Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:04 11/10/2016
44. KHÔNG DÁM LÓ ĐẦU.
Phú ông Đặng Sinh rất thích khoe mẻ.
Một hôm, có người bạn là Lý An Nghĩa đến thăm nhưng ông ta từ chối không tiếp, Lý An Nghĩa rất tức giận, bèn viết chữ “ngọ午” (1) trên cửa nhà của ông ta.
Có người hỏi lý do sao viết như thế, Lý An Nghĩa nói:
- “Ngọ午” tức là “trâu牛” không dám ló đầu ấy mà !”
(Thuẩn Trai Nhàn Hiền)
Suy tư 44:
Không có gì sỉ nhục cho bằng khi chúng ta đến thăm bạn bè mà họ không ra tiếp, như thế cũng có nghĩa là người ta chà đạp danh dự của mình, là xé tan tình bạn hữu của nhau...
Không có gì buồn cho bằng khi chúng ta đến nhà thăm bạn bè, mà họ tiếp đãi chúng ta cách lạnh nhạt, miễn cưỡng.
Đức Chúa Giê-su cũng rất bị sỉ nhục khi Ngài đến thăm mà chúng ta không chịu mở cửa tâm hồn đón tiếp Ngài, Ngài cũng rất buồn khi chúng ta rước Ngài vào tâm hồn cách miễn cưỡng, không thật lòng tin tưởng và mến yêu. Tâm hồn của chúng ta là đền thờ, là cung điện, là nhà của Ngài, nhưng đến khi Ngài đến ở thì chúng ta lại làm cho nó hoen ố bởi những tội lỗi của mình.
Bạn bè càng thân thì sự sỉ nhục càng cao, sự buồn phiền càng lớn, cũng vậy, Đức Chúa Giê-su là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, tâm hồn của chúng ta không xứng đáng để cho Ngài đến ở, nhưng vì yêu thương mà Ngài đã trở nên người bị sỉ nhục khi muốn đến cư ngụ trong tâm hồn chúng ta -khi chúng ta từ chối Ngài- để chúng ta được trở nên bạn hữu của Ngài.
“Lạy Đức Chúa Giê-su, người đời chúng con có một câu nói để nói lên sự bao dung của tình yêu: “thương cho trót, vót cho nhọn”, nhưng người đời như chúng con thì chưa làm được cách đúng nghĩa của nói, bởi vì chúng con chưa thương cho trót, mà chỉ thương theo kiểu “biểu diễn” mà thôi, cho nên chưa ai thấy được trong chúng con có tình yêu của Chúa; bởi vì chúng con chưa “vót cho nhọn” nên chúng con trở thành cái gai cản đường cản lối anh chị em đến với Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con có một tình yêu thương bạn hữu như Chúa, nghĩa là một tình yêu biết hy sinh và bao dung, để chúng con “thương cho trót, vót cho nhọn” khi thực hành đức ái đối với mọi người. Amen”.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Phú ông Đặng Sinh rất thích khoe mẻ.
Một hôm, có người bạn là Lý An Nghĩa đến thăm nhưng ông ta từ chối không tiếp, Lý An Nghĩa rất tức giận, bèn viết chữ “ngọ午” (1) trên cửa nhà của ông ta.
Có người hỏi lý do sao viết như thế, Lý An Nghĩa nói:
- “Ngọ午” tức là “trâu牛” không dám ló đầu ấy mà !”
(Thuẩn Trai Nhàn Hiền)
Suy tư 44:
Không có gì sỉ nhục cho bằng khi chúng ta đến thăm bạn bè mà họ không ra tiếp, như thế cũng có nghĩa là người ta chà đạp danh dự của mình, là xé tan tình bạn hữu của nhau...
Không có gì buồn cho bằng khi chúng ta đến nhà thăm bạn bè, mà họ tiếp đãi chúng ta cách lạnh nhạt, miễn cưỡng.
Đức Chúa Giê-su cũng rất bị sỉ nhục khi Ngài đến thăm mà chúng ta không chịu mở cửa tâm hồn đón tiếp Ngài, Ngài cũng rất buồn khi chúng ta rước Ngài vào tâm hồn cách miễn cưỡng, không thật lòng tin tưởng và mến yêu. Tâm hồn của chúng ta là đền thờ, là cung điện, là nhà của Ngài, nhưng đến khi Ngài đến ở thì chúng ta lại làm cho nó hoen ố bởi những tội lỗi của mình.
Bạn bè càng thân thì sự sỉ nhục càng cao, sự buồn phiền càng lớn, cũng vậy, Đức Chúa Giê-su là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, tâm hồn của chúng ta không xứng đáng để cho Ngài đến ở, nhưng vì yêu thương mà Ngài đã trở nên người bị sỉ nhục khi muốn đến cư ngụ trong tâm hồn chúng ta -khi chúng ta từ chối Ngài- để chúng ta được trở nên bạn hữu của Ngài.
“Lạy Đức Chúa Giê-su, người đời chúng con có một câu nói để nói lên sự bao dung của tình yêu: “thương cho trót, vót cho nhọn”, nhưng người đời như chúng con thì chưa làm được cách đúng nghĩa của nói, bởi vì chúng con chưa thương cho trót, mà chỉ thương theo kiểu “biểu diễn” mà thôi, cho nên chưa ai thấy được trong chúng con có tình yêu của Chúa; bởi vì chúng con chưa “vót cho nhọn” nên chúng con trở thành cái gai cản đường cản lối anh chị em đến với Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con có một tình yêu thương bạn hữu như Chúa, nghĩa là một tình yêu biết hy sinh và bao dung, để chúng con “thương cho trót, vót cho nhọn” khi thực hành đức ái đối với mọi người. Amen”.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:10 11/10/2016
29. Đức Chúa Giê-su đích thân ngự trong tâm hồn của chúng ta là hoàn toàn vì ân tứ rộng lớn của Ngài, chứ không phải vì chúng ta có công để thù lao, có đức để báo đáp.
(Thánh nữ Jutta of Huy, Bd)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Suy niệm Chúa Nhật 29 thường niên C
Lm. Anthony Trung Thành
10:29 11/10/2016
Suy Niệm Chúa Nhật XXIX THƯỜNG NIÊN C
Tại sao chúng ta phải cầu nguyện và khi cầu nguyện cần có thái độ nào? Đó là câu hỏi không ít người kitô hữu đặt ra trong cuộc sống.
1. Tại sao chúng ta phải cầu nguyện?
Có nhiều lý do, xin được nêu lên mấy lý do sau đây:
Thứ nhất, chúng ta phải cầu nguyện vì Đức Giêsu đã dạy chúng ta: Đức Giêsu đã dạy cho Tông đồ và chúng ta cầu nguyện theo Kinh Lạy Cha (x. Mt 6,9-13; Lc 11,2-4). Ngoài ra, Ngài còn bảo các ông phải cầu nguyện luôn kẻo phải sa chước cám dỗ. Trong vườn cây dầu, khi thấy các môn đệ đang ngủ, Ngài nói: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14,38). Ngài còn dạy phải cầu nguyện cho kẻ thù: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44); phải cầu nguyện một cách âm thầm, kín đáo: Hãy vào phòng, đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha (x. Mt 6,6); khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại (x. Mt 6,7); cầu nguyện phải theo thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 7,21; 26,39)…
Thứ hai, chúng ta phải cầu nguyện vì Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Ngài cầu nguyện trong những biến cố quan trọng: trước khi chọn các Tông đồ; trước khi bước vào cuộc khổ nạn; trên thánh giá; trước khi làm phép lạ; nhất là trước khi lập Bí tích Thánh thể. Ngài cầu nguyện mọi nơi mọi lúc và hầu hết các thời gian trong ngày. Cuộc sống của Ngài luôn gắn liền với đời sống cầu nguyện.
Thứ ba, chính Đức Mẹ, các Tông đồ và các kitô hữu đầu tiên đã hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện: Sau khi Đức Giêsu đã về trời, Đức Mẹ và các Tông đồ thường quy tụ bên nhau để cầu nguyện. Sách Công Vụ Tông đồ tường thuật: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14). Từ đó tới nay trong Giáo Hội biết bao nhiêu gương mẫu về đời sống cầu nguyện. Gần đây, cả Giáo Hội lẫn xã hội đã ca ngợi những việc làm của Mẹ Têrêxa Calcutta, một vị thánh vì người nghèo. Người ta thắc mắc, vì sao một người phụ nữ yếu ướt lại làm được những điều vĩ đại như thế? Mẹ Têrêxa Calcutta cho biết: “Bí quyết của tôi là cầu nguyện…; Tôi cầu nguyện, vì tôi phải cậy dựa vào Chúa 24/24 giờ mỗi ngày.”
Thứ tư, cầu nguyện là bổn phận của mỗi người kitô hữu chúng ta: Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta là con cái của Ngài. Hơn nữa, chúng ta luôn cần đến Ngài. Nên chúng ta cần phải cầu xin Ngài. Không chỉ cầu xin những ơn phần xác mà còn phải cầu xin những ơn phần hồn. Ngoài việc cầu xin, chúng ta còn phải chúc tụng, ngợi khen và tạ ơn Ngài vì những hồng ân mà Ngài đã ban cho chúng ta.
Thứ năm, cầu nguyện là sự sống còn của đời sống thiêng liêng: Vì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Nếu không cầu nguyện thì linh hồn sẽ chết. Thánh Têrêsa Avila nói: "Nếu không cầu nguyện, thì không cần ma quỷ nào lôi xuống Hỏa ngục, tự mình đưa mình xuống đó."
Thứ sáu, cầu nguyện để xua trừ ma quỷ: Trong Kinh lạy Cha, Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6,13). Cám dỗ có thể đến từ thế gian, xác thịt, nhưng trên hết cám dỗ là do ma quỷ. Để tránh khỏi chước cám dỗ của thế gian, xác thịt và ma quỷ, chúng ta cần phải cầu nguyện. Vì có những thứ quỷ chỉ trừ được nhờ cầu nguyện. Khi các môn đệ hỏi Đức Giêsu: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy? Đức Giêsu đã nói với các môn đệ rằng: Giống quỷ đó, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi” (Mc 9, 28-29).
2. Thái độ khi cầu nguyện
Thứ nhất, chúng ta phải có lòng khiêm tốn: Tư thế khi cầu nguyện có thể là chắp tay, giang tay, quỳ, đứng, ngồi, thậm chí là nằm nhưng thái độ luôn phải khiêm tốn. Bởi vì, chúng ta là thụ tạo thấp hèn, đứng trước một vị Thiên Chúa cao sang; chúng ta là kẻ tội lỗi trước một vị Thiên Chúa vô cùng thánh thiện; chúng ta là những kẻ thiếu thốn mọi điều trước một vị Thiên Chúa vô cùng giàu có; chúng ta là con cái trước một người cha đầy lòng xót thương. Vì vậy, khi cầu nguyện chúng ta phải có thái độ khiêm tốn. Khiêm tốn như người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: Ông đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (x. Lc 18,13). Khiêm tốn như ông đại đội trưởng, khi ông thưa với Đức Giêsu rằng: "Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8,8). Khiêm tốn như bà góa trong Tin mừng hôm nay: Bà cảm thấy mình yếu đuối, nghèo hèn, thiếu thốn, bất lực cần sự giúp đỡ nơi vị quan tòa. Chúng ta cũng là những người yếu đuối, nghèo hèn, thiếu thốn, bất lực trước mặt Thiên Chúa, cần sự giúp đỡ ban ơn của Ngài. Vì thế, chúng ta luôn phải có lòng khiêm tốn.
Thứ hai, khi cầu nguyện chúng ta phải tin tưởng, phó thác và kiên trì: Vì Đức Giêsu đã hứa: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10). Tin mừng cho chúng ta thấy nhiều tấm gương cầu nguyện trong sự tin tưởng, phó thác và kiên trì: Câu chuyện người đàn bà xứ Canaan đến xin Đức Giêsu làm phép lạ cho đứa con gái bị quỷ ám (x. Mt 15,22-28); câu chuyện người bạn xin bánh ban đêm (x. Lc 11,5-13); đặc biệt, câu chuyện Tin mừng hôm nay: Dụ ngôn quan toà bất chính và bà goá quấy rầy (x. Lc 18,1-8).
Quan tòa bất chính và bà góa là hai nhân vật có vị thế đối nghịch nhau trong xã hội Do thái thời bấy giờ. Vị quan tòa là người có quyền, nhưng không có tình thương và không có lòng kính sợ Chúa. Ngược lại, người đàn bà góa nghèo, không có tiếng nói, không có chỗ đứng trong xã hội. Bà bị oan. Ước muốn của bà là được vị quan tòa giải oan cho mình. Sống trong một xã hội đầy bất công như xã hội Do thái thời bấy giờ, thì ước muốn của người đàn bà góa này xem ra khó có thể trở thành hiện thực. Thế nhưng, bà góa đã đạt được như ý nguyện. Đó chính là nhờ sự kiên trì của bà. Chính vị quan tòa khẳng định điều đó khi nói rằng: “Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc” (Lc 18,4-5).
Đức Giêsu không có ý so sánh thái độ của vị quan tòa với thái độ của Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn cho chúng ta biết rằng, một vị quan tòa có quyền thế, nhưng không kính nể Thiên Chúa và chẳng kính nể người ta mà còn chấp nhận xử cho người đàn bà góa nghèo vì sự quấy rầy của bà như thế. Phương chi, đối với Thiên Chúa, Ngài là Người Cha Quyền Phép và Vô Cùng Nhân Hậu, thì chắc chắn Ngài sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta cầu xin.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, thông thường khi cầu xin điều gì đó thì muốn đòi hỏi Chúa phải nhận lời ngay. Nếu chưa được Chúa nhận lời thì phàn nàn kêu trách, thậm chí bỏ Chúa, bỏ đạo. Phải nhớ rằng: Chúa là người Cha nhân hậu, khôn ngoan, có khi Ngài không ban ơn chúng ta vì điều chúng ta xin không đẹp ý Ngài hoặc không có lợi cho ta; có khi Ngài ban ơn khác ơn chúng ta xin; có khi Ngài chưa ban ơn cho chúng ta vì Ngài muốn thử thách chúng ta, Ngài muốn chúng ta có sự tin tưởng, phó thác và kiên trì.
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay không những mời gọi chúng ta cầu nguyện mà còn nhắc nhở chúng ta khi cầu nguyện cần phải có sự tin tưởng, phó thác và kiên trì.
Lạy Chúa, để đời sống chúng con luôn gắn bó với Chúa đời này và được hạnh phúc đời sau, xin cho mỗi chúng con luôn biết cầu nguyện và cầu nguyện trong sự tin tưởng, phó thác và kiên trì. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
Tại sao chúng ta phải cầu nguyện và khi cầu nguyện cần có thái độ nào? Đó là câu hỏi không ít người kitô hữu đặt ra trong cuộc sống.
1. Tại sao chúng ta phải cầu nguyện?
Có nhiều lý do, xin được nêu lên mấy lý do sau đây:
Thứ nhất, chúng ta phải cầu nguyện vì Đức Giêsu đã dạy chúng ta: Đức Giêsu đã dạy cho Tông đồ và chúng ta cầu nguyện theo Kinh Lạy Cha (x. Mt 6,9-13; Lc 11,2-4). Ngoài ra, Ngài còn bảo các ông phải cầu nguyện luôn kẻo phải sa chước cám dỗ. Trong vườn cây dầu, khi thấy các môn đệ đang ngủ, Ngài nói: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14,38). Ngài còn dạy phải cầu nguyện cho kẻ thù: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44); phải cầu nguyện một cách âm thầm, kín đáo: Hãy vào phòng, đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha (x. Mt 6,6); khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại (x. Mt 6,7); cầu nguyện phải theo thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 7,21; 26,39)…
Thứ hai, chúng ta phải cầu nguyện vì Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Ngài cầu nguyện trong những biến cố quan trọng: trước khi chọn các Tông đồ; trước khi bước vào cuộc khổ nạn; trên thánh giá; trước khi làm phép lạ; nhất là trước khi lập Bí tích Thánh thể. Ngài cầu nguyện mọi nơi mọi lúc và hầu hết các thời gian trong ngày. Cuộc sống của Ngài luôn gắn liền với đời sống cầu nguyện.
Thứ ba, chính Đức Mẹ, các Tông đồ và các kitô hữu đầu tiên đã hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện: Sau khi Đức Giêsu đã về trời, Đức Mẹ và các Tông đồ thường quy tụ bên nhau để cầu nguyện. Sách Công Vụ Tông đồ tường thuật: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14). Từ đó tới nay trong Giáo Hội biết bao nhiêu gương mẫu về đời sống cầu nguyện. Gần đây, cả Giáo Hội lẫn xã hội đã ca ngợi những việc làm của Mẹ Têrêxa Calcutta, một vị thánh vì người nghèo. Người ta thắc mắc, vì sao một người phụ nữ yếu ướt lại làm được những điều vĩ đại như thế? Mẹ Têrêxa Calcutta cho biết: “Bí quyết của tôi là cầu nguyện…; Tôi cầu nguyện, vì tôi phải cậy dựa vào Chúa 24/24 giờ mỗi ngày.”
Thứ tư, cầu nguyện là bổn phận của mỗi người kitô hữu chúng ta: Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta là con cái của Ngài. Hơn nữa, chúng ta luôn cần đến Ngài. Nên chúng ta cần phải cầu xin Ngài. Không chỉ cầu xin những ơn phần xác mà còn phải cầu xin những ơn phần hồn. Ngoài việc cầu xin, chúng ta còn phải chúc tụng, ngợi khen và tạ ơn Ngài vì những hồng ân mà Ngài đã ban cho chúng ta.
Thứ năm, cầu nguyện là sự sống còn của đời sống thiêng liêng: Vì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Nếu không cầu nguyện thì linh hồn sẽ chết. Thánh Têrêsa Avila nói: "Nếu không cầu nguyện, thì không cần ma quỷ nào lôi xuống Hỏa ngục, tự mình đưa mình xuống đó."
Thứ sáu, cầu nguyện để xua trừ ma quỷ: Trong Kinh lạy Cha, Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6,13). Cám dỗ có thể đến từ thế gian, xác thịt, nhưng trên hết cám dỗ là do ma quỷ. Để tránh khỏi chước cám dỗ của thế gian, xác thịt và ma quỷ, chúng ta cần phải cầu nguyện. Vì có những thứ quỷ chỉ trừ được nhờ cầu nguyện. Khi các môn đệ hỏi Đức Giêsu: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy? Đức Giêsu đã nói với các môn đệ rằng: Giống quỷ đó, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi” (Mc 9, 28-29).
2. Thái độ khi cầu nguyện
Thứ nhất, chúng ta phải có lòng khiêm tốn: Tư thế khi cầu nguyện có thể là chắp tay, giang tay, quỳ, đứng, ngồi, thậm chí là nằm nhưng thái độ luôn phải khiêm tốn. Bởi vì, chúng ta là thụ tạo thấp hèn, đứng trước một vị Thiên Chúa cao sang; chúng ta là kẻ tội lỗi trước một vị Thiên Chúa vô cùng thánh thiện; chúng ta là những kẻ thiếu thốn mọi điều trước một vị Thiên Chúa vô cùng giàu có; chúng ta là con cái trước một người cha đầy lòng xót thương. Vì vậy, khi cầu nguyện chúng ta phải có thái độ khiêm tốn. Khiêm tốn như người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: Ông đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (x. Lc 18,13). Khiêm tốn như ông đại đội trưởng, khi ông thưa với Đức Giêsu rằng: "Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8,8). Khiêm tốn như bà góa trong Tin mừng hôm nay: Bà cảm thấy mình yếu đuối, nghèo hèn, thiếu thốn, bất lực cần sự giúp đỡ nơi vị quan tòa. Chúng ta cũng là những người yếu đuối, nghèo hèn, thiếu thốn, bất lực trước mặt Thiên Chúa, cần sự giúp đỡ ban ơn của Ngài. Vì thế, chúng ta luôn phải có lòng khiêm tốn.
Thứ hai, khi cầu nguyện chúng ta phải tin tưởng, phó thác và kiên trì: Vì Đức Giêsu đã hứa: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10). Tin mừng cho chúng ta thấy nhiều tấm gương cầu nguyện trong sự tin tưởng, phó thác và kiên trì: Câu chuyện người đàn bà xứ Canaan đến xin Đức Giêsu làm phép lạ cho đứa con gái bị quỷ ám (x. Mt 15,22-28); câu chuyện người bạn xin bánh ban đêm (x. Lc 11,5-13); đặc biệt, câu chuyện Tin mừng hôm nay: Dụ ngôn quan toà bất chính và bà goá quấy rầy (x. Lc 18,1-8).
Quan tòa bất chính và bà góa là hai nhân vật có vị thế đối nghịch nhau trong xã hội Do thái thời bấy giờ. Vị quan tòa là người có quyền, nhưng không có tình thương và không có lòng kính sợ Chúa. Ngược lại, người đàn bà góa nghèo, không có tiếng nói, không có chỗ đứng trong xã hội. Bà bị oan. Ước muốn của bà là được vị quan tòa giải oan cho mình. Sống trong một xã hội đầy bất công như xã hội Do thái thời bấy giờ, thì ước muốn của người đàn bà góa này xem ra khó có thể trở thành hiện thực. Thế nhưng, bà góa đã đạt được như ý nguyện. Đó chính là nhờ sự kiên trì của bà. Chính vị quan tòa khẳng định điều đó khi nói rằng: “Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc” (Lc 18,4-5).
Đức Giêsu không có ý so sánh thái độ của vị quan tòa với thái độ của Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn cho chúng ta biết rằng, một vị quan tòa có quyền thế, nhưng không kính nể Thiên Chúa và chẳng kính nể người ta mà còn chấp nhận xử cho người đàn bà góa nghèo vì sự quấy rầy của bà như thế. Phương chi, đối với Thiên Chúa, Ngài là Người Cha Quyền Phép và Vô Cùng Nhân Hậu, thì chắc chắn Ngài sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta cầu xin.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, thông thường khi cầu xin điều gì đó thì muốn đòi hỏi Chúa phải nhận lời ngay. Nếu chưa được Chúa nhận lời thì phàn nàn kêu trách, thậm chí bỏ Chúa, bỏ đạo. Phải nhớ rằng: Chúa là người Cha nhân hậu, khôn ngoan, có khi Ngài không ban ơn chúng ta vì điều chúng ta xin không đẹp ý Ngài hoặc không có lợi cho ta; có khi Ngài ban ơn khác ơn chúng ta xin; có khi Ngài chưa ban ơn cho chúng ta vì Ngài muốn thử thách chúng ta, Ngài muốn chúng ta có sự tin tưởng, phó thác và kiên trì.
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay không những mời gọi chúng ta cầu nguyện mà còn nhắc nhở chúng ta khi cầu nguyện cần phải có sự tin tưởng, phó thác và kiên trì.
Lạy Chúa, để đời sống chúng con luôn gắn bó với Chúa đời này và được hạnh phúc đời sau, xin cho mỗi chúng con luôn biết cầu nguyện và cầu nguyện trong sự tin tưởng, phó thác và kiên trì. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
Suy niệm Khánh nhật Truyền giáo
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
10:34 11/10/2016
Rao Giảng Tin Mừng Với Lòng Thương Xót
Suy niệm Khánh nhật Truyền giáo
(Is 1, 1-5; 1 Tm 2, 4 - 6; Lc 24,44-53)
Tháng 10, tháng truyền giáo
Tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cho cầu thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo. Giáo Hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho những công cuộc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình Ðức Tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Mân Côi và là Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn đưa tất cả chúng ta đến với Chúa Kitô, và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.
Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa... trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng : “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo. Nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội, chứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gửi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46-48).
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói : “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình...nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo Hội, vốn bởi bản chất là thừa sai (x.Ad gentes, số 2). Trích dẫn lời Chân phước Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
Lòng thương xót là linh hồn của truyền giáo
Thánh Phaolô viết : “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Lòng Thương Xót. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn xót thương đến thí mạng để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa. Nơi Ngài, tình yêu và lòng thương xót chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy Vọng cho toàn thế giới.
Trong sứ điệp nhân ngày thế giới truyền giáo lần thứ 90 với chủ đề “Giáo Hội thừa sai, chứng nhân lòng thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Khi đón nhận và theo Chúa Giêsu qua Tin Mừng và các bí tích, nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Ngài” (Misericordiae Vultus 3).
Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao vai trò của phụ nữ và các gia đình trong việc biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa rằng “Có bao nhiêu người nam nữ thuộc mọi lứa tuổi và giai tầng xã hội, đã và đang làm chứng về tình yêu thương xót của Chúa, như trong thời kỳ đầu qua kinh nghiệm của Giáo Hội. Dấu chỉ hùng hồn về tình yêu thương từ mẫu của Thiên Chúa là sự hiện diện gia tăng đáng kể của nữ giới trong thế giới truyền giáo, bên cạnh sự hiện diện của nam giới. Các phụ nữ, nữ giáo dân và các người nữ thánh hiến, và ngày nay cũng có nhiều gia đình, đang thực thi ơn gọi truyền giáo của họ dưới nhiều hình thức khác nhau: từ việc trực tiếp rao giảng Tin Mừng cho đến các dịch vụ bác ái.”
Đức Thánh Cha thêm : “Bên cạnh hoạt động loan báo Tin Mừng và cử hành các bí tích do các nam thừa sai đảm nhận, cũng có các phụ nữ và các gia đình hiểu biết một cách thích hợp hơn các vấn đề của dân chúng và biết đương đầu với các vấn đề ấy một cách thích hợp, và đôi khi một cách ”chưa từng có”: qua sự chăm sóc cuộc sống, đặc biết chú ý đến con người hơn là các cơ cấu, tận dụng mọi tài nguyên nhân bản và tinh thần để xây dựng sự hòa hợp, các quan hệ, hòa bình, liên đới, cộng tác và tình huynh đệ, trong lãnh vực các tương quan giữa con người với nhau, cũng như trong lãnh vực rộng hơn lớn của đời sống xã hội và văn hóa, nhất là việc chăm sóc người nghèo”.
Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà của tình yêu và thương xót mọi người ; một người mẹ xót thương cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy niệm Khánh nhật Truyền giáo
(Is 1, 1-5; 1 Tm 2, 4 - 6; Lc 24,44-53)
Tháng 10, tháng truyền giáo
Tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cho cầu thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo. Giáo Hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho những công cuộc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình Ðức Tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Mân Côi và là Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn đưa tất cả chúng ta đến với Chúa Kitô, và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.
Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa... trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng : “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo. Nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội, chứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gửi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46-48).
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói : “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình...nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo Hội, vốn bởi bản chất là thừa sai (x.Ad gentes, số 2). Trích dẫn lời Chân phước Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
Lòng thương xót là linh hồn của truyền giáo
Thánh Phaolô viết : “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Lòng Thương Xót. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn xót thương đến thí mạng để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa. Nơi Ngài, tình yêu và lòng thương xót chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy Vọng cho toàn thế giới.
Trong sứ điệp nhân ngày thế giới truyền giáo lần thứ 90 với chủ đề “Giáo Hội thừa sai, chứng nhân lòng thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Khi đón nhận và theo Chúa Giêsu qua Tin Mừng và các bí tích, nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Ngài” (Misericordiae Vultus 3).
Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao vai trò của phụ nữ và các gia đình trong việc biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa rằng “Có bao nhiêu người nam nữ thuộc mọi lứa tuổi và giai tầng xã hội, đã và đang làm chứng về tình yêu thương xót của Chúa, như trong thời kỳ đầu qua kinh nghiệm của Giáo Hội. Dấu chỉ hùng hồn về tình yêu thương từ mẫu của Thiên Chúa là sự hiện diện gia tăng đáng kể của nữ giới trong thế giới truyền giáo, bên cạnh sự hiện diện của nam giới. Các phụ nữ, nữ giáo dân và các người nữ thánh hiến, và ngày nay cũng có nhiều gia đình, đang thực thi ơn gọi truyền giáo của họ dưới nhiều hình thức khác nhau: từ việc trực tiếp rao giảng Tin Mừng cho đến các dịch vụ bác ái.”
Đức Thánh Cha thêm : “Bên cạnh hoạt động loan báo Tin Mừng và cử hành các bí tích do các nam thừa sai đảm nhận, cũng có các phụ nữ và các gia đình hiểu biết một cách thích hợp hơn các vấn đề của dân chúng và biết đương đầu với các vấn đề ấy một cách thích hợp, và đôi khi một cách ”chưa từng có”: qua sự chăm sóc cuộc sống, đặc biết chú ý đến con người hơn là các cơ cấu, tận dụng mọi tài nguyên nhân bản và tinh thần để xây dựng sự hòa hợp, các quan hệ, hòa bình, liên đới, cộng tác và tình huynh đệ, trong lãnh vực các tương quan giữa con người với nhau, cũng như trong lãnh vực rộng hơn lớn của đời sống xã hội và văn hóa, nhất là việc chăm sóc người nghèo”.
Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà của tình yêu và thương xót mọi người ; một người mẹ xót thương cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐGH nói với giới trẻ về cách đọc kinh thánh
Phạm Đình Ngọc, SJ.
08:57 11/10/2016
ĐGH nói với người trẻ về đọc kinh thánh
Trích lời giới thiệu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong cuốn Youcat Bible:
Các bản trẻ của cha thân mến,
Nếu chúng con thấy cuốn Kinh thánh của cha thì chúng con chẳng ấn tượng chút nào. Cái gì-đó là cuốn Kinh“ thánh của Đức Giáo Hoàng sao? Một cuốn sách cũ mèm!
Chúng con có thể mua cho cha cuấn Kinh thánh mới với giá chỉ 1 đôla, nhưng cha không thích lắm. Cha yêu cuốn cách cũ của cha, vì nó đồng hành với cha suốt nửa cuộc đời của cha. Nó ở với cha trong mọi thời điểm vui buồn. Nó là gia tài quý nhất. Cha sống vì nó và cha không để bất cứ thứ gì vào trong cuốn sách này.
Cha thực sự thích cuốn Kinh Thánh mới dành cho giới trẻ lần này. Sách có nhiều màu sắc và phong phú về những lời chứng: lời chứng của các thánh, của người trẻ. Nó đang mời gọi đến nỗi khi chúng con đọc nó từ trang đầu, chúng con chẳng thể dừng cho tới trang cuối.
Và sau đó…? Sau đó Kinh thánh lại để trên kệ sách bụi bặm. Rồi con cái chúng con ngày nào đó lại thấy nó và quẳng chúng đi.
Nó không phải để vứt đi như thế.
Cha nói với chúng con đôi điều: Trên thế giới, hiện có nhiều Kitô hữu bị bách hại khóc liệt hơn so với thời Giáo Hội sơ khai. Và vì sao họ bị bách hại? Bị bách hại vì họ mang vác thập giá để làm chứng cho Chúa Giêsu. Vì thế Kinh thánh quả là cuốn sách rất nguy hiểm; vì nguy hiểm nên trong một vài quốc gia, chúng con cần thích thú nó như thể chúng con đang dấu những vũ khí trong nhà của mình vậy.
Không là Kitô hữu, Mahatma Gandhi đã nói rằng: “Là Kitô hữu, các bạn chăm chút một tài liệu mà ẩn chứa trong đó nguồn năng lượng làm nổ tung tất cả nền văn hóa thành từng mảnh, chuyển đổi thế giới và mang hòa bình đến trong hành tinh thương tổn này. Nhưng bạn lại xem Kinh Thánh như một cuốn sách văn chương không hơn không kém.”
Vì thế, chúng con có gì trong tay? Một cuốn văn chương? Vài mẩu truyện vui cũ rích? Sau đó chúng con lại thích khoe với nhiều Kitô hữu bị bỏ tù hoặc bị tra tấn vì họ sở hữu cuốn Kinh thánh: “Bạn thật điên khùng, đó chỉ là cuốn truyện văn chương!”
Không. Vì Lời Chúa có Ánh sáng chiếu tỏa vào thế giới nên nó không bào giờ lỗi thời. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (số 175) cha nói rằng: “Chúng ta không tìm kiếm Thiên Chúa một cách mò mẫm, hay chờ đợi Ngài nói với chúng ta trước, bởi vì ‘Thiên Chúa đã nói với chúng ta rồi, và không có gì chúng ta cần biết mà Ngài đã không mặc khải cho chúng ta’. Chúng ta hãy đón nhận kho tàng siêu vời này của lời mặc khải.”
Vì thế, các con phải có cái gì thánh thiện trong tay: Cuốn sách như một ngọn lửa! Qua Kinh thánh Thiên Chúa nói với chúng ta. Cần lưu ý rằng: Kinh thánh không phải để trưng trên kệ sách mà cần cầm trong tay để đọc mỗi ngày, cả trong tay của chúng con lẫn của tha nhân. Chúng con chơi thể thao, đi mua sắm với nhau. Tại sao lại không đọc Kinh thánh cùng nhau, chẳng hạn 2, 3 hoặc 4 người chúng con? Nơi thiên nhiên, trong rừng vắng hoặc nơi bãi biển, trong đêm tối với vài ánh nến…và chúng con có được trải nghiệm tuyệt vời!
Hay chúng con sợ người khác liệt mình vào những kẻ dở hơi?
Hãy đọc chăm chú! Đừng dừng lại ở bề mặt của câu chữ như thể chúng con đọc sách khôi hài! Đừng bao giờ đọc Lời Chúa một cách qua loa! Hãy hỏi chính chúng con xem: “Điều gì đang nói trong cõi lòng chúng con? Thiên Chúa có ngỏ lời của Ngài với tôi không? Ngài có đụng chạm đến tôi ở chiều sâu của tâm hồn tôi không? Tôi nên làm gì?” Chỉ trong cách này sức mạnh của Lời Chúa mới có thể tỏ hiện. Chỉ cách này mới có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta và làm cho cuộc đời chúng ta thêm tươi đẹp tuyệt vời.
Cha muốn nói với chúng con cách cha đọc cuốn Kinh thánh cũ này của cha. Thường thì cha đọc từng chút một; sau đó cha đặt sách xuống và chiêm ngắm Thiên Chúa. Không chỉ nhìn ngắm Chúa, nhưng còn để Ngài ngắm nhìn cha. Ngài ở đó. Chính cha để cho mình nhìn ngắm Ngài. Và cha cảm thấy – không phải bằng tình cảm ủy mị- cha cảm nhận những điều rất sâu xa mà Thiên Chúa nói với cha. Thi thoảng Ngài chẳng nói gì. Sau đó, cha không cảm thấy chi, chỉ thấy trống rỗng, trống rỗng và trống rỗng…Nhưng cha vẫn kiên nhẫn và đợi chờ, đọc và cầu nguyện. Cha ngồi cầu nguyện bởi nếu quỳ thì đầu gối cha đau lắm. Thỉnh thoảng cha cũng buồn ngủ khi cầu nguyện. Nhưng đó không phải là vấn đề hệ trọng. Cha thích mình như người con với cha của mình, và điều ấy quan trọng biết bao.
Cha muốn chúng con giúp cha hạnh phúc, có được không? Hãy đọc Kinh Thánh!
Giáo Hoàng Phanxicô
Chuyển từ Anh ngữ: Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Trích lời giới thiệu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong cuốn Youcat Bible:
Các bản trẻ của cha thân mến,
Chúng con có thể mua cho cha cuấn Kinh thánh mới với giá chỉ 1 đôla, nhưng cha không thích lắm. Cha yêu cuốn cách cũ của cha, vì nó đồng hành với cha suốt nửa cuộc đời của cha. Nó ở với cha trong mọi thời điểm vui buồn. Nó là gia tài quý nhất. Cha sống vì nó và cha không để bất cứ thứ gì vào trong cuốn sách này.
Cha thực sự thích cuốn Kinh Thánh mới dành cho giới trẻ lần này. Sách có nhiều màu sắc và phong phú về những lời chứng: lời chứng của các thánh, của người trẻ. Nó đang mời gọi đến nỗi khi chúng con đọc nó từ trang đầu, chúng con chẳng thể dừng cho tới trang cuối.
Và sau đó…? Sau đó Kinh thánh lại để trên kệ sách bụi bặm. Rồi con cái chúng con ngày nào đó lại thấy nó và quẳng chúng đi.
Nó không phải để vứt đi như thế.
Cha nói với chúng con đôi điều: Trên thế giới, hiện có nhiều Kitô hữu bị bách hại khóc liệt hơn so với thời Giáo Hội sơ khai. Và vì sao họ bị bách hại? Bị bách hại vì họ mang vác thập giá để làm chứng cho Chúa Giêsu. Vì thế Kinh thánh quả là cuốn sách rất nguy hiểm; vì nguy hiểm nên trong một vài quốc gia, chúng con cần thích thú nó như thể chúng con đang dấu những vũ khí trong nhà của mình vậy.
Không là Kitô hữu, Mahatma Gandhi đã nói rằng: “Là Kitô hữu, các bạn chăm chút một tài liệu mà ẩn chứa trong đó nguồn năng lượng làm nổ tung tất cả nền văn hóa thành từng mảnh, chuyển đổi thế giới và mang hòa bình đến trong hành tinh thương tổn này. Nhưng bạn lại xem Kinh Thánh như một cuốn sách văn chương không hơn không kém.”
Vì thế, chúng con có gì trong tay? Một cuốn văn chương? Vài mẩu truyện vui cũ rích? Sau đó chúng con lại thích khoe với nhiều Kitô hữu bị bỏ tù hoặc bị tra tấn vì họ sở hữu cuốn Kinh thánh: “Bạn thật điên khùng, đó chỉ là cuốn truyện văn chương!”
Không. Vì Lời Chúa có Ánh sáng chiếu tỏa vào thế giới nên nó không bào giờ lỗi thời. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (số 175) cha nói rằng: “Chúng ta không tìm kiếm Thiên Chúa một cách mò mẫm, hay chờ đợi Ngài nói với chúng ta trước, bởi vì ‘Thiên Chúa đã nói với chúng ta rồi, và không có gì chúng ta cần biết mà Ngài đã không mặc khải cho chúng ta’. Chúng ta hãy đón nhận kho tàng siêu vời này của lời mặc khải.”
Vì thế, các con phải có cái gì thánh thiện trong tay: Cuốn sách như một ngọn lửa! Qua Kinh thánh Thiên Chúa nói với chúng ta. Cần lưu ý rằng: Kinh thánh không phải để trưng trên kệ sách mà cần cầm trong tay để đọc mỗi ngày, cả trong tay của chúng con lẫn của tha nhân. Chúng con chơi thể thao, đi mua sắm với nhau. Tại sao lại không đọc Kinh thánh cùng nhau, chẳng hạn 2, 3 hoặc 4 người chúng con? Nơi thiên nhiên, trong rừng vắng hoặc nơi bãi biển, trong đêm tối với vài ánh nến…và chúng con có được trải nghiệm tuyệt vời!
Hay chúng con sợ người khác liệt mình vào những kẻ dở hơi?
Hãy đọc chăm chú! Đừng dừng lại ở bề mặt của câu chữ như thể chúng con đọc sách khôi hài! Đừng bao giờ đọc Lời Chúa một cách qua loa! Hãy hỏi chính chúng con xem: “Điều gì đang nói trong cõi lòng chúng con? Thiên Chúa có ngỏ lời của Ngài với tôi không? Ngài có đụng chạm đến tôi ở chiều sâu của tâm hồn tôi không? Tôi nên làm gì?” Chỉ trong cách này sức mạnh của Lời Chúa mới có thể tỏ hiện. Chỉ cách này mới có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta và làm cho cuộc đời chúng ta thêm tươi đẹp tuyệt vời.
Cha muốn nói với chúng con cách cha đọc cuốn Kinh thánh cũ này của cha. Thường thì cha đọc từng chút một; sau đó cha đặt sách xuống và chiêm ngắm Thiên Chúa. Không chỉ nhìn ngắm Chúa, nhưng còn để Ngài ngắm nhìn cha. Ngài ở đó. Chính cha để cho mình nhìn ngắm Ngài. Và cha cảm thấy – không phải bằng tình cảm ủy mị- cha cảm nhận những điều rất sâu xa mà Thiên Chúa nói với cha. Thi thoảng Ngài chẳng nói gì. Sau đó, cha không cảm thấy chi, chỉ thấy trống rỗng, trống rỗng và trống rỗng…Nhưng cha vẫn kiên nhẫn và đợi chờ, đọc và cầu nguyện. Cha ngồi cầu nguyện bởi nếu quỳ thì đầu gối cha đau lắm. Thỉnh thoảng cha cũng buồn ngủ khi cầu nguyện. Nhưng đó không phải là vấn đề hệ trọng. Cha thích mình như người con với cha của mình, và điều ấy quan trọng biết bao.
Cha muốn chúng con giúp cha hạnh phúc, có được không? Hãy đọc Kinh Thánh!
Giáo Hoàng Phanxicô
Chuyển từ Anh ngữ: Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh lễ công bố thành lập giáo xứ thánh Giuse tại thành phố mới Bình Dương
Maria Nguyễn
08:57 11/10/2016
THÁNH LỄ CÔNG BỐ THÀNH LẬP GIÁO XỨ THÁNH GIUSE- THÀNH PHỐ MỚI BÌNH DƯƠNG Ngày 9-10-2016
Góc ngã tư đường điện cao thế giăng ngang dẫn về một thành phố, khu công nghiệp hiện đại đang phát triển rầm rộ, thì bên cạnh đó từ một bãi đất trống, không có giáo dân, không tiền, không nơi cư ngụ, ngày 2-7-2013 cha GioanBaotixita Nguyễn văn Riễn nhận bài sai của Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước đến giáo điểm Thành phố mới Bình Dương trong sự phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng- Người đã an bài bao nhiêu việc lạ lùng mà trí khôn con người không hiểu hết được- cho đến hôm nay giáo điểm được nâng lên thành giáo xứ, được đặt tên là Nhà thờ Thánh Giuse.
Xem Hình
Công trình đồ sộ của nhà thờ chính đang thi công, những bao xi măng còn xếp dài trên lối, nhà thờ tạm Thánh Giuse khang trang, ấm cúng. Lúc 17g20,cảnh trời chiều, mây kéo giăng mà lòng người sáng lên, nô nức chào đón Đức Cha Giuse- Giám mục giáo phận chủ tế cùng quý cha đồng tế và trên 500 tu sĩ và giáo dân đến dự lễ trong bầu không khí trang nghiêm, lấp lánh niềm vui của bao tâm hồn.
Cha đại diện Tư pháp của giáo phận, công bố nghị định 63 quyết định thành lập Giáo xứ Thánh Giuse vi lợi ích thiêng liêng của tín hữu, do cha Trưởng Ấn Linh mục Gioan B. Phạm Qúy Trọng đã ký. Cha Chánh Văn Phòng Tòa Giám Mục công bố Văn thư bổ nhiệm cha Gioan Baotixita Nguyễn văn Riễn là cha chánh xứ Giáo xứ Thánh Giuse. Đức Cha trao dây các phép và chìa khóa nhà tạm với ý nghĩa:" Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên gạch sống động" Trong thánh lễ" Mừng Kinh Thánh Giuse" hôm nay chúng ta cầu nguyện cho Giáo xứ và Cha Chánh xứ, để Chúa được lớn lên trong mỗi anh chị em, chúng ta biết sống yêu thương, bác ái làm vinh danh Thiên Chúa.
Sau đó nghi thức nhậm xứ của cha Gioan.B. Tuyên xưng đức tin, nhắc lại lời hứa khi chịu chức Linh mục: kiên trì rao giảng Lời Chúa, chăm sóc chu toàn, sốt sắng thi hành nhiệm vụ do Đức Cha trao phó,cách khôn ngoan, kín đáo; ngày càng liên kết với Chúa KiTô qua các Bí Tích trong sự hứa kinh và vâng phục. Giọng đọc Đức Cha Giuse vang lên như một lời chúc lành:" Xin Thiên Chúa hoàn tất những gì Người đã khởi sự nơi cha"
Trong bài giảng, Đức Cha Giuse nói đến gương sáng của cha thánh Giuse: cần lao, hy sinh, đón nhận Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cuộc đời mình, trong sự tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Cuộc sống đơn sơ của Thánh Giuse được diễn tả trong thinh lặng, không vội vàng, hiền lành, khiêm nhu, là người công chính thánh thiện, sống khó nghèo và trở nên cao cả trong Thiên Chúa.
Cha Gioan B đến đây trong tay chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, như trẻ thơ là chẳng có gì, ngày 21-12-2013 giáo điểm TP mới làm lễ động thổ hình Thánh giá trên màu đất đen sạm, việc đầu tiên Ngài đã lập nên đài Thánh Giuse, cậy trông vào ơn thánh của Người, sau 630 ngày đã chính khởi công xây dựng nhà thờ Thánh Giuse ngày 12-9-2015 cho đến tháng 10- 2016 đã chính thức thành lập Giáo xứ. Một giáo xứ trẻ trung và thơ mộng giữa thành phố mới Bình Dương xanh tươi mang bao niềm hy vọng. "Hãy đến mà xem" công trình Thiên Chúa tạo dựng thật kỳ diệu và lớn lao qua tay các ân nhân đóng góp; Ban hành giáo, ca đoàn, giáo lý viên tích cực năng động, gương mặt những người dân nhập cư sáng lên niềm hạnh phúc mới. Họ tìm được nơi nương tựa sao những lao nhọc kiếm sống, họ đến đây như những người dân Do Thái đi về miền đất hứa, mà Thiên Chuá đã định sẵn cho mình.
Tham dự thánh lễ chiều nay trong niềm xúc động qua tiếng hát của ca đoàn.
Đời con là những tháng ngày trôi
Chúa an bài cho thật biết bao lạ lùng.
Đời con là tiếng hát không ngơi ca khen muôn đời lời tạ ơn Thiên Chúa
Tạ ơn vì những lúc bình an
Chúa thương tặng ban cuộc sống vui chan hòa
Tạ ơn vì những lúc nguy nan
Chúa đã thương ban niềm cậy trông miên man.
Lúc 19g,Thánh lễ kết thúc trong phép lành bình an của Đức Cha Giuse. Lời cảm ơn của vị đại diên Hội đồng giáo xứ và bài múa của Giới Trẻ chào mừng ngày Thành lập Giáo xứ. Những bó hoa tươi thắm dâng lên Đức Cha và quý cha trong niềm hân hoan, qua tràng pháo tay vang dội của cộng đoàn.
Xin ngợi ca bao la tình thương Chúa
mãi muôn đời ca vang tình thương Chúa
Trọn niềm tin con phó trong tay Ngài
vì đời con tất cả là hồng ân.
Maria Nguyễn
Góc ngã tư đường điện cao thế giăng ngang dẫn về một thành phố, khu công nghiệp hiện đại đang phát triển rầm rộ, thì bên cạnh đó từ một bãi đất trống, không có giáo dân, không tiền, không nơi cư ngụ, ngày 2-7-2013 cha GioanBaotixita Nguyễn văn Riễn nhận bài sai của Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước đến giáo điểm Thành phố mới Bình Dương trong sự phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng- Người đã an bài bao nhiêu việc lạ lùng mà trí khôn con người không hiểu hết được- cho đến hôm nay giáo điểm được nâng lên thành giáo xứ, được đặt tên là Nhà thờ Thánh Giuse.
Xem Hình
Công trình đồ sộ của nhà thờ chính đang thi công, những bao xi măng còn xếp dài trên lối, nhà thờ tạm Thánh Giuse khang trang, ấm cúng. Lúc 17g20,cảnh trời chiều, mây kéo giăng mà lòng người sáng lên, nô nức chào đón Đức Cha Giuse- Giám mục giáo phận chủ tế cùng quý cha đồng tế và trên 500 tu sĩ và giáo dân đến dự lễ trong bầu không khí trang nghiêm, lấp lánh niềm vui của bao tâm hồn.
Cha đại diện Tư pháp của giáo phận, công bố nghị định 63 quyết định thành lập Giáo xứ Thánh Giuse vi lợi ích thiêng liêng của tín hữu, do cha Trưởng Ấn Linh mục Gioan B. Phạm Qúy Trọng đã ký. Cha Chánh Văn Phòng Tòa Giám Mục công bố Văn thư bổ nhiệm cha Gioan Baotixita Nguyễn văn Riễn là cha chánh xứ Giáo xứ Thánh Giuse. Đức Cha trao dây các phép và chìa khóa nhà tạm với ý nghĩa:" Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên gạch sống động" Trong thánh lễ" Mừng Kinh Thánh Giuse" hôm nay chúng ta cầu nguyện cho Giáo xứ và Cha Chánh xứ, để Chúa được lớn lên trong mỗi anh chị em, chúng ta biết sống yêu thương, bác ái làm vinh danh Thiên Chúa.
