).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
VietCatholic TV
Darfur: Ở nơi Chúa cũng ngậm ngùi. Đền thờ mở cửa trở lại sau 9 năm bị phá hủy bởi trận động đất
VietCatholic Media
17:18 06/11/2025
1. 7 sự kiện thú vị về Thánh Martin de Porres, vị thánh da đen đầu tiên của Mỹ Châu
Vào ngày 3 tháng 11, Giáo Hội Công Giáo mừng lễ Thánh Martin de Porres, một tu sĩ dòng Đa Minh người Peru, người đã sống một cuộc đời phục vụ khiêm nhường và bác ái, và trở thành vị thánh da đen đầu tiên của Mỹ Châu.
Sau đây là bảy sự thật hấp dẫn về vị thánh truyền cảm hứng này:
1. Cha của ngài từ chối thừa nhận ngài.
De Porres sinh ra tại Lima, Peru, vào năm 1579. Ngài là con trai của một quý tộc Tây Ban Nha và cựu nô lệ da đen người Panama. Cha ngài, Don Juan de Porres, từ chối công khai thừa nhận con trai mình là con ruột vì Martin là người da đen, giống như mẹ ngài. Việc mang trong mình hai dòng máu đã trở thành một thách thức đối với Martin de Porres trong suốt cuộc đời.
2. Ngài bắt đầu hành nghề y từ khi chưa đầy 13 tuổi.
De Porres từng học việc cho một bác sĩ, và trước tuổi 13, ngài bắt đầu học nghề y. Cuối cùng, ngài trở thành y sĩ, vào thời điểm đó, ngài thực hiện các thủ thuật y khoa và phẫu thuật nhỏ như nhổ răng hoặc làm sạch áp xe.
3. Ngài phải đối mặt với sự phân biệt đối xử vì là người Dominica.
De Porres gia nhập dòng Đa Minh năm 1603. Việc trở thành một tu sĩ Đa Minh quả là một thử thách đối với de Porres, bởi vì luật Peru thời bấy giờ cấm người lai gia nhập dòng tu. Vì vậy, ngài sống cùng cộng đồng và làm công việc chân tay, được mệnh danh là “vị thánh chổi” vì sự siêng năng dọn dẹp khu nhà ở của các tu sĩ Đa Minh.
Cuối cùng, bất chấp luật lệ, ngài được phép gia nhập dòng, và làm việc tại bệnh xá, chăm sóc người bệnh và những người nghèo khổ ở Peru. “Tôi chữa lành cho họ, nhưng Chúa mới chữa lành cho họ”, de Porres thường nói khi chữa bệnh. Ngài cũng có nhiệm vụ đi xin của bố thí để cộng đồng dùng vào việc cung cấp quần áo và thức ăn cho người nghèo. Ngài cũng thành lập một trại trẻ mồ côi và trồng một vườn cây ăn quả, nơi những người nghèo có thể tự do lấy trái cây dự trữ trong một ngày.
4. Ngài bay lên và di chuyển bằng hai phương tiện.
De Porres là người cầu nguyện rất sâu sắc, đến nỗi nhiều anh em đã chứng kiến ngài bay lên trong lời cầu nguyện tha thiết và ôm lấy cây thánh giá bị đóng đinh. De Porres cũng được tường trình có khả năng xuất hiện ở 2 vị trí xa nhau, và một số người cùng thời với ngài nói rằng họ đã gặp ngài ở những nơi xa xôi như Nhật Bản ngay cả khi ngài vẫn còn ở Lima. Một số người khẳng định ngài đã hiện ra với họ một cách siêu nhiên sau những cánh cửa đóng kín hoặc trong những hoàn cảnh không thể tưởng tượng được.
5. Ngài từ chối ăn thịt.
De Porres rất yêu động vật. Ngài từ chối ăn thịt và điều hành một bệnh viện thú y dành cho những con vật bị bệnh dường như tìm đến sự giúp đỡ của ngài. Hình ảnh vị thánh này thường bao gồm mèo, chó, và thậm chí cả những con chuột mà ngài đã thể hiện lòng trắc ẩn.
