Ngày 07-09-2015
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:27 07/09/2015
16. KHÉO CAN CHÔN NGỰA.
N2T

Sở Trang vương có một con ngựa yêu quý, cho nó mặc áo gấm ngũ sắc rực rỡ, nuôi nó trong một căn nhà lộng lẫy, cho nó ngủ trên giường có màn che, đem tất cả táo khô ngon nhất để nuôi nó.
Một hôm, con ngựa ấy chết vì quá béo phệ, Trang vương ra lệnh cho mọi người dùng lễ nghi dành cho quan đại phu mà lo việc tống táng chôn cất cho nó, và nói: “Hể ai can ngăn việc chôn ngựa, giết !”
Có người diễn viên cung đình rất nổi tiếng là Ưu Mạnh khóc nói với Trang vương:
“Nước Sở đường đường là một nước lớn, nên dùng lễ tiết của nhà vua mà chôn con ngựa yêu quý của ngài mới phải ! Dùng ngọc điêu khắc hoa văn làm quan tài, dùng gỗ long não làm quách, phái một đội binh lớn đào huyệt mả, ra lệnh cho toàn dân vác đất gánh bùn. Lúc đưa đám, nước Tề nước Triệu tháp tùng đi trước, nước Hán nước Ngụy phía sau hậu vệ. Sau đó xây cho nó một nhà từ đường, dùng tất cả trâu bò mà tế tự, lấy tước hiệu thật cao quý mà phong cho nó. Các chư hầu nghe được chuyện này, đều biết đại vương coi thường con người mà quý trọng con ngựa !”
Trang vương nói:
- “Quả nhân thật quá đà, lại nông nỗi đến thế sao, làm sao đây ?
Ưu Mạnh nói:
- “Xin đại vương đem nó chôn theo loại lục súc: trên mặt đất đào một cái bếp làm quách, dùng cái nồi đồng làm quan tài, dùng gừng táo mà chăm sóc, phía dưới bồi thêm vỏ của cây mộc lan, dùng gạo ngon làm tế phẩm, thổi lữa cho lớn mà ninh cho nhừ, đem mai táng nó trong bụng người ta !”
Trang vương theo lời ấy mà thi hành, và mời mọi người ăn một bữa thật no.
(Sử ký)

Suy tư 16:
Người khôn ngoan và can đảm như Ưu Mạnh thật hiếm có, nhưng biết thức tỉnh như Sở Trang vương lại càng hiếm có hơn, bởi vì một khi sự kiêu ngạo, xa xỉ và quyền hành đã thấm tận tim gan rồi, thì dễ gì mà dứt bỏ được, vậy mà Sở Trang vương đã làm được, đúng là một ông vua can đảm.
Hồi tôi còn giúp xứ ở họ đạo Fatima Saigon quận Nhất, thánh lễ mỗi buổi sáng đều do một linh mục về hưu (cha Nguyễn Văn Ngợi) phụ trách, trong lúc cha con trò chuyện với nhau, ngài đã nói với tôi như sau: “Trên đời có hai thứ đam mê mà con người khi dính vào rồi thì thân tàn ma dại, chỉ có chết mới dứt ra được, một là mê dâm dục và hai là nghiện thuốc phiện”.
Mê dâm dục đưa con người ta đến thỏa mãn khoái cảm nhục dục, làm cho lý trí mất đi sự nhạy bén sắc sảo, cương quyết, ai đã thử qua một lần rồi thì muốn thử lại, và mặc dù biết là tội mà không thể nào dứt ra được nếu không cương quyết, can đảm và cậy nhờ ơn Chúa; người hút thuốc phiện chơi ma túy cũng vậy, biết là không có ích lợi gì cho bản thân, biết là khổ cho gia đình và người thân, nhưng không thể nào dứt bỏ được, và khi cơn ghiền nổi lên thì càng tệ hại hơn nữa…
Đam mê tự nó không phải là tội, nhưng đam mê đến độ quên mất cả bổn phận, quên mất cả lý trí thì không những có tội mà còn làm gương mù gương xấu cho người khác.
Biết nghe lời can gián mà thức tỉnh đó là người can đảm và anh hùng, họ chính là người đã nghe được tiếng Chúa dạy qua mọi con người, mọi hoàn cảnh trong cuộc sống của mình vậy !

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:31 07/09/2015
N2T

70. Đức Mẹ Ma-ri-a được vinh dự cao quý làm Mẹ Thiên Chúa là vì để tội nhân được nên công chính, bởi vì Đức Chúa Giê-su đã rõ: Ngài đến không phải để tìm kiếm người công chính, nhưng đến tìm kiếm người tội lỗi.

(Thánh Anselm of Canterbury)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"

-----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Nhà nước Hồi giáo áp đặt thuế đối với các Kitô hữu tại các thành phố Syria mới chiếm được
Đặng Tự Do
01:00 07/09/2015
Theo sau những báo cáo về khả năng sụp đổ của thủ phủ Abril nơi có tòa lãnh sự của Hoa Kỳ, chiều tối ngày 7 tháng 8 năm ngoái 2014, tổng thống Hoa Kỳ Obama đã ra lệnh không kích để chặn đường tiến công vũ bão của quân khủng bố Hồi Giáo IS và tuyên bố quyết tâm tận diệt đám khủng bố này.

Quyết tâm của tổng thống xem ra đã nhợt nhạt theo thời gian. Thật vậy, các cuộc không kích đã thưa dần đến mức bọn khủng bố Hồi Giáo IS có điều kiện để tập trung quân, xe tăng và các loại cơ giới tiến chiếm thị trấn al-Qaryatayn tại miền trung Syria vào đầu tháng 8 này.

Nay thì bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã thiết lập guồng máy cai trị tại đây giữa những đồn thổi về những thỏa hiệp của các cường quốc và các nước dầu hỏa trong vùng muốn mượn tay quân khủng bố Hồi Giáo IS để thực hiện sách lược Hồi Giáo hóa khu vực.

Bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã chiếm được al-Qaryatayn vào ngày 5 tháng 8 và sau đó tiến hành ngay việc phá hủy tu viện Thánh Elian có từ thế kỷ thứ năm, và mạo phạm thánh tích của thánh nhân.

Theo tin từ nhật báo Avvenire, của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Ý, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã áp đặt thuế jizya, là loại thuế đặc biệt trên những cư dân không theo Hồi giáo.

Bên cạnh thuế jizya, quân khủng bố Hồi Giáo IS cũng áp đặt 13 điều kiện trên các Kitô hữu trong thị trấn, trong đó có lệnh cấm sở hữu vũ khí , và không được tụ tập tại các nhà thờ và tu viện.
 
Hai tài liệu của Đức Thánh Cha về tuyên bố hôn nhân vô hiệu được công bố vào thứ Ba 8 tháng 9
Đặng Tự Do
06:24 07/09/2015
Trong cuộc họp báo hôm thứ Hai 7 tháng 9, Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết hai tài liệu dưới dạng tự sắc của Đức Thánh Cha liên quan đến việc cải cách tiến trình tuyên bố hôn nhân vô hiệu sẽ được công bố vào ngày thứ Ba 08 tháng 9.

Tự sắc đầu tiên, Mitis Iudex Dominus Iesus [Chúa Giêsu Vị Thẩm Phán Hiền Lành] sẽ giới thiệu những thay đổi trong tiến trình theo như những gì đã được thảo luận trong Bộ Giáo Luật. Tự sắc thứ hai, Mitis et misericors Iesus [Chúa Giêsu Hiền Lành và Thương Xót], sẽ giới thiệu những thay đổi trong tiến trình theo như những gì đã được thảo luận trong Bộ Giáo Luật dành cho các Giáo Hội Đông Phương.
 
Hàng ngàn người tị nạn bị lừa ở Hung Gia Lợi
Đặng Tự Do
06:55 07/09/2015
Budapest - Ticket to No Where
Hàng ngàn người di cư qua ngã Hung Gia Lợi trong cố gắng đổ xô vào Tây Âu đã bị lừa thê thảm tại một nhà ga xe lửa ở thủ đô Budapest hôm 04 tháng Chín vừa qua. Họ cố gắng nhào lên một chuyến tàu chờ sẵn. Chuyến tàu sau đó rời ga, nhưng không đến biên giới với Áo nhưng dừng lại ở thị trấn Bitske, gần một trại tị nạn.

Phóng viên Stefan Bos của Radio Vatican cho biết anh chứng kiến tận mắt cảnh bị lừa của hàng ngàn người tị nạn này.

“Tại thời điểm này, tôi đang đứng ở phía trước một xe lửa màu xanh lá cây ở thị trấn Bicske không xa một trại tị nạn nơi các nhà chức trách Hung Gia Lợi muốn đưa những người này đến đây.

Họ đã bị nhồi nhét bên trong con tàu này suốt nhiều giờ trong đêm. Một số người vì quá mệt đành phải lên xe buýt vào trại tập trung, tuy nhiên hầu hết những người tị nạn tử thủ trong con tàu.

Họ muốn đi đến Đức, và ở phía trước của tôi, tôi có thể nhìn thấy những mảnh giấy nguệch ngoạc những dòng chữ “Xin giúp đỡ! ',' Hãy để chúng tôi đi', và 'Chúng tôi muốn đến Đức'.

Bên trong con tàu là những người thuộc các tín ngưỡng khác nhau. Bên cạnh những Kitô hữu Syria cố gắng thoát khỏi đất nước nơi mạng sống của họ bị đe doạ nghiêm trọng; tất nhiên cũng có nhiều người Hồi giáo, và những người tìm kiếm tự do.”

Tuần qua, các ngoại trưởng của Liên minh châu Âu đã gặp nhau để thảo luận về những gì cần làm để đối phó với làn sóng người di cư chạy trốn chiến tranh và nghèo đói.

Thủ tướng Victor Orban nói rằng Hung Gia Lợi không thể đối phó với vấn đề này như trong thời gian qua nữa. Quốc gia này đã chứa chấp khoảng 160,000 người nhập cư bất hợp pháp vào nước này trong năm nay.

Một số vị ngoại trưởng Liên minh châu Âu đã bày tỏ thất vọng to lớn với chính sách của thủ tướng Orban, bao gồm cả việc lừa gạt người di cư trên những con tàu như thế này và cả một chính sách gây tranh cãi là dựng một hàng rào dài 175 km dọc theo biên giới với Serbia.

Quốc hội Hung Gia Lợi trong ngày 04 tháng Chín cũng đã bỏ phiếu về việc gửi quân đội đến biên giới, có lẽ phải tới 3,000 quân. Ngoài ra, báo chí tại Hung cũng tường trình việc xem xét làm sao trừng phạt những người di cư nặng hơn nếu họ cố tình vượt qua hàng rào. Một mức án có thể lên đến 4 năm tù giam đối với những người làm như vậy đang được thảo luận tại Quốc hội.
 
Ba nữ tu người Tây Ban Nha bị giết trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha được tôn phong Chân Phước
Đặng Tự Do
08:09 07/09/2015
Ba nữ tu người Tây Ban Nha bị giết chết trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha vào năm 1936 đã được phong Chân Phước hôm thứ Bẩy 05 Tháng Chín.

Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh đã chủ sự lễ phong Chân Phước cho các Sơ Fidela Oller, Josefa Monrabal và Facunda Margenat tại nhà thờ chính tòa Girona, Tây Ban Nha. Trong bài giảng, ngài và lưu ý rằng “cả ngày nay, các Kitô hữu vẫn là thiểu số và vẫn bị bách hại nhất trên thế giới.”

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 6 tháng 9, Đức Thánh Cha cũng đã nhắc đến sự kiện này. Ngài nói:

“Hôm qua, ở thành phố Girona bên Tây Ban Nha, có 3 nữ tu được tôn phong Chân Phước, đó là các sơ Fidelia Oller, Giuseppa Monrabal và Feconda Margenat, thuộc dòng thánh Giuse ở Girona, bị giết vì lòng trung thành với Chúa Kitô và Giáo Hội. Mặc dù bị ngăm đe dọa nạt, các phụ nữ ấy vẫn can đảm ở lại nhiệm sở để săn sóc các bệnh nhân trong niềm tín thác nơi Thiên Chúa. Ước gì chứng tá anh dũng của các chị, cho đến độ đổ máu đào, mang lại sức mạnh và hy vọng cho bao nhiêu người ngày nay đang bị bách hại vì đức tin Kitô. Và chúng ta biết rằng họ rất đông đảo.”

Trong cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha kéo dài từ ngày 17/7/1936 đến 1/4/1939, 13 Giám Mục, 4172 linh mục triều và các chủng sinh, 2364 linh mục dòng và các nam tu sĩ cùng với 283 nữ tu đã bị Mặt Trận Bình Dân sát hại. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 233 vị tử đạo Tây Ban Nha. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 tôn phong 498 vị. Ngày 13 tháng 10 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử Đức Hồng Y Angelo Amato thay mặt ngài tôn phong cho 522 vị tại Tarragonna. Như vậy, tính đến nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tôn phong cho 525 vị tử đạo Tây Ban Nha.
 
Đức Thánh Cha kêu gọi người Công Giáo Âu Châu tiếp nhận dân tị nạn
Bùi Hữu Thư
12:00 07/09/2015
Munich, 7 tháng 9, 2015: Đức Thánh Cha Phanxicô hôm qua kêu gọi tất cả mọi giáo xứ, cộng đồng tôn giáo, các tu viện và các thánh đường tiếp nhận một gia đình tị nạn. Lời kêu gọi này nếu được đáp ứng sẽ giúp cho có chỗ trú thân cho hàng vạn người.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên tiếng trong khi hàng vạn người tị nạn đã bị giữ lại tại Hungary đang tràn vào hai nước Đức và Áo, và một số nhỏ nhưng ngày càng gia tăng các thiện nguyện viên đã đón tiếp một số gia đình. Mặc dầu lời kêu gọi của Đức Thánh Cha được hoan nghênh tại quảng trường Thánh Phêrô, một số người dân Đức đang tự hỏi làm sao họ có thể đón tiếp nhiều người tị nạn hơn.

Đức Thánh Cha đã lao mình vào các cuộc tranh luận về thay đổi thời tiết và nền kinh tế thị trường tự do, nay lại dấn thân vào vấn đề làm sao Âu Châu có thể đối phó với làn sóng người tị nạn to lớn nhất tính từ trận chiến Balkan trong thập niên 1990. Đa số dân tị nạn là người Hồi giáo đến từ Syria, Iraq và các quốc gia khác, và Đức Thánh Cha Phanxicô đã can thiệp trong khi các chính trị gia chống đối việc di dân, kể cả các vị lãnh đạo cao cấp tại Âu Châu lại đang dùng tôn giáo như là một vũ khí để phản đối.

Victor Orban, thủ tướng Hungary, nơi đạo Công Giáo lớn mạnh nhất, tuần qua đã tuyên bố rằng điều mà ông coi là căn tính Thiên Chúa giáo của Âu Châu đang bị đe dọa, vì “những người đang tràn vào lại được nuôi dưỡng trong một tôn giáo khác, và biểu hiệu cho một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt.”

Solvakia tuyên bố sẽ chỉ tiếp nhận những Kitô hữu. Phát ngôn viên của Bộ Nội Vụ Slovakia, ông Ivan Netik nói: “Chúng tôi không có các đền thờ Hồi giáo tại Solvakia, do đó làm sao người Hồi giáo có thể hội nhâp nếu họ không cảm thấy thoải mái ở đây?”

Đức Thánh Cha Phanxicô, một nhà lãnh đạo đã nổi tiếng là có thể xây dựng các nhịp cầu nối kết đạo Công Giáo với các tôn giáo khác, đã tung ra một thách đố trực tiếp đối với lối suy nghĩ này: “Đối chọi với thảm trạng của hàng vạn người tị nạn – trốn chạy cái chết vì chiến tranh và đói khát, và đang tìm đường đạt tới niềm hy vọng cho đời sống- Phúc Âm kêu gọi chúng ta hãy gần gũi với những người bé mọn và bị bỏ rơi, để đem lại cho họ một niềm hy vọng cụ thể. Và không chỉ nói suông là hãy can đảm lên, hãy kiên nhẫn.”

Mặc dầu nước Đức rất quảng đại, đang có áp lực ngày càng gia tăng đối với tổ hợp lãnh đạo của bà thủ tướng Angela Merkel, trong khi các đồng minh chất vấn bà về quyết định là nước Đức sẽ là quốc gia tiếp nhận nhiều dân tị nạn nhất. Berlin sẽ tiếp đón 800.000 di dân, khoảng 1 phần trăn dân số quốc gia này. Andreas Scheuer, tổng thư ký của đảng Xã hội Kitô thiên hữu, một đảng thân hữu với bà Merkel nói: “Các lãnh đạo phải ngăn chặn làn sóng người tị nạn kéo vào Đức.”

Nước Áo, các giới chức trong chính quyền nói họ dự trù chấm dứt các nỗ lực tiếp đón người ti nạn trong cuối tuần này bằng các chuyến xe lửa đặc biệt và lập thủ tục nhanh chóng, một dấu hiệu của sự dằng co trong nội bộ một quốc gia đã không hoàn toàn đồng ý về gánh nặng của người di dân.

Sự kiện các lãnh tụ Âu Châu không thể đạt tới một thỏa thuận hiệp nhất, một cách nào đã khuyến khích làn sóng di dân và gia tăng cuộc khủng hoảng. Nhiều dân tị nạn các nước khác ngòai Syria như Iraq và các nước khác cũng kéo nhau qua Đức qua ngả Hungary.

Ngày Chúa Nhật vừa qua Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói hai gia đình tị nạn sẽ được hai giáo xứ nằm trong lãnh thổ của Thánh Đô Vatican tiếp đón. Lời kêu gọi của ngài không biết có được đáp ứng toàn diện không, tuy nhiên nhiều người dường như nghe thấy tiếng vang vọng của Phúc Âm qua lời Đức Thánh Cha: “Ta là khách lạ và các người đã đón tiếp ta.”
 
Trò chơi mới trên mạng: Nói chuyện diễu với Đức Giáo Hoàng.
Trần Mạnh Trác
17:52 07/09/2015
Đức Thánh Cha Phanxicô và anh hề Conan O’Brien có điểm gì giống nhau nhỉ?

Xin thưa ngay ngoài việc hai người đều là Công Giáo, thì dù cố moi óc ra mà tìm, chúng tôi cũng chưa tìm được điểm nào nữa cả.

Nói như thế không có nghĩa là hạ giá anh hề O’Brien, anh đang là một nhân vật đứng trụ rất thành công trên TV, và được coi là người đứng đầu cuả những tiết mục về đêm sau khi David Letterman về hưu hồi tháng 5 vừa qua.

Và anh cũng rất hâm một ĐGH, hâm mộ đến nỗi anh xung phong đi tiên phong để 'diễu' ĐTC trong một trò 'thi đua' mới trên mạng, bắt đầu từ ngày 8 tháng 9 này và kết thúc vào ngày 2 tháng 10 tới.

Trò thi miễn phí cho tất cả mọi người, Công Giáo hay không cũng được. Nó diễn ra như thế này:

Ai cũng có thể truy cập vào mạng, dùng computer hay phone (có app miễn phí ) để dự thi bằng cách đệ trình lên một câu chuyện giỡn, một video vui, một bức hình vẽ về Đức Thánh Cha Phanxicô. Trước khi dự thi, thí sinh phải ghi tên một cơ quan bác ái nào đó để 'lỡ' mà mình được trúng giải thì cơ quan đó sẽ lãnh lấy phần thưởng cuả mình.

Nói như thế không có nghĩa là mình bị 'chớp tay trên' bởi vì tuy số tiền thưởng là 10 ngàn đô sẽ không được trao cho mình, nhưng cái danh dự đứng nhất thì không bao giờ bị mất cả: Người trúng giải sẽ được tặng cho một danh hiệu rất 'ngầu' chưa từng ai có là "Cố Vấn Tiếu Ngạo Danh Dự cuả Đức Giáo Hoàng" (honorary comedic adviser to the pope).

Số tiền 10 ngàn là do hiệp hội Pontifical Mission Societies (Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo ) ở Mỹ tặng. Đây là một hiệp hội yểm trợ cho các hoạt động truyền giáo ở các vùng nghèo khó và hẻo lánh cuả Thế Giới. Hiệp hội đã lôi kéo được một danh hề lão thành là Bill Murray làm cố vấn danh dự và giám khảo.

"Mọi người đã rất vui mừng trước các thông điệp của Đức Thánh Cha và vì vậy nhân dịp Ngài đến thăm Hoa Kỳ, chúng tôi muốn làm một điều gì đó có ý nghĩa để sử dụng như một cái đòn bẩy làm thay đổi thế giới, " theo lời LM Andrew Small, giám đốc cuả Hiệp Hội.

"Chúng tôi hy vọng Đức Thánh Cha cũng sẽ đóng góp vào một câu chuyện vui," Cha Small nói tiếp.

Dù sao thì chính ĐTC là vị giáo hoàng đã viết ra một tông huấn mang tên "Evangelii Gaudium," nghĩa là "Niềm Vui của Tin Mừng, " phải không?

"Trong niềm vui đó, chúng ta hãy mở lòng ra để tiếp cận với nhau," Cha Small nói. "Thậm chí nếu đó chỉ là tất cả những gì mà chúng ta có thể chia sẻ với nhau - một nụ cười mỉm, một nụ cười oang oang, như bạn biết đấy, giống như Đức Giáo Hoàng, một cái gì đó liên hệ với lòng từ bi - Tôi nghĩ rằng với từng tiếng cười nhỏ một, chúng ta sẽ làm thay đổi thế giới "

Hiệp hội cũng hy vọng cuộc thi này sẽ giúp mọi người nhận thức thêm về những ứng dụng mới cuả 'app' có tên là 'Missio', sẽ có thể update từ ngày 10 tháng 9 trong App Store và Google Play.