Sau đó nghi thức nhậm xứ của cha Gioan.B. Tuyên xưng đức tin, nhắc lại lời hứa khi chịu chức Linh mục: kiên trì rao giảng Lời Chúa, chăm sóc chu toàn, sốt sắng thi hành nhiệm vụ do Đức Cha trao phó,cách khôn ngoan, kín đáo; ngày càng liên kết với Chúa KiTô qua các Bí Tích trong sự hứa kinh và vâng phục. Giọng đọc Đức Cha Giuse vang lên như một lời chúc lành:" Xin Thiên Chúa hoàn tất những gì Người đã khởi sự nơi cha"
Trong bài giảng, Đức Cha Giuse nói đến gương sáng của cha thánh Giuse: cần lao, hy sinh, đón nhận Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cuộc đời mình, trong sự tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Cuộc sống đơn sơ của Thánh Giuse được diễn tả trong thinh lặng, không vội vàng, hiền lành, khiêm nhu, là người công chính thánh thiện, sống khó nghèo và trở nên cao cả trong Thiên Chúa.
Cha Gioan B đến đây trong tay chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, như trẻ thơ là chẳng có gì, ngày 21-12-2013 giáo điểm TP mới làm lễ động thổ hình Thánh giá trên màu đất đen sạm, việc đầu tiên Ngài đã lập nên đài Thánh Giuse, cậy trông vào ơn thánh của Người, sau 630 ngày đã chính khởi công xây dựng nhà thờ Thánh Giuse ngày 12-9-2015 cho đến tháng 10- 2016 đã chính thức thành lập Giáo xứ. Một giáo xứ trẻ trung và thơ mộng giữa thành phố mới Bình Dương xanh tươi mang bao niềm hy vọng. "Hãy đến mà xem" công trình Thiên Chúa tạo dựng thật kỳ diệu và lớn lao qua tay các ân nhân đóng góp; Ban hành giáo, ca đoàn, giáo lý viên tích cực năng động, gương mặt những người dân nhập cư sáng lên niềm hạnh phúc mới. Họ tìm được nơi nương tựa sao những lao nhọc kiếm sống, họ đến đây như những người dân Do Thái đi về miền đất hứa, mà Thiên Chuá đã định sẵn cho mình.
Tham dự thánh lễ chiều nay trong niềm xúc động qua tiếng hát của ca đoàn.
Đời con là những tháng ngày trôi
Chúa an bài cho thật biết bao lạ lùng.
Đời con là tiếng hát không ngơi ca khen muôn đời lời tạ ơn Thiên Chúa
Tạ ơn vì những lúc bình an
Chúa thương tặng ban cuộc sống vui chan hòa
Tạ ơn vì những lúc nguy nan
Chúa đã thương ban niềm cậy trông miên man.
Lúc 19g,Thánh lễ kết thúc trong phép lành bình an của Đức Cha Giuse. Lời cảm ơn của vị đại diên Hội đồng giáo xứ và bài múa của Giới Trẻ chào mừng ngày Thành lập Giáo xứ. Những bó hoa tươi thắm dâng lên Đức Cha và quý cha trong niềm hân hoan, qua tràng pháo tay vang dội của cộng đoàn.
Xin ngợi ca bao la tình thương Chúa
mãi muôn đời ca vang tình thương Chúa
Trọn niềm tin con phó trong tay Ngài
vì đời con tất cả là hồng ân.
Maria Nguyễn
Thánh lễ Khai mạc tuần lễ Di Dân 2016 tại xứ Thái Hà Hà Nội
Xứ Thái Hà
09:10 11/10/2016
Thánh lễ Khai mạc tuần lễ Di Dân 2016 tại xứ Thái Hà Hà Nội
19h tối ngày 10/20/2016 tại Gx Thái Hà, Hà Nội, Cha Bề Trên Giám Tỉnh tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam Giuse Nguyễn Ngọc Bích đã long trong dâng thánh lễ khai mạc tuần lễ dành cho người di dân, cùng hiệp dâng thánh lễ có Cha Bề Trên GiuseTrịnh Ngọc Hiên Chánh xứ Thái Hà, quý Cha DCCT, quý Sours, vị khách mời cùng toàn thể quý Cộng đoàn dân Chúa.
“Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghĩ ngơi bồi dưỡng.”
Xem Hình
Trong bài giảng lễ, Cha Giám Tỉnh nhấn mạnh rằng: “Cuộc sống con người có rất nhiều khó khăn buộc chúng ta đối mặt, ngang qua những khó khăn ấy, Chúa mở ra cho chúng ta một con đường một niềm hy vọng, đó chính là tình thương và lòng thương xót Chúa. Anh chị em xa quê hãy đến với Chúa mỗi khi thấy mệt mỏi, thất vọng giữa chốn đô thành này, để được sự bình an và kiên vững đi qua những khó khăn, thử thách của cuộc sống”. Cha cũng mời gọi mỗi người hãy tìm những cơ hội trong những vất vả khó khăn ấy, chính là cơ hội sống lời Chúa giữa cuộc đời và loan báo Tin mừng cho hết thảy mọi người.
Sau thánh lễ Cha Giám Tỉnh đã long trọng khai mạc đêm diễn nguyện đặc biệt kỷ niệm 10 năm hình thành và phát triển Gia Đình Công Giáo Xa Quê Hà Nội. Một chương trình hết sức công phu và đặc sắc với sự tham gia của gần 200 bạn trẻ đến từ các cộng đoàn ban ngành trong GĐCGXQHN. Hàng ngàn anh chị em xa quê đang làm ăn sinh sống tại Hà Nội đã đến tham dự thánh lễ và đêm diễn nguyện này.
Nằm trong chuỗi các hoạt đông của đại lễ di dân, đêm khai mạc diễn nguyện đã mở ra cho toàn thê anh chị em xa quê một kỳ đại lễ tràn đầy niềm vui hoan lạc. Chương trình đại lễ sẽ kéo dài trong ba ngày 10-12/10/2016.
TH: Ban Truyền Thông Xa Quê Hà Nôi
19h tối ngày 10/20/2016 tại Gx Thái Hà, Hà Nội, Cha Bề Trên Giám Tỉnh tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam Giuse Nguyễn Ngọc Bích đã long trong dâng thánh lễ khai mạc tuần lễ dành cho người di dân, cùng hiệp dâng thánh lễ có Cha Bề Trên GiuseTrịnh Ngọc Hiên Chánh xứ Thái Hà, quý Cha DCCT, quý Sours, vị khách mời cùng toàn thể quý Cộng đoàn dân Chúa.
“Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghĩ ngơi bồi dưỡng.”
Xem Hình
Trong bài giảng lễ, Cha Giám Tỉnh nhấn mạnh rằng: “Cuộc sống con người có rất nhiều khó khăn buộc chúng ta đối mặt, ngang qua những khó khăn ấy, Chúa mở ra cho chúng ta một con đường một niềm hy vọng, đó chính là tình thương và lòng thương xót Chúa. Anh chị em xa quê hãy đến với Chúa mỗi khi thấy mệt mỏi, thất vọng giữa chốn đô thành này, để được sự bình an và kiên vững đi qua những khó khăn, thử thách của cuộc sống”. Cha cũng mời gọi mỗi người hãy tìm những cơ hội trong những vất vả khó khăn ấy, chính là cơ hội sống lời Chúa giữa cuộc đời và loan báo Tin mừng cho hết thảy mọi người.
Sau thánh lễ Cha Giám Tỉnh đã long trọng khai mạc đêm diễn nguyện đặc biệt kỷ niệm 10 năm hình thành và phát triển Gia Đình Công Giáo Xa Quê Hà Nội. Một chương trình hết sức công phu và đặc sắc với sự tham gia của gần 200 bạn trẻ đến từ các cộng đoàn ban ngành trong GĐCGXQHN. Hàng ngàn anh chị em xa quê đang làm ăn sinh sống tại Hà Nội đã đến tham dự thánh lễ và đêm diễn nguyện này.
Nằm trong chuỗi các hoạt đông của đại lễ di dân, đêm khai mạc diễn nguyện đã mở ra cho toàn thê anh chị em xa quê một kỳ đại lễ tràn đầy niềm vui hoan lạc. Chương trình đại lễ sẽ kéo dài trong ba ngày 10-12/10/2016.
TH: Ban Truyền Thông Xa Quê Hà Nôi
Nguyên văn bài chia sẻ của Đức Giám Mục Phaolo Maria Cao Đình Thuyên tại đại hội giới trẻ hạt Vạn Lộc, GP Vinh
LM Trần Xuân Nhàn
15:09 11/10/2016
Nguyên văn bài chia sẻ của Đức Giám Mục Phaolo Maria Cao Đình Thuyên
Đại Hội Giới Trẻ Hạt Vạn Lộc ngày 09-10-2016.
Chào mừng chúng con, Giới trẻ hạt Vạn Lộc thân mến..
Hôm nay cha hết sức vui mừng vì có mặt với chúng con trong ngày cao điểm của giới trẻ giáo hạt Vạn Lộc. Nhìn chúng con cha liên tưởng ngay đến cuộc gặp gỡ của hơn một triệu bạn trẻ tại thủ đô Paris nước Pháp, quanh vị cha chung là Đức Giáo Hoàng Gioan Phalô II. Nhiều người đã thắc mắc: động lực nào đã thúc đẩy hàng triệu bạn trẻ đến với một ông cụ già gần 80 tuổi đau yếu bệnh tật. Hấp lực gì đã lôi kéo được giới trẻ, đặc biệt là giới trẻ các nước Tây Âu, nơi sặc mùi “tục hóa” đến Paris để đón chờ sứ điệp của một vị lãnh đạo tôn giáo.
Xem Hình
1. Động lực nào và hấp lực gì?
Và rồi người ta phải giật mình khi nhận ra và thấy rõ được rằng: các dấu ấn khắc ghi nơi tâm hồn con người là “Niềm Tin và khát vọng Sự Thật”. không thể có một yếu tố nào bên ngoài, bất cứ nơi chốn nào, vào bất cứ một thời đại nào có thể tẩy xóa được Niềm Tin, và cao độ là niềm tin tôn giáo là động lực lôi kéo con người hướng về Chân – Thiện – Mỹ và đó cũng là yếu tố chính của cuộc sống của con người trẻ hôm nay cũng như các thế hệ cha ông chúng ta đi trước. Cách đây hơn 20 thế kỷ đức Khổng Phu Tử đã từng nói:”Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”. (Luận ngữ II,22). Con người không tin thì không thể làm được điều gì? Và khi Tử Cống đồ đệ hỏi về việc trị nước, ngài trả lời: “Túc Binh, túc thực, túc tín”. cần đủ binh lực, đủ lương thực, đủ lòng tin của dân. Tử Cống hỏi tiếp: nếu bất đắc dĩ phải giảm một trong ba điều thì phải giảm điều nào trước? Ngài đáp ngay là phải giảm binh lực, Tử Cống hỏi dồn thêm: nếu phải giảm một trong hai điều còn lại thì sao? Ngài trả lời giảm lương thực. Còn niềm tin thì không thể giảm được, vì dân mất niềm tin thì nước không còn: “Khử Binh, khử thực, tín bất khả khứ” (Luận ngữ 12, 7). Vào thời tiếp theo có lần người ta hỏi về việc cứu đời, Mạnh Tử đáp: “ Cứu người chết đuối dưới sông thì đưa sào cho người ta níu, nhưng cứu cả thiên hạ cho khỏi loạn thì lại dùng đến đạo. Bởi khi không có niềm tin nơi Thiên Chúa là tạo hóa, là Cha thì chẳng còn sợ hãi ai, chẳng chừa một thủ đoạn tàn ác độc địa nào. Khi không còn niềm tin mọi người là anh em với nhau, là con một Cha, thì chỉ áp dụng cá lớn nuốt cá bé, người bóc lột người. Khi phát biểu tại Liên Hiệp Quốc ngày 05/10/1995 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Quý vị muốn viết một trang sử tốt đẹp cho nhân loại. thì Quý vị hãy sử dụng văn phạm mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, đó là Lương Tâm của chúng ta. Bởi niềm tin tôn giáo sẽ thúc đẩy con người dân thân cách đại độ, để giúp anh em đồng loại của mình hoàn thành nghĩa vụ chính yếu là yêu thương.
2. Nhưng để niềm tin trở thành động lực, thành ánh sáng cho cuộc đời ta, ta phải làm gì? Thưa: phải ôm ấp lấy Thánh Giá: “O Crux ave spesunica”. Kính chào Thánh Giá là niềm hy vọng độc nhất của chúng con”. Thánh Giá không phải là biện pháp áp đặt lên Thiên Chúa cũng không phải là giải pháp cuối cùng khi mọi kế hoạch khác đã bị thất bại – Thánh Giá là chương trình định sẵn của Thiên Chúa, Thánh Giá là nơi duy nhất trên quả đất này đã mặc khải cho thấy rõ tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Quả thực, Thánh Giá đem lại hy vọng vì Chúa đã chịu đóng đinh vào đó để cứu rỗi nhân loại, rồi sống lại để đem nhân loại vào thiên cung.
Các bạn trẻ có nghe không?
Thánh Giá đang nhắc đến các bạn qua thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong sứ điệp “Tuổi trẻ là chứng nhân của hy vọng”. Bởi đó, thái độ cần có trước Thập Giá là phải can đảm kiên cường đi theo Chúa. Cuộc sống không phải luôn luôn chỉ là màu hồng – Con người không hẳn luôn luôn là người bạn tốt – Hy sinh không phải luôn luôn là dễ dàng. Nhưng chính những trắc trở của đời sống đó lại trở thành lời mời gọi giúp chúng ta ý thức về sứ mạng và con người của Chúa Giêsu và cũng ý thức về sứ mạng vác thập giá theo Chúa và chia sẻ thân phận của Người trong đời sống mình, Cụ Phan Bội Châu đã nói: “Ví phóng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Còn Chúa Giêsu cũng nói: “Ai liều mạng sống vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy". – Bởi đây không phải chỉ là một cuộc sống bị đóng đinh mà còn là một đời sống trở nên hy tế. Sau cùng chúng ta cũng được mời gọi để trở nên chứng tá cho tình yêu Chúa bằng đời sống thập giá đi theo Chúa. Thập giá là yêu thương và cứu độ. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ và yêu thương. Điều đó cần phải được nhân lên trong chính cuộc sống của các môn đệ, của các bạn.
Đời sống chứng nhân của các bạn gồm có 4 điểm khởi đầu bằng 4 chữ P. Đó là chương trình hành động cho các bạn hôm nay. thực hiện đúng sẽ thành công.
1- Chữ P thứ nhất là Phục Vụ.
Theo Công Đồng, Hội Thánh hôm nay phải là một Hội Thánh phục vụ. Phục vụ khiêm tốn và giúp ích cho trần gian như men trong bột, như muối dưới biển, như ánh sáng rất thầm lặng. Tuy không được ai chú ý, nhưng không thể thiếu cho sự sống. Chắc các bạn thấy rõ chính nhờ âm thầm nhỏ bé ấy mới làm nên cuộc sống, các bạn hiểu rằng không có những hy sinh âm thầm, kín đáo ngày qua ngày của người mẹ trong xó bếp thì đừng mong xã hội ngày nay còn tồn tại và đứng vững, không có những bàn tay làm công việc độc điệu mỗi ngày trong các văn phòng thì đừng mong đất nước được phát triển và tồn tại, không có những người lính vô danh hy sinh ngoài mặt trận, thì đừng mong đất nước được chiến thắng. Cuộc sống Đức Tin cũng tùy thuộc vào những cái nhỏ bé âm thầm ấy. Sức sống của Giáo Hội cũng tùy thuộc vào những tiếng cầu kinh âm thầm liên lỉ của những bà mẹ nhà quê, những tiếng ngân ngan mộc vàg lên từ những giáo đường nhỏ bé, và nhất là chứng tá bình lặng của các tín hữu trong cuộc sống thường ngày. Các bạn hẳn còn nhớ hình ảnh hạt cải nhỏ bé, hay chút men trong đấu bột, được dùng để nói về thực tại nước trời, Chúa Giêsu đã nói: “ Tôi đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ”. Và Người nói tiếp như để giải thích: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”. Nghĩa là phải phục vụ lẫn nhau. Bởi vậy nhiệm vụ thường xuyên của người tín hữu, thành phần của Giáo Hội là phải liên kết chặt chẽ với nhau: Liên kết mọi sự sống, liên kết mọi sức mạnh tiềm tàng nơi mỗi người, mỗi công đoàn lớn nhỏ với nhau để tạo thành một sức sống chung, một sức mạnh tổng hợp, chính hành động này tạo nên khả năng tồn tại và phát triển của Giáo Hội vượt lên trên mọi thử thách, mọi hoàn cảnh. Sức mạnh căn bản của công đoàn là hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi và hiệp thông giữa mọi thành viên với nhau. Trong tinh thần này, người ta sẽ chứng kiến được thái độ tôn trọng và quý yêu đối với từng con người trong Giáo Hội, không phân biệt, không loại trừ ai. Sự gắn bó sâu xa giữa giáo sỹ và giáo dân, giữa giáo dân với tu sỹ, giữa người nam với người nữ, giữa giới trẻ với người già, ai ai cũng có giá trị và được quý yêu được có một vai trò trong cộng đoàn Giáo Hội, sự liên kết chặt chẽ này không cho phép coi thường một ai trong cộng đoàn, và mọi chức vụ chỉ nhằm mục tiêu là phục vụ: giáo sỹ phục vụ giáo dân, giáo dân phục vụ cộng đoàn, công đoàn phục vụ xã hội. Trong hoàn cảnh thế giới hôm nay, Giáo Hội và cộng đoàn đang trở thành những nhóm người nhỏ bé lẫn lộn giữa những đám đông thờ ơ lãnh đạm đối với tôn giáo. Chính vì thế mà chúng ta cần ý thức rõ ràng hơn sự sống và sức mạnh bên trong mình và tin tưởng mạnh dạn sống cuộc sống kitô hữu với xác tín Nước Trời vẫn luôn luôn lớn mạnh và sẽ đạt tới mức viên mãn theo kế hoạch ngàn đời của Thiên Chúa.
2- Chữ P thứ 2 là Phát Triển.
Chúa Giêsu đã bảo: “Họ không phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. (Mt. 14,16). Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa nhưng mang thân xác làm người, nên cũng nhắc nhở chúng ta biết giá trị cao cả của thân xác ta, để yêu thương giúp đỡ nhau, “Hãy cho họ ăn”, lo của ăn thân xác và cả tinh thần bằng nỗ lực đóng góp vào cuộc sống kinh tế, phát triển khoa học để phục vụ con người, đào sâu giá trị văn hóa, bằng việc dấn thân đấu tranh cho công lý hòa bình để nước Chúa là tình huynh đệ mỗi ngày một rõ nét hơn. Hội Thánh luôn phục vụ con người bằng cách phát triển con người toàn bộ, tức lo cho con người no ấm và hơn nữa biết sống xứng đáng là người con của của Thiên Chúa, là giới trẻ của thế kỷ mới, của thiên niên kỷ mới, chúng ta cần đào sâu để cảm nghiệm thật hết sức về Mầu Nhiệm tình thương để giúp ta xây dựng một nền văn minh tình thương cho xã hội loài người, bởi vì Đức Thánh Cha nói: Hơn bao giờ hết những tiến bộ khoa học kỹ thuật vĩ đại của thời đại chúng ta cần phải được quay hướng một cách khôn ngoan dưới ánh sáng của đạo đức học và việc phục vụ tiện ích cho con người toàn diện và cho mọi người. Tính cách nghiêm trọng, cấp bách và phức tạp của những vấn đề và những thách đố hiện tại đòi hỏi các thế hệ trẻ phải có khả năng chuyên môn trong nhiều lãnh vực khác nhau nhưng bên trên những lợi ích và cái nhìn cục bộ cần phải đặt lợi ích toàn diện của con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và được kêu gọi đến một vận mệnh vĩnh cửu.Như thế phát triển không có nghĩa là về kinh tế mà thôi, mà là toàn diện: thể lý, trí thức, tâm linh, ở đây cần phải dẹp bỏ cái lối suy nghĩ hẹp hòi là Giáo Hội chỉ lo phần rỗi thôi, không lo phần xác.
3- Chữ P thứ 3 là Phúc Âm.
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. (Mt. 28, 20), Giáo Hội lo phục vụ bằng cách phúc âm hóa chính mình để phúc âm hóa xã hội. Không phải để lôi kéo kẻ khác vào đạo nhưng là để giá trị phúc âm được thấm nhập vào mọi nơi, mọi người và chúng ta sống đẹp hơn. Văn hào Pascal đã nói: “Khi tôi hiểu biết Thiên Chúa, thì tôi cũng hiểu biết chính mình hơn”. Phúc Âm là Lời đem đến ân phúc, là Lời từ Thiên Chúa, là chính Chúa Kitô, Lời đó vâng ý Chúa Cha đến để yêu thương và yêu thương đến độ hy sinh cả mạng sống mình. Kitô hữu chúng ta, giới trẻ chúng ta không có con đường nào khác để chọn, nguồn sinh lực nào khác để múc lấy, mẫu mực nào khác để bắt chước, mục tiêu nào khác để nhắm tới, ngoài Chúa Kitô mà Phúc Âm trao cho chúng ta. Bởi vậy mà Thượng Hội Đồng Giám Mục Châu Á đã ngỏ lời với giới trẻ: “Giới trẻ là tương lai của Châu Á và của Giáo Hội – Trong nhiều Giáo Hội địa phương các bạn trẻ đã chứng tỏ có nhiều khả năng trong công cuộc Phúc Âm hóa và chuẩn bị một tương lai tốt đẹp hơn cho Giáo Hội và cho xã hội, họ mang trong mình một tiềm năng bao la về sự thiện và sức sáng tạo. Do đó một sự thật hiển nhiên là giới trẻ hôm nay thế nào thì đất nước và Giáo Hội ngày mai sẽ thế ấy. Chúng tôi tha thiết nài xin các bạn trẻ hãy ý thức và can đảm nhận lãnh vai trò của mình để xây dựng ngôi nhà chung tương lai của nhân loại, tức là trước hết hãy xây dựng bản lĩnh của chính mình hầu đạt tới mức trưởng thành, nhờ đó, thực thi nghĩa vụ và quyền lợi trong tinh thần tự do chân chính và có trách nhiệm cao độ”. Tóm lại, rao truyền Phúc Âm là nghĩa vụ thiết yếu của kitô hữu và của Giáo Hội, nhất là của giới trẻ.
4- Chữ P thứ 4 là Phận Sự.
Mỗi chúng ta là một người con Thiên Chúa trong Chúa Kitô, phẩm giá cao quý và độc đáo đó đi kèm với nghĩa vụ phải hoàn thành, ơn gọi phải đáp trả. Hội Thánh phục vụ bằng các phần vụ trần thế, đây là một linh đạo mới mà chúng ta tất cả phải nắm vững để có quan niệm đúng: Nên thánh là chu toàn phận sự của mình: Làm thầy dạy, làm thợ, đi cày, học sinh, làm bếp, bác sĩ, làm văn.... tất cả hãy cố gắng làm thật tốt, làm vì mến Chúa. Vũ trụ là một sân khấu vĩ đại trong đó mọi loài, mọi vật đều là một diễn viên, đều có một vai diễn Thiên Chúa đã xếp định, tất cả đều phải cố gắng làm xuất sắc vai diễn của mình để cuốn phim vĩ đại thiên nhiên được thành công. Nói thế tức cũng nói là mọi loài, mọi vật nhất là con người phải giữ vai trò nhất định Chúa phân công và phải hoàn thành xuất sắc theo ý định của Ngài, như thế, thế giới sẽ khá lên, đất nước sẽ đổi mới vì tâm hồn đổi mới, gia đình đã đổi mới, thế giới cũng sẽ đổi mới.
Để chu toàn 4 chữ P đó, giới trẻ chúng ta cần khẳng định:
A. Ta là người Việt Nam: Tôi tiếp nhận máu huyết của cha mẹ, ông bà, tôi thừa hưởng gia sản văn hóa, giá trị đạo đức ngàn đời của tổ tiên Việt Nam tôi, là người Việt Nam tôi có một tổ quốc với một non sông gấm vóc, lịch sử vẻ vang, đồng bào cần mẫn, hào hùng mà tôi phải yêu thương, đùm bọc, phải hãnh diện sống xứng danh. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc nhở chúng ta: “Các bạn hãy hãnh diện là người Việt Nam”. Các bạn trẻ, các bạn phải xác tín mình là cái vốn đầu tư của đất nước, bởi thế, nếu không thành công trong tư cách đạo đức, trí thức, thì chính chúng ta đã làm thiệt hại cho đất nước. Là người Việt Nam, tôi phải dấn thân phục vụ đồng bào, phải trung thành bảo vệ xây dựng quê hương bằng tim óc, bằng xương máu, tôi còn phải là niềm hãnh diện và hy vọng cho dân tộc Việt Nam thân yêu của tôi.