6. Ngài là vị thánh bảo trợ của nhiều nghề lao động chân tay.
De Porres được biết đến với nhiều nhiệm vụ khác nhau mà ngài đã đảm nhiệm, và nhờ đó ngài được phong thánh bổn mạng cho thợ cắt tóc, người bệnh và người quét dọn đường phố. Nhân kỷ niệm 50 năm ngày phong thánh cho Thánh Martin de Porres, Cha Juan Anguerri, giám đốc Nhà tế bần Thánh Martin de Porres, đã phát biểu: “Những công việc này thường không được đền đáp, nhưng qua sự phục vụ khiêm nhường của mình, Thánh Martin đã gửi một thông điệp để hồi sinh những công việc này.”
7. Ngài được phong thánh hơn 300 năm sau khi qua đời.
Martin de Porres qua đời vào ngày 3 tháng 11 năm 1639, hưởng thọ 60 tuổi. Ngài được Đức Giáo Hoàng John XXIII phong thánh vào ngày 16 tháng 5 năm 1962. Trong thánh lễ phong thánh, Đức Giáo Hoàng John XXIII đã gọi ngài là “Martin Bác ái”.
Source:Catholic News Agency
2. Vương cung thánh đường Thánh Bênêđíctô của Ý mở cửa trở lại sau 9 năm bị phá hủy bởi trận động đất
Nhà thờ Thánh Bênêđíctô ở Norcia, Ý, đã mở cửa trở lại để tham quan vào cuối tuần này sau dự án kéo dài bốn năm nhằm xây dựng lại công trình thế kỷ 13 bị san phẳng bởi trận động đất năm 2016.
Đức Tổng Giám Mục Renato Boccardo của Spoleto-Norcia đã khánh thành nhà thờ mới được xây dựng lại vào ngày 31 tháng 10, đêm trước Lễ Các Thánh. Vương cung thánh đường đánh dấu nơi sinh của Thánh Bênêđíctô, người sáng lập dòng Bênêđíctô và là cha đẻ của đời sống tu trì phương Tây. Ngài cũng là đồng thánh bổn mạng của Âu Châu.
Chín năm trước, vào ngày 30 tháng 10, một trận động đất mạnh 6,6 độ richter - trận động đất cuối cùng trong một loạt trận động đất chết người xảy ra ở miền trung nước Ý từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2016 - đã gần như phá hủy hoàn toàn vương cung thánh đường, chỉ còn lại mặt tiền.
Một tu viện liền kề của các tu sĩ dòng Bênêđíctô, những người trông coi vương cung thánh đường vào thời điểm đó, cũng đã bị phá hủy trong trận động đất tháng 10 năm 2016.
Việc tái thiết Vương cung thánh đường và hầm mộ bắt đầu vào tháng 12 năm 2021 và sử dụng tối đa vật liệu ban đầu, đồng thời kết hợp thiết kế chống động đất và khả năng tiếp cận cho người khuyết tật. Dự án có chi phí 15 triệu euro (khoảng 17 triệu đô la).
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phát biểu trong thông điệp gửi đến lễ cung hiến Vương cung thánh đường: “Việc trùng tu di tích quan trọng này, có giá trị lịch sử và nghệ thuật to lớn cũng như là trung tâm sôi động của tinh thần Bênêđíctô, thể hiện dấu hiệu hữu hình của cuộc hành trình đầy thách thức nhằm tái sinh tôn giáo được toàn thể cộng đồng giáo phận thực hiện trong những năm gần đây”.
Trong bài giảng tại Thánh lễ cung hiến ngày 31 tháng 10, Boccardo cho biết: “Cánh cửa của Vương cung thánh đường mở ra hôm nay để chào đón tất cả những ai đến đây để tìm kiếm ánh sáng và sức mạnh cho hành trình đời sống Kitô hữu.”
