Phụng Vụ - Mục Vụ
Điều kiện để theo Chúa Kitô
Lm Vũ Xuân Hạnh
09:57 30/08/2016
ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA KITÔ
Chúa Nhật XXIII THƯỜNG NIÊN NĂM C
Những năm gần đây có nhiều cá nhân hay nhóm người sống nhờ làm tiếp thị. Họ rong ruổi khắp nơi để chỉ làm mỗi một việc là quảng cáo một sản phẩm nào đó. Nơi tôi đang ở, hầu như thường xuyên có người đi tiếp thị. Họ quảng cáo đủ mọi vật dụng, không trừ một sản phẩm nào, từ đôi đũa, chai dầu gội đầu, cái cốc uống nước đến cái bàn ủi, đầu máy may, máy giặt…
Tất cả họ đều có chung một cung cách: Những gì họ tiếp thị đều tốt, rất tốt. Họ ca tụng hết lời, dường như trên đời không còn cái gì bằng những gì họ đang quảng cáo.
Họ chỉ biết ca ngợi, không hề chê bai. Ca ngợi từ sản phẩm mà họ tiếp thị đến người được họ tiếp thị. Ví dụ, bạn muốn mua một đôi dép, dù kiểu nào, màu nào đi nữa, nếu thấy bạn xăm xoi, ngắm nghía, họ đều cho rằng chúng phù hợp với bạn…
Dẫu sao tôi vẫn nghi ngờ lắm. Càng nghi ngờ hơn nữa, khi những anh chị em ấy rày đây mai đó, chẳng biết đâu mà tìm. Nhưng ngôn ngữ của quảng cáo là như thế: chỉ ca tụng, không bao giờ bài bác.
Bạn và tôi là những người theo Chúa. Ta cảm nhận rằng, bước theo Chúa sao mà khó quá, bởi ta sẽ phải từ bỏ, không chỉ là của cải vật chất, mà còn từ bỏ cả những cái là căn cội của cuộc đời mình như cha mẹ, mạng sống.
Không chỉ có thế, sự từ bỏ còn đi tới mức độ mạnh hơn: Chúa đòi ta từ bỏ để nhận thập giá: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đúng là một đòi hỏi quá dứt khoát và triệt để.
Vì thế, nếu Chúa Giêsu làm quảng cáo, chắc chắn Chúa thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sáng lạn nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không còn gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá.
Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy? Theo mà đều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lỏng, xa lạ.
Thế nhưng không đúng! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn thực tế mà lịch sử Hội Thánh ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau.
Bởi đã hơn 2000 năm, nhưng Lời Chúa Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy quả cảm bước theo Chúa Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình.
Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Chúa Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lỏng mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ.
Họ là ai? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn. Đặc biệt, trong số ấy, có vô số anh chị em hiến dâng đời mình sống ơn gọi tu trì. Những anh chị em ấy đã đáp lại lời mời gọi bỏ mình, vác thập giá, theo Chúa Giêsu.
Hoặc biết bao nhiêu vị thánh, họ là những người có thể đã được Hội Thánh tôn phong, hay chưa tôi phong, cũng có thể sẽ không bao giờ tôn phong trên bàn thờ Hội Thánh. Tất cả những vị thánh ấy có chung một tấm lòng: Đã vì lời mời gọi từ bỏ mà suốt đời sống nghèo khó, chỉ có tình yêu là giàu có mà thôi.
Trong số những người ấy, biết bao nhiêu người đã nhìn lên Thánh giá Chúa Kitô mà không tiếc mạng sống mình, hiến dâng cho Thiên Chúa toàn thân đến giọt máu cuối cùng như của lễ toàn thiêu. Các thánh Tử đạo là những người đã sống và chết như thế.
Hóa ra, lời mời gọi từ bỏ và vác thập giá của Chúa Giêsu, với cái nhìn nhân loại, tưởng chừng khắc nghiệt, sẽ trở nên vô vọng, lại có một sức mạnh thu hút lạ thường.
Lời mời gọi ấy là lẽ sống vô song để những ai tin nhận và sống theo, sẽ đặt trọn niềm hy vọng của mình.
Đó cũng là lời mời gọi làm nên căng tính của tất cả những ai theo Chúa Kitô. Nhờ đó, người ta nhận ra họ là môn đệ của Người. Vì theo Chúa Kitô chỉ có mỗi một con đường duy nhất là từ bỏ và chấp nhận thập giá đời mình như Chúa Kitô.
Vì hơn ai hết, những anh chị em dám dấn thân làm môn đệ của Chúa hiểu rằng, chính khi từ bỏ là lúc nhận lại chính mình. Chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết cho thân phận tội lỗi, chết cho sự tha hóa có thể lôi kéo ta hướng chiều về sự dữ, là lúc ta vui sống muôn đời (ý nghĩa của thánh Phanxicô- kinh Hòa Bình).
Bởi vậy, chính lúc chấp nhận thập giá, là chính lúc ta tiến vào vinh hiển của Đấng Phục Sinh.
Bạn thân mến, muốn dấn thân cho một điều gì, ta phải yêu điều ấy. Cũng vậy, để được tự do và tự nguyện chấp nhận sự từ bỏ và vác thập giá, đòi ta phải có lòng yêu mến. Với tình yêu, thập giá sẽ nhẹ hơn, dễ hơn.
Một người mẹ thức trắng đêm để may xong chiếc áo cho con sớm mai đến trường, người mẹ ấy là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả. Bởi đó bạn và tôi hãy yêu thánh giá Chúa Giêsu và yêu lối sống từ bỏ để nên giống Người.
Bản tính tự nhiên, con người thích chọn lối sống dễ dãi. Nhất là cuộc sống văn minh hôm nay, lại càng đặt ta trước nhiều chọn lựa. Nếu không biết yêu thánh giá mà lại cứ chiều theo thói quen bản thân, ta dễ chọn cái tầm thường hơn những điều cao cả; chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền; chọn lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể.
Bởi vậy, biết mình dễ chọn cái xấu, đồng thời cảm nhận sâu xa Lời mời gọi của Chúa Giêsu, yêu thánh giá Chúa, yêu lối sống từ bỏ, bạn và tôi hãy làm lại chọn lựa của mình để dễ dàng dấn thân cho sự từ bỏ và vác thập giá, qua từng việc nhỏ nhặt trong đời thường của mình như: bỏ nghiện thuốc lá, ma túy, rượu chè, trụy lạc…
Hoặc ta dành ngày Chúa Nhật để tôn thờ Chúa, học hỏi giáo lý, lo các việc bổn phận đạo đức. Cương quyết rời chiếc giường êm để đi dự lễ sáng; tắt tivi để đọc kinh tối gia đình; bỏ bớt những giờ táng gẫu trong quán cà phê để cầu nguyện nhiều hơn… Tất cả những điều đó, đòi sự tập luyện lâu dài trong từng ngày sống của mình.
Hãy khắc ghi Lời Chúa dạy: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
Chúa Nhật XXIII THƯỜNG NIÊN NĂM C
Những năm gần đây có nhiều cá nhân hay nhóm người sống nhờ làm tiếp thị. Họ rong ruổi khắp nơi để chỉ làm mỗi một việc là quảng cáo một sản phẩm nào đó. Nơi tôi đang ở, hầu như thường xuyên có người đi tiếp thị. Họ quảng cáo đủ mọi vật dụng, không trừ một sản phẩm nào, từ đôi đũa, chai dầu gội đầu, cái cốc uống nước đến cái bàn ủi, đầu máy may, máy giặt…
Tất cả họ đều có chung một cung cách: Những gì họ tiếp thị đều tốt, rất tốt. Họ ca tụng hết lời, dường như trên đời không còn cái gì bằng những gì họ đang quảng cáo.
Họ chỉ biết ca ngợi, không hề chê bai. Ca ngợi từ sản phẩm mà họ tiếp thị đến người được họ tiếp thị. Ví dụ, bạn muốn mua một đôi dép, dù kiểu nào, màu nào đi nữa, nếu thấy bạn xăm xoi, ngắm nghía, họ đều cho rằng chúng phù hợp với bạn…
Dẫu sao tôi vẫn nghi ngờ lắm. Càng nghi ngờ hơn nữa, khi những anh chị em ấy rày đây mai đó, chẳng biết đâu mà tìm. Nhưng ngôn ngữ của quảng cáo là như thế: chỉ ca tụng, không bao giờ bài bác.
Bạn và tôi là những người theo Chúa. Ta cảm nhận rằng, bước theo Chúa sao mà khó quá, bởi ta sẽ phải từ bỏ, không chỉ là của cải vật chất, mà còn từ bỏ cả những cái là căn cội của cuộc đời mình như cha mẹ, mạng sống.
Không chỉ có thế, sự từ bỏ còn đi tới mức độ mạnh hơn: Chúa đòi ta từ bỏ để nhận thập giá: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đúng là một đòi hỏi quá dứt khoát và triệt để.
Vì thế, nếu Chúa Giêsu làm quảng cáo, chắc chắn Chúa thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sáng lạn nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không còn gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá.
Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy? Theo mà đều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lỏng, xa lạ.
Thế nhưng không đúng! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn thực tế mà lịch sử Hội Thánh ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau.
Bởi đã hơn 2000 năm, nhưng Lời Chúa Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy quả cảm bước theo Chúa Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình.
Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Chúa Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lỏng mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ.
Họ là ai? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn. Đặc biệt, trong số ấy, có vô số anh chị em hiến dâng đời mình sống ơn gọi tu trì. Những anh chị em ấy đã đáp lại lời mời gọi bỏ mình, vác thập giá, theo Chúa Giêsu.
Hoặc biết bao nhiêu vị thánh, họ là những người có thể đã được Hội Thánh tôn phong, hay chưa tôi phong, cũng có thể sẽ không bao giờ tôn phong trên bàn thờ Hội Thánh. Tất cả những vị thánh ấy có chung một tấm lòng: Đã vì lời mời gọi từ bỏ mà suốt đời sống nghèo khó, chỉ có tình yêu là giàu có mà thôi.
Trong số những người ấy, biết bao nhiêu người đã nhìn lên Thánh giá Chúa Kitô mà không tiếc mạng sống mình, hiến dâng cho Thiên Chúa toàn thân đến giọt máu cuối cùng như của lễ toàn thiêu. Các thánh Tử đạo là những người đã sống và chết như thế.
Hóa ra, lời mời gọi từ bỏ và vác thập giá của Chúa Giêsu, với cái nhìn nhân loại, tưởng chừng khắc nghiệt, sẽ trở nên vô vọng, lại có một sức mạnh thu hút lạ thường.
Lời mời gọi ấy là lẽ sống vô song để những ai tin nhận và sống theo, sẽ đặt trọn niềm hy vọng của mình.
Đó cũng là lời mời gọi làm nên căng tính của tất cả những ai theo Chúa Kitô. Nhờ đó, người ta nhận ra họ là môn đệ của Người. Vì theo Chúa Kitô chỉ có mỗi một con đường duy nhất là từ bỏ và chấp nhận thập giá đời mình như Chúa Kitô.
Vì hơn ai hết, những anh chị em dám dấn thân làm môn đệ của Chúa hiểu rằng, chính khi từ bỏ là lúc nhận lại chính mình. Chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết cho thân phận tội lỗi, chết cho sự tha hóa có thể lôi kéo ta hướng chiều về sự dữ, là lúc ta vui sống muôn đời (ý nghĩa của thánh Phanxicô- kinh Hòa Bình).
Bởi vậy, chính lúc chấp nhận thập giá, là chính lúc ta tiến vào vinh hiển của Đấng Phục Sinh.
Bạn thân mến, muốn dấn thân cho một điều gì, ta phải yêu điều ấy. Cũng vậy, để được tự do và tự nguyện chấp nhận sự từ bỏ và vác thập giá, đòi ta phải có lòng yêu mến. Với tình yêu, thập giá sẽ nhẹ hơn, dễ hơn.
Một người mẹ thức trắng đêm để may xong chiếc áo cho con sớm mai đến trường, người mẹ ấy là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả. Bởi đó bạn và tôi hãy yêu thánh giá Chúa Giêsu và yêu lối sống từ bỏ để nên giống Người.
Bản tính tự nhiên, con người thích chọn lối sống dễ dãi. Nhất là cuộc sống văn minh hôm nay, lại càng đặt ta trước nhiều chọn lựa. Nếu không biết yêu thánh giá mà lại cứ chiều theo thói quen bản thân, ta dễ chọn cái tầm thường hơn những điều cao cả; chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền; chọn lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể.
Bởi vậy, biết mình dễ chọn cái xấu, đồng thời cảm nhận sâu xa Lời mời gọi của Chúa Giêsu, yêu thánh giá Chúa, yêu lối sống từ bỏ, bạn và tôi hãy làm lại chọn lựa của mình để dễ dàng dấn thân cho sự từ bỏ và vác thập giá, qua từng việc nhỏ nhặt trong đời thường của mình như: bỏ nghiện thuốc lá, ma túy, rượu chè, trụy lạc…
Hoặc ta dành ngày Chúa Nhật để tôn thờ Chúa, học hỏi giáo lý, lo các việc bổn phận đạo đức. Cương quyết rời chiếc giường êm để đi dự lễ sáng; tắt tivi để đọc kinh tối gia đình; bỏ bớt những giờ táng gẫu trong quán cà phê để cầu nguyện nhiều hơn… Tất cả những điều đó, đòi sự tập luyện lâu dài trong từng ngày sống của mình.
Hãy khắc ghi Lời Chúa dạy: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:36 30/08/2016
6. LÝ TƯỞNG VÀ Ý CHÍ VĨ ĐẠI.
Có hai người học trò, cùng nhau đàm luận về lý tưởng và ý chí vĩ đại của mình.
Một người nói:
- “Cuộc đời tôi đều không được phú túc, cho nên tôi chỉ cần cơm ăn đủ no, ngủ đủ giấc là được rồi. Sau này, nếu một ngày nào đó tôi được giàu có, thì nhất định là ăn no xong liền ngủ, ngủ đủ rồi lại ăn.”
Người học trò kia nói:
- “Tôi thì không giống như anh, tôi nhất định phải ăn cho no, no rồi lại ăn, lúc nào có thời gian rỗi rãi thì mới đi ngủ.”
(Đông Pha Chí Lâm)
Suy tư 6:
Con người ta ai cũng có lý tưởng, có lý tưởng thì phải có ý chí, ý chí cần phải mạnh, phải cương quyết, và có những lúc phải “tàn nhẫn” với chính những ham muốn của mình, cũng có nghĩa là không nhượng bộ với những gì có thể làm chết đi lý tưởng của mình.
Lý tưởng của hai anh học trò trên đây đúng là “vĩ đại”, vì không ai có thể ăn no rồi lại ngủ, ngủ no rồi lại ăn, và cũng chẳng có ai ăn no rồi lại ăn, chỉ có lúc rãnh...ăn mới đi ngủ !? Lý tưởng này chỉ tổ hại nước hại dân và hại chính mình.
Lý tưởng của người Ki-tô hữu là đem tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, đây không phải là lý tưởng trong mơ, nhưng là trong thực tế, thực tế qua cuộc sống của mỗi người Ki-tô hữu mang trên mình một sứ mệnh của Đức Chúa Giê-su: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo...” . Chúng ta đi lễ nhà thờ, chúng ta làm việc lành phúc đức, chúng ta tránh tội.v.v.v...tất cả đều là để làm chứng cho mọi người biết trên vũ trụ này còn có một Thiên Chúa rất nhân từ yêu thương và hay thương xót. Lý tưởng này phải được bày tỏ ra trước mặt thiên hạ bằng lời nói và việc làm của chúng ta.
Có người nói: “Đem Chúa đến cho mọi người là bổn phận của các linh mục, của các bà Sơ, chứ không phải của tôi”, vì suy suy nghĩ như thế nên cuộc sống của họ chưa phản ảnh lại tình yêu của Thiên Chúa, họ không thiết tha gì đến công việc của nhà thờ, họ không muốn đi lễ ngày Chúa Nhật, và nghiêm trọng hơn, họ thường chê bai nhạo báng các mục tử của Giáo Hội, mà cụ thể là cha sở của họ, những người như thế, thì ngay cả họ cũng chưa có Thiên Chúa thì làm sao mà đem Chúa đến cho mọi người được chứ ?
Giáo lý Công Giáo dạy rằng: “Tất cả những hình bóng báo trước của Giao Ước cũ đã được hoàn tất nơi Đức Ki-tô. Ngài khởi sự cuộc đời công khai của Ngài, sau khi đã để cho thánh Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa cho Ngài trong sông Gio-đan , rồi sau khi sống lại, Ngài đã trao sứ mạng cho các tông đồ: “Vậy anh em hãy đi, làm cho các dân tộc trở thành môn đệ Thầy bằng cách rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy cho họ tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em.”
Như vậy, tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội thì đều có bổn phận phải đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người, và đem tình yêu của Chúa đến cho họ.
Đó chính là lý tưởng và ý chí vĩ đại của người Ki-tô hữu vậy.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Có hai người học trò, cùng nhau đàm luận về lý tưởng và ý chí vĩ đại của mình.
Một người nói:
- “Cuộc đời tôi đều không được phú túc, cho nên tôi chỉ cần cơm ăn đủ no, ngủ đủ giấc là được rồi. Sau này, nếu một ngày nào đó tôi được giàu có, thì nhất định là ăn no xong liền ngủ, ngủ đủ rồi lại ăn.”
Người học trò kia nói:
- “Tôi thì không giống như anh, tôi nhất định phải ăn cho no, no rồi lại ăn, lúc nào có thời gian rỗi rãi thì mới đi ngủ.”
(Đông Pha Chí Lâm)
Suy tư 6:
Con người ta ai cũng có lý tưởng, có lý tưởng thì phải có ý chí, ý chí cần phải mạnh, phải cương quyết, và có những lúc phải “tàn nhẫn” với chính những ham muốn của mình, cũng có nghĩa là không nhượng bộ với những gì có thể làm chết đi lý tưởng của mình.
Lý tưởng của hai anh học trò trên đây đúng là “vĩ đại”, vì không ai có thể ăn no rồi lại ngủ, ngủ no rồi lại ăn, và cũng chẳng có ai ăn no rồi lại ăn, chỉ có lúc rãnh...ăn mới đi ngủ !? Lý tưởng này chỉ tổ hại nước hại dân và hại chính mình.
Lý tưởng của người Ki-tô hữu là đem tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, đây không phải là lý tưởng trong mơ, nhưng là trong thực tế, thực tế qua cuộc sống của mỗi người Ki-tô hữu mang trên mình một sứ mệnh của Đức Chúa Giê-su: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo...” . Chúng ta đi lễ nhà thờ, chúng ta làm việc lành phúc đức, chúng ta tránh tội.v.v.v...tất cả đều là để làm chứng cho mọi người biết trên vũ trụ này còn có một Thiên Chúa rất nhân từ yêu thương và hay thương xót. Lý tưởng này phải được bày tỏ ra trước mặt thiên hạ bằng lời nói và việc làm của chúng ta.
Có người nói: “Đem Chúa đến cho mọi người là bổn phận của các linh mục, của các bà Sơ, chứ không phải của tôi”, vì suy suy nghĩ như thế nên cuộc sống của họ chưa phản ảnh lại tình yêu của Thiên Chúa, họ không thiết tha gì đến công việc của nhà thờ, họ không muốn đi lễ ngày Chúa Nhật, và nghiêm trọng hơn, họ thường chê bai nhạo báng các mục tử của Giáo Hội, mà cụ thể là cha sở của họ, những người như thế, thì ngay cả họ cũng chưa có Thiên Chúa thì làm sao mà đem Chúa đến cho mọi người được chứ ?
Giáo lý Công Giáo dạy rằng: “Tất cả những hình bóng báo trước của Giao Ước cũ đã được hoàn tất nơi Đức Ki-tô. Ngài khởi sự cuộc đời công khai của Ngài, sau khi đã để cho thánh Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa cho Ngài trong sông Gio-đan , rồi sau khi sống lại, Ngài đã trao sứ mạng cho các tông đồ: “Vậy anh em hãy đi, làm cho các dân tộc trở thành môn đệ Thầy bằng cách rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy cho họ tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em.”
Như vậy, tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội thì đều có bổn phận phải đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người, và đem tình yêu của Chúa đến cho họ.
Đó chính là lý tưởng và ý chí vĩ đại của người Ki-tô hữu vậy.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:42 30/08/2016
28. Nhân đức đầy đủ của tu sĩ là phải chú ý nghe chính xác mệnh lệnh, tuân giữ chính xác luật phải giữ của tu viện. Ai trung tín với luật dòng thì người ấy càng toàn vẹn.
(Thánh Laura)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Cảnh sát Indonesia bắt giữ một tên khủng bố mưu toan giết chết một linh mục đang cử hành thánh lễ
Đặng Tự Do
00:06 30/08/2016
Cảnh sát ở Sumatra, Indonesia đã bắt giữ một tên khủng bố mưu toan giết chết một linh mục đang cử hành thánh lễ tại một nhà thờ Công Giáo vào sáng Chúa Nhật 28 tháng 8.