B. Là người trẻ Việt Nam tôi còn là người trẻ Công Giáo, tôi đã chịu Phép Rửa, Chúa Thánh Thần qua Giáo Hội đã đưa tôi vào sự sống của Thiên Chúa là Cha chung của mọi người nhờ Mầu Nhiệm tử nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, bởi đó, tôi không thể là người Công Giáo bằng tên mà là bằng cả cuộc sống, cuộc sống như cuộc sống Chúa Kitô. Các bạn đừng để ai xây dựng thế giới này mỗi ngày mà các bạn không hay biết, không khám phá, không thao thức, không góp tay vào. Chúa đã cứu chuộc các bạn và đã đặt các bạn vào thế gian trong thế kỷ này, trong thập niên này, trong môi trường này. Các bạn đừng là những người Công Giáo bù nhìn. Đức Hồng Y Phanxicô nói: “sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở nhà thờ và ngoài xã hội là gương xấu tai hại nhất trong thời đại chúng ta. Là người Việt Nam, chúng ta không thể bằng lòng vói một khuôn khổ khép kín, tự tách rời mà phải hội nhập với mọi người, tuy vẫn giữ được căn tính của mình, để tiến bước, chứ không phải để dẫm chân tại chỗ, để luôn phát triển, cập nhật hiện tại mà hướng dẫn thế giới đi về tương lai, bởi như lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói trong sứ điệp ngày quốc tế giới trẻ XII: “Các bạn có thể gặp Chúa Kitô dọc theo những nẻo đường của cuộc sống mỗi ngày”.
C. Các bạn trẻ thân mến, nhiệm các bạn là xây dựng: Xây dựng bản thân, xây dựng gia đình, xây dựng tổ quốc, xây dựng Giáo Hội, muốn thế hãy yêu mến Thánh Giá như Thánh Anrê: “ Ôi Thánh Giá là nơi Chúa chịu chết chuộc tội loài người, tôi đã yêu mến Ngươi từ lâu, Ngươi hãy giúp tôi đến gặp Chúa Giêsu, Thầy chí thánh của tôi”. Amen
Đại Hội Giới Trẻ Hạt Vạn Lộc ngày 09-10-2016.
Chào mừng chúng con, Giới trẻ hạt Vạn Lộc thân mến..
Hôm nay cha hết sức vui mừng vì có mặt với chúng con trong ngày cao điểm của giới trẻ giáo hạt Vạn Lộc. Nhìn chúng con cha liên tưởng ngay đến cuộc gặp gỡ của hơn một triệu bạn trẻ tại thủ đô Paris nước Pháp, quanh vị cha chung là Đức Giáo Hoàng Gioan Phalô II. Nhiều người đã thắc mắc: động lực nào đã thúc đẩy hàng triệu bạn trẻ đến với một ông cụ già gần 80 tuổi đau yếu bệnh tật. Hấp lực gì đã lôi kéo được giới trẻ, đặc biệt là giới trẻ các nước Tây Âu, nơi sặc mùi “tục hóa” đến Paris để đón chờ sứ điệp của một vị lãnh đạo tôn giáo.
Xem Hình
1. Động lực nào và hấp lực gì?
Và rồi người ta phải giật mình khi nhận ra và thấy rõ được rằng: các dấu ấn khắc ghi nơi tâm hồn con người là “Niềm Tin và khát vọng Sự Thật”. không thể có một yếu tố nào bên ngoài, bất cứ nơi chốn nào, vào bất cứ một thời đại nào có thể tẩy xóa được Niềm Tin, và cao độ là niềm tin tôn giáo là động lực lôi kéo con người hướng về Chân – Thiện – Mỹ và đó cũng là yếu tố chính của cuộc sống của con người trẻ hôm nay cũng như các thế hệ cha ông chúng ta đi trước. Cách đây hơn 20 thế kỷ đức Khổng Phu Tử đã từng nói:”Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”. (Luận ngữ II,22). Con người không tin thì không thể làm được điều gì? Và khi Tử Cống đồ đệ hỏi về việc trị nước, ngài trả lời: “Túc Binh, túc thực, túc tín”. cần đủ binh lực, đủ lương thực, đủ lòng tin của dân. Tử Cống hỏi tiếp: nếu bất đắc dĩ phải giảm một trong ba điều thì phải giảm điều nào trước? Ngài đáp ngay là phải giảm binh lực, Tử Cống hỏi dồn thêm: nếu phải giảm một trong hai điều còn lại thì sao? Ngài trả lời giảm lương thực. Còn niềm tin thì không thể giảm được, vì dân mất niềm tin thì nước không còn: “Khử Binh, khử thực, tín bất khả khứ” (Luận ngữ 12, 7). Vào thời tiếp theo có lần người ta hỏi về việc cứu đời, Mạnh Tử đáp: “ Cứu người chết đuối dưới sông thì đưa sào cho người ta níu, nhưng cứu cả thiên hạ cho khỏi loạn thì lại dùng đến đạo. Bởi khi không có niềm tin nơi Thiên Chúa là tạo hóa, là Cha thì chẳng còn sợ hãi ai, chẳng chừa một thủ đoạn tàn ác độc địa nào. Khi không còn niềm tin mọi người là anh em với nhau, là con một Cha, thì chỉ áp dụng cá lớn nuốt cá bé, người bóc lột người. Khi phát biểu tại Liên Hiệp Quốc ngày 05/10/1995 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Quý vị muốn viết một trang sử tốt đẹp cho nhân loại. thì Quý vị hãy sử dụng văn phạm mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, đó là Lương Tâm của chúng ta. Bởi niềm tin tôn giáo sẽ thúc đẩy con người dân thân cách đại độ, để giúp anh em đồng loại của mình hoàn thành nghĩa vụ chính yếu là yêu thương.
2. Nhưng để niềm tin trở thành động lực, thành ánh sáng cho cuộc đời ta, ta phải làm gì? Thưa: phải ôm ấp lấy Thánh Giá: “O Crux ave spesunica”. Kính chào Thánh Giá là niềm hy vọng độc nhất của chúng con”. Thánh Giá không phải là biện pháp áp đặt lên Thiên Chúa cũng không phải là giải pháp cuối cùng khi mọi kế hoạch khác đã bị thất bại – Thánh Giá là chương trình định sẵn của Thiên Chúa, Thánh Giá là nơi duy nhất trên quả đất này đã mặc khải cho thấy rõ tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Quả thực, Thánh Giá đem lại hy vọng vì Chúa đã chịu đóng đinh vào đó để cứu rỗi nhân loại, rồi sống lại để đem nhân loại vào thiên cung.
Các bạn trẻ có nghe không?
Thánh Giá đang nhắc đến các bạn qua thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong sứ điệp “Tuổi trẻ là chứng nhân của hy vọng”. Bởi đó, thái độ cần có trước Thập Giá là phải can đảm kiên cường đi theo Chúa. Cuộc sống không phải luôn luôn chỉ là màu hồng – Con người không hẳn luôn luôn là người bạn tốt – Hy sinh không phải luôn luôn là dễ dàng. Nhưng chính những trắc trở của đời sống đó lại trở thành lời mời gọi giúp chúng ta ý thức về sứ mạng và con người của Chúa Giêsu và cũng ý thức về sứ mạng vác thập giá theo Chúa và chia sẻ thân phận của Người trong đời sống mình, Cụ Phan Bội Châu đã nói: “Ví phóng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Còn Chúa Giêsu cũng nói: “Ai liều mạng sống vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy". – Bởi đây không phải chỉ là một cuộc sống bị đóng đinh mà còn là một đời sống trở nên hy tế. Sau cùng chúng ta cũng được mời gọi để trở nên chứng tá cho tình yêu Chúa bằng đời sống thập giá đi theo Chúa. Thập giá là yêu thương và cứu độ. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ và yêu thương. Điều đó cần phải được nhân lên trong chính cuộc sống của các môn đệ, của các bạn.
Đời sống chứng nhân của các bạn gồm có 4 điểm khởi đầu bằng 4 chữ P. Đó là chương trình hành động cho các bạn hôm nay. thực hiện đúng sẽ thành công.
1- Chữ P thứ nhất là Phục Vụ.
Theo Công Đồng, Hội Thánh hôm nay phải là một Hội Thánh phục vụ. Phục vụ khiêm tốn và giúp ích cho trần gian như men trong bột, như muối dưới biển, như ánh sáng rất thầm lặng. Tuy không được ai chú ý, nhưng không thể thiếu cho sự sống. Chắc các bạn thấy rõ chính nhờ âm thầm nhỏ bé ấy mới làm nên cuộc sống, các bạn hiểu rằng không có những hy sinh âm thầm, kín đáo ngày qua ngày của người mẹ trong xó bếp thì đừng mong xã hội ngày nay còn tồn tại và đứng vững, không có những bàn tay làm công việc độc điệu mỗi ngày trong các văn phòng thì đừng mong đất nước được phát triển và tồn tại, không có những người lính vô danh hy sinh ngoài mặt trận, thì đừng mong đất nước được chiến thắng. Cuộc sống Đức Tin cũng tùy thuộc vào những cái nhỏ bé âm thầm ấy. Sức sống của Giáo Hội cũng tùy thuộc vào những tiếng cầu kinh âm thầm liên lỉ của những bà mẹ nhà quê, những tiếng ngân ngan mộc vàg lên từ những giáo đường nhỏ bé, và nhất là chứng tá bình lặng của các tín hữu trong cuộc sống thường ngày. Các bạn hẳn còn nhớ hình ảnh hạt cải nhỏ bé, hay chút men trong đấu bột, được dùng để nói về thực tại nước trời, Chúa Giêsu đã nói: “ Tôi đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ”. Và Người nói tiếp như để giải thích: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”. Nghĩa là phải phục vụ lẫn nhau. Bởi vậy nhiệm vụ thường xuyên của người tín hữu, thành phần của Giáo Hội là phải liên kết chặt chẽ với nhau: Liên kết mọi sự sống, liên kết mọi sức mạnh tiềm tàng nơi mỗi người, mỗi công đoàn lớn nhỏ với nhau để tạo thành một sức sống chung, một sức mạnh tổng hợp, chính hành động này tạo nên khả năng tồn tại và phát triển của Giáo Hội vượt lên trên mọi thử thách, mọi hoàn cảnh. Sức mạnh căn bản của công đoàn là hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi và hiệp thông giữa mọi thành viên với nhau. Trong tinh thần này, người ta sẽ chứng kiến được thái độ tôn trọng và quý yêu đối với từng con người trong Giáo Hội, không phân biệt, không loại trừ ai. Sự gắn bó sâu xa giữa giáo sỹ và giáo dân, giữa giáo dân với tu sỹ, giữa người nam với người nữ, giữa giới trẻ với người già, ai ai cũng có giá trị và được quý yêu được có một vai trò trong cộng đoàn Giáo Hội, sự liên kết chặt chẽ này không cho phép coi thường một ai trong cộng đoàn, và mọi chức vụ chỉ nhằm mục tiêu là phục vụ: giáo sỹ phục vụ giáo dân, giáo dân phục vụ cộng đoàn, công đoàn phục vụ xã hội. Trong hoàn cảnh thế giới hôm nay, Giáo Hội và cộng đoàn đang trở thành những nhóm người nhỏ bé lẫn lộn giữa những đám đông thờ ơ lãnh đạm đối với tôn giáo. Chính vì thế mà chúng ta cần ý thức rõ ràng hơn sự sống và sức mạnh bên trong mình và tin tưởng mạnh dạn sống cuộc sống kitô hữu với xác tín Nước Trời vẫn luôn luôn lớn mạnh và sẽ đạt tới mức viên mãn theo kế hoạch ngàn đời của Thiên Chúa.
2- Chữ P thứ 2 là Phát Triển.
Chúa Giêsu đã bảo: “Họ không phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. (Mt. 14,16). Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa nhưng mang thân xác làm người, nên cũng nhắc nhở chúng ta biết giá trị cao cả của thân xác ta, để yêu thương giúp đỡ nhau, “Hãy cho họ ăn”, lo của ăn thân xác và cả tinh thần bằng nỗ lực đóng góp vào cuộc sống kinh tế, phát triển khoa học để phục vụ con người, đào sâu giá trị văn hóa, bằng việc dấn thân đấu tranh cho công lý hòa bình để nước Chúa là tình huynh đệ mỗi ngày một rõ nét hơn. Hội Thánh luôn phục vụ con người bằng cách phát triển con người toàn bộ, tức lo cho con người no ấm và hơn nữa biết sống xứng đáng là người con của của Thiên Chúa, là giới trẻ của thế kỷ mới, của thiên niên kỷ mới, chúng ta cần đào sâu để cảm nghiệm thật hết sức về Mầu Nhiệm tình thương để giúp ta xây dựng một nền văn minh tình thương cho xã hội loài người, bởi vì Đức Thánh Cha nói: Hơn bao giờ hết những tiến bộ khoa học kỹ thuật vĩ đại của thời đại chúng ta cần phải được quay hướng một cách khôn ngoan dưới ánh sáng của đạo đức học và việc phục vụ tiện ích cho con người toàn diện và cho mọi người. Tính cách nghiêm trọng, cấp bách và phức tạp của những vấn đề và những thách đố hiện tại đòi hỏi các thế hệ trẻ phải có khả năng chuyên môn trong nhiều lãnh vực khác nhau nhưng bên trên những lợi ích và cái nhìn cục bộ cần phải đặt lợi ích toàn diện của con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và được kêu gọi đến một vận mệnh vĩnh cửu.Như thế phát triển không có nghĩa là về kinh tế mà thôi, mà là toàn diện: thể lý, trí thức, tâm linh, ở đây cần phải dẹp bỏ cái lối suy nghĩ hẹp hòi là Giáo Hội chỉ lo phần rỗi thôi, không lo phần xác.
3- Chữ P thứ 3 là Phúc Âm.
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. (Mt. 28, 20), Giáo Hội lo phục vụ bằng cách phúc âm hóa chính mình để phúc âm hóa xã hội. Không phải để lôi kéo kẻ khác vào đạo nhưng là để giá trị phúc âm được thấm nhập vào mọi nơi, mọi người và chúng ta sống đẹp hơn. Văn hào Pascal đã nói: “Khi tôi hiểu biết Thiên Chúa, thì tôi cũng hiểu biết chính mình hơn”. Phúc Âm là Lời đem đến ân phúc, là Lời từ Thiên Chúa, là chính Chúa Kitô, Lời đó vâng ý Chúa Cha đến để yêu thương và yêu thương đến độ hy sinh cả mạng sống mình. Kitô hữu chúng ta, giới trẻ chúng ta không có con đường nào khác để chọn, nguồn sinh lực nào khác để múc lấy, mẫu mực nào khác để bắt chước, mục tiêu nào khác để nhắm tới, ngoài Chúa Kitô mà Phúc Âm trao cho chúng ta. Bởi vậy mà Thượng Hội Đồng Giám Mục Châu Á đã ngỏ lời với giới trẻ: “Giới trẻ là tương lai của Châu Á và của Giáo Hội – Trong nhiều Giáo Hội địa phương các bạn trẻ đã chứng tỏ có nhiều khả năng trong công cuộc Phúc Âm hóa và chuẩn bị một tương lai tốt đẹp hơn cho Giáo Hội và cho xã hội, họ mang trong mình một tiềm năng bao la về sự thiện và sức sáng tạo. Do đó một sự thật hiển nhiên là giới trẻ hôm nay thế nào thì đất nước và Giáo Hội ngày mai sẽ thế ấy. Chúng tôi tha thiết nài xin các bạn trẻ hãy ý thức và can đảm nhận lãnh vai trò của mình để xây dựng ngôi nhà chung tương lai của nhân loại, tức là trước hết hãy xây dựng bản lĩnh của chính mình hầu đạt tới mức trưởng thành, nhờ đó, thực thi nghĩa vụ và quyền lợi trong tinh thần tự do chân chính và có trách nhiệm cao độ”. Tóm lại, rao truyền Phúc Âm là nghĩa vụ thiết yếu của kitô hữu và của Giáo Hội, nhất là của giới trẻ.
4- Chữ P thứ 4 là Phận Sự.
Mỗi chúng ta là một người con Thiên Chúa trong Chúa Kitô, phẩm giá cao quý và độc đáo đó đi kèm với nghĩa vụ phải hoàn thành, ơn gọi phải đáp trả. Hội Thánh phục vụ bằng các phần vụ trần thế, đây là một linh đạo mới mà chúng ta tất cả phải nắm vững để có quan niệm đúng: Nên thánh là chu toàn phận sự của mình: Làm thầy dạy, làm thợ, đi cày, học sinh, làm bếp, bác sĩ, làm văn.... tất cả hãy cố gắng làm thật tốt, làm vì mến Chúa. Vũ trụ là một sân khấu vĩ đại trong đó mọi loài, mọi vật đều là một diễn viên, đều có một vai diễn Thiên Chúa đã xếp định, tất cả đều phải cố gắng làm xuất sắc vai diễn của mình để cuốn phim vĩ đại thiên nhiên được thành công. Nói thế tức cũng nói là mọi loài, mọi vật nhất là con người phải giữ vai trò nhất định Chúa phân công và phải hoàn thành xuất sắc theo ý định của Ngài, như thế, thế giới sẽ khá lên, đất nước sẽ đổi mới vì tâm hồn đổi mới, gia đình đã đổi mới, thế giới cũng sẽ đổi mới.
Để chu toàn 4 chữ P đó, giới trẻ chúng ta cần khẳng định:
A. Ta là người Việt Nam: Tôi tiếp nhận máu huyết của cha mẹ, ông bà, tôi thừa hưởng gia sản văn hóa, giá trị đạo đức ngàn đời của tổ tiên Việt Nam tôi, là người Việt Nam tôi có một tổ quốc với một non sông gấm vóc, lịch sử vẻ vang, đồng bào cần mẫn, hào hùng mà tôi phải yêu thương, đùm bọc, phải hãnh diện sống xứng danh. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc nhở chúng ta: “Các bạn hãy hãnh diện là người Việt Nam”. Các bạn trẻ, các bạn phải xác tín mình là cái vốn đầu tư của đất nước, bởi thế, nếu không thành công trong tư cách đạo đức, trí thức, thì chính chúng ta đã làm thiệt hại cho đất nước. Là người Việt Nam, tôi phải dấn thân phục vụ đồng bào, phải trung thành bảo vệ xây dựng quê hương bằng tim óc, bằng xương máu, tôi còn phải là niềm hãnh diện và hy vọng cho dân tộc Việt Nam thân yêu của tôi.
B. Là người trẻ Việt Nam tôi còn là người trẻ Công Giáo, tôi đã chịu Phép Rửa, Chúa Thánh Thần qua Giáo Hội đã đưa tôi vào sự sống của Thiên Chúa là Cha chung của mọi người nhờ Mầu Nhiệm tử nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, bởi đó, tôi không thể là người Công Giáo bằng tên mà là bằng cả cuộc sống, cuộc sống như cuộc sống Chúa Kitô. Các bạn đừng để ai xây dựng thế giới này mỗi ngày mà các bạn không hay biết, không khám phá, không thao thức, không góp tay vào. Chúa đã cứu chuộc các bạn và đã đặt các bạn vào thế gian trong thế kỷ này, trong thập niên này, trong môi trường này. Các bạn đừng là những người Công Giáo bù nhìn. Đức Hồng Y Phanxicô nói: “sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở nhà thờ và ngoài xã hội là gương xấu tai hại nhất trong thời đại chúng ta. Là người Việt Nam, chúng ta không thể bằng lòng vói một khuôn khổ khép kín, tự tách rời mà phải hội nhập với mọi người, tuy vẫn giữ được căn tính của mình, để tiến bước, chứ không phải để dẫm chân tại chỗ, để luôn phát triển, cập nhật hiện tại mà hướng dẫn thế giới đi về tương lai, bởi như lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói trong sứ điệp ngày quốc tế giới trẻ XII: “Các bạn có thể gặp Chúa Kitô dọc theo những nẻo đường của cuộc sống mỗi ngày”.
C. Các bạn trẻ thân mến, nhiệm các bạn là xây dựng: Xây dựng bản thân, xây dựng gia đình, xây dựng tổ quốc, xây dựng Giáo Hội, muốn thế hãy yêu mến Thánh Giá như Thánh Anrê: “ Ôi Thánh Giá là nơi Chúa chịu chết chuộc tội loài người, tôi đã yêu mến Ngươi từ lâu, Ngươi hãy giúp tôi đến gặp Chúa Giêsu, Thầy chí thánh của tôi”. Amen
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Lời ''xá giải” trong Nghi thức Sám hối có hiệu quả bí tích không?
Nguyễn Trọng Đa
13:38 11/10/2016
Giải đáp phụng vụ: Lời "xá giải” trong Nghi thức Sám hối có hiệu quả bí tích không?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Đầu Thánh Lễ, linh mục nói các lời: “Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời” (Bản dịch Việt ngữ của Ủy ban Phụng tự thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam). Chữ đỏ trong Sách lễ nhắc đến lời Xá giải. Thưa cha, đây có phải thực sự là một lời xá giải không, và liệu linh mục có làm dấu thánh giá vào lúc này không? Liệu lời xá giải này thực sự phản ảnh việc tha tội không? - L. B., San Diego , California, Hoa Kỳ.
Đáp: Qui chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma (GIRM) nói như sau trong số 51:
"Tiếp theo, vị tư tế mời mọi người sám hối. Sau một chút thinh lặng, tất cả cộng đoàn đọc công thức thú tội chung và vị tư tế đọc lời xá giải để kết thúc. Lời xá giải này không có hiệu quả của bí tích thống hối.
Vào ngày Chúa Nhật, nhất là trong Mùa Phục Sinh, thay vì nghi thức thống hối thường lệ, thỉnh thoảng nên làm phép và rảy nước thánh để nhớ lại phép rửa" (Bản dịch Việt ngữ của Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Chí Cần, Giáo phận Nha Trang).
Chữ đỏ không cho thấy rằng linh mục làm dấu thánh giá, và do đó, bởi vì cử chỉ như thế luôn được nhắc ở những lúc khác, nó được cho rằng nó không được thực hiện vào lúc ấy.
Trong hình thức ngoại thường của Thánh lễ, Kinh thú nhận (Confiteor) được đọc hai lần, lần đầu bởi linh mục và lần sau bởi người giúp lễ.
Sau khi linh mục đã đọc xong “Kinh thú nhận”, người giúp lễ nói:
"Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa cha đến sự sống muôn đời”
Linh mục sau đó đọc lời Indulgentiam:
"Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, ban cho chúng ta sự tha thứ và [ngài làm dấu thánh giá] xá giải, và tha tội cho chúng ta".
Một lần nữa, công thức này không phải là một lời xá giải bí tích, nhưng là một lời khẩn cầu tha tội, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm Thánh Lễ.
Mặc dù từ ngữ "xá giải" được sử dụng thật sự, công thức không có hiệu quả của bí tích, và không trực tiếp tha thứ tội lỗi. Một số điều kiện, thường được đòi hỏi để có lời xá giải, lại thiếu ở đây, chẳng hạn một lời xưng tội rõ ràng là đã phạm ít nhất một tội cụ thể. Tương tự như vậy, ít nhất trong hình thức ngoại thường của Thánh lễ, lời xá giải chỉ nói trên người giúp lễ chứ không nhắm đến bí tích.
Một số hình thức nhìn nhận tình trạng tội lỗi của chúng ta đã tạo nên một phần của nghi thức đầu lễ, từ thời sơ khai của Giáo Hội. Tại Rôma, thí dụ, việc này được thực hiện cách âm thầm bởi vị chủ tế và các thừa tác viên đang quỳ hoặc phủ phục trước bàn thờ. Các lời được thêm vào cử chỉ thinh lặng này trong lãnh thổ nói tiếng Pháp (chủ yếu là phần lớn Pháp và Đức hiện nay), trong suốt thế kỷ VIII.
Lúc ban đầu, “Kinh thú nhận” là một biểu hiện của cá nhân; tuy nhiên, từ khoảng thế kỷ XI, nó đã trở thành một hình thức đối thoại, mà trong đó linh mục nhìn nhận tội lỗi của mình, không chỉ trước mặt Thiên Chúa và thiên đàng, mà còn trước mặt các người xung quanh ngài, và xin họ cầu bầu. Sự cầu bầu này được đưa ra, như có thể thấy trong công thức của người giúp lễ trong hình thức ngoại thường của Thánh lễ trên đây.
