Phụng Vụ - Mục Vụ
Sức mạnh hoán cải của tình thương
Lm. Đan Vinh
08:42 30/10/2013
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN C
Kn 11,22-12,2 ; 2Tx 1,11-2,2 ; Lc 19,1-10.
SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH THƯƠNG
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 19,1-10
(1) Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. (2) Và kìa, có một người tên là Da-kêu. Ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. (3) Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông lại lùn. (4) Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. (5) Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. (6) Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. (7) Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” (8) Còn ông Da-kêu thì đứng mà thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. (9) Đức Giê-su nói với ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham. (10) Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay nhằm chứng minh Đưc Giê-su là Đấng Thiên Sai, với sứ mệnh “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Cụ thể là ông Da-kêu thủ lãnh các người thu thuế ở Giê-ri-khô, nhờ gặp được Đức Giê-su nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm, nên ông đã gặp được Người và được Người ưu ái đến ở trọ tại nhà ông. Trước tình thương của Đức Giê-su, ông đã quyết tâm hoán cải, thể hiện qua việc tình nguyện quảng đại chia phân nửa gia sản phân phát cho người nghèo và sẵn sàng đền bù cho những người đã bị ông làm thiệt hại trước đây.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-4: + Đức Giê-su vào thành Giê-ri-khô và đi ngang qua thành: Giê-ri-khô là một thành phố cách Giê-ru-sa-lem 37 cây số. Có hai thành Giê-ri-khô: Một thành cũ đã bị ông Gio-su-ê phá huỷ, và một thành mới do vua Hê-rô-đê xây dựng cách nơi cũ không xa. + Có một người tên là Da-kêu: Tên Da-kêu nghĩa là “Người trong sạch”. Ong đứng đầu ngành thu thuế tại thành Giê-ri-khô, nên bị người Do thái liệt vào hạng người tội lỗi.
- C 5-7: + Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”: Đức Giê-su đã biết rõ về con người của Da-kêu trước khi ông gặp Người. Người đã nhìn thấy ông giữa muôn người, biết tên và công khai gọi tên ông. Nhất là Người còn đến ở trọ tại nhà của ông. + Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người: Cảm động trước tình thương và sự ưu ái quan tâm của Đức Giê-su, ông Da-kêu vội vàng tụt xuống khỏi cây sung và đón rước Người về nhà. Da-kêu chỉ muốn thấy mặt Đức Giê-su, nhưng ông lại được Người thương đến ở trọ tại nhà của ông. Lòng ưu ái của Người vượt quá sự mong ước của ông. + Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !”: Theo quan niệm của người Do thái, ai lui tới giao thiệp với người tội lỗi cũng trở nên ô uế và bị khiển trách (x. Lc 5,30). Ở đây, Đức Giê-su không những đã tiếp xúc nói chuyện, mà còn đến ở trọ tại nhà của ông trưởng ngành thu thuế Da-kêu, nên không tránh khỏi sự xầm xì phản đối của đám đông. Qua hành động này, Đức Giê-su cho thấy sứ vụ của Người là đi tìm và cứu chữa những người tội lỗi mà Da-kêu là đại diện.
- C 8-10: + Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo...: Cảm động trước tình thương của Đức Giê-su, Da-kêu đã biểu lộ quyết tâm hoán cải qua việc đền bù những tội lỗi trước đó. Ông tự nguyện chia nửa tài sản để phân phát cho người nghèo và đền trả gấp bốn lần những thiệt hại đã gây ra, trong khi Luật Mô-sê chỉ buộc đền gấp bốn cho tội trộm chiên mà thôi (x. Xh 21,37). + Hôm nay Ơn cứu độ đã đến cho nhà này: Nhờ sự hiện diện của Đức Giê-su mà cả nhà ông Da-kêu đã được cứu độ. + Con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham: Do làm nghề thu thuế nên Da-kêu bị coi là kẻ tội lỗi không còn thuộc về dòng dõi của Áp-ra-ham. Nhưng khi ông đã hồi tâm sám hối, ông lại được Đức Giê-su trả lại quyền được làm con cháu của Tổ phụ Áp-ra-ham như trước. + Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất: Câu này cho thấy sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su là đến để tìm kiếm và giúp những kẻ tội lỗi ăn năn sam hối để được cứu độ.
4. CÂU HỎI: 1) Tên Da-kêu nghĩa là gì ? 2) Thiện chí của ông Da-kêu được biều lộ qua hành động nào ? 3) Tại sao dân chúng lại trách Đức Giê-su về việc đến ở trọ tại nhà Da-kêu ? 4) Tại sao ông Da-kêu lại được Đức Giê-su tuyên bố là con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham và được cứu độ ? 5) Câu nào nói lên sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
2. CÂU CHUYỆN:
-NHỮNG KẺ KHỐN CÙNG (LES MISÉRABLES)
Đây là tựa đề một tác phẩm nổi tiếng của văn hào Vích-to Huy-gô (Victor Hugo), tường thuật câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi bị mọi người khinh dể xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; Vào trong nhà trọ thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; Đi qua ổ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi... Chỉ khi bước vào nhà Đức giám mục My-ri-ê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao chuồn mất. Nhìn thay bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời”. Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ ông từ một tên tội phạm trở thành mot người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục My-ri-ê.
-SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH THƯƠNG:
Trong thiền viện của thiền sư SĂNG–GAI (Sengai) có nhiều đệ tử ở chung. Một đệ tử của vị thiền sư có thói quen thỉnh thoảng nửa đêm leo tường ra ngoài đi chơi với chúng bạn mãi đến gần sáng mới quay lại thiền viện. Một đêm kia, thiền sư Săng-gai đi kiểm tra, thấy một chiếc giường trống, rồi còn thấy một chiếc ghế cao để cạnh bức tường cao phía trong thiền viện. Thiền sư liền dời chiếc ghế kia sang chỗ khác và đứng thế vào chỗ đó. Khi anh đệ tử kia quay về, do không thấy thiền sư đang đứng thế chiếc ghế mọi khi, anh ta đã đặt bàn chân lên đầu thầy Săng-gai làm điểm tựa trước khi nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra sự thể thì anh cảm thấy sợ hãi. Nhưng thay vì trách phạt, thiền sư lại mỉm cười nhỏ nhẹ nói với anh rằng: “Trời về sáng đang trở lạnh. Con mau vào phòng mặc áo ấm vào kẻo bị cảm lạnh nhé !” Cảm động trước tấm long từ bi và tình thương khoan dung của thầy, từ ngày đó người đệ tử kia không bao giờ còn dám tái phạm trèo tường đi chơi nữa. Anh chuyên cần học tập và về sau trở thành một học trò giỏi của thiền sư Săng-gai.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng Lu-ca Chúa Nhật hôm nay thuật lại câu chuyện hoán cải của ông Da-kêu làm nghề thu thuế. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với bọn trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, vì họ thu thuế phục vụ cho đế quốc Rô-ma, nên người Do thái kết án khinh dể họ. Trái lại, Đức Giê-su có cách hành xử khác. Tin mừng hôm nay cho thấy: Người đã gọi đích danh ông Da-kêu, đã đến ở trọ trong nhà ông và ngồi đồng bàn ăn uống chung với ông. Việc đó khiến dân chúng hiện diện xầm xì phản đối. Tuy nhiên khi xử sự như thế, Đức Giê-su cho thấy sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì hư mất”. Cảm động rrước tấm lòng bao dung nhân hậu của Đức Giê-su, ông Da-kêu đã nhận ra tội lỗi của mình và quyết tâm sám hối nên người công chính.
1) “NÀY ÔNG DA-KÊU XUỐNG MAU ĐI”: Da-kêu là một người giàu có nổi tiếng ở thành Giê-ri-cô. Ông là trưởng ban thu thuế của thành phố này. Dĩ nhiên nếu chỉ là nhân viên làm việc ăn lương thì chắc ông đã không thể giàu có như vậy được. Sở dĩ ông nhiều tiền là vì đã gian lận móc ngoặc với gian thương trong việc thu thuế. Mọi người đều nhìn Da-kêu như một tội phạm đáng khinh, và chính ông cũng cảm thấy lương tâm bất an. Nghe tin Đức Giê-su sắp đi qua khu vực gần nhà, Da-kêu liền chạy tới gần để nhìn xem mặt Người. Nhưng dân chúng quá đông mà Da-kêu lại lùn thấp, nên ông đã chạy về phía trước, trèo lên một cây sung, hy vọng sẽ nhìn thấy Đức Giê-su khi Người đi ngang qua. Khi tới chỗ Da-kêu núp, Đức Giê-su dừng lại ngước nhìn lên và nói với ông rằng: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Da-kêu không ngờ lại được Đức Giê-su ưu ái biết rõ tên và còn ngỏ ý muốn đến ở trọ tại nhà ông là một người tội lỗi ! Ông cảm thấy rất vui khi được Đức Giê-su công khai phục hồi danh dự trước mặt đám đông luôn có thái độ ác cảm và khinh dể ông. Còn Đức Giê-su cũng bỏ ngoài tai những lời xì xầm phản đối của nhiều người để đến trọ tại nhà ông Da-kêu.
Ơn Cứu độ là kết quả của sự gặp gỡ hai chiều kích: Thiên Chúa ban ơn và tội nhân đón nhận. Nếu Đức Giê-su không thi hành sư mệnh đi tìm chiên lạc thì chẳng ai được ơn cứu độ: “Vì chưng, Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10). Nhưng dù Đức Giê-su có đi tìm mà tội nhân lại né tránh, thì họ cũng không thể nhận được ơn cứu độ. Ở đây, Đức Giê-su đã đi bước trước qua việc nhìn lên cây sung tìm Da-kêu đang ẩn núp và nói chuyện với ông và ông đã mau chóng đáp lại và cuối cùng ông và gia đình ông đã nhận được ơn cứu độ.
2) “THƯA NGÀI, NÀY ĐÂY PHÂN NỬA TÀI SẢN CỦA TÔI, TÔI CHO NGƯỜI NGHÈO...”: Chính ánh mắt bao dung, lời nói âu yếm và thái độ yêu thương của Đức Giê-su đã đánh động tâm hồn chai lì của Da-kêu; thổi bùng lên ngọn lửa hướng thiện còn đang leo lét trong lòng ông. Quả thật, hoán cải là kết quả của một sự cảm nhận về tình yêu của Chúa. Da-kêu bỗng chốc cảm thấy tâm hồn bình an, nên không còn yêu thích tiền bạc như trước. Ông đã sẵn sàng dâng hiến phân nửa tài sản để chia sẻ cho người nghèo, đồng thời tự nguyện đền trả gấp bốn những thiệt hại đã gây cho kẻ khác. Xin đền gấp bốn nghĩa là Da-kêu nhận biết tội của ông quá nặng và quyết tâm thực thi công bình bác ái. Dù Da-kêu đã trở nên nghèo hơn, nhưng ông lại cảm thấy hạnh phúc hơn vì đã được Đức Giê-su yêu thương đến ở trọ tại nhà ông và ban ơn cứu độ cho cả gia đình ông. Sau đó Người còn trả lại cho ông tư cách là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham như bao người Do thái khác qua lời phán: "Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham" (Lc 19,9). Trong bữa tiệc vui hôm đó, tuy không còn giàu có như trước, nhưng Da-kêu đã cảm thấy được hạnh phúc hơn. Chắc chắn thân thể ông vẫn còn lùn thấp như trước, nhưng tâm hồn ông đã nên cao thượng hơn gấp bội phần.
3) LIÊN QUAN GIỮA HOÁN CẢI VÀ TỪ BỎ: Bất cứ một cuộc hoán cải nào cũng đòi phải từ bỏ: Một người lương muốn theo đạo Công Giáo thì phải từ bỏ ma quỉ, các điều mê tín dị đoan, các đam mê tội lỗi… để chỉ tin thờ một mình Thiên Chúa và tin vào Đấng Ngài sai đến là Đức Giê-su Ki-tô. Một người mắc thói xấu cờ bạc, rượu chè, trai gái, hút sách… muốn hồi tâm sám hối cũng phải quyết tâm chừa bỏ các thói hư ấy. Một người thường buôn gian bán lận, muốn hoán cải về với Chúa cũng phải quyết tâm từ bỏ lối làm ăn gian dối ấy… Con tim của Da-kêu đã được hoán cải nhờ sự quan tâm và đối xử nhân từ của Đức Giê-su. Thi hào người Đức Goethe (1749-1832) đã viết như sau : "Nếu đối xử với một người như “người ấy là”, thì người ấy sẽ nên xấu hơn. Nếu đối xử với người ấy như “người ấy phải là”, hoặc như “người ấy muốn là”, thì người ấy sẽ nên tốt hơn". Đức Giê-su hiểu rằng trong tâm hồn Da-kêu còn có phần tốt, muốn làm điều tốt và có khả năng làm điều tốt, nên Người đã khơi phần tốt ấy lên. Mỗi người chúng ta cũng hãy tự hoán cải bằng cách để Đức Giê-su quan tâm đến ta, nói với ta, đến ở trọ trong lòng ta và đánh động con tim của ta.
4) HIỆN NAY VẪN CÒN NHIỀU DA-KÊU: Đó là những người bị mọi người khinh thường hay loại trừ như những người mang tiền án tiền sự, những trẻ em bụi đời lang thang không nhà, những cô gái đứng đường lúc đêm tối, những người đang nghiện sì-ke ma túy, những người đang tìm hưởng lạc thú trong những quán bia ôm, mượn rượu giải sầu... Họ cần những người có trái tim bao dung nhân ái như Đức Giê-su giúp họ hoàn lương giống như ông Da-kêu trong Tin mừng hôm nay. Vậy trong những ngày này chúng ta nên làm gì cụ thể để giúp họ ?
4. THẢO LUẬN: 1)Bạn có thích hai câu chuyện trên hay không ? Tại sao ? 2)Tuần này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để giúp một tội nhân công khai được ơn hoán cải nên lương thiện hơn ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Ngày nay Chúa vẫn thường đến với chúng con trong hình hài của những người nghèo khó ăn xin, những bệnh nhân liệt giường không tiền chữa trị, những người đau khổ cần được ủi an. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Sa-ma-ri để uống cho đã khát, cần năm chiếc bánh và hai con cá của một bé trai để nuôi năm ngàn người ăn no, cần căn nhà của ông Da-kêu để nghỉ qua đêm. Chúa khiêm tốn xin chúng con một chút tiền bạc, một chút lòng hảo tâm, một chút sự thương cảm... để sau đó Chúa lại đổ xuống trên chúng con muôn ngàn phúc lộc thiêng liêng gấp bội.
- LẠY CHÚA. Xin dạy chúng con biết đến với tha nhân, biết khám phá ra một đốm lửa của sự thiện vẫn đang cháy leo lét nơi tâm hồn những người đang lạc xa Chúa. Ước gì chúng con biết nhìn các tội nhân công khai bằng ánh mắt nhân từ bao dung của Chúa, dám hy vọng vào thiện chí hoán cải của họ, và kêu gọi mọi người cùng hợp tác để xua tan cái xấu cái ác ra khỏi gia đình, khu xóm, trường học, và công sở ... Nhờ đó, thế giới hôm nay sẽ được biến đổi ngày một tốt hơn, chan hòa tình người hơn và an bình hạnh phúc hơn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN C
Kn 11,22-12,2 ; 2Tx 1,11-2,2 ; Lc 19,1-10.
SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH THƯƠNG
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 19,1-10
(1) Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. (2) Và kìa, có một người tên là Da-kêu. Ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. (3) Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông lại lùn. (4) Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. (5) Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. (6) Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. (7) Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” (8) Còn ông Da-kêu thì đứng mà thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. (9) Đức Giê-su nói với ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham. (10) Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay nhằm chứng minh Đưc Giê-su là Đấng Thiên Sai, với sứ mệnh “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Cụ thể là ông Da-kêu thủ lãnh các người thu thuế ở Giê-ri-khô, nhờ gặp được Đức Giê-su nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm, nên ông đã gặp được Người và được Người ưu ái đến ở trọ tại nhà ông. Trước tình thương của Đức Giê-su, ông đã quyết tâm hoán cải, thể hiện qua việc tình nguyện quảng đại chia phân nửa gia sản phân phát cho người nghèo và sẵn sàng đền bù cho những người đã bị ông làm thiệt hại trước đây.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-4: + Đức Giê-su vào thành Giê-ri-khô và đi ngang qua thành: Giê-ri-khô là một thành phố cách Giê-ru-sa-lem 37 cây số. Có hai thành Giê-ri-khô: Một thành cũ đã bị ông Gio-su-ê phá huỷ, và một thành mới do vua Hê-rô-đê xây dựng cách nơi cũ không xa. + Có một người tên là Da-kêu: Tên Da-kêu nghĩa là “Người trong sạch”. Ong đứng đầu ngành thu thuế tại thành Giê-ri-khô, nên bị người Do thái liệt vào hạng người tội lỗi.
- C 5-7: + Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”: Đức Giê-su đã biết rõ về con người của Da-kêu trước khi ông gặp Người. Người đã nhìn thấy ông giữa muôn người, biết tên và công khai gọi tên ông. Nhất là Người còn đến ở trọ tại nhà của ông. + Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người: Cảm động trước tình thương và sự ưu ái quan tâm của Đức Giê-su, ông Da-kêu vội vàng tụt xuống khỏi cây sung và đón rước Người về nhà. Da-kêu chỉ muốn thấy mặt Đức Giê-su, nhưng ông lại được Người thương đến ở trọ tại nhà của ông. Lòng ưu ái của Người vượt quá sự mong ước của ông. + Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !”: Theo quan niệm của người Do thái, ai lui tới giao thiệp với người tội lỗi cũng trở nên ô uế và bị khiển trách (x. Lc 5,30). Ở đây, Đức Giê-su không những đã tiếp xúc nói chuyện, mà còn đến ở trọ tại nhà của ông trưởng ngành thu thuế Da-kêu, nên không tránh khỏi sự xầm xì phản đối của đám đông. Qua hành động này, Đức Giê-su cho thấy sứ vụ của Người là đi tìm và cứu chữa những người tội lỗi mà Da-kêu là đại diện.
- C 8-10: + Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo...: Cảm động trước tình thương của Đức Giê-su, Da-kêu đã biểu lộ quyết tâm hoán cải qua việc đền bù những tội lỗi trước đó. Ông tự nguyện chia nửa tài sản để phân phát cho người nghèo và đền trả gấp bốn lần những thiệt hại đã gây ra, trong khi Luật Mô-sê chỉ buộc đền gấp bốn cho tội trộm chiên mà thôi (x. Xh 21,37). + Hôm nay Ơn cứu độ đã đến cho nhà này: Nhờ sự hiện diện của Đức Giê-su mà cả nhà ông Da-kêu đã được cứu độ. + Con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham: Do làm nghề thu thuế nên Da-kêu bị coi là kẻ tội lỗi không còn thuộc về dòng dõi của Áp-ra-ham. Nhưng khi ông đã hồi tâm sám hối, ông lại được Đức Giê-su trả lại quyền được làm con cháu của Tổ phụ Áp-ra-ham như trước. + Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất: Câu này cho thấy sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su là đến để tìm kiếm và giúp những kẻ tội lỗi ăn năn sam hối để được cứu độ.
4. CÂU HỎI: 1) Tên Da-kêu nghĩa là gì ? 2) Thiện chí của ông Da-kêu được biều lộ qua hành động nào ? 3) Tại sao dân chúng lại trách Đức Giê-su về việc đến ở trọ tại nhà Da-kêu ? 4) Tại sao ông Da-kêu lại được Đức Giê-su tuyên bố là con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham và được cứu độ ? 5) Câu nào nói lên sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
2. CÂU CHUYỆN:
-NHỮNG KẺ KHỐN CÙNG (LES MISÉRABLES)
Đây là tựa đề một tác phẩm nổi tiếng của văn hào Vích-to Huy-gô (Victor Hugo), tường thuật câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi bị mọi người khinh dể xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; Vào trong nhà trọ thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; Đi qua ổ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi... Chỉ khi bước vào nhà Đức giám mục My-ri-ê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao chuồn mất. Nhìn thay bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời”. Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ ông từ một tên tội phạm trở thành mot người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục My-ri-ê.
-SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH THƯƠNG:
Trong thiền viện của thiền sư SĂNG–GAI (Sengai) có nhiều đệ tử ở chung. Một đệ tử của vị thiền sư có thói quen thỉnh thoảng nửa đêm leo tường ra ngoài đi chơi với chúng bạn mãi đến gần sáng mới quay lại thiền viện. Một đêm kia, thiền sư Săng-gai đi kiểm tra, thấy một chiếc giường trống, rồi còn thấy một chiếc ghế cao để cạnh bức tường cao phía trong thiền viện. Thiền sư liền dời chiếc ghế kia sang chỗ khác và đứng thế vào chỗ đó. Khi anh đệ tử kia quay về, do không thấy thiền sư đang đứng thế chiếc ghế mọi khi, anh ta đã đặt bàn chân lên đầu thầy Săng-gai làm điểm tựa trước khi nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra sự thể thì anh cảm thấy sợ hãi. Nhưng thay vì trách phạt, thiền sư lại mỉm cười nhỏ nhẹ nói với anh rằng: “Trời về sáng đang trở lạnh. Con mau vào phòng mặc áo ấm vào kẻo bị cảm lạnh nhé !” Cảm động trước tấm long từ bi và tình thương khoan dung của thầy, từ ngày đó người đệ tử kia không bao giờ còn dám tái phạm trèo tường đi chơi nữa. Anh chuyên cần học tập và về sau trở thành một học trò giỏi của thiền sư Săng-gai.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng Lu-ca Chúa Nhật hôm nay thuật lại câu chuyện hoán cải của ông Da-kêu làm nghề thu thuế. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với bọn trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, vì họ thu thuế phục vụ cho đế quốc Rô-ma, nên người Do thái kết án khinh dể họ. Trái lại, Đức Giê-su có cách hành xử khác. Tin mừng hôm nay cho thấy: Người đã gọi đích danh ông Da-kêu, đã đến ở trọ trong nhà ông và ngồi đồng bàn ăn uống chung với ông. Việc đó khiến dân chúng hiện diện xầm xì phản đối. Tuy nhiên khi xử sự như thế, Đức Giê-su cho thấy sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì hư mất”. Cảm động rrước tấm lòng bao dung nhân hậu của Đức Giê-su, ông Da-kêu đã nhận ra tội lỗi của mình và quyết tâm sám hối nên người công chính.
1) “NÀY ÔNG DA-KÊU XUỐNG MAU ĐI”: Da-kêu là một người giàu có nổi tiếng ở thành Giê-ri-cô. Ông là trưởng ban thu thuế của thành phố này. Dĩ nhiên nếu chỉ là nhân viên làm việc ăn lương thì chắc ông đã không thể giàu có như vậy được. Sở dĩ ông nhiều tiền là vì đã gian lận móc ngoặc với gian thương trong việc thu thuế. Mọi người đều nhìn Da-kêu như một tội phạm đáng khinh, và chính ông cũng cảm thấy lương tâm bất an. Nghe tin Đức Giê-su sắp đi qua khu vực gần nhà, Da-kêu liền chạy tới gần để nhìn xem mặt Người. Nhưng dân chúng quá đông mà Da-kêu lại lùn thấp, nên ông đã chạy về phía trước, trèo lên một cây sung, hy vọng sẽ nhìn thấy Đức Giê-su khi Người đi ngang qua. Khi tới chỗ Da-kêu núp, Đức Giê-su dừng lại ngước nhìn lên và nói với ông rằng: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Da-kêu không ngờ lại được Đức Giê-su ưu ái biết rõ tên và còn ngỏ ý muốn đến ở trọ tại nhà ông là một người tội lỗi ! Ông cảm thấy rất vui khi được Đức Giê-su công khai phục hồi danh dự trước mặt đám đông luôn có thái độ ác cảm và khinh dể ông. Còn Đức Giê-su cũng bỏ ngoài tai những lời xì xầm phản đối của nhiều người để đến trọ tại nhà ông Da-kêu.