Các nhân chứng tại nhà thờ Thánh Giuse Sumatra cho biết như sau: Khi vị linh mục đang đọc bài Tin Mừng, một tiếng nổ dữ dội phát ra từ một trong các hàng ghế bên trong thánh đường. Tên khủng bố bị cháy ở lưng, lao nhanh lên bục giảng, trên cánh tay có quấn chất nổ. Khi quả bom trên tay không nổ, y dùng búa chém vị linh mục.
Anh chị em giáo dân quật ngã tên khủng bố.Vị linh mục chỉ bị thương nhẹ vì va chạm.
Quân đội và cảnh sát đã được gửi nhà thờ để rà soát bom mìn và kiểm tra nghiêm ngặt người ra vào các thánh đường trong vùng để đề phòng một vụ tấn công tương tự.
Indonesia có dân số Hồi giáo lớn nhất thế giới và trong những năm qua đã chứng kiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo.
Các nhân chứng tại nhà thờ Thánh Giuse Sumatra cho biết như sau: Khi vị linh mục đang đọc bài Tin Mừng, một tiếng nổ dữ dội phát ra từ một trong các hàng ghế bên trong thánh đường. Tên khủng bố bị cháy ở lưng, lao nhanh lên bục giảng, trên cánh tay có quấn chất nổ. Khi quả bom trên tay không nổ, y dùng búa chém vị linh mục.
Anh chị em giáo dân quật ngã tên khủng bố.Vị linh mục chỉ bị thương nhẹ vì va chạm.
Quân đội và cảnh sát đã được gửi nhà thờ để rà soát bom mìn và kiểm tra nghiêm ngặt người ra vào các thánh đường trong vùng để đề phòng một vụ tấn công tương tự.
Indonesia có dân số Hồi giáo lớn nhất thế giới và trong những năm qua đã chứng kiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ phong chức tân Linh Mục Việt Nam tại Hồng Kông
Thiên Ân
09:16 30/08/2016
LỄ PHONG CHỨC LINH MỤC TẠI HONG KONG
Hân hoan trong hồng ân thánh hiến mà Thầy cả thượng phẩm Giêsu đã trao cho những người Ngài chọn để làm cho con đường tình yêu của truyền giáo tiếp tục trải dài đến ngày cánh chung. Hòa cùng niềm vui với Giáo phận HongKong trong thánh lễ phong chức linh mục cho các phó tế: Inhaxio La Kính Nghiệp và PhaoLô Nguyễn Kim Sơn.
Xem Hình
Ngay từ 13h30 ngày 20/08/2016, các linh mục tu sĩ, giáo dân và quý khách đã tấp nập tuốn về thánh đường nhà thờ chánh tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Giáo phận HongKong để tham dự thánh lễ truyền chức linh mục. Trong số đông đảo dòng người về dự lễ có sự hiện diện của một nhóm nhỏ từ Việt Nam: Bà cố, các linh mục, anh chị em ruột và bạn bè của thầy phó tế PhaoLô Nguyễn Kim Sơn. Tất cả thể hiện niềm phấn khởi vô cùng trên khuân mặt và sự lạ lẫm với giáo đường Chánh tòa Hong Kong. Người người cũng nhân cơ hội selfie và ghi lại những tấm hình kỉ niệm đáng nhớ trong đời.
HongKong với diện tích 1104km2; dân số khoảng 9 triệu; trong đó người Công Giáo khoảng 5 ngàn; gồm 52 Giáo xứ, khoảng 65 linh mực bản xứ và khoảng 200 dòng và các Hội thừa sai ngoại quốc. Vì vậy, các thánh lễ Chủ Nhật được dâng bằng nhiều ngôn ngữ và cả bằng tiếng Việt Nam. Vào năm 1986, Giáo xứ Giuse-Kowloon đã có thánh lễ bằng tiếng Việt, và vào năm 1988, Giáo xứ thánh Giuse chính thức thành lập Cộng đoàn Hy Vọng và đến năm 1994 đổi tên thành Cộng đoàn Các Thánh tử đạo Việt Nam cho Cộng đồng người Việt Nam tại Hong Kong. Người Việt Nam sinh sống tại đây khoảng 8.000 trong đó có khoảng 300 người Công Giáo dưới sự chăm lo mục vụ của các linh mục người Việt Nam thuộc Dòng Chúa Cứu Thế và Hội thừa sai Paris. Một sự khác biệt lạ thường là “Ban Hội Đồng Mục Vụ người Việt Nam” ở đây toàn phụ nữ. Hầu hết các linh mục người Việt Nam mục vụ tại Hong Kong đều thụ phong linh mục ngoài Hong Kong và đến đây như là sứ giả truyền giáo. Trong đó phải kể đến Linh mục Phêrô Lâm Minh, một người Pháp Việt gốc Hoa Chợ Lớn. Ngài là cựu đại chủng sinh của Đại chủng viện thánh Giuse Sài Gòn đã tận tụy chăm sóc đàn chiên lạc này nhiều năm ròng. Chúng ta biết, sự đa dạng văn hóa của Hương Cảng làm cho Giáo phận Hong Kong cũng phải thích nghi với việc mục vụ cho người di dân sinh sống và làm việc tại đây. Chính vì vậy, Đại Chủng viện Chúa Thánh Thần của Giáo phận Hong Kong mở rộng đón nhận ơn gọi từ nhiều nơi trên thế giới. Việt Nam cũng là cái nôi đóng góp rất nhiều ơn gọi trẻ. Tuy nhiên vấn đề ngôn ngữ là rào cản lớn nhất làm cản bước chân người trẻ trên con đường truyền giáo. Bởi ở đây, đa số các môn bằng tiếng Quảng Đông Cantonese, một số môn do các cha giáo người nước ngoài nên giảng dạy bằng tiếng Anh.
Một nét trưng không thấy ở Việt Nam, là ngoài các cha giáo giảng dạy, còn có nhiều giáo dân là các giáo sư Đại Học ở HongKong tham gia giảng dạy đào tạo linh mục cho Giáo phận Hong Kong. Đó là lý do đòi buộc các chủng sinh phải thông thạo tiếng Anh và tiếng Quảng. Trong số các anh em người Việt Nam đã được Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân chấp thuận dự tu, chỉ còn 2 thầy cùng tên thánh PhaoLô đã hoàn thành chương trình đào tạo linh mục của Giáo phận HongKong. Một thầy người Việt gốc Hoa, sau khi tu học xong đã trở về quê hương thụ phong linh mục và phục vụ tại quê nhà. Một thầy lãnh tác vụ linh mục ngày 20/08/2016 và phục vụ cho Giáo phận Hong Kong. Thầy chính là linh mục người Việt Nam đầu tiên được đào tạo và thụ phong linh mục theo chương trình đào tạo linh mục truyền giáo cho Giáo phận HongKong.
Qua đôi nét về hai tân chức hôm nay, chúng ta sẽ thấy được sự nhiệm màu trong tiếng Chúa tiền định nơi mỗi người Chúa chọn gọi.
Thầy Inhaxio La Kính Nghiệp là người HongKong, theo Đạo Anh Giáo. Khi còn trên ghế giảng đường đại học, ngài đã đón nhận ơn Chúa theo nghi lễ Anh Giáo. Trong 5 năm gia nhập Anh Giáo, ngài vẫn cứ thao thức một niềm tin yêu lạ lùng với Đức Kitô mà khó diễn tả bằng lời. Sự lạ lùng ấy xuất hát từ cuốn sách viết về cuộc đời Mẹ thánh Teresa Calcutta (Mẹ sẽ được Đức Giáo Hoàng Phanxico phong thánh vào ngày 04/09/2016). Và ngài trình bày với Mục Sư Anh Giáo và được người bạn thân người Công Giáo hướng dẫn ngài đến gặp các cha giáo Đại chủng viện Chúa Thánh Thần. Điều đó có thể nhìn nhận như tiếng gọi thầm lặng trong trái tim ngài. Sau khi được rửa tội theo Công Giáo, ngài quyết định con đường làm linh mục Công Giáo, cho dù chịu sự phản đối từ gia đình.
Thầy PhaoLô Nguyễn Kim Sơn là người Việt Nam, đạo gốc. Do gia cảnh mà ngài chỉ mong làm việc giúp cha mẹ bớt gánh nặng tuổi già sức yếu. Sau đại học, ngài đi dạy và đi làm tại sân bay Tân Sơn Nhất. Đến cái tuổi 36, ở Việt Nam hầu như không còn nơi nào ngài có thể đủ điều kiện để dự tu, thì ngài lại có ý định làm linh mục, dù Bà Cố coi đó như là sự hoang tưởng mà địa vị của gia đình không xứng đáng.
Hai con người khác nhau từ lối sống, văn hóa, tôn giáo, tuổi tác, xuất thân ở hai quốc gia khác nhau, khởi hành trên hai con đường khác biệt, đến ý định vào đời hoàn toàn khác nhau nhưng lại đến với nhau trên cùng một hành trình, cùng một con đường truyền giáo và cùng lãnh tác vụ linh mục để phục vụ cho Giáo Hội tại HongKong.
Nhân ngày kính thánh Benado người đã rời bỏ gia đình quý tộc để vào tu viện Xito làm linh mục tại Clairvaux, Đức Hồng Y Gioan Tong Hon phong chức linh mục cho hai thầy Phó tế Ignatius Lo và PhaoLô Nguyễn Kim Sơn. Hôm nay, lúc 15h00 thứ Bảy ngày 20/08/2016, đoàn đồng tế rước từ nhà xứ Chánh tòa với Thánh Giá nến cao tiến vào thánh đường Chánh tòa Giáo Phận HongKong bắt đâu thánh lễ phong chức linh mục cho hai thầy. Trong đoàn rước có gia đình hai tiến chức. Về phía Việt Nam, có Bà Cố tân Linh mục PhaoLô Nguyễn Kim Sơn. Đồng tế trong thánh lễ với Đức Hồng Y Gioan Tong Hon có Đức Hồng Y hưu trí Giuse Trần Nhật Quân (tuy đã 84 tuổi nhưng ngài rất minh mẫn và khỏe mạnh. Dự kiến ngài sẽ sang thăm Việt Nam trong tháng 10/2016), hai Đức Giám mục Phụ tá Giuse Hà Chí Thành (Ha Chi-shing) và Micae Dương Minh Chương (Yeung Ming-Yeung), khoảng 65 linh mục, tu sĩ nam nữ, gia đình, bạn bè và gần 1000 giáo hữu.
Mở đầu thánh lễ, Đức Hồng Y Gioan nhân danh Thiên Chúa chào mừng gia đình, bằng hữu của 2 tân linh mục và cộng đồng dân Chúa và cảm tạ hồng ân Thiên Chúa ban cho Tổng Giáo phận HongKong qua lời cầu bầu của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên tội quan thầy của Giáo xứ Chánh tòa HongKong. Ngài cũng bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc với Đức Hồng Y hưu trí Giuse đã đón nhận và đào tạo 2 tân linh mục cho Tổng Giáo phận (lúc bấy giờ Đức Hồng Y Gioan là Giám mục phụ tá, Giám đốc Đại chủng viện Chúa Thánh Thần) và cảm ơn các Đức Cha (trong đó có Đức Cha Phụ tá Stêphanô Lý Bân Sang (Lee Bun-sang) đang phục vụ tại MaCau), các cha giáo, các giáo sư và cộng đoàn dân Chúa HongKong trong công tác đào tạo 2 tân linh mục. Thiên Chúa đã chọn hai người anh em giữa chúng ta là thầy Inhaxio La Kính Nghiệp và thầy PhaoLô Nguyễn Kim Sơn, sẽ tiến lên lãnh nhận chức vụ tư tế để phục vụ dân của Người. Năm nay cũng là năm HongKong kỷ niệm 175 năm Tin Mừng được gieo trên mảnh đất này và kỷ niệm 70 năm thành lập Giáo phận HongKong. Chúng ta cùng lúc đón nhận nhiều ý nghĩa trọng đại: mừng 2 tân linh mục, “Năm Thánh Lòng Thương Xót” và kỷ niệm “50 năm Công đồng Vatican II bế mạc”, thì đây thật sự là hồng ân Chúa ban.”
Bài đọc 1 do bố đỡ đầu của cha Ignatio La Kính Nghiệp đọc. Để thánh lễ thêm phần đa dạng về văn hóa, ban tổ chức cũng ưu ái cho cộng đồng người Việt nên chọn bài đọc 2 bằng tiếng Việt Nam và cô Elisabeth Nguyễn Thị Trúc Linh, em út của Tân Linh mục Phao Lô Nguyễn Kim Sơn từ Việt Nam qua được vinh dự mời đọc.
Đức Hồng Y Gioan diễn giải lời Chúa và chia sẻ niềm vui trong ngày lễ trao tác vụ linh mục: “Hai thầy sắp lãnh tác vụ linh mục là người thân, bạn bè của anh chị em. Vậy, chúng ta cùng chúc mừng và cầu nguyện cho hai thầy, đồng thời cũng dành ít phút suy gẫm về thiên chức linh mục mà hai thầy sắp lãnh nhận từ Giáo Hội?
Tất cả con cái Thiên Chúa, khi được rửa tội thì đều mang trong mình chức vụ tư tế của Vị Thượng tế là Đức Kitô. Trong nhóm các môn đệ, Ngài đã tự nhân danh chính mình chọn ra một số anh em trong nhóm để đảm nhận chức vụ tư tế phục vụ dân. Khi Đức Kitô đã được Đức Chúa Cha sai đến thế gian, thì Đức Kitô cũng đã sai các môn đệ đi khắp nơi, để qua các ngài và những người thừa kế thừa hành chức vụ ngôn sứ, kệt hợp thành tư tế và ngôn sứ. Vì vậy, linh mục là người cộng tác với giám mục của mình; còn chức vụ của linh mục là sự kết hợp với giám mục để thánh hiến và phục vụ cho dân của Chúa.
Hai thầy, đã trải qua thời kỳ thử thách và tìm hiểu kỹ lưỡng để lãnh nhận chức vụ linh mục để phục vụ cho Đức Kitô. Tức linh mục thi hành sứ vụ tư tế và ngôn sứ của Đức Kitô để làm cho Giáo Hội là Thân Thể của Đức Kitô phát triển; đồng thời làm cho mọi người trở thành con cái của Thiên Chúa là Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Hai thầy sắp được truyền chức thánh, sẽ trở nên giống Vị Thượng Tế đời đời là Đức Kitô, và là vị tư tế hợp tác với Đức Giám Mục để loan báo Tin Mừng, chăm lo cho dân Chúa, cử hành các nghi thức phụng thờ Thiên Chúa, đặc biệt là nghi lễ hiến tế. Nhân ngày lễ phong chức linh mục, chúng ta không chỉ cầu nguyện cách riêng cho hai thầy, mà còn là dịp để nhắc nhớ chúng ta cầu nguyện cho tất cả những người đã thánh hiến, và nhất là cầu nguyện cho ơn gọi của giáo phận HongKong.Vì lúa thì chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng ta cầu nguyện để Chúa ban thêm nhiều thợ gặt đi thu hoạch vụ lúa của Ngài. Ngoài ra, năm nay giáo phận kỷ niệm 175 năm Tin Mừng được gieo trên mảnh đất Hong Kong và kỷ niệm 70 năm thành lập giáo phận, vì thế càng cần nhiều ơn gọi hơn. Vì thế, tôi muốn kêu gọi anh chị em hãy thêm lời cầu nguyện và mở rộng vòng tay, tựa như khuôn mặt nhân từ của Chúa Cha được tỏa sáng trên mảnh đất HongKong này.
Thầy Nghiệp và thầy Sơn thân mến, Cha đặc biệt muốn nói với chúng con đôi lời. Hai con sắp được truyền chức thánh, bước vào hàng ngũ linh mục đoàn, mang danh Đức Kitô loan báo và dạy dỗ. Các con đã lãnh nhận Lời Chúa, và truyền lại cho anh chị em giáo dân. Các con hãy năng suy gẫm Lời Chúa, tin vào những lời các con loan báo, chỉ dạy những gì các con đã tin, và thực hành những gì các con đã dạy. Để làm cho tất cả những lời Giáo lý mà các con nói ra sẽ trở thành của ăn nuôi dưỡng con cái Thiên Chúa, và làm cho đời sống của các con là mẫu gương, và là hình ảnh của những người theo Đức Kitô. Hãy lấy những lời nói và việc làm của các con để xây dựng đại gia đình là Giáo Hội của Thiên Chúa. Đồng thời, các con hãy luôn thánh hóa chức vụ của mình trong Đức Kitô. Làm của lễ thiêng liêng của dân Chúa, qua bàn tay phục vụ của các con, để làm cho việc chúng con cử hành Mầu nhiệm đổ Máu không ngừng của Đức Kitô trên Bàn Thánh sẽ cùng với việc hiến tế của Đức Kitô sẽ được liên kết dâng lên cho Chúa Cha. Vì thế, các con hãy hiểu những gì chúng con sẽ làm, sống với những gì chúng con cử hành. Nghĩa là, chúng con cử hành mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và sống lại, là hãy làm cho chết đi tất cả những tội lỗi của chính mình, không ngừng nỗ lực để làm đổi mới chính mình, và ở trong con người mới của Đức Kitô sẽ không ngừng được đổi mới, đứng lên hành động. Các con sẽ cử hành phép rửa cho những anh chị em, làm cho họ được gia nhập vào hàng ngũ con cái Thiên Chúa. Trong khi cử hành bí tích Hòa Giải, hãy mang lấy danh Đức Kitô và Giáo Hội làm cho hối nhân giao hòa với Chúa, sám hối lỗi lầm, và sức dầu thánh cho những người đau yếu. Các con sẽ chủ sự bí tích Thánh Thể, suy gẫm các giờ kinh sách, thay mặt tất cả các anh chị em dâng lên Chúa Cha lời tạ ơn, nguyện xin. Các con cũng hãy luôn nhớ, các con được tuyển chọn giữa các anh chị em, và được sai đến giữa anh chị em để phục vụ cho anh chị em. Vì vậy, các con luôn mang một lòng, một tâm hồn vui vẻ, chân thành, của đức ái, cố gắng hết lòng thi hành chức vụ của Đức Kitô. Không được làm cho mình bận tâm những nỗi riêng tư, mà hãy xem trọng sứ vụ của Đức Kitô.
Hai con yêu quý, các con sắp chia sẻ gánh vác chức vụ của Đức Kitô, Đấng là Đầu và là Ngôn sứ. Các con sẽ thuộc về Đức Giám Mục địa phận, mà các giám mục đoàn trở nên một, và nỗ lực làm cho các tín hữu trở nên một. Hướng dẫn họ, nhờ vào Đức Kitô ở trong Chúa Thánh Thần, tiến về cùng Chúa Cha. Các con luôn lấy hình ảnh của Đức Kitô làm gương sáng, Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ người khác, đi tìm và cứu rỗi những ai đang thất lạc.
Cuối cùng, hai con thân mến, các con được đặt tay trở thành linh mục giáo phận trong năm thánh Lòng Thương Xót này, năm Giáo phận tròn 70, và 175 năm Tin Mừng được gieo tại HongKong, các con hãy nhớ rằng Thiên Chúa muốn các con noi gương những người đi trước trong giáo phận, không ngại gian khổ để gieo mầm Phúc Âm tại đất HongKong này và luôn chiêm ngắm gương mặt nhân từ của Đức Kitô để trở thành tôi tớ của Chúa Cha nhân lành. Các con phải nhớ người có chức thánh không phải là ông chủ, nhưng là người tôi tớ của các tôi tớ trong Đức Kitô.”
Nhân dịp kỷ niệm 175 năm Tin Mừng được gieo tại Hương Cảng sầm uất, 70 năm thành lập Giáo phận HongKong cũng là dịp phong chức linh mục cho hai người anh em, một linh mục tân tòng, một linh mục ngoại bang đến sinh sống với anh chị em tín hữu HongKong. Mảnh đất Hương Cảng là mảnh đất màu mỡ đang chờ hạt giống Tin Mừng nẩy nở đòi hỏi lòng nhiệt thành của hai tân linh mục với nước Chúa. Nơi đây cũng là ngọn lửa sưởi ấm đức tin Công Giáo cho các tín hữu thầm lặng tại Trung Quốc đang chịu đựng thiệt thòi không được thể hiện niềm tin và sự thông công công khai với Giáo Hội hoàn vũ như các tín hữu HongKong. Xin Thiên Chúa là Cha nhân lành giữ gìn các tân linh mục để lòng nhiệt huyết các ngài làm cho mảnh đất màu mỡ xanh tươi ơn Chúa để những người chưa biết Chúa đón nhận ơn Chúa, những người đang bóp nghẹt hạt giống đức tin biết mở rộng lòng để hạt giống Lời Chúa cũng sinh sôi nảy nở. Đồng thời cũng là tiếng động đánh thức những tâm hồn trẻ can đảm dấn thân theo tiếng Chúa gọi trở thành linh mục như lòng Chúa mong ước và để các Giáo Hội giàu ơn gọi như Việt Nam sẵn sàng chia sẻ, đóng góp ơn gọi trẻ cho các Giáo Hội thiếu hụt ơn gọi làm cho nước Chúa rộng mở.