Hình thức và phương pháp hiện nay của việc đọc “Kinh thú nhận” là có lẽ lấy từ Thần vụ, đặc biệt là từ Thần vụ của Giờ kinh nhất và Giờ kinh tối, và được đưa vào phần đầu của Thánh lễ. Chính trong sự di chuyển này mà hai công thức, lời Misereatur, hoặc lời cầu bầu của người giúp lễ, và công thức Indulgentiam, hoặc lời của linh mục, là lần đầu tiên được giới thiệu, và trở thành một phần ổn định của Thánh Lễ từ khoảng năm 1000.
Sự thay đổi này được hỗ trợ bởi một sự việc rằng trong thời gian này công thức Indulgentiam, thường bắt đầu với chữ thứ hai "absolutionem" (xá giải), cũng giúp trong một thời kỳ như là lời xá giải bí tích trong phép Giải tội. Tương tự như vậy, sau đó nó trở nên phổ biến để ban lời xá giải ngay lập tức, sau khi khi người ta xưng tội, như là một quy chuẩn ngày nay, chứ không phải sau khi hoàn tất một thời gian sám hối như là tập tục trước đó. Hơn nữa, điều này giải thích tại sao dấu thánh giá đi kèm với công thức Indulgentiam trong hình thức ngoại thường, vì nó cũng được sử dụng cho lời xá giải của bí tích.
Đã có nhiều công thức cho Kinh thú nhận và lời Misereatur của người giúp lễ trong Thánh Lễ. Một số công thức khẩn cầu nhiều thánh hơn, một số công thức liệt kê các loại tội lỗi. Sự ra đời của thần học Kinh viện làm sáng tỏ các khái niệm bí tích, và có sự phân biệt cần thiết giữa các bí tích và hiệu quả của chúng. Như một kết quả, các sự thêm thắt này thường không được chấp thuận bởi các nhà thần học và các mục tử hiện đại, vì nó làm suy yếu bản chất của Kinh thú nhận như là một lời thú nhận chung công khai, và không phải là một lời thú nhận thầm kín. Vì vậy, Công đồng Ravenna thứ III năm 1314 qui định rằng ngoài Đức Bà Maria, chỉ các thánh Micae, Gioan Tẩy Giả và các thánh Phêrô và Phaolô, được khẩn cầu mà thôi.
Do đó, các nghi thức của hình thức ngoại thường chứa các yếu tố thời tiền Kinh viện, vốn có thể làm cho một số người tin rằng nghi thức là có tính chất bí tích. Thực ra, lỗi này hiếm khi xảy ra, và các nghi lễ phục vụ như là một sự chuẩn bị cung kính cho việc cử hành Thánh Lễ.
Công thức của Kinh thú nhận theo hình thức thông thường đã được đơn giản hóa, và bây giờ chỉ còn nêu tên Đức Bà Maria mà thôi. Nó cũng đã được chuyển đổi thành một lời kinh cộng đồng, chứ không phải là một cuộc đối thoại giữa linh mục và người giúp lễ dưới chân bàn thờ. Công thức Misereatur, cho đến nay được đọc bởi người giúp lễ, được chuyển cho linh mục là người cầu thay cho mọi người có mặt tại đó.
Dấu thánh giá là không còn được làm nữa, để loại bỏ bất kỳ sự mơ hồ nào cho bản chất phi bí tích của nghi thức này. (Zenit.org 11-10-2016)
Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Đầu Thánh Lễ, linh mục nói các lời: “Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời” (Bản dịch Việt ngữ của Ủy ban Phụng tự thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam). Chữ đỏ trong Sách lễ nhắc đến lời Xá giải. Thưa cha, đây có phải thực sự là một lời xá giải không, và liệu linh mục có làm dấu thánh giá vào lúc này không? Liệu lời xá giải này thực sự phản ảnh việc tha tội không? - L. B., San Diego , California, Hoa Kỳ.
Đáp: Qui chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma (GIRM) nói như sau trong số 51:
"Tiếp theo, vị tư tế mời mọi người sám hối. Sau một chút thinh lặng, tất cả cộng đoàn đọc công thức thú tội chung và vị tư tế đọc lời xá giải để kết thúc. Lời xá giải này không có hiệu quả của bí tích thống hối.
Vào ngày Chúa Nhật, nhất là trong Mùa Phục Sinh, thay vì nghi thức thống hối thường lệ, thỉnh thoảng nên làm phép và rảy nước thánh để nhớ lại phép rửa" (Bản dịch Việt ngữ của Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Chí Cần, Giáo phận Nha Trang).
Chữ đỏ không cho thấy rằng linh mục làm dấu thánh giá, và do đó, bởi vì cử chỉ như thế luôn được nhắc ở những lúc khác, nó được cho rằng nó không được thực hiện vào lúc ấy.
Trong hình thức ngoại thường của Thánh lễ, Kinh thú nhận (Confiteor) được đọc hai lần, lần đầu bởi linh mục và lần sau bởi người giúp lễ.
Sau khi linh mục đã đọc xong “Kinh thú nhận”, người giúp lễ nói:
"Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa cha đến sự sống muôn đời”
Linh mục sau đó đọc lời Indulgentiam:
"Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, ban cho chúng ta sự tha thứ và [ngài làm dấu thánh giá] xá giải, và tha tội cho chúng ta".
Một lần nữa, công thức này không phải là một lời xá giải bí tích, nhưng là một lời khẩn cầu tha tội, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm Thánh Lễ.
Mặc dù từ ngữ "xá giải" được sử dụng thật sự, công thức không có hiệu quả của bí tích, và không trực tiếp tha thứ tội lỗi. Một số điều kiện, thường được đòi hỏi để có lời xá giải, lại thiếu ở đây, chẳng hạn một lời xưng tội rõ ràng là đã phạm ít nhất một tội cụ thể. Tương tự như vậy, ít nhất trong hình thức ngoại thường của Thánh lễ, lời xá giải chỉ nói trên người giúp lễ chứ không nhắm đến bí tích.
Một số hình thức nhìn nhận tình trạng tội lỗi của chúng ta đã tạo nên một phần của nghi thức đầu lễ, từ thời sơ khai của Giáo Hội. Tại Rôma, thí dụ, việc này được thực hiện cách âm thầm bởi vị chủ tế và các thừa tác viên đang quỳ hoặc phủ phục trước bàn thờ. Các lời được thêm vào cử chỉ thinh lặng này trong lãnh thổ nói tiếng Pháp (chủ yếu là phần lớn Pháp và Đức hiện nay), trong suốt thế kỷ VIII.
Lúc ban đầu, “Kinh thú nhận” là một biểu hiện của cá nhân; tuy nhiên, từ khoảng thế kỷ XI, nó đã trở thành một hình thức đối thoại, mà trong đó linh mục nhìn nhận tội lỗi của mình, không chỉ trước mặt Thiên Chúa và thiên đàng, mà còn trước mặt các người xung quanh ngài, và xin họ cầu bầu. Sự cầu bầu này được đưa ra, như có thể thấy trong công thức của người giúp lễ trong hình thức ngoại thường của Thánh lễ trên đây.
Hình thức và phương pháp hiện nay của việc đọc “Kinh thú nhận” là có lẽ lấy từ Thần vụ, đặc biệt là từ Thần vụ của Giờ kinh nhất và Giờ kinh tối, và được đưa vào phần đầu của Thánh lễ. Chính trong sự di chuyển này mà hai công thức, lời Misereatur, hoặc lời cầu bầu của người giúp lễ, và công thức Indulgentiam, hoặc lời của linh mục, là lần đầu tiên được giới thiệu, và trở thành một phần ổn định của Thánh Lễ từ khoảng năm 1000.
Sự thay đổi này được hỗ trợ bởi một sự việc rằng trong thời gian này công thức Indulgentiam, thường bắt đầu với chữ thứ hai "absolutionem" (xá giải), cũng giúp trong một thời kỳ như là lời xá giải bí tích trong phép Giải tội. Tương tự như vậy, sau đó nó trở nên phổ biến để ban lời xá giải ngay lập tức, sau khi khi người ta xưng tội, như là một quy chuẩn ngày nay, chứ không phải sau khi hoàn tất một thời gian sám hối như là tập tục trước đó. Hơn nữa, điều này giải thích tại sao dấu thánh giá đi kèm với công thức Indulgentiam trong hình thức ngoại thường, vì nó cũng được sử dụng cho lời xá giải của bí tích.
Đã có nhiều công thức cho Kinh thú nhận và lời Misereatur của người giúp lễ trong Thánh Lễ. Một số công thức khẩn cầu nhiều thánh hơn, một số công thức liệt kê các loại tội lỗi. Sự ra đời của thần học Kinh viện làm sáng tỏ các khái niệm bí tích, và có sự phân biệt cần thiết giữa các bí tích và hiệu quả của chúng. Như một kết quả, các sự thêm thắt này thường không được chấp thuận bởi các nhà thần học và các mục tử hiện đại, vì nó làm suy yếu bản chất của Kinh thú nhận như là một lời thú nhận chung công khai, và không phải là một lời thú nhận thầm kín. Vì vậy, Công đồng Ravenna thứ III năm 1314 qui định rằng ngoài Đức Bà Maria, chỉ các thánh Micae, Gioan Tẩy Giả và các thánh Phêrô và Phaolô, được khẩn cầu mà thôi.
Do đó, các nghi thức của hình thức ngoại thường chứa các yếu tố thời tiền Kinh viện, vốn có thể làm cho một số người tin rằng nghi thức là có tính chất bí tích. Thực ra, lỗi này hiếm khi xảy ra, và các nghi lễ phục vụ như là một sự chuẩn bị cung kính cho việc cử hành Thánh Lễ.
Công thức của Kinh thú nhận theo hình thức thông thường đã được đơn giản hóa, và bây giờ chỉ còn nêu tên Đức Bà Maria mà thôi. Nó cũng đã được chuyển đổi thành một lời kinh cộng đồng, chứ không phải là một cuộc đối thoại giữa linh mục và người giúp lễ dưới chân bàn thờ. Công thức Misereatur, cho đến nay được đọc bởi người giúp lễ, được chuyển cho linh mục là người cầu thay cho mọi người có mặt tại đó.
Dấu thánh giá là không còn được làm nữa, để loại bỏ bất kỳ sự mơ hồ nào cho bản chất phi bí tích của nghi thức này. (Zenit.org 11-10-2016)
Nguyễn Trọng Đa
Một hình ảnh đích thực và sống động: thư mục vụ của Đức Tổng Giám Mục Sample về Tông Huấn Niềm Vui Yêu Thương.
Vũ Văn An
22:06 11/10/2016
Tổng Giám Mục Portland, Oregon, Alexander K. Sample,
Gửi Các Linh Mục, Phó Tế, các Tu Sĩ và Giáo Dân của Tổng Giáo Phận
"Các cặp vợ cHồng Yêu thương và hạ sinh sự sống là một hình ảnh đích thực, sống động... có khả năng biểu lộ Thiên Chúa Tạo Dựng và là Đấng Cứu Thế" (1). Với những lời này, Đức Thánh Cha của chúng ta, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, nhắc nhở chúng ta rằng tình yêu hôn nhân là "một biểu tượng cho sự sống bên trong của Thiên Chúa" vì "Thiên Chúa Ba Ngôi là một sự hiệp thông của tình yêu, và gia đình là sự phản ánh sống động của sự hiệp thông này" (2).
Do chính bản chất của nó, hôn nhân hiện hữu cho sự hiệp thông sự sống và tình yêu giữa vợ chồng, được sắp đặt để sinh sản và chăm sóc con cái, trong một dây liên kết độc chiếm và vĩnh viễn giữa một người nam và một người nữ. Trong dây liên kết tự nhiên này, một dây liên kết hiện diện cả ở giữa vợ chồng chưa được rửa tội, chúng ta có được "một hình ảnh để hiểu và mô tả mầu nhiệm của chính Thiên Chúa...." (3) Đức Kitô, Chúa chúng ta, nâng dây liên kết tự nhiên của hôn nhân lên hàng một bí tích, nhờ đó sự kết hợp của người đàn ông và người đàn bà là dấu chỉ của sự “kết hợp của Chúa Kitô và Giáo Hội" (4). Thiên Chúa, Đấng vĩnh cửu và bất biến, ban hôn nhân như một hình ảnh tự nhiên của chính Người; Chúa Kitô nâng hôn nhân lên hàng một bí tích làm dấu chỉ giao ước vĩnh viễn, bất khả phân ly với dân của Người.
Vì gia đình là điều chủ yếu đối với hạnh phúc thế giới, đối với Giáo Hội, và sự loan truyền Tin Mừng, nên các giám mục thế giới đã tụ họp nhau trong các Thượng Hội Đồng năm 2014 và năm 2015 để nhận diện tình hình thực tế của hôn nhân và gia đình trong thế giới ngày nay và để tìm ra các giải pháp mục vụ cho những thách đố này.
Sau khi lắng nghe các giám mục, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban hành Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng, Amoris Laetitia (Niềm Vui Yêu Thương), để lên sinh lực cho việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội, đặc biệt là đối với những người trong các tình huống khó khăn và bị thương tổn.
Bằng cách kiên nhẫn nhắc nhở chúng ta rằng Giáo Hội phải thường xuyên hành xử như một bệnh viện dã chiến cho những người bị thương tổn, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trung thực đối diện với nỗi đau đớn và sự tan vỡ của nhiều đời sống. Đối với những người đau khổ, "Giáo Hội phải chú ý và quan tâm đồng hành với những đứa con yếu đuối nhất của mình, những đứa con có dấu hiệu của một tình yêu bị thương tổn và đầy khó khăn, bằng cách phục hồi trong họ niềm hy vọng và sự tự tin, giống như đèn chiếu của một ngọn hải đăng ở một hải cảng hoặc một ngọn đuốc người ta mang theo để soi sáng những người lạc lối hoặc những người đang gặp bão tố" (5). Chỉ có một tình yêu kiên nhẫn sẵn sàng đồng hành với những người đau khổ mới có thể hoàn toàn "làm chứng, một cách đáng tin cậy, cho vẻ đẹp của hôn nhân như một điều bất khả phân ly và vĩnh viễn trung thành" (6). Tông Huấn nên kích thích ta biết thương xót.
Dù Tông Huấn không chứa bất cứ sự thay đổi nào trong giáo lý Giáo Hội về hôn nhân và đời sống gia đình, nhưng một số người đã sử dụng Niềm Vui Yêu Thương một cách không tương hợp với truyền thống giáo huấn của Giáo Hội.
Theo lời mời của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta phải đọc văn kiện này "cách kiên nhẫn và cẩn thận" và phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội (7). Thư mục vụ này không có ý định là những lời duy nhất và sau cùng về Niềm Vui Yêu Thương trong Tổng Giáo Phận Portland. Các hướng dẫn mục vụ thêm nữa sẽ được ban hành giúp chúng ta áp dụng Tông Huấn này vào việc hỗ trợ mục vụ cho hôn nhân và đời sống gia đình. Bản văn đang ở trước chúng ta sẽ nói rõ các nguyên tắc để tiếp cận Niềm Vui Yêu Thương, và bàn tới cũng như soi sáng một số lạm dụng gây phiền hà đối với văn kiện này, những lạm dụng vốn được sự chú ý của các phương tiện truyền thông và nhiều người khác. Chỉ khi nào có được sự hiểu biết cơ bản này, chúng ta mới có thể áp dụng một cách thực tiễn các nguyên tắc này vào các Giáo Hội địa phương của chúng ta.
Giảng dậy trong tính liên tục
Vì sự thật của Thiên Chúa là điều cần thiết cho sự cứu rỗi, nên trong "lòng nhân từ nhân hậu của Người, Thiên Chúa đã lo liệu để những gì Người đã mạc khải vì sự cứu rỗi của mọi dân tộc sẽ tồn tại mãi mãi trong sự trọn vẹn của nó và được truyền lại cho mọi thế hệ về sau" (8). Kho tàng đức tin thiêng liêng đã được trao phó cho các tông đồ và được giải thích một cách chân chính bởi thẩm quyền giáo huấn của Giáo Hội (9).
Kho tàng đức tin không thay đổi đến nỗi chính Huấn Quyền "cũng không cao hơn Lời Chúa, nhưng là người phục vụ Lời này. Nó chỉ giảng dạy những gì đã được truyền lại cho nó mà thôi" (10). Tin Mừng mãi luôn toàn vẹn và sống động, “được duy trì bởi một sự kế tục bất tận các nhà truyền giảng cho đến tận cùng thời gian"; các vị là những người "bàn giao những gì bản thân họ đã nhận được, cảnh cáo các tín hữu giữ vững các truyền thống mà họ đã học được ...." (11).
Vì vậy, tín lý không thay đổi, nhưng nó có thể phát triển. Trong thế kỷ thứ 5, Thánh Vincent đệ Lérins cho ta một giải thích đẹp đẽ về sự phát triển của tín lý, một điều đôi khi được Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi. Thánh Vincent cho rằng: tín lý sẽ phát triển, để sự hiểu biết của chúng ta về nó cũng phát triển, giống như sự phát triển của một đứa trẻ vào tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, phát triển không phải là thay đổi, vì "phát triển có nghĩa là mỗi sự vật lớn lên để thành chính mình, trong khi thay đổi có nghĩa là thay đổi từ một điều này sang một điều khác" (12). Sự phát triển chân chính không chấp nhận bất cứ thay đổi nào về yếu tính, không thay đổi nào về hình dạng và giới hạn có tính yếu tính.
Sau này, Chân phước John Henry Newman, người đã trở thành một Hồng Y của Giáo Hội, đã sử dụng Thánh Vincent trong bài giải thích gây ảnh hưởng của ngài về phát triển (13). Như Chân phước Newman đã giải thích, đôi lúc, chỉ các biểu thức bên ngoài hoặc cách lên công thức cho một tín lý phát triển hoặc được minh giải mà thôi, nhất là để đáp ứng các hoàn cảnh và bối cảnh mới, còn các ý tưởng hay sự thật chính được phát biểu không thay đổi. Hơn nữa, mọi phát triển chân chính đều tồn tại trong sự liên tục của nó với quá khứ, cả theo nghĩa phát sinh một cách hợp luận lý hay hợp hữu cơ từ những gì đã có trước đó, lẫn theo nghĩa duy trì quá khứ, duy trì và bảo vệ những gì đã được tin.
Để biện phân sự phát triển chân chính, chúng ta cần đọc các phần dưới ánh sáng toàn bộ, đọc các công thức dưới ánh sáng yếu tính, và đọc điều mới hơn dưới ánh sáng điều cũ hơn. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Truyền Thống quả có phát triển, nhưng Truyền Thống chỉ phát triển trong tính liên tục, không bao giờ trong tính gián đoạn. Thực hành mục vụ và kỷ luật bí tích cũng phát triển, nhưng thực hành và kỷ luật phải hoàn toàn nhất quán với các giáo huấn của Chúa Giêsu và của Giáo Hội.
Giáo huấn luân lý của Giáo Hội cũng thế. Vì bối cảnh lịch sử và xã hội thay đổi, nên các vấn đề giải quyết và cách giải quyết chúng cũng thay đổi. Nhưng các sự thật luân lý nền tảng, vốn đặt cơ sở trên bản chất vĩnh cửu của Thiên Chúa, được mạc khải qua Lời của Người, và tương hợp với bản chất không thay đổi của con người và sự phát triển của bản chất này, không thay đổi. Các bối cảnh xã hội không tạo ra bản chất của con người hay sự thiện của con người; thực vậy, chỉ sự thiện bất biến của con người mới giúp chúng ta hiểu được ý niệm phát triển luân lý trong lịch sử nhân loại.
Sự bất khả phân ly của hôn nhân là một giáo huấn quý báu và thiết yếu của Giáo Hội, được Chúa Giêsu mạc khải và được trân quí trong Truyền Thống liên tục của chúng ta. Chúa chúng ta tuyên xưng sự khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa như đã được phát biểu trong sáng thế: "từ đầu, Đấng Tạo Hóa 'đã dựng nên họ có nam có nữ’ và Người phán: ‘Vì lý do này, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một xương một thịt’. Vì vậy, họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vì vậy, những gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly... ai rẫy vợ mình (trừ khi kết hôn trái pháp luật) và cưới người khác là phạm tội ngoại tình "(Mt 19: 4-9). Những gì Chúa dạy, thiết lập, và ra lệnh đều được trình bày rõ bởi giáo luật cũng như Sách Giáo Lý: "Từ một cuộc hôn nhân thành hiệu, phát sinh giữa hai vợ chồng một dây liên kết mà do bản chất vốn có tính vĩnh viễn và độc quyền" (điều 1134), và “các tính chất chủ yếu của hôn nhân là sự nên một và bất khả tiêu"(điều 1056). Dây liên kết bất khả tiêu này bền vững đến độ một cuộc hôn nhân đã thành hiệu và hoàn hợp, thì "không thể bị tiêu hủy bởi bất cứ quyền lực nào của con người và bởi bất cứ nguyên nhân nào, ngoại trừ sự chết" (điều 1141). Sự ưng thuận của vợ chồng được xác lập và đóng dấu bởi chính Thiên Chúa, và dây liên kết do đó mà có "là một thực tế, do đó không thể thu hồi .... Giáo Hội không có quyền làm trái với cách bố trí này của sự khôn ngoan Thiên Chúa" (14).
Sự bất khả tiêu của dây hôn phối không chỉ đơn thuần là một quy tắc pháp lý hay đạo đức. Nó là một thực tế đẹp đẽ, có tính bí tích, và thiêng liêng. Trong thiên nhiên sáng thế, dây liên kết này nói lên một cái gì đó về bản chất vĩnh cửu của Thiên Chúa, và trong bí tích hôn nhân giữa những người đã được rửa tội, nó được "tích nhập vào giao ước của Thiên Chúa với con người", một "giao ước được đảm bảo bởi sự trung thành của Thiên Chúa" (15). Dây hôn phối bất khả tiêu, vì bí tích này là dấu chỉ sự kết hợp vĩnh viễn của Chúa Kitô với Giáo Hội của Người.
Chấp nhận giáo huấn về bất khả tiêu tương hợp với lý lẽ vững chắc, với Kinh Thánh, với truyền thống liên tục, và với giáo huấn rõ ràng của Chúa chúng ta. Nó cũng khẳng định Tin Mừng bằng cách nhìn nhận rằng các dấu hiệu và lời hứa trung thành có tính giao ước của Thiên Chúa là đáng tin cậy, rằng Thiên Chúa là Đấng tự hữu và là Đấng Người đã hứa sẽ trở thành. Chấp nhận tính bất khả tiêu là khẳng định chính bản chất và mục đích của Giáo Hội, là công bố và truyền lại Tin Mừng như nó đã được ban cho chúng ta. Luật tối cao của Giáo Hội là sự cứu rỗi các linh hồn, và những gì tăng thêm luật này phải được các tín hữu chấp nhận. Nếu muốn đạt được mục tiêu của nó, lòng thương xót phải bao gồm việc công bố tất cả những gì cần thiết cho sự cứu rỗi. Không công bố tất cả những gì cần thiết cho sự cứu rỗi là không thương xót.
Các lạm dụng đối với Niềm Vui Yêu Thương
Bất chấp giáo huấn rõ ràng của Giáo Hội, một số người đã lạm dụng các yếu tố của Niềm Vui Yêu Thương để hỗ trợ cho các chủ trương không tương hợp với giáo huấn của Giáo Hội. Điều này đã tạo ra một số hồ đồ và ngỡ ngàng nơi các tín hữu. Do bản chất của việc phát triển tín lý và luân lý, một số chủ trương không tương hợp với tín lý chân chính, thực hành mục vụ, và kỷ luật bí tích. Vì các chủ trương này bất hợp pháp, nên không thể sử dụng cách hợp pháp Niềm Vui Yêu Thương để hỗ trợ chúng. Không thể và không nên lạm dụng bản văn này để hỗ trợ ba sai lầm sau đây.