Phiên bản ban đầu của App Missio, đã có từ năm 2013, chỉ là một ứng dụng về tin tức cuả Giáo Hội trên thế giới.

Với những ứng dụng mới, nhiều người sẽ có thể kết nối vào hàng trăm dự án bác ái, tạo ra một 'thực thể' mà linh mục Small gọi là "một hợp tác xã từ bi" (“a compassionate commons.”)

Nghiã là người sử dụng sẽ có thể hỗ trợ những dự án bằng tiền, nhưng hơn hết là bằng tình bạn, như nhắn tin cho các nhà lãnh đạo biết rằng họ đang được cầu nguyện, cung cấp ý kiến, chia sẻ những mối quan tâm vv...

"Đó là một mồi lửa đốt lên niềm hy vọng, một cách mới để kết nối với nhau, chứ không đơn thuần chỉ là một phương tiện công nghệ mà thôi " Cha Small nói.

...

Vậy bây giờ thì câu chuyên diễu cuả danh hề Conan O’Brien đã đệ trình là gì? xin thưa lấy từ sự kiện xứ Napa cuả California là xứ sản xuất rượu vang nổi tiếng trên thế giới, nhưng khốn nỗi nơi đó đang bị hạn hán, anh chàng O’Brien viết như thế này:

"Hạn hán ở California xấu quá, dân ở Napa đang xin Đức Thánh Cha làm phép biến rượu ra nước cho họ."

...

Những ai có tài diễu, xin truy cập 'jokewiththepope.org' hay upload App 'Missio' vào phone.
 
Chuyến tầu “lừa” tại Budapest
VietCatholic Network
17:49 07/09/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 6 tháng 9 tại quảng trường Thánh Phêrô trước hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương, Đức Thánh Cha đã kêu gọi các giáo xứ và các tổ chức Công Giáo trên toàn Âu Châu đón nhận người tị nạn.

Ngài nói:

“Anh chị em thân mến, người ta nhận ra Lòng Thương Xót của Thiên Chúa qua các việc làm của chúng ta, như cuộc sống của chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta mà chúng ta tưởng niệm ngày qua đời hôm 5 tháng 9 này.

Đứng trước thảm trạng hàng chục ngàn người tị nạn trốn chạy cái chết vì chiến tranh và đói và họ đang hành trình tiến về cuộc sống hy vọng, Tin Mừng kêu gọi chúng ta, yêu cầu chúng ta hãy trở thành “những người thân cận của những ngừơi bé nhỏ nhất và bị bỏ rơi, mang lại cho họ một niềm hy vọng cụ thể. Nếu chỉ nói ‘Can đảm lên, hãy kiên nhẫn!..’ mà thôi thì chưa đủ. Niềm hy vọng Kitô có sức phấn đấu, với sự kiên trì của người đang tiến về một mục tiêu chắc chắn. Vì thế, nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp đến gần, tôi kêu gọi các giáo xứ, các cộng đoàn dòng tu, các đan viện và Đền thánh ở toàn Âu Châu hãy biểu lộ sự cụ thể của Tin Mừng và đón tiếp một gia đình tị nạn. Đó là một cử chỉ cụ thể để chuẩn bị cho Năm Thánh Lòng Thương Xót. Mỗi giáo xứ, mỗi cộng đoàn dòng tu, mỗi đan viện, mỗi đền thánh ở Âu Châu hãy tiếp nhận một gia đình, bắt đầu từ giáo phận Rôma của tôi.

Tôi ngỏ lời với các anh em Giám Mục Âu Châu của tôi, là những chủ chăn đích thực, để các vị hỗ trợ lời kêu gọi này của tôi trong các giáo phận của các vị, nhớ rằng Lòng Thương Xót là danh xưng thứ hai của Tình Yêu: ‘Tất cả những gì các con làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, là các con làm cho Thầy’ (Mt 25,40).

Cả hai giáo xứ ở Vatican cũng sẽ đón nhận 2 gia đình tị nạn trong những ngày này.

Trong phóng sự đặc biệt này chúng tôi xin giới thiệu với quý vị và anh chị em câu chuyện chuyến tầu lừa đã được phóng viên Stefan Bos của Radio Vatican tường thuật.

Trong ba ngày qua những người tị nạn này đã chờ đợi mỏi mòn. Nhà ga Trung ương của Budapest không còn là xa lạ với họ nữa vì nó đã trở thành một nhà chờ đợi khồng lồ nơi hàng ngàn người tị nạn chen chúc nhau tận dụng mọi chỗ có thể dựa lưng. Nét mệt nhọc thể hiện rõ trên khuôn mặt hốc hác của họ.

Abdul Rahman, một người tị nạn Syria nói: Đây không phải là Âu Châu mà chúng tôi mong muốn. Chúng tôi không được lắng nghe, mọi cánh cửa như đóng sầm lại trước mắt chúng tôi.

Đột nhiên, như để trả lời anh, những cánh cửa của các toa xe mở ra và một cảnh chen lấn kinh hoàng đã diễn ra. Hàng ngàn người cố chen để lên tầu như thể đây là chuyến tàu sau cùng.

Bà Monserrat Feixas Vihé, đại diện của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc nói:

Người tị nạn bị lừa là chuyến tầu sẽ đưa họ đến biên giới với Áo. Đây là một trò lừa tệ hại, dù có người coi là chuyện nhỏ nhưng dù chuyện lớn nhỏ như thế nào cũng cần phải được đề cập đến. Mọi người cần phải biết và họ đáng được biết là chuyến tàu sẽ đưa họ đi đâu để họ có thể đưa ra một quyết định đúng nhưng mọi sự đã không diễn ra như thế.

Khi chỉ mới ra khỏi thủ đô Budapest được 40km, đoàn tầu ngừng lại tại thị trấn Bicske gần một trại giam của Hung Gia Lợi. Trong nhiều giờ, những người tị nạn đã cố thủ trong các toa tầu không chịu xuống để lên những chiếc xe bus đợi sẵn đưa họ vào trại giam. Những tiếng la hét phản đối của người biểu tình có thể nghe rất rõ ràng. Một cuộc tuyệt thực nổ ra để phản đối trong khi hàng trăm cảnh sát Hung Gia Lợi trang bị hùng hậu bao vây đoàn tầu chờ lệnh từ trên đưa xuống. Không ai biết tình trạng giằng co này sẽ kéo dài trong bao lâu.

Tin tức về chuyến tầu “lừa” đã khiến cho những người còn lại tại nhà ga trung ương Keleti ở thủ đô Budapest quyết định hành động. Họ xuống đường lang thang lếch thếch đi bộ về hướng biên giới Áo cách đó hơn 150 km.

Đoàn đi bộ khổng lồ chiếm hết một nửa lằn xe trên xa lộ Áo Hung.

Những người đi bộ nói: Chúng tôi muốn bầy tỏ sự phản đối của chúng tôi.

Nhiều người dân địa phương cảm phục lòng can đảm của những người tị nạn đã ủng hộ họ bằng những chai nước và thực phẩm.

Đến tối, điều bất ngờ đã xuất hiện, những chiếc xe bus đã được điều động đến để đưa người tị nạn đến biên giới.

Một phụ nữ tị nạn nói: Đến được tới đây tôi quên hết mệt nhọc.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
GX. Vĩnh Hòa – GP Sài Gòn: Khai giảng năm học giáo lý 2015-2016
Văn Minh
08:51 07/09/2015
GX. Vĩnh Hòa – GP Sài Gòn: Khai giảng năm học giáo lý 2015-2016

Vào lúc 7g00 Chúa Nhật 06.09.2015, tại giáo xứ Vĩnh Hòa, giáo hạt Phú Thọ, 353 em thiếu nhi trong các lớp giáo lý cùng cha xứ Gioakim Lê Hậu Hán, chánh xứ giáo xứ Vĩnh Hòa, tuyên úy đoàn Thiếu nhi Thánh Thể, đã long trọng khai mạc năm học giáo lý 2015-2016 với chủ đề: “Ephata - Hãy mở ra” cùng nghi thức tuyên hứa cho các anh chị huynh trưởng.

Xem Hình

Nghi thức khai giảng

Mở đầu là nghi thức chào cờ, bài hát “Thiếu nhi Tân hành ca” được ca đoàn Thiếu nhi cất vang lên một cách sốt sắng. Tiếp theo, anh Batôlêmêô Đỗ Xuân Phương, đoàn trưởng, thay mặt lên giới thiệu cho cha xứ và cộng đoàn về các lớp giáo lý và danh sách các anh chị huynh trưởng trong giáo xứ. Trong đó, có 30 em lớp Chiên Con, 185 em ngành Ấu, 113 em ngành Thiếu, 25 em ngành Nghĩa sĩ. Đáp từ, cha Gioakim vấn đáp các em thiếu nhi chủ đề của năm học giáo lý “Ephata nghĩa là gì?” Các em đồng thanh đáp: “Hãy mở ra”. Ngài chúc cho các em một năm học giáo lý đạt được kết quả tốt đẹp như lòng Chúa ước mong. Sau đó, ngài đánh chầm chậm một hồi trống vang lên như thúc giục các em bước vào năm học mới.

Thánh lễ khai giảng

Đúng 7g15, Thánh lễ khai giảng năm học giáo lý do cha xứ Gioakim chủ sự. Tham dự Thánh lễ ngoài các em thiếu nhi còn có đông đảo quý vị phụ huynh và cộng đoàn giáo xứ.

Trong phần giảng lễ, cha Gioakim dựa bài Tin Mừng (Mc 7,31-37) chia sẻ. Ngài hỏi các em, trong bài Tin Mừng hôm nay người ta đem một người câm điếc đến cùng Chúa Giêsu, xin Người đặt tay trên kẻ ấy và người ấy được chữa lành là nhờ ai? Các em thưa: “Nhờ đức tin của họ tin vào quyền năng của Chúa Giêsu”. Đó cũng chính là Lời Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, luôn biết trông cậy và tin tưởng vào quyền năng của Ngài trong mọi hoàn cảnh. Mỗi khi các con được cha mẹ đưa đi đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, học hỏi giáo lý để hiểu biết về Chúa Giêsu, và khi các con rước Mình Thánh Chúa vào người là chúng ta đã đặt trọn niềm tin Ngài.

Vì vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy rằng Ðức Giêsu không dửng dưng trước những đau khổ của loài người. Chúa thường làm phép lạ để cứu chữa loài người khỏi những đau khổ, bệnh tật. Xin cho mỗi người chúng con đi theo Chúa vì thực sự tin Chúa, xin cho đức tin của chúng con luôn được vững mạnh, nhất là trong những lúc đau khổ, gian nan trong cuộc đời.

Sau bài giảng, cha chủ tế chủ sự nghi thức tuyên hứa cho các anh chị huynh trưởng ngay trên cung thánh. Đồng thời, ngài làm phép và trao khăn cho các anh chị huynh trường và các em thiếu nhi.

- Khăn quàng màu xanh lá non (ngành Ấu): màu của mầm non chớm nở, các em cần được giáo dục, sống tinh thần Ấu nhi của Chúa Giêsu, biết vâng lời bề trên, ngoan hiền và đơn sơ.

- Khăn màu xanh nước biển (ngành Thiếu): màu của hy sinh chịu đựng, khất phục gian khó một cách anh hùng, bất khuất, nhắc cho các em vượt qua khó khăn trong cuộc sống để tiến theo Chúa Kitô.

- Khăn màu vàng (ngành Nghĩa Sĩ): màu này tượng trưng cho sự khuất phục trong niềm tin yêu chói ngời, chinh phục tính xấu của mình, rèn thành chiến sỹ của Chúa Kitô, chinh phục các linh hồn và đưa về với Chúa.

Thánh lễ

Trước khi ban phép lành cuối lễ, cha Gioakim chúc mừng các em nhân ngày khai giảng bằng một tràng pháo tay giòn giã của cộng đoàn, và ngài cũng chúc các anh chị huynh trưởng đem hết kiến thức hiểu biết của mình truyền dạy cho các em, và không ngừng học hỏi Lời Chúa để mở rộng vốn hiểu biết, nâng cao năng lực và luôn nhiệt tình sinh lợi nén bạc mà Chúa đã trao phó. Chúc cho các em thiếu nhi trong giáo xứ luôn siêng năng học tập, trau dồi hiểu biết Lời Chúa và hăng hái đem ra thực hành để luôn sống xứng đáng là con cái của Chúa Giêsu.

Thánh lễ khép lại lúc 8g15, sau đó cha xứ cùng các em thiếu nhi và các anh chị huynh trưởng chụp chung tấm hình kỷ niệm.
 
Thiếu Nhi Thánh Thể Sydney Tổ Chức Dạ Tiệc Nhớ Ơn Cha
Diệp Hải Dung
09:03 07/09/2015
Thiếu Nhi Thánh Thể Sydney Tổ Chức Dạ Tiệc Nhớ Ơn Cha

Tối Chúa Nhật 6/09/2015 nhân ngày Nhớ Ơn Cha (Father’s Day) Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình Sydney đã tổ chức Đêm Dạ Tiệc chủ đề “Tình Cha,” tại nhà hàng Crystal Palace Canley Heights Sydney. Mục đích gây quỹ Bác Ái Liên Đoàn, Giúp các Huynh Trưởng tham dự Sa Mạc Nắng Hồng 14 tại tiểu bang Melbourne 2016 và tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới (WYD2016) tại Ba Lan.

Xem Hình

Trước khi khai mạc đêm Dạ Tiệc, cha FX. Nguyễn Văn Tuyết Tuyên úy Đặc Trách Liên Đoàn TNTT Nữ Vương Hòa Bình TGP Sydney lên ngỏ lời chào quý Quan Khách và tất cả mọi người. Cha nêu lên ý nghĩa tổ chức đêm Dạ Tiệc hôm nay và Cha chúc buổi dạ tiệc được mọi sự tốt đẹp.

Chương trình Văn Nghệ bắt đầu với những tiết mục rất ý nghĩa, vui tươi và ngoạn mục. Với màn trình diễn chính là vỡ kịch “Tình Cha” do các em Thiếu nhi và Huynh Trưởng của các Xứ Đoàn Thánh Mẫu La Vang Cabramatta, XĐ Thánh Simon Phan Đắc Hòa Bansktown, XĐ KiTô Vua Lakemba, XĐ Thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh Granville, XĐ Hiển Linh Marrickville, XĐ Đức Mẹ Fatima Miller, XĐ Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ Mt. Pritchard và XĐ Thánh Giuse Trần Văn Tuấn Plumpton thuộc Liên Đoàn cùng phối hợp trình diễn. Lồng trong phần văn nghệ có phần xổ số và Lotto rất vui nhộn. Trước khi kết thúc buổi dạ tiệc, thay mặt Ban Tổ Chức và Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình TGP Sydney, Chị Ngô Thụy Thúy Hằng, Liên Đoàn Trưởng, ngỏ lời cám ơn quý Cha, quý Sơ, quý Quan Khách, quý ân và tất cả mọi người đã đến tham dự đêm Dạ Tiệc, và cầu chúc tất cả mọi người được an lành trong ơn phúc Chúa Giêsu Vị Anh Cả Tối Cao của Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể.

Được biết các em đang tổ chức nhiều cuộc gây quỹ để có thể giúp các Huynh trưởng có thể tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới (World Youth Day) tại Ba lan vào năm 2016.

Diệp Hải Dung.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Các đại biểu tôn giáo đóng góp vào Dự thảo 5 Luật Tín Ngưỡng Tôn Giáo
Triết Giang
08:08 07/09/2015
Các đại biểu tôn giáo đóng góp vào Dự thảo 5 Luật TNTG

Chiều 4-9-2015, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN đã tổ chức hội nghị tiếp xúc với đại biểu 23 tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội và các tỉnh lân cận cùng một số GS, TS nghiên cứu về tôn giáo để nghe phản ánh tâm tư của đồng bào các tôn giáo và đóng góp ý kiển cho bản dự thảo lần 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (Dự thảo). Tham dự còn có đại diện một số Bộ, Ban ở Trung ương. Phía Công Giáo, có 4 linh mục ở Hà Nội, Hải Phòng, Bùi Chu, Hưng Hóa. Ông Nguyễn Thiện Nhân- Ủy viên BCT, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN chủ trì hội nghị. Sau lời khai mạc của Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân, ông Lê Bá Trình, Phó Chủ tịch đã tóm tắt các ý kiến đóng góp của đại biểu 32 tôn giáo ở thành phố Hồ Chí Minh để các đại biểu khỏi trùng lặp khi góp ý.

Trong phần phản ánh tâm tư nguyện vọng, một số đại biểu Phật giáo đề nghị Nhà nước có biện pháp ngăn chặn nạn sư giả hay gắn biển “chùa linh thiêng nhất Việt Nam” tùy tiện. Chú ý đào tạo cán bộ quản lý công tác tôn giáo ở cơ sở. Linh mục Dương Phú Oanh cho rằng cần để các tôn giáo tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực xã hội hóa của giáo dục, y tế. Cần thực hiện bình đẳng giữa tín đồ các tôn giáo và tạo điều kiện cho tín đồ tôn giáo ở vùng sâu xa được thực hiện quyền tư do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Về phần góp ý cho Dự thảo, nhìn chung các đại biểu đều cho rằng Dự thảo có nhiều điểm khắc phục được khiếm khuyết của Dự thảo lần 4. Dự thảo đã nêu nhiều điểm mới như các người bị giam giữ cũng có quyền đọc sách tôn giáo (điều 4, khoản 3) hay các tôn giáo có quyền tham gia vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo (điều 47, 48)…Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến bổ sung. Hòa thượng Thích Tất Đạt- Trưởng ban Pháp chế Giáo Hội Phật giáo cho rằng tín ngưỡng lâu nay vẫn thuộc Bộ Văn hóa Thông tin, nay đưa gộp chung với tôn giáo thì cơ quan nào quản lý? Luật này nên đổi tên là luật quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo. Trong Dự thảo tách bạch việc làm lễ và giảng lễ nhưng đây là hai việc không thể tách rời. Nhà sư nào đến làm lễ chẳng giảng đạo. Giáo Hội cũng là một cơ cấu hành chính nay họp mai hành xin phép làm sao cho kịp. Rồi người ta chết đến xin làm lễ, nhà sư có biết đâu mà xin phép, đăng ký? Việc lập trường đào tạo là bắt buộc với Giáo Hội. Bây giờ Ban trị sự tỉnh nào chẳng có trường, nếu theo Dự thảo chỉ có cấp Trung ương mới có quyền đề nghị thành lập trường thì quá phiền phức. Rồi khi phong chức, phong phẩm phải đăng ký. Nhà nước đã công nhận Giáo Hội và hiến chương của Giáo Hội nay phong chức cũng là theo hiến chương lại phải đăng ký mà nếu chính quyền không công nhận thì giải quyết ra sao khi đương sự đã thành sự về mặt Giáo Hội? TS Phạm Huy Thông (Hà Nội) phát biểu là một số khái niệm trong Dự thảo không chính xác. Ví dụ định nghĩa khoản 1 điều 2: “tín đồ tôn giáo là người tin, theo tôn giáo”. Tin ở trong đầu lấy gì kiểm chứng? Phải viết lại : tín đồ tôn giáo là người đã gia nhập tôn giáo qua nghi lễ nhập đạo. Ví dụ Công Giáo là Rửa tội, Tin lành là Baptem, Phật giáo là Quy y tam bảo. Khoản 2 điều 3 viết rằng người tín đồ có quyền thể hiện niềm tin nơi gia đình và cơ sở thờ tự là chưa đủ. Nhiều tín đồ các tôn giáo trước bữa ăn có cầu nguyện, làm dấu ở nhà hàng, quán ăn hay người Hồi giáo quỳ cầu nguyện 5 lần/ngày bất kỳ chỗ nào thì không được sao? Có điều các hành vi nơi công cộng đó không được làm ảnh hưởng đến người khác. Điều 5 khoản 3 có viết: nghiêm cấm “xúc phạm niềm tin tín ngưỡng tôn giáo hợp pháp của người khác” là không được. Nước ta chỉ có tôn giáo được công nhận và chưa được công nhận, không có tôn giáo hợp pháp và bất hợp pháp. Khoản d, điều 20 quy định các trường tôn giáo buộc phải dạy 2 môn lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam. Nên có loại trừ vì chủng sinh Công Giáo đều có bằng cử nhân khi vào chủng viện mà 2 môn này đã học phần đại cương rồi. Bây giờ sinh viên học văn bằng 2, những môn học rồi cũng được miễn, sao chủng sinh phải học lại? Khoản 2 điều 32 quy định khi phong phẩm, phong chức có yếu tố nước ngoài thì phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan quản lý Trung ương cũng khó thực thi. Ví dụ tấn phong Hồng Y, đương sự cũng chỉ được báo trước 5 phút thì làm sao xin được sự chấp thuận? Điều 38 quy định nếu làm lễ ngoài cơ sở tôn giáo, nếu có người đến dự khác xã, huyện thì xin phép huyện, khác tỉnh thì xin phép tỉnh. Đây là điều không thể thực thi vì bây giờ giao thông thuận lợi, người nước ngoài cũng đến dự thì xin phép ai? Chẳng lẽ xin phép Liên hiệp quốc? Bản thân người tổ chức và cấp phép cũng không biết ai đến dự. Hòa thượng Thích Chiếu Tạng (Hà Nội) phản ánh, chính quyền can thiệp vào nội bộ tôn giáo hơi sâu. Chẳng hạn, một ni sư, hòa thượng viên tịch, theo Giáo Hội là được xây tháp trong đất chùa nhưng chính quyền không cho, tôi đưa nghị quyết 92 của Chính phủ ra thì ông cán bộ Nội vụ một quận của Hà Nội, giải quyết vấn đề tôn giáo bảo rằng làm gì có nghị quyết 92 …

TS Bùi Thanh Hà, Phó ban Tôn giáo Chính phủ cảm ơn sự đóng góp của các đại biểu và sẽ nghiên cứu tiếp thu. Phát biểu kết luận hội nghị, Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân cảm ơn các đại biểu và đề nghị Ban soạn thảo trước khi trình Quốc hội thông qua nên có ý kiến đóng góp bằng văn bản của các tôn giáo. Trước khi ra về, các đại biểu đã chụp ảnh kỷ niệm chung (ảnh trên).