Thiên Ân
Hân hoan trong hồng ân thánh hiến mà Thầy cả thượng phẩm Giêsu đã trao cho những người Ngài chọn để làm cho con đường tình yêu của truyền giáo tiếp tục trải dài đến ngày cánh chung. Hòa cùng niềm vui với Giáo phận HongKong trong thánh lễ phong chức linh mục cho các phó tế: Inhaxio La Kính Nghiệp và PhaoLô Nguyễn Kim Sơn.
Xem Hình
Ngay từ 13h30 ngày 20/08/2016, các linh mục tu sĩ, giáo dân và quý khách đã tấp nập tuốn về thánh đường nhà thờ chánh tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Giáo phận HongKong để tham dự thánh lễ truyền chức linh mục. Trong số đông đảo dòng người về dự lễ có sự hiện diện của một nhóm nhỏ từ Việt Nam: Bà cố, các linh mục, anh chị em ruột và bạn bè của thầy phó tế PhaoLô Nguyễn Kim Sơn. Tất cả thể hiện niềm phấn khởi vô cùng trên khuân mặt và sự lạ lẫm với giáo đường Chánh tòa Hong Kong. Người người cũng nhân cơ hội selfie và ghi lại những tấm hình kỉ niệm đáng nhớ trong đời.
HongKong với diện tích 1104km2; dân số khoảng 9 triệu; trong đó người Công Giáo khoảng 5 ngàn; gồm 52 Giáo xứ, khoảng 65 linh mực bản xứ và khoảng 200 dòng và các Hội thừa sai ngoại quốc. Vì vậy, các thánh lễ Chủ Nhật được dâng bằng nhiều ngôn ngữ và cả bằng tiếng Việt Nam. Vào năm 1986, Giáo xứ Giuse-Kowloon đã có thánh lễ bằng tiếng Việt, và vào năm 1988, Giáo xứ thánh Giuse chính thức thành lập Cộng đoàn Hy Vọng và đến năm 1994 đổi tên thành Cộng đoàn Các Thánh tử đạo Việt Nam cho Cộng đồng người Việt Nam tại Hong Kong. Người Việt Nam sinh sống tại đây khoảng 8.000 trong đó có khoảng 300 người Công Giáo dưới sự chăm lo mục vụ của các linh mục người Việt Nam thuộc Dòng Chúa Cứu Thế và Hội thừa sai Paris. Một sự khác biệt lạ thường là “Ban Hội Đồng Mục Vụ người Việt Nam” ở đây toàn phụ nữ. Hầu hết các linh mục người Việt Nam mục vụ tại Hong Kong đều thụ phong linh mục ngoài Hong Kong và đến đây như là sứ giả truyền giáo. Trong đó phải kể đến Linh mục Phêrô Lâm Minh, một người Pháp Việt gốc Hoa Chợ Lớn. Ngài là cựu đại chủng sinh của Đại chủng viện thánh Giuse Sài Gòn đã tận tụy chăm sóc đàn chiên lạc này nhiều năm ròng. Chúng ta biết, sự đa dạng văn hóa của Hương Cảng làm cho Giáo phận Hong Kong cũng phải thích nghi với việc mục vụ cho người di dân sinh sống và làm việc tại đây. Chính vì vậy, Đại Chủng viện Chúa Thánh Thần của Giáo phận Hong Kong mở rộng đón nhận ơn gọi từ nhiều nơi trên thế giới. Việt Nam cũng là cái nôi đóng góp rất nhiều ơn gọi trẻ. Tuy nhiên vấn đề ngôn ngữ là rào cản lớn nhất làm cản bước chân người trẻ trên con đường truyền giáo. Bởi ở đây, đa số các môn bằng tiếng Quảng Đông Cantonese, một số môn do các cha giáo người nước ngoài nên giảng dạy bằng tiếng Anh.
Một nét trưng không thấy ở Việt Nam, là ngoài các cha giáo giảng dạy, còn có nhiều giáo dân là các giáo sư Đại Học ở HongKong tham gia giảng dạy đào tạo linh mục cho Giáo phận Hong Kong. Đó là lý do đòi buộc các chủng sinh phải thông thạo tiếng Anh và tiếng Quảng. Trong số các anh em người Việt Nam đã được Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân chấp thuận dự tu, chỉ còn 2 thầy cùng tên thánh PhaoLô đã hoàn thành chương trình đào tạo linh mục của Giáo phận HongKong. Một thầy người Việt gốc Hoa, sau khi tu học xong đã trở về quê hương thụ phong linh mục và phục vụ tại quê nhà. Một thầy lãnh tác vụ linh mục ngày 20/08/2016 và phục vụ cho Giáo phận Hong Kong. Thầy chính là linh mục người Việt Nam đầu tiên được đào tạo và thụ phong linh mục theo chương trình đào tạo linh mục truyền giáo cho Giáo phận HongKong.
Qua đôi nét về hai tân chức hôm nay, chúng ta sẽ thấy được sự nhiệm màu trong tiếng Chúa tiền định nơi mỗi người Chúa chọn gọi.
Thầy Inhaxio La Kính Nghiệp là người HongKong, theo Đạo Anh Giáo. Khi còn trên ghế giảng đường đại học, ngài đã đón nhận ơn Chúa theo nghi lễ Anh Giáo. Trong 5 năm gia nhập Anh Giáo, ngài vẫn cứ thao thức một niềm tin yêu lạ lùng với Đức Kitô mà khó diễn tả bằng lời. Sự lạ lùng ấy xuất hát từ cuốn sách viết về cuộc đời Mẹ thánh Teresa Calcutta (Mẹ sẽ được Đức Giáo Hoàng Phanxico phong thánh vào ngày 04/09/2016). Và ngài trình bày với Mục Sư Anh Giáo và được người bạn thân người Công Giáo hướng dẫn ngài đến gặp các cha giáo Đại chủng viện Chúa Thánh Thần. Điều đó có thể nhìn nhận như tiếng gọi thầm lặng trong trái tim ngài. Sau khi được rửa tội theo Công Giáo, ngài quyết định con đường làm linh mục Công Giáo, cho dù chịu sự phản đối từ gia đình.
Hai con người khác nhau từ lối sống, văn hóa, tôn giáo, tuổi tác, xuất thân ở hai quốc gia khác nhau, khởi hành trên hai con đường khác biệt, đến ý định vào đời hoàn toàn khác nhau nhưng lại đến với nhau trên cùng một hành trình, cùng một con đường truyền giáo và cùng lãnh tác vụ linh mục để phục vụ cho Giáo Hội tại HongKong.
Nhân ngày kính thánh Benado người đã rời bỏ gia đình quý tộc để vào tu viện Xito làm linh mục tại Clairvaux, Đức Hồng Y Gioan Tong Hon phong chức linh mục cho hai thầy Phó tế Ignatius Lo và PhaoLô Nguyễn Kim Sơn. Hôm nay, lúc 15h00 thứ Bảy ngày 20/08/2016, đoàn đồng tế rước từ nhà xứ Chánh tòa với Thánh Giá nến cao tiến vào thánh đường Chánh tòa Giáo Phận HongKong bắt đâu thánh lễ phong chức linh mục cho hai thầy. Trong đoàn rước có gia đình hai tiến chức. Về phía Việt Nam, có Bà Cố tân Linh mục PhaoLô Nguyễn Kim Sơn. Đồng tế trong thánh lễ với Đức Hồng Y Gioan Tong Hon có Đức Hồng Y hưu trí Giuse Trần Nhật Quân (tuy đã 84 tuổi nhưng ngài rất minh mẫn và khỏe mạnh. Dự kiến ngài sẽ sang thăm Việt Nam trong tháng 10/2016), hai Đức Giám mục Phụ tá Giuse Hà Chí Thành (Ha Chi-shing) và Micae Dương Minh Chương (Yeung Ming-Yeung), khoảng 65 linh mục, tu sĩ nam nữ, gia đình, bạn bè và gần 1000 giáo hữu.
Mở đầu thánh lễ, Đức Hồng Y Gioan nhân danh Thiên Chúa chào mừng gia đình, bằng hữu của 2 tân linh mục và cộng đồng dân Chúa và cảm tạ hồng ân Thiên Chúa ban cho Tổng Giáo phận HongKong qua lời cầu bầu của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên tội quan thầy của Giáo xứ Chánh tòa HongKong. Ngài cũng bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc với Đức Hồng Y hưu trí Giuse đã đón nhận và đào tạo 2 tân linh mục cho Tổng Giáo phận (lúc bấy giờ Đức Hồng Y Gioan là Giám mục phụ tá, Giám đốc Đại chủng viện Chúa Thánh Thần) và cảm ơn các Đức Cha (trong đó có Đức Cha Phụ tá Stêphanô Lý Bân Sang (Lee Bun-sang) đang phục vụ tại MaCau), các cha giáo, các giáo sư và cộng đoàn dân Chúa HongKong trong công tác đào tạo 2 tân linh mục. Thiên Chúa đã chọn hai người anh em giữa chúng ta là thầy Inhaxio La Kính Nghiệp và thầy PhaoLô Nguyễn Kim Sơn, sẽ tiến lên lãnh nhận chức vụ tư tế để phục vụ dân của Người. Năm nay cũng là năm HongKong kỷ niệm 175 năm Tin Mừng được gieo trên mảnh đất này và kỷ niệm 70 năm thành lập Giáo phận HongKong. Chúng ta cùng lúc đón nhận nhiều ý nghĩa trọng đại: mừng 2 tân linh mục, “Năm Thánh Lòng Thương Xót” và kỷ niệm “50 năm Công đồng Vatican II bế mạc”, thì đây thật sự là hồng ân Chúa ban.”
Bài đọc 1 do bố đỡ đầu của cha Ignatio La Kính Nghiệp đọc. Để thánh lễ thêm phần đa dạng về văn hóa, ban tổ chức cũng ưu ái cho cộng đồng người Việt nên chọn bài đọc 2 bằng tiếng Việt Nam và cô Elisabeth Nguyễn Thị Trúc Linh, em út của Tân Linh mục Phao Lô Nguyễn Kim Sơn từ Việt Nam qua được vinh dự mời đọc.
Đức Hồng Y Gioan diễn giải lời Chúa và chia sẻ niềm vui trong ngày lễ trao tác vụ linh mục: “Hai thầy sắp lãnh tác vụ linh mục là người thân, bạn bè của anh chị em. Vậy, chúng ta cùng chúc mừng và cầu nguyện cho hai thầy, đồng thời cũng dành ít phút suy gẫm về thiên chức linh mục mà hai thầy sắp lãnh nhận từ Giáo Hội?
Tất cả con cái Thiên Chúa, khi được rửa tội thì đều mang trong mình chức vụ tư tế của Vị Thượng tế là Đức Kitô. Trong nhóm các môn đệ, Ngài đã tự nhân danh chính mình chọn ra một số anh em trong nhóm để đảm nhận chức vụ tư tế phục vụ dân. Khi Đức Kitô đã được Đức Chúa Cha sai đến thế gian, thì Đức Kitô cũng đã sai các môn đệ đi khắp nơi, để qua các ngài và những người thừa kế thừa hành chức vụ ngôn sứ, kệt hợp thành tư tế và ngôn sứ. Vì vậy, linh mục là người cộng tác với giám mục của mình; còn chức vụ của linh mục là sự kết hợp với giám mục để thánh hiến và phục vụ cho dân của Chúa.
Hai thầy, đã trải qua thời kỳ thử thách và tìm hiểu kỹ lưỡng để lãnh nhận chức vụ linh mục để phục vụ cho Đức Kitô. Tức linh mục thi hành sứ vụ tư tế và ngôn sứ của Đức Kitô để làm cho Giáo Hội là Thân Thể của Đức Kitô phát triển; đồng thời làm cho mọi người trở thành con cái của Thiên Chúa là Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Hai thầy sắp được truyền chức thánh, sẽ trở nên giống Vị Thượng Tế đời đời là Đức Kitô, và là vị tư tế hợp tác với Đức Giám Mục để loan báo Tin Mừng, chăm lo cho dân Chúa, cử hành các nghi thức phụng thờ Thiên Chúa, đặc biệt là nghi lễ hiến tế. Nhân ngày lễ phong chức linh mục, chúng ta không chỉ cầu nguyện cách riêng cho hai thầy, mà còn là dịp để nhắc nhớ chúng ta cầu nguyện cho tất cả những người đã thánh hiến, và nhất là cầu nguyện cho ơn gọi của giáo phận HongKong.Vì lúa thì chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng ta cầu nguyện để Chúa ban thêm nhiều thợ gặt đi thu hoạch vụ lúa của Ngài. Ngoài ra, năm nay giáo phận kỷ niệm 175 năm Tin Mừng được gieo trên mảnh đất Hong Kong và kỷ niệm 70 năm thành lập giáo phận, vì thế càng cần nhiều ơn gọi hơn. Vì thế, tôi muốn kêu gọi anh chị em hãy thêm lời cầu nguyện và mở rộng vòng tay, tựa như khuôn mặt nhân từ của Chúa Cha được tỏa sáng trên mảnh đất HongKong này.
Thầy Nghiệp và thầy Sơn thân mến, Cha đặc biệt muốn nói với chúng con đôi lời. Hai con sắp được truyền chức thánh, bước vào hàng ngũ linh mục đoàn, mang danh Đức Kitô loan báo và dạy dỗ. Các con đã lãnh nhận Lời Chúa, và truyền lại cho anh chị em giáo dân. Các con hãy năng suy gẫm Lời Chúa, tin vào những lời các con loan báo, chỉ dạy những gì các con đã tin, và thực hành những gì các con đã dạy. Để làm cho tất cả những lời Giáo lý mà các con nói ra sẽ trở thành của ăn nuôi dưỡng con cái Thiên Chúa, và làm cho đời sống của các con là mẫu gương, và là hình ảnh của những người theo Đức Kitô. Hãy lấy những lời nói và việc làm của các con để xây dựng đại gia đình là Giáo Hội của Thiên Chúa. Đồng thời, các con hãy luôn thánh hóa chức vụ của mình trong Đức Kitô. Làm của lễ thiêng liêng của dân Chúa, qua bàn tay phục vụ của các con, để làm cho việc chúng con cử hành Mầu nhiệm đổ Máu không ngừng của Đức Kitô trên Bàn Thánh sẽ cùng với việc hiến tế của Đức Kitô sẽ được liên kết dâng lên cho Chúa Cha. Vì thế, các con hãy hiểu những gì chúng con sẽ làm, sống với những gì chúng con cử hành. Nghĩa là, chúng con cử hành mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và sống lại, là hãy làm cho chết đi tất cả những tội lỗi của chính mình, không ngừng nỗ lực để làm đổi mới chính mình, và ở trong con người mới của Đức Kitô sẽ không ngừng được đổi mới, đứng lên hành động. Các con sẽ cử hành phép rửa cho những anh chị em, làm cho họ được gia nhập vào hàng ngũ con cái Thiên Chúa. Trong khi cử hành bí tích Hòa Giải, hãy mang lấy danh Đức Kitô và Giáo Hội làm cho hối nhân giao hòa với Chúa, sám hối lỗi lầm, và sức dầu thánh cho những người đau yếu. Các con sẽ chủ sự bí tích Thánh Thể, suy gẫm các giờ kinh sách, thay mặt tất cả các anh chị em dâng lên Chúa Cha lời tạ ơn, nguyện xin. Các con cũng hãy luôn nhớ, các con được tuyển chọn giữa các anh chị em, và được sai đến giữa anh chị em để phục vụ cho anh chị em. Vì vậy, các con luôn mang một lòng, một tâm hồn vui vẻ, chân thành, của đức ái, cố gắng hết lòng thi hành chức vụ của Đức Kitô. Không được làm cho mình bận tâm những nỗi riêng tư, mà hãy xem trọng sứ vụ của Đức Kitô.
Hai con yêu quý, các con sắp chia sẻ gánh vác chức vụ của Đức Kitô, Đấng là Đầu và là Ngôn sứ. Các con sẽ thuộc về Đức Giám Mục địa phận, mà các giám mục đoàn trở nên một, và nỗ lực làm cho các tín hữu trở nên một. Hướng dẫn họ, nhờ vào Đức Kitô ở trong Chúa Thánh Thần, tiến về cùng Chúa Cha. Các con luôn lấy hình ảnh của Đức Kitô làm gương sáng, Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ người khác, đi tìm và cứu rỗi những ai đang thất lạc.
Cuối cùng, hai con thân mến, các con được đặt tay trở thành linh mục giáo phận trong năm thánh Lòng Thương Xót này, năm Giáo phận tròn 70, và 175 năm Tin Mừng được gieo tại HongKong, các con hãy nhớ rằng Thiên Chúa muốn các con noi gương những người đi trước trong giáo phận, không ngại gian khổ để gieo mầm Phúc Âm tại đất HongKong này và luôn chiêm ngắm gương mặt nhân từ của Đức Kitô để trở thành tôi tớ của Chúa Cha nhân lành. Các con phải nhớ người có chức thánh không phải là ông chủ, nhưng là người tôi tớ của các tôi tớ trong Đức Kitô.”
Nhân dịp kỷ niệm 175 năm Tin Mừng được gieo tại Hương Cảng sầm uất, 70 năm thành lập Giáo phận HongKong cũng là dịp phong chức linh mục cho hai người anh em, một linh mục tân tòng, một linh mục ngoại bang đến sinh sống với anh chị em tín hữu HongKong. Mảnh đất Hương Cảng là mảnh đất màu mỡ đang chờ hạt giống Tin Mừng nẩy nở đòi hỏi lòng nhiệt thành của hai tân linh mục với nước Chúa. Nơi đây cũng là ngọn lửa sưởi ấm đức tin Công Giáo cho các tín hữu thầm lặng tại Trung Quốc đang chịu đựng thiệt thòi không được thể hiện niềm tin và sự thông công công khai với Giáo Hội hoàn vũ như các tín hữu HongKong. Xin Thiên Chúa là Cha nhân lành giữ gìn các tân linh mục để lòng nhiệt huyết các ngài làm cho mảnh đất màu mỡ xanh tươi ơn Chúa để những người chưa biết Chúa đón nhận ơn Chúa, những người đang bóp nghẹt hạt giống đức tin biết mở rộng lòng để hạt giống Lời Chúa cũng sinh sôi nảy nở. Đồng thời cũng là tiếng động đánh thức những tâm hồn trẻ can đảm dấn thân theo tiếng Chúa gọi trở thành linh mục như lòng Chúa mong ước và để các Giáo Hội giàu ơn gọi như Việt Nam sẵn sàng chia sẻ, đóng góp ơn gọi trẻ cho các Giáo Hội thiếu hụt ơn gọi làm cho nước Chúa rộng mở.
Thiên Ân
Đi thắp hương cho danh nhân Nguyễn Trường Tộ tại Vinh
Triết Giang
09:05 30/08/2016
Năm nay, đúng dịp kỷ niệm 135 năm ngày mất của danh nhân Công Giáo Phaolô Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) nên nhiều trí thức Hà Nội ao ước có một lần về thắp hương cho ông. Đặc biệt Trung tâm Minh Triết do nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai là Giám đốc cũng nhiều lần bày tỏ ước muốn mà chưa thực hiện được nhất là hiện nay, Trung tâm này đang đặt ra mục tiêu nghiên cứu các tư tưởng của tiền nhân như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Đức Tuấn, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Bản thân tôi cũng có một số bài viết nghiên cứu về tư duy đổi mới và tư tưởng triết học của ông được đăng trong hai công trình của Trung tâm Khoa học Tư duy là “ Khoa học tư duy từ những hướng tiếp cận khác nhau” và cuốn “ Nguyễn Trường Tộ hôm qua và hôm nay”. Cuốn sau, do Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp- Giám mục giáo phận Vinh chủ biên và Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành.
Chúng tôi khởi hành từ Hà Nội rất sớm, vợ chồng nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai- PGS.TS Trần Thị Băng Thanh còn chuẩn bị lẵng hoa và nến từ Thủ đô đưa vào. Chúng tôi đã liên hệ với Đức Cha Phaolô nên ngài thỉnh thoảng lại gọi điện hỏi thăm xe đã đến đâu. Tới sân Tòa Giám mục, Đức Cha Phaolô đã ra tận cổng đón khách.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai – người đã viết bức tâm thư gửi giáo phận Vinh trước ngày vì môi trường 7-8-2016 rất được dư luận quan tâm, muốn đi dâng hương ngay nhưng Đức Cha Phaolô nói, cứ nghỉ ngơi chút ít, ăn cơm xong, ngài đích thân đưa đi. Hơn nữa chúng tôi cũng còn phải đợi một xe nữa chở mấy trí thức như PGS Phạm Khiêm Ích, TS Nguyễn Xuân Diện, lương y Phạm Cao Sơn… đang đi sau chút. Lương y Phạm Cao Sơn mang vào hơn 1 tạ thuốc bổ và thuốc chữa bệnh để giúp đỡ giáo phận Vinh nên nhờ Đức Cha gọi mấy thầy đến để nghe hướng dẫn sử dụng.