Ơn Cứu độ là kết quả của sự gặp gỡ hai chiều kích: Thiên Chúa ban ơn và tội nhân đón nhận. Nếu Đức Giê-su không thi hành sư mệnh đi tìm chiên lạc thì chẳng ai được ơn cứu độ: “Vì chưng, Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10). Nhưng dù Đức Giê-su có đi tìm mà tội nhân lại né tránh, thì họ cũng không thể nhận được ơn cứu độ. Ở đây, Đức Giê-su đã đi bước trước qua việc nhìn lên cây sung tìm Da-kêu đang ẩn núp và nói chuyện với ông và ông đã mau chóng đáp lại và cuối cùng ông và gia đình ông đã nhận được ơn cứu độ.
2) “THƯA NGÀI, NÀY ĐÂY PHÂN NỬA TÀI SẢN CỦA TÔI, TÔI CHO NGƯỜI NGHÈO...”: Chính ánh mắt bao dung, lời nói âu yếm và thái độ yêu thương của Đức Giê-su đã đánh động tâm hồn chai lì của Da-kêu; thổi bùng lên ngọn lửa hướng thiện còn đang leo lét trong lòng ông. Quả thật, hoán cải là kết quả của một sự cảm nhận về tình yêu của Chúa. Da-kêu bỗng chốc cảm thấy tâm hồn bình an, nên không còn yêu thích tiền bạc như trước. Ông đã sẵn sàng dâng hiến phân nửa tài sản để chia sẻ cho người nghèo, đồng thời tự nguyện đền trả gấp bốn những thiệt hại đã gây cho kẻ khác. Xin đền gấp bốn nghĩa là Da-kêu nhận biết tội của ông quá nặng và quyết tâm thực thi công bình bác ái. Dù Da-kêu đã trở nên nghèo hơn, nhưng ông lại cảm thấy hạnh phúc hơn vì đã được Đức Giê-su yêu thương đến ở trọ tại nhà ông và ban ơn cứu độ cho cả gia đình ông. Sau đó Người còn trả lại cho ông tư cách là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham như bao người Do thái khác qua lời phán: "Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham" (Lc 19,9). Trong bữa tiệc vui hôm đó, tuy không còn giàu có như trước, nhưng Da-kêu đã cảm thấy được hạnh phúc hơn. Chắc chắn thân thể ông vẫn còn lùn thấp như trước, nhưng tâm hồn ông đã nên cao thượng hơn gấp bội phần.
3) LIÊN QUAN GIỮA HOÁN CẢI VÀ TỪ BỎ: Bất cứ một cuộc hoán cải nào cũng đòi phải từ bỏ: Một người lương muốn theo đạo Công Giáo thì phải từ bỏ ma quỉ, các điều mê tín dị đoan, các đam mê tội lỗi… để chỉ tin thờ một mình Thiên Chúa và tin vào Đấng Ngài sai đến là Đức Giê-su Ki-tô. Một người mắc thói xấu cờ bạc, rượu chè, trai gái, hút sách… muốn hồi tâm sám hối cũng phải quyết tâm chừa bỏ các thói hư ấy. Một người thường buôn gian bán lận, muốn hoán cải về với Chúa cũng phải quyết tâm từ bỏ lối làm ăn gian dối ấy… Con tim của Da-kêu đã được hoán cải nhờ sự quan tâm và đối xử nhân từ của Đức Giê-su. Thi hào người Đức Goethe (1749-1832) đã viết như sau : "Nếu đối xử với một người như “người ấy là”, thì người ấy sẽ nên xấu hơn. Nếu đối xử với người ấy như “người ấy phải là”, hoặc như “người ấy muốn là”, thì người ấy sẽ nên tốt hơn". Đức Giê-su hiểu rằng trong tâm hồn Da-kêu còn có phần tốt, muốn làm điều tốt và có khả năng làm điều tốt, nên Người đã khơi phần tốt ấy lên. Mỗi người chúng ta cũng hãy tự hoán cải bằng cách để Đức Giê-su quan tâm đến ta, nói với ta, đến ở trọ trong lòng ta và đánh động con tim của ta.
4) HIỆN NAY VẪN CÒN NHIỀU DA-KÊU: Đó là những người bị mọi người khinh thường hay loại trừ như những người mang tiền án tiền sự, những trẻ em bụi đời lang thang không nhà, những cô gái đứng đường lúc đêm tối, những người đang nghiện sì-ke ma túy, những người đang tìm hưởng lạc thú trong những quán bia ôm, mượn rượu giải sầu... Họ cần những người có trái tim bao dung nhân ái như Đức Giê-su giúp họ hoàn lương giống như ông Da-kêu trong Tin mừng hôm nay. Vậy trong những ngày này chúng ta nên làm gì cụ thể để giúp họ ?
4. THẢO LUẬN: 1)Bạn có thích hai câu chuyện trên hay không ? Tại sao ? 2)Tuần này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để giúp một tội nhân công khai được ơn hoán cải nên lương thiện hơn ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Ngày nay Chúa vẫn thường đến với chúng con trong hình hài của những người nghèo khó ăn xin, những bệnh nhân liệt giường không tiền chữa trị, những người đau khổ cần được ủi an. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Sa-ma-ri để uống cho đã khát, cần năm chiếc bánh và hai con cá của một bé trai để nuôi năm ngàn người ăn no, cần căn nhà của ông Da-kêu để nghỉ qua đêm. Chúa khiêm tốn xin chúng con một chút tiền bạc, một chút lòng hảo tâm, một chút sự thương cảm... để sau đó Chúa lại đổ xuống trên chúng con muôn ngàn phúc lộc thiêng liêng gấp bội.
- LẠY CHÚA. Xin dạy chúng con biết đến với tha nhân, biết khám phá ra một đốm lửa của sự thiện vẫn đang cháy leo lét nơi tâm hồn những người đang lạc xa Chúa. Ước gì chúng con biết nhìn các tội nhân công khai bằng ánh mắt nhân từ bao dung của Chúa, dám hy vọng vào thiện chí hoán cải của họ, và kêu gọi mọi người cùng hợp tác để xua tan cái xấu cái ác ra khỏi gia đình, khu xóm, trường học, và công sở ... Nhờ đó, thế giới hôm nay sẽ được biến đổi ngày một tốt hơn, chan hòa tình người hơn và an bình hạnh phúc hơn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
Hôm nay. . . được ơn cứu độ
Jos. Vinc. Ngọc Biển
16:36 30/10/2013
HÔM NAY...ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ
(Chúa Nhật 31 THƯỜNG NIÊN, C)
Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và ban cho con người được ơn cứu độ. Đây chính là bản chất của Thiên Chúa. Bởi vì: “ Thiên Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó” (Kn 11, 23-24).
Bài Tin Mừng hôm nay làm toát lên đặc tính đó khi Đức Giêsu chủ động gọi Giakêu và vào nhà ông cũng như dùng bữa mặc cho người ta sầm xì bàn tán: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi" (Lc 19,7). Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa không quan tâm đến quá khứ của con người, nhưng Ngài để ý đến giây phút hiện tại, sự thiện chí và ngay lành của họ để ban ơn cứu độ.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, đây là chặng cuối cùng trên đường lên Giêrusalem để thực thi sứ vụ cứu chuộc của Ngài bằng cái chết trên thập giá. Trên lộ trình ấy, có dân chúng theo sau Ngài khá đông. Tuy nhiên, trong đám người đó có Giakêu, ông là: “thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có” (Lc 19, 2). Như vậy, ông là một vị quan chức cấp cao. Nhưng chớ trêu thay, ông lại lùn, mà đám người thì lại quá đông, nên ông ta phải trèo lên cây sung để mong được nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua, người mà ông đã mong ngóng đợi trông từ lâu.
Nói đến Gia Kêu là người thu thuế, người Do Thái thường có những dị nghị về hạng người như ông và họ xếp ông chung với hạng đĩ điếm, trộm cắp, là những người làm tay sai cho đế quốc La Mã, vì thế họ là những người phản quốc, hại dân. Khi gặp họ, người Do Thái tránh xa như tránh dịch. Không ai được phép giao du với những con người như thế. Bởi vì đây là người tội lỗi tầy trời, đồ thối tha dơ bẩn. Khi đi ngang qua người ấy, người ta sẵn sàng nhổ nước miếng tỏ lòng khinh bỉ...
Tuy bị người ta khinh thị như thế, nhưng ông nhất quyết không chịu khuất phục trước đám đông cũng như vượt lên trên dư luận, và nhất là vượt lên trên mặc cảm tự ty của mình để trèo lên cây sung với hy vọng được tận mắt nhìn thấy Đấng Kitô, Ngài là Cứu Chúa của mình và toàn dân. Để được thấy Chúa, ông phải dùng đến một cách thế xem ra hơi lố bịch với người có địa vị như ông. Thật thế, sự quyết tâm của ông rất mãnh liệt. Sở dĩ ông vượt qua được dư luận như vậy là vì ông đang có một nỗi đam mê lớn lao. Đam mê ấy của ông chính là Giêsu, con người mà ông đang mong đợi. Sự kiên quyết của ông không chỉ đơn thuần là sự tò mò, mà đây còn là khởi điểm của hành trình đức tin nơi ông.
Đức Giêsu đã không để cho ông thất vọng khi gọi chính tên ông: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi" (Lc 19, 5). Theo lối hiểu của Kinh Thánh, gọi tên ai là biểu hiện của việc biết rõ về người ấy và có một mối tương quan thân tình với người được gọi. Hôm nay, Chúa gọi ông, vậy Chúa biết rất rõ lòng ông và muốn ông trở về với con người lương thiện, công chính của ông, bởi vì tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”, hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn trở thành người nhà của ông khi nói: “hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Như vậy, nếu hiểu qua, Giakêu hôm nay đi tìm Chúa, nhưng thực ra Chúa đã đi tìm ông trước.
Thật vậy, người đời thường nói: “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn” Đức Giêsu cũng nói: “Đèn của thân thể là con mắt” (Mt 6,22t; x. Lc 11,34t). Hôm nay, Đức Giêsu nhìn Giakêu, nhưng cái nhìn của Chúa là một cái nhìn mang tính chinh phục, cảm hóa tâm hồn, cái nhìn nhân từ, thương xót, cái nhìn cứu độ. Chính cái nhìn này đã đi lọt vào trong tâm hồn của Giakêu và như một lời cật vấn lương tâm của ông. Và cũng chính cái nhìn nhiệm mầu này đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Nếu ánh mắt của Đức Giêsu là ánh mắt nhân từ, yêu thương, thì ánh mắt của Giakêu là ánh mắt sám hối, tin tưởng. Chúa Giê su chủ động tìm ông vì Ngài không muốn ông sống mãi trong tình trạng tội lỗi như hiện thời nữa. Đây cũng chính là sứ vụ cứu chuộc của đức Giê su. (x. Lc 19,10). Tội của ông rất lớn, vì ông không phải là một người thu thuế thường, mà lại là một thủ lãnh những người thu thuế. Nhưng: “Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản chất của Thiên Chúa” (A.Pope).
"Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi" (Lc 19, 5). Câu nói này của Đức Giêsu làm cho ông không tưởng! Làm sao mình lại được diễm phúc như vậy? Làm sao Chúa lại vào nhà ông, một người tội lỗi tầy trời như thế? Chưa hết bàng hoàng, vì Chúa gọi đúng tên ông, nhưng ông đã mau mắn tụt xuống khỏi cây sung và sẵn sàng mở rộng tấm lòng để đón tiếp Đức Giêsu vào nhà ông. Hành động tụt xuống của ông cho ta thấy, từ đây ông dốc quyết quay lưng lại với con đường tội lỗi, không kiêu ngạo, không bóc lột, không hà hiếp và không làm những điều sai quấy chống lại nhân dân nữa... và, ông đã biểu hiện tấm lòng sám hối chân thành ấy bằng việc thực thi đức công bằng và sống đức bác ái: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn" (Lc 19, 8).
Không vui và thay đổi sao được khi cả một xã hội khinh miệt và coi thường ông, thì một Đức Giêsu; một Cứu Chúa lại sẵn sàng vào nhà mình. Giờ đây, với ông, cuộc gặp gỡ này là một cuộc gặp gỡ của tình yêu. Tình yêu đi bước trước là Đức Giêsu, và ông thực sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho ông, nên tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đã biến đổi ông, tình yêu đã gợi lại cho ông lòng bác ái và lẽ công bằng, và tình yêu đã hướng dẫn ông và dẫn ông đến hành động là đức ái. Tại sao ông lại can đảm để cho lương tâm lên tiếng? Tại sao ông lại có được lòng quảng đại như vậy? Thưa chỉ một lẽ rất đơn giản là vì ông đã được tha thứ và được yêu nhiều. Lời tuyên bố của Đức Giêsu đã là một lời minh chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho ông: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất" (Lc 19, 9).
Thật vậy, Gia kêu hôm nay đã chuộc tội của mình bằng việc bác ái, và ông đáng được hưởng ơn cứu độ: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11). Trong sách Tiên tri Đaniel có viết: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn 4,24). Và sách công vụ Tông đồ cũng có câu: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4). Gia kêu đáng cứu độ, vì lòng đơn sơ của ông xuất phát từ sự khiêm nhường, và khiêm nhường lại là linh hồn của đức đơn sơ.
2. Sứ Điệp Lời Chúa Hôm Nay
Đã là con người, ai cũng có những thiếu xót bất toàn. Điều quan trọng là chúng ta có dám tụt xuống khỏi cây sung để gặp được Chúa như Gia Kêu hay không?
Khi Gia kêu trèo lên cây sung, ông nghĩ sẽ nhìn thấy Chúa rõ ràng hơn, nhưng Chúa lại không để ông ở trên đó, có lẽ vì Chúa muốn ông phải trở về cuộc sống đời thường, phải sống thật sự chân thành, khiêm nhường thì mới gặp được Chúa. Bản chất của con người là: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tuy nhiên với năm tháng và môi trường nghề nghiệp, nhiều khi con người dễ bị tha hóa.... Nhưng không phải vì con người tha hóa do môi trường, nghề nghiệp mà không thể hoán cải được. Không! Con người vẫn có thể trở nên tốt nếu họ có cơ hội. Cơ hội đó có thể đến từ chính họ, và đôi khi cũng phải đến từ phía chúng ta...Ông Giakêu hôm nay ông đã gặp được Chúa, nên cuộc đổi đời của ông thành công, còn nếu ông mà gặp người Biệt Phái thì có lẽ ông đã xấu lại còn xấu thêm...
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa, chẳng có ai là người trong sạch hoàn toàn. Vấn đề đặt ra đó là thái độ của chúng ta có quyết tâm quay lại với Chúa hay không thôi. Bên giáo lý nhà Phật có câu: “Quay đầu là bờ”, tức là đừng đi theo con đường tỗi lỗi nữa, mà hãy quay lại nẻo chính đường ngay thì mới được giác ngộ. Chúng ta đừng kiêu ngạo và tự cho mình là tốt lành thánh thiện trước mắt Chúa. Chúng ta cũng đừng coi thường hay khinh bỉ người khác như người Do thái khi xưa: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Coi chừng, chính chúng ta đang có nguy cơ xa dần và đánh mất ơn cứu độ ngay trong khi nhân danh sự tốt lành, thánh thiện kiểu mồ mả. Khi nói về sự giả tạo, Đức Giê su đã lấy hình ảnh nấm mồ để vạch trần sự gian trá của những người tự coi mình là đạo đức và coi khinh người khác: “Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác” (Mt 23,27-28;x. Lc 11,44). Thánh Phaolô cảnh giác chúng ta : “Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã” (1 Cr 10, 12).
Lời Chúa hôm nay cũng muốn cho chúng ta thấy: cần phải có sự cảm thông, xóa bỏ mặc cảm để đến với người tội lỗi với lòng bao dung, tha thứ như Thiên Chúa. Đây cũng chính là liều thuốc bình an mà Đức Giêsu đã dùng cho những người mà Ngài gặp gỡ... Một Đức Giêsu không hề coi thường những người tội lỗi, nào là: đĩ điếm, thu thuế... Ngài không coi thường không có nghĩa là ủng hộ, cổ súy cho những hành vi sai trái của họ, không! Ngài muốn cải hóa họ bằng tình yêu, chỉ có tình yêu mới có thể đem lại cho người ta một sự hoán cải sâu xa mà thôi. Có thể nói: sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường; hay các thánh là ai? Thưa các Ngài là những người 99 lần ngã, nhưng lần cuối cùng thì đứng dạy luôn (x. Đương Hy Vọng).
Ngày hôm nay, biết bao người đang xa dần Thiên Chúa. Họ rời xa Thiên Chúa và Giáo Hội đôi khi chỉ vì những miếng cơm manh áo. Và đôi khi tìm mọi cách để chỉ vì no cái bụng, ấm cái thân mà quên đi công lý, tình thương. Họ sẵn sàng buôn gian bán lậu; chà đạp người khác để mình sống; tham nhũng, bóc lột, nói chung, bất chấp tất cả miễn sao có tiền. Vụ bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường và nhân viên trong tiệm thẩm mỹ viện Cát Tường làm chết người, ném xác xuống sông để phi tang là một điển hình cho những người chỉ vì tiền mà không hề có lương tâm...
Mong thay, trong xã hội ngày nay, nhiều người nhận ra và dám sống theo lương tâm; đồng thời bạn và tôi, chúng ta hãy ý thức một điều căn bản là: có một lúc nào đó tiền bạc không đem lại cho ta niềm hạnh phúc thật. Chức quyền không đảm bảo được cuộc sống mai sau. Chỉ có Chúa mới là nguồn bình an, niềm vui và hạnh phúc thật, bởi vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn biến đổi như Giakêu khi xưa. Xin cũng ban cho chúng con biết yêu thương mọi người và sẵn sàng thực thi bác ái trong tinh thần Kitô giáo. Được như thế, chúng con tin tưởng và hy vọng sẽ được ơn cứu độ của Chúa như khi xưa Chúa đã chúc phúc và trao ban cho Giakêu. Amen.
(Chúa Nhật 31 THƯỜNG NIÊN, C)
Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và ban cho con người được ơn cứu độ. Đây chính là bản chất của Thiên Chúa. Bởi vì: “ Thiên Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó” (Kn 11, 23-24).
Bài Tin Mừng hôm nay làm toát lên đặc tính đó khi Đức Giêsu chủ động gọi Giakêu và vào nhà ông cũng như dùng bữa mặc cho người ta sầm xì bàn tán: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi" (Lc 19,7). Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa không quan tâm đến quá khứ của con người, nhưng Ngài để ý đến giây phút hiện tại, sự thiện chí và ngay lành của họ để ban ơn cứu độ.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, đây là chặng cuối cùng trên đường lên Giêrusalem để thực thi sứ vụ cứu chuộc của Ngài bằng cái chết trên thập giá. Trên lộ trình ấy, có dân chúng theo sau Ngài khá đông. Tuy nhiên, trong đám người đó có Giakêu, ông là: “thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có” (Lc 19, 2). Như vậy, ông là một vị quan chức cấp cao. Nhưng chớ trêu thay, ông lại lùn, mà đám người thì lại quá đông, nên ông ta phải trèo lên cây sung để mong được nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua, người mà ông đã mong ngóng đợi trông từ lâu.
Nói đến Gia Kêu là người thu thuế, người Do Thái thường có những dị nghị về hạng người như ông và họ xếp ông chung với hạng đĩ điếm, trộm cắp, là những người làm tay sai cho đế quốc La Mã, vì thế họ là những người phản quốc, hại dân. Khi gặp họ, người Do Thái tránh xa như tránh dịch. Không ai được phép giao du với những con người như thế. Bởi vì đây là người tội lỗi tầy trời, đồ thối tha dơ bẩn. Khi đi ngang qua người ấy, người ta sẵn sàng nhổ nước miếng tỏ lòng khinh bỉ...
Tuy bị người ta khinh thị như thế, nhưng ông nhất quyết không chịu khuất phục trước đám đông cũng như vượt lên trên dư luận, và nhất là vượt lên trên mặc cảm tự ty của mình để trèo lên cây sung với hy vọng được tận mắt nhìn thấy Đấng Kitô, Ngài là Cứu Chúa của mình và toàn dân. Để được thấy Chúa, ông phải dùng đến một cách thế xem ra hơi lố bịch với người có địa vị như ông. Thật thế, sự quyết tâm của ông rất mãnh liệt. Sở dĩ ông vượt qua được dư luận như vậy là vì ông đang có một nỗi đam mê lớn lao. Đam mê ấy của ông chính là Giêsu, con người mà ông đang mong đợi. Sự kiên quyết của ông không chỉ đơn thuần là sự tò mò, mà đây còn là khởi điểm của hành trình đức tin nơi ông.
Đức Giêsu đã không để cho ông thất vọng khi gọi chính tên ông: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi" (Lc 19, 5). Theo lối hiểu của Kinh Thánh, gọi tên ai là biểu hiện của việc biết rõ về người ấy và có một mối tương quan thân tình với người được gọi. Hôm nay, Chúa gọi ông, vậy Chúa biết rất rõ lòng ông và muốn ông trở về với con người lương thiện, công chính của ông, bởi vì tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”, hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn trở thành người nhà của ông khi nói: “hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Như vậy, nếu hiểu qua, Giakêu hôm nay đi tìm Chúa, nhưng thực ra Chúa đã đi tìm ông trước.
Thật vậy, người đời thường nói: “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn” Đức Giêsu cũng nói: “Đèn của thân thể là con mắt” (Mt 6,22t; x. Lc 11,34t). Hôm nay, Đức Giêsu nhìn Giakêu, nhưng cái nhìn của Chúa là một cái nhìn mang tính chinh phục, cảm hóa tâm hồn, cái nhìn nhân từ, thương xót, cái nhìn cứu độ. Chính cái nhìn này đã đi lọt vào trong tâm hồn của Giakêu và như một lời cật vấn lương tâm của ông. Và cũng chính cái nhìn nhiệm mầu này đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Nếu ánh mắt của Đức Giêsu là ánh mắt nhân từ, yêu thương, thì ánh mắt của Giakêu là ánh mắt sám hối, tin tưởng. Chúa Giê su chủ động tìm ông vì Ngài không muốn ông sống mãi trong tình trạng tội lỗi như hiện thời nữa. Đây cũng chính là sứ vụ cứu chuộc của đức Giê su. (x. Lc 19,10). Tội của ông rất lớn, vì ông không phải là một người thu thuế thường, mà lại là một thủ lãnh những người thu thuế. Nhưng: “Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản chất của Thiên Chúa” (A.Pope).
"Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi" (Lc 19, 5). Câu nói này của Đức Giêsu làm cho ông không tưởng! Làm sao mình lại được diễm phúc như vậy? Làm sao Chúa lại vào nhà ông, một người tội lỗi tầy trời như thế? Chưa hết bàng hoàng, vì Chúa gọi đúng tên ông, nhưng ông đã mau mắn tụt xuống khỏi cây sung và sẵn sàng mở rộng tấm lòng để đón tiếp Đức Giêsu vào nhà ông. Hành động tụt xuống của ông cho ta thấy, từ đây ông dốc quyết quay lưng lại với con đường tội lỗi, không kiêu ngạo, không bóc lột, không hà hiếp và không làm những điều sai quấy chống lại nhân dân nữa... và, ông đã biểu hiện tấm lòng sám hối chân thành ấy bằng việc thực thi đức công bằng và sống đức bác ái: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn" (Lc 19, 8).