Lạm dụng một: Lương tâm hợp pháp hóa các hành động đi ngược lại giới răn của Thiên Chúa
"Thẳm sâu trong lương tâm của họ, con người khám phát ra một điều luật mà chính họ không đặt ra cho chính họ nhưng họ phải vâng theo .... lương tâm của họ là cốt lõi thầm kín nhất của con người và là cung thánh của họ. Ở đó, họ ở một mình với Thiên Chúa, Đấng mà tiếng nói vang lên từ thẳm sâu con người họ" (16). Lương tâm chỉ thị cho chúng ta làm điều tốt và tránh điều ác, và lắng nghe cũng như làm theo lương tâm là một đặc điểm của phẩm giá con người và là một trách nhiệm đáng sợ. Khi hành động, chúng ta không chỉ lên khuôn thế giới xung quanh chúng ta mà còn lên khuôn chính cá tính của mình, thậm chí, có lúc, còn ảnh hưởng đến hạnh phúc đời đời của chúng ta nữa. Vì sự nghiêm túc của trách nhiệm này, mỗi người đều có quyền và nghĩa vụ tuân theo lương tâm của mình. Niềm Vui Yêu Thương khẳng định sự kỳ diệu của quyền tự do này, vì "chính nhân phẩm đòi hỏi mỗi người chúng ta ‘hành động theo sự lựa chọn có ý thức và tự do, như được đánh động và lôi cuốn một cách bản vị từ bên trong'" (17). Vì sự khó khăn và phức tạp của nhiều tình huống khác nhau, cũng như trình độ đào tạo, kiến thức, nhân đức của một con người, Tông Huấn nhận định rằng người ta "cũng có thể chân thành và trung thực nhận ra những gì lúc này là đáp ứng quảng đại nhất có thể đáp trả Thiên Chúa, và tiến đến chỗ thấy một cách chắn chắn về phương diện luân lý rằng đây là điều Thiên Chúa đang yêu cầu trong cảnh phức tạp cụ thể của các giới hạn nơi họ, trong khi chưa hoàn toàn là lý tưởng khách quan" (18).
Điều này không hỗ trợ chủ trương cho rằng lương tâm thay thế cho luật luân lý khách quan. Sự thiếu hiểu biết, sự trở thành nô lệ cho các đam mê, sự hiểu biết không chính xác về quyền tự chủ luân lý, hoặc sự vắng mặt của đức hạnh có thể làm giảm tính quy tội chủ quan của một con người khi họ chân thành tuân theo một lương tâm sai lầm, và trong một số trường hợp "sự ác của một người nào đó không thể được quy cho họ" (19). Nhưng không có cách nào khiến điều này làm giảm hoặc phủ nhận tính khách quan của sự ác, hoặc bỏ sót, hoặc vô trật tự phạm phải.
Lương tâm không phải là một luật cho chính nó, cũng không thể làm ngơ lương tâm một cách đúng đắn hoặc thay thế các mệnh lệnh của Thiên Chúa như đã được Giáo Hội giảng dạy. Thánh Gioan Phaolô II từ chối một cách rõ ràng khả thể trong đó, các phán đoán riêng của lương tâm có thể "hợp pháp hóa điều gọi là các giải pháp 'mục vụ' trái ngược với giáo huấn của Huấn Quyền" hoặc cho phép các cá nhân vi phạm các qui luật luân lý tuyệt đối (20).
Giáo Hội không bao giờ mong muốn "thay thế" hoặc đánh lừa lương tâm, khi biết rằng người ta "có khả năng thực hiện sự biện phân của họ trong các tình huống phức tạp" (21). Nhưng lương tâm có thể sai lầm, và "tự do lương tâm không bao giờ là tự do 'thoát khỏi' sự thật nhưng luôn luôn và chỉ có tự do 'trong' sự thật mà thôi" (22). Do đó, Giáo Hội, các bậc cha mẹ, và thẩm quyền hợp pháp luôn được kêu gọi phải" đào tạo các lương tâm" (23). Dù là người luôn biết chân thành đáp ứng một cách đại lượng hết mình trước các giới răn của Thiên Chúa, họ vẫn được kêu gọi "luôn chào đón các giai đoạn phát triển và các quyết định mới có thể giúp thể hiện được lý tưởng một cách đầy đủ hơn" (24).
Nhờ con người có tự do, nên lương tâm có thể phát triển và trưởng thành. Không ai bị mắc kẹt trong một lương tâm sai lầm vĩnh viễn, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa và nền giáo dục luân lý, họ có thể hợp tác trong việc đạt tới một lương tâm được đào tạo tốt. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, chẳng hạn, đã lưu ý đến trách nhiệm nặng nề của các bậc cha mẹ trong "việc lên khuôn ý chí của con cái họ, bằng cách phát huy các thói quen tốt và khuynh hướng tự nhiên hướng về điều tốt", và đến việc giáo dục luân lý nhằm "vun trồng tự do" ngõ hầu "giúp phát triển các nguyên tắc nội tâm vững ổn có thể dẫn chúng ta đến chỗ làm điều tốt một cách tự nhiên" (25). Ngài nhắc nhở chúng ta rằng nhân phẩm mời gọi chúng ta hành động một cách có bản vị, từ bên trong, và chính việc huấn luyện về đời sống đạo hạnh đã "xây dựng, củng cố, và lên khuôn tự do" (26).
Lương tâm, hiểu như lề luật bên trong được Thiên Chúa ghi khắc, "làm chứng cho thẩm quyền của sự thật trong tương quan với Sự Thiện tối cao mà con người vốn được lôi cuốn tới, và hoan nghênh các giới răn" (27). Lương tâm là điều nội tại, nhưng lương tâm được Thiên Chúa thông ban một cách đặc biệt đến nỗi các giới răn luân lý, và việc Giáo Hội giải thích các giới răn này một cách có thẩm quyền, không phải là các áp đặt từ bên ngoài lên một con người. Giáo huấn luân lý đào tạo lương tâm, bằng cách soi sáng người ta để họ có thể nhận ra, yêu mến, và sẵn sàng tuân theo sự thật luân lý khách quan, bất kể các phán đoán trước đây của họ không đúng như thế nào. Điều này đặc biệt đúng đối với các người đã được rửa tội, là những người đã được hiệp nhất với Chúa Kitô và có tâm tư và sự sống của Chúa Kitô ở trong họ nhờ ơn thánh (1 Cr 2:16). Chúng ta đừng quên niềm hy vọng được làm con cái của Thiên Chúa, đừng quên rằng trong phép rửa tội, chúng ta đã trở thành các tạo vật mới, tái sinh từ bên trong.
Có một bổn phận nặng nề phải hỗ trợ việc đào tạo lương tâm. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nhắc nhở, một cách hoàn toàn phù hợp với truyền thống Công Giáo, khi người ta tiếp cận Giáo Hội với những câu hỏi và những thách thức của lương tâm họ, thì "câu trả lời của Giáo Hội phải có tiếng nói của Chúa Giêsu Kitô, tiếng nói của sự thật về thiện và ác. Trong lời lẽ của Giáo Hội, phải vang lên, trong thẳm sâu con người, tiếng nói của Thiên Chúa .... " (28). Ở nơi khác, ngài liên kết việc đào tạo luân lý với đức ái của chính Tin Mừng: "sư phạm cụ thể của Giáo Hội phải luôn luôn gắn kết với tín lý của mình và không bao giờ được tách rời khỏi nó. Do đó, với cùng một xác tín như vị tiền nhiệm của tôi, tôi xin lặp lại: ‘Không giảm thiểu bất cứ cách nào giáo huấn cứu rỗi của Chúa Kitô là tạo nên một hình thức bác ái ưu việt đối với các linh hồn'" (29).
Khuyến khích hoặc âm thầm chấp nhận một phán đoán sai lầm của lương tâm không hề là thương xót hay bác ái. Công bố Tin Mừng, kể cả các đòi hỏi luân lý bao hàm trong bản chất hôn nhân, là việc làm của lòng thương xót, và mọi phụ huynh, trường học, mọi định chế Công Giáo, mọi giáo viên, mọi nhà thần học, mọi mục tử, mọi tu sĩ, và mọi giám mục có ‘nghĩa vụ nặng nề' phải đích thân cảnh giác để ‘giáo lý lành mạnh’ (1 Tim 1:10) của đức tin và luân lý được giảng dạy" trong việc đào tạo lương tâm" (30).
Còn 1 kỳ
Gửi Các Linh Mục, Phó Tế, các Tu Sĩ và Giáo Dân của Tổng Giáo Phận
"Các cặp vợ cHồng Yêu thương và hạ sinh sự sống là một hình ảnh đích thực, sống động... có khả năng biểu lộ Thiên Chúa Tạo Dựng và là Đấng Cứu Thế" (1). Với những lời này, Đức Thánh Cha của chúng ta, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, nhắc nhở chúng ta rằng tình yêu hôn nhân là "một biểu tượng cho sự sống bên trong của Thiên Chúa" vì "Thiên Chúa Ba Ngôi là một sự hiệp thông của tình yêu, và gia đình là sự phản ánh sống động của sự hiệp thông này" (2).
Do chính bản chất của nó, hôn nhân hiện hữu cho sự hiệp thông sự sống và tình yêu giữa vợ chồng, được sắp đặt để sinh sản và chăm sóc con cái, trong một dây liên kết độc chiếm và vĩnh viễn giữa một người nam và một người nữ. Trong dây liên kết tự nhiên này, một dây liên kết hiện diện cả ở giữa vợ chồng chưa được rửa tội, chúng ta có được "một hình ảnh để hiểu và mô tả mầu nhiệm của chính Thiên Chúa...." (3) Đức Kitô, Chúa chúng ta, nâng dây liên kết tự nhiên của hôn nhân lên hàng một bí tích, nhờ đó sự kết hợp của người đàn ông và người đàn bà là dấu chỉ của sự “kết hợp của Chúa Kitô và Giáo Hội" (4). Thiên Chúa, Đấng vĩnh cửu và bất biến, ban hôn nhân như một hình ảnh tự nhiên của chính Người; Chúa Kitô nâng hôn nhân lên hàng một bí tích làm dấu chỉ giao ước vĩnh viễn, bất khả phân ly với dân của Người.
Vì gia đình là điều chủ yếu đối với hạnh phúc thế giới, đối với Giáo Hội, và sự loan truyền Tin Mừng, nên các giám mục thế giới đã tụ họp nhau trong các Thượng Hội Đồng năm 2014 và năm 2015 để nhận diện tình hình thực tế của hôn nhân và gia đình trong thế giới ngày nay và để tìm ra các giải pháp mục vụ cho những thách đố này.
Sau khi lắng nghe các giám mục, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban hành Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng, Amoris Laetitia (Niềm Vui Yêu Thương), để lên sinh lực cho việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội, đặc biệt là đối với những người trong các tình huống khó khăn và bị thương tổn.
Bằng cách kiên nhẫn nhắc nhở chúng ta rằng Giáo Hội phải thường xuyên hành xử như một bệnh viện dã chiến cho những người bị thương tổn, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trung thực đối diện với nỗi đau đớn và sự tan vỡ của nhiều đời sống. Đối với những người đau khổ, "Giáo Hội phải chú ý và quan tâm đồng hành với những đứa con yếu đuối nhất của mình, những đứa con có dấu hiệu của một tình yêu bị thương tổn và đầy khó khăn, bằng cách phục hồi trong họ niềm hy vọng và sự tự tin, giống như đèn chiếu của một ngọn hải đăng ở một hải cảng hoặc một ngọn đuốc người ta mang theo để soi sáng những người lạc lối hoặc những người đang gặp bão tố" (5). Chỉ có một tình yêu kiên nhẫn sẵn sàng đồng hành với những người đau khổ mới có thể hoàn toàn "làm chứng, một cách đáng tin cậy, cho vẻ đẹp của hôn nhân như một điều bất khả phân ly và vĩnh viễn trung thành" (6). Tông Huấn nên kích thích ta biết thương xót.
Dù Tông Huấn không chứa bất cứ sự thay đổi nào trong giáo lý Giáo Hội về hôn nhân và đời sống gia đình, nhưng một số người đã sử dụng Niềm Vui Yêu Thương một cách không tương hợp với truyền thống giáo huấn của Giáo Hội.
Theo lời mời của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta phải đọc văn kiện này "cách kiên nhẫn và cẩn thận" và phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội (7). Thư mục vụ này không có ý định là những lời duy nhất và sau cùng về Niềm Vui Yêu Thương trong Tổng Giáo Phận Portland. Các hướng dẫn mục vụ thêm nữa sẽ được ban hành giúp chúng ta áp dụng Tông Huấn này vào việc hỗ trợ mục vụ cho hôn nhân và đời sống gia đình. Bản văn đang ở trước chúng ta sẽ nói rõ các nguyên tắc để tiếp cận Niềm Vui Yêu Thương, và bàn tới cũng như soi sáng một số lạm dụng gây phiền hà đối với văn kiện này, những lạm dụng vốn được sự chú ý của các phương tiện truyền thông và nhiều người khác. Chỉ khi nào có được sự hiểu biết cơ bản này, chúng ta mới có thể áp dụng một cách thực tiễn các nguyên tắc này vào các Giáo Hội địa phương của chúng ta.
Giảng dậy trong tính liên tục
Vì sự thật của Thiên Chúa là điều cần thiết cho sự cứu rỗi, nên trong "lòng nhân từ nhân hậu của Người, Thiên Chúa đã lo liệu để những gì Người đã mạc khải vì sự cứu rỗi của mọi dân tộc sẽ tồn tại mãi mãi trong sự trọn vẹn của nó và được truyền lại cho mọi thế hệ về sau" (8). Kho tàng đức tin thiêng liêng đã được trao phó cho các tông đồ và được giải thích một cách chân chính bởi thẩm quyền giáo huấn của Giáo Hội (9).
Kho tàng đức tin không thay đổi đến nỗi chính Huấn Quyền "cũng không cao hơn Lời Chúa, nhưng là người phục vụ Lời này. Nó chỉ giảng dạy những gì đã được truyền lại cho nó mà thôi" (10). Tin Mừng mãi luôn toàn vẹn và sống động, “được duy trì bởi một sự kế tục bất tận các nhà truyền giảng cho đến tận cùng thời gian"; các vị là những người "bàn giao những gì bản thân họ đã nhận được, cảnh cáo các tín hữu giữ vững các truyền thống mà họ đã học được ...." (11).
Vì vậy, tín lý không thay đổi, nhưng nó có thể phát triển. Trong thế kỷ thứ 5, Thánh Vincent đệ Lérins cho ta một giải thích đẹp đẽ về sự phát triển của tín lý, một điều đôi khi được Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi. Thánh Vincent cho rằng: tín lý sẽ phát triển, để sự hiểu biết của chúng ta về nó cũng phát triển, giống như sự phát triển của một đứa trẻ vào tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, phát triển không phải là thay đổi, vì "phát triển có nghĩa là mỗi sự vật lớn lên để thành chính mình, trong khi thay đổi có nghĩa là thay đổi từ một điều này sang một điều khác" (12). Sự phát triển chân chính không chấp nhận bất cứ thay đổi nào về yếu tính, không thay đổi nào về hình dạng và giới hạn có tính yếu tính.
Sau này, Chân phước John Henry Newman, người đã trở thành một Hồng Y của Giáo Hội, đã sử dụng Thánh Vincent trong bài giải thích gây ảnh hưởng của ngài về phát triển (13). Như Chân phước Newman đã giải thích, đôi lúc, chỉ các biểu thức bên ngoài hoặc cách lên công thức cho một tín lý phát triển hoặc được minh giải mà thôi, nhất là để đáp ứng các hoàn cảnh và bối cảnh mới, còn các ý tưởng hay sự thật chính được phát biểu không thay đổi. Hơn nữa, mọi phát triển chân chính đều tồn tại trong sự liên tục của nó với quá khứ, cả theo nghĩa phát sinh một cách hợp luận lý hay hợp hữu cơ từ những gì đã có trước đó, lẫn theo nghĩa duy trì quá khứ, duy trì và bảo vệ những gì đã được tin.
Để biện phân sự phát triển chân chính, chúng ta cần đọc các phần dưới ánh sáng toàn bộ, đọc các công thức dưới ánh sáng yếu tính, và đọc điều mới hơn dưới ánh sáng điều cũ hơn. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Truyền Thống quả có phát triển, nhưng Truyền Thống chỉ phát triển trong tính liên tục, không bao giờ trong tính gián đoạn. Thực hành mục vụ và kỷ luật bí tích cũng phát triển, nhưng thực hành và kỷ luật phải hoàn toàn nhất quán với các giáo huấn của Chúa Giêsu và của Giáo Hội.
Giáo huấn luân lý của Giáo Hội cũng thế. Vì bối cảnh lịch sử và xã hội thay đổi, nên các vấn đề giải quyết và cách giải quyết chúng cũng thay đổi. Nhưng các sự thật luân lý nền tảng, vốn đặt cơ sở trên bản chất vĩnh cửu của Thiên Chúa, được mạc khải qua Lời của Người, và tương hợp với bản chất không thay đổi của con người và sự phát triển của bản chất này, không thay đổi. Các bối cảnh xã hội không tạo ra bản chất của con người hay sự thiện của con người; thực vậy, chỉ sự thiện bất biến của con người mới giúp chúng ta hiểu được ý niệm phát triển luân lý trong lịch sử nhân loại.
Sự bất khả phân ly của hôn nhân là một giáo huấn quý báu và thiết yếu của Giáo Hội, được Chúa Giêsu mạc khải và được trân quí trong Truyền Thống liên tục của chúng ta. Chúa chúng ta tuyên xưng sự khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa như đã được phát biểu trong sáng thế: "từ đầu, Đấng Tạo Hóa 'đã dựng nên họ có nam có nữ’ và Người phán: ‘Vì lý do này, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một xương một thịt’. Vì vậy, họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vì vậy, những gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly... ai rẫy vợ mình (trừ khi kết hôn trái pháp luật) và cưới người khác là phạm tội ngoại tình "(Mt 19: 4-9). Những gì Chúa dạy, thiết lập, và ra lệnh đều được trình bày rõ bởi giáo luật cũng như Sách Giáo Lý: "Từ một cuộc hôn nhân thành hiệu, phát sinh giữa hai vợ chồng một dây liên kết mà do bản chất vốn có tính vĩnh viễn và độc quyền" (điều 1134), và “các tính chất chủ yếu của hôn nhân là sự nên một và bất khả tiêu"(điều 1056). Dây liên kết bất khả tiêu này bền vững đến độ một cuộc hôn nhân đã thành hiệu và hoàn hợp, thì "không thể bị tiêu hủy bởi bất cứ quyền lực nào của con người và bởi bất cứ nguyên nhân nào, ngoại trừ sự chết" (điều 1141). Sự ưng thuận của vợ chồng được xác lập và đóng dấu bởi chính Thiên Chúa, và dây liên kết do đó mà có "là một thực tế, do đó không thể thu hồi .... Giáo Hội không có quyền làm trái với cách bố trí này của sự khôn ngoan Thiên Chúa" (14).
Sự bất khả tiêu của dây hôn phối không chỉ đơn thuần là một quy tắc pháp lý hay đạo đức. Nó là một thực tế đẹp đẽ, có tính bí tích, và thiêng liêng. Trong thiên nhiên sáng thế, dây liên kết này nói lên một cái gì đó về bản chất vĩnh cửu của Thiên Chúa, và trong bí tích hôn nhân giữa những người đã được rửa tội, nó được "tích nhập vào giao ước của Thiên Chúa với con người", một "giao ước được đảm bảo bởi sự trung thành của Thiên Chúa" (15). Dây hôn phối bất khả tiêu, vì bí tích này là dấu chỉ sự kết hợp vĩnh viễn của Chúa Kitô với Giáo Hội của Người.
Chấp nhận giáo huấn về bất khả tiêu tương hợp với lý lẽ vững chắc, với Kinh Thánh, với truyền thống liên tục, và với giáo huấn rõ ràng của Chúa chúng ta. Nó cũng khẳng định Tin Mừng bằng cách nhìn nhận rằng các dấu hiệu và lời hứa trung thành có tính giao ước của Thiên Chúa là đáng tin cậy, rằng Thiên Chúa là Đấng tự hữu và là Đấng Người đã hứa sẽ trở thành. Chấp nhận tính bất khả tiêu là khẳng định chính bản chất và mục đích của Giáo Hội, là công bố và truyền lại Tin Mừng như nó đã được ban cho chúng ta. Luật tối cao của Giáo Hội là sự cứu rỗi các linh hồn, và những gì tăng thêm luật này phải được các tín hữu chấp nhận. Nếu muốn đạt được mục tiêu của nó, lòng thương xót phải bao gồm việc công bố tất cả những gì cần thiết cho sự cứu rỗi. Không công bố tất cả những gì cần thiết cho sự cứu rỗi là không thương xót.
Các lạm dụng đối với Niềm Vui Yêu Thương
Bất chấp giáo huấn rõ ràng của Giáo Hội, một số người đã lạm dụng các yếu tố của Niềm Vui Yêu Thương để hỗ trợ cho các chủ trương không tương hợp với giáo huấn của Giáo Hội. Điều này đã tạo ra một số hồ đồ và ngỡ ngàng nơi các tín hữu. Do bản chất của việc phát triển tín lý và luân lý, một số chủ trương không tương hợp với tín lý chân chính, thực hành mục vụ, và kỷ luật bí tích. Vì các chủ trương này bất hợp pháp, nên không thể sử dụng cách hợp pháp Niềm Vui Yêu Thương để hỗ trợ chúng. Không thể và không nên lạm dụng bản văn này để hỗ trợ ba sai lầm sau đây.
Lạm dụng một: Lương tâm hợp pháp hóa các hành động đi ngược lại giới răn của Thiên Chúa
"Thẳm sâu trong lương tâm của họ, con người khám phát ra một điều luật mà chính họ không đặt ra cho chính họ nhưng họ phải vâng theo .... lương tâm của họ là cốt lõi thầm kín nhất của con người và là cung thánh của họ. Ở đó, họ ở một mình với Thiên Chúa, Đấng mà tiếng nói vang lên từ thẳm sâu con người họ" (16). Lương tâm chỉ thị cho chúng ta làm điều tốt và tránh điều ác, và lắng nghe cũng như làm theo lương tâm là một đặc điểm của phẩm giá con người và là một trách nhiệm đáng sợ. Khi hành động, chúng ta không chỉ lên khuôn thế giới xung quanh chúng ta mà còn lên khuôn chính cá tính của mình, thậm chí, có lúc, còn ảnh hưởng đến hạnh phúc đời đời của chúng ta nữa. Vì sự nghiêm túc của trách nhiệm này, mỗi người đều có quyền và nghĩa vụ tuân theo lương tâm của mình. Niềm Vui Yêu Thương khẳng định sự kỳ diệu của quyền tự do này, vì "chính nhân phẩm đòi hỏi mỗi người chúng ta ‘hành động theo sự lựa chọn có ý thức và tự do, như được đánh động và lôi cuốn một cách bản vị từ bên trong'" (17). Vì sự khó khăn và phức tạp của nhiều tình huống khác nhau, cũng như trình độ đào tạo, kiến thức, nhân đức của một con người, Tông Huấn nhận định rằng người ta "cũng có thể chân thành và trung thực nhận ra những gì lúc này là đáp ứng quảng đại nhất có thể đáp trả Thiên Chúa, và tiến đến chỗ thấy một cách chắn chắn về phương diện luân lý rằng đây là điều Thiên Chúa đang yêu cầu trong cảnh phức tạp cụ thể của các giới hạn nơi họ, trong khi chưa hoàn toàn là lý tưởng khách quan" (18).
Điều này không hỗ trợ chủ trương cho rằng lương tâm thay thế cho luật luân lý khách quan. Sự thiếu hiểu biết, sự trở thành nô lệ cho các đam mê, sự hiểu biết không chính xác về quyền tự chủ luân lý, hoặc sự vắng mặt của đức hạnh có thể làm giảm tính quy tội chủ quan của một con người khi họ chân thành tuân theo một lương tâm sai lầm, và trong một số trường hợp "sự ác của một người nào đó không thể được quy cho họ" (19). Nhưng không có cách nào khiến điều này làm giảm hoặc phủ nhận tính khách quan của sự ác, hoặc bỏ sót, hoặc vô trật tự phạm phải.
Lương tâm không phải là một luật cho chính nó, cũng không thể làm ngơ lương tâm một cách đúng đắn hoặc thay thế các mệnh lệnh của Thiên Chúa như đã được Giáo Hội giảng dạy. Thánh Gioan Phaolô II từ chối một cách rõ ràng khả thể trong đó, các phán đoán riêng của lương tâm có thể "hợp pháp hóa điều gọi là các giải pháp 'mục vụ' trái ngược với giáo huấn của Huấn Quyền" hoặc cho phép các cá nhân vi phạm các qui luật luân lý tuyệt đối (20).
Giáo Hội không bao giờ mong muốn "thay thế" hoặc đánh lừa lương tâm, khi biết rằng người ta "có khả năng thực hiện sự biện phân của họ trong các tình huống phức tạp" (21). Nhưng lương tâm có thể sai lầm, và "tự do lương tâm không bao giờ là tự do 'thoát khỏi' sự thật nhưng luôn luôn và chỉ có tự do 'trong' sự thật mà thôi" (22). Do đó, Giáo Hội, các bậc cha mẹ, và thẩm quyền hợp pháp luôn được kêu gọi phải" đào tạo các lương tâm" (23). Dù là người luôn biết chân thành đáp ứng một cách đại lượng hết mình trước các giới răn của Thiên Chúa, họ vẫn được kêu gọi "luôn chào đón các giai đoạn phát triển và các quyết định mới có thể giúp thể hiện được lý tưởng một cách đầy đủ hơn" (24).