Triết Giang
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Những cơ hội và thách đố cho lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan
Lm. Antôn Lê Ngọc Đức, SVD
13:31 07/09/2015
Những Cơ Hội và Thách Đố cho Lao Động Di Dân Việt Nam tại Thái Lan

Sơ lược tình hình lao động di dân Việt Nam ngày nay

Lao động di dân xuyên quốc gia không phải là một hiện tượng mới lạ trên thế giới. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ước lượng trên thế giới hiện nay có 175 triệu người di dân, trong đó khoảng một nửa là người lao động.[1] Trong khi đó theo ước tính của Tổ chức Di cư quốc tế (IOM) có gần 215 triệu người đang sống và làm việc ngoài đất nước của mình, chiếm khoảng 3,3% dân số toàn cầu.[2] Theo dự báo của Liên Hiệp Quốc, đến năm 2050 sẽ có khoảng 290 triệu người di cư giữa các nước.[3] Gần một nửa lao động di dân là phụ nữ và cũng có một số lượng đáng kể là trẻ em. Trong tình hình toàn cầu hóa ngày nay, xu hướng của người dân mưu sinh ở một đất nước không phải là quê hương của mình ngày càng gia tăng chứ không suy giảm. Người Việt Nam vì nhu cầu kinh tế cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Dân số Việt Nam hiện nay đã vượt mốc 90 triệu người và mỗi năm có khoảng 1,7 triệu người bước vào tuổi lao động, vì vậy nhu cầu có được công ăn việc làm ổn định rất cao.[4]

Lao động di dân Việt Nam đã hiện diện trên mọi châu lục của trái đất với số lượng ở các mức độ khác nhau. Theo Bộ Ngoại Giao Việt Nam, hiện nay có trên 500.000 người Việt Nam đang làm việc ở trên 40 quốc gia và lãnh thổ khắp thế giới. Mỗi năm có khoảng 80.000 người Việt Nam đi ra nước ngoài để làm việc.[5] Tuy nhiên, nếu tính những trường hợp lao động bất hợp pháp (làm việc với visa du lịch hoặc du học) thì chắc hẳn số lượng thực tế lao động di dân Việt Nam tại nước ngoài phải nhiều hơn con số đã thống kê. Mặc dầu các nước phát triển như Hoa Kỳ, Úc, Anh Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. đều là những mục tiêu quan trọng cho những ai mong muốn xây dựng một tương lai kinh tế tươi sáng cho bản thân và gia đình, nhưng điều kiện để đặt chân tới những nơi này hoàn toàn không dễ dàng, nên đa số phải chấp nhận đến những quốc gia kém pháp triển hơn như Malaysia, Lào, và Thái Lan ở Châu Á, hoặc Libya và Angola ở Châu Phi. Lao động di dân nói chung và lao động di dân Việt Nam cách riêng, không chỉ góp phần phát triển kinh tế của quốc gia nơi họ làm việc mà còn giúp cho kinh tế của quê hương mình. Theo Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD), trong năm 2014, những lao động di cư tại riêng châu Âu đã gửi 109,4 tỷ USD về quê nhà, giúp hỗ trợ khoảng 150 triệu người trên toàn cầu.[6] Riêng Việt Nam thì tiền từ người Việt lao động ở nước ngoài năm 2014 cũng đã đạt được 2,5 tỉ USD,[7] góp phần không ít cho sự nghiệp phát triển kinh tế nước nhà.

Theo một báo cáo của Cục Lãnh Sự - Bộ Ngoại Giáo (2011) thì việc xuất khẩu lao động có bốn hình thức: qua doanh nghiệp dịch vụ hoặc tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; qua doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, đầu tư ra nước ngoài; qua doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức thực tập sinh nâng cao tay nghề; và đi làm việc theo hợp đồng cá nhân.[8] Nhận thấy trong bốn hình thức nói trên không đề cập đến một thực trạng rất phổ biến đó là người Việt Nam đi lao động “chui” ở các quốc gia khác nhau. Đây là trường hợp người lao động Việt Nam tại nước ngoài đi đến quốc gia bạn dưới hình thức đi du lịch hoặc du học, nhưng lại tìm việc làm dài hạn một cách bất hợp pháp. Đó là điều thường xuyên xảy ra tại các nước như Hàn Quốc, Úc hoặc các nước gần Việt Nam như Singapore, Lào và Thái Lan. Đặc biệt đối với lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan thì hầu hết là bất hợp pháp vì họ qua Thái Lan dưới hình thức du lịch, nhưng trên thực tế là để kiếm việc làm và ở nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Vì khoảng cách giữa Việt Nam và Thái Lan không xa, đồng thời hai quốc gia đều là thành viên của khối ASEAN được hưởng chế độ miễn thị thực 30 ngày nên việc đi lại giữa hai nước tương đối đơn giản. Mỗi ngày những chiếc xe đò từ Lào đến Thái Lan đưa hàng trăm người Việt Nam qua các cửa khẩu quốc tế vào đất nước Thái – tất cả đều khai là đi du lịch. Mặc dầu không có con số chính thức về lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan, nhưng chính quyền Thái Lan ước tính có khoảng 50.000 người Việt đang sinh sống và lao động một cách bất hợp pháp trên đất nước Thái.[9]

Những yếu tố khiến lao động di dân Việt Nam đến Thái Lan

Việc người Việt Nam tham gia vào xu hướng đi tìm việc làm ở các quốc gia khác nhau trên thế giới nói chung và tại Thái Lan nói riêng liên quan đến nhiều yếu tố bắt nguồn từ chính trong nước. Như đã nói trên, trong khi mỗi năm có gần hai triệu người bước vào tuổi lao động thì chương trình giải quyết việc làm của Nhà nước vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu của người dân. Trong đó có khoảng 75% lao động Việt Nam là người sống ở nông thôn với tay nghề và trình độ học vấn thấp. Vì thế, chính quyền Việt Nam khẳng định việc đưa người đi nước ngoài để làm việc là một “chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập, mở cửa, phù hợp với xu hướng di cư quốc tế hiện nay, góp phần phát triển quan hệ mọi mặt với các nước trên thế giới, trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, vì lợi ích quốc gia, dân tộc” (CLS – BNG 2011). Nền kinh tế của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập và mức tăng trưởng kinh tế những năm gần đây không được như mong muốn cho nên xuất khẩu lao động trở thành một vấn đề quan trọng. Ba năm vừa qua, mức tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ đạt 5,2 (2012), 5,43 (2013) và 6,0 (2014). Mặc dầu dự đoán cho năm 2015 và 2016 là mức tăng trưởng kinh tế sẽ đạt 6,1 và 6,2, nhưng Việt Nam cũng chỉ đạt được mức thu nhập trung bình thấp. Ngoài ra, chỉ số thất nghiệp 2,44% trong quý hai năm 2015 mà Nhà nước đưa ra không thực sự phản ảnh thực trạng tình hình lao động tại Việt Nam. Theo ông Nguyễn Bá Ngọc tại Viện Khoa Học Lao Động, theo cách thu thập dữ liệu hiện nay, cho dù một người chỉ làm việc một giờ đồng hồ trước khi được khảo sát cũng được liệt kê vào thành phần có công ăn việc làm.[10] Trên thực tế thì số người không có hoặc thiếu việc làm tại Việt Nam cao hơn nhiều so với thống kê chính thức của Nhà nước.

Xuất khẩu lao động là chính sách được triển khai trên toàn quốc. Tuy nhiên, lao động di dân qua Thái Lan chỉ tìm thấy ở một số tỉnh. Ở miền bắc, những tỉnh có người qua Thái Lan làm việc bao gồm Phú Thọ và Hòa Bình. Người miền trung từ các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa và Quảng Bình chiếm đa số lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan. Những huyện trong tỉnh Hà Tĩnh có số lượng lớn người đi làm việc tại Thái Lan bao gồm Can Lộc (3.000), Thạch Hà (2.500), và Cẩm Xuyên (1.000).[11] Mặc dầu người miền trung chiếm đa số lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan, nhưng cũng có một số lượng nhỏ người miền Nam đến Thái Lan làm việc qua đường Campuchia.

Ngoài những yếu tố trong nước thì không thể không đề cập đến những yếu tố liên quan đến quốc gia tiếp nhận lao động di dân Việt Nam. Thái Lan là một trong những quốc gia có nền kinh tế mạnh nhất trong khối ASEAN với tổng số GDP năm 2013 là 387,25 tỉ USD và 2014 là 373,8 tỉ USD.[12] Theo Quỹ tiền tệ quốc tế, Thái Lan đứng thứ hai trong khối ASEAN xét về chỉ số GDP trong khi Việt Nam xếp hạng thứ 6. Nếu xét về GDP bình quân đầu người thì Thái Lan xếp hạng thứ tư, sau Singapore, Brunei và Malaysia trong khi Việt Nam đứng thứ 7 trong khối ASEAN.[13] Các chuyên gia nhận định rằng mức thu nhập của Việt Nam đi sau Thái Lan đến 20 năm.[14] Mặc dầu nền kinh tế của Thái Lan phát triển hơn nhiều so với Việt Nam, nhưng Thái Lan đang đối đầu với thực trạng thiếu lao động đặc biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi tay nghề thấp. Theo nhà nghiên cứu Watcharee Srikham (2014), do người dân Thái Lan ngày càng có thu nhập cao, cộng với sự thăng tiến trong học vấn và khả năng làm việc trong các lĩnh vực đòi hỏi kỹ năng cao, số lao động trình độ kỹ năng thấp đã giảm thiểu.[15] Việc tìm lao động bản xứ cho những công việc có mức lương thấp, công việc không ổn định, làm việc trong môi trường thiếu vệ sinh, nguy hiểm, làm việc nặng… ngày càng trở nên khó khăn hơn. Việc thiếu lao động bản xứ ngày càng trở nên nghiêm trọng đặc biệt trong bối cảnh xã hội Thái Lan đang già hóa. So với các nước láng giềng, Thái Lan có tỉ số giới trẻ (15-24 tuổi) thấp nhất, chỉ chiếm 15,1% trong khi ở Việt Nam là 18.4%, Miến Điện (18.6%), Campuchia (21.2%) và CHND Lào (21.3%).[16]

Ngoài những lý do trên còn có những yếu tố khác thu hút lao động Việt Nam đến Thái Lan. So với việc phải đăng ký xuất khẩu lao động qua các công ty môi giới để đi làm việc ở các quốc gia như Úc, Hàn Quốc, Nhật…thì việc đi Thái Lan nhanh chóng và ít tốn kém hơn rất nhiều. Mặc dầu thu nhập ở các nước nói trên là khá cao, song không phải ai cũng có khả năng đầu tư 100 triệu (Hàn Quốc) hoặc 200 triệu (Nhật) để chi trả cho các công ty môi giới. Ngoài ra nếu quốc gia tiếp nhận xuất khẩu lao động đòi hỏi người có tay nghề cao thì những lao động thiếu kỹ năng sẽ khó có cơ hội để đặt chân đến đó. Tuy nhiên một số quốc gia như Malaysia sẵn sàng tiếp nhận lao động kỹ năng thấp cũng phải qua công ty môi giới. Đối với việc đi Thái Lan thì mọi thứ trở nên đơn giản hơn. 10-15 năm trước đây khi làn sóng sang Thái Lan làm việc chưa phổ biến thì việc phải nhờ người “đưa quân” dẫn đi xảy ra tương đối nhiều. Tuy nhiên, những năm trở lại đây thì ít có người phải dùng dịch vụ người đưa quân mà chỉ đi với người nhà hoặc người thân quen. Một số ít cần đến dịch vụ nói trên thì cũng chỉ mất vài triệu đồng để trang trải cho chi phí của chuyến đi cũng như công sức của người hướng dẫn. Hiện nay mỗi ngày đều có những chuyến xe đò xuất phát từ các tỉnh thành ở Việt Nam sang Campuchia hoặc Lào rồi đến Thái Lan. Chất lượng đường xá ở các nước trong khu vực cũng ngày được cải tiến nên việc đi lại nhanh chóng và thuận tiện hơn trước đây rất nhiều. Vì thế mới có chuyện một người có thể ăn sáng ở Việt Nam, sau đó ăn trưa ở Lào, và cuối cùng ăn tối trên đất Thái Lan. Dĩ nhiên khi nói đến việc qua Thái Lan thì cũng không thể bỏ qua vấn đề trở về quê. Lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan rất dễ dàng để về thăm gia đình vào các dịp lễ quan trọng như Tết, đám cưới, đám giỗ, hoặc các ngày lễ tôn giáo khác như Giáng Sinh và chầu lượt của giáo xứ. Ngoài ra, khi xảy ra những vấn đề trong gia đình đòi hỏi sự hiện diện của họ để giúp giải quyết thì việc về nhà từ Bangkok đối với đa số công nhân Việt Nam cũng chỉ mất chưa tới 24 giờ đồng hồ.

Bên cạnh khoảng cách gần và phương tiện đi lại giữa Việt Nam và Thái Lan ngày càng trở nên thuận tiện thì một yếu tố quan trọng khác nữa là chế độ miễn thị thực cho công dân của các nước thành viên khối ASEAN khi họ đi du lịch trong khu vực. Đối với người Việt Nam vào Thái Lan thì họ có thể lưu lại trên đất Thái với thời hạn không quá 30 ngày mà không cần phải xin thị thực. Sau đó họ phải ra khỏi Vương quốc Thái. Tuy nhiên, đối với đa số các lao động di dân Việt Nam thì họ giải quyết vấn đề bằng cách xử dụng các dịch vụ đưa người đi đóng hộ chiếu, xuất cảnh rồi lại nhập cảnh trong cùng một ngày. Như thế họ vẫn được tiếp tục ở lại Thái Lan thêm 30 ngày nữa cho đến lần đi gia hạn hộ chiếu tiếp theo. Một số nhỏ không muốn phải mất thời giờ với chuyến đi hàng tháng này quyết định để cho hộ chiếu hết hạn và trở nên người không chỉ làm việc mà còn lưu trú bất hợp pháp tại Vương quốc Thái.

Mức thu nhập tại Thái Lan là yếu tố tiếp theo thu hút lao động di dân Việt Nam đến đất nước này. So với mức thu nhập tại Việt Nam đối với những công việc cần kỹ năng thấp như bán dạo, phục vụ ở nhà hàng, quán bar, may mặc…thì thu nhập tại Thái Lan có thể gấp đôi hoặc gấp ba so với quê nhà. Với một công việc ổn định, một lao động di dân có thể dành dụm được từ 10.000 baht – 20.000 baht mỗi tháng (6,5 triệu – 13 triệu đồng) để gởi về Việt Nam phụ giúp cho kinh tế gia đình. Đây là một số tiền không nhỏ đối với những gia đình thuộc vùng nông thôn, đặc biệt là khi so sánh với mức lương trung bình mà một người mới tốt nghiệp bằng cử nhân tại Việt Nam nhận được là 2,7 triệu/tháng.[17]

Tóm lại, những yếu tố khiến cho người Việt Nam sang Thái Lan để làm việc bao gồm những điều diễn ra cả trên đất nước xuất phát cũng như đất nước tiếp nhận lao động di dân. Mặc dầu lao động Việt Nam tại Thái Lan đang trong tình trạng bất hợp pháp, đồng thời kế hoạch hợp tác lao động giữa Việt Nam và Thái Lan vẫn đang còn trong quá trình đàm phán, ký kết và chuẩn bị triển khai, nhưng thực trạng cho thấy Thái Lan vẫn là một điểm đến hấp dẫn cho nhiều lao động di dân Việt Nam trong thời điểm này cũng như trong tương lai.

Chân dung lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan

Lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan có những đặc điểm chung sau đây. Thứ nhất, hầu hết đến từ các tỉnh miền bắc và miền trung, trong đó Hà Tĩnh và Nghệ An chiếm phần đa số. Ngoại trừ một số trường hợp, hầu hết xuất thân từ những gia đình nông thôn. Tuy nhiên với vùng đất hẹp hòi ở khu vực miền trung cộng thêm khí hậu khắc nghiệt nên việc mưu sinh trên mảnh đất quê hương không dễ dàng đối với họ. Nếu không đi nước ngoài làm việc thì nhiều người dân miền trung cũng phải tìm đến những thành phố lớn của Việt Nam để kiếm sống. Vì thế vào những thời điểm bình thường trong năm, ở các làng quê người ta chủ yếu thấy người lớn và trẻ em ở tuổi đi học, còn thanh niên thì phần lớn đã rời quê để sinh sống. Chỉ vào các dịp như Tết truyền thống thì mới thấy sự hiện diện đầy đủ của các thành phần trong gia đình và cộng đồng. Nhiều thanh niên đi làm ăn ở các thành phố hoặc đi ra nước ngoài, trong đó có Thái Lan. Vì thế mà đa số những lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan nằm ở lứa tuổi từ 16 đến 35 cả nam lẫn nữ, tuy nhiên cũng có một số ít ở lứa tuổi trung niên.

Như đã đề cập phía trên, tại Thái Lan đang thu hút lao động có kỹ năng thấp. Vì thế những lao động di dân Việt Nam đến Thái Lan chủ yếu nằm trong thành phần làm việc bằng tay chân như may mặc, trông bãi xe, hoặc phục vụ nhà hàng quán ăn… Những công việc này không yêu cầu phải có học vấn cao, và đó cũng là tình trạng của đa số những người công nhân Việt Nam trên đất Thái. Chỉ có một số ít đã hoàn tất chương trình phổ thông cấp 3. Người có bằng trung cấp, cao đẳng hoặc đại học mặc dầu cũng có nhưng rất ít gặp thấy. Tuy nhiên, cũng có vài trường hợp đã tốt nghiệp đại học tại Việt Nam nhưng đành quyết định sang Thái Lan để làm những công việc chân tay vì thu nhập cao hơn ở quê nhà. Ngoài ra cũng có một số bạn trẻ Việt Nam có bằng đại học vì đã tốt nghiệp bằng cử nhân tại Thái Lan và đã tìm cho mình những công việc phù hợp trong những công ty Thái.

Tính chất của một số công việc mà các lao động di dân Việt Nam làm tại Thái Lan lệ thuộc phần nào về tuổi tác và giới tính. Những công việc như xây dựng (cọ xang), trông bãi xe (rắp rốt), tẩm quất trong phòng vệ sinh nam (nuad hong nám) chỉ dành cho lao động nam. Các công việc giúp việc nhà (mae ban), chăm sóc người già trẻ con trong gia đình chủ thuê, bán hoa hồng dạo…thường dành cho lao động nữ. Ngoài ra những công việc như may quần áo (yep pha), bán dạo (kem, trái cây, nước giải khát), mở quầy hàng (áo quần, thức ăn, hoa quả…), bán hàng trong các cửa tiệm bán lẻ… thì cả lao động nam và nữ đều tham gia. Cả nam và nữ cũng phục vụ trong các nhà hàng, quán ăn, quán rượu… Tuy nhiên lao động nữ với khuôn mặt dễ nhìn và nói tiếng Thái giỏi thì dễ tìm việc làm ở những tụ điểm này hơn là lao động nam.

Với sự nỗ lực của một số công nhân Việt Nam tại Thái Lan, họ đã chuyển qua không chỉ làm thuê cho người Thái mà tự kinh doanh cho riêng mình. Có không ít người đã mở được những xưởng may và tự thuê công nhân người Việt để làm trong xưởng. Một xưởng may của người Việt Nam đơn thuần là một căn nhà phố được thuê lại để làm nơi đặt những chiếc máy may và cũng là nơi ăn ở cho những công nhân. Chủ xưởng nhận hàng từ nguồn cung cấp những mẫu áo quần đã được cắt sẵn về cho công nhân may và chia lợi nhuận theo số lượng sản phẩm làm ra. Một xưởng may có thể có vài công nhân đến vài chục công nhân. Ngoài mở xưởng may, một số người cũng đã đầu tư vào nhà hàng hoặc quán ăn nhỏ, thường đứng tên người Thái. Một dịch vụ bán thức ăn mà không cần có mặt bằng quán đã được nhiều lao động Việt Nam thực hiện khá thành công trong thời gian qua. Đó là dịch vụ bán thịt nướng (mu katha) giao tận nhà. Ở đây khách hàng có nhu cầu đặt thức ăn (bao gồm các loại thịt hoặc đồ biển, các loại rau, nước chấm, chảo và lò than) có thể liên lạc đến số điện thoại của dịch vụ. Sau khi nhận được đơn đặt hàng, dịch vụ sẽ có người giao tận nhà và ngày hôm sau sẽ trở lại để lấy lò và chảo. Hiện nay có thể tìm được dịch vụ này khắp thành phố Bangkok cũng như ở các tỉnh lân cận. Một người trong nghề cho hay dịch vụ nói trên hiện nay trải rộng khắp thành phố thủ đô và các tỉnh khác trong vùng đến nổi rất khó cho một người có thể tìm địa bạn để mở dịch vụ mới.