Không vui và thay đổi sao được khi cả một xã hội khinh miệt và coi thường ông, thì một Đức Giêsu; một Cứu Chúa lại sẵn sàng vào nhà mình. Giờ đây, với ông, cuộc gặp gỡ này là một cuộc gặp gỡ của tình yêu. Tình yêu đi bước trước là Đức Giêsu, và ông thực sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho ông, nên tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đã biến đổi ông, tình yêu đã gợi lại cho ông lòng bác ái và lẽ công bằng, và tình yêu đã hướng dẫn ông và dẫn ông đến hành động là đức ái. Tại sao ông lại can đảm để cho lương tâm lên tiếng? Tại sao ông lại có được lòng quảng đại như vậy? Thưa chỉ một lẽ rất đơn giản là vì ông đã được tha thứ và được yêu nhiều. Lời tuyên bố của Đức Giêsu đã là một lời minh chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho ông: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất" (Lc 19, 9).
Thật vậy, Gia kêu hôm nay đã chuộc tội của mình bằng việc bác ái, và ông đáng được hưởng ơn cứu độ: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11). Trong sách Tiên tri Đaniel có viết: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn 4,24). Và sách công vụ Tông đồ cũng có câu: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4). Gia kêu đáng cứu độ, vì lòng đơn sơ của ông xuất phát từ sự khiêm nhường, và khiêm nhường lại là linh hồn của đức đơn sơ.
2. Sứ Điệp Lời Chúa Hôm Nay
Đã là con người, ai cũng có những thiếu xót bất toàn. Điều quan trọng là chúng ta có dám tụt xuống khỏi cây sung để gặp được Chúa như Gia Kêu hay không?
Khi Gia kêu trèo lên cây sung, ông nghĩ sẽ nhìn thấy Chúa rõ ràng hơn, nhưng Chúa lại không để ông ở trên đó, có lẽ vì Chúa muốn ông phải trở về cuộc sống đời thường, phải sống thật sự chân thành, khiêm nhường thì mới gặp được Chúa. Bản chất của con người là: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tuy nhiên với năm tháng và môi trường nghề nghiệp, nhiều khi con người dễ bị tha hóa.... Nhưng không phải vì con người tha hóa do môi trường, nghề nghiệp mà không thể hoán cải được. Không! Con người vẫn có thể trở nên tốt nếu họ có cơ hội. Cơ hội đó có thể đến từ chính họ, và đôi khi cũng phải đến từ phía chúng ta...Ông Giakêu hôm nay ông đã gặp được Chúa, nên cuộc đổi đời của ông thành công, còn nếu ông mà gặp người Biệt Phái thì có lẽ ông đã xấu lại còn xấu thêm...
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa, chẳng có ai là người trong sạch hoàn toàn. Vấn đề đặt ra đó là thái độ của chúng ta có quyết tâm quay lại với Chúa hay không thôi. Bên giáo lý nhà Phật có câu: “Quay đầu là bờ”, tức là đừng đi theo con đường tỗi lỗi nữa, mà hãy quay lại nẻo chính đường ngay thì mới được giác ngộ. Chúng ta đừng kiêu ngạo và tự cho mình là tốt lành thánh thiện trước mắt Chúa. Chúng ta cũng đừng coi thường hay khinh bỉ người khác như người Do thái khi xưa: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Coi chừng, chính chúng ta đang có nguy cơ xa dần và đánh mất ơn cứu độ ngay trong khi nhân danh sự tốt lành, thánh thiện kiểu mồ mả. Khi nói về sự giả tạo, Đức Giê su đã lấy hình ảnh nấm mồ để vạch trần sự gian trá của những người tự coi mình là đạo đức và coi khinh người khác: “Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác” (Mt 23,27-28;x. Lc 11,44). Thánh Phaolô cảnh giác chúng ta : “Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã” (1 Cr 10, 12).
Lời Chúa hôm nay cũng muốn cho chúng ta thấy: cần phải có sự cảm thông, xóa bỏ mặc cảm để đến với người tội lỗi với lòng bao dung, tha thứ như Thiên Chúa. Đây cũng chính là liều thuốc bình an mà Đức Giêsu đã dùng cho những người mà Ngài gặp gỡ... Một Đức Giêsu không hề coi thường những người tội lỗi, nào là: đĩ điếm, thu thuế... Ngài không coi thường không có nghĩa là ủng hộ, cổ súy cho những hành vi sai trái của họ, không! Ngài muốn cải hóa họ bằng tình yêu, chỉ có tình yêu mới có thể đem lại cho người ta một sự hoán cải sâu xa mà thôi. Có thể nói: sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường; hay các thánh là ai? Thưa các Ngài là những người 99 lần ngã, nhưng lần cuối cùng thì đứng dạy luôn (x. Đương Hy Vọng).
Ngày hôm nay, biết bao người đang xa dần Thiên Chúa. Họ rời xa Thiên Chúa và Giáo Hội đôi khi chỉ vì những miếng cơm manh áo. Và đôi khi tìm mọi cách để chỉ vì no cái bụng, ấm cái thân mà quên đi công lý, tình thương. Họ sẵn sàng buôn gian bán lậu; chà đạp người khác để mình sống; tham nhũng, bóc lột, nói chung, bất chấp tất cả miễn sao có tiền. Vụ bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường và nhân viên trong tiệm thẩm mỹ viện Cát Tường làm chết người, ném xác xuống sông để phi tang là một điển hình cho những người chỉ vì tiền mà không hề có lương tâm...
Mong thay, trong xã hội ngày nay, nhiều người nhận ra và dám sống theo lương tâm; đồng thời bạn và tôi, chúng ta hãy ý thức một điều căn bản là: có một lúc nào đó tiền bạc không đem lại cho ta niềm hạnh phúc thật. Chức quyền không đảm bảo được cuộc sống mai sau. Chỉ có Chúa mới là nguồn bình an, niềm vui và hạnh phúc thật, bởi vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn biến đổi như Giakêu khi xưa. Xin cũng ban cho chúng con biết yêu thương mọi người và sẵn sàng thực thi bác ái trong tinh thần Kitô giáo. Được như thế, chúng con tin tưởng và hy vọng sẽ được ơn cứu độ của Chúa như khi xưa Chúa đã chúc phúc và trao ban cho Giakêu. Amen.
Hãy cầu nguyện cho các linh hồn
Jos. Vinc. Ngọc Biển
16:37 30/10/2013
HÃY CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN
(LỄ CÁC LINH HỒN 2013)
Người Á Đông chúng ta nói chung và người Việt nam nói riêng, rất coi trọng chữ hiếu. Nhiều nước còn đưa chữ hiếu lên thành đạo. Nói về lòng biết ơn, người ta thường nhắc con cháu ngược dòng lịch sử để nhớ về cội nguồn: “Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn”. Hay: “con ai chẳng là con cha, cháu ai là chẳng cháu bà cháu ông” (ca dao tục ngữ Việt Nam). Vì thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên là bổn phận phải làm đối với thế hệ hậu sinh.
Người Tây phương, họ không nâng lên thành đạo, nhưng họ lại không dừng lại ở chữ hiếu, mà con dành riêng ra hai ngày để nói lên lòng biết ơn đối với bậc sinh thành, đó là ngày của mẹ (mother’s. day) vào ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm và ngày của cha (father’s. day) vào ngày Chúa Nhật thứ ba trong tháng sáu.
Còn với Đạo Phật, người ta dành ngày rằm tháng 07 âm lịch và Mùa Vu Lan báo hiếu để nói lên lòng biết ơn Tam Bảo và hiếu nghĩa với mẹ cha.
Với đạo Công Giáo, trong vai trò Giáo Huấn của mình, Giáo Hội luôn nhắc con cái của mình hãy nhớ công sơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên: “Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền.Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân”(Cn 6,20,23). Vì thế, Giáo Hội Công Giáo, đã dành trọn tháng 11 hằng năm, để cầu nguyện cho các linh hồn. Trong tháng 11 này, nhiều hoạt động mang tính hiếu nghĩa được thực hiện như: xin lễ cầu cho ông bà tổ tiên, viếng nghĩa địa (vườn thánh), chỉnh trang những ngôi mộ cho mới hơn và nếu thuận tiện thì nhiều gia đình cũng tảo mộ nữa....
Thánh Công Đồng Vatican II cũng nói trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh..."; "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...". Sự trao đi nhận lại này nói lên tinh thần hiệp thông, bổn phận và đức ái.
Hôm nay, Giáo Hội hoàn vũ dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn, tại Việt Nam, nhiều nơi có truyền thống dâng thánh lễ tại nghĩa địa (vườn thánh). Khi tham dự thánh lễ ngoài nghĩa địa như thế, chúng ta quây quần bên cạnh các ngôi mộ của người thân. Hẳn lòng không khỏi bùi ngùi khi thắp que nhang, cây nến để tưởng nhớ người đã khuất. Rồi sốt sắng tham dự thánh lễ để cầu nguyện cho các ngài sớm được về nơi hạnh phúc và bình an. Lời bài hát mà mỗi khi thánh lễ an táng được cử hành, chúng ta thường hay hát: “Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy”. Khi hát như thế, chúng ta biểu hiện niềm tin của mình thật mạnh mẽ vào sự sống đời sau, vì chết không phải là hết. Chết chỉ là cửa ngõ để bước vào sự sống vĩnh cửu. Khi cầu nguyện như thế, ấy là lúc chúng ta đang sống niềm tin của mình vào Đấng đã Phục Sinh từ cõi chết và, mong sao người thân của chúng ta đã lìa đời cũng được phục sinh như vậy. Tuy nhiên, Giáo lý Công Giáo dạy chúng ta rằng: có thiên đàng để thưởng người lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết. Như vậy, khi ở bên nấm mồ của người đã khuất, gợi cho chúng ta ý thức về sự linh thiêng và hiệp thông sâu xa trong mầu nhiệm Các Thánh cùng thông công.
Khi sống mầu nhiệm hiệp thông này, có lẽ không gì quý hơn là chúng ta cầu nguyện cho các ngài, bởi vì các ngài chưa được về cùng Chúa, nên các ngài còn bị giam cầm trong luyện ngục để thanh luyện cho tinh ròng trước khi được diện kiến tôn nhan Chúa cách trọn vẹn.
Các linh hồn chính là những người trước đó đã từng sống với chúng ta. Các ngài là cha mẹ, ông bà, tổ tiên, là những người ân nhân, thân nhân, là ông hàng xóm, là bà bán rau, là cháu học sinh... Các ngài là những người đã ra đi trước chúng ta để trở về với nơi mà từ bụi đất mình đã là khởi điểm kiếp người. Khi cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta thể hiện lòng biết ơn, là sống tinh thần hiệp thông, liên đới trong đức ái. Không lẽ chúng ta bỏ mặc các ngài trong khi các ngài không thể làm gì hơn được nữa để cứu lấy chính mình?.
Cầu nguyện cho các linh hồn còn là một bổn phận mà xét theo sự liên đới đây thì đây chính là lẽ công bằng, bởi vì biết bao điều tốt đẹp các ngài đã làm cho chúng ta khi còn sống, đôi khi vì chúng ta, mà các ngài phải chịu liên lụy và phải đền bù trong luyện ngục. Như vậy, trong thiếu xót, bất toàn của các ngài, chúng ta một phần có trách nhiệm, nên việc cầu nguyện cho các linh hồn chính là lẽ công bằng buộc chúng ta phải làm vì lòng biết ơn các ngài... Sự hy sinh của các ngài thật lớn lao, không bút nào viết cho hết, không miệng nào kể cho xuể. Quả thật, chúng ta được lớn khôn và nên người là nhờ vào sự vất vả một nắng hai sương, suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời của cha mẹ, ông bà.... Từ những đêm thức trắng lo toan, ' Gió mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh chày thức đủ trọn năm'' đến những ngày ngược xuôi bươn trải để kiếm cho con cháu chén cơm ăn cho ấm lòng, chiếc áo ấm che thân khi trời lạnh, mấy đồng xu cho ta học hành, thuốc thang... Cha mẹ chấp nhận tất cả để miễn sao cho con cái có tiếng cười, được hạnh phúc và bình an. Như vậy trong sự sung túc, niềm vui của chúng ta có đau khổ (sự chết) của đấng sinh thành.
Hãy cầu nguyện cho các linh hồn vì đây là việc làm có giá trị hơn hết, bởi vì trong Giáo Hội, chúng ta sống mầu nhiệm hiệp thông. Hôm nay chúng ta dâng lễ, những hy sinh, lời cầu nguyện cho các linh hồn sớm được siêu thoát, để các ngài trở nên những vị thánh trước tòa Chúa, các ngài lại cầu nguyện cho chúng ta.
Và mỗi khi đứng trước nghĩa địa, trước các phần mộ của người thân, hay chứng kiến một đám tang nào đó, ta hãy nhớ rằng một ngày nào đó tôi cũng sẽ phải chết như họ. Nghĩ được như thế, ấy là dịp chúng ta nghĩ đến thân phận mong manh của kiếp người. Nghĩ được như thế, là ta chuẩn bị cho hành trang về với Chúa qua những cái giấy thông hành được kết tinh từ những những việc lành phúc đức, những hy sinh... Nghĩ được như vậy, là ta đang tiến dần đến sự sống. Nói như thánh Phaolô thì: “Mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết”. Đối diện với nó để ta chuẩn bị cho ngày cái chết đến rước chúng ta về với Chúa trong thanh thản và bình an.
Lạy Chúa, mỗi khi chúng con đứng trước nấm mộ của người thân, xin cho chúng con biết nhớ đến các linh hồn để cầu nguyện cho các ngài, và xin cũng cho chúng con ý thức được thân phận mỏng manh của kiếp người để sám hối và chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình có ý nghĩa. Ước gì mai sau chúng con cũng được hợp cùng các bậc tổ tiên để ca ngợi Chúa không ngừng trên Thiên Quốc. Amen.
(LỄ CÁC LINH HỒN 2013)
Người Á Đông chúng ta nói chung và người Việt nam nói riêng, rất coi trọng chữ hiếu. Nhiều nước còn đưa chữ hiếu lên thành đạo. Nói về lòng biết ơn, người ta thường nhắc con cháu ngược dòng lịch sử để nhớ về cội nguồn: “Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn”. Hay: “con ai chẳng là con cha, cháu ai là chẳng cháu bà cháu ông” (ca dao tục ngữ Việt Nam). Vì thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên là bổn phận phải làm đối với thế hệ hậu sinh.
Người Tây phương, họ không nâng lên thành đạo, nhưng họ lại không dừng lại ở chữ hiếu, mà con dành riêng ra hai ngày để nói lên lòng biết ơn đối với bậc sinh thành, đó là ngày của mẹ (mother’s. day) vào ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm và ngày của cha (father’s. day) vào ngày Chúa Nhật thứ ba trong tháng sáu.
Còn với Đạo Phật, người ta dành ngày rằm tháng 07 âm lịch và Mùa Vu Lan báo hiếu để nói lên lòng biết ơn Tam Bảo và hiếu nghĩa với mẹ cha.
Với đạo Công Giáo, trong vai trò Giáo Huấn của mình, Giáo Hội luôn nhắc con cái của mình hãy nhớ công sơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên: “Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền.Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân”(Cn 6,20,23). Vì thế, Giáo Hội Công Giáo, đã dành trọn tháng 11 hằng năm, để cầu nguyện cho các linh hồn. Trong tháng 11 này, nhiều hoạt động mang tính hiếu nghĩa được thực hiện như: xin lễ cầu cho ông bà tổ tiên, viếng nghĩa địa (vườn thánh), chỉnh trang những ngôi mộ cho mới hơn và nếu thuận tiện thì nhiều gia đình cũng tảo mộ nữa....
Thánh Công Đồng Vatican II cũng nói trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh..."; "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...". Sự trao đi nhận lại này nói lên tinh thần hiệp thông, bổn phận và đức ái.
Hôm nay, Giáo Hội hoàn vũ dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn, tại Việt Nam, nhiều nơi có truyền thống dâng thánh lễ tại nghĩa địa (vườn thánh). Khi tham dự thánh lễ ngoài nghĩa địa như thế, chúng ta quây quần bên cạnh các ngôi mộ của người thân. Hẳn lòng không khỏi bùi ngùi khi thắp que nhang, cây nến để tưởng nhớ người đã khuất. Rồi sốt sắng tham dự thánh lễ để cầu nguyện cho các ngài sớm được về nơi hạnh phúc và bình an. Lời bài hát mà mỗi khi thánh lễ an táng được cử hành, chúng ta thường hay hát: “Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy”. Khi hát như thế, chúng ta biểu hiện niềm tin của mình thật mạnh mẽ vào sự sống đời sau, vì chết không phải là hết. Chết chỉ là cửa ngõ để bước vào sự sống vĩnh cửu. Khi cầu nguyện như thế, ấy là lúc chúng ta đang sống niềm tin của mình vào Đấng đã Phục Sinh từ cõi chết và, mong sao người thân của chúng ta đã lìa đời cũng được phục sinh như vậy. Tuy nhiên, Giáo lý Công Giáo dạy chúng ta rằng: có thiên đàng để thưởng người lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết. Như vậy, khi ở bên nấm mồ của người đã khuất, gợi cho chúng ta ý thức về sự linh thiêng và hiệp thông sâu xa trong mầu nhiệm Các Thánh cùng thông công.
Khi sống mầu nhiệm hiệp thông này, có lẽ không gì quý hơn là chúng ta cầu nguyện cho các ngài, bởi vì các ngài chưa được về cùng Chúa, nên các ngài còn bị giam cầm trong luyện ngục để thanh luyện cho tinh ròng trước khi được diện kiến tôn nhan Chúa cách trọn vẹn.
Các linh hồn chính là những người trước đó đã từng sống với chúng ta. Các ngài là cha mẹ, ông bà, tổ tiên, là những người ân nhân, thân nhân, là ông hàng xóm, là bà bán rau, là cháu học sinh... Các ngài là những người đã ra đi trước chúng ta để trở về với nơi mà từ bụi đất mình đã là khởi điểm kiếp người. Khi cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta thể hiện lòng biết ơn, là sống tinh thần hiệp thông, liên đới trong đức ái. Không lẽ chúng ta bỏ mặc các ngài trong khi các ngài không thể làm gì hơn được nữa để cứu lấy chính mình?.
Cầu nguyện cho các linh hồn còn là một bổn phận mà xét theo sự liên đới đây thì đây chính là lẽ công bằng, bởi vì biết bao điều tốt đẹp các ngài đã làm cho chúng ta khi còn sống, đôi khi vì chúng ta, mà các ngài phải chịu liên lụy và phải đền bù trong luyện ngục. Như vậy, trong thiếu xót, bất toàn của các ngài, chúng ta một phần có trách nhiệm, nên việc cầu nguyện cho các linh hồn chính là lẽ công bằng buộc chúng ta phải làm vì lòng biết ơn các ngài... Sự hy sinh của các ngài thật lớn lao, không bút nào viết cho hết, không miệng nào kể cho xuể. Quả thật, chúng ta được lớn khôn và nên người là nhờ vào sự vất vả một nắng hai sương, suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời của cha mẹ, ông bà.... Từ những đêm thức trắng lo toan, ' Gió mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh chày thức đủ trọn năm'' đến những ngày ngược xuôi bươn trải để kiếm cho con cháu chén cơm ăn cho ấm lòng, chiếc áo ấm che thân khi trời lạnh, mấy đồng xu cho ta học hành, thuốc thang... Cha mẹ chấp nhận tất cả để miễn sao cho con cái có tiếng cười, được hạnh phúc và bình an. Như vậy trong sự sung túc, niềm vui của chúng ta có đau khổ (sự chết) của đấng sinh thành.
Hãy cầu nguyện cho các linh hồn vì đây là việc làm có giá trị hơn hết, bởi vì trong Giáo Hội, chúng ta sống mầu nhiệm hiệp thông. Hôm nay chúng ta dâng lễ, những hy sinh, lời cầu nguyện cho các linh hồn sớm được siêu thoát, để các ngài trở nên những vị thánh trước tòa Chúa, các ngài lại cầu nguyện cho chúng ta.
Và mỗi khi đứng trước nghĩa địa, trước các phần mộ của người thân, hay chứng kiến một đám tang nào đó, ta hãy nhớ rằng một ngày nào đó tôi cũng sẽ phải chết như họ. Nghĩ được như thế, ấy là dịp chúng ta nghĩ đến thân phận mong manh của kiếp người. Nghĩ được như thế, là ta chuẩn bị cho hành trang về với Chúa qua những cái giấy thông hành được kết tinh từ những những việc lành phúc đức, những hy sinh... Nghĩ được như vậy, là ta đang tiến dần đến sự sống. Nói như thánh Phaolô thì: “Mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết”. Đối diện với nó để ta chuẩn bị cho ngày cái chết đến rước chúng ta về với Chúa trong thanh thản và bình an.
Lạy Chúa, mỗi khi chúng con đứng trước nấm mộ của người thân, xin cho chúng con biết nhớ đến các linh hồn để cầu nguyện cho các ngài, và xin cũng cho chúng con ý thức được thân phận mỏng manh của kiếp người để sám hối và chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình có ý nghĩa. Ước gì mai sau chúng con cũng được hợp cùng các bậc tổ tiên để ca ngợi Chúa không ngừng trên Thiên Quốc. Amen.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:43 30/10/2013
NỬA NGƯỜI NỬA SƯ TỬ
Phạn Thiên đã hứa: ma vương Hy Lam A Ca Tây bất luận là ban ngày hay ban đêm, ở trong nhà hay ra ngoài thì đều có thể nhận được sự bảo hộ không bị sát hại.
Ma vương vì lời hứa này mà trở nên vênh vênh váo váo không tôn kính bất cứ vị thần nào, ngay cả con trai của ông ta là Phổ Lạp Hạ Đạt cũng không được kính bái đại thần Tì Thấp Nô, ông ta phái một bầy rắn đi cắn chết Phổ Lạp Hạ Đạt nhưng thất bại; tiếp theo ông ta phái một bầy voi đem Phổ Lạp Hạ Đạt quăng dưới vách núi nhưng cũng không sát hại được Phổ Lạp Hạ Đạt.
Một hôm trời chạng vạng tối, ma vương ở trước cửa cung điện giận dữ vừa đánh cột trụ đá vừa chưởi rủa:
- Thần Tì Thấp Bà vĩ đại trốn ở trong cột đá này sao ?
Lúc ấy đại thần Tì Thấp Bà nổi giận biến thành một con quái vật nửa người nửa sư tử từ trong cột đá nhảy ra vồ lấy ma vương xé nát vụn.
Bởi vì thời gian và địa điểm đó đều không thuộc trong phạm vi Phạn Thiên hứa, cho nên ma vương không được bảo vệ...
(Truyện thần thoại Ấn Độ)
Suy tư:
Truyện thần thoại thì coi tất cả các thiên thần đều không giống nhau, có đại thần và tiểu thần, có thần ác và thần dữ, nhưng các thần vẫn được hưởng chế độ của trời ban. Ma vương thì vẫn cứ là ma vương, dù được cấp trên bao bọc đỡ che nhưng bản chất ma vương vẫn cứ tồn tại tác oai tác quái không coi ai ra gì cả, nên càng bị phạt thê thảm...