Khi đoàn đã đến đủ, chúng tôi được Đức Cha mời đến quán Lam Hồng, một quán cà phê trong khuôn viên Tòa Giám mục mà như lời Đức Cha là nơi để trao đổi công việc của ngài với các cộng sự mỗi ngày. Quán nhỏ, làm toàn bằng tre, lá. Xung quanh vang tiếng chim hót từ các bụi cây cảnh. Bữa ăn rất thịnh soạn và trang trọng quanh câu chuyện thân tình của chủ và khách. Một người đề nghị nói chuyện ngay với Đức Cha nhưng ngài cho rằng cứ nghỉ trưa đi rồi gặp sau. Ngài thân chinh đến mở từng cửa phòng, bật điều hòa cho khách. Tôi muốn giúp ngài việc này, nhưng ngài nói để tự ngài làm thì chu đáo hơn.
Đúng 14h, chúng tôi xuống phòng khách, thì ngài đã đợi sẵn. Cha chánh văn phòng giáo phận Phaolô Nguyễn Văn Hiểu tự tay rót nước mời khách. Chúng tôi chia sẻ âu lo với sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung vừa qua và cả những khâm phục của anh em trí thức Hà Nội với sự can đảm, không ngoan của Đức Cha Phaolô và giáo dân của giáo phận Vinh về vấn đề này. Đức Cha Phaolo cảm ơn sự sẻ chia của anh em trí thức, doanh nhân Hà Nội, đồng thời trấn an rằng, các vị đừng lo cho tôi, tôi là Giám mục Công Giáo nên trước hết Chúa sẽ lo toan gìn giữ rồi nửa triệu giáo dân Vinh cũng chăm lo. Hơn nữa chính quyền cũng quan tâm, săn sóc.
Vấn đề hiện nay là làm sao có biển sạch để ngư dân lại ra khơi và kiểm tra sức khỏe cho bà con để họ yên tâm bám biển mưu sinh. Một số dự định trong tương lai được các trí thức trao đổi xin sự ủng hộ của Đức Cha Phaolô. Đức Cha tự tay tặng sách, tặng tượng Đức Mẹ Việt Nam, quà đặc sản của Vinh cho từng người và không quên gửi phần cho GS Chu Hảo, TS Nguyễn Quang A, GS Hồ Sĩ Quý, GS Nguyễn Quang Hưng. Vì công việc bận nên các GS này không đi cùng được.
Đức Cha Phaolô thân chinh đưa chúng tôi ra viếng mộ danh nhân Nguyễn Trường Tộ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai nghĩ đạo Công Giáo không thắp hương nên không chuẩn bị hương. Tôi vội chạy đi mua mấy nắm. Đức Cha bảo mang cả cuốn sách “ Nguyễn Trường Tộ hôm qua và hôm nay” ra. Ngài nói rằng, Tiên sinh trước đây mang bao khát vọng và hoài bão nhưng chưa thực hiện được. Bây giờ, nhiều điều đang được triển khai, xin tiên sinh chứng giám. Đức Cha cũng xướng kinh để chúng tôi cùng cầu nguyện cho linh hồn Phaolô.
Mọi người lần lượt dâng hương trước phần mộ của danh nhân. PGS.TS Trần Thị Băng Thanh, TS Nguyễn Xuân Diện- chuyên gia về Hán Nôm say sưa đọc, ghi câu đối trên mộ phần danh nhân. Phần mộ của danh nhân đơn giản, chỉ có tấm bia nhỏ ghi công tích như cuộc đời của danh nhân. Khuôn viên mộ phần rộng và thoáng.
Trên đường về, Đức Cha đưa chúng tôi ghé thăm Đại chủng viện Vinh- Thanh. Nơi đây có nhà nguyện mới xây khá đẹp. Đặc biệt nhà nguyện có chiếc bàn thờ bằng gỗ nguyên khối mà mặt trước chạm nổi bức tranh tuyệt tác “Tiệc ly” của L. Vinci. Nhiều người thích thú chụp ảnh trước bàn thờ độc đáo này. Ngài cũng đưa chúng tôi lên thăm hội trường 600 chỗ ngồi mới khánh thành. Quang cảnh như một nhà hát nho nhỏ.
Vì đường xa, chúng tôi cảm tạ sự tiếp đón ân cần của Ngài và chia tay để quay về Hà Nội. Mọi người rất vui vì có một chuyến đi lý thú.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai – người đã viết bức tâm thư gửi giáo phận Vinh trước ngày vì môi trường 7-8-2016 rất được dư luận quan tâm, muốn đi dâng hương ngay nhưng Đức Cha Phaolô nói, cứ nghỉ ngơi chút ít, ăn cơm xong, ngài đích thân đưa đi. Hơn nữa chúng tôi cũng còn phải đợi một xe nữa chở mấy trí thức như PGS Phạm Khiêm Ích, TS Nguyễn Xuân Diện, lương y Phạm Cao Sơn… đang đi sau chút. Lương y Phạm Cao Sơn mang vào hơn 1 tạ thuốc bổ và thuốc chữa bệnh để giúp đỡ giáo phận Vinh nên nhờ Đức Cha gọi mấy thầy đến để nghe hướng dẫn sử dụng.
Khi đoàn đã đến đủ, chúng tôi được Đức Cha mời đến quán Lam Hồng, một quán cà phê trong khuôn viên Tòa Giám mục mà như lời Đức Cha là nơi để trao đổi công việc của ngài với các cộng sự mỗi ngày. Quán nhỏ, làm toàn bằng tre, lá. Xung quanh vang tiếng chim hót từ các bụi cây cảnh. Bữa ăn rất thịnh soạn và trang trọng quanh câu chuyện thân tình của chủ và khách. Một người đề nghị nói chuyện ngay với Đức Cha nhưng ngài cho rằng cứ nghỉ trưa đi rồi gặp sau. Ngài thân chinh đến mở từng cửa phòng, bật điều hòa cho khách. Tôi muốn giúp ngài việc này, nhưng ngài nói để tự ngài làm thì chu đáo hơn.
Đúng 14h, chúng tôi xuống phòng khách, thì ngài đã đợi sẵn. Cha chánh văn phòng giáo phận Phaolô Nguyễn Văn Hiểu tự tay rót nước mời khách. Chúng tôi chia sẻ âu lo với sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung vừa qua và cả những khâm phục của anh em trí thức Hà Nội với sự can đảm, không ngoan của Đức Cha Phaolô và giáo dân của giáo phận Vinh về vấn đề này. Đức Cha Phaolo cảm ơn sự sẻ chia của anh em trí thức, doanh nhân Hà Nội, đồng thời trấn an rằng, các vị đừng lo cho tôi, tôi là Giám mục Công Giáo nên trước hết Chúa sẽ lo toan gìn giữ rồi nửa triệu giáo dân Vinh cũng chăm lo. Hơn nữa chính quyền cũng quan tâm, săn sóc.
Vấn đề hiện nay là làm sao có biển sạch để ngư dân lại ra khơi và kiểm tra sức khỏe cho bà con để họ yên tâm bám biển mưu sinh. Một số dự định trong tương lai được các trí thức trao đổi xin sự ủng hộ của Đức Cha Phaolô. Đức Cha tự tay tặng sách, tặng tượng Đức Mẹ Việt Nam, quà đặc sản của Vinh cho từng người và không quên gửi phần cho GS Chu Hảo, TS Nguyễn Quang A, GS Hồ Sĩ Quý, GS Nguyễn Quang Hưng. Vì công việc bận nên các GS này không đi cùng được.
Đức Cha Phaolô thân chinh đưa chúng tôi ra viếng mộ danh nhân Nguyễn Trường Tộ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai nghĩ đạo Công Giáo không thắp hương nên không chuẩn bị hương. Tôi vội chạy đi mua mấy nắm. Đức Cha bảo mang cả cuốn sách “ Nguyễn Trường Tộ hôm qua và hôm nay” ra. Ngài nói rằng, Tiên sinh trước đây mang bao khát vọng và hoài bão nhưng chưa thực hiện được. Bây giờ, nhiều điều đang được triển khai, xin tiên sinh chứng giám. Đức Cha cũng xướng kinh để chúng tôi cùng cầu nguyện cho linh hồn Phaolô.
Mọi người lần lượt dâng hương trước phần mộ của danh nhân. PGS.TS Trần Thị Băng Thanh, TS Nguyễn Xuân Diện- chuyên gia về Hán Nôm say sưa đọc, ghi câu đối trên mộ phần danh nhân. Phần mộ của danh nhân đơn giản, chỉ có tấm bia nhỏ ghi công tích như cuộc đời của danh nhân. Khuôn viên mộ phần rộng và thoáng.
Trên đường về, Đức Cha đưa chúng tôi ghé thăm Đại chủng viện Vinh- Thanh. Nơi đây có nhà nguyện mới xây khá đẹp. Đặc biệt nhà nguyện có chiếc bàn thờ bằng gỗ nguyên khối mà mặt trước chạm nổi bức tranh tuyệt tác “Tiệc ly” của L. Vinci. Nhiều người thích thú chụp ảnh trước bàn thờ độc đáo này. Ngài cũng đưa chúng tôi lên thăm hội trường 600 chỗ ngồi mới khánh thành. Quang cảnh như một nhà hát nho nhỏ.
Vì đường xa, chúng tôi cảm tạ sự tiếp đón ân cần của Ngài và chia tay để quay về Hà Nội. Mọi người rất vui vì có một chuyến đi lý thú.
Đức TGM Leopoldo Girelli thăm mục vụ giáo phận Đà Nẵng
Xứ Tam Tòa
09:50 30/08/2016
ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC LEOPOLDO GIRELLI, ĐẠI DIỆN TÔNG TÒA TẠI VIỆT NAM THĂM MỤC VỤ GIÁO PHẬN ĐÀ NẴNG
Một tin vui bất ngờ đến với giáo phận Đà Nẵng được Văn phòng Tòa Giám Mục thừa lệnh Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, giám mục giáo phận thông báo: Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli sẽ có chuyến thăm mục vụ 2 ngày tại Giáo phận Đà Nẵng: trong đó, ngày Chúa Nhật 28/8/2016, Ngài sẽ đi thăm và dâng thánh lễ với Đức Cha Giuse tại 2 giáo xứ: một ở miền quê thuộc giáo hạt Tam Kỳ (Tỉnh Quảng Nam) và một tại giáo hạt Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng).
Xem Hình
Vào lúc chiều muộn ngày cuối tuần, thứ Bảy, 27/8/2016 đoàn đón tiếp của giáo phận tháp tùng Đức Cha Giuse gồm có Cha Tổng Đại diện P.M. Trần Quốc Việt, Cha Hạt Trưởng Đà Nẵng Phê-rô Hoàng Gia Thành, Cha Chánh Văn phòng TGM Gabriel Nguyễn Ngọc Tuấn, Cha Quản lý Giáo phận G.B Trần Ngọc Tuyến và Chị Giám Tỉnh Maria Nguyễn thị Xuân Lang, Chị Cố vấn Rosa Lê thị Sa của Tỉnh Dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng đã có mặt tại sân bay Đà Nẵng đón chào Đức TGM Leopoldo Girelli đáp chuyến bay từ Singapore đến Đà Nẵng lúc 17 giờ 45. Một bó hoa tươi được dâng tặng chào đón vị Đại Diện Tông Tòa và những lời chào hỏi bằng Anh, Pháp, Ý ngữ được tiếp trao. 2 chiếc xe Tòa giám mục từ tử chạy qua vài con đường đẹp của thành phố biển đang lên đèn, kịp về tới Nhà Thờ Chính Tòa, nơi có anh chị em giáo dân vừa tan lễ thứ Bảy đang nôn nóng đợi chờ. Khi xe chở Đức Tổng Giám mục Leopoldo dừng trước cổng Nhà thờ Chính Tòa, lời chào mừng của Cha Phanxico Salesio Lê văn La Vinh, phó xứ Chính Tòa mời gọi cộng đoàn vui đón vang lên trong tiếng vỗ tay râm ran kéo dài, cùng với những bước chân của các vị chủ chăn và cộng đoàn từ cổng chính tiến lên tiền đường, dừng bước trước cửa Năm Thánh của nhà thờ Chính Tòa. Đứng giữa đoàn tín hữu đang rộn vui, Đức Tổng Giám mục Đại diện Tông Tòa đã có những lời bày tỏ cảm động và ý nghĩa để cám ơn và chào thăm cộng đoàn. Lấy ý tưởng từ sự kiện cộng đoàn vừa tan lễ, qua cửa thánh để về nhà, Đức Tổng đã nói với cộng đoàn về ý nghĩa và giá trị của Năm Thánh Lòng Thương Xót mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã khai mở, để giúp mỗi kitô hữu làm mới đức tin của mình, củng cố và thúc đẩy đức trông cậy và yêu mến trong cuộc hành trình đức tin hướng về lòng thương xót của Chúa Cha, bày tỏ tình lân ái của nhân loại trong cuộc sống từng ngày của mỗi người. Đức Tổng cũng nhắc đến việc Ngài đã từng đến thăm giáo phận nhiều lần, nhưng đây là dịp đặc biệt vì là lần thứ nhất Ngài được Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, trên cương vị chủ chăn giáo phận Đà Nẵng tiếp đón và đồng hành suốt cuộc thăm viếng. Đức Tổng nhắc đến mối liên hệ thân thiết giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và Tòa Thánh với từng Giáo Hội địa phương, cách riêng giáo phận Đà Nẵng. Sau phần chào đón thắm tình của cộng đoàn dân Chúa, Đức Tổng Giám Mục đã về Tòa Giám mục chuẩn bị cho bữa ăn tối đầu tiên của chuyến viếng thăm.
Theo chương trình và ý muốn của Đức Tổng đại diện Tông Tòa, sáng sớm Chúa Nhật 28/8/2016, Đức Cha Giuse đã hướng dẫn và đồng hành với ngài đi vào giáo xứ AN SƠN, một xứ đạo cố cựu thuộc vùng bán sơn địa ở phía Tây Nam giáo phận do Cha Đa minh Trần Công Danh quản xứ. Cộng đoàn dân Chúa giáo xứ An Sơn, gồm rất nhiều người già và trung niên đã xếp thành 2 hàng rất dài, từ tiền đường nhà thờ trên sườn đồi tới tận cổng chính cuối dốc và tràn ra tới đường ruộng để đón tiếp các vị Chủ Chăn lần đầu tiên tới thăm giáo xứ. Niềm vui và cảm động hiện rõ trên khuôn mặt Cha quản xứ và từng giáo dân ở vùng đất nghèo cơ cực này, như lời chào mừng của vị mục tử giáo xứ: “Chúng con có mơ cũng không tưởng tưởng ra rằng có ngày được tiếp đón vị Đại Diện Đức Thánh Cha đồng hành với Đức Giám Mục giáo phận đến thăm một xứ đạo quê nghèo và nhỏ bé này…” Đây cũng là lần đầu tiên, sau 4 tháng nhậm chức Giám mục giáo phận Đức Cha Giuse thăm mục vụ và dâng lễ tại giáo xứ An Sơn. Sau nghi thức quỳ bái Thánh Thể trong nhà thờ giáo xứ, quý Đức Cha đã được long trọng chào đón với một vũ khúc đơn sơ và một nghi thức đặc biệt, có lẽ chỉ có tại An Sơn: thắp hương kính viếng và cầu nguyện tại Bia Mộ các vị chứng nhân đức tin của giáo xứ (đã bị thiêu và chôn sống tại một ngôi giếng trong vùng do đạo quân Văn Thân trong các cuộc bách hại đạo Chúa dưới thời Nhà Nguyễn.
Lúc 8 giờ 30, thánh lễ ban bí tích Thêm Sức cho 11 thiếu niên, và 12 em khác được phúc Rước lễ lần đầu. Thánh lễ được cử hành ngoài trời tại tiền đường Nhà thờ giáo xứ và giáo dân ngồi bên trong 2 dãy nhà bạt lớn dọc 2 bên sân Nhà thờ. Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli đồng tế với Đức Cha Giuse và các Cha trong hạt Tam Kỳ. Sau lời chào mừng lược ghi lại lịch sử giáo xứ của Cha Đa minh, quản xứ. Trong bài giảng dựa vào câu chuyện những khách được mời dự tiệc tại nhà một người Biệt phái với câu nói mang nhiều nghịch lý đức tin: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, Đức Cha chủ tế đã mời gọi cộng đoàn phụng vụ suy niệm và khám phá đức Khiêm Nhường, như là chìa khóa mở ra kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa và thúc giục từng người sống những giá trị chân chính và tích cực của Lòng Thương Xót. Ngài cũng nhắc đến tông huấn “Laudato Sii” của Đức Thánh Cha Phanxicô như lời mời gọi kitô hữu sống tích cực thực tại THIÊN NHIÊN và MÔI TRƯỜNG, là ân ban cao trọng của Thiên Chúa: mọi kitô hữu và từng người dân Việt trong thời đại này đang phải đau xót trải nghiệm khi chính con người làm cho môi trường bị ô nhiễm và cạn kiệt. Sau bài giảng, Đức Tổng Giám mục Leopoldo đã đích thân cử hành nghi thức ban bí tích Thêm sức cho 11 thiếu niên trong giáo xứ. Với lời nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần do Đức Cha Giuse đọc, Đức Tổng đã đặt tay và xức dầu lên trán từng em với lời đọc “Con hãy nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần” và “Bình an của Chúa ở cùng con!”. Có thêm 12 thiếu niên được diễm phúc Rước Mình Máu Thánh Chúa lần đầu cùng với các thụ nhân bí tích Thêm Sức và các bậc cha mẹ đỡ đầu. Cuối Thánh Lễ, Đức Cha Giuse, Giám mục giáo phận đã thay mặt cộng đoàn dân Chúa toàn giáo phận nói chung và giáo xứ An Sơn nói riêng chào mừng và tạ ơn Đức Tổng Giám mục trước khi Cha Đaminh Trần công Danh tiếp tục trình bày lịch sử và hiện tình rất đáng thương của giáo xứ thuần nông này. Trong lời đáp từ cuối lễ, Đức TGM Leopoldo một lần nữa, bằng tài quan sát và liên tưởng của mình đã mượn lại hình ảnh những cánh đồng lúa chín và những người nông dân vất vả đang thu hoạch vụ mùa mới, để khuyến dụ cộng đoàn dân Chúa An Sơn biết quý trọng và thực hành truyền thống đạo đức đã được cha ông truyền lại, là sẵn sàng làm chứng tá cho đức tin như các bậc tiền nhân. Đức Tổng đã nhẹ nhàng nhắc nhở rằng: “Cũng như ruộng đồng cần ánh sáng mặt trời và nước cho hạt giống nẩy mầm, trổ sinh nhiều bông hạt, thì mỗi kitô hữu cũng cần biết quý trọng và làm cho đời sống đạo và tâm hồn của mình cũng được hâm nóng và trổ sinh hoa quả nhờ sức mạnh và nguồn ân thánh của Chúa Thánh Thần như ánh sáng và nước chan hòa tưới gội cho đồng ruộng nên xanh tốt để có thể thu hoạch những vụ mùa tốt đẹp.” Ngài cũng nhắc nhở cộng đoàn noi gương trung kiên và can đảm của các vị anh hùng tử đạo tại An Sơn để tiếp tục làm giàu gia sản đức tin của giáo xứ mình. Thánh lễ kết thúc với Phép lành toàn xá Năm Thánh được Quý Đức Cha ban cho cộng đoàn dân Chúa An Sơn trước khi cùng chung dựi bữa tiệc mừng tạ ơn này…
Rời An Sơn về lại Tòa Giám Mục nghỉ ngơi đôi chút, lúc 16 giờ 30, Đức Tổng Giám mục Đại diện Tông Tòa được Đức Cha Giuse đồng hành tới thăm mục vụ một giáo xứ nội thành là TAM TÒA. Ngay từ 16 giờ, khuôn viên nhà thờ Tam Tòa đã rực rỡ muôn sắc màu của đồng phục các hội đoàn trong giáo xứ. Các em nhi đồng cũng rộn ràng khi được trang điểm để chuẩn bị cho 1 vũ khúc tạ ơn cuối thánh lễ. Tiền đường Nhà thờ nổi bật với band-de-rôle “Hân hoan chào đón Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli – đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam và Đức Giám Mục Giuse Đặng Đức Ngân – Giám mục Giáo phận” cùng với hai tấm panô lớn in hình 2 vị “thượng khách” cũng là chủ lễ chiều nay. Nét rộn vui và háo hức chờ đợi dường như biểu hiện trên khuôn mặt từng người, đặc biệt các em thiêu niên của các đoàn thể: Lễ Sinh, ca đoàn thiếu nhi và Thiếu nhi Thánh Thể. Mọi người và mọi việc chừng như đã sẵn sàng để đón chào 2 vị Chủ Chăn Hội Thánh. Đúng 16 giờ 45, chuông nhà thờ rộn ràng reo vang cùng với bài trống phụ họa của đội Trống giáo xứ, tiếng MC vang lên lời tung hô chào mừng Đức Tổng Giám mục đại diện Tòa Thánh và Đức Giám Mục giáo phận và những vòng hoa tươi đã được Cha Quản xứ quàng cho 2 vị chủ chăn đáng kính. Sau khi đón chào tại sân trước và rước vào hội trường cho nghi thức chào mừng vắn gọn để mời các Đức Cha tiến lên nhà thờ bái kính Chúa Thánh Thể. Đoàn kiệu rước gồm các thành viên HĐMV, ban điều hành 4 giới – Gia Phụ, Hiền Mẫu, Thánh niên Thiếu Nhi khởi đi từ Phòng khách Nhà xứ dọc theo trục đường Trần Cao Vân tiến lên nhà thờ trong tiếng chuông, trống, chiêng nhịp nhàng theo lời dẫn lễ và ca nhập lễ của ca đoàn Trẻ của giáo xứ. Sau khi các Đức Cha, các cha đồng tế an tọa, Cha Quản xứ Phêrô Hoàng Gia Thành nói lời chào mừng và giới thiệu khi gợi lên “gốc gác” xứ đạo Tam Tòa Đà Nẵng, kế thừa truyền thống tuyên xưng đức tin và lòng đạo chân thành của các tiên nhân từ Tam Tòa (Đồng Hới, Quảng Bình) di cư vào Nam năm 1954 vì muốn được thanh thản sống niềm tin cậy mến vào Thiên Chúa. Thánh lễ được khởi đầu với cung giọng đặc biệt của Đức Tổng Leopoldo Girelli bằng tiếng Việt “Chúa ở cùng anh chị em”!