Để những người Việt Nam có công ăn việc làm ổn định trên đất Thái không phải dễ dàng, đặc biệt trong tình trạng bất hợp pháp mà họ đang đối diện trong cuộc sống. Mặc dầu là những người trẻ với học vấn không cao, nhưng lao động Việt Nam tại Thái Lan có sự cần cù và kiên nhẫn trong công việc. Sự thông minh và nhanh nhẹn của họ cũng là một điều mà nhiều chủ thuê nhận xét là ưu điểm của lao động di dân từ Việt Nam so với những lao động đến từ các nước khác. Chính vì thế mà nhiều người đã xây dựng được một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân cũng như đóng góp đáng kể vào kinh tế của gia đình ở quê nhà.

Những thách đố cho lao động di dân Việt Nam trên đất Thái Lan

Khác với lao động di dân từ các nước như Lào, Campuchia và Miến Điện, lao động Việt Nam tại Thái Lan cho đến thời điểm này chưa thể xin giấy phép làm việc cách hợp pháp cho dù ngày 23 tháng 7, 2015 vừa qua đã diễn ra việc ký kết bản ghi nhớ về việc hợp tác lao động Việt Nam – Thái Lan (Memorandum of Understanding) trọng dịp Họp Nội Các chung Việt Nam – Thái Lan lần thứ 3. Theo thông tin từ Đại sứ quán Việt Nam tại Thái Lan ngày 24.8.2015, vì những điều kiện để đăng ký lao động mà bên phía Thái Lan đưa ra quá hạn chế gây bất lợi cho đa số lao động Việt Nam tại Thái Lan, nên phía Việt Nam đã yêu cầu chính quyền Thái Lan điều chỉnh để tạo điều kiện cho thêm nhiều người được đăng ký. Vì thế, Bộ trưởng Lao động Thái Lan Surasak Kanchanarat đã thông báo không tổ chức đăng ký lao động từ ngày 1.9.2015 như dự kiến và sẽ cân nhắc những đề xuất mà phía Việt Nam nêu.[18]

Việc chưa thể đăng ký lao động cách hợp pháp là một nỗi băn khoăn lớn cho những người đang làm việc bất hợp pháp trên đất Thái. Tình trạng bất hợp pháp đồng nghĩa với việc người lao động Việt Nam có thể bị bắt bất cứ lúc nào khi đang làm việc. Mặc dầu những cá nhân hoặc đơn vị cảnh sát khu vực đã được đút lót (clear/เคลียร์) trực tiếp bởi các lao động Việt Nam (trong trường hợp làm việc tự do như bán dạo) hoặc qua chủ thuê (chao nai), nhưng điều này không hoàn toàn bảo đảm là sẽ không bị bắt. Nếu đã bao cảnh sát khu vực, mà bị cảnh sát thành phố hay cảnh sát di trú đến kiểm tra thì cũng không thể thoát nổi. Việc bị bắt bớ đi đôi với việc phải tốn tiền để đút lót cho cảnh sát ngay tại chỗ hay tại đồn công an để được thả ra như không có chuyện gì xảy ra. Một điều đáng ghi nhận là không ít trường hợp lao động Việt Nam bị bắt ngay tại chỗ làm việc, thậm chí ở tại phòng trọ (trong trường hợp hộ chiếu đã hết hạn) là do chính người Việt tiết lộ thông tin cho cảnh sát. Dĩ nhiên họ làm điều này vì ích lợi cá nhân vì có những cảnh sát đi bắt người Việt không phải vì lý do trật tự xã hội mà vì đây là phương tiện lấy tiền dễ dàng. Theo lời kể của một số công nhân Việt Nam thì có những người cảnh sát từng thương thảo với người Việt để làm tay trong chỉ chỗ bắt người rồi sau đó chung chia lợi nhuận.

Trong trường hợp người bị bắt đã bị chuyển về sở di trú và đã bị lập biên bản thì phải mất tiền bảo lãnh để được tại ngoại trong khi chờ ra tòa.[19] Do người Việt không thể đứng tên bảo lãnh người bị bắt nên phải nhờ đến người Thái. Điều này có nghĩa phải mất tiền để chi cho người đứng ra làm công việc này. Tại một thành phố du lịch có đông đảo người Việt đang sinh sống, công nhân Việt Nam kể rằng có một người Thái chuyên đứng ra bảo lãnh những người Việt bị bắt. Tuy nhiên chính họ lại thường xuyên đứng đàng sau những vụ bắt bớ đó. Sau khi đã bị bắt và ra tòa, một số bị phạt hành chính rồi thả ra. Có người bị trục xuất về Việt Nam và bị cấm không cho vào Thái Lan trong vòng 3 năm. Có người bị trục xuất nhưng lại không bị cấm trở lại. Cũng không hiểu hết được tại sao có những khác biệt trong quyết định của tòa án đối với các trường hợp lao động Việt Nam bị bắt và ra tòa, nhưng một điều là một khi đã bị bắt thì sẽ bị tốn kém không ít.

Tình trạng bất hợp pháp của lao động Việt Nam tại Thái Lan cũng có nghĩa là người Việt không được hưởng bất cứ quyền lợi gì trước pháp luật Thái. Vì thế đã có không ít trường hợp lao động Việt Nam bị bốc lột hoặc bị ép làm việc nhiều giờ với mức lương không thỏa đáng. Có nhiều trường hợp bị chủ thuê quỵt tiền lương hoàn toàn. Khi bị đối xử bất công, lao động Việt Nam không thể kiện cáo để đòi sự công bằng cho bản thân. Khi bệnh hoạn, lao động Việt Nam không được hưởng những chế độ hỗ trợ từ chính phủ Thái như lao động từ các nước khác khi đi điều trị ở bệnh viện. Đối với lao động từ các nước như Lào và Miến Điện được đăng ký hợp pháp, mỗi người được cấp một thẻ bảo hiểm sức khỏe để được điều trị tại bệnh viện chính phủ với những quyền lợi tương đương với công dân Thái. Tuy nhiên đối với công nhân Việt Nam thì mỗi khi lâm bệnh hoặc gặp tai nạn và đi điều trị tại bệnh viện thì phải tự túc hoàn toàn. Nhiều trường hợp phí bệnh viện lên tới hàng trăm ngìn baht, gia đình bệnh nhân không đủ khả năng để chi trả phải đi vay mượn hoặc xin hỗ trợ từ cộng đồng người Việt.

Tình trạng bất hợp pháp của lao động Việt Nam tại Thái Lan cũng là một nguyên do dẫn đến sự tham nhũng trong giới chức trách Thái Lan. Ngoài việc công nhân Việt Nam phải trả tiền đút lót cho những cá nhân cảnh sát khu vực để tránh bị bắt (có thể một người hoặc nhiều người), việc đút lót còn bắt đầu ngay từ khi người Việt bước chân đến cửa khẩu Thái Lan. Thông thường, một du khách vào Thái Lan dưới chế độ miễn thị thực thì không phải tốn bất cứ một chi phí nào. Tuy nhiên, đối với người Việt Nam vào Thái Lan qua các cửa khẩu như Nong Khai, Nakhon Phanom, Muddahan thì dường như mọi người đều phải trả tiền cho cảnh sát di trú thì mới được đóng dấu cho qua. Theo luật pháp Thái Lan, khách du lịch vào Vương quốc Thái phải có trong người số tiền tương đương với 20.000 baht và có địa chỉ khách sạn mà họ sẽ ở trong thời gian lưu lại đây. Những cảnh sát di trú biết rõ hầu hết những người Việt vào Thái Lan qua các cửa khẩu trên không phải thực sự là khách du lịch nên lợi dụng điều này để tham nhũng. Vào những thời điểm mà chính quyền Thái Lan tỏ ra dễ dãi đối với người Việt thì số tiền phải trả cho nhân viên hải quan chỉ mất 300 baht/người. Tuy nhiên, vào những thời điểm chính quyền tỏ ra quyết liệt trong việc truy quét lao động bất hợp pháp thì số tiền phải trả cho cảnh sát di trú để được đóng dấu có thể lên đến hàng ngìn baht. Vào giữa năm 2014, Thái Lan có chính quyền quân đội mới lên nắm quyền. Với lực lượng lính tráng, họ đã thực hiện một chiến dịch truy quét lao động nước ngoài bất hợp pháp một cách rầm rộ. Mỗi ngày đều nghe tin có hàng chục công nhân Việt Nam bị bắt ở nhiều tỉnh thành khác nhau. Lao động Việt Nam đua nhau rời Thái Lan để trở về quê. Sau một thời gian, tình hình dần lắng xuống. Người Việt bắt đầu lần lượt trở lại Thái Lan để làm việc. Nhưng để được vào Thái Lan thì mỗi người phải trả 2.000 baht mới được đóng dấu. Tuy nhiên, mỗi ngày chỉ một số người được cho vào. Có người phải mất tới vài ngày xếp hàng ở cửa khẩu mới qua được. Việc phải đút lót cho cảnh sát di trú khi vào Thái Lan không phải là một lần duy nhất. Mỗi tháng khi các công nhân Việt Nam phải đi đóng dấu hộ chiếu thì đều mất tiền cho cán bộ di trú ở các cửa khẩu. Sự tham nhũng của cảnh sát di trú đối với công nhân Việt Nam ở các cửa khẩu có hệ thống đến nỗi khi người cầm hộ chiếu Việt Nam vào làm thủ tục thì không xếp hàng chung với người từ các nước khác mà có một hàng/phòng riêng dành cho người Việt Nam. Chắc hẳn điều này sẽ thuận tiện và riêng tư hơn cho việc thu tiền từ những lao động di dân bất hợp pháp giả dạng làm du khách.

Thiết nghĩ cho đến khi nào việc ký kết hợp tác lao động Thái Lan – Việt Nam được triển khai thì quyền lợi của công nhân Việt Nam trên đất Thái mới được bảo vệ và tình trạng tham nhũng trong giới chức trách cũng sẽ thuyên giảm. Trên thực tế, việc không để cho lao động Việt Nam đăng ký gây thiệt thòi cho ngân sách nhà nước vì mặc dầu người Việt phải chi nhiều khoản tiền khi làm việc tại Thái Lan, nhưng số tiền đó lại không đi vào công quỹ của đất nước mà rơi vào túi của những cán bộ cảnh sát khu vực và di trú tham nhũng. Thật sự không công bằng cho chính phủ Thái Lan khi bị thất thoát những khoản tiền này, và càng không công bằng cho những lao động Việt Nam khi phải chi trả một cách không chính đáng bằng những đồng tiền kiếm được một cách vất vả.

Những thách đố cho xã hội Thái Lan gây ra bởi lao động di dân Việt Nam

Mặc dầu lao động Việt Nam nhận được nhiều lời khen từ những chủ thuê như cần cù, biết chịu khó, thông minh, nhanh nhẹn, biết việc… nhưng sự hiện diện của lao động Việt Nam cũng là một thách đố cho xã hội Thái Lan, đặc biệt là tội phạm gây ra bởi người Việt Nam ngày càng phổ biến và phức tạp. Nếu vào mạng Google đánh từ khóa bằng tiếng Thái แก็งเวียดนาม (băng nhóm Việt Nam) sẽ tìm thấy không ít bài báo về những tội phạm của người Việt Nam diễn ra trên đất Thái Lan. Những tội phạm đa số là trộm cắp, móc túi, cướp giật, buôn/chuyên chở ma túy, bắt cóc, giết người… Tháng 9, 2014, hàng loạt báo chí và đài truyền hình Thái Lan đưa tin một nhóm người Việt đã bắt cóc một công nhân Việt Nam, đem đi nhốt trong một căn nhà hoang ở tỉnh Chonburi. Sau đó nhóm người này đã đánh đập anh ta và chặt ngón tay út gửi về cho vợ của anh đòi tiền chuộc là 1,5 triệu baht (1 tỉ đồng). Người nhà đã thông báo cho cảnh sát Thái Lan để yêu cầu sự can thiệp trùy lùng kẻ xấu. Cuối cùng họ đã tìm gặp nạn nhân trong tình trạng đang bị xích trong phòng tắm của căn nhà hoang, trên thân thể có nhiều thương tích do bị đánh đập. Cảnh sát cũng đã bắt được 3 trong 5 người của nhóm tội phạm. Một trong 3 người bị bắt cũng đã từng liên quan đến những hành vi phạm pháp khác, đặc biệt là vụ bắt cóc một thiếu niên Việt Nam 15 tuổi ở Ayutthaya để đòi tiền chuộc.[20]

Hành vi bắt cóc để đòi tiền chuộc thường xảy ra giữa người Việt Nam với nhau. Tuy nhiên hành vị trộm cắp không chỉ có nạn nhân là người Việt mà cũng thường xuyên xảy ra đối với người Thái. Thường người Việt là nạn nhân của những vụ trộm cắp tại phòng trọ khi mọi người đang đi làm hoặc đi nhà thờ. Lợi dụng nhà vắng người, kẻ xấu bẻ khóa vào nhà lấy đồ đạc, tiền bạc, và ngay cả hộ chiếu của nạn nhân. Có không ít người Việt cất giữ tiền trong phòng trọ bởi vì nhiều ngân hàng Thái Lan không cho người không có giấy lao động hợp pháp mở tài khoản. Rất nhiều trường hợp việc trộm cắp được thực hiện bởi người quen biết. Có người nói là thất nghiệp đến xin ở tạm với một nhóm bạn hay người quen biết nào đó. Tuy nhiên lợi dụng khi mọi người đi làm thì người xin ở tạm lấy hết đồ đạc rồi bỏ đi. Người viết bài này, khi còn là linh mục quản nhiệm một giáo xứ tại vùng đông bắc Thái Lan cũng từng là nạn nhân của hành vị trộm cắp bởi một người Việt Nam. Kẻ xấu chính là một thanh niên mới 20 tuổi trong nhóm giới trẻ Việt Nam đến sinh hoạt và đi lễ thường xuyên tại nhà thờ. Tuy nhiên, lợi dụng khi cha xứ vắng nhà, người này đã cạy cửa nhà xứ vào lấy đồ đạc và tiền trong phòng ngủ. Hành vi của người thanh niên này không dừng lại ở đó mà vẫn tiếp tục ở những nơi khác cho đến khi đã bị bắt vì cố tình dùng dao đâm một người Thái để lấy tiền của họ. Tuy nhiên, nạn nhân đã chạy thoát và kết cuộc là một bản án 5 năm tù giam vẫn chưa kết thúc.

Nạn nhân của những vụ trộm cắp không chỉ là người Việt mà người Thái cũng thường xuyên bị người Việt làm hại. Có những lao động Việt Nam làm việc cho chủ thuê Thái Lan lấy đồ đạc và tiền bạc của chủ rồi bỏ đi, thậm chí có khi còn gây ra án mạng trong quá trình thực hiện hành vi trộm cắp. Nhiều người Việt cũng có hành vi cướp giật và móc túi trên đường phố,[21] đặc biệt trong những dịp lễ hội như Lễ hội nước[22] hay những sự kiện concert[23] có nhiều đám đông tụ họp. Những nhóm móc túi và ăn cắp đồ cao cấp trong các trung tâm mua sắm lớn không chỉ bao gồm những lao động Việt Nam tại Thái Lan mà còn có cả những nhóm người Việt tổ chức đến Thái Lan để thực hiện hành vi phạm pháp. Đầu năm 2015, cảnh sát Chiangmai đã bắt được 5 thanh niên và thanh nữ mua vé máy bay từ Việt Nam sang Thái Lan để đi ăn cắp đồ cao cấp trong các trung tâm mua sắm và đem về bán lại tại Việt Nam. Theo lời khai của họ sau khi bị bắt, họ đã tổ chức làm điều này thành công hai lần trước đó và đã thu lợi nhuận hàng trăm ngìn baht.[24]

Mặc dầu việc trộm cắp có tổ chức ngày càng quy mô, nhưng việc trộm cắp đa số diễn ra trên phương diện cá nhân, đặc biệt là đối với những người giúp bán quán hoặc làm việc tại nhà hàng quán ăn. Việc ăn cắp vặt trong những môi trường này phổ biến. Tuy nhiên cũng có những trường hợp công nhân Việt Nam làm việc trong nhà hàng hoặc quán rượu thực hiện hành vi gian lận trong việc kê khai đơn và tính tiền thu về hàng ngìn baht mỗi đêm. Ở một quán rượu ở khu vực Ngamwongwan, một nhân viên người Việt bị phát hiện gian lận mỗi đêm lên tới 10.000 baht (6,5 triệu đồng) dẫn đến chủ quán ra tay đánh đập anh ta cách thê thảm và toàn thể nhân viên người Việt trong quán (khoảng 30 người) đều bị thôi việc. Trường hợp này không phải hiếm có. Theo lời kể của một người Việt, gần đây một nhân viên quán rượu khác cũng bị chủ quán đánh đập đến nỗi phải nhập viện và bị triệu chứng “lãng trí” cũng vì hành vi gian lận trong công việc. Sau khi nhân viên này bị chủ quán mạnh tay trừng trị, những nhân viên khác trong quán cũng quyết định thôi việc (chắc hẳn để tránh hậu quả tương tự).

Vấn đề tội phạm có tổ chức cũng như không có tổ chức của người Việt Nam tại Thái Lan là điều mang đến nhiều hậu quả xấu cho công nhân Việt Nam trên đất nước Thái Lan. Trên thực tế, thành phần tội phạm chỉ là một số lượng rất nhỏ. Đa số những người Việt Nam đến Thái Lan chăm chỉ làm việc để dành giụm cho tương lai của mình cũng như phụ giúp cho kinh tế gia đình. Tuy nhiên khó tránh được tình trạng bị vơ đũa cả nắm, khi trên báo đài của người Thái vẫn thi thoảng đưa tin những trường hợp phạm luật mà thủ phạm chính là công nhân Việt Nam. Sự thiếu ý thức và thiếu đạo đức của bộ phận nhỏ này làm cho toàn thể cộng đồng người Việt bị tổn thương, gây ảnh hưởng đến công ăn việc làm của những người lao động di dân chân chính, và tạo nên hình ảnh xấu về con người và đất nước Việt Nam trong ánh mắt người dân bản xứ. Điều này vô cùng đáng tiếc vì trong hoàn cảnh làm việc bất hợp pháp, việc người Việt xây dựng và gìn giữ hình ảnh đẹp và tích cực về chính mình càng quan trọng cho cơ hội gặt hái được thành công trên đất Thái.

Đời sống xã hội, tinh thần và tâm linh của công nhân Việt Nam tại Thái Lan

Cuộc sống của người di dân vì bất cứ lý do gì đã chất chứa nhiều khó khăn gây ra bởi sự thay đổi môi trường, văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ, các mối tương quan khác. Điều này càng thấy được trong cuộc sống của những lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan. Đa số các công nhân Việt Nam tại Thái Lan xuất thân từ những gia đình nông thôn, có đời sống gắn liền với gia đình, xóm làng, và đặc biệt đối với người theo đạo Công Giáo, nhà thờ và giáo xứ. Ở đó họ nhận được sự giáo dục và hỗ trợ tinh thần từ các vị lãnh đạo trong Giáo Hội, cộng đồng và gia đình. Ngoài ra họ có những mối tương quan thân thiết giúp cho đời sống xã hội vui tươi và có ý nghĩa. Tuy nhiên, khi quyết định rời khỏi quê hương lên đường kiếm sống ở một quốc gia khác, điều này đồng nghĩa với việc phải bỏ lại tất cả những gì quen thuộc và gần gũi, cũng như những chỗ dựa tinh thần quan trọng trong cuộc sống.

Những người Việt Nam đến Thái Lan mang trên mình cái mác là “lao động di dân” hay “công nhân” Việt Nam, nên cuộc sống của họ dường như gắn liền với cụm từ đó. Họ làm việc mỗi ngày từ 10-15 giờ đồng hồ ban ngày hoặc ban đêm tùy theo tính chất của công việc. Có người do thu nhập từ một công việc không đủ để trang trải cho cuộc sống còn tìm việc làm thêm. Chỉ một số ít công nhân có được một ngày nghỉ trong tuần, số còn lại đều làm hết bảy ngày. Chỉ trừ ngày đi gia hạn hộ chiếu thì mới có phép nghỉ việc.

Vì việc kiếm tiền là mục đích chính của người lao động di dân nên nhiều thứ khác bị loại trừ ra khỏi cuốc sống của họ, có cả những thứ tốt lẫn thứ xấu. Việc phải quần quật làm việc khiến cho nhiều người không có thời giờ để đi chơi hay tham gia vào những cuộc ăn chơi vô bổ. Điều này không có nghĩa là không có chuyện ăn nhậu xảy ra, nhưng nói chung không phổ biến như thường thấy tại Việt Nam, đặc biệt đối với những người rảnh rổi. Dĩ nhiên không có hiện tượng các công nhân Việt Nam tại Thái Lan la cà hàng giờ ở những quán cà phê như ở Việt Nam, một phần vì ở Thái Lan không có quán cà phê phù hợp với phong cách của người Việt, mặt khác cũng không có thì giờ để tiêu khiển tại các quán xá. Vì thế đa số những cuộc họp mặt, liên hoan…chỉ diễn ra khi có người mừng sinh nhật hoặc trong vài dịp lễ lớn của người Thái như ngày Songkran hoặc ngày sinh nhật vị vua đất nước. Có khi những cuộc gặp gỡ liên hoan được tổ chức ở quán xá, nhưng đa phần là tổ chức ngay ở trong phòng trọ sau giờ làm việc.