Theo lời dạy của Đức Chúa Giê-su thì ma quỷ là loài có thật, giáo huấn của Giáo Hội cũng dạy cho chúng ta biết ma quỷ là sa-tan -đã từng cám dỗ Đức Chúa Giê-su- là nguyên nhân cản bước chúng ta đến với Thiên Chúa, và cám dỗ chúng ta chối bỏ ân sủng của Thiên Chúa để sống theo ý mình trong thế giới vật chất hưởng thụ này.
Trong cuộc sống hằng ngày, người Ki-tô hữu thường luôn tham dự thánh lễ và rước lễ, cầu nguyện, hy sinh, làm việc lành để chống trả với chước cám dỗ của ma quỷ, bởi vì linh hồn của mỗi người rất cao quý, cao quý vì đã được Máu Thánh của Đức Chúa Giê-su đổ ra để cứu chuộc họ khỏi tay của quỷ thần.
Ma quỷ vẫn cứ là ma quỷ, dù nó mặc dưới hình thức nào cũng vẫn cứ là ma quỷ, do đó mà Đức Chúa Giê-su dạy chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ.
--------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Phạn Thiên đã hứa: ma vương Hy Lam A Ca Tây bất luận là ban ngày hay ban đêm, ở trong nhà hay ra ngoài thì đều có thể nhận được sự bảo hộ không bị sát hại.
Ma vương vì lời hứa này mà trở nên vênh vênh váo váo không tôn kính bất cứ vị thần nào, ngay cả con trai của ông ta là Phổ Lạp Hạ Đạt cũng không được kính bái đại thần Tì Thấp Nô, ông ta phái một bầy rắn đi cắn chết Phổ Lạp Hạ Đạt nhưng thất bại; tiếp theo ông ta phái một bầy voi đem Phổ Lạp Hạ Đạt quăng dưới vách núi nhưng cũng không sát hại được Phổ Lạp Hạ Đạt.
Một hôm trời chạng vạng tối, ma vương ở trước cửa cung điện giận dữ vừa đánh cột trụ đá vừa chưởi rủa:
- Thần Tì Thấp Bà vĩ đại trốn ở trong cột đá này sao ?
Lúc ấy đại thần Tì Thấp Bà nổi giận biến thành một con quái vật nửa người nửa sư tử từ trong cột đá nhảy ra vồ lấy ma vương xé nát vụn.
Bởi vì thời gian và địa điểm đó đều không thuộc trong phạm vi Phạn Thiên hứa, cho nên ma vương không được bảo vệ...
(Truyện thần thoại Ấn Độ)
Suy tư:
Truyện thần thoại thì coi tất cả các thiên thần đều không giống nhau, có đại thần và tiểu thần, có thần ác và thần dữ, nhưng các thần vẫn được hưởng chế độ của trời ban. Ma vương thì vẫn cứ là ma vương, dù được cấp trên bao bọc đỡ che nhưng bản chất ma vương vẫn cứ tồn tại tác oai tác quái không coi ai ra gì cả, nên càng bị phạt thê thảm...
Theo lời dạy của Đức Chúa Giê-su thì ma quỷ là loài có thật, giáo huấn của Giáo Hội cũng dạy cho chúng ta biết ma quỷ là sa-tan -đã từng cám dỗ Đức Chúa Giê-su- là nguyên nhân cản bước chúng ta đến với Thiên Chúa, và cám dỗ chúng ta chối bỏ ân sủng của Thiên Chúa để sống theo ý mình trong thế giới vật chất hưởng thụ này.
Trong cuộc sống hằng ngày, người Ki-tô hữu thường luôn tham dự thánh lễ và rước lễ, cầu nguyện, hy sinh, làm việc lành để chống trả với chước cám dỗ của ma quỷ, bởi vì linh hồn của mỗi người rất cao quý, cao quý vì đã được Máu Thánh của Đức Chúa Giê-su đổ ra để cứu chuộc họ khỏi tay của quỷ thần.
Ma quỷ vẫn cứ là ma quỷ, dù nó mặc dưới hình thức nào cũng vẫn cứ là ma quỷ, do đó mà Đức Chúa Giê-su dạy chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ.
--------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:51 30/10/2013
Chương 48:
“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” (Mt 16, 25)
-------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
TỬ VÌ ĐẠO
“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” (Mt 16, 25)
N2T |
1. Máu của các thánh là hạt giống của giáo hữu, trồng một có thể thu hoạch trăm.
(Hiền sĩ Tertullian)-------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Chính sách ngoại giao của Tòa Thánh Vaticăng trong 50 năm qua
Linh Tiến Khải
10:54 30/10/2013
Phỏng vấn Đức Hồng Y Achille Silvestrini, nguyên Tổng Trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương
Ngày 25-10-2013 Đức Hồng Y Achille Silvestrini tròn 90 tuổi. Nhân dịp này Đức Hồng Y, nguyên Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, đã dành cho phóng viên Filippo Rizzi của nhật báo Tương Lai, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Đồng Giám Mục Italia, một bài phỏng vấn liên quan tới Công Đồng Chung Vaticăng II và đường lối ngoại giao của Tòa Thánh Vaticăng.
Đức Hồng Y Achille Silvestrini sinh năm 1923, thụ phong linh mục năm 1946. Sau khi đậu tiến sĩ Lưỡng Luật tại đại học Laterano, cha Silvestrini theo học Trường Ngoại Giao Tòa Thánh, và năm 1953 bắt đầu làm việc trong Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đặc trách các nước vùng Đông Nam Á. Từ năm 1958 Đức Ông Silvestrini là thư ký của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Domenico Tardini, và Đức Hồng Y Amleto Giovanni Cicongani cho tới năm 1969.
Như là người đặc trách các tương quan với các tổ chức quốc tế, Đức Ông Silvestrini đã là cộng sự viên của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh Agostino Casaroli, và trợ giúp người trong việc thực hiện chính sách cởi mở và đối thoại với các nước cộng sản Đông Âu. Đức Ông đã tham dự nhiều hội nghị quốc tế như: hội nghị Helsinki về an ninh và cộng tác Âu châu năm 1975, các cuộc họp chuẩn bị cho hội nghị này tại Genève năm 1973, hội nghị Belgrad để kiểm thực việc áp dụng. Đức Ông cũng đã hướng dẫn phái đoàn Tòa Thánh tham dự phiên họp của Liên Hiệp Quốc về việc sử dụng năng lượng hạt nhân cho các mục đích dân sự năm 1971; hội nghị về Thỏa hiệp không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1975.
Năm 1979 Đức Ông Silvestrini được chỉ định làm Thư ký phân bộ liên lạc với các nước của Tòa Thánh và được nâng lên hàng Tổng Giám Mục. Năm 1983 Đức Tổng Giám Muc Silvestrini đại diện Tòa Thánh tham dự Hội nghị an ninh và cộng tác Âu châu lần thứ ba tại Madrid. Ngài cũng là trưởng phái đoàn Tòa Thánh tham dự cuộc họp tái duyệt xét các Thỏa hiệp Laterano với chính phủ Italia năm 1984; cũng như tham dự các cuộc họp liên quan tới việc giải quyết cuộc tranh chấp quần đảo Falklands giữa Anh Quốc và Argentina, và cuộc cách mạng tại Nicaragua. Năm 1988 Đức Gioan Phaolô II vinh thăng Đức Cha Silvestrini làm Hồng Y. Sau đó ngài được chỉ định làm Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, cho tới khi về hưu năm 1999.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, 50 năm đã trôi qua kể từ khi Đức Gioan XXIII triệu tập Công Đồng Chung Vaticăng II ngày 11 tháng 10 năm 1962. Đức Hồng Y nghĩ gì về thời điểm này?
Đáp: Tôi tin rằng cần phải tái khởi hành từ Công Đồng Chung Vaticăng II, từ tất cả những gì chưa trở thành thực tại và cần được thi hành. Cùng với người bạn thân của tôi là Đức cố Hồng Y Carlo Maria Martini, trong các năm qua, biết bao lần chúng tôi thường tự vấn liên quan tới sự cấp thiết phải tìm ra một thứ ngôn ngữ mới để nói với nhân loại ngày nay, một cách đặc biệt với các thế hệ trẻ, và đưa ra các câu trả lời thích đáng cho xã hội tân tiến hiện nay. Thách đố chờ đợi Giáo Hội là ra khỏi các môi trường chật hẹp của các phòng thánh, trong một nghĩa nào đó là ”tự giải trừ giáo sĩ” cả với giáo dân nữa và sống Tin Mừng một cách đích thực. Tôi cho rằng Âu châu không còn có thể ghi dấu các biên giới của Giáo Hội học nữa. Một thí dụ? Việc bầu Đức Bergoglio làm Giáo Hoàng đã không chỉ có nghĩa của sự mới mẻ: người Kế vị thánh Phêrô đến từ một nước xa xôi. Cung cách là Giám Mục Roma không chỉ gợi ý việc tái phục hồi tính cách hoàn vũ trong sứ mệnh của Giáo Hội Công Giáo, mà cũng mời gọi tất cả mọi kitô hữu canh tân ngôn ngữ loan báo đức tin, như chúng ta đã thấy trong nền thần học cho đến nay. Việc bầu Đức Bergoglio, là người gắn bó với huấn quyền của Đức Gioan Phaolô II và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, có lẽ thúc giục chúng ta lấy lại các đề tài đã từng là trọng tâm của các cuộc thảo luận thời Công Đồng; tái khám phá ra bằng cách tiếp thu các bài học của những ngôn sứ như Lercaro và Dossetti, và vài ưu tiên làm thành căn tính của Giáo Hội, dấu ấn của Cộng Đồng Chung Vaticăng II như việc lựa chọn bênh vực người nghèo, theo đuổi hòa bình giữa các dân tộc và đối thoại với những người ở xa và những người không tin. Trong nền tảng, đó là việc thời sự hóa Công Đồng, trong các ý hướng của Đức Gioan XXIII. Nó đã và vẫn là một nhiệm vụ còn rộng mở ngày nay: khiến cho Tin Mừng đến với con tim của tất cả mọi người.
Hỏi: Đức Hồng Y có các kỷ niệm đặc biệt nào về các năm giao động thời Công Đồng Chung Vaticăng II hay không?
Đáp: Đó đã là các năm hoạt động rất mạnh mẽ, cho phép tôi, như là người soạn thảo các công văn của Tòa thánh thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh, học hỏi từ Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh thời đó là Đức Hồng Y Domenico Tardini, không chỉ liên quan tới tầm quan trọng của ngành ngoại giao, mà cả việc lắng nghe các tác nhân đối thoại nữa, trong thái độ dành ưu tiên cho tình bác ái. Tôi cũng không thể quên được việc chấp nhận vĩnh viễn tài liệu về tự do tôn giáo Dignitatis Humanae đã quan trọng thế nào đối với Đức Ông Pietro Pavan. Tôi thường nghĩ tới sự cay đắng và tiếng khóc của cha Pavan, khi người ta báo cho cha biết là tài liệu chắc sẽ không được chấp thuận. Nhưng trái lại ngày 21 tháng 9 năm 1965 tài liệu đã được các Nghị Phụ chấp thuận. Và thế là tiếng khóc của cha bất thình lình biến thành niềm vui.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, có rất ít người biết rằng bài phỏng vấn đầu tiên mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đồng ý cho nhà báo Alberto Cavallari của nhật báo ”Người đưa tin chiều” thực hiện, đã do trung gian của Đức Hồng Y. Đức Hồng Y có thể giải thích cho biết cuộc gặp gỡ này đã xảy ra như thế nào không?
Đáp: Tôi nhớ rằng nhà báo Alberto Cavallari đã được Đức Ông Pasquale Macchi, thư ký của Đức Phaolô VI, giới thiệu với tôi. Hồi đó ông ta đang làm một cuộc tìm hiểu sinh hoạt của nhiều cơ quan trung ương Tòa Thánh, và viết cuốn sách nổi tiếng tựa đề ”Vaticăng thay đổi”. Chính trong bối cảnh ấy đã nảy sinh ra một cuộc nói chuyện giữa ông Cavallari và Đức Phaolô VI, vị Giáo Hoàng vĩ đại người vùng Brescia. Tôi nhớ rằng ông Alfio Russo, Giám đốc nhật báo ”Người đưa tin chiều” đã gửi ông Cavallari tới Roma để theo dõi Công Đồng Chung Vaticăng II, để tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra trong Giáo Hội. Tôi tin rằng từ đó đã nảy sinh ra cuộc điều tra của ông ta, đạt tột đỉnh với bài phỏng vấn Đức Phaolô VI, trước khi Đức Phaolô VI viếng thăm Liên Hiệp Quốc và đọc diễn văn tại đây. Đây cũng là cuộc phỏng vấn đầu tiên, mà một vị Giáo Hoàng dành cho giới báo chí kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Và nhà báo Alberto Cavallari đã viết lại một mạch bài phỏng vấn trong một quán giải khát ở đại lộ Hòa Giải. Ông Cavallari sau này đã trở thành bạn thân của tôi.
Hỏi: Trong các năm làm việc Đức Hồng Y đã gặp gỡ nhiều nhân vật quan trọng, từ việc ký các thỏa hiệp quan trọng, nhưng nhất là một cuộc sống như nhân viên ngoại giao của Tòa Thánh và như là một mục tử. Đức Hồng Y có các kỷ niệm nào trong các năm đó, và khi nào thì đã xảy ra sự tan giá băng giữa Liên Bang Xô Viết và Tòa Thánh Vaticăng?
Đáp: Chính Công Đồng Chung Vaticăng II và thông điệp ”Hòa Bình dưới thế” trong các năm đó đã giúp thay đổi bầu khí với Liên Xô và mở ra các cuộc đối thoại. Dĩ nhiên là một gương mặt đặc sủng và trí thức tinh tế như Agostino Casaroli, Hồng Y tương lai, đã là một trong các kiến trúc sư của cuộc tan giá băng này. Nó đã đươc hướng dẫn bởi chính sách từng bước nhỏ. nhưng cũng được hướng dẫn bởi niềm hy vọng của những điều có thể làm được, như chính sách cởi mở đối với Đông Âu gọi là ”Ostpolitik”. Tôi nghĩ tới sự cẩn trọng của người như chuyến đi năm 1963 từ Vienne sang Buudapest, hay sự cẩn trọng và kiên nhẫn của người trong các hoàn cảnh khó khăn. Nếu chúng ta muốn nhận ra ý nghĩa của nền ngoại giao của Tòa Thánh Vaticăng, thì phải tìm nó trong chính các năm này. Nếu không có chúng, thì đã không có biến cố ngày mùng 6 tháng 10 năm 1978, khi Đức Karol Wojtila được bầu làm Giáo Hoàng lấy tên hiệu là Gioan Phaolô II. Trong đặc sủng của Đức Karol Wojtila, sự hiệp nhất tinh thần của Âu châu được báo trước. Ngài có đức tin và sức mạnh của vị ngôn sứ. Thân thể của người và các cử chỉ của người cùng với các lời nói hiệp nhất một cách bất thình lình điều đã bị gạt bỏ với yêu sách của ý thức hệ. Dĩ nhiên còn có môt kinh nghiệm quan trọng khác nữa trong đời tôi. Đó là khi tôi thuộc phái đoàn Tòa Thánh ký Thỏa hiệp năm 1984, và trong dịp đó tôi đã kinh nghiệm được sự tuyệt tác của ngành ngoại giao, được xây dựng trong các năm trước đó.
Hỏi: Đức Hồng Y có muốn nhắn gửi sứ điệp nào cho các người trẻ và cho Giáo Hội tương lai hay không?
Đáp: Tôi tin rằng, như tôi đã nói, sứ điệp là lấy lại những gì chưa được thực hiện do Công Đồng Chung Vaticăng II đề ra. Đã có rất nhiều điều bị Đức Phaolô VI bỏ dở. Chúng vẫn còn đó. Nhưng không phải chỉ có thế mà thôi. Một trong các thách đố rộng mở cho nền văn hóa ngày nay, có lẽ có thể là thách đố đem nền thần học vào trong các khả năng của giáo dân để tạo thuận tiện cho một việc nghiên cứu được dưỡng nuôi bởi sự đối chiếu các khác biệt. Thế rồi tôi cũng tin rằng thật là quan trọng biết tiếp nhận các dấu chỉ thời đại và niềm hy vọng, mà ngày nay các Giáo Hội trẻ của Á chậu và châu Mỹ Latinh biết khơi dậy. Có lẽ từ đó cũng có thể tái sinh và tái khẳng định trong đại lục Tây Âu già nua và mệt mỏi của chúng ta tương lai của Kitô giáo. Như tôi đã nói cách đây nhiều năm, khi được một nhà báo hỏi, thật là đẹp nếu một ngày kia Ngày Quốc Tế Giới Trẻ được cử hành bên Trung Quốc. Đây là môt giấc mơ mà chúng ta hy vọng trở thành thực tại.
(Avvenire 25-10-2013)
Ngày 25-10-2013 Đức Hồng Y Achille Silvestrini tròn 90 tuổi. Nhân dịp này Đức Hồng Y, nguyên Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, đã dành cho phóng viên Filippo Rizzi của nhật báo Tương Lai, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Đồng Giám Mục Italia, một bài phỏng vấn liên quan tới Công Đồng Chung Vaticăng II và đường lối ngoại giao của Tòa Thánh Vaticăng.
Đức Hồng Y Achille Silvestrini sinh năm 1923, thụ phong linh mục năm 1946. Sau khi đậu tiến sĩ Lưỡng Luật tại đại học Laterano, cha Silvestrini theo học Trường Ngoại Giao Tòa Thánh, và năm 1953 bắt đầu làm việc trong Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đặc trách các nước vùng Đông Nam Á. Từ năm 1958 Đức Ông Silvestrini là thư ký của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Domenico Tardini, và Đức Hồng Y Amleto Giovanni Cicongani cho tới năm 1969.
Như là người đặc trách các tương quan với các tổ chức quốc tế, Đức Ông Silvestrini đã là cộng sự viên của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh Agostino Casaroli, và trợ giúp người trong việc thực hiện chính sách cởi mở và đối thoại với các nước cộng sản Đông Âu. Đức Ông đã tham dự nhiều hội nghị quốc tế như: hội nghị Helsinki về an ninh và cộng tác Âu châu năm 1975, các cuộc họp chuẩn bị cho hội nghị này tại Genève năm 1973, hội nghị Belgrad để kiểm thực việc áp dụng. Đức Ông cũng đã hướng dẫn phái đoàn Tòa Thánh tham dự phiên họp của Liên Hiệp Quốc về việc sử dụng năng lượng hạt nhân cho các mục đích dân sự năm 1971; hội nghị về Thỏa hiệp không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1975.
Năm 1979 Đức Ông Silvestrini được chỉ định làm Thư ký phân bộ liên lạc với các nước của Tòa Thánh và được nâng lên hàng Tổng Giám Mục. Năm 1983 Đức Tổng Giám Muc Silvestrini đại diện Tòa Thánh tham dự Hội nghị an ninh và cộng tác Âu châu lần thứ ba tại Madrid. Ngài cũng là trưởng phái đoàn Tòa Thánh tham dự cuộc họp tái duyệt xét các Thỏa hiệp Laterano với chính phủ Italia năm 1984; cũng như tham dự các cuộc họp liên quan tới việc giải quyết cuộc tranh chấp quần đảo Falklands giữa Anh Quốc và Argentina, và cuộc cách mạng tại Nicaragua. Năm 1988 Đức Gioan Phaolô II vinh thăng Đức Cha Silvestrini làm Hồng Y. Sau đó ngài được chỉ định làm Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, cho tới khi về hưu năm 1999.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, 50 năm đã trôi qua kể từ khi Đức Gioan XXIII triệu tập Công Đồng Chung Vaticăng II ngày 11 tháng 10 năm 1962. Đức Hồng Y nghĩ gì về thời điểm này?
Đáp: Tôi tin rằng cần phải tái khởi hành từ Công Đồng Chung Vaticăng II, từ tất cả những gì chưa trở thành thực tại và cần được thi hành. Cùng với người bạn thân của tôi là Đức cố Hồng Y Carlo Maria Martini, trong các năm qua, biết bao lần chúng tôi thường tự vấn liên quan tới sự cấp thiết phải tìm ra một thứ ngôn ngữ mới để nói với nhân loại ngày nay, một cách đặc biệt với các thế hệ trẻ, và đưa ra các câu trả lời thích đáng cho xã hội tân tiến hiện nay. Thách đố chờ đợi Giáo Hội là ra khỏi các môi trường chật hẹp của các phòng thánh, trong một nghĩa nào đó là ”tự giải trừ giáo sĩ” cả với giáo dân nữa và sống Tin Mừng một cách đích thực. Tôi cho rằng Âu châu không còn có thể ghi dấu các biên giới của Giáo Hội học nữa. Một thí dụ? Việc bầu Đức Bergoglio làm Giáo Hoàng đã không chỉ có nghĩa của sự mới mẻ: người Kế vị thánh Phêrô đến từ một nước xa xôi. Cung cách là Giám Mục Roma không chỉ gợi ý việc tái phục hồi tính cách hoàn vũ trong sứ mệnh của Giáo Hội Công Giáo, mà cũng mời gọi tất cả mọi kitô hữu canh tân ngôn ngữ loan báo đức tin, như chúng ta đã thấy trong nền thần học cho đến nay. Việc bầu Đức Bergoglio, là người gắn bó với huấn quyền của Đức Gioan Phaolô II và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, có lẽ thúc giục chúng ta lấy lại các đề tài đã từng là trọng tâm của các cuộc thảo luận thời Công Đồng; tái khám phá ra bằng cách tiếp thu các bài học của những ngôn sứ như Lercaro và Dossetti, và vài ưu tiên làm thành căn tính của Giáo Hội, dấu ấn của Cộng Đồng Chung Vaticăng II như việc lựa chọn bênh vực người nghèo, theo đuổi hòa bình giữa các dân tộc và đối thoại với những người ở xa và những người không tin. Trong nền tảng, đó là việc thời sự hóa Công Đồng, trong các ý hướng của Đức Gioan XXIII. Nó đã và vẫn là một nhiệm vụ còn rộng mở ngày nay: khiến cho Tin Mừng đến với con tim của tất cả mọi người.
Hỏi: Đức Hồng Y có các kỷ niệm đặc biệt nào về các năm giao động thời Công Đồng Chung Vaticăng II hay không?
Đáp: Đó đã là các năm hoạt động rất mạnh mẽ, cho phép tôi, như là người soạn thảo các công văn của Tòa thánh thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh, học hỏi từ Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh thời đó là Đức Hồng Y Domenico Tardini, không chỉ liên quan tới tầm quan trọng của ngành ngoại giao, mà cả việc lắng nghe các tác nhân đối thoại nữa, trong thái độ dành ưu tiên cho tình bác ái. Tôi cũng không thể quên được việc chấp nhận vĩnh viễn tài liệu về tự do tôn giáo Dignitatis Humanae đã quan trọng thế nào đối với Đức Ông Pietro Pavan. Tôi thường nghĩ tới sự cay đắng và tiếng khóc của cha Pavan, khi người ta báo cho cha biết là tài liệu chắc sẽ không được chấp thuận. Nhưng trái lại ngày 21 tháng 9 năm 1965 tài liệu đã được các Nghị Phụ chấp thuận. Và thế là tiếng khóc của cha bất thình lình biến thành niềm vui.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, có rất ít người biết rằng bài phỏng vấn đầu tiên mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đồng ý cho nhà báo Alberto Cavallari của nhật báo ”Người đưa tin chiều” thực hiện, đã do trung gian của Đức Hồng Y. Đức Hồng Y có thể giải thích cho biết cuộc gặp gỡ này đã xảy ra như thế nào không?