Các bài đọc Chúa Nhật 22 thường niên (năm C) được các thành viên Hội Đồng Mục vụ tuyên đọc cùng với bài đáp vịnh ca của ca đoàn. Trong bài giảng lễ bằng tiếng Anh (được cha Quản xứ Phêrô phiên dịch tiếng Việt), Đức Tổng giám mục chủ lễ đã nêu lên một tinh thần cốt lõi của đời sống đạo theo gương Chúa Giêsu là KHIÊM NHƯỜNG - TỰ HẠ. Lắng nghe lời diễn ý dụ ngôn về chỗ ngồi trong bữa tiệc, cộng đoàn dân Chúa đã được giới thiệu ý nghĩa và giá trị của nhân đức khiêm nhường giúp hình thành, củng cố và phát huy cách sống đức tin và chứng tá cho Đạo Thánh Chúa trong thế giới ngày nay: “Ngày nay, quan điểm được đề cập trong Kinh Thánh này đặc biệt gây nên thách đố cho tư duy thời đại. Theo cách nghĩ của số đông hiện nay, người khiêm nhường được coi là người bỏ cuộc, kẻ bị đánh bại, một người chẳng có gì đáng nói. Nhưng thực ra, đây mới là nguyên tắc chính yếu, và không chỉ vì khiêm nhường là một đức tính nhân bản tuyệt vời, nhưng còn bởi vì trước tiên, khiêm nhường diễn tả cách thức hành động riêng của Thiên Chúa’’. Đức Tổng giám mục cũng mời gọi dân Chúa “đừng sợ nếu bị xem như là khác người và bị chỉ trích về lối sống có vẻ như bị thua thiệt. Sống khiêm nhường không phải là bị loại trừ, nhưng là sống can đảm!” Lòng can đảm được nhấn mạnh khi kitô hữu biết khiêm nhu giao phó chính bản thân mình cho Thiên Chúa, trở nên phần tử đích thực của gia đình Hội Thánh Chúa ở trần thế. Đức Tổng cũng đề cập đến vai trò cần thiết của người tín hữu Chúa Kitô khi sống cuộc đời trần thế là biết đóng góp phần mình để xây dựng một xã hội công bằng và hài hòa hơn. Ngài nhắc đến một nghĩa vụ cấp thiết của kitô hữu được Đức Thánh Cha Phanxico chỉ dẫn trong tông huấn “Laudato Sii” là cấp bách phải hành động trong việc bảo vệ môi trường để “đưa ra những quyết định có thể tái tạo mối tương quan vững chắc giữa nhân loại và trái đất trước khi quá muộn!” Thánh lễ được tiếp diễn cách nghiêm trang, nhẹ nhàng với những lời ca kinh rập ràng sốt mến.
Sau lời nguyện hiệp lễ, Đức Cha Giuse giám mục giáo phận thay mặt cộng đoàn dân Chúa giáo phận cám ơn và chúc mừng chuyến thăm mục vụ đầy nghĩa tình của Đức Tổng, đại diện Đức Thánh Cha, để có thể đồng cảm với sự đa dạng của sinh hoạt giáo phận nhưng vẫn luôn hiệp thông và hiệp nhất trong một Hội Thánh Chúa Kitô. Tiếp theo, ông Inhaxiô Phạm thanh Hương, thay mặt Hội đồng mục vụ và cộng đoàn dâng lời tạ ơn Chúa, cám ơn Đức Cha Giuse đã thương giáo xứ và đồng hành với Đức Tổng đến thăm và chia sẻ với cộng đoàn dân Chúa Tam Tòa. Một món quà đơn sơ, bó hoa tươi thắm và nhất là vũ khúc tạ ơn do các ấu nhi giáo xứ dâng tặng Đức Tổng và Đức Cha Giuse, quý cha đồng tế và cộng đoàn Phụng vụ. Trong lời đáp từ trước khi ban phép lành, Đức Tổng Giám mục đã dùng câu chuyện về 6 chiếc cầu rất đẹp của thành phố Đà Nẵng bắc qua sống Hàn nối kết đôi bờ thân thương, để giới thiệu những cây cầu tuyệt vời hơn và nhiều hơn cho đời sống tâm linh nơi kitô hữu và Hội Thánh: đó là 7 bí tích như những nhịp cầu nối kết tín hữu với Thiên Chúa, nối kết đất với Trời. Nếu trong số 6 cây cầu của Đà Nẵng, có 2 cầu đẹp nhất thì trong 7 cây cầu tâm linh của kitô hữu cũng có 2 cầu đẹp là cầu “bí tích hòa giải” và cầu “bí tích Thánh Thể”. Cộng đoàn đã vỗ tay liên tục tán thưởng và cám ơn Đức Tổng chủ lễ đã chỉ giáo cho tín hữu Chúa những giá trị đẹp sáng của kho tàng bí tích trong Hội Thánh. Phép lành kết thúc tiệc Thánh, nhưng cũng mở đầu cho một bữa tiệc khác sau Thánh lễ: Cộng đoàn được vinh hạnh dự bữa cơm gia đình cùng 2 vị chủ chăn. Bữa ăn tuy đơn sơ nhưng lại thắm tình với những bài ca điệu nhạc của thành viên các ca đoàn; và đặc biệt là giọng ca “như mơ” và “bất ngờ” với nhiều người khi chính Đức Cha Giuse tham gia và đơn ca bài “Lòng Mẹ”, một ca khúc bất hủ của nhạc sĩ Y Vân… trước khi kết thúc bữa ăn tình nghĩa gia đình và cũng kết thúc một ngày thăm viếng mục vụ của Đức Tổng Giám Mục, đại diện Đức Thánh Cha và của Đức Cha giáo phận nhà.
Tạ ơn Chúa, tri ân quý Đức Tổng Giám Mục và Đức Giám Mục giáo phận đã thương cho dân Chúa Tam Tòa thêm một cơ hội để bày tỏ nhiều hơn lòng yêu mến Chúa và Hội Thánh!
Tam Tòa, 28/8/2016
Ban MVTT/GP
Một tin vui bất ngờ đến với giáo phận Đà Nẵng được Văn phòng Tòa Giám Mục thừa lệnh Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, giám mục giáo phận thông báo: Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli sẽ có chuyến thăm mục vụ 2 ngày tại Giáo phận Đà Nẵng: trong đó, ngày Chúa Nhật 28/8/2016, Ngài sẽ đi thăm và dâng thánh lễ với Đức Cha Giuse tại 2 giáo xứ: một ở miền quê thuộc giáo hạt Tam Kỳ (Tỉnh Quảng Nam) và một tại giáo hạt Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng).
Xem Hình
Vào lúc chiều muộn ngày cuối tuần, thứ Bảy, 27/8/2016 đoàn đón tiếp của giáo phận tháp tùng Đức Cha Giuse gồm có Cha Tổng Đại diện P.M. Trần Quốc Việt, Cha Hạt Trưởng Đà Nẵng Phê-rô Hoàng Gia Thành, Cha Chánh Văn phòng TGM Gabriel Nguyễn Ngọc Tuấn, Cha Quản lý Giáo phận G.B Trần Ngọc Tuyến và Chị Giám Tỉnh Maria Nguyễn thị Xuân Lang, Chị Cố vấn Rosa Lê thị Sa của Tỉnh Dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng đã có mặt tại sân bay Đà Nẵng đón chào Đức TGM Leopoldo Girelli đáp chuyến bay từ Singapore đến Đà Nẵng lúc 17 giờ 45. Một bó hoa tươi được dâng tặng chào đón vị Đại Diện Tông Tòa và những lời chào hỏi bằng Anh, Pháp, Ý ngữ được tiếp trao. 2 chiếc xe Tòa giám mục từ tử chạy qua vài con đường đẹp của thành phố biển đang lên đèn, kịp về tới Nhà Thờ Chính Tòa, nơi có anh chị em giáo dân vừa tan lễ thứ Bảy đang nôn nóng đợi chờ. Khi xe chở Đức Tổng Giám mục Leopoldo dừng trước cổng Nhà thờ Chính Tòa, lời chào mừng của Cha Phanxico Salesio Lê văn La Vinh, phó xứ Chính Tòa mời gọi cộng đoàn vui đón vang lên trong tiếng vỗ tay râm ran kéo dài, cùng với những bước chân của các vị chủ chăn và cộng đoàn từ cổng chính tiến lên tiền đường, dừng bước trước cửa Năm Thánh của nhà thờ Chính Tòa. Đứng giữa đoàn tín hữu đang rộn vui, Đức Tổng Giám mục Đại diện Tông Tòa đã có những lời bày tỏ cảm động và ý nghĩa để cám ơn và chào thăm cộng đoàn. Lấy ý tưởng từ sự kiện cộng đoàn vừa tan lễ, qua cửa thánh để về nhà, Đức Tổng đã nói với cộng đoàn về ý nghĩa và giá trị của Năm Thánh Lòng Thương Xót mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã khai mở, để giúp mỗi kitô hữu làm mới đức tin của mình, củng cố và thúc đẩy đức trông cậy và yêu mến trong cuộc hành trình đức tin hướng về lòng thương xót của Chúa Cha, bày tỏ tình lân ái của nhân loại trong cuộc sống từng ngày của mỗi người. Đức Tổng cũng nhắc đến việc Ngài đã từng đến thăm giáo phận nhiều lần, nhưng đây là dịp đặc biệt vì là lần thứ nhất Ngài được Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, trên cương vị chủ chăn giáo phận Đà Nẵng tiếp đón và đồng hành suốt cuộc thăm viếng. Đức Tổng nhắc đến mối liên hệ thân thiết giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và Tòa Thánh với từng Giáo Hội địa phương, cách riêng giáo phận Đà Nẵng. Sau phần chào đón thắm tình của cộng đoàn dân Chúa, Đức Tổng Giám Mục đã về Tòa Giám mục chuẩn bị cho bữa ăn tối đầu tiên của chuyến viếng thăm.
Theo chương trình và ý muốn của Đức Tổng đại diện Tông Tòa, sáng sớm Chúa Nhật 28/8/2016, Đức Cha Giuse đã hướng dẫn và đồng hành với ngài đi vào giáo xứ AN SƠN, một xứ đạo cố cựu thuộc vùng bán sơn địa ở phía Tây Nam giáo phận do Cha Đa minh Trần Công Danh quản xứ. Cộng đoàn dân Chúa giáo xứ An Sơn, gồm rất nhiều người già và trung niên đã xếp thành 2 hàng rất dài, từ tiền đường nhà thờ trên sườn đồi tới tận cổng chính cuối dốc và tràn ra tới đường ruộng để đón tiếp các vị Chủ Chăn lần đầu tiên tới thăm giáo xứ. Niềm vui và cảm động hiện rõ trên khuôn mặt Cha quản xứ và từng giáo dân ở vùng đất nghèo cơ cực này, như lời chào mừng của vị mục tử giáo xứ: “Chúng con có mơ cũng không tưởng tưởng ra rằng có ngày được tiếp đón vị Đại Diện Đức Thánh Cha đồng hành với Đức Giám Mục giáo phận đến thăm một xứ đạo quê nghèo và nhỏ bé này…” Đây cũng là lần đầu tiên, sau 4 tháng nhậm chức Giám mục giáo phận Đức Cha Giuse thăm mục vụ và dâng lễ tại giáo xứ An Sơn. Sau nghi thức quỳ bái Thánh Thể trong nhà thờ giáo xứ, quý Đức Cha đã được long trọng chào đón với một vũ khúc đơn sơ và một nghi thức đặc biệt, có lẽ chỉ có tại An Sơn: thắp hương kính viếng và cầu nguyện tại Bia Mộ các vị chứng nhân đức tin của giáo xứ (đã bị thiêu và chôn sống tại một ngôi giếng trong vùng do đạo quân Văn Thân trong các cuộc bách hại đạo Chúa dưới thời Nhà Nguyễn.
Lúc 8 giờ 30, thánh lễ ban bí tích Thêm Sức cho 11 thiếu niên, và 12 em khác được phúc Rước lễ lần đầu. Thánh lễ được cử hành ngoài trời tại tiền đường Nhà thờ giáo xứ và giáo dân ngồi bên trong 2 dãy nhà bạt lớn dọc 2 bên sân Nhà thờ. Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli đồng tế với Đức Cha Giuse và các Cha trong hạt Tam Kỳ. Sau lời chào mừng lược ghi lại lịch sử giáo xứ của Cha Đa minh, quản xứ. Trong bài giảng dựa vào câu chuyện những khách được mời dự tiệc tại nhà một người Biệt phái với câu nói mang nhiều nghịch lý đức tin: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, Đức Cha chủ tế đã mời gọi cộng đoàn phụng vụ suy niệm và khám phá đức Khiêm Nhường, như là chìa khóa mở ra kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa và thúc giục từng người sống những giá trị chân chính và tích cực của Lòng Thương Xót. Ngài cũng nhắc đến tông huấn “Laudato Sii” của Đức Thánh Cha Phanxicô như lời mời gọi kitô hữu sống tích cực thực tại THIÊN NHIÊN và MÔI TRƯỜNG, là ân ban cao trọng của Thiên Chúa: mọi kitô hữu và từng người dân Việt trong thời đại này đang phải đau xót trải nghiệm khi chính con người làm cho môi trường bị ô nhiễm và cạn kiệt. Sau bài giảng, Đức Tổng Giám mục Leopoldo đã đích thân cử hành nghi thức ban bí tích Thêm sức cho 11 thiếu niên trong giáo xứ. Với lời nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần do Đức Cha Giuse đọc, Đức Tổng đã đặt tay và xức dầu lên trán từng em với lời đọc “Con hãy nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần” và “Bình an của Chúa ở cùng con!”. Có thêm 12 thiếu niên được diễm phúc Rước Mình Máu Thánh Chúa lần đầu cùng với các thụ nhân bí tích Thêm Sức và các bậc cha mẹ đỡ đầu. Cuối Thánh Lễ, Đức Cha Giuse, Giám mục giáo phận đã thay mặt cộng đoàn dân Chúa toàn giáo phận nói chung và giáo xứ An Sơn nói riêng chào mừng và tạ ơn Đức Tổng Giám mục trước khi Cha Đaminh Trần công Danh tiếp tục trình bày lịch sử và hiện tình rất đáng thương của giáo xứ thuần nông này. Trong lời đáp từ cuối lễ, Đức TGM Leopoldo một lần nữa, bằng tài quan sát và liên tưởng của mình đã mượn lại hình ảnh những cánh đồng lúa chín và những người nông dân vất vả đang thu hoạch vụ mùa mới, để khuyến dụ cộng đoàn dân Chúa An Sơn biết quý trọng và thực hành truyền thống đạo đức đã được cha ông truyền lại, là sẵn sàng làm chứng tá cho đức tin như các bậc tiền nhân. Đức Tổng đã nhẹ nhàng nhắc nhở rằng: “Cũng như ruộng đồng cần ánh sáng mặt trời và nước cho hạt giống nẩy mầm, trổ sinh nhiều bông hạt, thì mỗi kitô hữu cũng cần biết quý trọng và làm cho đời sống đạo và tâm hồn của mình cũng được hâm nóng và trổ sinh hoa quả nhờ sức mạnh và nguồn ân thánh của Chúa Thánh Thần như ánh sáng và nước chan hòa tưới gội cho đồng ruộng nên xanh tốt để có thể thu hoạch những vụ mùa tốt đẹp.” Ngài cũng nhắc nhở cộng đoàn noi gương trung kiên và can đảm của các vị anh hùng tử đạo tại An Sơn để tiếp tục làm giàu gia sản đức tin của giáo xứ mình. Thánh lễ kết thúc với Phép lành toàn xá Năm Thánh được Quý Đức Cha ban cho cộng đoàn dân Chúa An Sơn trước khi cùng chung dựi bữa tiệc mừng tạ ơn này…
Rời An Sơn về lại Tòa Giám Mục nghỉ ngơi đôi chút, lúc 16 giờ 30, Đức Tổng Giám mục Đại diện Tông Tòa được Đức Cha Giuse đồng hành tới thăm mục vụ một giáo xứ nội thành là TAM TÒA. Ngay từ 16 giờ, khuôn viên nhà thờ Tam Tòa đã rực rỡ muôn sắc màu của đồng phục các hội đoàn trong giáo xứ. Các em nhi đồng cũng rộn ràng khi được trang điểm để chuẩn bị cho 1 vũ khúc tạ ơn cuối thánh lễ. Tiền đường Nhà thờ nổi bật với band-de-rôle “Hân hoan chào đón Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli – đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam và Đức Giám Mục Giuse Đặng Đức Ngân – Giám mục Giáo phận” cùng với hai tấm panô lớn in hình 2 vị “thượng khách” cũng là chủ lễ chiều nay. Nét rộn vui và háo hức chờ đợi dường như biểu hiện trên khuôn mặt từng người, đặc biệt các em thiêu niên của các đoàn thể: Lễ Sinh, ca đoàn thiếu nhi và Thiếu nhi Thánh Thể. Mọi người và mọi việc chừng như đã sẵn sàng để đón chào 2 vị Chủ Chăn Hội Thánh. Đúng 16 giờ 45, chuông nhà thờ rộn ràng reo vang cùng với bài trống phụ họa của đội Trống giáo xứ, tiếng MC vang lên lời tung hô chào mừng Đức Tổng Giám mục đại diện Tòa Thánh và Đức Giám Mục giáo phận và những vòng hoa tươi đã được Cha Quản xứ quàng cho 2 vị chủ chăn đáng kính. Sau khi đón chào tại sân trước và rước vào hội trường cho nghi thức chào mừng vắn gọn để mời các Đức Cha tiến lên nhà thờ bái kính Chúa Thánh Thể. Đoàn kiệu rước gồm các thành viên HĐMV, ban điều hành 4 giới – Gia Phụ, Hiền Mẫu, Thánh niên Thiếu Nhi khởi đi từ Phòng khách Nhà xứ dọc theo trục đường Trần Cao Vân tiến lên nhà thờ trong tiếng chuông, trống, chiêng nhịp nhàng theo lời dẫn lễ và ca nhập lễ của ca đoàn Trẻ của giáo xứ. Sau khi các Đức Cha, các cha đồng tế an tọa, Cha Quản xứ Phêrô Hoàng Gia Thành nói lời chào mừng và giới thiệu khi gợi lên “gốc gác” xứ đạo Tam Tòa Đà Nẵng, kế thừa truyền thống tuyên xưng đức tin và lòng đạo chân thành của các tiên nhân từ Tam Tòa (Đồng Hới, Quảng Bình) di cư vào Nam năm 1954 vì muốn được thanh thản sống niềm tin cậy mến vào Thiên Chúa. Thánh lễ được khởi đầu với cung giọng đặc biệt của Đức Tổng Leopoldo Girelli bằng tiếng Việt “Chúa ở cùng anh chị em”!