Mặc dầu đời sống bận rộn giúp cho người Việt Nam tại Thái Lan hạn chế được một số sinh hoạt tiêu cực, nhưng tình trạng cái tốt lẫn lộn cái xấu cũng là hệ quả môi trường sống của công nhân Việt Nam tại Thái Lan, dẫn đến một lối sống thiếu quy tắc và thiếu đạo đức bản thân. Điều thứ nhất là việc sống chung phòng trọ với nhau. Hiện nay có không ít trường hợp nam nữ không phải là vợ chồng sống chung với nhau trong một căn phòng. Lý do sống chung với nhau đơn thuần chỉ là giúp chia sẻ chi phí, hoặc thuận tiện cho việc đi làm cùng một nơi; nhưng cũng không ít trường hợp vì họ yêu nhau và việc sống chung với nhau trở nên dễ dàng trong môi trường không có người lớn cản trở hoặc chỉ bảo. Việc sống chung thường đi đôi với việc sống thử dẫn đến nhiều trường hợp người con gái có thai trước hôn nhân.

Đối với những người đã lập gia đình thì có nhiều trường hợp hai vợ chồng không sống với nhau vì mỗi người làm việc mỗi nơi. Cũng có nhiều trường hợp một người ở Thái Lan trong khi người kia ở Việt Nam. Điều này dễ dàng dẫn đến sự sứt mẻ trong mối quan hệ vợ chồng khi không được sống gần nhau, dẫn đến tình trạng một trong hai người có hành vi ngoại tình. Trong trường hợp cả hai vợ chồng đều làm việc tại Thái Lan thì hầu hết đều gởi con cái lại cho ông bà chăm sóc. Vì thế, con cái chỉ được gặp cha mẹ mình mỗi năm một hai lần hoặc nói chuyện và nhìn mặt qua điện thoại. Điều này chắc hẳn ảnh hưởng không ít đến tình cảm giữa con cái và cha mẹ, cũng như ảnh hưởng đến sự giáo dục mà người trẻ nhận được khi thiếu vắng sự hiện diện của cha mẹ trong cuộc sống hằng ngày.

Một giá trị vô cùng quan trọng đối với người theo đạo Công Giáo là việc giữ đạo, đặc biệt qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật và những ngày lễ trọng. Người Công Giáo ở Giáo Phận Vinh, giáo phận quê hương của đa số những công nhân Việt Nam tại Thái Lan, rất sùng đạo và có thói quen đi lễ hằng ngày. Họ không chỉ đi lễ mà còn đến nhà thờ để tham dự các giờ kinh như Kinh Lòng Thường Xót Chúa hoặc giờ kinh tối. Việc đi lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc dường như không thể loại trừ ra khỏi đời sống tâm linh của họ. Thế nhưng khi đến Thái Lan, những sinh hoạt tốt lành này hầu như bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi danh sách sinh hoạt cá nhân. Chỉ có một số đi lễ ngày Chúa Nhật khi có Thánh lễ tiếng Việt hàng tháng được tổ chức gần nơi họ ở trọ. Số người đi lễ tiếng Thái khi không có lễ tiếng Việt còn ít hơn nữa. Và có một thành phần không nhỏ không tham dự bất cứ Thánh lễ nào cho dù là tiếng Việt hay tiếng Thái. Có năm lý do chính yếu tại sao người Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan bỏ lễ Chúa Nhật. Có người bỏ lễ vì ở quá xa nhà thờ, việc đi lại quá tốn kém hay mất quá nhiều thì giờ đối với họ. Ở Thái Lan chỉ có 0,5% dân số (khoảng 300.000 người) theo đạo Công Giáo, nên không phải ở đâu cũng tìm thấy nhà thờ. Có người bỏ lễ vì phải làm việc vào ngày Chúa Nhật trùng với lúc thánh lễ diễn ra. Có người đi lễ tiếng Việt nhưng bỏ lễ tiếng Thái vì cho rằng đi lễ tiếng Thái cảm thấy chán vì không hiểu ngôn ngữ. Có người bỏ lễ vì tối thứ bảy làm việc đến sáng và khi về nhà không còn sức để đến nhà thờ. Và có người bỏ lễ đơn thuần vì không thích thú với việc đi lễ cho dù không có điều gì cản trở họ đến nhà thờ.

Tóm lại, đời sống xã hội, tinh thần và tâm linh của lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan có nhiều thiệt thòi khi phải bươn chải trên đất khách quê người. Do khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và phong tục tập quán cộng thêm thời khóa biểu làm việc nhiều giờ, trong khi thiếu hệ thống hỗ trợ từ gia đình và cộng đồng như ở quê hương, những người Việt Nam gặp nhiều áp lực trong cuộc sống. Một số người biết nhận thức và nỗ lực để duy trì những giá trị nhân bản và tâm linh đã được hấp thụ trước đây, nhưng cũng có không ít đã cố tình hay vô ý đánh đổi những điều tốt đẹp chỉ vì mục đích kiếm tiền hay đơn thuần vì sự thiếu ý thức cá nhân. Chắc chắn đã mang cái mác “lao động di dân” thì phải lao động. Nhưng dù sao thì sự cân bằng trong cuộc sống với những chiều kích xã hội, tinh thần và tâm linh phải được duy trì và củng cố để cuộc sống con người có ý nghĩa và mang lại hạnh phúc trong cuộc sống.

Xây dựng cộng đồng trên đất Thái

Người Việt Nam đã có mặt tại Thái Lan hàng trăm năm qua, từ nhiều đợt di cư khác nhau. Đợt đầu tiên diễn ra từ giữa thế kỷ thứ 17 dưới triều đại Ayutthaya khi người Công Giáo từ miền nam Việt Nam đã tìm đến Thái Lan xuyên qua Vịnh Thái Lan để lẫn trốn tình trạng bách hại tôn giáo tại Việt Nam.[25] Biến cố di cư này diễn ra trong bối cảnh xung đột đang xảy ra giữa nhà Trịnh và nhà Nguyễn tại Việt Nam. Dưới triều vua Narai (1656-1688) số người Việt tại Ayutthaya tiếp tục gia tăng. Vào năm 1666, cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại đây đã xây dựng được một ngôi nhà thờ mang tên nhà thờ thánh Giuse. Khi thủ đô Ayutthaya bị đội quân Miến Điện xâm lược vào năm 1767 thì nhà thờ thánh Giuse cũng bị phá hủy cùng với tất cả những chùa chiền Phật giáo khác. Nhà thờ thánh Giuse tồn tại trong tình trạng đổ nát hơn 6 thập kỷ cho đến khi được tái xây dựng năm 1831. Trong triều đại Ayutthaya, nhiều người Việt Nam cũng đã đến sinh sống ở những nơi khác như Bangkok và tỉnh Chanthaburi. Năm 1707 thời nhà vua Sanphet (1703-1709), 130 người Công Giáo Việt Nam từ Ayutthaya đã di chuyển đến tỉnh Chanthaburi và bắt đầu xây dựng một cộng đoàn ở đó. Năm 1712 họ đã xây nhà thờ Công Giáo đầu tiên bên cạnh con sông chính trong vùng dưới sự chăm sóc của một vị linh mục người Philippines là cha Nicolas Tolentino.[26] Ngày nay đa số người Công Giáo trong Giáo phận Chanthaburi đều là người mang dòng máu Việt. Như thế người Việt Nam, đặc biệt là người Công Giáo Việt đã có mặt tại Thái Lan trên 350 năm. Những người Việt di cư đến Thái Lan trong làn sóng đầu tiên chủ yếu vì lý do tôn giáo được gọi là “yuan kau” (người Việt cũ).

Thành phần người Việt được liệt kê là “yuan kau” còn bao gồm những lượt người Việt di cư sang Thái Lan vào thế kỷ thứ 18 và 19. Dưới triều vua Rama I (1782-1809), Nguyễn Phúc Ánh và hàng ngìn quân lính của ông trong một trận đánh thất bại đã trốn qua Xiêm La (Thái Lan) để ẩn náu. Dĩ nhiên, sau đó cùng với một số quân lính Nguyễn Phúc Ánh đã hồi hương và tiếp tục đấu tranh để trở thành vị hoàng đế nhà Nguyễn đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Trong triều vua Rama III (1824-1851), một số người Việt Nam là những tù nhân chiến tranh đã bị đưa sang Thái Lan từ Cambodia. Và trong thời vua Rama IV (1851-1864) ở vùng đông bắc Thái Lan cũng bắt đầu chứng kiến sự hiện diện của người Việt Nam, họ di cư xuyên qua đường Lào. Do vua Rama IV đang có chủ trương phát triển vùng đông bắc Thái Lan nên những người Việt này được khuyến khích ở lại và tạo điều kiện để trở nên công dân Thái. Những thập niên sau dưới thời vua Rama V cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20, nhiều người Việt Nam vẫn tiếp tục di cư sang Thái Lan để trốn hoàn cảnh khổ cực tạo nên bởi thực dân Pháp.[27]

Sau làn sóng người Việt cũ là làn sóng người được gọi là “Yuan op-pa-yop” (người Việt di cư) hoặc “Yuan may” (người Việt mới). Thế hệ người Việt di cư này đỗ vào Thái Lan trong những năm giữa và sau Đệ Nhị Thế Chiến. Do hoàn cảnh cực khổ và chiến tranh dưới chế độ thực dân Pháp, nhiều người Việt ở các tỉnh miền bắc và miền trung đã di cư sang Lào. Tuy nhiên, khi chiến tranh Đông Dương lần nhứ nhất (1946-1954) lan qua tận Lào và tỉnh Thakhaek ở giáp ranh giới Lào-Thái bị tấn công, nhiều người Việt đã tràn qua Thái Lan để lẫn trốn nguy hiểm. Những con đường dẫn người Việt Nam sang Lào rồi sau đó đến Thái Lan bao gồm Đường số 8 (Nghệ An/Hà Tĩnh – Thakhaek), Đường số 12 (Quãng Bình – Thakhek), và Đường số 9 (Quãng Trị/Huế - Muddahan).[28] Năm 1946, có đến 46.700 người Việt di cư sang hai tỉnh Nakhon Phanom và Muddahan của Thái Lan. Đến năm 1975, số người Việt từ làn sóng di cư thứ hai này được ước lượng là khoảng 80.000 người.[29]

Làn sóng người Việt đến Thái Lan lần thứ ba diễn ra vào những năm sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ vào tháng 4, 1975. Đó là làn sóng người tị nạn trốn ra khỏi Việt Nam để đến không chỉ Thái Lan nhưng còn nhiều nước khác trong khu vực như Philippines, Malaysia và Hong Kong. Tại Thái Lan, họ được tập trung vào các trại tị nạn khác nhau. Tuy nhiên, khác với hai làn sóng trước, những người Việt tị nạn không tiếp tục sinh sống tại Thái Lan. Đa số đã được đi định cư ở quốc gia thứ ba như Hoa Kỳ, Canada, Úc… Những người bị từ chối thì buộc phải hồi hương về Việt Nam.

Làn sóng người Việt đến Thái Lan gần nhất là những lao động di dân đa số từ các tỉnh miền trung Việt Nam. Vì là lao động di dân, hơn nữa lao động bất hợp pháp nên không dễ để xác định số lượng lao động Việt Nam đang ở trên đất nước Thái. Ngoài ra, vì chỗ ở của những người lao động thường xuyên thay đổi tùy theo hoàn cảnh và công việc nên họ cũng không dễ dàng để xây dựng một cộng đồng ổn định. Đối với người Việt Nam đến Thái Lan những thế hệ trước đây, mặc dầu họ đã trải qua không ít khó khăn trong quá khứ, nhưng hiện nay họ đã hoàn toàn hội nhập vào xã hội Thái Lan. Nhiều người Thái gốc Việt có địa vị cao trong xã hội sở tại. Họ có tên bằng tiếng Thái cả tên gọi lẫn tên họ. Cộng đồng người Thái gốc Việt không chỉ tham gia đầy đủ vào xã hội Thái mà họ cũng có thể thành lập những tổ chức như Hội người Thái gốc Việt, Hội doanh nhân Thái gốc Việt… để duy trì bản sắc văn hóa và nguồn cội. Tuy nhiên, đối với đa số người Thái gốc Việt thì những tổ chức này không thực sự thiết yếu cho đời sống của họ, đặc biệt là cho những thế hệ sau này, vì họ dường như đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội và văn hóa của đất nước nơi họ sinh ra và lớn lên.

Hoàn cảnh của người công nhân Việt Nam tại Thái Lan rất khác với cộng đồng người Thái gốc Việt nói trên. Họ không những không thể hội nhập vào xã hội Thái mà còn rất khó để xây dựng cộng đồng cho chính mình. Lý do chính yếu là tính chất thiếu ổn định của cuộc sống lao động di dân (bất hợp pháp). Có nhiều yếu tố tác động vào cuộc sống của họ như thái độ của chính quyền địa phương với lao động nước ngoài, tình hình kinh tế của đất nước sở tại, hành vi của những người Việt với nhau ở nơi làm việc, thu nhập kiếm được từ công việc đang có… Tất cả những điều này ảnh hưởng đến việc một lao động Việt Nam sẽ ở lại một nơi lâu dài hay nhiều lần chuyển chỗ làm việc tùy theo hoàn cảnh, hoặc thậm chí trở về Việt Nam một thời gian vài tuần cho đến vài năm trước khi quay trở lại. Để có thể xây dựng cộng đồng, không chỉ cần có thành viên mà cần có những người đảm nhận vai trò lãnh đạo. Thành viên phải có điều kiện để tham gia vào những sinh hoạt và đóng góp vào những công việc chung của cộng đồng. Người lãnh đạo phải có khả năng để hướng dẫn và khuyến khích các thành viên có tinh thần và ý thức tập thể. Ngoài ra người lãnh đạo phải phần nào có sự ổn định trong cuộc sống để có điều kiện hy sinh thời giờ và công sức cho tập thể. Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc sống của đa số các lao đông di dân Việt Nam tại Thái Lan, sự ổn định lâu dài dường như rất ít gặp, và thời giờ để đóng góp vào công việc chung xem ra là một điều tương đối xa xỉ.

Hiệp hội Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan

Thực trạng cuộc sống của lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan vô cùng bất lợi cho việc xây dựng cộng đồng. Những thách đố của cuộc sống lao động di dân cộng với tình trạng bất hợp pháp trong công việc càng làm cho mọi thứ thêm khó khăn. Tuy nhiên, người Việt Nam tại Thái Lan cũng đã cố gắng xây dựng cho mình một cộng đồng để làm chỗ dựa tinh thần trên đất khách quê người. Một điển hình quan trọng là sự hiện diện của Hiệp hội Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan, được thành lập cách đây chừng 5 năm với mục đích phục vụ cho lao động di dân Việt Nam trên đất Thái.

Câu chuyện bắt đầu trước đó khoảng hơn 10 năm khi một linh mục người Thái gốc Việt tên Chalerm Kitmongkhol và một giáo dân Việt kiều tên Trần Văn Trọng đã nhận thấy có nhiều người trẻ Công Giáo Việt Nam đang làm việc tại Bangkok, thiếu thốn sự nâng đỡ về mặt tâm linh. Cha Chalerm và ông Trọng đã quy tụ các bạn trẻ và liên lạc với nhà thờ Công Giáo để tổ chức những Thánh lễ bằng tiếng Việt. Việc này cũng không mấy dễ dàng do những năm đó, chính quyền Campuchia chưa mở cửa cho người Việt đi gia hạn hộ chiếu hàng tháng dẫn đến tình trạng đa số lao động di dân tại Bangkok đều để cho hộ chiếu hết hạn. Trong lúc đó, Giáo Hội địa phương cũng chưa hiểu biết nhiều về hoàn cảnh của những người trẻ Việt Nam dẫn đến thái độ e dè trước tình trạng bất hợp pháp của họ. Vì thế để có nơi tổ chức Thánh lễ cho các bạn trẻ Công Giáo cũng rất khó khăn. Bên cạnh đó, những lần có Thánh lễ tiếng Việt thì hành vi của một số bạn trẻ như hút thuốc và xả rác trong khuôn viên nhà thờ cũng làm cho cha xứ và giáo dân người Thái không hài lòng và không sẵn sàng để tạo điều kiện cho việc tổ chức lễ Việt trong nhà thờ của mình. Có khi những lao động Việt Nam bị cảnh sát rượt đuổi đến tận bên trong nhà thờ để kiểm tra giấy tờ hoặc bị bắt ngay bên ngoài nhà thờ vì không có giấy tờ hợp pháp cũng là nguyên do làm cho các linh mục và giáo dân Thái Lan cảm thấy bất an.

Tuy nhiên, cha Chalerm và ông Trọng vẫn tiếp tục tìm cách để làm mục vụ cho các bạn trẻ Việt Nam. Những năm sau đó có thêm các linh mục và tu sĩ người Việt đến phục vụ hoặc học tập tại Thái Lan và bắt đầu cộng tác trong việc mục vụ di dân Việt Nam, trong đó có các cha dòng Đaminh, Dòng Ngôi Lời, Dòng Chúa Cứu Thế, các seour Dòng Mân Côi… Mặc dầu sứ vụ của các linh mục tu sĩ Việt Nam tại Thái Lan liên quan đến những công việc khác trong Giáo Hội Thái Lan hoặc để học tập rồi trở lại Việt Nam, nhưng khi các Ngài bước chân đến Thái Lan và chứng kiến tình trạng “đàn chiên không có chủ chăn” thì không thể từ chối để tham gia trong những mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cho phép. Vào năm 2010, tổ chức được gọi là “ Hiệp hội Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan” đã chính thức thành lập chủ yếu để phục vụ di dân Việt Nam trong TGP Bangkok và những vùng lân cận. Hiệp hội có một ban điều hành bao gồm các linh mục, tu sĩ, và giáo dân, trong đó có Lm. Chalerm Kitmongkhol và Lm. Antôn Lê Ngọc Đức, SVD là linh hướng, và ông Trần Văn Trọng là vị chủ tịch. Tuy nhiên, sinh hoạt của Hiệp hội cũng rất hạn chế do nhiều yếu tố khách quan. Thứ nhất, thời giờ của các linh mục tu sĩ có thể đầu tư cho công việc quá ít ỏi. Cha Chalerm có nhiều trách nhiệm trong Giáo phận Chanthaburi không thể hiện diện tại Bangkok thường xuyên. Cha Đức lại quản xứ ở vùng đông bắc Thái Lan cách Bangkok gần 600km nên cũng ít có điều kiện để tham gia vào những sinh hoạt của Hiệp hội. Một mình ông Trọng cũng khó có thể quản xuyến hết những công việc cần phải làm trong việc điều hành. Chính vì thế, nên những năm đó mục vụ di dân chủ yếu là tổ chức Thánh lễ vào những dịp lễ lớn như Phục Sinh, Đức Mẹ Linh Hồn và Xác Lên Trời, Giáng Sinh… Có một vài nhóm được thành lập ở các khu vực và có tổ chức thánh lễ nhóm, nhưng không nhiều và không liên tục.

Từ năm 2013 trở đi sinh hoạt của Hiệp hội đã phát triển nhiều hơn nhờ vào sự cộng tác đắc lực từ các linh mục và tu sĩ Việt Nam tại Thái Lan. Năm 2012, Dòng Đaminh sai Lm. Giacôbe Vũ Văn Hanh đến Thái Lan để cộng tác trong mục vụ di dân Việt Nam. Đầu năm 2013, cha Đức hoàn tất nhiệm kỳ tại GP Udon Thani và trở về Bangkok để nhận công việc mới, đồng thời gắn bó với mục vụ cho người Việt. Các seour Dòng Mân Côi vẫn duy trì công việc cũ tại trường quốc tế Ruam Rudee và tiếp tục đóng góp cho Hiệp hội trong những sinh hoạt khác nhau, đặc biệt công việc dạy giáo lý dự tòng và giáo lý hôn nhân. Bên cạnh đó còn có một số linh mục và tu sĩ từ những dòng khác nhau đến Bangkok học tập và lưu lại trong thời gian từ vài tháng cho đến vài năm cũng tham gia vào mục vụ cho di dân Việt Nam.