Đáp: Tôi nhớ rằng nhà báo Alberto Cavallari đã được Đức Ông Pasquale Macchi, thư ký của Đức Phaolô VI, giới thiệu với tôi. Hồi đó ông ta đang làm một cuộc tìm hiểu sinh hoạt của nhiều cơ quan trung ương Tòa Thánh, và viết cuốn sách nổi tiếng tựa đề ”Vaticăng thay đổi”. Chính trong bối cảnh ấy đã nảy sinh ra một cuộc nói chuyện giữa ông Cavallari và Đức Phaolô VI, vị Giáo Hoàng vĩ đại người vùng Brescia. Tôi nhớ rằng ông Alfio Russo, Giám đốc nhật báo ”Người đưa tin chiều” đã gửi ông Cavallari tới Roma để theo dõi Công Đồng Chung Vaticăng II, để tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra trong Giáo Hội. Tôi tin rằng từ đó đã nảy sinh ra cuộc điều tra của ông ta, đạt tột đỉnh với bài phỏng vấn Đức Phaolô VI, trước khi Đức Phaolô VI viếng thăm Liên Hiệp Quốc và đọc diễn văn tại đây. Đây cũng là cuộc phỏng vấn đầu tiên, mà một vị Giáo Hoàng dành cho giới báo chí kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Và nhà báo Alberto Cavallari đã viết lại một mạch bài phỏng vấn trong một quán giải khát ở đại lộ Hòa Giải. Ông Cavallari sau này đã trở thành bạn thân của tôi.
Hỏi: Trong các năm làm việc Đức Hồng Y đã gặp gỡ nhiều nhân vật quan trọng, từ việc ký các thỏa hiệp quan trọng, nhưng nhất là một cuộc sống như nhân viên ngoại giao của Tòa Thánh và như là một mục tử. Đức Hồng Y có các kỷ niệm nào trong các năm đó, và khi nào thì đã xảy ra sự tan giá băng giữa Liên Bang Xô Viết và Tòa Thánh Vaticăng?
Đáp: Chính Công Đồng Chung Vaticăng II và thông điệp ”Hòa Bình dưới thế” trong các năm đó đã giúp thay đổi bầu khí với Liên Xô và mở ra các cuộc đối thoại. Dĩ nhiên là một gương mặt đặc sủng và trí thức tinh tế như Agostino Casaroli, Hồng Y tương lai, đã là một trong các kiến trúc sư của cuộc tan giá băng này. Nó đã đươc hướng dẫn bởi chính sách từng bước nhỏ. nhưng cũng được hướng dẫn bởi niềm hy vọng của những điều có thể làm được, như chính sách cởi mở đối với Đông Âu gọi là ”Ostpolitik”. Tôi nghĩ tới sự cẩn trọng của người như chuyến đi năm 1963 từ Vienne sang Buudapest, hay sự cẩn trọng và kiên nhẫn của người trong các hoàn cảnh khó khăn. Nếu chúng ta muốn nhận ra ý nghĩa của nền ngoại giao của Tòa Thánh Vaticăng, thì phải tìm nó trong chính các năm này. Nếu không có chúng, thì đã không có biến cố ngày mùng 6 tháng 10 năm 1978, khi Đức Karol Wojtila được bầu làm Giáo Hoàng lấy tên hiệu là Gioan Phaolô II. Trong đặc sủng của Đức Karol Wojtila, sự hiệp nhất tinh thần của Âu châu được báo trước. Ngài có đức tin và sức mạnh của vị ngôn sứ. Thân thể của người và các cử chỉ của người cùng với các lời nói hiệp nhất một cách bất thình lình điều đã bị gạt bỏ với yêu sách của ý thức hệ. Dĩ nhiên còn có môt kinh nghiệm quan trọng khác nữa trong đời tôi. Đó là khi tôi thuộc phái đoàn Tòa Thánh ký Thỏa hiệp năm 1984, và trong dịp đó tôi đã kinh nghiệm được sự tuyệt tác của ngành ngoại giao, được xây dựng trong các năm trước đó.
Hỏi: Đức Hồng Y có muốn nhắn gửi sứ điệp nào cho các người trẻ và cho Giáo Hội tương lai hay không?
Đáp: Tôi tin rằng, như tôi đã nói, sứ điệp là lấy lại những gì chưa được thực hiện do Công Đồng Chung Vaticăng II đề ra. Đã có rất nhiều điều bị Đức Phaolô VI bỏ dở. Chúng vẫn còn đó. Nhưng không phải chỉ có thế mà thôi. Một trong các thách đố rộng mở cho nền văn hóa ngày nay, có lẽ có thể là thách đố đem nền thần học vào trong các khả năng của giáo dân để tạo thuận tiện cho một việc nghiên cứu được dưỡng nuôi bởi sự đối chiếu các khác biệt. Thế rồi tôi cũng tin rằng thật là quan trọng biết tiếp nhận các dấu chỉ thời đại và niềm hy vọng, mà ngày nay các Giáo Hội trẻ của Á chậu và châu Mỹ Latinh biết khơi dậy. Có lẽ từ đó cũng có thể tái sinh và tái khẳng định trong đại lục Tây Âu già nua và mệt mỏi của chúng ta tương lai của Kitô giáo. Như tôi đã nói cách đây nhiều năm, khi được một nhà báo hỏi, thật là đẹp nếu một ngày kia Ngày Quốc Tế Giới Trẻ được cử hành bên Trung Quốc. Đây là môt giấc mơ mà chúng ta hy vọng trở thành thực tại.
(Avvenire 25-10-2013)
Sự hiệp thông của các thánh
Linh Tiến Khải
10:55 30/10/2013
Sự hiệp thông của các thánh nảy sinh từ sự hiệp thông với Thiên Chúa và niềm tin nơi Chúa Kitô. Nó nối kết giữa các tín hữu còn lữ hành trên trần gian này với các tín hữu đang được thanh luyện trong Luyện ngục và các thánh trên Thiên Đàng trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiến kiến chung sáng thứ tư 30-10-2013 tại quảng trường thánh Phêrô. Đã có hàng chục ngàn tín hữu phải đứng ngoài quảng trường Pio XII và đường Hòa Giải. Trong số hàng trăm đoàn hành hương hiện diện cũng có hai nhóm Việt Nam đến từ Đức và Hoa Kỳ. Đặc biệt có phái đoàn các nhóm tôn giáo Irak do Đức Hồng Y Jean Louis Tauran, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn hướng dẫn, đang tham sự khóa họp tại Roma.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”sự hiệp thông của các thánh”, là một thực tại rất đẹp của đức tin. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng kiểu nói này diễn tả hai thực tại: sự hiệp thông giữa các điều thánh thiện, và sự hiệp thông giữa các người thánh thiện (s. 948). Ý nghĩa thứ hai này là một trong những sự thật trao ban an ủi nhất trong đức tin của chúng ta, bởi vì nó nhắc nhở cho chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn, nhưng có một sự hiệp thông sự sống giữa tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô. Đó là một sự hiệp thông nảy sinh từ lòng tin. Thật thế, từ ”các thánh” quy chiếu về những người tin nơi Chúa Giêsu và được tháp nhập vào Người trong Giáo Hội qua bí tích Rửa Tội. Vì thế các kitô hữu tiên khởi cũng đã được gọi là ”các thánh” (x. Cv 9,13.32.41; Rm 8,27; 1 Cr 6,1).
Phúc âm thánh Gioan chứng thực rằng trước cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu đã cầu xin Thiên Chúa Cha cho sự hiệp thông giữa các môn đệ, với các lời này: ”Để tất cả chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ước gì chúng cũng ở trong chúng ta, để thế giới tin rằng Cha đã sai Con” (Gv 17,21). Đức Thánh Cha giải thích sự hiệp thông trong Giáo Hội như sau:
Giáo Hội, trong sự thật sâu thẳm nhất của nó, là hiệp thông với Thiên Chúa, sự hiệp thông của tình yêu với Chúa Kitô và với Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, kéo dài trong sự hiệp thông huynh đệ. Tương quan này giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là ”khuôn mẫu” của sự gắn bó giữa các kitô hữu chúng ta: nếu chúng ta được tháp nhập một cách thân tình vào ”khuôn mẫu” này, vào lò lửa tình yêu nồng cháy là Thiên Chúa Ba Ngôi, thì khi đó chúng ta có thể thực sự trở thành một con tim một linh hồn giữa chúng ta, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa thiêu rụi các ích kỷ, đốt cháy các thành kiến và các chia rẽ bên trong và bên ngoài của chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa cũng thiêu rụi cả các tội lỗi của chúng ta nữa.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Nếu có sự đâm rễ trong suối nguồn Tình Yêu là Thiên Chúa, thì khi đó người ta cũng kiểm thực được sự vận hành hỗ tương: từ các anh chị em tới Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:
Kinh nghiệm của sự hiệp thông huynh đệ dẫn đưa tôi tới sự hiệp thông với Thiên Chúa. Hiệp nhất với nhau dẫn đưa chúng ta tới sự hiệp nhất với Thiên Chúa, dẫn đưa chúng ta tới mối dây này với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Và đây là khía cạnh thứ hai trong sự hiệp thông của các thánh mà tôi muốn nhần mạnh: đức tin của chúng ta cần sự nâng đỡ của những người khác, đặc biệt trong những lúc gặp khó khăn. Nếu chúng ta hiệp nhất, thì đức tin trở thành mạnh mẽ. Thật là đẹp biết bao nâng đỡ nhau trong cuộc mạo hiểm tuyệt vời của đức tin! Tôi nói điều này bởi vì khuynh hướng khép kín trong riêng tư đã ảnh hưởng trên cả lãnh vực tôn giáo nữa, đến độ nhiều khi thật là vất vả xin sự trợ giúp tinh thần của nhưng người chia sẻ linh nghiệm kitô với chúng ta. Ai trong chúng ta lại đã không sống kinh nghiệm bất an, lạc lõng và cả nghi ngờ trên con đường lòng tin? Chúng ta tất cả đều đã sống kinh nghiệm này, cả tôi nữa: nó là phần của con đường đức tin, là phần của cuộc sống. Tất cả những điều này không được khiến cho
chúng ta ngạc nhiên, bởi vì chúng ta là người, bị ghi dấu bởi sự mỏng giòn và các hạn hẹp. Tuy nhiên, trong những lúc khó khăn ấy cần phải tín thác nơi sự trợ giúp của Thiên Chúa, qua lời cầu nguyện con thảo, và đồng thời thật là quan trọng tìm ra lòng can đảm và sự khiêm tốn rộng mở chính mình cho người khác, để xin trợ giúp, để xin người khác giúp chúng ta một tay. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã làm điều này và chúng ta đã thành công ra khỏi vấn đề và tìm thấy Thiên Chúa một lần nữa. Trong sự hiệp thông này hiệp thông có nghĩa là hiệp nhất chung.
Đề cập tới khía cạnh thứ ba trong sự hiệp thông của các thánh Đức Thánh Cha khẳng định rằng sự hiệp thông của các thánh đi xa hơn cuộc sống trần gian này, vượt xa hơn cái chết và kéo dài luôn mãi. Nó là một sự hiệp nhất tinh thần nảy sinh từ bí tích Rửa Tội không bị bẻ gẫy bởi cái chết, nhưng nhờ Chúa Kitô phục sinh, nó được chỉ định tìm thấy sự viên mãn trong cuộc sống vĩnh cửu. Có một mối dây sâu xa và không thể chia lìa giữa những người còn lữ hành trên trần gian này và những người đã vượt qua ngưỡng cửa của cái chết để bước vào nơi vĩnh cửu. Tất cả những người đã được rửa tội trên trần gian này, các linh hồn trong Luyện Ngục và tất cả các thánh đã ở trên Thiên Đàng làm thành một gia đình duy nhất. Sự hiệp thông này giữa đất và trời được thực hiện một cách đặc biệt trong lời cầu nguyện bầu cử.
Anh chị em thân mến, chúng ta có vẻ đẹp này. Đó là một thực tại của chúng ta tất cả, khiến cho chúng ta là anh chị em với nhau. Thực tại này đồng hành với chúng ta trên con đường cuộc sống và khiến cho chúng ta tìm thấy nó một lần nữa trên trời. Chúng ta hãy bước đi trên con đường này với sự tin tưởng và niềm vui. Một kitô hữu phải vui tươi, với niềm vui có biết bao nhiêu anh chị em được rửa tội cùng đi với mình. Được nâng đỡ bởi các anh chị em bước đi trên cùng con đường này để về trời. Và với sự trợ giùp của các anh chị em đang ở trên trời và cầu xin Chúa Giêsu cho chúng ta chúng ta hãy tiến lên trên con đường này trong tươi vui!
Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm khác nhau hiện diện tại quảng trường: các phái đoàn hành hương của nhiều giáo phận Pháp, do các Giám Mục hướng dẫn như tổng giáo phận Paris và Rennes. Các phái đoàn đến từ Philippines, Việt Nam và Đông Timor. Các phái đoàn đến từ Châu Mỹ Latinh như Argentina, El Salvador, Mehicô và Brasil. Đức Thánh Cha đã khuyến khích mọi người để cho tình yêu của Thiên Chúa nung nấu để thay đổi bộ mặt của gia đình, xứ đạo và thế giới.
Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết rằng thứ sáu tới đây là lễ các Thánh. Ước chi chứng tá của các ngài củng cố nơi người trẻ xác tín Thiên Chúa đồng hành với họ trên đường đời; nâng đỡ các anh chị em đau yếu bằng cách làm vơi nhẹ khổ đau của họ; và trợ giúp các cặp vợ chồng mới cưới trong nỗ lực xây dựng gia đình trên niềm tin nơi Thiên Chúa.
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phèp lành tòa thánh Đức Thành Cha ban cho mọi người.
Cũng như mọi lần đã có hàng chục trẻ em được Đức Thánh Cha hôn. Đức Thánh Cha đã xuống xe díp và chào một nhóm hàng trăm trẻ em giúp lễ thuộc mọi chủng tộc khác nhau. Một chú bé đã xin chữ ký của Đức Thánh Cha và vui sướng reo hò sau khi có được chữ ký của ngài. Trước khi Đức Thánh Cha lên tới khán đài đã có một phái đoàn của một thành phố mặc sắc phục thời Trung Cổ rất đẹp với cờ quạt và trống nghiêng mình chào Đức Thánh Cha trông rất ngoạn mục. Trong khi chào tín hữu đứng hai bên khán đài, có một chú bé đã tặng Đức Thánh Cha cái mũ ca lốt trắng. Ngài nhận chiếc mũ mới và lấy chiếc mũ cũ của ngài đội lên đầu chú bé. Đức Thánh Cha cũng đã dừng lại rất lâu để ôm hôn, chúc lành và an ủi các bệnh nhân ngồi trên xe lăn.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiến kiến chung sáng thứ tư 30-10-2013 tại quảng trường thánh Phêrô. Đã có hàng chục ngàn tín hữu phải đứng ngoài quảng trường Pio XII và đường Hòa Giải. Trong số hàng trăm đoàn hành hương hiện diện cũng có hai nhóm Việt Nam đến từ Đức và Hoa Kỳ. Đặc biệt có phái đoàn các nhóm tôn giáo Irak do Đức Hồng Y Jean Louis Tauran, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn hướng dẫn, đang tham sự khóa họp tại Roma.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”sự hiệp thông của các thánh”, là một thực tại rất đẹp của đức tin. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng kiểu nói này diễn tả hai thực tại: sự hiệp thông giữa các điều thánh thiện, và sự hiệp thông giữa các người thánh thiện (s. 948). Ý nghĩa thứ hai này là một trong những sự thật trao ban an ủi nhất trong đức tin của chúng ta, bởi vì nó nhắc nhở cho chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn, nhưng có một sự hiệp thông sự sống giữa tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô. Đó là một sự hiệp thông nảy sinh từ lòng tin. Thật thế, từ ”các thánh” quy chiếu về những người tin nơi Chúa Giêsu và được tháp nhập vào Người trong Giáo Hội qua bí tích Rửa Tội. Vì thế các kitô hữu tiên khởi cũng đã được gọi là ”các thánh” (x. Cv 9,13.32.41; Rm 8,27; 1 Cr 6,1).
Phúc âm thánh Gioan chứng thực rằng trước cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu đã cầu xin Thiên Chúa Cha cho sự hiệp thông giữa các môn đệ, với các lời này: ”Để tất cả chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ước gì chúng cũng ở trong chúng ta, để thế giới tin rằng Cha đã sai Con” (Gv 17,21). Đức Thánh Cha giải thích sự hiệp thông trong Giáo Hội như sau:
Giáo Hội, trong sự thật sâu thẳm nhất của nó, là hiệp thông với Thiên Chúa, sự hiệp thông của tình yêu với Chúa Kitô và với Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, kéo dài trong sự hiệp thông huynh đệ. Tương quan này giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là ”khuôn mẫu” của sự gắn bó giữa các kitô hữu chúng ta: nếu chúng ta được tháp nhập một cách thân tình vào ”khuôn mẫu” này, vào lò lửa tình yêu nồng cháy là Thiên Chúa Ba Ngôi, thì khi đó chúng ta có thể thực sự trở thành một con tim một linh hồn giữa chúng ta, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa thiêu rụi các ích kỷ, đốt cháy các thành kiến và các chia rẽ bên trong và bên ngoài của chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa cũng thiêu rụi cả các tội lỗi của chúng ta nữa.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Nếu có sự đâm rễ trong suối nguồn Tình Yêu là Thiên Chúa, thì khi đó người ta cũng kiểm thực được sự vận hành hỗ tương: từ các anh chị em tới Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:
Kinh nghiệm của sự hiệp thông huynh đệ dẫn đưa tôi tới sự hiệp thông với Thiên Chúa. Hiệp nhất với nhau dẫn đưa chúng ta tới sự hiệp nhất với Thiên Chúa, dẫn đưa chúng ta tới mối dây này với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Và đây là khía cạnh thứ hai trong sự hiệp thông của các thánh mà tôi muốn nhần mạnh: đức tin của chúng ta cần sự nâng đỡ của những người khác, đặc biệt trong những lúc gặp khó khăn. Nếu chúng ta hiệp nhất, thì đức tin trở thành mạnh mẽ. Thật là đẹp biết bao nâng đỡ nhau trong cuộc mạo hiểm tuyệt vời của đức tin! Tôi nói điều này bởi vì khuynh hướng khép kín trong riêng tư đã ảnh hưởng trên cả lãnh vực tôn giáo nữa, đến độ nhiều khi thật là vất vả xin sự trợ giúp tinh thần của nhưng người chia sẻ linh nghiệm kitô với chúng ta. Ai trong chúng ta lại đã không sống kinh nghiệm bất an, lạc lõng và cả nghi ngờ trên con đường lòng tin? Chúng ta tất cả đều đã sống kinh nghiệm này, cả tôi nữa: nó là phần của con đường đức tin, là phần của cuộc sống. Tất cả những điều này không được khiến cho
chúng ta ngạc nhiên, bởi vì chúng ta là người, bị ghi dấu bởi sự mỏng giòn và các hạn hẹp. Tuy nhiên, trong những lúc khó khăn ấy cần phải tín thác nơi sự trợ giúp của Thiên Chúa, qua lời cầu nguyện con thảo, và đồng thời thật là quan trọng tìm ra lòng can đảm và sự khiêm tốn rộng mở chính mình cho người khác, để xin trợ giúp, để xin người khác giúp chúng ta một tay. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã làm điều này và chúng ta đã thành công ra khỏi vấn đề và tìm thấy Thiên Chúa một lần nữa. Trong sự hiệp thông này hiệp thông có nghĩa là hiệp nhất chung.
Đề cập tới khía cạnh thứ ba trong sự hiệp thông của các thánh Đức Thánh Cha khẳng định rằng sự hiệp thông của các thánh đi xa hơn cuộc sống trần gian này, vượt xa hơn cái chết và kéo dài luôn mãi. Nó là một sự hiệp nhất tinh thần nảy sinh từ bí tích Rửa Tội không bị bẻ gẫy bởi cái chết, nhưng nhờ Chúa Kitô phục sinh, nó được chỉ định tìm thấy sự viên mãn trong cuộc sống vĩnh cửu. Có một mối dây sâu xa và không thể chia lìa giữa những người còn lữ hành trên trần gian này và những người đã vượt qua ngưỡng cửa của cái chết để bước vào nơi vĩnh cửu. Tất cả những người đã được rửa tội trên trần gian này, các linh hồn trong Luyện Ngục và tất cả các thánh đã ở trên Thiên Đàng làm thành một gia đình duy nhất. Sự hiệp thông này giữa đất và trời được thực hiện một cách đặc biệt trong lời cầu nguyện bầu cử.
Anh chị em thân mến, chúng ta có vẻ đẹp này. Đó là một thực tại của chúng ta tất cả, khiến cho chúng ta là anh chị em với nhau. Thực tại này đồng hành với chúng ta trên con đường cuộc sống và khiến cho chúng ta tìm thấy nó một lần nữa trên trời. Chúng ta hãy bước đi trên con đường này với sự tin tưởng và niềm vui. Một kitô hữu phải vui tươi, với niềm vui có biết bao nhiêu anh chị em được rửa tội cùng đi với mình. Được nâng đỡ bởi các anh chị em bước đi trên cùng con đường này để về trời. Và với sự trợ giùp của các anh chị em đang ở trên trời và cầu xin Chúa Giêsu cho chúng ta chúng ta hãy tiến lên trên con đường này trong tươi vui!
Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm khác nhau hiện diện tại quảng trường: các phái đoàn hành hương của nhiều giáo phận Pháp, do các Giám Mục hướng dẫn như tổng giáo phận Paris và Rennes. Các phái đoàn đến từ Philippines, Việt Nam và Đông Timor. Các phái đoàn đến từ Châu Mỹ Latinh như Argentina, El Salvador, Mehicô và Brasil. Đức Thánh Cha đã khuyến khích mọi người để cho tình yêu của Thiên Chúa nung nấu để thay đổi bộ mặt của gia đình, xứ đạo và thế giới.
Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết rằng thứ sáu tới đây là lễ các Thánh. Ước chi chứng tá của các ngài củng cố nơi người trẻ xác tín Thiên Chúa đồng hành với họ trên đường đời; nâng đỡ các anh chị em đau yếu bằng cách làm vơi nhẹ khổ đau của họ; và trợ giúp các cặp vợ chồng mới cưới trong nỗ lực xây dựng gia đình trên niềm tin nơi Thiên Chúa.
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phèp lành tòa thánh Đức Thành Cha ban cho mọi người.
Cũng như mọi lần đã có hàng chục trẻ em được Đức Thánh Cha hôn. Đức Thánh Cha đã xuống xe díp và chào một nhóm hàng trăm trẻ em giúp lễ thuộc mọi chủng tộc khác nhau. Một chú bé đã xin chữ ký của Đức Thánh Cha và vui sướng reo hò sau khi có được chữ ký của ngài. Trước khi Đức Thánh Cha lên tới khán đài đã có một phái đoàn của một thành phố mặc sắc phục thời Trung Cổ rất đẹp với cờ quạt và trống nghiêng mình chào Đức Thánh Cha trông rất ngoạn mục. Trong khi chào tín hữu đứng hai bên khán đài, có một chú bé đã tặng Đức Thánh Cha cái mũ ca lốt trắng. Ngài nhận chiếc mũ mới và lấy chiếc mũ cũ của ngài đội lên đầu chú bé. Đức Thánh Cha cũng đã dừng lại rất lâu để ôm hôn, chúc lành và an ủi các bệnh nhân ngồi trên xe lăn.