Các bài đọc Chúa Nhật 22 thường niên (năm C) được các thành viên Hội Đồng Mục vụ tuyên đọc cùng với bài đáp vịnh ca của ca đoàn. Trong bài giảng lễ bằng tiếng Anh (được cha Quản xứ Phêrô phiên dịch tiếng Việt), Đức Tổng giám mục chủ lễ đã nêu lên một tinh thần cốt lõi của đời sống đạo theo gương Chúa Giêsu là KHIÊM NHƯỜNG - TỰ HẠ. Lắng nghe lời diễn ý dụ ngôn về chỗ ngồi trong bữa tiệc, cộng đoàn dân Chúa đã được giới thiệu ý nghĩa và giá trị của nhân đức khiêm nhường giúp hình thành, củng cố và phát huy cách sống đức tin và chứng tá cho Đạo Thánh Chúa trong thế giới ngày nay: “Ngày nay, quan điểm được đề cập trong Kinh Thánh này đặc biệt gây nên thách đố cho tư duy thời đại. Theo cách nghĩ của số đông hiện nay, người khiêm nhường được coi là người bỏ cuộc, kẻ bị đánh bại, một người chẳng có gì đáng nói. Nhưng thực ra, đây mới là nguyên tắc chính yếu, và không chỉ vì khiêm nhường là một đức tính nhân bản tuyệt vời, nhưng còn bởi vì trước tiên, khiêm nhường diễn tả cách thức hành động riêng của Thiên Chúa’’. Đức Tổng giám mục cũng mời gọi dân Chúa “đừng sợ nếu bị xem như là khác người và bị chỉ trích về lối sống có vẻ như bị thua thiệt. Sống khiêm nhường không phải là bị loại trừ, nhưng là sống can đảm!” Lòng can đảm được nhấn mạnh khi kitô hữu biết khiêm nhu giao phó chính bản thân mình cho Thiên Chúa, trở nên phần tử đích thực của gia đình Hội Thánh Chúa ở trần thế. Đức Tổng cũng đề cập đến vai trò cần thiết của người tín hữu Chúa Kitô khi sống cuộc đời trần thế là biết đóng góp phần mình để xây dựng một xã hội công bằng và hài hòa hơn. Ngài nhắc đến một nghĩa vụ cấp thiết của kitô hữu được Đức Thánh Cha Phanxico chỉ dẫn trong tông huấn “Laudato Sii” là cấp bách phải hành động trong việc bảo vệ môi trường để “đưa ra những quyết định có thể tái tạo mối tương quan vững chắc giữa nhân loại và trái đất trước khi quá muộn!” Thánh lễ được tiếp diễn cách nghiêm trang, nhẹ nhàng với những lời ca kinh rập ràng sốt mến.
Sau lời nguyện hiệp lễ, Đức Cha Giuse giám mục giáo phận thay mặt cộng đoàn dân Chúa giáo phận cám ơn và chúc mừng chuyến thăm mục vụ đầy nghĩa tình của Đức Tổng, đại diện Đức Thánh Cha, để có thể đồng cảm với sự đa dạng của sinh hoạt giáo phận nhưng vẫn luôn hiệp thông và hiệp nhất trong một Hội Thánh Chúa Kitô. Tiếp theo, ông Inhaxiô Phạm thanh Hương, thay mặt Hội đồng mục vụ và cộng đoàn dâng lời tạ ơn Chúa, cám ơn Đức Cha Giuse đã thương giáo xứ và đồng hành với Đức Tổng đến thăm và chia sẻ với cộng đoàn dân Chúa Tam Tòa. Một món quà đơn sơ, bó hoa tươi thắm và nhất là vũ khúc tạ ơn do các ấu nhi giáo xứ dâng tặng Đức Tổng và Đức Cha Giuse, quý cha đồng tế và cộng đoàn Phụng vụ. Trong lời đáp từ trước khi ban phép lành, Đức Tổng Giám mục đã dùng câu chuyện về 6 chiếc cầu rất đẹp của thành phố Đà Nẵng bắc qua sống Hàn nối kết đôi bờ thân thương, để giới thiệu những cây cầu tuyệt vời hơn và nhiều hơn cho đời sống tâm linh nơi kitô hữu và Hội Thánh: đó là 7 bí tích như những nhịp cầu nối kết tín hữu với Thiên Chúa, nối kết đất với Trời. Nếu trong số 6 cây cầu của Đà Nẵng, có 2 cầu đẹp nhất thì trong 7 cây cầu tâm linh của kitô hữu cũng có 2 cầu đẹp là cầu “bí tích hòa giải” và cầu “bí tích Thánh Thể”. Cộng đoàn đã vỗ tay liên tục tán thưởng và cám ơn Đức Tổng chủ lễ đã chỉ giáo cho tín hữu Chúa những giá trị đẹp sáng của kho tàng bí tích trong Hội Thánh. Phép lành kết thúc tiệc Thánh, nhưng cũng mở đầu cho một bữa tiệc khác sau Thánh lễ: Cộng đoàn được vinh hạnh dự bữa cơm gia đình cùng 2 vị chủ chăn. Bữa ăn tuy đơn sơ nhưng lại thắm tình với những bài ca điệu nhạc của thành viên các ca đoàn; và đặc biệt là giọng ca “như mơ” và “bất ngờ” với nhiều người khi chính Đức Cha Giuse tham gia và đơn ca bài “Lòng Mẹ”, một ca khúc bất hủ của nhạc sĩ Y Vân… trước khi kết thúc bữa ăn tình nghĩa gia đình và cũng kết thúc một ngày thăm viếng mục vụ của Đức Tổng Giám Mục, đại diện Đức Thánh Cha và của Đức Cha giáo phận nhà.
Tạ ơn Chúa, tri ân quý Đức Tổng Giám Mục và Đức Giám Mục giáo phận đã thương cho dân Chúa Tam Tòa thêm một cơ hội để bày tỏ nhiều hơn lòng yêu mến Chúa và Hội Thánh!
Tam Tòa, 28/8/2016
Ban MVTT/GP
Thánh lễ Tạ ơn: mừng Tân Giám mục Giuse Nguyễn Thế Phương tại Nhà thờ Chính tòa Banmêthuột
Vũ Đình Bình
11:54 30/08/2016
Thánh lễ Tạ ơn: mừng Tân Giám mục Giuse Nguyễn Thế Phương tại Nhà thờ Chính tòa Banmêthuột
Đức Tân Giám mục Giuse Nguyễn Thế Phương người con của Giáo phận Banmêthuột là thành viên ưu tú của Gia đình Lê Bảo Tịnh đã được ĐTC Phanxicô bổ nhiệm làm Giám mục Chính Toà Giáo phận Kamloops, Canada vào ngày 01.6.2016. Thánh Lễ Tấn Phong và Nghi lễ tiếp nhận Ngai Toà Giáo phận Kamloops của Đức Cha Giuse Nguyễn Thế Phương đã được tổ chức long trọng vào lúc 15g00 chiều thứ Năm, ngày 25.8.2016 tại Sandman Centre, địa chỉ số 300 Lorne Street, Kamloops, British Columbia BC, V2C 1W3.
Xem Hình
Niềm vui thật lớn lao. Hồng ân của Chúa thật cao vời khôn ví.
Tại Nhà thờ Chính tòa Banmêthuột, vào lúc 17g30 ngày 30.8.2016, Thánh lễ Tạ ơn đã diễn ra trong tâm tình hân hoan, hiệp nhất, yêu thương để chung lời tán tụng Thiên Chúa và cầu nguyện cho Đức Tân Giám mục Giuse Nguyễn Thế Phương. Thánh lễ do Cha TĐD Stephanô Nguyễn Văn Đậu, cũng là Cha Linh hướng chủ tế; đồng tế với ngài có Cha giáo Augustinô Hoàng Đức Toàn, Cha giáo Giuse Trịnh Văn Hân, các Cha đồng môn: Cha GB Hà Văn Ánh, Cha Đaminh Phạm Sỹ Hiện, Cha Giuse Nguyễn Văn Khánh, Cha Giuse Trần Thế Thành, Cha Gioan Nguyễn Sơn và Cha Giuse Giang Tử Dương (LBT thế hệ 2) đang mục vụ tại GP Kon Tum.
Về tham dự Thánh lễ với Anh Chị Em Gia đình Lê Bảo Tịnh có Quý Soeurs dòng Đức Maria Nữ Vương Hòa Bình, Quý Thầy Chủng viện Lê Bảo Tịnh, Quý chức Ban Thường vụ HĐGX Giáo xứ Thánh Tâm và Cộng đồng dân Chúa.
Bài ca nhập lễ do Ca đoàn Lê Bảo Tịnh cất lên du dương, nhịp nhàng, thanh thoát, hướng mọi người lên Bàn Thánh để cảm nghiệm “Ước Mơ Đời Tận Hiến” (Tv 84: 2-3)
Đường đi lên nhà Chúa, Chúa ơi!
Cung Thánh Ngài ngợi bao huyền diệu ngất ngây trong cõi lòng.
Lạy Chúa con mơ ước ngày đêm,
Khúc hát hiến dâng đời
Chúa ơi! phụng sự nhà Chúa, con mơ ước ngày đêm,
Có Chúa làm gia nghiệp đời con
Nguồn hạnh phúc con trông cậy Ngài.
Sau bài Phúc Âm, Cha Đaminh Phạm Sỹ Hiện chia sẻ về hành trình đức tin, hành trình Ơn gọi của Tân Giám mục Giuse Nguyễn Thế Phương. Qua bao gian nan thử thách Tân Giám mục luôn “Đứng vững trong Chúa” - “State in Domino” (Phil 4,1). (Mời nghe Bài giảng)
Trước khi kết lễ, anh Giuse Nguyễn Minh Thành, Ban Đại diện Gia đình Lê Bảo Tịnh ngỏ lời cảm ơn Cha TĐD, cũng là Cha Linh hướng, Cha Chánh xứ Giáo xứ Thánh Tâm, Quý Cha giáo, Quý Cha đồng tế, Quý Soeurs, Quý Tu sĩ nam nữ, Quý BTV-HĐGX Giáo xứ Thánh Tâm và Quý Cộng đoàn dân Chúa. Đồng thời, cũng xin Quý Cha và Cộng đoàn cầu xin Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, ban cho Đức Tân Giám mục Giuse có đủ nghị lực và sức khỏe để ngài lại tiếp tục cuộc hành trình trong sứ vụ mới. Cầu cho bước chân Người Mục Tử luôn vững vàng như câu châm ngôn ngài đã chọn: “Đứng vững trong Chúa” - “State in Domino” (Phil 4,1).
Xin tri ân Ngài bằng khúc hoan ca,
Trong không gian theo thời gian vang mãi.
Bao nhiêu ân tình dệt khúc hoan ca,
Xin dâng lên Ngài, xin tri ân Ngài.
Bài ca kết lễ của Ca đoàn Lê Bảo Tịnh đã khép lại Thánh lễ Tạ ơn trong âm vang hân hoan chúc tụng, tri ân Thiên Chúa.
Lời tạ ơn con dâng lên Chúa
Khi nắng hồng vừa mới lên,
Khi hoàng hôn đang xuống dần, xuống dần.
Vì ngàn hồng ân như muôn lớp sóng
Chúa thương đổ xuống trên con,
Tháng năm hoài mãi miên man.
Đức Tân Giám mục Giuse Nguyễn Thế Phương người con của Giáo phận Banmêthuột là thành viên ưu tú của Gia đình Lê Bảo Tịnh đã được ĐTC Phanxicô bổ nhiệm làm Giám mục Chính Toà Giáo phận Kamloops, Canada vào ngày 01.6.2016. Thánh Lễ Tấn Phong và Nghi lễ tiếp nhận Ngai Toà Giáo phận Kamloops của Đức Cha Giuse Nguyễn Thế Phương đã được tổ chức long trọng vào lúc 15g00 chiều thứ Năm, ngày 25.8.2016 tại Sandman Centre, địa chỉ số 300 Lorne Street, Kamloops, British Columbia BC, V2C 1W3.
Xem Hình
Niềm vui thật lớn lao. Hồng ân của Chúa thật cao vời khôn ví.
Tại Nhà thờ Chính tòa Banmêthuột, vào lúc 17g30 ngày 30.8.2016, Thánh lễ Tạ ơn đã diễn ra trong tâm tình hân hoan, hiệp nhất, yêu thương để chung lời tán tụng Thiên Chúa và cầu nguyện cho Đức Tân Giám mục Giuse Nguyễn Thế Phương. Thánh lễ do Cha TĐD Stephanô Nguyễn Văn Đậu, cũng là Cha Linh hướng chủ tế; đồng tế với ngài có Cha giáo Augustinô Hoàng Đức Toàn, Cha giáo Giuse Trịnh Văn Hân, các Cha đồng môn: Cha GB Hà Văn Ánh, Cha Đaminh Phạm Sỹ Hiện, Cha Giuse Nguyễn Văn Khánh, Cha Giuse Trần Thế Thành, Cha Gioan Nguyễn Sơn và Cha Giuse Giang Tử Dương (LBT thế hệ 2) đang mục vụ tại GP Kon Tum.
Về tham dự Thánh lễ với Anh Chị Em Gia đình Lê Bảo Tịnh có Quý Soeurs dòng Đức Maria Nữ Vương Hòa Bình, Quý Thầy Chủng viện Lê Bảo Tịnh, Quý chức Ban Thường vụ HĐGX Giáo xứ Thánh Tâm và Cộng đồng dân Chúa.
Bài ca nhập lễ do Ca đoàn Lê Bảo Tịnh cất lên du dương, nhịp nhàng, thanh thoát, hướng mọi người lên Bàn Thánh để cảm nghiệm “Ước Mơ Đời Tận Hiến” (Tv 84: 2-3)
Đường đi lên nhà Chúa, Chúa ơi!
Cung Thánh Ngài ngợi bao huyền diệu ngất ngây trong cõi lòng.
Lạy Chúa con mơ ước ngày đêm,
Khúc hát hiến dâng đời
Chúa ơi! phụng sự nhà Chúa, con mơ ước ngày đêm,
Có Chúa làm gia nghiệp đời con
Nguồn hạnh phúc con trông cậy Ngài.
Sau bài Phúc Âm, Cha Đaminh Phạm Sỹ Hiện chia sẻ về hành trình đức tin, hành trình Ơn gọi của Tân Giám mục Giuse Nguyễn Thế Phương. Qua bao gian nan thử thách Tân Giám mục luôn “Đứng vững trong Chúa” - “State in Domino” (Phil 4,1). (Mời nghe Bài giảng)
Trước khi kết lễ, anh Giuse Nguyễn Minh Thành, Ban Đại diện Gia đình Lê Bảo Tịnh ngỏ lời cảm ơn Cha TĐD, cũng là Cha Linh hướng, Cha Chánh xứ Giáo xứ Thánh Tâm, Quý Cha giáo, Quý Cha đồng tế, Quý Soeurs, Quý Tu sĩ nam nữ, Quý BTV-HĐGX Giáo xứ Thánh Tâm và Quý Cộng đoàn dân Chúa. Đồng thời, cũng xin Quý Cha và Cộng đoàn cầu xin Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, ban cho Đức Tân Giám mục Giuse có đủ nghị lực và sức khỏe để ngài lại tiếp tục cuộc hành trình trong sứ vụ mới. Cầu cho bước chân Người Mục Tử luôn vững vàng như câu châm ngôn ngài đã chọn: “Đứng vững trong Chúa” - “State in Domino” (Phil 4,1).
Xin tri ân Ngài bằng khúc hoan ca,
Trong không gian theo thời gian vang mãi.
Bao nhiêu ân tình dệt khúc hoan ca,
Xin dâng lên Ngài, xin tri ân Ngài.
Bài ca kết lễ của Ca đoàn Lê Bảo Tịnh đã khép lại Thánh lễ Tạ ơn trong âm vang hân hoan chúc tụng, tri ân Thiên Chúa.
Lời tạ ơn con dâng lên Chúa
Khi nắng hồng vừa mới lên,
Khi hoàng hôn đang xuống dần, xuống dần.
Vì ngàn hồng ân như muôn lớp sóng
Chúa thương đổ xuống trên con,
Tháng năm hoài mãi miên man.
Giáo xứ Báo Đáp Bùi Chu- Nơi thắp sáng, truyền giữ những giá trị truyền thống
Hoàng Đức
15:57 30/08/2016
Giáo xứ Báo Đáp - Nơi thắp sáng, truyền giữ những giá trị truyền thống
Làng Báo Đáp (Hồng Quang - Nam Trực - Nam Định) làng Công Giáo toàn tòng thuộc Giáo xứ Báo Đáp, Giáo phận Bùi chu. Trong những dịp Trung thu đến, hình ảnh con trẻ nô nức đón trăng với chiếc đèn ông sao đã trở thành ký ức đi vào lòng người của biết bao thế hệ người Việt. Nhưng, ít ai biết những chiếc đèn ông sao ấy được sản xuất từ Báo Đáp, một Giáo xứ miền quê trù phú, nơi thắp sáng và truyền giữ những giá trị văn hóa truyền thống ngày Trung thu.
Chúng tôi về Báo Đáp trong những ngày cuối tháng 7 âm lịch. Hình ảnh dễ nhận thấy là quanh cảnh tấp nập của bà con giáo dân đang trong những ngày cuối vụ làm đèn Trung thu. Người lớn, trẻ con, ai nấy đều bận rộn, từng đoàn xe chất đầy đèn ông sao được đóng thành từng cục đang được vận chuyển, tỏa đi khắp nơi trên mọi miền tổ quốc.
Giữa khí thế người người, nhà nhà tấp nập, chúng tôi may mắn được Cụ Phiệt, một bậc cao niên trong làng dẫn giải, giới thiệu và cho biết: Ở Việt Nam, duy nhất làng Báo Đáp có nghề làm đèn Trung thu thủ công, nghề đã có từ lâu và đặc biệt phát triển từ sau giải phóng. Ngày trước, điều kiện kinh tế còn khó khăn những chiếc đèn làm ra không được bắt mắt như bây giờ, chỉ đơn giản làm bằng giấy, nhuộm mầu, cả những chiếc “tua rua” cũng chỉ được làm bằng lông gà, lông vịt. Những năm gần đây, sau nhiều thời kỳ thay đổi và phát triển, chiếc đèn Trung thu được sản xuất tại Báo Đáp được làm đẹp hơn, bắt mắt hơn, đủ sức cạnh tranh với các món đồ chơi cho trẻ em trong dịp tết Trung thu, có xuất xứ từ Trung Quốc.
Hiện nay, dân số Báo Đáp vào khoảng hơn 5000 người, hầu hết bà con đều tham gia làm đèn trong dịp tết Trung thu, ước tính mỗi gia đình trung bình làm khoảng 2 đến 3 vạn chiếc, như thế mỗi dịp Trung thu, hàng triệu chiếc đèn ông sao được sản xuất và phân phối ra thị trường trong cả nước. Thăm gia đình Ông Nguyễn Hồng Lạc, thuộc xóm 1 Báo Đáp chúng tôi mới hiểu rõ hơn quy trình để làm ra chiếc đèn ông sao và đằng sau nó là biết bao công lao, mồ hôi cùng sự kiên trì khéo léo của các nghệ nhân nơi đây.
Một chiếc đèn ông sao được bắt đầu sản xuất từ sau tháng 3 âm lịch với việc chuẩn bị các vật dụng, đặc biệt là việc chọn và ngâm nứa - vật dụng chính để tạo nên bộ khung cho chiếc đèn. Nứa ngâm đủ ngày sau đó phơi khô, chẻ ra thành từng nan nhỏ với kích cỡ khác nhau tùy loại đèn to nhỏ, sau đó được vót cẩn thận và đem buộc thành từng cụm gồm 10 nan, dưới sự khéo léo của người thợ, các nan đan lại với nhau để tạo ra bộ khung cứng cáp cho chiếc đèn. Sau khi đã có khung, những chiếc đèn sẽ được trang trí với giấy bóng kính mầu, riềm, tua rua, cờ, chân chống…. Như thế, để có chiếc đèn ông sao hoàn chỉnh là bao mồ hôi kết hợp với sự kiên trì, khéo léo của bà con, ròng rã trong gần 6 tháng, đàn ông phụ nữ, người già, trẻ con ai cũng có việc và có thể tham gia cùng làm đèn ông sao. Mỗi chiếc đèn bán ra thị trường, bà con lãi từ 1000 đến 2000đ, ông Lạc cho biết thêm.
Tạm biệt Giáo xứ và bà con Báo Đáp trong cảnh hoàng hôn, hình ảnh ngôi Nhà thờ mới của Giáo xứ, uy nghiêm tráng lệ, sừng sững đứng giữa làng hòa lẫn cùng sắc đỏ sắc xanh từ những chiếc đèn ông sao, chúng tôi nhận ra những hình ảnh làm nên minh chứng rõ nét cho sự phát triển bền vững của một Giáo xứ trù phú đang từng ngày vươn lên mạnh mẽ./.
Hoàng Đức
Chúng tôi về Báo Đáp trong những ngày cuối tháng 7 âm lịch. Hình ảnh dễ nhận thấy là quanh cảnh tấp nập của bà con giáo dân đang trong những ngày cuối vụ làm đèn Trung thu. Người lớn, trẻ con, ai nấy đều bận rộn, từng đoàn xe chất đầy đèn ông sao được đóng thành từng cục đang được vận chuyển, tỏa đi khắp nơi trên mọi miền tổ quốc.