Nhờ con người có tự do, nên lương tâm có thể phát triển và trưởng thành. Không ai bị mắc kẹt trong một lương tâm sai lầm vĩnh viễn, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa và nền giáo dục luân lý, họ có thể hợp tác trong việc đạt tới một lương tâm được đào tạo tốt. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, chẳng hạn, đã lưu ý đến trách nhiệm nặng nề của các bậc cha mẹ trong "việc lên khuôn ý chí của con cái họ, bằng cách phát huy các thói quen tốt và khuynh hướng tự nhiên hướng về điều tốt", và đến việc giáo dục luân lý nhằm "vun trồng tự do" ngõ hầu "giúp phát triển các nguyên tắc nội tâm vững ổn có thể dẫn chúng ta đến chỗ làm điều tốt một cách tự nhiên" (25). Ngài nhắc nhở chúng ta rằng nhân phẩm mời gọi chúng ta hành động một cách có bản vị, từ bên trong, và chính việc huấn luyện về đời sống đạo hạnh đã "xây dựng, củng cố, và lên khuôn tự do" (26).
Lương tâm, hiểu như lề luật bên trong được Thiên Chúa ghi khắc, "làm chứng cho thẩm quyền của sự thật trong tương quan với Sự Thiện tối cao mà con người vốn được lôi cuốn tới, và hoan nghênh các giới răn" (27). Lương tâm là điều nội tại, nhưng lương tâm được Thiên Chúa thông ban một cách đặc biệt đến nỗi các giới răn luân lý, và việc Giáo Hội giải thích các giới răn này một cách có thẩm quyền, không phải là các áp đặt từ bên ngoài lên một con người. Giáo huấn luân lý đào tạo lương tâm, bằng cách soi sáng người ta để họ có thể nhận ra, yêu mến, và sẵn sàng tuân theo sự thật luân lý khách quan, bất kể các phán đoán trước đây của họ không đúng như thế nào. Điều này đặc biệt đúng đối với các người đã được rửa tội, là những người đã được hiệp nhất với Chúa Kitô và có tâm tư và sự sống của Chúa Kitô ở trong họ nhờ ơn thánh (1 Cr 2:16). Chúng ta đừng quên niềm hy vọng được làm con cái của Thiên Chúa, đừng quên rằng trong phép rửa tội, chúng ta đã trở thành các tạo vật mới, tái sinh từ bên trong.
Có một bổn phận nặng nề phải hỗ trợ việc đào tạo lương tâm. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nhắc nhở, một cách hoàn toàn phù hợp với truyền thống Công Giáo, khi người ta tiếp cận Giáo Hội với những câu hỏi và những thách thức của lương tâm họ, thì "câu trả lời của Giáo Hội phải có tiếng nói của Chúa Giêsu Kitô, tiếng nói của sự thật về thiện và ác. Trong lời lẽ của Giáo Hội, phải vang lên, trong thẳm sâu con người, tiếng nói của Thiên Chúa .... " (28). Ở nơi khác, ngài liên kết việc đào tạo luân lý với đức ái của chính Tin Mừng: "sư phạm cụ thể của Giáo Hội phải luôn luôn gắn kết với tín lý của mình và không bao giờ được tách rời khỏi nó. Do đó, với cùng một xác tín như vị tiền nhiệm của tôi, tôi xin lặp lại: ‘Không giảm thiểu bất cứ cách nào giáo huấn cứu rỗi của Chúa Kitô là tạo nên một hình thức bác ái ưu việt đối với các linh hồn'" (29).
Khuyến khích hoặc âm thầm chấp nhận một phán đoán sai lầm của lương tâm không hề là thương xót hay bác ái. Công bố Tin Mừng, kể cả các đòi hỏi luân lý bao hàm trong bản chất hôn nhân, là việc làm của lòng thương xót, và mọi phụ huynh, trường học, mọi định chế Công Giáo, mọi giáo viên, mọi nhà thần học, mọi mục tử, mọi tu sĩ, và mọi giám mục có ‘nghĩa vụ nặng nề' phải đích thân cảnh giác để ‘giáo lý lành mạnh’ (1 Tim 1:10) của đức tin và luân lý được giảng dạy" trong việc đào tạo lương tâm" (30).
Còn 1 kỳ
Văn Hóa
Kịch bản diễn nguyện chào mừng kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima
Võ Thị Phương
10:37 11/10/2016
DIỄN NGUYỆN CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 100 NĂM ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI FATIMA
Kịch bản: ANÊ VÕ THỊ PHƯƠNG (Gx. Mằng Lăng)
Lời dẫn
Các bạn (trại sinh) rất thân mến!
Hôm nay chúng ta được quy tụ nơi đây trong tình yêu Giêsu và lòng sùng kính Đức Mẹ. Ngay giờ phút này, tất cả chúng ta sẽ được hòa chung vào bầu không khí đón mừng lễ kỉ niệm Đức Mẹ Fatima hiện ra - một sự kiện cách chúng ta gần một trăm năm qua.
Theo dòng thời gian, mỗi nơi Đức Mẹ hiện ra đều mang một dấu ấn riêng biệt và đem đến cảm nghiệm sâu sắc cho mỗi người từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mừng lễ kính Đức Mẹ Fatima ngày hôm nay, muôn đời toàn thể nhân loại cách riêng là các con cái Mẹ sẽ không bao giờ quên được những sứ điệp mà Mẹ đã gửi đến nơi các em nhỏ là : Luxia, Giaxinta và Phanxico trên đồi Cova da Iria ngày 13.10.1917. Xin lắng đọng trong giây lát, cùng bước vào hoạt cảnh Đức Mẹ hiện ra với 3 em nhỏ để xem Đức Mẹ nhắn nhủ chúng ta làm điều gì?
(Cảnh này mở nhạc chiến tranh tàn khốc, súng đạn)
Các bạn hãy hình dung lúc ấy chiến tranh bao trùm các nước châu Âu.
Không khí u ám và chết chóc
Người người than khóc
Đau thương
Mẹ thống khổ nhìn đàn con của Mẹ và nói với các thiên thần.
(Đoạn sau đây chỉ có đối thoại ghi âm, không diễn) :
Mẹ Maria: Ta đã thấy nỗi đau trong đáy mắt các con ta. Tội lỗi sẽ nhấn chìm họ xuống biển lửa, nơi chỉ có khóc lóc đau đớn tột cùng
Các thiên thần: Mẹ ơi, Mẹ hãy tìm cách giúp họ đi Mẹ
Mẹ Maria: Các con nói đúng. Ta sẽ tìm cách để cứu giúp các con ta.
Một thiên thần: Mẹ ơi, con có ý này Mẹ xem thử thế nào. Hãy để con đến gặp các em nhỏ rồi từ đó dẫn dắt chúng tìm ra lối thoát cho tất cả mọi người.
Mẹ Maria: Được, Mẹ sẽ xem xét kĩ lại.
Mùa Xuân năm 1916, một thiên thần đã hiện ra với ba em nhỏ và báo trước về các lần hiện ra của Đức Mẹ.
Cánh đồng quê Fatima êm ả, tiếng trẻ con chăn bò nói chuyện với nhau.
(3 em Luxia, Giaxinta và Phanxicô cùng bước ra).
Giaxinta: Anh ơi, hôm nay em đã mơ một giấc mơ rất đẹp, em thấy ba gia đình chúng ta cùng dắt tay đến nhà thờ dự lễ. Em nhìn thấy chị Luxia hát thánh ca như một thiên thần. Em thấy quê mình bình yên như một bức tranh. Em thấy mọi người ai ai cũng cười nói vui vẻ ...
Phanxicô: Ước gì khắp mọi nơi đều được vui vẻ như vậy em nhỉ !
Luxia: Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với Chúa, xin Ngài ban bình an đến cho chúng ta !
Giaxinta và Phanxicô: Vâng ạ!
Mở nhạc: “Đồng là đồng cỏ xanh, Chúa ban cho tôi nghỉ ngơi - Suối ngọt cỏ non xanh rì, tôi đây còn thiếu thốn gì, vui thay mà cũng phúc thay ...”
Lời dẫn :
Các bạn hẳn đã nghe về Fatima - đó chỉ là một thôn xóm hẻo lánh ở nước Bồ Đào Nha, vì đâu nơi ấy đã trở nên thánh địa được nhiều người tìm đến ?
Chỉ nơi người bình thường mới có đơn sơ, khiêm nhường. Và chỉ nơi họ mới được Chúa chọn để thể hiện những sự phi thường, lạ lùng.
Một năm sau khi thiên thần hiện ra. Hôm ấy là ngày 13.5.1917:
Luxia: Đã trưa rồi, chúng ta hãy thả bò bên bờ kia rồi cùng quỳ gối cầu nguyện nào các em!
Giaxinta và Phanxicô: Vâng ạ!
Cả ba đọc ba kinh Kính mừng : Kính mừng Maria đầy ơn phước ...
Bỗng nhiên một luồng chớp chói lòa xuất hiện làm các em ngơ ngác (Tiếng sấm chớp nổi lên) :
Phanxicô: Điều gì đang xảy ra vậy ? Lạ quá chị Luxia ơi!
Giaxinta: Nhìn xem kìa, hình như có ai đang bước đến...
...
Luxia: Bà đẹp quá ! Bà là ai ? Bà từ đâu đến ?
Đức Mẹ: Ta từ trời xuống. Ta muốn các con đến đây cũng vào giờ này ngày 13 mỗi tháng cho đến tháng 10. Ta sẽ cho biết Ta là ai? Hãy đọc Kinh Mân Côi hàng ngày để xin ơn hoà bình cho thế giới và sớm chấm dứt chiến tranh.
Nói xong Bà biến mất, để lại ba đứa trẻ con ngơ ngác nhìn nhau. Đột nhiên, Luxia reo lên :
- Phanxicô và Giaxinta ơi, 2 em có nhớ lần thiên thần hiện ra với chúng ta không ?
Phanxicô: - Như thế nào ạ?
Luxia: - Các em có nhớ lời cầu nguyện mà thiên thần đã từng dạy chúng ta:
“Lạy Chúa!
Con tin, con thờ lạy
Con trông cậy và con yêu mến Chúa
Con xin Chúa tha thứ cho những ai không tin, không thờ lạy, không trông cậy và không yêu mến Chúa”...
Giaxinta: - Chị Luxia, em nhớ mang máng, hình như đã lâu chúng ta không đọc rồi chị.
Phanxicô: - Anh thì nhớ, lần đó về kể lại chuyện này với ba mẹ, anh đã bị mắng vì mẹ anh cho rằng đó là chuyện bịa đặt. Eo ôi!
Luxia: - Đúng, chúng ta đã bỏ quên chuyện ấy khá lâu rồi. Chuyện hôm nay chị nghĩ chúng ta vẫn nên giữ kín.
Thế nhưng, vừa về đến nhà, Giaxinta thấy Mẹ bước ra quét nhà thì sà vào lòng mẹ thủ thỉ - và quên mất lời chị Luxia đã dặn :
- Mẹ ơi, hôm nay có một Bà xinh đẹp hiện ra với chúng con đấy Mẹ
- Bà xinh đẹp nào ? Con nói điều vớ vẩn gì thế ?
- Con nói thật mà mẹ, mẹ không tin thì tới hỏi anh Phanxicô và chị Luxia đi!
Chẳng mấy chốc, tin này lan nhanh ra bên ngoài, mọi người tỏ vẻ nghi hoặc
(Đối thoại ghi âm, lồng tiếng nhiều người để sinh động hơn):
- Tôi nghĩ chúng nó đùa thôi, hoặc là nói mê, chứ thời này làm gì có ai hiện ra như thế !
- Tôi cũng nghĩ vậy đấy, hơi đâu mà tin mấy lời con nít thế kia ..
- Biết đâu được, trẻ con không nói dối đâu ...
- Tận mắt thấy mới tin được các ông bà nhỉ, hay là đúng ngày đó mình theo mấy đứa nhỏ đến đấy xem thực hư như thế nào ?
- Có lý đấy!
Lời dẫn
Các bạn thấy đấy, con đường đi theo Chúa có quá nhiều cạm bẫy, hiểm trở, sự nghi hoặc... Điều cần thiết nhất chính là, sự vững tin, tín thác vào lòng thương xót Chúa. Chính Ngài sẽ soi sáng, hướng dẫn con đường ta sẽ đi.
HỢP CA HOẶC MÚA: Lạy Mẹ Fatima, Mẹ nỉ non bao lần ...
Lời dẫn
Tháng 6, cũng đúng ngày 13, sự tò mò về Bà xinh đẹp đã thôi thúc Luxia, Giaxinta và Phanxicô một lần nữa lại đến đúng thời gian, địa điểm mà Bà xinh đẹp đã nói trước.
(3 em nhỏ bước ra)
Giaxinta: Anh chị ơi! Mình ngồi đây chơi đi
Luxia: À, Hôm nay mình không chơi cụm thì Phanxico thổi sáo cho mọi người nghe đi
Giaxinta: Đúng đó, đúng đó anh Phanxicô ơi.
Phanxicô: Rồi anh sẽ thổi cho em và chị Luxia nghe
(Lúc này sẽ mở nhạc tiếng sáo bài Lạy Mẹ Fatima)
Giaxinta: Hay quá anh Phanxico ơi!.
Các em nhỏ lắc lư theo tiếng sáo dìu dịu, bỗng dưng có tiếng Đức Mẹ vang lên :
- Luxia, Luxia…. con hãy xem trọng việc lần chuỗi Mân Côi dâng kính trái tim vô nhiễm Maria, hãy học chữ để có thể loan báo lời ta đến tất cả mọi người. Ta sẽ sớm đưa Giaxinta và Phanxicô về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian, Chúa Gie su muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết Ta và yêu mến Ta. Ta mong muốn các con cầu nguyện Kinh Mân Côi hằng ngày.”
- Dạ Bà. Cho con thỉnh cầu Bà chữa lành cho bệnh nhân này!
- Nếu anh ấy ăn năn trở lại, thì trong năm nay anh sẽ được chữa lành.
Lời dẫn:
Nói xong Bà biến mất.
Những người theo sau các em không nhìn thấy gì, ngoại trừ nhìn thấy cành cây sồi gần nơi các em trĩu xuống bởi sức nặng rồi bật lên.
Ba em quay trở về nhà, hăng say cầu nguyện.
Một tháng nữa lại trôi qua - ngày 13.7 các em lại đến điểm hẹn với Bà xinh đẹp.
(Đức Mẹ hiện ra, 3 em nhỏ cúi đầu chào).
Luxia lên tiếng : - Xin Bà cho con biết Bà là ai, và xin Bà hãy làm một phép lạ để cho mọi người tin là Bà đã hiện ra với chúng con.
Đức Mẹ đáp : - Hằng tháng các con phải tới đây và đến tháng Mười, Ta sẽ cho các con biết Ta là ai và Ta muốn gì. Lúc đó Ta sẽ làm một phép lạ để mọi người tin. Hãy hãm mình hy sinh để cầu nguyện cho kẻ có tội và cầu nguyện như sau : "Lạy Chúa Giêsu, con xin dâng những hy sinh này để đáp lại tình yêu Chúa, để cầu nguyện cho kẻ có tội được ăn năn trở lại và để đền tạ những tội xúc phạm đến Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria."
Nói xong Bà giang hai tay ra và hỏi :
Đức Mẹ: - Các con thấy được những gì ?
Luxia: - Chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như trên mặt đất, ngập trong đó là quỷ dữ và các linh hồn. Họ đang kêu la thảm thiết vì đau đớn và tuyệt vọng. Thật đáng sợ!
Đức Mẹ: - Nơi các con đang thấy đấy chính là Hỏa ngục - nơi các linh hồn chịu phạt vì những tội lỗi mình đã gây ra. Ðể cứu các linh hồn khỏi sa hỏa ngục, Thiên Chúa muốn phát động lòng tôn sùng Trái Tim Vẹn Sạch Ðức Mẹ trên hoàn cầu. Nếu các con thi hành các điều Ta phán dạy thì rất nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và sẽ có hòa bình. Cuộc chiến này sẽ chấm dứt, nhưng nếu nhân loại không ngừng xúc phạm tới Thiên Chúa, một cuộc chiến tàn khốc nữa sẽ xảy ra và trong một đêm nào đó khi các con nhìn thấy bầu trời rực sáng bởi luồng ánh sáng kỳ lạ thì lúc đó các con sẽ hiểu đó là dấu chỉ Thiên Chúa sẽ trừng phạt nhân loại bằng chiến tranh và nghèo đói, Ðức Thánh Cha và Giáo Hội sẽ bị khủng bố ngược đãi.
Luxia: Xin Mẹ thương Ðức Thánh Cha và Giáo Hội.
Đức Mẹ: - Ðể tránh tai họa này, Mẹ muốn thế giới hãy dâng nước Nga cho Trái Tim Vẹn Sạch của Mẹ và Mẹ muốn việc rước lễ mỗi thứ Bảy đầu tháng phải được thi hành để đền bù vì tội lỗi của nhân loại. Nếu các điều Mẹ mong ước được thực thi, nước Nga sẽ trở lại, và sẽ có Hòa Bình. Nếu không, nước Nga sẽ gieo rắc các tà thuyết trên khắp thế giới, chiến tranh sẽ xảy ra, Giáo Hội sẽ bị bách hại, người lành sẽ bị tử đạo... Ðức Thánh Cha sẽ hiến dâng nước Nga cho Mẹ, nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng hòa bình một thời gian."
Luxia: Xin Mẹ thương.
Đức Mẹ tiếp lời : Mẹ mong muốn các con tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày để tôn vinh Ðức Mẹ Mân Côi, để xin ơn hoà bình thế giới và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ Người mới có thể cứu giúp các con. Mỗi khi các con đọc Kinh Mân Côi, sau mỗi mầu nhiệm hãy đọc: "Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đưa các linh hồn lên Thiên Ðàng, nhất là những linh hồn cần Chúa thương xót hơn hết”.
Luxia: Chúng con xin nghe lời Mẹ.
Lời dẫn:
Tháng 8 năm 1917 tin Ðức Mẹ hiện ra đã gây khá nhiều xúc động nên chính quyền địa phương đã phải báo động. Chính ngày 13 tháng 8 các em đã bị ông thị trưởng bắt giam.
Hôm 13 ấy, có rất nhiều người tụ tập tại đồi Cova da Ira nhưng không thấy ba em nhỏ đâu cả. Vào giờ Đức Mẹ hiện ra, bỗng tiếng sấm chớp nổi lên dữ dội. Đám đông nhốn nháo cả lên :
- Đức Mẹ đã hiện ra !
- Nhìn kìa !
Lời dẫn tiếp:
Ngay sau tiếng sấm là một làn chớp và rồi một đám mây nhỏ, rất mỏng manh và rất trắng, đám mây dừng lại trên cây sồi một vài phút rồi bay bổng lên không trung rồi biến mất. Khi nhìn chung quanh, đám đông đã nhận thấy một vài điều lạ thường như đã thấy ở các lần trước cũng như sau này. Mặt của họ phản chiếu các mầu sắc của cầu vồng: Tím, đỏ và xanh, và họ đã không hiểu được tại sao. Ðột nhiên các cây cối đã không phải có lá mà là hoa, đất cũng phản chiếu các mầu sắc và cả quần áo chúng tôi đang mặc cũng vậy... Họ xác nhận hiển nhiên Ðức Mẹ đã hiện ra mặc dù các em nhỏ vắng mặt.
Hết ngày hôm đó, các em được tha về. Một số người nhìn thấy các em và hỏi
(đối thoại ghi âm):
- Hôm ấy chúng tôi đã đến mà không có các em!
- Bọn cháu bị những người trên xã kêu lên và giữ tới tối mới cho về.
- Họ bảo sao?
- Họ bảo: Để xem rồi bà nào sẽ gặp chúng mày!
- Các em có sợ không?
- Tuy bị bắt nhưng trong lòng chúng em không hề sợ hãi. Em không biết từ đâu mà chúng em có lòng tin như vậy.
- Rồi bà có đến gặp các em không ?
- Có. Hai hôm sau ngày hẹn, Bà đã đến với chúng em trên đồi, lúc chúng em đang nghỉ. Trông Bà rất buồn và Bà đã nói rằng : “Ta rất buồn về việc các con bị bắt giữ, khiến cho phép lạ ta định làm trong tháng 10 sẽ không được huy hoàng như đã định trước nữa ."
Lời dẫn:
Các em vẫn tiếp tục công việc như thường ngày nhưng trong tim luôn nồng cháy một niềm vui và hăng say cầu nguyện. Mới đó đã đến ngày 13 tháng 9. Sáng hôm ấy có hơn 30 ngàn người tập trung trên đồi.
- Đức Mẹ : Các con hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Hãy đợi đến tháng 10, các con sẽ được thấy cả Thánh Giuse, Chúa Hài Ðồng, Ðức Mẹ Núi Camêlô và Ðức Mẹ Sầu Bi.
Lời dẫn:
Hôm ấy không chỉ có ba em nhỏ là nhân chứng độc nhất của biến cố lạ thường ngày 13 tháng 9 năm 1917 mà là cả đám đông. Cha Chính địa phận Leiria, Ðức Ông John Quarsema đã xác nhận đã nhìn thấy một cách tỏ tường và minh bạch, một vầng hào quang đã di chuyển từ Ðông sang Tây - trong một bầu trời trong sáng - tới chỗ vẫn thường hiện ra và sau một thời gian đã biến mất về hướng mặt trời.
Lời dẫn tiếp:
Thế rồi, vào ngày 13.10.1917, theo chân các em là khoảng 70 ngàn người. Mưa như trút nước (mở nhạc mưa, sấm chớp). Sau khi tới gốc sồi ở Cova da Iria, dưới thúc đẩy nội tâm Lucia xin mọi người cụp dù xuống và lần hạt. Rồi các em thấy chớp sáng và Ðức Mẹ hiện đến. Lucia hỏi:
- Thưa Bà, Bà muốn con làm gì?
- Ta muốn một nhà nguyện được xây ở đây để tôn kính Ta. Ta là Ðức Mẹ Mân Côi. Hãy tiếp tục lần hạt hằng ngày. Chiến tranh sẽ chấm dứt và binh sĩ sẽ trở lại gia đình.
- Thưa Mẹ, con có nhiều điều để xin Mẹ, xin chữa một số bệnh nhân, hoán cải tội nhân và những chuyện khác...
- Ðược, một số sẽ được, nhưng không phải tất cả được. Họ chỉ cần cải thiện đời sống và xin ơn tha thứ mọi tội lỗi.
- Chúng con xin nghe lời Mẹ.
- Ðừng phạm đến Chúa nữa vì Chúa đã bị xúc phạm nhiều rồi.
- Chúng con xin nghe lời Mẹ.
Và rồi, Ðức Mẹ mở tay ra, làn ánh sáng chiếu lên mặt trời. Khi Ðức Mẹ cất mình lên, ánh sáng đó vẫn chiếu vào mặt trời.
Luxia hét to : Mọi người hãy nhìn kìa !
Thì này : “ Mặt trời đang nhảy múa trên không trung như muốn rơi xuống mặt đất”. (Đám đông quỳ rạp xuống mặt đất)
- Lạy Chúa tôi!
- Lạy Thiên Chúa của tôi!
Khi Ðức Mẹ đã biến mất, Luxia thấy bên cạnh mặt trời, Thánh Giuse với Chúa Hài Nhi ban phép lành cho thế giới. Một lát sau, cảnh tượng đó biến mất và chị lại thấy Chúa và Ðức Mẹ, hình như Ðức Mẹ đau thương. Cảnh tượng này cũng biến mất và tiếp tục chị Luxia lại thấy Ðức Mẹ, giống như ảnh Ðức Mẹ núi Cát Minh.
Lời dẫn
Các bạn thân mến, Đức Mẹ đã hiện ra với các em nhỏ tất thảy 6 lần, và trong lần cuối này, Mẹ đã tỏ sự hiện diện của Mẹ và đồng thời xác nhận những mệnh lệnh Mẹ ban xuống qua miệng ba trẻ nhỏ thơ ngây.