Vai trò hòa giải của Giáo hội tại Triều Tiên
Lê Vy
13:54 30/10/2013
Vai trò hòa giải của Giáo Hội tại Triều Tiên
Đại hội lần thứ 10 Hội đồng Đại kết các Giáo Hội (COE), Busan, Hàn Quốc, 30/10/2013
Thời sự tại Châu Á thu hút sự quan tâm của khá nhiều nhật báo Pháp. Hôm nay, Đại hội lần thứ 10 Hội đồng Đại kết các Giáo Hội (COE) khai mạc tại Busan (Hàn Quốc). Ba ngàn đại biểu từ khắp nơi trên thế giới (600 thanh niên) tham dự đại hội cho đến ngày 8/11. Các đề tài trọng tâm của đại hội là công lý và hòa bình. Báo Công Giáo La Croix dành hai trang lớn cho sự kiện này với dòng tựa : « Vai trò hòa giải của Giáo Hội tại Triều Tiên ».
Bài báo đăng ảnh những thanh niên Bắc Triều Tiên tỵ nạn tại Hàn Quốc cầu nguyện trong một giáo đường tại Séoul vì hòa bình và hòa giải trên bán đảo Triều Tiên.
Báo La Croix nhận định, cả Giáo Hội Công Giáo lẫn Tin Lành Hàn Quốc đều giúp đỡ cư dân Bắc Triều Tiên bằng mọi phương tiện, đặc biệt là những người người đào thoát sang biên giới Trung Quốc. Đặc phái viên tờ báo trích dẫn một nhân chứng giấu tên, nói chị ta vô cùng biết ơn những người người Thiên Chúa giáo tại Hàn Quốc, vì họ đã giúp đỡ chị cùng với ba chị em sau khi họ đào tẩu khỏi Bắc Triều Tiên sang Trung Quốc. Chị tâm sự : « Cuộc sống của chúng tôi vô cùng khó khăn, lúc nào cũng đói khát. Chúng tôi nghe một số người đào thoát sang Trung Quốc nên chúng tôi cũng bắt chước ».
Trong quá trình bôn ba sang Trung Quốc, chị đã liên lạc với một tổ chức chuyên giúp đỡ những người tỵ nạn Bắc Triều Tiên đi sang Lào, Thái Lan và từ đó đã quen biết được một vị linh mục người Pháp sống tại ngoại ô Seoul, mà tờ báo cũng xin giấu tên vì các lý do an ninh. Vị linh mục này thuật lại : « Phần đông người tỵ nạn thiếu ăn, mắc các chứng bệnh như sốt rét, lao, bệnh da liễu, cộng với các chứng lo âu, trầm cảm, do phải sống lẫn trốn trong nhiều năm ». Trong thời gian tha hương, người tỵ nạn bằng mọi giá cố tránh bị cảnh sát bắt. Nếu không, họ sẽ bị buộc hồi hương và bị tra tấn, tử hình. Vị linh mục kể lại : « Ai cũng có một con dao lam trong túi để tự sát khi bị rơi vào tay cảnh sát ».
Rất nhiều người Tin Lành Hàn Quốc đã giúp đỡ người tỵ nạn và một số đã phải trả giá đắt. Ví dụ như mục sư Han-il, sau nhiều lần đi đi về về từ Bắc chí Nam Trung Quốc, ông đã bị cảnh sát Trung Quốc bỏ tù và hành hạ trong vòng 18 tháng.
Một khi đến Thái Lan, người tỵ nạn được các đại sứ quán tiếp nhận và có thể nhập cư Hàn Quốc hay Bắc Mỹ. Trong một trung tâm hội nhập tại Hàn Quốc, người tỵ nạn được chăm sóc trong vòng ba tháng để hồi phục sức khỏe thể xác lẫn tinh thần. Sau đó, họ được cấp giấy tờ cư trú hợp pháp, được học nghề và bắt đầu làm quen với thế giới tư bản…
Ngoài ra, Giáo Hội Công Giáo lẫn Tin Lành, đều giúp đỡ dân Bắc Triều Tiên qua các hoạt động nhân đạo. Họ gửi hàng cứu trợ đều đặn thông qua tổ chức Caritas. Thế nhưng, họ phải chấp nhận sự kiểm duyệt và các điều kiện khắc nghiệt của Bình Nhưỡng. Nhóm tình nguyện viên y tế phải đi đường vòng sang Trung Quốc rồi mới đến được Bình Nhưỡng, do không có tuyến bay thẳng đến Bình Nhưỡng. Đức Giám Mục Seoul nhận định : « Chúng tôi thường xuyên gửi lương thực, thuốc men va các nhu yếu phẩm khác. Thế nhưng, đôi khi chúng tôi buộc phải ngưng hoạt động khi quan hệ ngoại giao hai miền Triều Tiên trở nên căng thẳng ».
Giáo Hội còn giúp đỡ người tỵ nạn hội nhập vào cuộc sống tại Hàn Quốc do tại đây, nếu người tỵ nạn không hội nhập được vào khuôn khổ xã hội Hàn Quốc, thì sẽ bị gạt sang một bên, bị khinh bỉ. Người Bắc Triều Tiên thường bị rơi vào tình trạng này khi mới đến Hàn Quốc. Khi ra khỏi trại tỵ nạn, mỗi người còn được chính phủ Hàn Quốc cấp cho khoảng 5000 euro, hay được ở miễn phí vài tháng tiền nhà.
Đại hội lần thứ 10 Hội đồng Đại kết các Giáo Hội (COE), Busan, Hàn Quốc, 30/10/2013
Thời sự tại Châu Á thu hút sự quan tâm của khá nhiều nhật báo Pháp. Hôm nay, Đại hội lần thứ 10 Hội đồng Đại kết các Giáo Hội (COE) khai mạc tại Busan (Hàn Quốc). Ba ngàn đại biểu từ khắp nơi trên thế giới (600 thanh niên) tham dự đại hội cho đến ngày 8/11. Các đề tài trọng tâm của đại hội là công lý và hòa bình. Báo Công Giáo La Croix dành hai trang lớn cho sự kiện này với dòng tựa : « Vai trò hòa giải của Giáo Hội tại Triều Tiên ».
Bài báo đăng ảnh những thanh niên Bắc Triều Tiên tỵ nạn tại Hàn Quốc cầu nguyện trong một giáo đường tại Séoul vì hòa bình và hòa giải trên bán đảo Triều Tiên.
Báo La Croix nhận định, cả Giáo Hội Công Giáo lẫn Tin Lành Hàn Quốc đều giúp đỡ cư dân Bắc Triều Tiên bằng mọi phương tiện, đặc biệt là những người người đào thoát sang biên giới Trung Quốc. Đặc phái viên tờ báo trích dẫn một nhân chứng giấu tên, nói chị ta vô cùng biết ơn những người người Thiên Chúa giáo tại Hàn Quốc, vì họ đã giúp đỡ chị cùng với ba chị em sau khi họ đào tẩu khỏi Bắc Triều Tiên sang Trung Quốc. Chị tâm sự : « Cuộc sống của chúng tôi vô cùng khó khăn, lúc nào cũng đói khát. Chúng tôi nghe một số người đào thoát sang Trung Quốc nên chúng tôi cũng bắt chước ».
Trong quá trình bôn ba sang Trung Quốc, chị đã liên lạc với một tổ chức chuyên giúp đỡ những người tỵ nạn Bắc Triều Tiên đi sang Lào, Thái Lan và từ đó đã quen biết được một vị linh mục người Pháp sống tại ngoại ô Seoul, mà tờ báo cũng xin giấu tên vì các lý do an ninh. Vị linh mục này thuật lại : « Phần đông người tỵ nạn thiếu ăn, mắc các chứng bệnh như sốt rét, lao, bệnh da liễu, cộng với các chứng lo âu, trầm cảm, do phải sống lẫn trốn trong nhiều năm ». Trong thời gian tha hương, người tỵ nạn bằng mọi giá cố tránh bị cảnh sát bắt. Nếu không, họ sẽ bị buộc hồi hương và bị tra tấn, tử hình. Vị linh mục kể lại : « Ai cũng có một con dao lam trong túi để tự sát khi bị rơi vào tay cảnh sát ».
Rất nhiều người Tin Lành Hàn Quốc đã giúp đỡ người tỵ nạn và một số đã phải trả giá đắt. Ví dụ như mục sư Han-il, sau nhiều lần đi đi về về từ Bắc chí Nam Trung Quốc, ông đã bị cảnh sát Trung Quốc bỏ tù và hành hạ trong vòng 18 tháng.
Một khi đến Thái Lan, người tỵ nạn được các đại sứ quán tiếp nhận và có thể nhập cư Hàn Quốc hay Bắc Mỹ. Trong một trung tâm hội nhập tại Hàn Quốc, người tỵ nạn được chăm sóc trong vòng ba tháng để hồi phục sức khỏe thể xác lẫn tinh thần. Sau đó, họ được cấp giấy tờ cư trú hợp pháp, được học nghề và bắt đầu làm quen với thế giới tư bản…
Ngoài ra, Giáo Hội Công Giáo lẫn Tin Lành, đều giúp đỡ dân Bắc Triều Tiên qua các hoạt động nhân đạo. Họ gửi hàng cứu trợ đều đặn thông qua tổ chức Caritas. Thế nhưng, họ phải chấp nhận sự kiểm duyệt và các điều kiện khắc nghiệt của Bình Nhưỡng. Nhóm tình nguyện viên y tế phải đi đường vòng sang Trung Quốc rồi mới đến được Bình Nhưỡng, do không có tuyến bay thẳng đến Bình Nhưỡng. Đức Giám Mục Seoul nhận định : « Chúng tôi thường xuyên gửi lương thực, thuốc men va các nhu yếu phẩm khác. Thế nhưng, đôi khi chúng tôi buộc phải ngưng hoạt động khi quan hệ ngoại giao hai miền Triều Tiên trở nên căng thẳng ».
Giáo Hội còn giúp đỡ người tỵ nạn hội nhập vào cuộc sống tại Hàn Quốc do tại đây, nếu người tỵ nạn không hội nhập được vào khuôn khổ xã hội Hàn Quốc, thì sẽ bị gạt sang một bên, bị khinh bỉ. Người Bắc Triều Tiên thường bị rơi vào tình trạng này khi mới đến Hàn Quốc. Khi ra khỏi trại tỵ nạn, mỗi người còn được chính phủ Hàn Quốc cấp cho khoảng 5000 euro, hay được ở miễn phí vài tháng tiền nhà.
Các Giám Mục Nam Phi Châu chống nạn tham nhũng
Bùi Hữu Thư
17:52 30/10/2013
CAPE TOWN, Nam Phi Châu (CNS) – Các giám mục tại Nam Phi Châu nói: nạn tham nhũng đang lan tràn khắp trong vùng và kêu gọi tất cả mọi người Công Giáo hãy cam kết không nộp tiền hay đề nghị hối lộ cho bất cứ một ai.
Các giám mục Nam Phi Châu, Botswana và Swaziland kêu gọi trong một lá thư mục vụ như sau: "Nếu các bạn biết có vụ tham nhũng xẩy ra, xin hãy tố cáo ngay. Những vụ hối lộ, và các hình thức tham nhũng đang bành trướng mạnh mẽ trong các hoàn cảnh có sự giữ kín và che dấu, và sẽ tồn tại nếu chúng ta để yên cho tiếp diễn.”
Tham nhũng “phá hủy niềm tin của chúng ta” và làm nguy hại cho cộng đồng. Các giám mục ghi nhận rằng “khi hối lộ trở thành một đường lối sống của các công chức, các thương gia, hay nhân viên Giáo Hội, thì trách nhiệm chính của họ bị bỏ qua một bên, nhường chỗ cho sự theo đuổi lợi ích riêng tư của họ.”
Tông thư của Hội Đồng Giám Mục Nam Phi Châu “Lời kêu gọi tự duyệt xét lương tâm mình trong tình trạng tham nhũng bành trướng,” được đọc trong các nhà thờ vào trung tuần tháng 10, và là một phần của chương trình Hội Đồng Giám Mục muốn lật mặt nạ những vụ tham nhũng.
Trong tông thư của các giám mục ghi nhận có thống kê nêu cao “vấn nạn hết sức trầm trọng chúng ta đang phải đối phó về tình trạng tham nhũng” tại Nam Phi Châu, và đã có báo cáo là “gần 50 phần trăm công dân tại các quốc gia trong vùng Nam Phi Châu đã công nhận phải hối lộ, đa số là cho các cảnh sát viên và các giới chức trong chính phủ."
Lá thư viết “Tất cả mọi người phải làm một điều gì trong phạm vi quyền hạn của mình để ngăn chặn tệ nạn tham nhũng.”
Các giám mục viết: “Cần có một sự biến cải tâm hồn” và cùng duyệt xét lại “chính thái độ của chúng ta là những công dân bên trong gia đình, xã hội và Giáo Hội.”
Các ngài viết: “Tham nhũng là một hình thức bóc lột người nghèo khổ. Tiền bạc đổ vào túi của những tên tham nhũng có thể được dùng để giúp đỡ những người vô gia cư, để cung cấp thuốc men cho người bệnh tật hay cho các nhu cầu khác."
Các giám mục kêu gọi người Công Giáo “hãy cam kết không trả tiến hối lộ hay đề nghị hối lộ cho bất cứ một ai, dù cho có lý do quan trọng đến mức nào vào lúc đó."
Các giám mục nói: Mỗi khi có người đút lót để được đi tắt lên hàng đầu để xin nhà cửa hay một giấy phép, thì tất cả mọi người khác đều bị đẩy lui, “nhất là những người không tự bảo vệ mình được: người già yếu, trẻ em và người tị nạn.”
Tham nhũng “không chỉ là vấn nạn của chính phủ mà thôi, mà còn là vấn đề của chúng ta nữa,” các giám mục ghi nhận là họ chú tâm vào việc “lôi kéo sự chú ý của mọi người đến những thiệt hại gây ra cho xã hội và Giáo Hội vì nạn tham nhũng hoành hành, và khuyến khích tất cả mọi người hợp tác trong việc diệt trừ nạn tham nhũng."
Các giám mục nói: Tham nhũng “làm cho chúng ta nghĩ xấu về người khác, và nghi kỵ những người chúng ta coi là các vị lãnh đạo và là những người đáng kính.”
Linh mục Dòng Đa Minh Mike Deeb, giám đốc văn phòng công lý và hòa bình của Hội Đồng Giám Mục nói trong một cuộc phỏng vấn bằng điện thoại ngày 21 tháng 10 tại Pretoria: Tất cả các dự án hạ tầng cơ sở quan trọng tại Nam Phi Châu đều ‘nặng mùi’ tham nhũng.”
Cha Deeb nói: Tham nhũng “đã trở thành một thủ tục ‘đầu tiên’ bình thường đối với nhiều người. Cha ghi nhận là “chúng ta dường như đã có một nền văn hóa của thói quen ‘nếu bạn không thắng được chúng thì nên nhập bọn với chúng.'"
Đức Giám Mục Abel Gabuza ở Kimberley, Nam Phi Châu, Chủ Tịch Văn Phòng Công Lý và Hòa Bình nói: thiếu sự kiểm xoát ngân khoản dành cho việc xây cất hệ thống xa lộ mới có lệ phí (toll road) đã dẫn đưa đến việc tham nhũng và gian lận.
Ngài nói trong một thông cáo ngày 18 tháng 10: "Mặc dầu một vài tình trạng tham nhũng đã được những cuộc điều tra hạn chế của Uỷ Ban Cạnh Tranh của Quốc Gia tố cáo, vẫn còn phải làm rất nhiều để lột mặt nạ những người đang hưởng lợi qua công trình xây cất hệ thống xa lộ rất tốn tiền và hữu hiệu này.”
Luật về việc trả tiền lệ phí dùng xa lộ cho phép thu tiền bằng phương pháp điện tử và truy tố những ai không trả tiền.
Đức Giám Mục Gabuza nói: "Việc chúng tôi yêu cầu chính phủ điều tra nguồn gốc của sự “nặng mùi” này, đã không được lắng nghe, khiến cho nhiều người phải nghi ngờ rằng, sự thối nát đã xâm nhập vào các cơ quan công quyền.”
Ngài kêu gọi các vị lãnh tụ chính trị hãy từ bỏ “đường lối làm việc này và đang nắm quyền điều khiển các lộ trình trọng yếu của quốc gia, nối liền các trung tâm thương mại và kỹ nghệ -- để cho những ai có thể trả tiền có thể tiếp tục xử dụng các xa lộ này."
Các giám mục Nam Phi Châu, Botswana và Swaziland kêu gọi trong một lá thư mục vụ như sau: "Nếu các bạn biết có vụ tham nhũng xẩy ra, xin hãy tố cáo ngay. Những vụ hối lộ, và các hình thức tham nhũng đang bành trướng mạnh mẽ trong các hoàn cảnh có sự giữ kín và che dấu, và sẽ tồn tại nếu chúng ta để yên cho tiếp diễn.”
Tham nhũng “phá hủy niềm tin của chúng ta” và làm nguy hại cho cộng đồng. Các giám mục ghi nhận rằng “khi hối lộ trở thành một đường lối sống của các công chức, các thương gia, hay nhân viên Giáo Hội, thì trách nhiệm chính của họ bị bỏ qua một bên, nhường chỗ cho sự theo đuổi lợi ích riêng tư của họ.”
Tông thư của Hội Đồng Giám Mục Nam Phi Châu “Lời kêu gọi tự duyệt xét lương tâm mình trong tình trạng tham nhũng bành trướng,” được đọc trong các nhà thờ vào trung tuần tháng 10, và là một phần của chương trình Hội Đồng Giám Mục muốn lật mặt nạ những vụ tham nhũng.
Trong tông thư của các giám mục ghi nhận có thống kê nêu cao “vấn nạn hết sức trầm trọng chúng ta đang phải đối phó về tình trạng tham nhũng” tại Nam Phi Châu, và đã có báo cáo là “gần 50 phần trăm công dân tại các quốc gia trong vùng Nam Phi Châu đã công nhận phải hối lộ, đa số là cho các cảnh sát viên và các giới chức trong chính phủ."
Lá thư viết “Tất cả mọi người phải làm một điều gì trong phạm vi quyền hạn của mình để ngăn chặn tệ nạn tham nhũng.”
Các giám mục viết: “Cần có một sự biến cải tâm hồn” và cùng duyệt xét lại “chính thái độ của chúng ta là những công dân bên trong gia đình, xã hội và Giáo Hội.”
Các ngài viết: “Tham nhũng là một hình thức bóc lột người nghèo khổ. Tiền bạc đổ vào túi của những tên tham nhũng có thể được dùng để giúp đỡ những người vô gia cư, để cung cấp thuốc men cho người bệnh tật hay cho các nhu cầu khác."
Các giám mục kêu gọi người Công Giáo “hãy cam kết không trả tiến hối lộ hay đề nghị hối lộ cho bất cứ một ai, dù cho có lý do quan trọng đến mức nào vào lúc đó."
Các giám mục nói: Mỗi khi có người đút lót để được đi tắt lên hàng đầu để xin nhà cửa hay một giấy phép, thì tất cả mọi người khác đều bị đẩy lui, “nhất là những người không tự bảo vệ mình được: người già yếu, trẻ em và người tị nạn.”
Tham nhũng “không chỉ là vấn nạn của chính phủ mà thôi, mà còn là vấn đề của chúng ta nữa,” các giám mục ghi nhận là họ chú tâm vào việc “lôi kéo sự chú ý của mọi người đến những thiệt hại gây ra cho xã hội và Giáo Hội vì nạn tham nhũng hoành hành, và khuyến khích tất cả mọi người hợp tác trong việc diệt trừ nạn tham nhũng."
Các giám mục nói: Tham nhũng “làm cho chúng ta nghĩ xấu về người khác, và nghi kỵ những người chúng ta coi là các vị lãnh đạo và là những người đáng kính.”
Linh mục Dòng Đa Minh Mike Deeb, giám đốc văn phòng công lý và hòa bình của Hội Đồng Giám Mục nói trong một cuộc phỏng vấn bằng điện thoại ngày 21 tháng 10 tại Pretoria: Tất cả các dự án hạ tầng cơ sở quan trọng tại Nam Phi Châu đều ‘nặng mùi’ tham nhũng.”
Cha Deeb nói: Tham nhũng “đã trở thành một thủ tục ‘đầu tiên’ bình thường đối với nhiều người. Cha ghi nhận là “chúng ta dường như đã có một nền văn hóa của thói quen ‘nếu bạn không thắng được chúng thì nên nhập bọn với chúng.'"
Đức Giám Mục Abel Gabuza ở Kimberley, Nam Phi Châu, Chủ Tịch Văn Phòng Công Lý và Hòa Bình nói: thiếu sự kiểm xoát ngân khoản dành cho việc xây cất hệ thống xa lộ mới có lệ phí (toll road) đã dẫn đưa đến việc tham nhũng và gian lận.
Ngài nói trong một thông cáo ngày 18 tháng 10: "Mặc dầu một vài tình trạng tham nhũng đã được những cuộc điều tra hạn chế của Uỷ Ban Cạnh Tranh của Quốc Gia tố cáo, vẫn còn phải làm rất nhiều để lột mặt nạ những người đang hưởng lợi qua công trình xây cất hệ thống xa lộ rất tốn tiền và hữu hiệu này.”
Luật về việc trả tiền lệ phí dùng xa lộ cho phép thu tiền bằng phương pháp điện tử và truy tố những ai không trả tiền.
Đức Giám Mục Gabuza nói: "Việc chúng tôi yêu cầu chính phủ điều tra nguồn gốc của sự “nặng mùi” này, đã không được lắng nghe, khiến cho nhiều người phải nghi ngờ rằng, sự thối nát đã xâm nhập vào các cơ quan công quyền.”
Ngài kêu gọi các vị lãnh tụ chính trị hãy từ bỏ “đường lối làm việc này và đang nắm quyền điều khiển các lộ trình trọng yếu của quốc gia, nối liền các trung tâm thương mại và kỹ nghệ -- để cho những ai có thể trả tiền có thể tiếp tục xử dụng các xa lộ này."
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tập huấn Giới trẻ hạt Đông Tháp tại giáo xứ Nghi Lộc
Giáo Xứ Nghi Lộc
08:48 30/10/2013
Tập huấn Giới trẻ hạt Đông Tháp tại giáo xứ Nghi Lộc: "Thêm bàn tay để siết chặt vòng tay!"
Để tạo cơ hội thuận tiện cho các bạn trẻ trong toàn giáo hạt Đông Tháp có điều kiện cùng giao lưu, trao đổi và chia sẻ những vấn đề về lĩnh vực sinh hoạt giới trẻ Công Giáo. Bên cạnh đó là những câu chuyện trong đời sống giới trẻ, những hành trang, những kinh nghiệm để có thể bước vào đời, làm chứng nhân cho Chúa giữa cuộc sống hôm nay. Ban Mục vụ Giới trẻ giáo hạt Đông Tháp tổ chức chương trình tập huấn cho giới trẻ trong toàn giáo hạt tại giáo xứ Nghi Lộc.
Chương trình tập huấn và giao lưu diễn ra vào chiều Chúa Nhật 27.10.2013.
Ngay từ đầu giờ chiều, các bạn trẻ thuộc 15 giáo xứ trong giáo hạt đã lần lượt tập trung về thánh đường Nghi Lộc. Trước cổng ngôi thánh đường là băngrôn chào mừng “Giới trẻ giáo xứ Nghi Lộc hân hoan chào đón giới trẻ giáo hạt Đông Tháp”. Sau khi đến nơi, các bạn trẻ có khoảng một tiếng đồng hồ để làm quen, thăm hỏi và gặp gỡ cá nhân.