Một yếu tố quan trọng khác là những năm về sau, chính quyền Campuchia đã mở cửa cho người Việt đi gia hạn hộ chiếu hàng tháng nên tình trạng hộ chiếu hết hạn giảm đi rất nhiều. Việc đi lại của các bạn trẻ Việt Nam an toàn hơn nên mỗi lần đi tham dự Thánh lễ không còn là một mối nguy hiểm bị bắt như từng xảy ra thường xuyên trước đây. Bên cạnh đó, sự hiện diện và mối tương quan của các linh mục, tu sĩ Việt Nam với Giáo Hội địa phương cũng ngày càng gần gũi hơn, giúp cho các vị lãnh đạo và linh mục trong giáo phận trở nên cởi mở hơn với giới trẻ Việt Nam và sẵn sàng để tạo điều kiện cho việc dâng lễ trong giáo xứ của mình. Nhờ vào những yếu tố khách quan thuận lợi và với sự nỗ lực của BĐH Hiệp Hội, đã có thêm những nhóm giới trẻ Công Giáo Việt Nam được thành lập ở các khu vực khác nhau trong và ngoài TGP Bangkok. Những nhóm được thành lập trải dài từ cố đô Ayutthaya cho đến thành phố du lịch Pattaya, và ở quận Dindaeng ngay ở trung tâm thành phố. Cha tân linh hướng của Hiệp hội nhiệm kỳ 2013-2015, Giacôbê Vũ Văn Hanh. OP, cùng với các linh mục khác thay phiên nhau đi giải tội và dâng lễ cho các nhóm mỗi ngày Chúa Nhật. Sau khi cha Giacôbê qua đời trong một vụ tai nạn giao thông vào tháng 6, 2014, cha Giuse Nguyễn Mạnh Hà, OP, đã được bầu lên để thay thế cho nhiệm kỳ 2015-2017. Tính đến thời điểm nay, trong HH có 13 nhóm giới trẻ Công Giáo Việt Nam. Mỗi nhóm có một ban điều hành gồm 5-7 người và tổ chức lễ nhóm mỗi tháng một lần. Những thánh lễ này có khoảng từ 50-250 người tham dự. Ngoài những lễ nhóm, HH vẫn tổ chức mỗi năm 6 Thánh lễ chung vào các dịp quan trọng. Bên cạnh mục vụ các bí tích và dạy giáo lý như nói trên, HH cũng tổ chức những chương trình tọa đàm, tĩnh tâm, hội trại và hội thao để giúp xây dựng đời sống tâm linh và tinh thần của giới trẻ Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan được tốt đẹp và có nề nếp. Một điều cần ghi nhận là có những nhóm giới trẻ Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan không chỉ được tổ chức bởi HH mà còn có nhiều nhóm ở các tỉnh và vùng khác được hướng dẫn bởi các linh mục người Việt đang phục vụ ở đó. Ví dụ như nhóm giới trẻ Vinh-Sơn ở tỉnh Udon Thani, nhóm Kitô Vua ở tỉnh Khon Kaen, nhóm Đức Mẹ Thiên Chúa ở tỉnh Mahasarakham, nhóm Ratchaburi, nhóm Phetchaburi, và nhóm Petliu. Bên cạnh đó còn có những Thánh lễ được tổ chức bởi các nhóm đồng hương như giới trẻ giáo xứ Trung Nghĩa, giới trẻ giáo xứ Thu Chỉ, giới trẻ giáo xứ Cẩm Xuyên….

Ngoài mục đích duy trì và củng cố đời sống tâm linh của người lao động Việt Nam tại Thái Lan việc thành lập những nhóm giới trẻ Công Giáo trên còn là cơ hội cho họ gặp gỡ và chia sẻ với nhau sau những ngày làm việc cực nhọc. Việc tham gia vào các nhóm cũng là nguồn hỗ trợ tinh thần và vật chất cho lao động di dân. Khi gặp khó khăn, đặc biệt là gặp tai nạn phải nhập viện hoặc thậm chí bị thiệt mạng, những người cùng quê hương và cùng nhóm thường sẽ mở lòng giúp đỡ bằng cách nay hay cách khác. Năm 2014 khi chiếc xe chở cha Giacobê và 15 bạn trẻ khác đi tham dự hội trại được tổ chức tại tỉnh Nong Bua Lamphu gặp tai nạn dẫn đến tài xế và 13 người Việt thiệt mạng, các nhóm giới trẻ đã nỗ lực quyên góp trong cộng đồng để giúp đỡ cho gia đình của các nạn nhân. Sự đóng góp của các bạn rất tích cực và rất nhanh chóng.

Sự hiện diện của Hiệp hội Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan là một trường hợp tích cực về nỗ lực xây dựng và duy trì cộng đồng giữa người lao động di dân Công Giáo tại Thái Lan. Mặc dầu Hiệp hội có nhiều hạn chế về điều kiện sinh hoạt, và chính những người trẻ Công Giáo cũng không dễ dàng để tham gia vào những sinh hoạt của Hiệp hội, nhưng HH đã giúp phần nào cho giới trẻ Công Giáo Việt Nam trên đất Thái có cơ hội để sống đức tin của mình một cách hăng say hơn, đưa mọi người đến gần gũi với nhau trong một môi trường đạo đức và lành mạnh, cũng như tạo nhịp cầu cho sự tương trợ lẫn nhau về vật chất cũng như tinh thần. Rất tiếc là những sinh hoạt của HH chỉ mới hạn chế trong thành phần giới trẻ Công Giáo Việt Nam, là thành phần thiểu số trong toàn bộ lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan. Đại đa số các công nhân Việt Nam là người theo tôn giáo khác hoặc không theo tôn giáo nào. Có thể nói hiện nay chưa có một tổ chức nào khác được thành lập nhằm mục đích hỗ trợ cho người Việt nói chung và người khác đạo nói riêng.

Mạng xã hội và cộng đồng lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan

Cuộc sống của lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan chủ yếu xoay quanh công ăn việc làm nên đời sống xã hội và cộng đồng gặp nhiều hạn chế. Ngoài những nhóm bạn bè đồng hương hoặc cùng làm việc với nhau và những nhóm giới trẻ Công Giáo dưới sự hướng dẫn của các linh mục, tu sĩ Việt Nam tại Thái Lan, những công nhân Việt Nam trên đất Thái không có những tổ chức chính thức khác để làm nơi sinh hoạt hầu bồi dưỡng đời sống xã hội và tinh thần. Chính vì sự thiếu thốn trong những tổ chức mang tính chất cộng đồng mà mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, có một tầm quan trọng trong việc củng cố tinh thần cộng đồng cho người Việt tại Thái Lan.

Facebook là một công cụ mạng xã hội được người Việt Nam ưa chuộng trong những năm gần đây. Theo báo Thanh Niên, ở Việt Nam hiện nay có 30 triệu người đang sử dụng Facebook, trong đó 75% là ở tuổi 18-34. Việt Nam là một trong những thị trường mà Facebook đang phát triển nhanh nhất trên thế giới. Người Việt Nam vào Facebook trung bình 2,5 giờ đồng hồ mỗi ngày (nhiều gấp đôi giờ xem TV). Mỗi ngày có khoảng 20 triệu người Việt truy cập Facebook, và ngay cả một số quan chức Nhà nước cũng có tài khoản Facebook cá nhân của mình.[30] Những thông tin trên cho thấy lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan trùng hợp với những thống kê về đối tượng người Việt đang tích cực sử dụng Facebook.

Mạng xã hội, cụ thể Facebook, đã đóng góp rất nhiều cho việc xây dựng tính chất cộng đồng giữa những lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan. Hiện nay ở Thái Lan không chỉ thấy những trang Facebook cá nhân mà còn thấy những trang Facebook mang tính tập thể. Những trang cộng đồng có nhiều thành viên bao gồm trang “Người Việt tại Thái Lan,” “Hội Đồng Hương Hà Tĩnh tại Tháiland,” “Người Việt Nam ở Thái Lan”… Ngoài ra con có những trang Facebook của cộng đồng Công Giáo như “Hiệp Hội Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan,” và “Giao Lưu Giới Trẻ Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan” cũng như hàng loạt trang Facebook của các nhóm Công Giáo thường có tên là “Nhóm Công Giáo Việt tại (tên khu vực nơi nhóm sinh hoạt)”. Qua những trang cộng đồng nói trên cũng như trang cá nhân của mình, công nhân Việt Nam có thể chia sẻ tin tức và các thông tin quan trọng liên quan đến cuộc sống của lao động di dân trên đất Thái. Những thông tin về tai nạn giao thông xảy ra với người Việt Nam nhờ mạng xã hội được truyền đi nhanh chóng. Có một số trường hợp người gặp tai nạn bị thiệt mạng nhưng bạn bè không biết cách liên lạc với người thân nên đăng thông tin và hình ảnh lên Facebook để cho gia đình được biết. Khi những cá nhân hoặc tập thể nào đó tổ chức quyên góp để giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, người ta cũng dùng Facebook để tiếp cận với những người có lòng tốt sẵn sàng chia sẻ. Đối với những nhóm Công Giáo và Hiệp Hội Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan, Facebook là phương tiện thuận tiện nhất để phổ biến rộng rãi thông tin về những ngày lễ và sinh hoạt của mình. Cũng chính vì điều này mà một số Thánh lễ của Hiệp Hội có người đến tham dự đông đảo từ 1.000 đến 1.500 người. Dĩ nhiên, Facebook cũng là phương tiện để chia sẻ hình ảnh về những sinh hoạt đã diễn ra để mọi người cùng thấy.

Trong bối cảnh những công nhân Việt Nam tại Thái Lan ít có điều kiện để đi lại, gặp gỡ và trao đổi trực tiếp, mạng xã hội là một phương tiện vô cùng giá trị hỗ trợ cho việc chia sẻ và trao đổi thông tin bổ ích cho đời sống xã hội và tâm linh của người Việt tại Thái Lan. Không thể phủ nhận những mặt tiêu cực của mạng xã hội hoặc cách sử dụng mạng xã hội thiếu ý thức, bởi một số lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan, có thể làm ảnh hưởng đến hình ảnh người Việt trong ánh mắt của người bản xứ. Ví dụ, một số bạn trẻ thích đăng những hình ảnh đang làm những món ăn liên quan đến việc sát sinh (gà, heo, thậm chí chó) trên trang Facebook của mình mà quên rằng họ đang sống trong xã hội Phật giáo mà việc đăng những hình ảnh sát sinh là điều phản cảm và cấm kỵ trong văn hóa và tôn giáo của người Thái. Tuy nhiên, nói về công cụ để hỗ trợ cho việc xây dựng cộng đồng thì trong bối cảnh sống thực tế của lao động Việt Nam tại Thái Lan hiện nay, mạng xã hội đã trở nên một phương tiện vô cùng bổ ích và không thể thiếu vắng được trong cuộc sống của cộng đồng di dân.

Những đề xuất cho tình trạng lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan

Dựa trên những vấn đề được trình bày ở trên về hiện tượng lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan hiện nay, người viết xin nêu lên những điểm sau đây để đáp ứng nhu cầu của những công nhân Việt Nam cũng như giúp cải thiện tình hình lao động di dân Việt Nam trên đất Thái:

Pháp luật: Các nhà chức trách Việt Nam và Thái Lan nên nhanh chóng triển khai kế hoạch hợp tác lao động Thái Lan – Việt Nam một cách toàn diện hầu giúp cho người Việt Nam sớm được đăng ký lao động hợp pháp. Điều này sẽ có nhiều tác dụng tích cực cho tình hình lao động Việt Nam tại Thái Lan cả cho quốc gia Thái Lan cũng như cho các công nhân Việt Nam. Thứ nhất, việc được đăng ký hợp pháp sẽ giúp cho những quyền lợi của lao động Việt Nam được bảo vệ khi gặp phải những trường hợp bị bóc lột sức lao động hoặc bị đối xử bất công. Thứ hai, công nhân Việt Nam sẽ được hưởng những quy chế về bảo hiểm y tế và xã hội khi làm việc tại Thái Lan. Thứ ba, lao động Việt Nam sẽ không phải mất nhiều thì giờ và tiền bạc để bao công an, để đi gia hạn hộ chiếu hàng tháng, hoặc phải chi trả khi ra vào nước Thái như hiện nay. Ngoài ra, việc hợp pháp hóa lao đông Việt Nam sẽ giúp giải quyết vấn đề công nhân Việt Nam bị trọng thương hoặc thiệt mạng khi chạy trốn cảnh sát kiểm tra trên đường phố hoặc nơi làm việc. Đã có trường hợp người khi bị kiểm tra thì hốt hoảng bỏ chạy ra đường nên bị xe tông chết một cách oan uổng. Người viết khi còn ở tỉnh Nong Bua Lamphu cũng đã từng đi tìm giúp những công nhân Việt Nam “chạy không kịp sách dép” vào những khu rừng và rẫy mía để lẫn trốn cảnh sát đúng theo nghĩa đen của câu nói.

Về phía chính quyền Thái Lan, việc hợp pháp hóa lao động Việt Nam tại Thái Lan sẽ giúp cho việc tham nhũng trong giới chức trách giảm xuống khi người Việt không còn phải đút lót cho cảnh sát di trú và địa phương để được làm việc mà không bị bắt bớ. Ngược lại, những chi phí hợp lý mà lao động nước ngoài phải chi trả sẽ được đưa vào công quỹ của nhà nước. Việc triển khai kế hoạch hợp tác lao động Việt Nam sẽ giúp cho chính quyền Thái Lan dễ dàng kiểm soát và theo dõi tình trạng lao động Việt Nam đang sinh sống tại Thái Lan, xác định được số người, nơi làm việc, tính chất của công việc, và những sinh hoạt khác của họ trên đất Thái. Dĩ nhiên, không thể phủ nhận rằng Việt Nam có thể cung cấp cho Thái Lan một nguồn lao động năng nổ mà họ đang thiếu thốn.

Văn hóa: Lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan cần sự hỗ trợ để hội nhập văn hóa nhanh chóng và hiệu quả hơn khi đến Thái Lan. Điều này sẽ giúp hạn chế những hành vi phản cảm và cấm kỵ đối với người sở tại. Đặc biệt sau khi kế hoạch hợp tác lao động Việt Nam – Thái Lan đã được triển khai, các nhà chức trách Thái Lan có thể tiếp cận với các lao động Việt Nam qua các tổ chức tôn giáo hoặc xã hội để mở những khóa huấn luyện về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán…của Thái Lan để giúp cho người Việt Nam có kiến thức về xã hội nơi họ làm việc, hầu dễ dàng thích nghi với môi trường sống và làm việc mới. Đối với lao động Việt Nam tại Thái Lan, việc thiếu kiến thức và ý thức về văn hóa và lối sống của người Thái Lan là một nguyên do khiến cho nhiều người có những hành vi làm cho người Thái mất cảm tình, nhiều khi dẫn đến tình trạng người Thái gọi báo cảnh sát để bắt vì cảm thấy khó chịu với người Việt.

Nhân bản: Đa số lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan là những người trẻ với học vấn không cao. Việc đào tạo về nhân bản cho công nhân Việt Nam là một công tác quan trọng, hầu giúp cho họ có một lối sống đạo đức và lành mạnh. Trong việc này, các tổ chức xã hội và tôn giáo của Thái Lan cũng như của người Việt có vai trò thiết yếu để tiếp cận và hướng dẫn giới trẻ một cách liên tục để phát triển và duy trì lối sống tích cực và tránh né những hành vi xấu đã nhận thấy nơi một bộ phận công nhân Việt Nam tại Thái Lan. Khi lao động Việt Nam làm việc và sinh sống có nề nếp thì cũng sẽ giúp cho đất nước sở tại được ổn định và giảm đi những tiêu cực gây nên bởi người nước ngoài.

Sức khỏe: Mặc dù đa số lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan là những người trẻ, nhưng điều này không có nghĩa là họ có sức khỏe vô hạn. Chương trình hợp tác lao động giữa hai quốc gia nên nhấn mạnh những chương trình hỗ trợ y tế cho người lao động khi lâm bệnh cần phải đi điều trị ở bệnh viện. Lao động di dân Việt Nam cũng cần phải có kiến thức để chăm sóc sức khỏe và ngăn ngừa những căn bệnh liên quan đến nghề nghiệp của mình. Đa số các công nhân Việt Nam làm việc nhiều giờ trong những môi trường thiếu vệ sinh và an toàn. Ví dụ như nghề may mặc đòi hỏi lao động phải ngồi nhiều giờ một tư thế, dẫn đến đau lưng và những triệu chứng nhức mỏi khác. Những người đi bán dạo phải tiếp xúc với môi trường ô nhiễm trên đường phố và nguy cơ tai nạn giao thông. Đối với những người làm việc ở các quan rượu phải đối phó với không gian có tiếng ồn ào cũng như có nhiều khói thuốc lá. Một số người phải uống nhiều rượu để chiều lòng khách. Vì nhu cầu kiếm tiền và sức khỏe của tuổi trẻ còn nhiều nên không phải ai cũng ý thức về việc ngăn ngừa bệnh tật. Tuy nhiên, nếu không chú trọng về sức khỏe thì những đồng tiền cố gắng làm ra lại phải chi vào công việc chữa bệnh xảy đến do sự thiếu quan tâm về thể xác cũng như tinh thần.

Xã hội: Những công nhân Việt Nam phải có điều kiện để có một cuộc sống xã hội lành mạnh. Khi được sống và làm việc tại Thái Lan một cách hợp pháp, những người công nhân Việt Nam sẽ cảm thấy an tâm hơn khi đi lại, đặc biệt để giải trí, gặp gỡ bạn bè, và tham gia những sinh hoạt lành mạnh của các tổ chức tôn giáo và xã hội. Trong lĩnh vực này, những tổ chức Việt kiều tại Thái Lan có vai trò quan trọng làm chỗ dựa tinh thần cho lao động Việt Nam tại Thái Lan. Họ không chỉ là những người thuê công nhân Việt vào làm trong cơ sở kinh doanh của mình, mà còn là nhịp cầu nối kết thế hệ người Việt Nam mới đến Thái Lan với xã hội Thái Lan. Kinh nghiệm của người Việt kiều trong việc phải sinh sống và hội nhập tại Thái Lan sẽ là nguồn hỗ trợ quý giá đối với những người mới đến giúp họ biết đối phó với những thách đố khi bước chân vào một môi trường không quen thuộc.

Tâm linh: Những tổ chức tôn giáo cần phải quan tâm và tạo điều kiện cho các lao động di dân Việt Nam có thể duy trì và phát triển đời sống tâm linh của mình trên đất khách quê người. Giáo Hội Công Giáo Thái Lan cần xem giới trẻ Công Giáo Việt Nam là một thành phần của đàn chiên mà các vị chủ chăn có trách nhiệm phải chăm sóc và nâng đỡ. Giáo Hội Thái Lan phải mang tinh thần mà ĐGH Phanxicô đã nêu lên trong thông điệp cho ngày Thế giới di dân và tị nạn lần thứ 101 (2015), đó là xây dựng một “Giáo Hội không biên giới, Mẹ của mọi người.” Đối với Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt GP Vinh, vì đa số những công nhân Công Giáo Việt Nam thuộc GP Vinh, GP nên bổ nhiệm linh mục để quan tâm theo dõi tình hình của con em trong giáo phận khi đến Thái Lan sinh sống. Nếu làm một phép tính rằng 10% của tổng số lao động Việt Nam tại Thái Lan hiện nay là Công Giáo, thì số người Công Giáo đang lao động tại Thái Lan khoảng 5.000, tương đương với một giáo xứ tại Việt Nam. Đó là một số lượng con em trong giáo phận không ít và đáng được quan tâm. Trong trường hợp kế hoạch hợp tác lao động giữa hai quốc gia được triển khai dẫn đến số lượng công nhân Việt Nam đến Thái Lan gia tăng, thì số người Công Giáo sẽ còn nhiều hơn thế nữa. Hoàn cảnh những người trẻ Công Giáo đến Thái Lan khác với những người trẻ di cư vào các thành phố ở Việt Nam. Ở Việt Nam không khó để tìm ra nhà thờ để đi lễ. Ngoài ra, vấn đề ngôn ngữ không phải là một cản trở. Ngược lại, ở Thái Lan không chỉ khó tìm ra nhà thờ, ít có thì giờ để đi lễ, mà còn phải đối phó với việc tham dự Thánh lễ bằng ngôn ngữ mà mình không thông thạo. Vì thế, giáo phận quê nhà có thể quan tâm về đời sống tâm linh của con em mình bằng cách tổ chức những cuộc thăm viếng, những chương trình gặp gỡ, giao lưu, giáo huấn… Nếu giáo phận có thể bổ nhiệm một linh mục sang Thái Lan để làm mục vụ di dân thì càng tốt cho việc hỗ trợ cho đời sống tâm linh của người trẻ.

Tóm lại, lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan đang đứng trước một hoàn cảnh cần sự hỗ trợ của nhiều thành phần – chính quyền của Thái Lan và Việt Nam, những tổ chức tôn giáo và xã hội, và những thế hệ người Việt đã sinh sống tại Thái Lan lâu năm. Nếu có sự chung tay của những thành phần nói trên, cuộc sống của công nhân Việt Nam tại Thái Lan sẽ được cải thiện rất nhiều, và họ sẽ thể hiện được tiềm năng của mình trong việc đóng góp cho nền kinh tế của đất nước Thái cũng như quê hương của mình.

Lm. Antôn Lê Ngọc Đức, SVD

CHÚ THÍCH

[1] International Labor Organization. (2015). http://www.ilo.org/global/standards/subjects-covered-by-international-labour-standards/migrant-workers/lang--en/index.htm.

[2] Cục Lãnh Sự - Bộ Ngoại Giao Việt Nam. (2011). Báo cáo tổng quan về tình hình di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài. Hà Nội: Cty ADN, tr. 1.

[3] Ibid., tr.9.

[4] Ibid., tr.9.

[5] Ibid., tr.17

[6] Trà My. (2015). Kiều hối của lao động di cư tại châu Âu vượt 100 tỷ USD năm 2014. TTXVN/Vietnamnet. http://www.vietnamplus.vn/kieu-hoi-cua-lao-dong-di-cu-tai-chau-au-vuot-100-ty-usd-nam-2014/328208.vnp

[7] Thảo Nguyên. (2015). Quý 1: Kiều hối về TPHCM đạt trên 1,2 tỉ đô la Mỹ. Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn Online. http://www.thesaigontimes.vn/129148/Qui-1-Kieu-hoi-ve-TPHCM-dat-tren-12-ti-do-la-My.html

[8] CLS-BNGVN, tr.17.