Giữa khí thế người người, nhà nhà tấp nập, chúng tôi may mắn được Cụ Phiệt, một bậc cao niên trong làng dẫn giải, giới thiệu và cho biết: Ở Việt Nam, duy nhất làng Báo Đáp có nghề làm đèn Trung thu thủ công, nghề đã có từ lâu và đặc biệt phát triển từ sau giải phóng. Ngày trước, điều kiện kinh tế còn khó khăn những chiếc đèn làm ra không được bắt mắt như bây giờ, chỉ đơn giản làm bằng giấy, nhuộm mầu, cả những chiếc “tua rua” cũng chỉ được làm bằng lông gà, lông vịt. Những năm gần đây, sau nhiều thời kỳ thay đổi và phát triển, chiếc đèn Trung thu được sản xuất tại Báo Đáp được làm đẹp hơn, bắt mắt hơn, đủ sức cạnh tranh với các món đồ chơi cho trẻ em trong dịp tết Trung thu, có xuất xứ từ Trung Quốc.
Hiện nay, dân số Báo Đáp vào khoảng hơn 5000 người, hầu hết bà con đều tham gia làm đèn trong dịp tết Trung thu, ước tính mỗi gia đình trung bình làm khoảng 2 đến 3 vạn chiếc, như thế mỗi dịp Trung thu, hàng triệu chiếc đèn ông sao được sản xuất và phân phối ra thị trường trong cả nước. Thăm gia đình Ông Nguyễn Hồng Lạc, thuộc xóm 1 Báo Đáp chúng tôi mới hiểu rõ hơn quy trình để làm ra chiếc đèn ông sao và đằng sau nó là biết bao công lao, mồ hôi cùng sự kiên trì khéo léo của các nghệ nhân nơi đây.
Một chiếc đèn ông sao được bắt đầu sản xuất từ sau tháng 3 âm lịch với việc chuẩn bị các vật dụng, đặc biệt là việc chọn và ngâm nứa - vật dụng chính để tạo nên bộ khung cho chiếc đèn. Nứa ngâm đủ ngày sau đó phơi khô, chẻ ra thành từng nan nhỏ với kích cỡ khác nhau tùy loại đèn to nhỏ, sau đó được vót cẩn thận và đem buộc thành từng cụm gồm 10 nan, dưới sự khéo léo của người thợ, các nan đan lại với nhau để tạo ra bộ khung cứng cáp cho chiếc đèn. Sau khi đã có khung, những chiếc đèn sẽ được trang trí với giấy bóng kính mầu, riềm, tua rua, cờ, chân chống…. Như thế, để có chiếc đèn ông sao hoàn chỉnh là bao mồ hôi kết hợp với sự kiên trì, khéo léo của bà con, ròng rã trong gần 6 tháng, đàn ông phụ nữ, người già, trẻ con ai cũng có việc và có thể tham gia cùng làm đèn ông sao. Mỗi chiếc đèn bán ra thị trường, bà con lãi từ 1000 đến 2000đ, ông Lạc cho biết thêm.
Tạm biệt Giáo xứ và bà con Báo Đáp trong cảnh hoàng hôn, hình ảnh ngôi Nhà thờ mới của Giáo xứ, uy nghiêm tráng lệ, sừng sững đứng giữa làng hòa lẫn cùng sắc đỏ sắc xanh từ những chiếc đèn ông sao, chúng tôi nhận ra những hình ảnh làm nên minh chứng rõ nét cho sự phát triển bền vững của một Giáo xứ trù phú đang từng ngày vươn lên mạnh mẽ./.
Hoàng Đức
Khai giảng Năm học mới Giáo lý, Việt ngữ và Đoàn TNTT tại Gx. Đức Mẹ La Vang, Tgp Miami.
Giáo xứ Đức Mẹ La Vang Miami
16:57 30/08/2016
Khai giảng Năm học mới Giáo lý, Việt ngữ và Đoàn TNTT 2016-2017, tại Gx. Đức Mẹ La Vang, Tgp Miami.
Sau hơn 2 tháng nghỉ hè, không học Giáo lý, Việt ngữ và sinh hoạt Đoàn Thiếu nhi, hôm nay, Chúa Nhật 28-08, gần 190 em Thiếu nhi và 30 Trợ uý, Thày cô, Huynh trưởng và Phụ huynh, đã qui tụ về Nhà thờ Giáo xứ để cử hành Thánh Lễ Khai giảng Năm học mới.
Xem Hình
Thời tiết vùng Nam Florida tuần vừa qua không được tốt vì đang trong mùa bão và ảnh hưởng của vài cơn bão đã hình thành từ xa. Những ngày cuối tuần mưa nhiều và có thể cả ngày Chúa Nhật nữa. Mọi người lo âu nhưng vẫn tin tưởng cầu nguyện cho một ngày Khai giảng tốt đẹp.
Sáng Chúa Nhật, bầu trời cũng hơi u ám với các cụm mây đen trôi lững lờ theo nhịp điệu "Mây sao còn bay maĩ mây bay về đâu...", nhưng nhờ có gió biển thổi vào nên sau đó tan biến đi cuối tận chân trời. Khoảng 9:00am, trên sân nhà thờ, các em Thiếu nhi được cha mẹ chở tới đã tung tăng chạy tìm gặp nhau thật nhộn nhịp. Nhìn quần áo đồng phục cùng với màu khăn xanh, xanh đậm, vàng, nâu, đỏ... của các em và các huynh trưởng, tạo nên màu sắc sinh động cho ngày đầu tiên sau thời gian vắng bóng. Đúng 9:30am, các em được Huynh trưởng tập họp lại theo hàng ngũ và trang nghiêm tiến vào nhà thờ, ổn định chỗ ngồi cho Thánh Lễ. Đoàn rước mở đầu gồm Thánh giá nến cao, các em Thiếu nhi đại diện các ngành, các Thày cô và Huynh trưởng, và Cha chủ tế. Sau khi Cha chủ tế và cũng là cha TU, chào đón Cộng đoàn và chính thức tuyên bố Khai giảng Năm học mới, một hồi trống khai trường vang lên hoà trong tiếng vỗ tay của Cộng đoàn. Tiếp đến là Nghi thức Tuyên thệ của Thày cô và Huynh trưởng trong Năm học mới:
1. Luôn xác tin vào Thiên Chúa, và trung thành với giaó huấn của Giáo Hội
2. Vâng lời và theo sự hướng dẫn của Cha chánh xứ và BTV trong việc giảng dạy
3. Ý thức việc giảng dạy Giáo lý, Việt ngữ là việc quan trọng, để vun trồng đức tin, duy trì truyền thống văn hóa Việt Nam cho các em, và thực hành các đức tính nhân bản.
4. Nêu gương sáng cho các em qua: Cầu nguyện - Tôn sùng Thành Thể - Hy sinh và làm Tông đồ.
Trong bài giảng, Cha chủ tế sau khi đã diễn giải Lời Chúa, cũng đã nhấn mạnh đến vai trò và trách nhiệm của Cha mẹ và Thày cô, Huynh trưởng trong năm mới:
- Cha mẹ không chỉ sinh thành, mà còn có bổn phận giáo dục con cái nên người hữu ích cho gia đình, Giáo Hội và xã hội.
- Cha mẹ cần quan tâm, thăm hỏi và làm gương sáng cho con cái noi theo
- Thày cô, Huynh trưởng là những người tình nguyện, lãnh trách nhiệm từ Thiên Chúa và cha xứ trong việc phụ giúp huấn luyện các em.
- Cần rèn luyện bản thân qua việc cầu nguyện và học hỏi thêm kiến thức
Sau lễ, các phụ huynh và các em được mời ra sân tham dự buổi chào cờ đầu năm. Nghi thức chào cờ gồm chào cờ Việt Nam Cộng Hoà và cờ Đoàn Thiếu Nhi. Nét mới của sinh hoạt năm nay là có chào cờ nước Việt Nam Cộng Hoà mỗi 3 tháng để nhắc các em về cội nguồn của dân tộc và một tổ quốc mà các em chưa được biết đến.
Sau Nghi thức chaò cờ và sinh hoạt dướ i cờ, các em được các Huynh trưởng hướng dẫn và nhận lớp, làm quen với Thày cô phụ trách và nhận bạn mới.
Xin Chúa, qua lời cầu bầu của Mẹ La Vang và Thánh cả Giuse, chúc lành cho Giáo xứ chúng con. Amen.
Sau hơn 2 tháng nghỉ hè, không học Giáo lý, Việt ngữ và sinh hoạt Đoàn Thiếu nhi, hôm nay, Chúa Nhật 28-08, gần 190 em Thiếu nhi và 30 Trợ uý, Thày cô, Huynh trưởng và Phụ huynh, đã qui tụ về Nhà thờ Giáo xứ để cử hành Thánh Lễ Khai giảng Năm học mới.
Xem Hình
Thời tiết vùng Nam Florida tuần vừa qua không được tốt vì đang trong mùa bão và ảnh hưởng của vài cơn bão đã hình thành từ xa. Những ngày cuối tuần mưa nhiều và có thể cả ngày Chúa Nhật nữa. Mọi người lo âu nhưng vẫn tin tưởng cầu nguyện cho một ngày Khai giảng tốt đẹp.
Sáng Chúa Nhật, bầu trời cũng hơi u ám với các cụm mây đen trôi lững lờ theo nhịp điệu "Mây sao còn bay maĩ mây bay về đâu...", nhưng nhờ có gió biển thổi vào nên sau đó tan biến đi cuối tận chân trời. Khoảng 9:00am, trên sân nhà thờ, các em Thiếu nhi được cha mẹ chở tới đã tung tăng chạy tìm gặp nhau thật nhộn nhịp. Nhìn quần áo đồng phục cùng với màu khăn xanh, xanh đậm, vàng, nâu, đỏ... của các em và các huynh trưởng, tạo nên màu sắc sinh động cho ngày đầu tiên sau thời gian vắng bóng. Đúng 9:30am, các em được Huynh trưởng tập họp lại theo hàng ngũ và trang nghiêm tiến vào nhà thờ, ổn định chỗ ngồi cho Thánh Lễ. Đoàn rước mở đầu gồm Thánh giá nến cao, các em Thiếu nhi đại diện các ngành, các Thày cô và Huynh trưởng, và Cha chủ tế. Sau khi Cha chủ tế và cũng là cha TU, chào đón Cộng đoàn và chính thức tuyên bố Khai giảng Năm học mới, một hồi trống khai trường vang lên hoà trong tiếng vỗ tay của Cộng đoàn. Tiếp đến là Nghi thức Tuyên thệ của Thày cô và Huynh trưởng trong Năm học mới:
1. Luôn xác tin vào Thiên Chúa, và trung thành với giaó huấn của Giáo Hội
2. Vâng lời và theo sự hướng dẫn của Cha chánh xứ và BTV trong việc giảng dạy
3. Ý thức việc giảng dạy Giáo lý, Việt ngữ là việc quan trọng, để vun trồng đức tin, duy trì truyền thống văn hóa Việt Nam cho các em, và thực hành các đức tính nhân bản.
4. Nêu gương sáng cho các em qua: Cầu nguyện - Tôn sùng Thành Thể - Hy sinh và làm Tông đồ.
Trong bài giảng, Cha chủ tế sau khi đã diễn giải Lời Chúa, cũng đã nhấn mạnh đến vai trò và trách nhiệm của Cha mẹ và Thày cô, Huynh trưởng trong năm mới:
- Cha mẹ không chỉ sinh thành, mà còn có bổn phận giáo dục con cái nên người hữu ích cho gia đình, Giáo Hội và xã hội.
- Cha mẹ cần quan tâm, thăm hỏi và làm gương sáng cho con cái noi theo
- Thày cô, Huynh trưởng là những người tình nguyện, lãnh trách nhiệm từ Thiên Chúa và cha xứ trong việc phụ giúp huấn luyện các em.
- Cần rèn luyện bản thân qua việc cầu nguyện và học hỏi thêm kiến thức
Sau lễ, các phụ huynh và các em được mời ra sân tham dự buổi chào cờ đầu năm. Nghi thức chào cờ gồm chào cờ Việt Nam Cộng Hoà và cờ Đoàn Thiếu Nhi. Nét mới của sinh hoạt năm nay là có chào cờ nước Việt Nam Cộng Hoà mỗi 3 tháng để nhắc các em về cội nguồn của dân tộc và một tổ quốc mà các em chưa được biết đến.
Sau Nghi thức chaò cờ và sinh hoạt dướ i cờ, các em được các Huynh trưởng hướng dẫn và nhận lớp, làm quen với Thày cô phụ trách và nhận bạn mới.
Xin Chúa, qua lời cầu bầu của Mẹ La Vang và Thánh cả Giuse, chúc lành cho Giáo xứ chúng con. Amen.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Đảng lầm đường - Thanh niên lạc lối
Phạm Trần
22:25 30/08/2016
ĐẢNG LẦM ĐƯỜNG-THANH NIÊN LẠC LỐI
Bộ máy tuyên truyền nhà nước Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục đánh lừa nhân dân khi cho rằng Thanh niên “luôn trọn niềm tin với Đảng, trân trọng, bảo vệ và tiếp nối xứng đáng truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc, của thế hệ cha anh; nêu cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; có ý thức, trách nhiệm, nhiệt huyết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.” (báo Quân đội Nhân dân(QĐND) ,27/06/2016)
Sự thật là thanh niên đã chán đảng vả chủ nghĩa Mác-Lenin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh đến tận cổ cả trong lời nói và hành động. Họ đã không đồng tình với đảng từ sau ngày 30/4/1975.
Tại sao ? Bởi vì cùng với đại đa số đồng bào cả nước, Thanh niên đã coi Chủ nghĩa Cộng sản mà đảng lấy làm kim chỉ nam cho mọi hành động để xây dựng đất nước là giáo điều, lạc hậu và đi ngược lại trào lưu tiến bộ của nhân loại. Họ cũng thắc mắc như nhiều người Việt Nam khác là tại sao nước Nga và người dân Nga đã nổi lên phá tan gông cùm Cộng sản năm 1992, sau 70 năm bị cai trị hà khắc mà đảng CSVN lại ôm lấy như khuôn vàng thước ngọc để noi theo và áp đặt lên toàn dân ?
Cũng có người muốn biết : phải chăng vì các lãnh đạo đảng từ thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1986-1991) đến Đỗ Mười (1991-1997), Lê Khả Phiêu (1997-2001) và Nông Đức Mạnh (2001-2010) đã cam kết thi hành nghiêm chỉnh yêu cầu bảo vệ 16 chữ vàng do nước đàn anh Trung Quốc đưa ra cho Việt Nam thi hành nên Việt Nam không dám từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản, chừng nào Trung Quốc chưa thay đổi ?
Nội dung 16 chữ là:
Sơn thủy tương liên,
Lý tưởng tương thông,
Văn hóa tương đồng,
Vận mệnh tương quan
Theo định nghĩa được phổ biến rộng rãi thì nội dung này có nghĩa là: “sông núi gắn liền, cùng chung lý tưởng, hoà nhập văn hoá, có chung định mệnh”, và được dịch là "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.”
Lãnh đạo Việt-Trung từng khoe hai nước cùng do hai đảng Cộng sản lãnh đạo và cùng dựa trên nền tảng Xã hội Chủ nghĩa. Chỉ khác ngôn từ là phía Trung Hoa hành động “theo chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”.
Còn Việt Nam thì minh thị trong Cương lĩnh đảng (bổ xung và phát triển, 2011): “ Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.”
Chủ trương này cũng được ghi vào Điều 4 Hiến pháp năm 2013, the đó Việt Nam ”Lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Do đó không lạ khi thấy đảng CSVN tiếp tục chống đổi mới chính trị, bác bỏ đa nguyên đa đảng, không chấp nhận cho tư nhân ra báo và chống luôn cả việc thành lập các tổ chức chính trị, xã hội. Chính phủ cũng lấy cớ “còn có sự khác biệt giữa các bộ” nên chưa thể trình Quốc hội dự luật biểu tình. Bộ Quốc phòng, một trong số Bộ góp ý với Bộ Công an, tác giả dự luật biểu tình, thì cho rằng nếu có luật biểu tình là “đổi mới chính trị”, đe dọa quyền lãnh đạo của đảng !
Hành động có chủ ý này của nhà nước đã đi ngược lại
Điều 25 của Hiến háp (2013) viết rằng:”Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Như vậy chừng nào chưa có luật thì việc lập hội và biểu tình hãy còn xa vời
Trong hành động, Thanh niên đã lơ là việc học tập Chủ nghĩa Cộng sản trong nhà trường dù là môn học bắt buộc. Họ cũng coi thường việc học tập và làm theo điều gọi là “ tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đơn giản vì đạo đức của ông Hồ đã do đảng thêu dệt ra nhiều hơn những điều có thật khi ông còn sống. Chẳng hạn như đảng đã che giấu chuyện ông Hồ có vợ. Ít nhất 3 người phụ nữ là Tăng Tuyết Minh (người Trung Hoa), Nguyễn Thị Minh Khai và Nông Thị Xuân đã được nhiều người nhắc đến có quan hệ sống chung với ông Hồ. Riêng bà Xuân còn có con với ông Hồ, đặt tên là Nguyễn Tất Trung hiện còn sống tại Hà Nội.
Thanh niên cũng chán đảng vì đảng đã chứng minh nói “trăm voi không được bát nước xáo” , “nói một đàng làm một nẻo”, hay đã “đánh trống bỏ giùi” nhiều lần rồi.
BẰNG CHỨNG LỊCH SỬ
Bằng chứng thì nhiều vô cùng. Chỉ muốn nêu ra đây vài sự kiện lịch sử :
-Sau năm 1954, Đảng bắt thanh niên miền Bắc tòng quân vào giải phóng đồng bào miền Nam khỏi điều gọi là “ ách thống trị kìm kẹp và đàn áp của Đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm”.
- Trong Nam, lực lượng Cộng sản miền Bắc ở lại miền Nam sau Hiệp định Geneve 1954 từ dưới Vỹ tuyến 17, cũng đã tổ chức và cưỡng chế thanh niên sống trong vùng họ kiếm soát gia nhập đoàn quân ngụy danh “Mặt trận Giải phóng miền Nam” để phá hoại chính quyền non trẻ VNCH.
Nhưng sau 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn tính từ 1954-1975 đã có khoảng trên 1.1 triệu quân Cộng sản được ước tính đã tử thương, trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chưa tìm được xác). Trên 600,000 người lính khác bị thương.
Tài liệu cũng ghi nhận phía Việt Nam Cộng hòa có từ 250.000-316.000 quân lính chết và số bị thương là 1.170.000 người.
Trong số quân Đồng minh của VNCH bị thương vong thì Hoa Kỳ chiếm đa số với 58.209 tử trận, 2.000 Mất tích và 305.000 bị thương.
Tổn thất của phía VNCH được ghi từ 250.000-310.000 binh sỹ tử trận hoặc mất tích và khoảng 1.170.000 bị thương
Tuy nhiên số thường dân thương vong được ghi lại có từ 2 đến 4,000,000 người.
Nhưng hậu quả của cuộc chiến do miền Bắc chủ động chống chế độ Việt Nam Cộng Hòa là tự nó đã vạch ra sự giả dối và lừa đảo thanh niên hai miền Nam-Bắc của Chính quyền Cộng sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Đó là chỉ sau khi đặt chân vào Thủ đô Sài Gòn hoa lệ và các thành phố miền Nam, quân lính Cộng sản mới vỡ lẽ ra họ bị đánh lừa. Nhân dân miền Nam không hề bị kìm kẹp như đảng tuyên truyền mà đời sống vật chất của họ còn sung túc vạn lần hơn người dân miền Bắc. Có người lính miền Bắc đã so sánh miền Nam là thiên đàng hạ giới và miền Bắc là địa ngục trần gian.
Từ thất vọng này chồng lên những điều đảng nói không thật khác đã khiến thanh niên tuyệt vọng khi thấy rằng từ kẻ “chiến thắng ngoài chiến trường”, họ đã bị nhân dân miền Nam khinh thường và lên án là “kẻ xâm lược” , hay “quân cướp” đáng khinh bỉ.
Vì vậy sau ngày đất nước chính thức thống nhất (02/07/1976) để cho đảng Cộng sản độc quyền cai trị, mọi người đã hy vọng đất nước sẽ tiến nhanh và tiến mạnh về mọi mặt để giúp dân sung cới đời sống sung túc hơn.
Và ai cũng mong được sống trong một xã hội mới có công bằng xã hội và đoàn kết toàn dân để anh em Nam-Bắc một nhà cùng nắm gay nhau xây dựng lại quê hương.
Nhưng giấc mơ vừa chớm nở đã biến thành nỗi thất vọng ê chề cho đội ngũ Thanh niên, những người đã may mắn còn sống sau cuộc chiến. Bởi vì sau 10 năm kéo xã hội miền Nam xuống ngang hàng trâu ngựa với xã hội miền Bắc, đường lối kinh tế gọi nôm na là là “kế hoạch hóa, chỉ huy, bao cấp và tem phiếu” và chiến dịch “đánh tư sản mại bản” ở miền Nam năm 1977 của Phó Thủ tướng Phạm Hùng để đẩy dân thành thị miền Nam đi vùng kinh tế mới, đã xô cả nước đến bờ vực thẳm.