“Là những người tin Chúa, chúng ta ý thức rõ rằng một tòa nhà nguy nga tráng lệ không đủ để biến nơi đó thành nhà Chúa giữa những ngôi nhà của con người,” ngài nói. “Chỉ một cộng đồng, mỗi ngày trôi qua, nhiệt thành sống cuộc tìm kiếm chân thành về những gì chân thật, tốt lành và công bằng trong mắt mình, mới có thể có Chúa ở gần.”
“Khốn cho chúng ta,” ngài nói tiếp, “nếu chúng ta chỉ giới hạn bản thân mình vào việc dâng lên Người vẻ đẹp của ngôi nhà thờ này nếu nó không tương xứng với vẻ đẹp của một dân tộc được xây dựng xung quanh Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể, những người xây dựng các mối quan hệ huynh đệ, những người cam kết xây dựng một xã hội chào đón và nhân hậu hơn đối với tất cả mọi người, những người không ngừng tìm kiếm sự khôn ngoan để phân biệt thiện và ác, phân biệt điều xây dựng với điều phá hủy, điều còn lại với điều qua đi, và những người thực hành tình yêu Kitô giáo hằng ngày.”
Một tu viện Bênêđíctô được xây dựng ở Norcia vào thế kỷ thứ 10 nhưng đã bị Quân đội Napoleon đóng cửa vào những năm 1800. Một nhóm tu sĩ người Mỹ đã tái lập cộng đồng này ở Norcia vào năm 1999.
Sau trận động đất năm 2016, cộng đồng tu viện đã chuyển đến một tu viện Capuchin cũ cách thị trấn khoảng 2,4 km về phía đông. Họ đã hoàn thành việc xây dựng lại cơ sở vật chất bị hư hại do động đất bên ngoài Norcia vào giữa năm 2024, và cộng đồng đã được nâng lên thành một tu viện.
Tu viện San Benedetto ở Monte nổi tiếng với nghề nấu bia và là trung tâm sôi động của dòng tu Bênêđíctô ở vùng Umbria, miền trung nước Ý.
Source:Catholic News Agency
3. Hàng trăm người thiệt mạng trong vụ thảm sát tại bệnh viện Darfur trong bối cảnh cuộc nội chiến đẫm máu ở Sudan
Bằng chứng rõ ràng về vụ thảm sát dân thường quy mô lớn ở Sudan đã xuất hiện vào thứ sáu, bao gồm hình ảnh vệ tinh về các thi thể và mặt đất đẫm máu chụp bên ngoài một bệnh viện ở Darfur.
Hơn 460 bệnh nhân và người nhà của họ được báo cáo là đã bị bắn chết tại Bệnh viện Phụ sản Saudi ở El Fasher vào thứ Ba sau khi quân đội Sudan đầu hàng thành phố này vào tay các chiến binh bán quân sự vào Chúa Nhật sau 18 tháng bao vây.
Theo các bản tin, lực lượng chính phủ vẫn kiểm soát được thủ đô Khartoum.
Vụ thảm sát là thảm kịch mới nhất trong cuộc xung đột đã nhấn chìm khu vực phía tây Darfur kể từ khi cuộc nội chiến toàn diện nổ ra vào năm 2023.
Theo Báo cáo theo dõi xung đột toàn cầu của Hội đồng quan hệ đối ngoại, cuộc chiến giữa các phe phái quân sự đối địch - Quân đội Sudan, gọi tắt là SAF và Lực lượng hỗ trợ nhanh, gọi tắt là RSF - đã cướp đi sinh mạng của khoảng 150.000 người và khiến 14 triệu người phải di dời.
Vào tháng Giêng, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố RSF đã phạm tội diệt chủng đối với các nhóm sắc tộc phi Ả Rập ở Sudan. Liên Hiệp Quốc đã mô tả tình hình ở Sudan là “cuộc khủng hoảng nhân đạo và di cư tàn khốc nhất thế giới”.