[9] Pratruangkrai, Patchanet. (2014). NCPO to get proposals on labour issues soon. The Nation. http://www.nationmultimedia.com/business/NCPO-to-get-proposals-on-labour-issues-soon-30237617.html

[10] Thanh Nien News. (2014). Big holes in Vietnam’s 1.9 pct unemployment rate. http://www.thanhniennews.com/society/big-holes-in-vietnams-19-pct-unemployment-rate-24806.html

[11] An ninh thủ đô. Người lao động Việt Nam tại Thái Lan gặp khó khăn. http://anninhthudo.vn/xa-hoi/nguoi-lao-dong-viet-nam-tai-thai-lan-gap-kho-khan/558761.antd

[12] Trading Economics. (2015). http://www.tradingeconomics.com/thailand/gdp

[13] https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_ASEAN_countries_by_GDP_(nominal)

[14] Phương Linh. (2015). Thu nhập người Việt đi sau Hàn Quốc Thái Lan hàng chục năm. VNExpress. http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/thu-nhap-nguoi-viet-di-sau-han-quoc-thai-lan-hang-chuc-nam-3271028.html

[15] Srikham, Watcharee. (2014). Vietnamese Migrant Workers in Ubon Ratchathani Municipality. Journal of Mekong Societies. Vol.10(1), tr.140.

[16] Nguyen, Nancy Huyen & Walsh, John. (2014). Vietnamese Migrant Workers in Thailand – Implications for Leveraging Migration for Development. Journal of Identity and Migration Studies, Vol.8(1), tr.72.

[17] Tuổi Trẻ News. (2013). Vietnam pays domestic workers better than college graduates: survey. http://tuoitrenews.vn/society/12733/vietnam-pays-domestic-workers-better-than-college-graduates-survey.

[18] Embassy of Vietnam in Thailand. (2015). Thái Lan sẽ có quyết định mới về đăng ký lao động http://www.vietnamembassy-thailand.org/vi/nr070521165843/nr070725012202/ns150824202113

[19] Cũng có những trường hợp mà chính quyền không cho phép bảo lãnh và người bị bắt phải bị giam trong tù cho đến ngày ra tòa.

[20] Matichon Online. (2014). รวบแก๊งเวียดนามอุ้มพ่อค้าปลา ตัดนิ้ว ให้ญาติดูต่างหน้า เรียกค่าไถ. http://www.matichon.co.th/news_detail.php?newsid=1411195308

[21] http://www.dailynews.co.th/crime/245419

[22] Independent News Network. (2013). รวบแก๊งล้วงกระเป๋าสงกรานต์สีลมวันสุดท้าย.

http://www.innnews.co.th/shownews/show?newscode=446877

[23] Daily News. (2014). รวบแก๊งเวียดนามตระเวนปล้นเหยื่อย่านประชาชื่น. http://hilight.kapook.com/view/71783

[24] Nation. รวบยกแก๊งเวียดนาม ตระเวนลักเสื้อผ้าแบรนด์ดัง

http://breakingnews.nationtv.tv/home/read.php?newsid=754556

[25] Sripana, Thanyathip. (2004). The Vietnamese in Thailand: A Cultural Bridge in Thai-Vietnamese Relationship. Journal of Science , Social Science & Humanities, Vietnam National University, Hanoi, No.3E, tr.49-64.

[26] Tha Mai. (2011). The Catholic Church of Chanthaburi. http://www.thamai.net/2011/08/the-catholic-church-of-chanthaburi/

[27] Sripana, tr.51.

[28] Ibid., tr.51.

[29] Nguyen & Walsh, tr.72.

[30] Thanh Nien News. (2015). Vietnam’s Facebook users jump to 30 million. http://www.thanhniennews.com/tech/vietnams-facebook-users-jump-to-30-million-46876.html
 
Giải đáp phụng vụ: Linh mục được đọc một lời truyền phép hai lần không?
Nguyễn Trọng Đa
09:47 07/09/2015
Giải đáp phụng vụ: Linh mục được đọc một lời truyền phép hai lần không?

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô, giáo sư phụng vụ tại đại học Regina Apostolorum (Nữ vương các thánh Tông đồ), Rôma.

Hỏi 1: Cha xứ của con đọc lời truyền phép bánh hai lần: lần đầu trên bánh thánh và lần thứ hai trên chén thánh. Hình như ngài không nhận ra điều này, trong khi một số giáo hữu nhận ra. Chắc chắn ngài không quay trở lại và đọc lời truyền phép đúng. Thưa cha, liệu việc truyền phép rượu như thế có thành sự không? Liệu Thánh Lễ là thành sự không? Có thầy phó tế trong thánh lễ, nhưng thầy đã không can thiệp. Thầy cũng ngạc nhiên như nhiều người chúng con, và trước khi chúng con nhận biết điều đã xảy ra, thì linh mục đang tiếp tục với phần tiếp theo của Kinh Nguyện Thánh Thể. Liệu thầy phó tế can thiệp ngay được không, dù cho phải gián đoạn Kinh Nguyện Thánh Thể? Liệu bất cứ ai có thể can thiệp được chăng, dù là từ hàng ghế giáo dân? - F. T., Anh Quốc.


Đáp: Câu hỏi này nêu bật tầm quan trọng của chúng tôi, các linh mục, là phải chú ý hết sức trong khi cử hành Thánh lễ, nhất là trong các thời điểm chính yếu của Thánh Lễ.

Vì thế tôi khuyên các linh mục đừng quá tin tưởng vào trí nhớ của mình, và cần đọc các lời nguyện trực tiếp từ Sách lễ. Nhiều người trong chúng tôi có thể đã rơi vào một số lỗi, do quá tin vào trí nhớ của mình.

Câu hỏi đặt ra là khá tế nhị, nhưng tôi sẽ cố gắng trả lời một cách ngắn gọn. Việc truyền phép bánh là thành sự. Việc truyền phép rượu là không thành sự, vì ý định truyền phép rượu của linh mục là chưa đủ, vì còn thiếu mô thức bí tích riêng.

Hậu quả là Thánh Lễ, vốn đòi hỏi phải truyền phép đúng cả hai hình, là không thành sự. Những ai rước lễ bằng hình bánh là ở trong tình trạng giống như các người rước lễ ngoài thánh lễ vậy.

Thầy phó tế hay các tín hữu nên làm gì? Linh mục là con người như mọi người khác, nên cũng có thể cảm thấy mệt mỏi và bị phân tâm, do đó, thầy phó tế và tín hữu nên hiểu rằng lỗi sai như thế có thể xảy ra. Tuy nhiên, các lỗi sai ấy nên được khắc phục càng sớm càng tốt.

Trong trường hợp trên, thầy phó tế cần ngay lập tức, mặc dù âm thầm, gián đoạn việc của linh mục, khi thầy nhận ra rằng linh mục đã sử dụng công thức truyền phép sai. Nếu không có thầy phó tế ở đó, một trong các tín hữu có thể tiến đến bàn thờ và nói cho linh mục biết.

Vị linh mục, ngay sau khi nhận ra sai lỗi của mình, đọc công thức truyền phép thích hợp. Nếu ngài chỉ mới bắt đầu phần thứ hai của Kinh Nguyện Thánh Thể, ngài nên đọc lại. Nếu Kinh Nguyện Thánh Thể gần kết thúc hoặc đã hoàn thành, linh mục phải dừng lại thánh lễ, rồi ngài đọc lại lời truyền phép thích hợp, và sau đó ngài tiếp tục Thánh Lễ từ phần ngài tạm ngưng lại.

Nếu linh mục được thông báo về lỗi của ngài sau khi Thánh lễ kết thúc, thì ngài phải truyền phép rượu và uống Máu thánh, để hoàn tất hy tế, nếu cần, trong phòng thánh.

Nếu linh mục biết được lỗi của mình sau Thánh lễ một thời gian, thì ngài không cần làm gì nữa, chỉ cầu xin Chúa thứ tha và cam kết phải chú ý nhiều hơn trong tương lai. Nếu có khoản tiền xin lễ cho Thánh lễ trong câu hỏi trên, linh mục phải cử hành một Thánh lễ khác cho ý lễ ấy.

Một khoảnh khắc của sự lơ đãng nhỏ của linh mục là một giá nhỏ phải trả, cho sự bảo đảm tính thành sự của cử hành Thánh lễ. Tương tự như vậy, sự hiền lành và khiêm nhường của linh mục trong việc nhận ra lỗi của mình sẽ là một nguồn động viên cho các tín hữu, và giúp làm dịu bất kỳ sự xét đoán nghiêm khắc nào.

Hỏi 2: Lúc đầu, cha xứ chúng con cầm chén thánh trong tay, và đọc lời truyền phép bánh thánh. Nhưng trước khi ngài nâng chén lên, ngài nhận ra sai lầm của mình, ngài đặt chén xuống, rồi nâng bánh thánh lên. Sau đó ngài cầm chén thánh trong tay, đọc lời truyền phép rượu và nâng chén thánh lên. Cuối Thánh lễ, ngài nói với chúng con (mà không xin lỗi) rằng Thánh lễ này là một Thánh Lễ thành sự. Đúng vậy không, thưa cha?" - Một độc giả, Los Angeles, Mỹ.

Đáp: Từ thông tin được cung cấp này, tôi sẽ nói rằng đó là một Thánh Lễ thành sự. Linh mục đã lơ đãng rõ ràng. Nhưng việc cầm bánh trong tay, trong khi là cần thiết cho tính xác thực của nghi thức bằng cách minh họa ý nghĩa của các từ "Này là", thường không được xem là thiết yếu tuyệt đối cho tính thành sự.

Nếu không, thật là khó biện minh cho việc linh mục truyền phép nhiều bánh và nhiều chén thánh, mà không đụng chạm đến bánh và rượu ấy.

Hỏi 3: Một linh mục 84 tuổi, bị tổn thương phổi, đôi khi bị mất tiếng trong khi cử hành Thánh Lễ cho một cộng đoàn đông người. Vậy liệu việc ngài đọc rất nhỏ một số phần lễ quy khi ngài bị mất tiếng như thế là hợp pháp không? – Một độc giả, Toronto, Canada.

Đáp: Tôi chắc chắn rằng các tín hữu đang hiểu và được xây dựng bởi sự trung thành của vị linh mục này, trong việc ngài kiên trì với sứ mạng của mình, bao lâu sức khỏe thể xác còn cho phép.

Mặc dù lễ quy là lời cầu nguyện công khai và thông thường cần được đọc lớn tiếng và rõ ràng, trong các trường hợp như trên, chỉ cần đủ là vị linh mục có thể đọc cho ngài nghe một mình. Tuy nhiên, sẽ là bất hợp pháp, khi chỉ đọc nhẩm Kinh Nguyện Thánh Thể mà không dùng tiếng nói, và việc truyền phép sẽ là không thành sự, nếu được thực hiện trong cách này.

Ngày nay, các thiết bị vi âm hiện đại cũng có thể giúp khuếch đại một giọng nói yếu ớt. (Zenit.org 3-7-2007)

Nguyễn Trọng Đa
 
Tản mạn chuyện “hôn nhân” đồng tính: Phản ứng của Kitô Giáo
Vu Van An
23:01 07/09/2015
Nhiều người Kitô Giáo cho rằng nhìn nhận hiến quyền của hôn nhân đồng tính là điều đáng lo ngại và cần phải kháng cự lại, nhưng thực ra, nó không hẳn là một đe dọa hiện sinh đối với Giáo Hội. Đe dọa thực sự là đầu hàng các sức mạnh văn hóa, luật pháp và chính trị buộc ta phải sống theo. Giáo Hội vẫn có thể và sẽ sinh tồn cơn bách hại. Nhưng Giáo Hội không thể sinh tồn nếu không có đức tin. Đây là một chân lý vừa có tính thần học vừa có tính lịch sử.

Lịch sử là thế nào? Ta hẳn nhớ câu truyện giữa Napoléon và Đức Piô VII. Hoàng đế Pháp nói với vị giáo hoàng này rằng ông ta sẽ tiêu diệt Giáo Hội. Đức Piô VII đáp lại: Ôi con người nhỏ bé, ông nghĩ ông sẽ thành công trong việc thực hiện được điều mà biết bao thế kỷ qua các linh mục và giám mục đã cố gắng mà làm không xong sao!”

Vậy thì phải làm gì? Có người cho rằng ta tiếp tục trình bầy quan điểm của ta một cách hấp dẫn, mời gọi, và bất bạo động, yêu thương các người đối nghịch với ta và bắt tay với những người bất đồng với ta. Như Thánh GH Gioan Phaolô II từng nói: Giáo Hội đệ đạt chứ không áp đặt. Và ta sẵn sàng chuẩn bị trước sự gây hấn có thể lớn hơn từ xã hội thế tục.

Dù sao, tại Hoa Kỳ, Tu Chính Án thứ nhất vẫn che chở Giáo Hội Công Giáo và các cộng đồng tôn giáo khác khỏi bị buộc phải cử hành các buổi lễ tôn giáo cho các cặp đồng tính. Điều hiện đang diễn ra chỉ là vấn đề hôn nhân dân sự không hơn không kém. Câu định nghĩa mới về hôn nhân của họ không thay đồi gì đối với Bí Tích Hôn Nhân của Giáo Hội Công Giáo. Nhưng có lẽ phán quyết này cũng như kết quả trưng cầu dân ý ở Ái Nhĩ Lan buộc ta phải đặt ra các câu hỏi khó khăn về thần học và luân lý, những câu hỏi phần lớn bị ta tránh né xưa nay. Nói cho ngay, 56% người Công Giáo đã tuyên bố mình ủng hộ hôn nhân đồng tính.

Tách biệt hôn nhân dân sự và hôn nhân tôn giáo

Tuy nhiên, không thiếu các tổ chức Kitô Giáo kêu gọi phải tẩy chay phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ về hôn nhân đồng tính. Tạp chí First Things, chẳng hạn, đã phát động chiến dịch khuyến khích các mục tử từ khước không cử hành hôn nhân trong tư cách đại diện nhà nước. Một tuyên bố để ký tên tựa là “The Marriage Pledge” (cam kết hôn nhân) đã được đăng trên trang mạng của tạp chí này để các mục tử có thể gắn tên của mình vào đó một cách điện tử. Tuyên bố này do Ephraim Radner, một mục sư Anh Giáo và là giáo sư thần học lịch sử tại Cao Đẳng Wycliffe của Trường Thần Học Toronto, soạn thảo.

Cam kết trên có đoạn viết: “Tại nhiều khu vực pháp quyền, kể cả các khu tại Hoa Kỳ, các nhà cầm quyền dân sự đã nhìn nhận một định nghĩa về hôn nhân minh nhiên bác bỏ đòi hỏi phải là cặp đôi nam nữ. Trong một ít năm nữa, thậm chí ít tháng nữa, điều khá chắc chắn là câu định nghĩa này sẽ trở thành luật pháp của lãnh thổ, và tại mọi khu vực pháp quyền, các quyền lợi, đặc ân và nghĩa vụ hôn nhân sẽ được ban cho những người đàn ông kết đôi với đàn ông, và đàn bà kết đôi với đàn bà… chúng tôi, ký tên dưới đây, cam kết… sẽ không còn phục vụ trong tư cách tác nhân của nhà nước về hôn nhân nữa. Chúng tôi sẽ không ký nhận các chứng chỉ hôn nhân do chính phủ cấp nữa… Chúng tôi chỉ chủ tọa các lễ cưới nào chịu thiết lập ra cuộc hôn nhân Kitô Giáo phù hợp với các nguyên tắc đã được phát biểu rõ và sống theo ngay từ buổi đầu của đời sống Giáo Hội”.

Chỉ mấy ngày sau, đã có 150 người ký tờ cam kết trên trong đó có giáo sĩ, giáo dân, tuyên úy, và ít nhất một giám mục.

Chủ bút tờ báo này là R.R. Reno có bài xã luận tựa là “A Time to Rend” (một thời để xé). Ông viết: “Đã từ rất lâu, Kitô Giáo chuyên khâu các giáo huấn của mình vào cơ cấu văn hóa Tây Phương. Điều ấy quả tốt lành… Nhưng mùa khâu đã hết rồi. Nay là thời để xé, không phải để tách mình ra khỏi văn hóa hay rút lui khỏi quảng trường công cộng, nhưng để muối của ta không mất vị của nó”.

Nhà bỉnh bút Công Giáo Bryan Cones của tờ US Catholic cũng đã đặt câu hỏi Is it time to separate church and state marriages? Và cho rằng Giáo Hội chỉ nên tập chú vào hôn nhân bí tích còn các cuộc hôn nhân dân sự thì nên để mặc quan tòa địa phương. Dù Cones viết bài này lúc hôn nhân đồng tính mới chỉ ở bình diện tiểu bang, chưa ở bình diện liên bang như hiện nay, nhưng lý lẽ của ông có liên quan đến hiện trạng.

Theo ông, với việc thừa nhận hôn nhân đồng tính, ta phải nhìn nhận rằng hiện có hai thực tại khi sử dụng hạn từ “hôn nhân”: một kế ước hợp pháp về phía dân sự, và một giao ước bí tích giữa hai người nam nữ đã rửa tội về phía Giáo Hội. Làm thế sẽ giúp người Công Giáo có được những đàm đạo nội bộ bổ ích đối với cái hiểu thần học của chúng ta về bí tích hôn nhân mà không bị sa lầy vào câu hỏi liệu các gia đình và các cặp nào không thích hợp với cái hiểu ấy có nên nhận được các quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp đi đôi với các cuộc hôn nhân dân sự hay không. Làm thế cũng nhìn nhận một điều mà ai cũng thấy là hiển nhiên: dù hôn nhân dân sự và tôn giáo có thời đã là một thực thể đơn nhất, thì nay sợi dây liên kết hai chiều kích ấy gần như đã được tháo gỡ hoàn toàn.

Cones cũng cho rằng: khởi nguyên, Kitô Giáo vốn đã hiểu hai chiều kích này tách rời nhau, cho tới khi vào thế ký thứ 4, lúc Giáo Hội “kết hợp” với Đế Quốc Rôma, các linh mục và giám mục trở thành viên chức nhà nước, hai chiều kích ấy mới kết hợp với nhau. Và việc kết hợp này kéo dài tới nay.

Tuy nhiên, nhiều nền dân chủ ở Âu Châu và Mỹ Châu La Tinh, từ lâu, vốn đòi, trước nhất, một cuộc kết hôn dân sự, sau đó, là một nghi thức tôn giáo riêng biệt, gọi là hữu hiệu hóa hôn nhân, nếu cặp hôn nhân muốn. Tại Mỹ cũng như tại Úc, ngược lại, linh mục đại diện cả giáo quyền lẫn chính quyền ký nhận chứng chỉ hôn phối khi chủ tọa việc cử hành bí tích hôn nhân, một tập quán ngược với nhiều nước như Mễ Tây Cơ hay Việt Nam, chẳng hạn.

Vả lại, vì sợ rằng các linh mục, vốn hành động nhân danh chính phủ khi chủ tọa các nghi lễ hôn phối, sẽ bị buộc phải chủ tọa các đám cưới “đồng tính”, và do đó, mâu thuẫn với giáo huấn của Giáo Hội, nên hay nhất là các ngài ngưng không ký nhận bất cứ chứng thư hôn nhân dân sự nào, một việc rõ ràng thuộc thẩm quyền quan tòa địa phương, và chỉ chủ tọa các lễ nghi hôn nhân tôn giáo mà thôi. Buộc các cặp hôn nhân phải “cưới nhau” hai lần như thế tuy có bất tiện và là dịp khiến nhiều cặp không kết hôn trong Giáo Hội, nhưng đây là dịp để người Công Giáo nhận rõ sự khác nhau giữa hôn nhân dân sự và hôn nhân bí tích.

Cones cũng cho biết một số con số thăm dò sau đây, không biết từ nguồn nào, liên quan tới vấn đề tách biệt này. Trả lời câu “Tôi tin rằng các cuộc hôn nhân dân sự và tôn giáo nên được tách biệt nhau”, 84% đồng ý, 11% không đồng ý, 5% không ý kiến.

Chưa thấy các thẩm quyền Giáo Hội nói gì về đề xuất này. Tuy nhiên, nhiều người cho loại đề xuất này sai lầm nghiêm trọng. Vì khi một thừa tác viên ký nhận một chứng chỉ hôn phối, ngài chỉ chứng thực rằng một cặp vợ chồng đặc thù nào đó đã trao đổi lời thề kết hôn trước mặt ngài và do đó nay đã kết hôn hợp pháp. Chính phủ không yêu cầu ngài phải bình luận thế nào là hôn nhân và thế nào là hôn nhân đích thực. Nếu lời lẽ trên mẫu ấn chỉ hôn phối của chính phủ nói điều gì sai, thì ngài buộc phải từ khước không ký, dù từ khước như thế sẽ khiến ngài bị bách hại. Nhưng nếu mẫu ấn chỉ ấy chỉ nói điều thật, thì ngài có thể ký, và nên ký nhận.

Đàng khác, có người cho rằng phong trào đồng tính xưa nay vốn lý luận rằng Giáo Hội không nên pha mình vào vấn đề hôn nhân dân sự, nay nếu mình tách hai chiều kích dân sự và tôn giáo ra khỏi nhau là vô tình mình củng cố quan điểm của họ.

Phản kháng lương tâm

Linh mục John Zuhlsdorf, ngày 27 tháng 6, 2015, thì cho chạy một hàng tít lớn “Chúng ta buộc phải kháng cự!” nhưng không khai triển hàng tít này mà chỉ trích dẫn trọn văn kiện năm 2003 của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin tựa là Các Xem Xét Liên Quan Tới Các Đề Xuất Thừa Nhận Hợp Pháp Các Cuộc Kết Hợp Giữa Các Người Đồng Tính Luyến Ái. Trong văn kiện này, Bộ Giáo Lý Đức Tin dạy rằng: “trong trường hợp các cuộc kết hợp đồng tính đã được nhìn nhận là hợp pháp hay đã được ban cấp tư cách và các quyền lợi hợp pháp vốn dành cho các cuộc hôn nhân, thì việc chống đối rõ ràng và nhấn mạnh là một bổn phận. Ta phải từ bỏ moị hình thức hợp tác chính thức trong việc thi hành hay áp dụng các đạo luật bất chính một cách nặng nề như thế và, nếu có thể, phải từ khước mọi hợp tác vật chất trên bình diện áp dụng chúng. Trong phạm vi này, mọi người có quyền thực thi quyền phản đối lương tâm”.