Chúng con xin dâng lên Mẹ những lời kinh chúng con đã lần hạt Mân côi qua điệu múa LỜI KINH ĐÊM DÂNG MẸ
(Múa Lời kinh đêm dâng Mẹ)
Lời dẫn
Sau lần cuối cùng Đức Mẹ hiện ra, chính quyền dùng nhiều hình thức cấm đoán dân chúng tụ tập. Đồi Fatima tưởng chừng đã bị rơi vào quên lãng. Tuy nhiên sứ điệp Fatima vẫn vang vọng trong lòng mọi người.
Thế rồi 13 năm sau, tháng 10 năm 1930, Ðức Cha Dom José Alves Correia, Giám Mục giáo phận Leiria, công nhận biến cố Mẹ hiện ra tại Fatima, và ban phép sùng kính Mẹ Fatima. Từ đó, thôn làng nhỏ bé Fatima đã trở nên trung tâm hành hương thế giới, để mọi người đổ về, chạy đến cầu khẩn với Mẹ. Fatima cũng trở thành động lực thúc đẩy mọi người hưởng ứng lời Mẹ, nhắn nhủ, cầu nguyện, và hy sinh cho tội nhân được ơn trở lại và nhất là nguyện cầu cho thế giới được hòa bình. Vì sứ điệp hòa bình và tình thương của Fatima cũng hòa hợp với sứ điệp hòa bình của Phúc Âm, dọn lòng con người đón chờ ơn cứu chuộc, nên sứ điệp Fatima luôn là sứ điệp hợp thời đại.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa xin giúp chúng con thực hiện những mệnh lệnh Mẹ đã truyền dạy cho chúng con qua thông điệp Fatima. Ước chi kỷ niệm biến cố Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima đúng 100 năm, chúng con đã là những tông đồ rao truyền mệnh lệnh của Mẹ cho toàn thế giới được biết và bày tỏ lòng ăn năn sám hối cùng hăng say cầu nguyện trong tình yêu quan phòng của Thiên Chúa và lòng sùng kính Trái Tim Mẹ. Xin được thắp lên ngọn lửa Đức Tin nhiệt thành trong lòng chúng con, và xin cho ngọn lửa ấy vẫn luôn cháy mãi !
(Mở nhạc không lời bài: Năm xưa trên cây Sồi và đọc lời cầu nguyện).
(Tổng hợp từ các tài liệu của Catholic.org.tw và Memaria.org)
Kịch bản: ANÊ VÕ THỊ PHƯƠNG (Gx. Mằng Lăng)
Lời dẫn
Các bạn (trại sinh) rất thân mến!
Hôm nay chúng ta được quy tụ nơi đây trong tình yêu Giêsu và lòng sùng kính Đức Mẹ. Ngay giờ phút này, tất cả chúng ta sẽ được hòa chung vào bầu không khí đón mừng lễ kỉ niệm Đức Mẹ Fatima hiện ra - một sự kiện cách chúng ta gần một trăm năm qua.
Theo dòng thời gian, mỗi nơi Đức Mẹ hiện ra đều mang một dấu ấn riêng biệt và đem đến cảm nghiệm sâu sắc cho mỗi người từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mừng lễ kính Đức Mẹ Fatima ngày hôm nay, muôn đời toàn thể nhân loại cách riêng là các con cái Mẹ sẽ không bao giờ quên được những sứ điệp mà Mẹ đã gửi đến nơi các em nhỏ là : Luxia, Giaxinta và Phanxico trên đồi Cova da Iria ngày 13.10.1917. Xin lắng đọng trong giây lát, cùng bước vào hoạt cảnh Đức Mẹ hiện ra với 3 em nhỏ để xem Đức Mẹ nhắn nhủ chúng ta làm điều gì?
(Cảnh này mở nhạc chiến tranh tàn khốc, súng đạn)
Các bạn hãy hình dung lúc ấy chiến tranh bao trùm các nước châu Âu.
Không khí u ám và chết chóc
Người người than khóc
Đau thương
Mẹ thống khổ nhìn đàn con của Mẹ và nói với các thiên thần.
(Đoạn sau đây chỉ có đối thoại ghi âm, không diễn) :
Mẹ Maria: Ta đã thấy nỗi đau trong đáy mắt các con ta. Tội lỗi sẽ nhấn chìm họ xuống biển lửa, nơi chỉ có khóc lóc đau đớn tột cùng
Các thiên thần: Mẹ ơi, Mẹ hãy tìm cách giúp họ đi Mẹ
Mẹ Maria: Các con nói đúng. Ta sẽ tìm cách để cứu giúp các con ta.
Một thiên thần: Mẹ ơi, con có ý này Mẹ xem thử thế nào. Hãy để con đến gặp các em nhỏ rồi từ đó dẫn dắt chúng tìm ra lối thoát cho tất cả mọi người.
Mẹ Maria: Được, Mẹ sẽ xem xét kĩ lại.
Mùa Xuân năm 1916, một thiên thần đã hiện ra với ba em nhỏ và báo trước về các lần hiện ra của Đức Mẹ.
Cánh đồng quê Fatima êm ả, tiếng trẻ con chăn bò nói chuyện với nhau.
(3 em Luxia, Giaxinta và Phanxicô cùng bước ra).
Giaxinta: Anh ơi, hôm nay em đã mơ một giấc mơ rất đẹp, em thấy ba gia đình chúng ta cùng dắt tay đến nhà thờ dự lễ. Em nhìn thấy chị Luxia hát thánh ca như một thiên thần. Em thấy quê mình bình yên như một bức tranh. Em thấy mọi người ai ai cũng cười nói vui vẻ ...
Phanxicô: Ước gì khắp mọi nơi đều được vui vẻ như vậy em nhỉ !
Luxia: Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với Chúa, xin Ngài ban bình an đến cho chúng ta !
Giaxinta và Phanxicô: Vâng ạ!
Mở nhạc: “Đồng là đồng cỏ xanh, Chúa ban cho tôi nghỉ ngơi - Suối ngọt cỏ non xanh rì, tôi đây còn thiếu thốn gì, vui thay mà cũng phúc thay ...”
Lời dẫn :
Các bạn hẳn đã nghe về Fatima - đó chỉ là một thôn xóm hẻo lánh ở nước Bồ Đào Nha, vì đâu nơi ấy đã trở nên thánh địa được nhiều người tìm đến ?
Chỉ nơi người bình thường mới có đơn sơ, khiêm nhường. Và chỉ nơi họ mới được Chúa chọn để thể hiện những sự phi thường, lạ lùng.
Một năm sau khi thiên thần hiện ra. Hôm ấy là ngày 13.5.1917:
Luxia: Đã trưa rồi, chúng ta hãy thả bò bên bờ kia rồi cùng quỳ gối cầu nguyện nào các em!
Giaxinta và Phanxicô: Vâng ạ!
Cả ba đọc ba kinh Kính mừng : Kính mừng Maria đầy ơn phước ...
Bỗng nhiên một luồng chớp chói lòa xuất hiện làm các em ngơ ngác (Tiếng sấm chớp nổi lên) :
Phanxicô: Điều gì đang xảy ra vậy ? Lạ quá chị Luxia ơi!
Giaxinta: Nhìn xem kìa, hình như có ai đang bước đến...
...
Luxia: Bà đẹp quá ! Bà là ai ? Bà từ đâu đến ?
Đức Mẹ: Ta từ trời xuống. Ta muốn các con đến đây cũng vào giờ này ngày 13 mỗi tháng cho đến tháng 10. Ta sẽ cho biết Ta là ai? Hãy đọc Kinh Mân Côi hàng ngày để xin ơn hoà bình cho thế giới và sớm chấm dứt chiến tranh.
Nói xong Bà biến mất, để lại ba đứa trẻ con ngơ ngác nhìn nhau. Đột nhiên, Luxia reo lên :
- Phanxicô và Giaxinta ơi, 2 em có nhớ lần thiên thần hiện ra với chúng ta không ?
Phanxicô: - Như thế nào ạ?
Luxia: - Các em có nhớ lời cầu nguyện mà thiên thần đã từng dạy chúng ta:
“Lạy Chúa!
Con tin, con thờ lạy
Con trông cậy và con yêu mến Chúa
Con xin Chúa tha thứ cho những ai không tin, không thờ lạy, không trông cậy và không yêu mến Chúa”...
Giaxinta: - Chị Luxia, em nhớ mang máng, hình như đã lâu chúng ta không đọc rồi chị.
Phanxicô: - Anh thì nhớ, lần đó về kể lại chuyện này với ba mẹ, anh đã bị mắng vì mẹ anh cho rằng đó là chuyện bịa đặt. Eo ôi!
Luxia: - Đúng, chúng ta đã bỏ quên chuyện ấy khá lâu rồi. Chuyện hôm nay chị nghĩ chúng ta vẫn nên giữ kín.
Thế nhưng, vừa về đến nhà, Giaxinta thấy Mẹ bước ra quét nhà thì sà vào lòng mẹ thủ thỉ - và quên mất lời chị Luxia đã dặn :
- Mẹ ơi, hôm nay có một Bà xinh đẹp hiện ra với chúng con đấy Mẹ
- Bà xinh đẹp nào ? Con nói điều vớ vẩn gì thế ?
- Con nói thật mà mẹ, mẹ không tin thì tới hỏi anh Phanxicô và chị Luxia đi!
Chẳng mấy chốc, tin này lan nhanh ra bên ngoài, mọi người tỏ vẻ nghi hoặc
(Đối thoại ghi âm, lồng tiếng nhiều người để sinh động hơn):
- Tôi nghĩ chúng nó đùa thôi, hoặc là nói mê, chứ thời này làm gì có ai hiện ra như thế !
- Tôi cũng nghĩ vậy đấy, hơi đâu mà tin mấy lời con nít thế kia ..
- Biết đâu được, trẻ con không nói dối đâu ...
- Tận mắt thấy mới tin được các ông bà nhỉ, hay là đúng ngày đó mình theo mấy đứa nhỏ đến đấy xem thực hư như thế nào ?
- Có lý đấy!
Lời dẫn
Các bạn thấy đấy, con đường đi theo Chúa có quá nhiều cạm bẫy, hiểm trở, sự nghi hoặc... Điều cần thiết nhất chính là, sự vững tin, tín thác vào lòng thương xót Chúa. Chính Ngài sẽ soi sáng, hướng dẫn con đường ta sẽ đi.
HỢP CA HOẶC MÚA: Lạy Mẹ Fatima, Mẹ nỉ non bao lần ...
Lời dẫn
Tháng 6, cũng đúng ngày 13, sự tò mò về Bà xinh đẹp đã thôi thúc Luxia, Giaxinta và Phanxicô một lần nữa lại đến đúng thời gian, địa điểm mà Bà xinh đẹp đã nói trước.
(3 em nhỏ bước ra)
Giaxinta: Anh chị ơi! Mình ngồi đây chơi đi
Luxia: À, Hôm nay mình không chơi cụm thì Phanxico thổi sáo cho mọi người nghe đi
Giaxinta: Đúng đó, đúng đó anh Phanxicô ơi.
Phanxicô: Rồi anh sẽ thổi cho em và chị Luxia nghe
(Lúc này sẽ mở nhạc tiếng sáo bài Lạy Mẹ Fatima)
Giaxinta: Hay quá anh Phanxico ơi!.
Các em nhỏ lắc lư theo tiếng sáo dìu dịu, bỗng dưng có tiếng Đức Mẹ vang lên :
- Luxia, Luxia…. con hãy xem trọng việc lần chuỗi Mân Côi dâng kính trái tim vô nhiễm Maria, hãy học chữ để có thể loan báo lời ta đến tất cả mọi người. Ta sẽ sớm đưa Giaxinta và Phanxicô về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian, Chúa Gie su muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết Ta và yêu mến Ta. Ta mong muốn các con cầu nguyện Kinh Mân Côi hằng ngày.”
- Dạ Bà. Cho con thỉnh cầu Bà chữa lành cho bệnh nhân này!
- Nếu anh ấy ăn năn trở lại, thì trong năm nay anh sẽ được chữa lành.
Lời dẫn:
Nói xong Bà biến mất.
Những người theo sau các em không nhìn thấy gì, ngoại trừ nhìn thấy cành cây sồi gần nơi các em trĩu xuống bởi sức nặng rồi bật lên.
Ba em quay trở về nhà, hăng say cầu nguyện.
Một tháng nữa lại trôi qua - ngày 13.7 các em lại đến điểm hẹn với Bà xinh đẹp.
(Đức Mẹ hiện ra, 3 em nhỏ cúi đầu chào).
Luxia lên tiếng : - Xin Bà cho con biết Bà là ai, và xin Bà hãy làm một phép lạ để cho mọi người tin là Bà đã hiện ra với chúng con.
Đức Mẹ đáp : - Hằng tháng các con phải tới đây và đến tháng Mười, Ta sẽ cho các con biết Ta là ai và Ta muốn gì. Lúc đó Ta sẽ làm một phép lạ để mọi người tin. Hãy hãm mình hy sinh để cầu nguyện cho kẻ có tội và cầu nguyện như sau : "Lạy Chúa Giêsu, con xin dâng những hy sinh này để đáp lại tình yêu Chúa, để cầu nguyện cho kẻ có tội được ăn năn trở lại và để đền tạ những tội xúc phạm đến Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria."
Nói xong Bà giang hai tay ra và hỏi :
Đức Mẹ: - Các con thấy được những gì ?
Luxia: - Chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như trên mặt đất, ngập trong đó là quỷ dữ và các linh hồn. Họ đang kêu la thảm thiết vì đau đớn và tuyệt vọng. Thật đáng sợ!
Đức Mẹ: - Nơi các con đang thấy đấy chính là Hỏa ngục - nơi các linh hồn chịu phạt vì những tội lỗi mình đã gây ra. Ðể cứu các linh hồn khỏi sa hỏa ngục, Thiên Chúa muốn phát động lòng tôn sùng Trái Tim Vẹn Sạch Ðức Mẹ trên hoàn cầu. Nếu các con thi hành các điều Ta phán dạy thì rất nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và sẽ có hòa bình. Cuộc chiến này sẽ chấm dứt, nhưng nếu nhân loại không ngừng xúc phạm tới Thiên Chúa, một cuộc chiến tàn khốc nữa sẽ xảy ra và trong một đêm nào đó khi các con nhìn thấy bầu trời rực sáng bởi luồng ánh sáng kỳ lạ thì lúc đó các con sẽ hiểu đó là dấu chỉ Thiên Chúa sẽ trừng phạt nhân loại bằng chiến tranh và nghèo đói, Ðức Thánh Cha và Giáo Hội sẽ bị khủng bố ngược đãi.
Luxia: Xin Mẹ thương Ðức Thánh Cha và Giáo Hội.
Đức Mẹ: - Ðể tránh tai họa này, Mẹ muốn thế giới hãy dâng nước Nga cho Trái Tim Vẹn Sạch của Mẹ và Mẹ muốn việc rước lễ mỗi thứ Bảy đầu tháng phải được thi hành để đền bù vì tội lỗi của nhân loại. Nếu các điều Mẹ mong ước được thực thi, nước Nga sẽ trở lại, và sẽ có Hòa Bình. Nếu không, nước Nga sẽ gieo rắc các tà thuyết trên khắp thế giới, chiến tranh sẽ xảy ra, Giáo Hội sẽ bị bách hại, người lành sẽ bị tử đạo... Ðức Thánh Cha sẽ hiến dâng nước Nga cho Mẹ, nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng hòa bình một thời gian."
Luxia: Xin Mẹ thương.
Đức Mẹ tiếp lời : Mẹ mong muốn các con tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày để tôn vinh Ðức Mẹ Mân Côi, để xin ơn hoà bình thế giới và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ Người mới có thể cứu giúp các con. Mỗi khi các con đọc Kinh Mân Côi, sau mỗi mầu nhiệm hãy đọc: "Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đưa các linh hồn lên Thiên Ðàng, nhất là những linh hồn cần Chúa thương xót hơn hết”.
Luxia: Chúng con xin nghe lời Mẹ.
Lời dẫn:
Tháng 8 năm 1917 tin Ðức Mẹ hiện ra đã gây khá nhiều xúc động nên chính quyền địa phương đã phải báo động. Chính ngày 13 tháng 8 các em đã bị ông thị trưởng bắt giam.
Hôm 13 ấy, có rất nhiều người tụ tập tại đồi Cova da Ira nhưng không thấy ba em nhỏ đâu cả. Vào giờ Đức Mẹ hiện ra, bỗng tiếng sấm chớp nổi lên dữ dội. Đám đông nhốn nháo cả lên :
- Đức Mẹ đã hiện ra !
- Nhìn kìa !
Lời dẫn tiếp:
Ngay sau tiếng sấm là một làn chớp và rồi một đám mây nhỏ, rất mỏng manh và rất trắng, đám mây dừng lại trên cây sồi một vài phút rồi bay bổng lên không trung rồi biến mất. Khi nhìn chung quanh, đám đông đã nhận thấy một vài điều lạ thường như đã thấy ở các lần trước cũng như sau này. Mặt của họ phản chiếu các mầu sắc của cầu vồng: Tím, đỏ và xanh, và họ đã không hiểu được tại sao. Ðột nhiên các cây cối đã không phải có lá mà là hoa, đất cũng phản chiếu các mầu sắc và cả quần áo chúng tôi đang mặc cũng vậy... Họ xác nhận hiển nhiên Ðức Mẹ đã hiện ra mặc dù các em nhỏ vắng mặt.
Hết ngày hôm đó, các em được tha về. Một số người nhìn thấy các em và hỏi
(đối thoại ghi âm):
- Hôm ấy chúng tôi đã đến mà không có các em!
- Bọn cháu bị những người trên xã kêu lên và giữ tới tối mới cho về.
- Họ bảo sao?
- Họ bảo: Để xem rồi bà nào sẽ gặp chúng mày!
- Các em có sợ không?
- Tuy bị bắt nhưng trong lòng chúng em không hề sợ hãi. Em không biết từ đâu mà chúng em có lòng tin như vậy.
- Rồi bà có đến gặp các em không ?
- Có. Hai hôm sau ngày hẹn, Bà đã đến với chúng em trên đồi, lúc chúng em đang nghỉ. Trông Bà rất buồn và Bà đã nói rằng : “Ta rất buồn về việc các con bị bắt giữ, khiến cho phép lạ ta định làm trong tháng 10 sẽ không được huy hoàng như đã định trước nữa ."
Lời dẫn:
Các em vẫn tiếp tục công việc như thường ngày nhưng trong tim luôn nồng cháy một niềm vui và hăng say cầu nguyện. Mới đó đã đến ngày 13 tháng 9. Sáng hôm ấy có hơn 30 ngàn người tập trung trên đồi.
- Đức Mẹ : Các con hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Hãy đợi đến tháng 10, các con sẽ được thấy cả Thánh Giuse, Chúa Hài Ðồng, Ðức Mẹ Núi Camêlô và Ðức Mẹ Sầu Bi.
Lời dẫn:
Hôm ấy không chỉ có ba em nhỏ là nhân chứng độc nhất của biến cố lạ thường ngày 13 tháng 9 năm 1917 mà là cả đám đông. Cha Chính địa phận Leiria, Ðức Ông John Quarsema đã xác nhận đã nhìn thấy một cách tỏ tường và minh bạch, một vầng hào quang đã di chuyển từ Ðông sang Tây - trong một bầu trời trong sáng - tới chỗ vẫn thường hiện ra và sau một thời gian đã biến mất về hướng mặt trời.
Lời dẫn tiếp:
Thế rồi, vào ngày 13.10.1917, theo chân các em là khoảng 70 ngàn người. Mưa như trút nước (mở nhạc mưa, sấm chớp). Sau khi tới gốc sồi ở Cova da Iria, dưới thúc đẩy nội tâm Lucia xin mọi người cụp dù xuống và lần hạt. Rồi các em thấy chớp sáng và Ðức Mẹ hiện đến. Lucia hỏi:
- Thưa Bà, Bà muốn con làm gì?
- Ta muốn một nhà nguyện được xây ở đây để tôn kính Ta. Ta là Ðức Mẹ Mân Côi. Hãy tiếp tục lần hạt hằng ngày. Chiến tranh sẽ chấm dứt và binh sĩ sẽ trở lại gia đình.
- Thưa Mẹ, con có nhiều điều để xin Mẹ, xin chữa một số bệnh nhân, hoán cải tội nhân và những chuyện khác...
- Ðược, một số sẽ được, nhưng không phải tất cả được. Họ chỉ cần cải thiện đời sống và xin ơn tha thứ mọi tội lỗi.
- Chúng con xin nghe lời Mẹ.
- Ðừng phạm đến Chúa nữa vì Chúa đã bị xúc phạm nhiều rồi.
- Chúng con xin nghe lời Mẹ.
Và rồi, Ðức Mẹ mở tay ra, làn ánh sáng chiếu lên mặt trời. Khi Ðức Mẹ cất mình lên, ánh sáng đó vẫn chiếu vào mặt trời.
Luxia hét to : Mọi người hãy nhìn kìa !
Thì này : “ Mặt trời đang nhảy múa trên không trung như muốn rơi xuống mặt đất”. (Đám đông quỳ rạp xuống mặt đất)
- Lạy Chúa tôi!
- Lạy Thiên Chúa của tôi!
Khi Ðức Mẹ đã biến mất, Luxia thấy bên cạnh mặt trời, Thánh Giuse với Chúa Hài Nhi ban phép lành cho thế giới. Một lát sau, cảnh tượng đó biến mất và chị lại thấy Chúa và Ðức Mẹ, hình như Ðức Mẹ đau thương. Cảnh tượng này cũng biến mất và tiếp tục chị Luxia lại thấy Ðức Mẹ, giống như ảnh Ðức Mẹ núi Cát Minh.
Lời dẫn
Các bạn thân mến, Đức Mẹ đã hiện ra với các em nhỏ tất thảy 6 lần, và trong lần cuối này, Mẹ đã tỏ sự hiện diện của Mẹ và đồng thời xác nhận những mệnh lệnh Mẹ ban xuống qua miệng ba trẻ nhỏ thơ ngây.
Chúng con xin dâng lên Mẹ những lời kinh chúng con đã lần hạt Mân côi qua điệu múa LỜI KINH ĐÊM DÂNG MẸ
(Múa Lời kinh đêm dâng Mẹ)
Lời dẫn
Sau lần cuối cùng Đức Mẹ hiện ra, chính quyền dùng nhiều hình thức cấm đoán dân chúng tụ tập. Đồi Fatima tưởng chừng đã bị rơi vào quên lãng. Tuy nhiên sứ điệp Fatima vẫn vang vọng trong lòng mọi người.
Thế rồi 13 năm sau, tháng 10 năm 1930, Ðức Cha Dom José Alves Correia, Giám Mục giáo phận Leiria, công nhận biến cố Mẹ hiện ra tại Fatima, và ban phép sùng kính Mẹ Fatima. Từ đó, thôn làng nhỏ bé Fatima đã trở nên trung tâm hành hương thế giới, để mọi người đổ về, chạy đến cầu khẩn với Mẹ. Fatima cũng trở thành động lực thúc đẩy mọi người hưởng ứng lời Mẹ, nhắn nhủ, cầu nguyện, và hy sinh cho tội nhân được ơn trở lại và nhất là nguyện cầu cho thế giới được hòa bình. Vì sứ điệp hòa bình và tình thương của Fatima cũng hòa hợp với sứ điệp hòa bình của Phúc Âm, dọn lòng con người đón chờ ơn cứu chuộc, nên sứ điệp Fatima luôn là sứ điệp hợp thời đại.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa xin giúp chúng con thực hiện những mệnh lệnh Mẹ đã truyền dạy cho chúng con qua thông điệp Fatima. Ước chi kỷ niệm biến cố Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima đúng 100 năm, chúng con đã là những tông đồ rao truyền mệnh lệnh của Mẹ cho toàn thế giới được biết và bày tỏ lòng ăn năn sám hối cùng hăng say cầu nguyện trong tình yêu quan phòng của Thiên Chúa và lòng sùng kính Trái Tim Mẹ. Xin được thắp lên ngọn lửa Đức Tin nhiệt thành trong lòng chúng con, và xin cho ngọn lửa ấy vẫn luôn cháy mãi !
(Mở nhạc không lời bài: Năm xưa trên cây Sồi và đọc lời cầu nguyện).
(Tổng hợp từ các tài liệu của Catholic.org.tw và Memaria.org)
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Trái Tim Hồng
Thérésa Nguyễn
19:18 11/10/2016
Ảnh của Thérésa Nguyễn
Nhớ giữ lấy trái tim còn nhỏ bé
Chớ cho người lời dịu ngọt mật ong
Chớ đưa tay đón nhận cánh hoa hồng
Và nhớ nhé hoa làm lòng yếu đuối
(Trích thơ của Sc)