Lúc 14 giờ, thánh lễ khai mạc đã diễn ra tại thánh đường giáo xứ Nghi Lộc. Thánh lễ do Cha quản xứ JB. Đinh Công Đoàn cử hành. Ngài gửi lời chào và thăm hỏi đến các bạn trẻ đã về tham dự chương trình tập huấn, giao lưu. Đồng thời cầu chúc cho chương trình diễn ra tốt đẹp theo kế hoạch, ngõ hầu đem lại nhiều ơn ích cho người trẻ.
Sau khi thánh lễ kết thúc, các bạn trẻ đã cùng giao lưu và chơi các trò chơi sinh hoạt cộng đồng tại sân nhà thờ. Mỗi bạn trẻ, trong màu áo đồng phục của giáo xứ mình, đã thể hiện một tinh thần hăng say, đầy nhiệt huyết, mạnh dạn thể hiện bản thân và đem niềm vui đến với bạn bè xung quanh.
Lúc 16 giờ 30, chương trình tĩnh tâm cho anh chị em giới trẻ đã diễn ra tại trường giáo lý Thiên Khải Đường. Cha Antôn Nguyễn Quang Trung, quản xứ Vạn Phần, đồng thời là Trưởng ban Mục vụ Giới trẻ Giáo phận Vinh, đã giảng tĩnh tâm cho cộng đoàn tham dự. Tuy chỉ diễn ra trong hơn một giờ đồng hồ, nhưng cuộc tĩnh tâm đã giúp cho các bạn trẻ có cơ hội thuận lợi để cùng nhìn lại bản thân, rũ bỏ những ồn ào, xô bồ của cuộc sống để tìm lại những giá trị của Đức tin mà mỗi người được Thiên Chúa trao ban. Ngang qua những sinh hoạt, những việc làm hàng ngày, những hành động mà người trẻ dấn thân, các bạn được mời gọi làm chứng tá cho Thiên Chúa trong xã hội Việt Nam nhiều biến động, cạm bẫy.
Sau giờ cơm tối, các bạn trẻ cùng cộng đoàn giáo xứ Nghi Lộc tham dự giờ Chầu Thánh Thể trang nghiêm, sốt sắng. Sau giờ chầu là buổi thắp nến cầu nguyện cho sự thật, công lý, hòa bình do Ca đoàn Cecilia giáo xứ Nghi Lộc phục vụ.
Trong lời nguyện có đoạn: “Những biến cố lớn xảy đến trong lòng Giáo Hội, cách riêng tại giáo phận Vinh những năm gần đây làm chúng con không khỏi bàng hoàng. Vẫn còn đó nỗi đau Tam Tòa. Vẫn còn đó nỗi đau Con Cuông. Và gần đây nhất là việc nhà cầm quyền dùng bạo lực khủng bố, đàn áp anh chị em giáo dân tại Mỹ Yên. Có cảm tưởng rằng những gì đang ở trong tay mình cũng đều có thể bị tước đoạt, cũng
đều có thể bị giày xéo. Có cảm tưởng rằng ánh sáng, công lý, sự thật, những điều tốt đẹp và cả sự thiện chí, không phải đương nhiên hiển lộ và không phải lúc nào cũng đạt được đích điểm cuối cùng.
Nhưng ta tin trong mỗi phút giây cuộc sống luôn có Thiên Chúa hiện hữu. Có Thiên Chúa, chúng ta thêm vững vàng trong mỗi bước đi, trong mỗi hành động. Xin Chúa cho chúng con biết sẵn sàng sống theo lời Chúa dạy một cách vững vàng kiên trung. Xin cho chúng con biết nhiệt thành làm chứng cho tình yêu bằng cách can đảm bảo vệ hòa bình, sự thật.
Sau giờ Chầu Thánh Thể và buổi thắp nến cầu nguyện, các bạn trẻ đã tập trung về trước lễ đài Đức Mẹ, cùng tham gia chương trình đốt lửa trại, giao lưu văn nghệ. Những màn cử điệu sôi động, những trò chơi sinh hoạt cộng đồng mang “đậm” phong cách tuổi trẻ Công Giáo đã tạo nên một bầu khí đầy hân hoan, gần gũi.
Lúc 22 giờ, chương trình lửa trại khép lại bằng phút cầu nguyện cuối ngày qua giai điệu của bài thánh ca du dương Chạm lòng con Chúa ơi. Sau một ngày đầy sự kiện, các bạn trẻ cùng ngồi lại bên nhau, dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện thầm kín, lắng đọng.
Cảm nhận chung của Ban Tổ chức, các bạn trẻ tham dự và bà con giáo dân đều nhận định rằng chương trình tập huấn, giao lưu của giới trẻ giáo hạt Đông Tháp tại giáo xứ Nghi Lộc vừa qua đã diễn ra thành công tốt đẹp, tạo được nhiều dấu ấn. Một điều đặc biệt dễ nhận thấy là mối dây gắn kết giữa các bạn trẻ trong giáo hạt đã được siết chặt thêm!
Để tạo cơ hội thuận tiện cho các bạn trẻ trong toàn giáo hạt Đông Tháp có điều kiện cùng giao lưu, trao đổi và chia sẻ những vấn đề về lĩnh vực sinh hoạt giới trẻ Công Giáo. Bên cạnh đó là những câu chuyện trong đời sống giới trẻ, những hành trang, những kinh nghiệm để có thể bước vào đời, làm chứng nhân cho Chúa giữa cuộc sống hôm nay. Ban Mục vụ Giới trẻ giáo hạt Đông Tháp tổ chức chương trình tập huấn cho giới trẻ trong toàn giáo hạt tại giáo xứ Nghi Lộc.
Chương trình tập huấn và giao lưu diễn ra vào chiều Chúa Nhật 27.10.2013.
Ngay từ đầu giờ chiều, các bạn trẻ thuộc 15 giáo xứ trong giáo hạt đã lần lượt tập trung về thánh đường Nghi Lộc. Trước cổng ngôi thánh đường là băngrôn chào mừng “Giới trẻ giáo xứ Nghi Lộc hân hoan chào đón giới trẻ giáo hạt Đông Tháp”. Sau khi đến nơi, các bạn trẻ có khoảng một tiếng đồng hồ để làm quen, thăm hỏi và gặp gỡ cá nhân.
Lúc 14 giờ, thánh lễ khai mạc đã diễn ra tại thánh đường giáo xứ Nghi Lộc. Thánh lễ do Cha quản xứ JB. Đinh Công Đoàn cử hành. Ngài gửi lời chào và thăm hỏi đến các bạn trẻ đã về tham dự chương trình tập huấn, giao lưu. Đồng thời cầu chúc cho chương trình diễn ra tốt đẹp theo kế hoạch, ngõ hầu đem lại nhiều ơn ích cho người trẻ.
Sau khi thánh lễ kết thúc, các bạn trẻ đã cùng giao lưu và chơi các trò chơi sinh hoạt cộng đồng tại sân nhà thờ. Mỗi bạn trẻ, trong màu áo đồng phục của giáo xứ mình, đã thể hiện một tinh thần hăng say, đầy nhiệt huyết, mạnh dạn thể hiện bản thân và đem niềm vui đến với bạn bè xung quanh.
Lúc 16 giờ 30, chương trình tĩnh tâm cho anh chị em giới trẻ đã diễn ra tại trường giáo lý Thiên Khải Đường. Cha Antôn Nguyễn Quang Trung, quản xứ Vạn Phần, đồng thời là Trưởng ban Mục vụ Giới trẻ Giáo phận Vinh, đã giảng tĩnh tâm cho cộng đoàn tham dự. Tuy chỉ diễn ra trong hơn một giờ đồng hồ, nhưng cuộc tĩnh tâm đã giúp cho các bạn trẻ có cơ hội thuận lợi để cùng nhìn lại bản thân, rũ bỏ những ồn ào, xô bồ của cuộc sống để tìm lại những giá trị của Đức tin mà mỗi người được Thiên Chúa trao ban. Ngang qua những sinh hoạt, những việc làm hàng ngày, những hành động mà người trẻ dấn thân, các bạn được mời gọi làm chứng tá cho Thiên Chúa trong xã hội Việt Nam nhiều biến động, cạm bẫy.
Sau giờ cơm tối, các bạn trẻ cùng cộng đoàn giáo xứ Nghi Lộc tham dự giờ Chầu Thánh Thể trang nghiêm, sốt sắng. Sau giờ chầu là buổi thắp nến cầu nguyện cho sự thật, công lý, hòa bình do Ca đoàn Cecilia giáo xứ Nghi Lộc phục vụ.
Trong lời nguyện có đoạn: “Những biến cố lớn xảy đến trong lòng Giáo Hội, cách riêng tại giáo phận Vinh những năm gần đây làm chúng con không khỏi bàng hoàng. Vẫn còn đó nỗi đau Tam Tòa. Vẫn còn đó nỗi đau Con Cuông. Và gần đây nhất là việc nhà cầm quyền dùng bạo lực khủng bố, đàn áp anh chị em giáo dân tại Mỹ Yên. Có cảm tưởng rằng những gì đang ở trong tay mình cũng đều có thể bị tước đoạt, cũng
đều có thể bị giày xéo. Có cảm tưởng rằng ánh sáng, công lý, sự thật, những điều tốt đẹp và cả sự thiện chí, không phải đương nhiên hiển lộ và không phải lúc nào cũng đạt được đích điểm cuối cùng.
Nhưng ta tin trong mỗi phút giây cuộc sống luôn có Thiên Chúa hiện hữu. Có Thiên Chúa, chúng ta thêm vững vàng trong mỗi bước đi, trong mỗi hành động. Xin Chúa cho chúng con biết sẵn sàng sống theo lời Chúa dạy một cách vững vàng kiên trung. Xin cho chúng con biết nhiệt thành làm chứng cho tình yêu bằng cách can đảm bảo vệ hòa bình, sự thật.
Sau giờ Chầu Thánh Thể và buổi thắp nến cầu nguyện, các bạn trẻ đã tập trung về trước lễ đài Đức Mẹ, cùng tham gia chương trình đốt lửa trại, giao lưu văn nghệ. Những màn cử điệu sôi động, những trò chơi sinh hoạt cộng đồng mang “đậm” phong cách tuổi trẻ Công Giáo đã tạo nên một bầu khí đầy hân hoan, gần gũi.
Lúc 22 giờ, chương trình lửa trại khép lại bằng phút cầu nguyện cuối ngày qua giai điệu của bài thánh ca du dương Chạm lòng con Chúa ơi. Sau một ngày đầy sự kiện, các bạn trẻ cùng ngồi lại bên nhau, dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện thầm kín, lắng đọng.
Cảm nhận chung của Ban Tổ chức, các bạn trẻ tham dự và bà con giáo dân đều nhận định rằng chương trình tập huấn, giao lưu của giới trẻ giáo hạt Đông Tháp tại giáo xứ Nghi Lộc vừa qua đã diễn ra thành công tốt đẹp, tạo được nhiều dấu ấn. Một điều đặc biệt dễ nhận thấy là mối dây gắn kết giữa các bạn trẻ trong giáo hạt đã được siết chặt thêm!
Anh em dân tộc thiểu số hạt Phương Lâm hành hương năm Đức Tin
Lm. Matthêu.
09:07 30/10/2013
ANH EM DÂN TỘC THIỂU SỐ HẠT PHƯƠNG LÂM
HÀNH HƯƠNG NĂM ĐỨC TIN 2013
Để hưởng ứng chương trình mục vụ NĂM ĐỨC TIN VÀ KẾ HOẠCH NGŨ NIÊN CỦA GP. XUÂN LỘC, sáng ngày 27.10.2013, gần 700 anh chị em dân tộc thiểu số đến từ các giáo xứ, giáo sóc thuộc giáo hạt Phương Lâm đã quy tụ về Nhà Thờ Phương Lâm (nhà thờ Cha Quản hạt) để tham dự Ngày hành hương Năm Đức Tin dành cho đồng bào mình.
Trong bầu khí hân hoan, anh chị em dân tộc ít người được dịp gặp gỡ nhau và nhất là được gặp gỡ Cha Quản Hạt, quý cha Đặc trách mảng “dân tộc” của giáo xứ, giáo sóc mình. Anh chị em được lắng nghe những chia sẻ rất gần gũi và thiết thực về chủ đề Sống Năm Đức Tin từ quý Cha.
Mở đầu chương trình ngày hành hương là lời chào thân ái gửi đến anh chị em dân tộc của Cha Quản hạt, chánh xứ Phương Lâm. Ngài nói: Từ trước đến nay, đây là lần đầu tiên giáo hạt Phương Lâm có ngày gặp mặt đầy đủ của các anh chị em dân tộc ít người thuộc các giáo xứ, giáo sóc trong giáo hạt. Ngài cầu chúc mọi người trong buôn, sóc luôn sống yêu thương nhau theo tinh thần Tin Mừng. Ngài cũng bày tỏ sự quan tâm đặc biệt của mình đến anh chị em dân tộc và Ngài tâm sự: “anh chị em luôn ở trong trái tim của giáo phận, cách riêng của quí Đức Cha và quí Cha…”.
Sau lời phát biểu khai mạc và ban huấn từ là phần chia sẻ đề tài: “Năm Đức Tin” của cha Giuse Lê Trần Đình Vũ, đặc trách giáo họ Tà Lài. Bằng kinh nghiệm đồng hành mục vụ cùng với anh chị em giáo dân đồng bào ít người trong Sóc Tà Lài những năm qua, Cha đã gửi đến anh chị em những bài chia sẻ về Năm Đức Tin bằng chương trình powerpoint rất sống động, gần gũi, dễ thực hành… trong cuộc sống vốn nhiều bấp bênh của các tín hữu đồng bào ít người.
Cao điểm của ngày hành hương là Thánh lễ đồng tế lúc 10 giờ do Cha Antôn Nguyễn Văn Thục, Quản hạt Phương Lâm chủ tế. Đồng tế với ngài còn có Cha Đaminh Nguyễn Minh Phương, chánh xứ Quang Lâm, đặc trách anh chị em dân tộc Sóc Bon Gõ, Cha Giuse Lê Trần Đình Vũ, Phó xứ Thạch Lâm, đặc trách Sóc Tà Lài, cha Antôn Bùi Văn Tới, phó xứ Phú Lâm, cha Matthêu Nguyễn Đại Tài, phó xứ Phương Lâm.
Trong bài chia sẻ Tin Mừng lễ Chúa Nhật 30 Thường Niên, Cha Đaminh Nguyễn Minh Phương, chánh xứ Quang Lâm, đặc trách anh chị em dân tộc Sóc Bon Gõ, đã nhắc nhớ lại cho cộng đoàn phụng vụ Thư Mục Vụ Năm Đức Tin 2012-2013 của quý Đức Cha giáo phận, Năm Đức Tin Và Kế Hoạch Ngũ Niên Của Gp. Xuân Lộc: “Năm Đức Tin là lời mời gọi hãy hoán cải một cách đích thực và được đổi mới, trở về với Chúa là Đấng duy nhất cứu độ thế giới…” (PF, số 6).
Nhân ngày hành hương giáo hạt dành cho anh chị em dân tộc ít người, Cha Đaminh cũng mời gọi anh chị em dân tộc canh tân công cuộc Phúc Âm Hóa và thông truyền lại cho thế hệ con cháu của mình kho tàng Đức tin quý báu. Liên hệ với bài Tin Mừng Chúa Nhật 30 Thường Niên, ngài mời gọi anh chị em sống tâm tình của người thu thuế: khiêm nhường, hiền hành. Vì đó là thái độ Chúa yêu mến và chúc lành.
Cuối cùng, ngài chúc toàn thể anh chị em giáo dân đồng bào ít người tràn đầy ơn Chúa, có nhiều sức mạnh của Đức Tin để biết loan truyền Lời Chúa cho mọi người, nhất là trong giáo sóc, trong gia đình của mình, làm gương sáng đức tin cho vợ, cho con cháu mình….
Toàn bộ các bài Thánh ca trong Thánh lễ và bộ lễ được hát bằng tiếng dân tộc, do ca đoàn Sóc Tà Lài phụ trách. Ca trưởng do quý Dì Dòng Đaminh Tam Hiệp đảm nhận.
Thánh lễ kết thúc bằng phép lành toàn xá dành cho những người tham dự thánh lễ tại Nhà thờ Cha Quản Hạt trong Năm Đức Tin. Tâm ca Truyền giáo vang lên như lời cầu khẩn mà quý anh chị em dân tộc dâng lên Thiên Chúa: “Xin Chúa ban cho đoàn chúng con nên tông đồ nhiệt thành mở nước Chúa Trời….”.
Nếu phần chia sẻ chủ đề năm Đức Tin và Thánh lễ đồng tế mang tính cách trang nghiêm, linh thánh, thì bữa cơm trưa đạm bạc lại vui tươi, sinh động bởi các tiết mục văn nghệ đặc sắc của bà con giáo dân các Sóc. Những tiết mục thánh vũ, thánh ca của các Sóc: La Hủ, Bon Gõ, Tà Lài được đầu tư công phu từ vũ điệu, trang phục, dụng cụ…. đã làm cho bầu không khí buổi liên hoan thêm sinh động phấn khởi.
Mọi người ra về trong niềm vui của ngày hội hành hương. Tất cả đều mong ước sẽ có lần gặp mặt thứ hai và những lần kế tiếp. Để họ – những anh chị em dân tộc thiểu số được tắm mình trong dòng sông Hiệp Thông – Yêu Thương của Giáo Hội.
Lm. Matthêu.
HÀNH HƯƠNG NĂM ĐỨC TIN 2013
Trong bầu khí hân hoan, anh chị em dân tộc ít người được dịp gặp gỡ nhau và nhất là được gặp gỡ Cha Quản Hạt, quý cha Đặc trách mảng “dân tộc” của giáo xứ, giáo sóc mình. Anh chị em được lắng nghe những chia sẻ rất gần gũi và thiết thực về chủ đề Sống Năm Đức Tin từ quý Cha.
Mở đầu chương trình ngày hành hương là lời chào thân ái gửi đến anh chị em dân tộc của Cha Quản hạt, chánh xứ Phương Lâm. Ngài nói: Từ trước đến nay, đây là lần đầu tiên giáo hạt Phương Lâm có ngày gặp mặt đầy đủ của các anh chị em dân tộc ít người thuộc các giáo xứ, giáo sóc trong giáo hạt. Ngài cầu chúc mọi người trong buôn, sóc luôn sống yêu thương nhau theo tinh thần Tin Mừng. Ngài cũng bày tỏ sự quan tâm đặc biệt của mình đến anh chị em dân tộc và Ngài tâm sự: “anh chị em luôn ở trong trái tim của giáo phận, cách riêng của quí Đức Cha và quí Cha…”.
Sau lời phát biểu khai mạc và ban huấn từ là phần chia sẻ đề tài: “Năm Đức Tin” của cha Giuse Lê Trần Đình Vũ, đặc trách giáo họ Tà Lài. Bằng kinh nghiệm đồng hành mục vụ cùng với anh chị em giáo dân đồng bào ít người trong Sóc Tà Lài những năm qua, Cha đã gửi đến anh chị em những bài chia sẻ về Năm Đức Tin bằng chương trình powerpoint rất sống động, gần gũi, dễ thực hành… trong cuộc sống vốn nhiều bấp bênh của các tín hữu đồng bào ít người.
Cao điểm của ngày hành hương là Thánh lễ đồng tế lúc 10 giờ do Cha Antôn Nguyễn Văn Thục, Quản hạt Phương Lâm chủ tế. Đồng tế với ngài còn có Cha Đaminh Nguyễn Minh Phương, chánh xứ Quang Lâm, đặc trách anh chị em dân tộc Sóc Bon Gõ, Cha Giuse Lê Trần Đình Vũ, Phó xứ Thạch Lâm, đặc trách Sóc Tà Lài, cha Antôn Bùi Văn Tới, phó xứ Phú Lâm, cha Matthêu Nguyễn Đại Tài, phó xứ Phương Lâm.
Trong bài chia sẻ Tin Mừng lễ Chúa Nhật 30 Thường Niên, Cha Đaminh Nguyễn Minh Phương, chánh xứ Quang Lâm, đặc trách anh chị em dân tộc Sóc Bon Gõ, đã nhắc nhớ lại cho cộng đoàn phụng vụ Thư Mục Vụ Năm Đức Tin 2012-2013 của quý Đức Cha giáo phận, Năm Đức Tin Và Kế Hoạch Ngũ Niên Của Gp. Xuân Lộc: “Năm Đức Tin là lời mời gọi hãy hoán cải một cách đích thực và được đổi mới, trở về với Chúa là Đấng duy nhất cứu độ thế giới…” (PF, số 6).
Nhân ngày hành hương giáo hạt dành cho anh chị em dân tộc ít người, Cha Đaminh cũng mời gọi anh chị em dân tộc canh tân công cuộc Phúc Âm Hóa và thông truyền lại cho thế hệ con cháu của mình kho tàng Đức tin quý báu. Liên hệ với bài Tin Mừng Chúa Nhật 30 Thường Niên, ngài mời gọi anh chị em sống tâm tình của người thu thuế: khiêm nhường, hiền hành. Vì đó là thái độ Chúa yêu mến và chúc lành.
Cuối cùng, ngài chúc toàn thể anh chị em giáo dân đồng bào ít người tràn đầy ơn Chúa, có nhiều sức mạnh của Đức Tin để biết loan truyền Lời Chúa cho mọi người, nhất là trong giáo sóc, trong gia đình của mình, làm gương sáng đức tin cho vợ, cho con cháu mình….
Toàn bộ các bài Thánh ca trong Thánh lễ và bộ lễ được hát bằng tiếng dân tộc, do ca đoàn Sóc Tà Lài phụ trách. Ca trưởng do quý Dì Dòng Đaminh Tam Hiệp đảm nhận.
Thánh lễ kết thúc bằng phép lành toàn xá dành cho những người tham dự thánh lễ tại Nhà thờ Cha Quản Hạt trong Năm Đức Tin. Tâm ca Truyền giáo vang lên như lời cầu khẩn mà quý anh chị em dân tộc dâng lên Thiên Chúa: “Xin Chúa ban cho đoàn chúng con nên tông đồ nhiệt thành mở nước Chúa Trời….”.
Nếu phần chia sẻ chủ đề năm Đức Tin và Thánh lễ đồng tế mang tính cách trang nghiêm, linh thánh, thì bữa cơm trưa đạm bạc lại vui tươi, sinh động bởi các tiết mục văn nghệ đặc sắc của bà con giáo dân các Sóc. Những tiết mục thánh vũ, thánh ca của các Sóc: La Hủ, Bon Gõ, Tà Lài được đầu tư công phu từ vũ điệu, trang phục, dụng cụ…. đã làm cho bầu không khí buổi liên hoan thêm sinh động phấn khởi.
Mọi người ra về trong niềm vui của ngày hội hành hương. Tất cả đều mong ước sẽ có lần gặp mặt thứ hai và những lần kế tiếp. Để họ – những anh chị em dân tộc thiểu số được tắm mình trong dòng sông Hiệp Thông – Yêu Thương của Giáo Hội.
Lm. Matthêu.
Buổi giao lưu các ca đoàn vùng Jylland, Đan Mạch
Hồn Nhỏ
09:33 30/10/2013
BUỔI GIAO LƯU CÁC CA ĐOÀN VÙNG JYLLAND, ĐAN MẠCH.