Vì, như Đức Cha Michael Jarrell của Lafayette đã nói, phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ “sẽ tạo ra các vấn nạn lương tâm cho nhiều người Công Giáo, nhất là những người giữ chức vụ công cộng. Trong một số trường hợp, bất tuân lệnh dân sự có thể là phản ứng thích đáng…”.

Nỗi lo âu này cũng là nỗi lo âu của Đức Cha Gustavo Rodríguez Vega, giám mục Nuevo Laredo, Mễ Tây Cơ, trước phán quyết của Tối Cao Pháp Viện nước này nhìn nhận hôn nhân đồng tính. Ngài bảo: “Tối Cao Pháp Viện hãy bắt bỏ tù các giám mục và linh mục, bất cứ ai họ muốn, chứ Giáo Hội không thể đi ngược lại lề luật của Chúa Giêsu Kitô”.

Agudath Israel of America, một tổ chức của Người Do Thái Giáo Chính Thống Mỹ, cũng có cùng những quan ngại như trên. Họ viết: “… do kết quả phán quyết ngày hôm nay, các thành viên và các định chế của các cộng đồng truyền thống như cộng đồng Do Thái Giáo Chính Thống… sẽ chịu xỉ nhục về tinh thần và liều phải chịu hậu quả hết sức tiêu cực nếu từ khước vi phạm niềm tin của mình, và thậm chí nếu công khai rao giảng và phát biểu các quan điểm tôn giáo của mình. Viễn ảnh này quả là rùng mình, và không thể được bất cứ ai có thiện chí ở cả hai bên của cuộc tranh luận này chấp nhận”.

Linh mục cựu mục sư Anh Giáo Dwight Longenecker thì chua chát hoài nghi, không tin người Kitô hữu sẽ đứng lên tranh đấu vì “tất cả chúng ta đều có lỗi đối với việc tan vỡ của hôn nhân… Không. Phần lớn Kitô hữu thuộc mọi tuyên tín sẽ vào hàng và chấp nhận đường lối thế gian mà nói ‘Chúng ta không thể làm gì được đối với vấn đề này. Nó là luật pháp của quốc gia rồi”.

Đức Cha Anthony Fisher O.P., TGM Sydney có cái nhìn khác. Trong bài diễn văn tựa là Same-Sex ‘Marriage’: Evolution or Deconstruction of Marriage and the Family? do Hội Hiệp Sĩ Malta tổ chức ngày 23 tháng 7, 2015, sau khi khảo sát năm khẩu hiệu tuyên truyền quen thuộc của phe đồng tính (công bình, dị biệt giới tính không quan trọng, tình yêu là tất cả, chỉ là con số, và chẳng liên hệ gì đến anh), Đức Cha Fisher kết luận rằng: đừng sợ! Tuy nhiên, ngài mong muốn “Đa số thầm lặng người Úc, những người đang thụ hưởng ơn ích của cuộc hôn nhân thực sự, hãy đứng lên bênh vực định chế này bằng một niềm say mê và tính hữu hiệu tương tự”.

Ngay sau phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, ngày 26 tháng 6, 2015, Đức TGM Kurtz, chủ tịch HĐGM/HK, đã ra một tuyên bố gọi phán quyết này là “một sai lầm bi thảm gây hại cho ích chung và những người yếu thế nhất trong chúng ta”.

Đức TGM Kurtz so sánh phán quyết trên với phán quyết Roe v. Wade (phá thai) và cho hay “không phán quyết nào bắt nguồn từ sự thật và do đó, cả hai cuối cùng sẽ thất bại. Ngày nay, Tòa lại sai lầm một lần nữa. Điều vô luân và bất chính sâu xa là khi chính phủ tuyên bố rằng hai người cùng một giới tính có thể tạo nên một cuộc hôn nhân”.

Sự thật sâu xa là con người nhân bản là một linh hồn có thân xác, nam và nữ. “Ý nghĩa độc đáo của hôn nhân như một cuộc kết hợp của một người đàn ông và một người đàn bà đã được khắc ghi vào thân xác ta như nam và nữ”…

Chính vì thế, các giám mục Hoa Kỳ khuyến khích người Công Giáo tiếp tục lên tiếng cho sự thật.

Chân lý và bác ái

Có những người nhấn mạnh tới việc phải phản kháng nhưng đồng thời tránh các thái độ kỳ thị đồng tính luyến ái. Vì thái độ này đã tạo ra nhiều méo mó khiến ta đối xử với người đồng tính không đúng với phẩm giá của họ. Và do đó, một phần đã vô tình góp phần tạo ra thế lưỡng nan hiện nay.

Đa số, vì thế, cho rằng thái độ đúng đắn là rõ ràng và tin tưởng công bố sự thật, nhưng cũng cần có bác ái và biết cảm thông. Điều dễ hiểu là nếu ta coi những kẻ chống đối ta là ma quái, thì họ cũng sẽ coi ta là ma quái, là những kẻ thù hằn, cuồng tín, kỳ thị đồng tính và nhiều “tước hiệu” tệ hại hơn nữa. Cư xử bác ái với những người coi ta là ma quái chưa chắc đã giúp ta chiếm được lòng họ, nhưng ít nhất cũng giúp ta chiếm được lòng người khác và về lâu về dài sẽ giúp ta thắng cuộc thảo luận văn hóa rộng lớn hơn.

Ta phải rõ ràng với ta trước nhất, vì vấn đề đang đối đầu không tóm gọn ở một đề tài. Một câu định nghĩa đặc thù về hôn nhân không giải quyết hết được mọi khúc mắc. Thay vào đó, ta cần xây dựng một nền văn hóa hôn nhân lành mạnh hơn.

Muốn xây dựng một nền văn hóa hôn nhân lành mạnh hơn ấy, ta phải khởi đi từ chính ta. Tại sao lại có những vị giám mục chao đảo trong cuộc đấu tranh chống hôn nhân đồng tính? Tại sao người Công Giáo lại chỉ thua người Thệ Phản cấp tiến một chút xíu trong tỷ lệ chấp nhận hôn nhân đồng tính? Điều này, rõ ràng ngụ hàm nhu cầu phải có một nền giáo lý và đào tạo tốt hơn về hôn nhân. Người Công Giáo cần hiểu rõ hơn giáo huấn của Giáo Hội, không hẳn chỉ vì nó phản ảnh mặc khải mà còn được đặt nền trên luật tự nhiên. Phải can đảm và mạnh dạn đề cập tới các vấn đề tế nhị và hóc búa của việc sống chung, của đồng tính luyến ái, của ly dị và tái hôn.

Và, muốn xây dựng một nền văn hóa hôn nhân lành mạnh hơn cũng đòi ta phải can đảm hơn trong việc bảo vệ giáo huấn của Giáo Hội. Đây không hẳn là một nghị trình luân lý học. Hôn nhân đồng tính là một khí giới luật pháp đánh thẳng vào vai trò và sứ mệnh của Giáo Hội trong xã hội. Nhiều người cho rằng một nền giáo lý và đào tạo nghèo nàn xưa nay đã trực tiếp góp phần vào các thách thức xã hội mà Giáo Hội đang gặp phải đối với quyền tự do điều hành các cơ sở nhận con nuôi, các bệnh viện và trường học phù hợp với giáo huấn luân lý của Giáo Hội. Họ cho rằng các mục tử không thể có cái thứ xa xỉ phẩm “nhậy cảm mục vụ” (pastoral sensitivity) mà họ cho là nhút nhát mục vụ, muốn tránh né các vấn đề gai góc.

Giữ vững tay súng

Igor Glynskyi, trong bài Giáo Hội Sẽ Sống Thoát Cuộc Hôn Nhân Đồng Tính Nếu Biết Giữ Vững Tay Súng Của Mình, viết rằng thái độ nhút nhát chỉ làm ta càng ngày càng xuống dốc. Ông đơn cử trường hợp Giáo Hội Hợp Nhất của Chúa Kitô và Giáo Hội Trưởng Lão Hoa Kỳ, vì bỏ rơi nền chính thống Thánh Kinh từ lâu, nay sa sút đến có thể không còn hiện hữu trong vòng một thế hệ nữa.

Linh mục Robert Barron, người vừa được cử nhiệm làm giám mục phụ tá của Los Angeles, trong bài Ta Đã Ở Đây Trước Đây: Hôn Nhân và Phòng Nước Mắt (We’ve Been Here Before: Marriage and the Room of Tears) cũng cho hay: một lý do khiến điều này gây ngỡ ngàng nhiều cho người Công Giáo Hoa Kỳ là chúng ta đã có mối liên hệ quá tốt bụng với nền văn hóa chung quanh”.

Nói đến việc hiểu rõ, Đức Tổng Giám Mục William Lori của Baltimore, chủ tịch ủy ban đặc nhiệm về Tự Do Tôn Giáo của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, trong một cuộc họp báo ngày 26 tháng 6, ngay sau phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ về quyền hiến định kết hôn đồng tính, đã nói với các kỳ giả rằng dù ý kiến của phe đa số trong phán quyết có nhắc tới tự do tôn giáo, nhưng họ không nói gì tới việc Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ quyền tự do thực hành tôn giáo và việc này khiến ta rất lo ngại.

Theo ngài, “quyền tự do thực hành tôn giáo có nghĩa: ta có quyền không những tranh luận nó công khai ở nghị trường công cộng, mà còn được điều hành các thừa tác vụ của chúng ta và sống cuộc sống của chúng ta phù hợp với chân lý về hôn nhân mà không bị bạo hành, hay bị trừng phạt, hoặc mất quyền miễn thuế, hay mất khả năng phục vụ ích chung qua các dịch vụ xã hội và qua giáo dục của ta”.

Do đó, việc bỏ không nhắc tới “quyền tự do thực hành” trong ý kiến đa số của Tối Cao Pháp Viện “có thể sẽ tạo ra nhiều tranh cãi luật pháp”. Không có quyển tự do thực hành tôn giáo này, các tổ chức thống thuộc tôn giáo nào chống đối hôn nhân đồng tính và các cơ sở kinh doanh nào không phục vụ các đám cưới đồng tính có thể phải đương đầu, và thực sự đã phải đương đầu, với các thách thức tại tòa án.

Kết quả của chủ nghĩa duy cá nhân

Nhưng, theo linh mục David Endres, một giáo sư giáo sử và thần học lịch sử tại The Ohio Athenaeum, lịch sử bài Công Giáo tại Hoa Kỳ chứng minh rằng Giáo Hội từng sống thoát và sẽ sống thoát bất cứ thách thức nào.

Trong bài Sticks, Stones, and Broken Bones: the History of anti-Catholic Violence in the U.S., đăng năm 2014 trên tờ Homiletic and Pastoral Review, Cha Endres đa mô tả chi tiết lịch sử thăng trầm trong mối liên hệ của Đạo Công Giáo với nền văn hóa chính dòng của Mỹ: thí dụ, luật thời thuộc địa cấm người Công Giáo không được làm luật sư hay giáo viên, cả việc gửi con qua Âu Châu để hưởng nền giáo dục Công Giáo cũng không được…

Nói cho cùng, nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa luôn nhìn Đạo Công Giáo bằng con mắt hoài nghi. Đặc sứ của chân phúc giáo hoàng Piô IX gây phản ứng dữ dội, có cả việc đốt hình nộm của vị này. Tác phong này kéo dài cho tới tận lúc John Kennedy, một người Công Giáo gốc Ái Nhĩ Lan được bầu làm tổng thống. Đến lúc đó, ít nhất người Công Giáo không còn cảm thấy mình ở ngoài lề nữa.

Tuy nhiên, các đe dọa gần đây đối với tự do tôn giáo càng ngày càng chứng tỏ rằng nền hòa bình nói trên chỉ là tạm bợ, không phải là một chấp nhận Đạo Công Giáo vĩnh viễn vào xã hội Hoa Kỳ. Chỉ vì cốt lõi cuộc tranh chấp giữa Giáo Hội và văn hoá Mỹ, cho tới nay, vẫn xoay quanh vấn đề tự do và thẩm quyền.

Cha Endres cho rằng “một phần của cuộc tranh chấp này là vai trò của cá nhân ngược với cộng đồng và Giáo Hội thì luôn duy trì việc nhấn mạnh tới cộng đồng”. Xét về lịch sử, nền văn hóa chính dòng của Mỹ luôn cổ vũ chủ nghĩa cá nhân và khinh thường bất cứ người Công Giáo nào tuân theo thẩm quyền của Giám Mục Rôma.

Cuộc tranh chấp trên cũng lan sang cuộc tranh cãi về vai trò của cộng đồng ngược với tự do cá nhân. Cha viết: “Chúng ta vốn có ý niệm lạ đời từng được khai triển tại đất nước này là tự do là quyền tự lập tuyệt đối của con người. Còn Giáo Hội thì chưa bao giờ tin rằng tự do đích thực hệ ở quyền tự lập tuyệt đối, nhưng thay vào đó, xét về căn bản, nó là mối tương quan với Thiên Chúa và với nhau. Ta như thể đặt định nẻo đường đó trước mắt ta, ta có trách nhiệm đối với người khác. Ta có trách nhiệm đối với Thiên Chúa một cách đặc biệt, và quyền tự lập tuyệt đối không có chỗ đứng trong thứ thế giới quan này”.

Chính chủ trương tự lập tuyệt đối này đứng phía sau phong trào vận động cho quyền hôn nhân đồng tính. Và với sự thắng lợi của phong trào này, một lần nữa, người Công Giáo lại bị đẩy ra bên lề với nhiều luật lệ cấm họ không được thực hành đạo mình cách công khai và trung thành với giáo huấn của Giáo Hội về tính dục.

Lùi để tiến

Tuy nhiên, Cha Endres nghĩ rằng “điều quan trọng cần hiểu là đứng bên lề xã hội không luôn là điều xấu”. Sự thù nghịch hiện nay đối với giáo huấn Công Giáo về tính dục có thể thực sự là “lời kêu gọi tiếp tục trung thành ở lại bên lề” vì nói cho ngay đức tin Công Giáo có tính phản kháng văn hóa. “Ta nói về một sự thật không luôn được lòng người, nhưng ta mạnh mẽ tin rằng nó phát xuất từ Chúa Kitô và một cách bao quát hơn, phát xuất từ mạc khải của Thiên Chúa cho con người. Và nếu bạn thực sự tin điều này, thì bạn không thể thỏa hiệp được”.

Nhiều người Công Giáo Hoa Kỳ đã thỏa hiệp và ta từng có thông điệp Testem benevelentiae nostrae năm 1899 của Đức Lêô XIII nói về họ, về “chủ nghĩa duy Mỹ” (Americanism). Họ khó có thể là người Công Giáo chân chính.

Nói cho cùng, xu thế tục hóa sẽ tiếp tục lấn lướt và ta buộc phải sống với một thực tế không thuận hảo với ta. Nhiều người cho rằng ta đang ở trong tư thế của những thế kỷ đầu trong đó, thế giới ngoại giáo áp đảo ta. Con đường sống còn và phát triển thuở ban đầu ấy hẳn phải là con đường sống còn và phát triển của ta ngày nay.

Vì thế, có người đề nghị lùi để tiến. Đó là đề xuất của Timothy P. O’Malley trên tờ OSV Newsweekly ngày 5 tháng 8, 2015. Vì các biến động bất lợi cho thế giới quan Công Giáo gần đây, tác giả này đặt câu hỏi: Giáo Hội có nên tạm thời rút lui khỏi việc can dự vào sinh hoạt công cộng ngõ hầu tạo nên một lối sinh hoạt khác bên ngoài nền văn hóa hiện nay hay không?

Để trả lời câu hỏi trên, ông cho rằng đây không hẳn là lần đầu tiên Giáo Hội Hoa Kỳ đương đầu với giải pháp tạo ra các định chế thay thế để đào tạo người Công Giáo theo một lối sống khác biệt. Nền giáo dục tiểu và trung học Công Giáo tại Hoa Kỳ phát sinh nhờ các vị giám mục nước này biết cảnh giác trước thứ giáo dục tôn giáo do nền giáo dục công cộng và cưỡng bách của thập niên 1900 đòi hỏi. Cũng thế, các cao đẳng và đại học Công Giáo phục vụ cả người di dân Công Giáo lẫn người di dân không Công Giáo không tìm được chỗ học tại các cao đẳng và đại học Thệ Phản đã được thành lập từ lâu. Cả trong hai trường hợp này, việc rút lui khỏi sinh hoạt công cộng đã đem lại kết quả là tạo ra các định chế này, có lợi cho cả đời sống công cộng nói chung.

O’Malley cũng nhắc tới “giải pháp Biển Đức”, theo tên và triết lý của Dòng Biển Đức, một Dòng từng “đặt nền cho việc tái sinh xã hội Kitô Giáo” sau khi Đế Quốc Rôma sụp đổ. Giải pháp này hệ ở việc “rút lui chiến thuật” khỏi văn hóa tuy không hoàn toàn để thế gian lại phía sau.

Hình thức rút lui khỏi các định chế công và các chuẩn mực văn hóa được các định chế này giả định không phải là một chọn lựa giữa ẩn dật hay dấn thân. Đúng hơn, nó luôn phải là một rút lui trở về với nét đặc thù Công Giáo để Giáo Hội được chuẩn bị tốt hơn trong việc hiến tặng hoa trái đời mình cho thế gian.

O’Malley cho rằng nay đã đến lúc để Giáo Hội một lần nữa rút về tính đặc thù Công Giáo nhằm dấn thân sâu sắc hơn vào thế gian. Trong bối cảnh giáo dục Công Giáo, nhiều định chế vốn được thiết lập để truyền thụ thế giới quan Công Giáo nhưng nay đã mua sỉ trọn bộ các mô thức duy tục vốn nhằm tháo bỏ thiên tài Công Giáo. Nền giáo dục thần học, thay vì là cuộc gặp gỡ với đức tin tìm kiếm hiểu biết, đã trở thành khoa dẫn nhập mỏng manh vào các nguyên tắc tâm linh đại loại (generic). Nhiều trường Công Giáo, vốn được thiết lập để giáo dục những người yếu kém nhất trong chúng ta, nay được thừa nhận là những nơi hàng đầu để leo lên bậc thang xã hội. Các tuyên bố về sứ mệnh, ngoại trừ vài dòng nhắc tới Thiên Chúa và Giáo Hội, phần lớn sao chép nguyên văn từ những đối tác thế tục. Căn tính Công Giáo đã bị giản lược chỉ còn là một mớ nguyên tắc phổ quát, thay vì là kết quả của việc đắm chìm vào các trình thuật và thực hành giúp tạo ra một lối sống. Muốn duy trì các trình thuật và thực hành này, đôi khi, nhất thiết buộc ta phải phải rút khỏi các trình thuật và thực hành đối nghịch với thế giới quan Công Giáo.

Ấy thế nhưng, việc lui về tính đặc thù này không được mang tính phe phái. Viễn kiến của Công Đồng Vatican II không phải là một Giáo Hội chống lại thế giới, cố gắng tạo ra một cộng đồng thay thế tách biệt khỏi gia đình nhân loại. Đúng hơn, Giáo Hội phải lui về tính đặc thù của mình vì chỉ với tính đặc thù trong viễn kiến của ta về đời người vốn được tháp nhập vào Chúa Kitô ta mới có thể có một cái gì đó để cung hiến cho thế giới. Một rút lui như thế luôn chuẩn bị để ta dấn thân một cách chân thực vào đời sống công cộng.
 
Văn Hóa
Cho phép con mừng sinh nhật Mẹ
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
22:02 07/09/2015
Cho phép con mừng sinh nhật Mẹ (8/9)

Cho phép con mừng sinh nhật Mẹ,
Một lời kinh gởi đến mẹ con.
Để hôm nay mừng chung với Mẹ,
Và sẻ chia một chút ân hồng !

Cho phép con mừng sinh nhật Mẹ,
Một nén hương niệm tưởng linh hồn,
Của bao mẹ hiền nay khuất bóng,
Cầu mong các mẹ phúc vinh quang.

Cho phép con mừng sinh nhật Mẹ,
Một cành hoa trao những mẹ hiền,
Những người mẹ một đời tăm tối,
Trong nhọc nhằn quên lãng triên miên !

Cho phép con mừng sinh nhật Mẹ,
Con dâng lên Thánh Lễ chiều nay,
Tôn vinh Mẹ cùng bao mẹ khác,
Trọn ý Cha trong cuộc thế nầy !

Cho phép con mừng sinh nhật Mẹ,
Xin Mẹ thương cầu giúp nguyện thay,
Cho những mẹ lầm đường lỡ lỗi,
Quay về thôi nơi mái ấm nầy !

Cho phép con mừng sinh nhật Mẹ,
Nguyện muôn người mẹ khắp thế gian,
Biết nhận ra chương trình vĩ đại,
Ngày sinh và sống kiếp dương trần.

Cho phép con mừng sinh nhật Mẹ,
Gom lời cầu gom hết hy sinh,
Của tất cả đoàn con cái Mẹ,
Xin nhận cho, xin Mẹ thương tình !

Trương Đình Hiền
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Chân Dung Mẹ Maria
Nguyễn Bá Khanh
21:00 07/09/2015
CHÂN DUNG MẸ MARIA
Ảnh của Nguyễn Bá Khanh
Ma-rie, Mẹ Chúa Nữ Vương
Mẹ tinh trong trắng, tơ vương ánh vàng.
(Trích thơ của Nguyễn Hưng Lợi Lm.)