Cựu Ngoại trưởng Antony Blinken đầu năm nay cho biết rằng “đàn ông và trẻ em trai - thậm chí cả trẻ sơ sinh - theo từng nhóm dân tộc” đã bị giết và các chiến binh RSF “cố tình tấn công vào phụ nữ và trẻ em gái thuộc một số nhóm dân tộc nhất định để cưỡng hiếp và thực hiện các hình thức bạo lực tình dục tàn bạo khác”, CNN đưa tin.
Theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, những hành động tàn bạo xảy ra ở Sudan cấu thành tội ác thanh trừng sắc tộc. Trong báo cáo năm 2024, tổ chức này cho biết “các tội ác chống lại loài người và tội ác chiến tranh lan rộng đã được thực hiện trong bối cảnh chiến dịch thanh trừng sắc tộc chống lại người Massalit và các nhóm dân tộc không phải người Ả Rập khác”.
Cộng hòa Sudan, nằm ở Đông Bắc Phi Châu, có dân số khoảng 50 triệu người, trong đó 90,7% là người Hồi giáo, với cộng đồng Kitô giáo chiếm đa số. Năm 2019, một cuộc cách mạng đã lật đổ Tổng thống Omar al-Bashir, chấm dứt hàng thập niên cai trị độc tài. Hai năm sau, tướng Abdel Fattah al-Burhan, nhà lãnh đạo quân sự, và chỉ huy lực lượng bán quân sự Mohamed Hamdan Dagalo, đã lật đổ các nhà lãnh đạo dân sự và giành lấy quyền lực. Lực lượng của hai bên đã quay sang tấn công lẫn nhau vào tháng 4 năm 2023, đẩy đất nước vào chiến tranh.
Vào tháng 9, Giáo hoàng Lêô XIV đã kêu gọi các nhà lãnh đạo đối địch của Sudan chấm dứt bạo lực trong nước để có thể cung cấp viện trợ nhân đạo rất cần thiết cho 260.000 người được tường trình đang mắc kẹt trong các trại tị nạn nội địa, gọi tắt là IDP ở el-Fasher.
“Tin tức bi thảm đang đến từ Sudan, đặc biệt là từ Darfur,” Đức Giáo Hoàng Lêô nói. “Tại el-Fasher, nhiều thường dân bị mắc kẹt trong thành phố, nạn nhân của nạn đói và bạo lực. Tại Tarasin, một trận lở đất kinh hoàng đã gây ra nhiều cái chết, để lại nỗi đau và sự tuyệt vọng. Và như thể điều đó chưa đủ, dịch tả đang lây lan đe dọa hàng trăm ngàn người vốn đã kiệt sức.”
“ Tôi chân thành kêu gọi những người có trách nhiệm và cộng đồng quốc tế hãy bảo đảm các hành lang nhân đạo được mở và thực hiện phản ứng phối hợp để ngăn chặn thảm họa nhân đạo này”.
“Đây là một cuộc chiến bị lãng quên vì người dân thực sự bị lãng quên”, Giám mục Christian Carlassare của Bentiu ở Nam Sudan nói với OSV News.
“Thật không may, đây là cuộc chiến bị lãng quên đối với cộng đồng quốc tế, nhưng nó không bị lãng quên đối với các thương gia vũ khí, những người đang kiếm được rất nhiều lợi nhuận từ cuộc chiến này”, ông nói với hãng tin này.
Theo Liên Hiệp Quốc, Sudan đang trở thành “cuộc khủng hoảng nạn đói lớn nhất thế giới trong lịch sử gần đây”. Theo Liên Hiệp Quốc, có tới 24,6 triệu người - hơn một nửa dân số - đang “thiếu an ninh lương thực”.
Vào tháng 2, các cơ quan Dịch vụ Cứu trợ Công Giáo và Caritas đã cảnh báo rằng việc chính quyền Tổng thống Trump đóng băng viện trợ thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ sẽ làm trầm trọng thêm tình hình vốn đã nguy hiểm.
Source:Catholic News Agency
Một báu vật của Giáo Hội – Áo Chúa Giêsu
VietCatholic Media
23:57 06/11/2025