Chiều thứ bảy ngày 26 tháng 10 vừa qua, cha Giuse Nguyễn Minh Quang cùng với các anh chị em trong ca đoàn Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã tổ chức một buổi giao lưu cho 6 ca đoàn khác ở Hjørring, Aalborg, Århus, Horsens, Esbjerg và Åbenrå thuộc vùng Jylland, Đan Mạch.
Xem Hình
Tổng số ca của các ca đoàn tới tham dự khoảng 150 người. Mọi người đã có mặt đông đủ trước lúc 15g00 để cùng tham dự thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ Viborg với phần thánh ca do ca đoàn chủ nhà Viborg đảm trách. Nhà thờ hôm nay hình như nhỏ hơn thường ngày khi được vinh dự tiếp đón nhiều vị khách quý cùng đến tham dự thánh lễ. Mọi người đã tham dự thánh lễ trong bầu không khí nghiêm trang và sốt sắng.
Thánh lễ kết thúc lúc 16g10, sau đó mọi người đã cùng nhau tới hội trường để khai mạc chương trình giao lưu. Đúng 17g00 cha Giuse Nguyễn Minh Quang đã chính thức khai mạc chương trình. Ngài đã ngõ lời chào mừng tới tất cả mọi người đã đáp lại lời mời và đã tới tham dự buổi giao lưu hôm nay. Ca đoàn Viborg muốn tổ chức buổi giao lưu văn nghệ hôm nay để anh chị em các ca đoàn có dịp gặp gỡ, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm cho nhau. 2 thành viên trong ca đoàn Viborg đó là anh Hải và chị Liễu đã giúp điều khiển chương trình cho buổi giao lưu.
Các anh chị em các ca đoàn đã hát với tất cả con tim và khả năng của mình, và đã được sự đáp trả nồng nhiệt của mọi người bằng những tràng pháo tay thật lớn. Có tất cả 18 tiết mục mà phần lớn là hợp ca, được biểu diễn trong khoảng thời gian 2 tiếng đồng hồ. Các bài hát hầu hết là Thánh ca, chỉ có 1,2 bài nhạc sinh hoạt gọi là cho vui vẻ và thay đổi không khí. So với những lần giao lưu trước đây thì các ca đoàn đã có sự tiến bộ rất nhiều về nhiều phương diện từ trang phục, cách trình diễn cũng như khả năng chuyên môn. Tóm lại ai và ca đoàn nào cũng được. .. khen cả, mọi người tham dự đều thích thú và bày tỏ mong muốn sẽ còn nhiều dịp vui như thế này được tổ chức trong các lần sau. Một số người vì ở xa và có con nhỏ nên về trước, còn nhiều người vẫn còn ham vui nên ở lại sinh hoạt tới hơn 23g00 mới giải tán. Mọi người chia tay ra về trong bầu không khi vui tươi, quyến luyến và hẹn gặp lại nhau lần tới được tổ chức vào ngày 24 tháng 5 năm tới tại Århus.
Chiều thứ bảy ngày 26 tháng 10 vừa qua, cha Giuse Nguyễn Minh Quang cùng với các anh chị em trong ca đoàn Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã tổ chức một buổi giao lưu cho 6 ca đoàn khác ở Hjørring, Aalborg, Århus, Horsens, Esbjerg và Åbenrå thuộc vùng Jylland, Đan Mạch.
Xem Hình
Tổng số ca của các ca đoàn tới tham dự khoảng 150 người. Mọi người đã có mặt đông đủ trước lúc 15g00 để cùng tham dự thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ Viborg với phần thánh ca do ca đoàn chủ nhà Viborg đảm trách. Nhà thờ hôm nay hình như nhỏ hơn thường ngày khi được vinh dự tiếp đón nhiều vị khách quý cùng đến tham dự thánh lễ. Mọi người đã tham dự thánh lễ trong bầu không khí nghiêm trang và sốt sắng.
Thánh lễ kết thúc lúc 16g10, sau đó mọi người đã cùng nhau tới hội trường để khai mạc chương trình giao lưu. Đúng 17g00 cha Giuse Nguyễn Minh Quang đã chính thức khai mạc chương trình. Ngài đã ngõ lời chào mừng tới tất cả mọi người đã đáp lại lời mời và đã tới tham dự buổi giao lưu hôm nay. Ca đoàn Viborg muốn tổ chức buổi giao lưu văn nghệ hôm nay để anh chị em các ca đoàn có dịp gặp gỡ, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm cho nhau. 2 thành viên trong ca đoàn Viborg đó là anh Hải và chị Liễu đã giúp điều khiển chương trình cho buổi giao lưu.
Các anh chị em các ca đoàn đã hát với tất cả con tim và khả năng của mình, và đã được sự đáp trả nồng nhiệt của mọi người bằng những tràng pháo tay thật lớn. Có tất cả 18 tiết mục mà phần lớn là hợp ca, được biểu diễn trong khoảng thời gian 2 tiếng đồng hồ. Các bài hát hầu hết là Thánh ca, chỉ có 1,2 bài nhạc sinh hoạt gọi là cho vui vẻ và thay đổi không khí. So với những lần giao lưu trước đây thì các ca đoàn đã có sự tiến bộ rất nhiều về nhiều phương diện từ trang phục, cách trình diễn cũng như khả năng chuyên môn. Tóm lại ai và ca đoàn nào cũng được. .. khen cả, mọi người tham dự đều thích thú và bày tỏ mong muốn sẽ còn nhiều dịp vui như thế này được tổ chức trong các lần sau. Một số người vì ở xa và có con nhỏ nên về trước, còn nhiều người vẫn còn ham vui nên ở lại sinh hoạt tới hơn 23g00 mới giải tán. Mọi người chia tay ra về trong bầu không khi vui tươi, quyến luyến và hẹn gặp lại nhau lần tới được tổ chức vào ngày 24 tháng 5 năm tới tại Århus.
Dòng Chúa Cứu Thế họp mặt nhân dịp đặc biệt
Anmai, CSsR
09:39 30/10/2013
DÒNG CHÚA CỨU THẾ HỌP MẶT NHÂN DỊP ĐẶC BIỆT
Năm nào cũng vậy, có những dịp mừng những kỷ niệm trong Tỉnh Dòng. Năm 2013, Tỉnh Dòng mừng khá nhiều biến cố quan trọng:
Xem Hình
- 50 năm hình thành Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam
- 80 năm thành lập Tu Viện DCCT Sài Gòn
- 60 năm dâng hiến Đền Thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
- 50 năm khởi sự và xây dựng giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
- 50 năm khởi sự và xây dựng giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
- 50 năm thành lập Tu Viện DCCT Châu Ổ
- Mừng quý cha quý thầy có ngày lễ kỷ niệm đặc biệt trong năm.
Ngày 30 tháng 10 năm nay chính là ngày mừng những biến cố đặc biệt trong năm 2013 này.
Vài ngày trước Đại Lễ, quý cha quý thầy đang phục vụ ở những miền truyền giáo, những miền xa đã về với ngôi nhà Mẹ của Tỉnh Dòng để chuẩn bị mừng Lễ.
8 g 30 sáng hôm nay, tại hội trường thánh Anphongsô, hiện diện rất đông đủ quý cha quý thầy trong Tỉnh Dòng về nhà Mẹ thân thương.
12 g 15, tại nhà cơm, anh em cùng nhau chia sẻ bữa cơm thân mật nhân dịp họp mặt trọng đại này.
Trong bữa cơm thân mật, chương trình văn nghệ do quý thầy Học Viện cùng các em Dự Tu đảm nhiệm. Hết sức hào hứng, sôi động với sự góp mặt của Cha Giuse Tiến Lộc.
Kế đến là phần tặng quà cho Cha Bề Trên Tổng Quyền và quý cha trong ban Kinh Lược. Sau đó là phần tặng quà cho quý cha quý thầy có ngày lễ kỷ niệm đặc biệt trong năm: Cửu Tuần, Bát Tuần, Thất Tuần, Ngọc Khánh, Kim Khánh Khấn Dòng, Ngân Khánh linh mục. ...
16 g 30, tại phòng chung của Tu Viện, quý cha chuẩn bị phẩm phục cho Thánh Lễ tạ ơn chiều nay.
17 g 00, đoàn đồng tế cất bước từ sân Tu Viện. Chủ tế Thánh Lễ chiều nay là Cha Giám Tỉnh, cùng đồng tế với Cha Giám Tỉnh là rất đông quý cha từ mọi miền của đất nước về nhà Mẹ nhân ngày họp mặt. Đặc biệt, đồng tế trong Thánh Lễ chiều nay có sự hiện diện của Cha Tổng Quyền Michael Brehl, ban Kinh Lược và một số cha khách thân quen với Nhà Dòng, với quý cha quý thầy có ngày mừng đặc biệt trong năm.
Trước khi bước vào Thánh Lễ, Cha Giám Tỉnh Vinhsơn Phạm Trung Thành có đôi lời chào mừng cộng đoàn đến tham dự Thánh Lễ. Cha Giám Tỉnh chào mừng quý cha, quý tu sĩ nam nữ, cộng đoàn dân Chúa và đặc biệt là thân nhân, ân nhân của quý cha quý thầy có dịp mừng Lễ đặc biệt trong năm nay. Đặc biệt nhất, Cha Giám Tỉnh giới thiệu sự hiện diện của Cha Bề Trên Tổng Quyền và Đoàn Kinh Lược đến từ Trung Ương Tỉnh.
Cha Giám Tỉnh nói lên ý Lễ của Thánh Lễ hôm nay là mừng ngày thành lập Dòng và phụng vụ Thánh Lễ là cung hiến Thánh Đường Latêranô.
Chia sẻ trong Thánh Lễ này là Cha Tổng Quyền. Chuyển dịch sang tiếng Việt bài giảng của Cha Tổng Quyền là Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng.
Cha Tổng Quyền có lời chào cộng đoàn và cám ơn người thông dịch. ..
Cha chia sẻ về ý định chọn ngày thành lập Dòng của Cha Thánh Anphongsô đó là ngày Lễ cung hiến Thánh Đường Latêranô. Với ý tưởng đó, bài Tin Mừng cộng đoàn nghe về việc Chúa Giêsu lên Đền Thờ. Đền Thờ chính là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và Thiên Chúa gặp gỡ con người. .. Đền Thờ do con người xây nên thì bị phá hủy nhưng Đền Thờ Thiên Chúa nơi mỗi con người. .. Như bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô nói mỗi người là thân mình của Chúa Giêsu. .. Nước sự sống như trong bài đọc thứ nhất được khởi đi từ Chúa Giêsu để nước đó lan tỏa đi khắp nơi để mang ơn cứu độ cho mọi người. .. Chúng tôi vui mừng vì được góp phần mình hiến thân trong sứ vụ loan báo Tin Mừng cho người nghèo. .. Cảm ơn sự cộng tác của anh chị em đã cùng với chúng tôi hiến mình phục vụ cho ơn cứu độ. ..
Trước khi ban phép lành cuối Lễ, Cha Giám Tỉnh có đôi lời cảm ơn Cha Bề Trên Tổng Quyền, Đoàn Kinh Lược và cộng đoàn. .. Lẵng hoa tươi dâng lên Cha Bề Trên Tổng Quyền tượng trưng cho tấm lòng của cộng đoàn.
Cha Bề Trên Tổng Quyền đáp từ bằng những lời cảm ơn rất dễ thương. Cha nói nếu như phải cảm ơn từng người thì lâu lắm, chỉ biết nói cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn và cảm ơn từng người một.
Sau phép lành cuối Lễ, những tấm hình kỷ niệm được lưu lại.
Nghỉ giải lao một chút sau Thánh Lễ, 19 g 20 chương trình văn nghệ với chủ đề "Đêm nhạc loan báo Tin Mừng theo cách mới: niềm hy vọng con tim và cấu trúc được đổi mới vì sứ vụ" được bắt đầu.
Cộng đoàn chào đón tốp ca cùng đoàn múa phụ họa "Lạy Chúa chúng con về từ bốn phương trời. .." của linh mục Hoàng Đức.
Cha Giám Tỉnh Vinhsơn Phạm Trung Thành nói ý nghĩa và chủ đề đêm nhạc hôm nay, Cha mời cộng đoàn cùng dâng lời nguyện với kinh Lạy Cha.
Theo chủ đề của đêm nhạc, các tác phẩm của các linh mục nhạc sĩ Giuse Trần Sĩ Tín, Phêrô Nguyễn Đức Mầu, Phêrô Nguyễn Thành Tâm được quý thầy Học Viện cùng các ca viên của các ca đoàn trong giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Đặc biệt là chính các tác giả là các cha Sĩ Tín, Hoàng Đức (Nguyễn Đức Mầu), Thành Tâm đã trình bày tác phẩm của mình. Giữa các tiết mục có phần phỏng vấn quý cha nhạc sĩ. Quý cha trả lời hoàn cảnh cho ra đời các tác phẩm của quý cha. ..
Cộng đoàn cùng lắng đọng kết hợp tâm tình dâng hiến mừng ngày đặc biệt của quý cha quý thầy với ca đoàn tổng hợp giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp qua bài "Tôi kết hiệp" của cố linh mục nhạc sĩ Phêrô Hoàng Diệp.
Cha Giám Đốc Dự Tu cùng quý thầy Dự Tu cùng trình bày tác phẩm mới của linh mục Giuse Hoàng Phúc.
Cha Giuse Tiến Lộc và Cha Quang Uy cùng gởi đến cộng đoàn một bài hát hết sức bình dị qua trò chơi âm nhạc. Cả cộng đoàn cùng hát theo với sự điều khiển linh hoạt và dễ thương thu hút cả khán phòng.
Đêm nhạc khép lại với phép lành của Cha Bề Trên Tổng Quyền.
Anmai, CSsR
Năm nào cũng vậy, có những dịp mừng những kỷ niệm trong Tỉnh Dòng. Năm 2013, Tỉnh Dòng mừng khá nhiều biến cố quan trọng:
Xem Hình
- 50 năm hình thành Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam
- 80 năm thành lập Tu Viện DCCT Sài Gòn
- 60 năm dâng hiến Đền Thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
- 50 năm khởi sự và xây dựng giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
- 50 năm khởi sự và xây dựng giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
- 50 năm thành lập Tu Viện DCCT Châu Ổ
- Mừng quý cha quý thầy có ngày lễ kỷ niệm đặc biệt trong năm.
Ngày 30 tháng 10 năm nay chính là ngày mừng những biến cố đặc biệt trong năm 2013 này.
Vài ngày trước Đại Lễ, quý cha quý thầy đang phục vụ ở những miền truyền giáo, những miền xa đã về với ngôi nhà Mẹ của Tỉnh Dòng để chuẩn bị mừng Lễ.
8 g 30 sáng hôm nay, tại hội trường thánh Anphongsô, hiện diện rất đông đủ quý cha quý thầy trong Tỉnh Dòng về nhà Mẹ thân thương.
12 g 15, tại nhà cơm, anh em cùng nhau chia sẻ bữa cơm thân mật nhân dịp họp mặt trọng đại này.
Trong bữa cơm thân mật, chương trình văn nghệ do quý thầy Học Viện cùng các em Dự Tu đảm nhiệm. Hết sức hào hứng, sôi động với sự góp mặt của Cha Giuse Tiến Lộc.
Kế đến là phần tặng quà cho Cha Bề Trên Tổng Quyền và quý cha trong ban Kinh Lược. Sau đó là phần tặng quà cho quý cha quý thầy có ngày lễ kỷ niệm đặc biệt trong năm: Cửu Tuần, Bát Tuần, Thất Tuần, Ngọc Khánh, Kim Khánh Khấn Dòng, Ngân Khánh linh mục. ...
16 g 30, tại phòng chung của Tu Viện, quý cha chuẩn bị phẩm phục cho Thánh Lễ tạ ơn chiều nay.
17 g 00, đoàn đồng tế cất bước từ sân Tu Viện. Chủ tế Thánh Lễ chiều nay là Cha Giám Tỉnh, cùng đồng tế với Cha Giám Tỉnh là rất đông quý cha từ mọi miền của đất nước về nhà Mẹ nhân ngày họp mặt. Đặc biệt, đồng tế trong Thánh Lễ chiều nay có sự hiện diện của Cha Tổng Quyền Michael Brehl, ban Kinh Lược và một số cha khách thân quen với Nhà Dòng, với quý cha quý thầy có ngày mừng đặc biệt trong năm.
Trước khi bước vào Thánh Lễ, Cha Giám Tỉnh Vinhsơn Phạm Trung Thành có đôi lời chào mừng cộng đoàn đến tham dự Thánh Lễ. Cha Giám Tỉnh chào mừng quý cha, quý tu sĩ nam nữ, cộng đoàn dân Chúa và đặc biệt là thân nhân, ân nhân của quý cha quý thầy có dịp mừng Lễ đặc biệt trong năm nay. Đặc biệt nhất, Cha Giám Tỉnh giới thiệu sự hiện diện của Cha Bề Trên Tổng Quyền và Đoàn Kinh Lược đến từ Trung Ương Tỉnh.
Cha Giám Tỉnh nói lên ý Lễ của Thánh Lễ hôm nay là mừng ngày thành lập Dòng và phụng vụ Thánh Lễ là cung hiến Thánh Đường Latêranô.
Chia sẻ trong Thánh Lễ này là Cha Tổng Quyền. Chuyển dịch sang tiếng Việt bài giảng của Cha Tổng Quyền là Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng.
Cha Tổng Quyền có lời chào cộng đoàn và cám ơn người thông dịch. ..
Cha chia sẻ về ý định chọn ngày thành lập Dòng của Cha Thánh Anphongsô đó là ngày Lễ cung hiến Thánh Đường Latêranô. Với ý tưởng đó, bài Tin Mừng cộng đoàn nghe về việc Chúa Giêsu lên Đền Thờ. Đền Thờ chính là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và Thiên Chúa gặp gỡ con người. .. Đền Thờ do con người xây nên thì bị phá hủy nhưng Đền Thờ Thiên Chúa nơi mỗi con người. .. Như bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô nói mỗi người là thân mình của Chúa Giêsu. .. Nước sự sống như trong bài đọc thứ nhất được khởi đi từ Chúa Giêsu để nước đó lan tỏa đi khắp nơi để mang ơn cứu độ cho mọi người. .. Chúng tôi vui mừng vì được góp phần mình hiến thân trong sứ vụ loan báo Tin Mừng cho người nghèo. .. Cảm ơn sự cộng tác của anh chị em đã cùng với chúng tôi hiến mình phục vụ cho ơn cứu độ. ..
Trước khi ban phép lành cuối Lễ, Cha Giám Tỉnh có đôi lời cảm ơn Cha Bề Trên Tổng Quyền, Đoàn Kinh Lược và cộng đoàn. .. Lẵng hoa tươi dâng lên Cha Bề Trên Tổng Quyền tượng trưng cho tấm lòng của cộng đoàn.
Cha Bề Trên Tổng Quyền đáp từ bằng những lời cảm ơn rất dễ thương. Cha nói nếu như phải cảm ơn từng người thì lâu lắm, chỉ biết nói cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn và cảm ơn từng người một.
Sau phép lành cuối Lễ, những tấm hình kỷ niệm được lưu lại.
Nghỉ giải lao một chút sau Thánh Lễ, 19 g 20 chương trình văn nghệ với chủ đề "Đêm nhạc loan báo Tin Mừng theo cách mới: niềm hy vọng con tim và cấu trúc được đổi mới vì sứ vụ" được bắt đầu.
Cộng đoàn chào đón tốp ca cùng đoàn múa phụ họa "Lạy Chúa chúng con về từ bốn phương trời. .." của linh mục Hoàng Đức.
Cha Giám Tỉnh Vinhsơn Phạm Trung Thành nói ý nghĩa và chủ đề đêm nhạc hôm nay, Cha mời cộng đoàn cùng dâng lời nguyện với kinh Lạy Cha.
Theo chủ đề của đêm nhạc, các tác phẩm của các linh mục nhạc sĩ Giuse Trần Sĩ Tín, Phêrô Nguyễn Đức Mầu, Phêrô Nguyễn Thành Tâm được quý thầy Học Viện cùng các ca viên của các ca đoàn trong giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Đặc biệt là chính các tác giả là các cha Sĩ Tín, Hoàng Đức (Nguyễn Đức Mầu), Thành Tâm đã trình bày tác phẩm của mình. Giữa các tiết mục có phần phỏng vấn quý cha nhạc sĩ. Quý cha trả lời hoàn cảnh cho ra đời các tác phẩm của quý cha. ..
Cộng đoàn cùng lắng đọng kết hợp tâm tình dâng hiến mừng ngày đặc biệt của quý cha quý thầy với ca đoàn tổng hợp giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp qua bài "Tôi kết hiệp" của cố linh mục nhạc sĩ Phêrô Hoàng Diệp.
Cha Giám Đốc Dự Tu cùng quý thầy Dự Tu cùng trình bày tác phẩm mới của linh mục Giuse Hoàng Phúc.
Cha Giuse Tiến Lộc và Cha Quang Uy cùng gởi đến cộng đoàn một bài hát hết sức bình dị qua trò chơi âm nhạc. Cả cộng đoàn cùng hát theo với sự điều khiển linh hoạt và dễ thương thu hút cả khán phòng.
Đêm nhạc khép lại với phép lành của Cha Bề Trên Tổng Quyền.
Anmai, CSsR
Chầu Mình Thánh Chúa tại Giáo xứ Thượng Lâm
Tin Yêu
10:45 30/10/2013
HÀ NỘI - Chúa Nhật 27/10/2013 - Giáo xứ Thượng Lâm thuộc hạt Thanh Oai, TGP Hà Nội đã Chầu Mình Thánh Chúa thay mặt Giáo Phận.
Xem hình ảnh
Ngày chầu được khai mạc với thánh lễ lúc 6h30 sáng. Sau thánh lễ là giờ chầu của các hội đoàn trong xứ và của các giáo xứ trong miền.
Cao điểm của ngày chầu là thánh lễ đồng lúc 10h00. Thánh lễ do Phêrô Bùi Ngọc Tuấn (chính xứ Phủ lý – Quản Hạt Hà Nam) chủ tế. Cùng đồng tế với ngài có cha quản xứ Gioan Nguyễn Trọng Viên và 9 quý cha khác trong Tổng Giáo Phận.
Sau Thánh lễ, linh mục chủ sự đã đặt Mình Thánh để cộng đoàn tiếp tục tôn vinh Thánh Thể.
Sau giờ chầu tạ ơn lúc 16h00 là thánh lễ tạ ơn kết thúc ngày chầu. Tạ ơn hồng ân Thiên Chúa đã thương ban cho giáo xứ.
Xem hình ảnh
Ngày chầu được khai mạc với thánh lễ lúc 6h30 sáng. Sau thánh lễ là giờ chầu của các hội đoàn trong xứ và của các giáo xứ trong miền.
Cao điểm của ngày chầu là thánh lễ đồng lúc 10h00. Thánh lễ do Phêrô Bùi Ngọc Tuấn (chính xứ Phủ lý – Quản Hạt Hà Nam) chủ tế. Cùng đồng tế với ngài có cha quản xứ Gioan Nguyễn Trọng Viên và 9 quý cha khác trong Tổng Giáo Phận.
Sau Thánh lễ, linh mục chủ sự đã đặt Mình Thánh để cộng đoàn tiếp tục tôn vinh Thánh Thể.
Sau giờ chầu tạ ơn lúc 16h00 là thánh lễ tạ ơn kết thúc ngày chầu. Tạ ơn hồng ân Thiên Chúa đã thương ban cho giáo xứ.