Hàng trăm ngàn người miền Nam, kể cả đội ngũ trí thức đã tìm đường trốn khỏi Việt Nan dù biết một sống mười chết trên Biển Đông hay trên đất liền qua ngả Cao Miên.
Thanh niên cũng đã thấy các trại tù lao động được mệnh danh “cải tạo” được dựng lên từ Nam ra Bắc để giam cầm quân-cán-chinh, văn nghệ sỹ và các lãnh tụ đảng phái và lãnh dạo tôn giáo miền Nam một thời gian dài hơn lời hứa của đảng.
Khi có lệnh tập trung học tập thì đảng bảo chỉ vài tuần hay vài tháng, nhưng đã kéo dài từ 1 đến 17 năm ròng rã ở những nơi rừng thiêng nước độc làm cho nhiều người chết vì bị tra tấn, thiếu ăn và bệnh tật. Có những nhân vật nổi tiếng của miền Nam như cựu Thủ tướng Phan Huy Quát, cựu Phó Thủ rướng Trần Văn Tuyên và Thi sỹ Vũ Hoàng Chương là nạn nhân của miệng lưỡi người Cộng sản.
CUỘC CHIẾN CAO MIÊN 1979-1989
Nhưng chỉ hai năm sau ngày phải “đổi mới hay là chết” để cứu nguy đất nước của nhóm Trường Chinh-Nguyễn Văn Linh tại Đại hội đảng VI và 5 năm sau ngày 30/4/1975, đảng CSVN lại xâm lăng Cao Miên dưới chiêu bài trả đũa quân Pol Pot đã phát động cuộc chiến dành lại đất ở biên giới Tây Nam.
Nhưng Việt Nam cũng đã phải trả một giá qúa đắt về nhân mạng của Thanh niên và trước sự lên án của Thế giới trong cuộc xâm lăng Cao Miên.
Theo tài liệu của Bách khoa toàn thư mở thì “Toàn cuộc chiến (tới năm 1988, bao gồm cả thời kỳ chiếm đóng Campuchia), có khoảng từ 10.000 tới 15.000 quân nhân Việt Nam chết và lối 30.000 bị thương.
Tính chung với thường dân thì từ năm 1977 tới tháng 10-1989 tổng số có lối 55.300 người chết hoặc bị thương.
Về phía người Cao Miên, theo cùng tài liệu, tính từ tháng 6-1977 đến tháng 12-1978 có 38.563 chết hoặc bị thương và 5.800 bị bắt the thống kê của Việt Nam.
Từ tháng 12-1978 tới 5-1979 số chết và bị thương là 30.000, hàng vạn người khác bị bắt.
Tới năm 1988, số dân Cao Miên có 100.000 người chết vì bệnh tật và đói khát do chiến tranh với Việt Nam gây ra.
Tất nhiên số thống kê này không bao gồm trên 1 triệu người Cao Miên bị chết dưới bàn tay diệt chủng đẫm máu của lực lượng Khmer đỏ do Pol Pot cầm đầu được Trung Hoa ủng hộ.
CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT-TRUNG
Để cứu đàn em Pol Pot đồng thời gây áp lực chống Việt Nam, lãnh tụ Trung Hoa Đặng Tiểu Bình khi ấy đã xua từ 400,000 đến 600,000 quân sang đánh Việt Nam dưới chiêu bài gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ ngày 17/02/1979 đến 16/03/1979.
Sau đó, Trung Quốc lại mở cuộc chiến biên giới đẫm máu thứ hai từ 1984 đến 1990 nhằm chiếm một số cao điểm chiến lược dọc biên giới, trong đó có cao điểm 1509, Việt Nam gọi là núi Đất hay Lão Sơn ( Laoshan,theo phía Trung Hoa) thuộc huyện Vỵ Xuyên của tỉnh Hà Giang.
Không có thống kê nào được công bố cho biết tổn thất của đôi bên. Việt Nam tuyên bố 10.000 dân thường bị thiệt mạng, trong khi con số 45,000 thường dân và quân lính Việt Nam thương vong đã được nói đến thường xuyên.
Về tổn thất của Trung Quốc, phía Việt Nam tuyên bố có 26.000 lính Trung Hoa chết, 37.000 bị thương, 280 xe tăng bị phá hủy.
Trung Quốc tuyên bố 6.954 chết, 14.800 bị thương
(nguồn khác của Trung Quốc thống kê có 8.531 chết, 21.000 bị thương)
Riêng tại mặt trận Vỵ Xuyên, Việt Nam tuyên bố đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 7.500 quân Trung Quốc. Cho đến nay, chỉ có Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang, Triệu Tài Vinh tiết lộ tại một buổi lễ ở Hà Nội ngày 14/7/2016:”Trong 5 năm chiến đấu bảo vệ biên giới (1984 - 1989), Hà Giang là nơi đương đầu với cuộc chiến ngay từ đầu và là địa phương thoát khỏi cuộc chiến muộn nhất, chịu nhiều tổn thất. Hơn 4.000 chiến sĩ hy sinh, hơn 9.000 cán bộ chiến sĩ bị thương."
Như vậy, người thanh niên Việt Nam đã không có giây phút nào để hưởng thụ hòa bình. Sau 3 cuộc chiến,từ nội chiến Bắc-Nam 1954-1975, chiến tranh với Cao Miên 1978-1988 và chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979-1990, đảng CSVN đã giết lần hồi không biết bao nhiêu trăm ngàn thanh niên tuấn tú là rường cột của đất nước.
Để rồi bây giờ, sau 30 năm gọi là đổi mới, Thanh niên vẫn chưa thấy tương lai của họ ở đâu hay sẽ không bao giờ có ?
Vì vậy nếu những Thanh niên đã ra khỏi cuộc chiến là lớp người thất vọng với đảng nhiều hơn bất cứ thành phần nào trong số dân 90 triệu người dân bây giờ, thì con cháu họ đang sống ra sao ?
THANH NIÊN THẤT NGHIỆP
Hãy đọc:”Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên, đặc biệt khu vực thành thị tăng mạnh và không có dấu hiệu giảm cho thấy đây là căn bệnh trầm kha của nhóm tuổi này.
Theo Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam sáng 18/3/2016 (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), trong quý IV/2015, tỷ lệ thất nghiệp giảm nhẹ so với quý III song vẫn tăng so với cùng kỳ 2014. Nhóm có trình độ cao đẳng chuyên nghiệp đứng ở vị trí cao nhất là 8,16%, tiếp theo là cao đẳng nghề 3,44%.
Tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm tuổi thanh niên là 7,21%, gấp 3,3 lần tỷ lệ chung. Trong đó, thanh niên thành thị là 12,21%. Đáng lưu ý, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên độ tuổi 20-24 có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở mức rất cao: cao đẳng chuyên nghiệp là 19,58% và đại học trở lên 20,79%. “ (Theo Zing.VN, 18/03/2016)
Trong một báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tháng 12/2015 thì số cử nhân và thạc sĩ thất nghiệp hiện nay chiếm tỷ lệ thất nghiệp 20% (225.500 người).
Báo Zing.VN viết:”Theo đánh giá, số lượng cử nhân, thạc sĩ không có việc làm gia tăng đáng kể so với con số 199.000 người của quý trước. Bên cạnh đó còn có 117.300 người có trình độ CĐ cũng đang thất nghiệp, tăng rất nhiều và nhanh so với vài tháng trước đây.”
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ - Nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT nói : “Đây là điều đáng lo ngại.” Còn PGS Văn Như Cương thì co rằng: “ 225.500 người là sự lãng phí về thời gian, tuổi trẻ.”
Giáo sư Cương còn phê bình:”Do đào tạo không sát với thực tế, nhà trường vốn chỉ dạy những gì họ có chứ không dạy điều xã hội cần.”
Trong khi đó, báo Tuổi Trẻ Online đưa tin ngày 18/03/2016 rằng :” Hiện nhóm thanh niên từ 15-24 tuổi thất nghiệp chiếm trên 53%. Có 20% thanh niên thất nghiệp trình độ Cao đẳng , gần 21% trình độ từ Đại học trở lên.”
Theo số liệu được ông Doãn Mậu Diệp, Thứ trưởng Bộ ao động-Thương binh-Xã hội (LĐTB&XH, cho biết tại “Hội thảo công bố bản tin cập nhật thị trường lao động quý 4 năm 2015”, thì :”Tính đến quý 4 năm 2015, số người có việc làm đã đạt 53,5 triệu người/tổng số 54,59 triệu người từ 15 tuổi trở lên. Tức là vẫn còn trên 1 triệu người trong độ tuổi lao động đang thất nghiệp. Trong đó nữ giới thất nghiệp chiếm gần 44%, thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm gần 48%, thất nghiệp trong nhóm thanh niên (15-24 tuổi) chiếm trên 53%.”
DU HỌC KHÔNG VỀ NƯỚC
Đó là tình trạng thất nghiêp của thành phần thanh niên có học hàm đàng hòang ở trong nước. Nhưng ngoài lý do không tìm được việc làm vì thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp còn có vấn đề không có tiền lót tay, qùa cáp và quen biết hay không được ai gửi gắm.
Câu chuyện 12/13 quán quân của cuộc thi " Đường lên đỉnh Olympia" do VTV3 tổ chức được du học nước ngoài nhưng sau khi tốt nghiệp đã không về nước là một bài học khác cho lối dùng người của nhà nước CSVN.
Tác giả Hành Thiện coi đầy là “một con số nhức nhối” và nói rằng:”Tôi không trách các em bởi các em có quyền lựa chọn con đường mình đi.”
Tuy nhiên ông cũng nói:”Tình trạng xin việc phải có phong bì lót tay đang là căn bệnh trầm kha của xã hội. Người ta không cần nhân tài. Anh có tài nhưng muốn vào chỗ này, chỗ kia thì cũng phải có tài… chính, hay phải có thân, có thế. Rõ ràng, bạn trẻ nào có khát vọng cống hiến cho đất nước tất sẽ nản lòng.
Nói thế mới thấy xót xa số tiền ba tỉ USD mà người Việt bỏ ra hàng năm cho con em du học, con số tương đương với tổng kim ngạch xuất khẩu gạo hay tiền bán dầu thô của cả nước.”
Bài viết của Hành Thiện kể tiếp:”Vị Tiến sĩ với 5 bài viết trên báo quốc tế/năm vẫn lo trượt.. lao động tiên tiến cuối năm.
Xin kể về chuyện của Tiến sĩ N.T.A, một trong nhiều du học sinh được đưa vào cuốn sách "Tấm gương người làm khoa học" (tập 12), một câu chuyện khiến người ta phải suy nghĩ. N.T.A có khát vọng cống hiến cho đất nước, muốn trở về Tổ quốc sau gần chục năm du học ở Pháp và Mỹ, nhưng khi về làm việc trong nước lại cảm thấy có nhiều điều cay đắng.”
Ông Thiện kể tiếp:”Tiến sĩ N.T.A kể với tôi, anh đã chọn con đường trở về nước, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ tại Pháp và sau tiến sĩ tại Mỹ. Khi làm việc ở nước ngoài, anh là nhà khoa học được đánh giá cao, còn khi về làm việc ở một viện nghiên cứu ở Việt Nam, với cùng một công việc nghiên cứu, cùng một số lượng bài báo công bố quốc tế, anh được đánh giá thậm chí không bằng cả những người mới ra trường, và suýt không nhận được danh hiệu lao đông tiên tiến, nếu như không có ý kiến của một cựu du học sinh khác trong cuộc họp Hội đồng thi đua. Sau này, chính anh cựu du học sinh này cũng đã xin chuyển cơ quan.”
Chuyện đút lót, chạy chức, chạy quyền, chuyện bè phái và cả chuyện tham nhũng không còn là những thứ nghe lạ tai trong xã hội Việt Nam, hay dó là chuyện của người lớn hoặc là những thứ “đặc sản” của cán bộ, đảng viên.
Bởi vì khi con cái thấy cha mẹ, anh chị có thể sống giầu và làm giầu dễ dàng bằng nước bọt thì chúng cũng tìm cách hưởng thụ từ những đồng tiến bất chính kia.
Một cuộc nghiên cứu của Bộ Nội Vụ phối hợp với Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam (UNFPA) tổ chức ngày 2-3-2016 cno thấy :”Về hành vi nguy cơ sức khỏe như hút thuốc lá, sử dụng rượu bia của thanh niên trước đây thường có mẫu tương đối nhỏ, sử dụng hình thức phỏng vấn hoặc phát phiếu tự điền dẫn đến việc các số liệu hiện tại có thể chưa phản ánh chính thức tỉ lệ có hành vi nguy cơ trong thanh niên Việt Nam hiện tại.
Tuy nhiên, các số liệu này đã cho thấy một tỉ lệ tương đối cao của thanh niên Việt Nam hút thuốc lá và uống rượu bia.” (Theo báo Tuổi Trẻ online)
Một viên chức Bộ Nội vụ cho biết các quán bia rượu hiện nay đang thu hút rất đồng thanh niên nhưng không cho biết họ lấy tiến đâu mà ăn nhậu như thế.
NGHIỆN MA TÚY
Trong khi đó, theo một bài trên Website Khám phá ngày 30/05/2016 thì :”Hiện nay, không ít người trẻ tuổi đang tìm vui trong những cuộc chơi thác loạn thâu đêm suốt sáng, lạm dụng ma túy đá để đạt được hưng phấn, mê mẩn không còn suy nghĩ hay lo lắng gì nữa. Đáng buồn hơn, độ tuổi những đối tượng này đang có xu hướng trẻ hóa. Điều này đang đặt ra thách thức đối với cơ quan chức năng, cũng như gia đình và toàn xã hội.
Có rất nhiều con đường, rất nhiều lý do để người nghiện đến với ma túy đá, nhưng lí do phổ biến nhất là họ cho rằng nó là một thú chơi sành điệu và không gây nghiện. Thật ra, đó chỉ là suy nghĩ của người sử dụng, cố bao biện cho hành vi sai trái của mình. Trên thực tế, loại ma túy này rất độc cho não, sử dụng nhiều sẽ gây nghiện, gây nhiễm độc và suy nhược thần kinh, suy kiệt cơ thể, gây bệnh cho tim, giảm trí nhớ, mất trí nhớ và rối loạn tâm thần. Còn hiện tượng người sử dụng ma túy đá không thấy vật vã điên loạn như khi dùng heroin nên lầm tưởng là ma túy đá không gây nghiện, chính sự hiểu lầm và chủ quan này đã làm gia tăng số người nghiện ma túy đá lên theo cấp số nhân như hiện nay.”
Nhưng có ai biết Việt Nam hiện có bao niêu con nghiện ?
Một báo cáo của nhà nước đăng trên báo điện tử Tiếng Chuông, cơ quan báo chuyên về những tệ nạn xã hội cho biết:” Tính đến tháng 9/2014, cả nước có 204.377 người sử dụng ma tuý, trong đó 85% tiêm chích các loại ma tuý như heroin . Những người tiêm chích ma tuý chiếm ưu thế trong nhóm nhiễm HIV tại Việt Nam, chiếm 45% số người nhiễm HIV (Uỷ Ban Quốc Gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, 2012).”
Thực tế tình hình là như thế mà báo Quân đội Nhân dân vẫn cố tình tìm cách chạy quanh cho rằng những thiếu sót của thanh niên hiện nay là :”Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và một phần do hạn chế về nhận thức, thanh niên là đối tượng trọng điểm để các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, lôi kéo, kích động…, nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.” (báo Quân đội Nhân dân, 27/06/2016)
Bài báo đã làm ngơ thái độ chán đảng của Thanh Niên khi viết rằng:”Các thế lực phản động, cơ hội, chống đối chính trị… luôn triệt để lợi dụng đặc điểm tâm lý nhạy cảm, ham tiếp cận cái mới, thích tự do, tự khẳng định mình… của thanh niên, trong khi vốn sống và nhận thức chính trị-xã hội của họ còn hạn chế, để dụ dỗ, lôi kéo, tiêm nhiễm bằng cả vật chất và văn hóa, lối sống thực dụng, ngoại lai. Đồng thời, họ cũng lợi dụng những sơ hở, buông lỏng trong công tác quản lý, hoặc một bộ phận thanh niên đua đòi theo trào lưu, lối sống thực dụng, đòi xét lại quá khứ…, để lôi kéo, kích động, tập hợp thanh niên tham gia, hòng gây mất an ninh trật tự, chống đối chính quyền.”
Viết như thế nhưng đảng đâu biết Thanh niên cũng như một số không nhỏ cán bộ đảng viên đã “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” xa đảng từ khuya rồi ? -/-
Phạm Trần
(08/016)
Bộ máy tuyên truyền nhà nước Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục đánh lừa nhân dân khi cho rằng Thanh niên “luôn trọn niềm tin với Đảng, trân trọng, bảo vệ và tiếp nối xứng đáng truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc, của thế hệ cha anh; nêu cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; có ý thức, trách nhiệm, nhiệt huyết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.” (báo Quân đội Nhân dân(QĐND) ,27/06/2016)
Sự thật là thanh niên đã chán đảng vả chủ nghĩa Mác-Lenin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh đến tận cổ cả trong lời nói và hành động. Họ đã không đồng tình với đảng từ sau ngày 30/4/1975.
Tại sao ? Bởi vì cùng với đại đa số đồng bào cả nước, Thanh niên đã coi Chủ nghĩa Cộng sản mà đảng lấy làm kim chỉ nam cho mọi hành động để xây dựng đất nước là giáo điều, lạc hậu và đi ngược lại trào lưu tiến bộ của nhân loại. Họ cũng thắc mắc như nhiều người Việt Nam khác là tại sao nước Nga và người dân Nga đã nổi lên phá tan gông cùm Cộng sản năm 1992, sau 70 năm bị cai trị hà khắc mà đảng CSVN lại ôm lấy như khuôn vàng thước ngọc để noi theo và áp đặt lên toàn dân ?
Cũng có người muốn biết : phải chăng vì các lãnh đạo đảng từ thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1986-1991) đến Đỗ Mười (1991-1997), Lê Khả Phiêu (1997-2001) và Nông Đức Mạnh (2001-2010) đã cam kết thi hành nghiêm chỉnh yêu cầu bảo vệ 16 chữ vàng do nước đàn anh Trung Quốc đưa ra cho Việt Nam thi hành nên Việt Nam không dám từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản, chừng nào Trung Quốc chưa thay đổi ?
Nội dung 16 chữ là:
Sơn thủy tương liên,
Lý tưởng tương thông,
Văn hóa tương đồng,
Vận mệnh tương quan
Theo định nghĩa được phổ biến rộng rãi thì nội dung này có nghĩa là: “sông núi gắn liền, cùng chung lý tưởng, hoà nhập văn hoá, có chung định mệnh”, và được dịch là "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.”
Lãnh đạo Việt-Trung từng khoe hai nước cùng do hai đảng Cộng sản lãnh đạo và cùng dựa trên nền tảng Xã hội Chủ nghĩa. Chỉ khác ngôn từ là phía Trung Hoa hành động “theo chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”.
Còn Việt Nam thì minh thị trong Cương lĩnh đảng (bổ xung và phát triển, 2011): “ Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.”
Chủ trương này cũng được ghi vào Điều 4 Hiến pháp năm 2013, the đó Việt Nam ”Lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Do đó không lạ khi thấy đảng CSVN tiếp tục chống đổi mới chính trị, bác bỏ đa nguyên đa đảng, không chấp nhận cho tư nhân ra báo và chống luôn cả việc thành lập các tổ chức chính trị, xã hội. Chính phủ cũng lấy cớ “còn có sự khác biệt giữa các bộ” nên chưa thể trình Quốc hội dự luật biểu tình. Bộ Quốc phòng, một trong số Bộ góp ý với Bộ Công an, tác giả dự luật biểu tình, thì cho rằng nếu có luật biểu tình là “đổi mới chính trị”, đe dọa quyền lãnh đạo của đảng !
Hành động có chủ ý này của nhà nước đã đi ngược lại
Điều 25 của Hiến háp (2013) viết rằng:”Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Như vậy chừng nào chưa có luật thì việc lập hội và biểu tình hãy còn xa vời
Trong hành động, Thanh niên đã lơ là việc học tập Chủ nghĩa Cộng sản trong nhà trường dù là môn học bắt buộc. Họ cũng coi thường việc học tập và làm theo điều gọi là “ tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đơn giản vì đạo đức của ông Hồ đã do đảng thêu dệt ra nhiều hơn những điều có thật khi ông còn sống. Chẳng hạn như đảng đã che giấu chuyện ông Hồ có vợ. Ít nhất 3 người phụ nữ là Tăng Tuyết Minh (người Trung Hoa), Nguyễn Thị Minh Khai và Nông Thị Xuân đã được nhiều người nhắc đến có quan hệ sống chung với ông Hồ. Riêng bà Xuân còn có con với ông Hồ, đặt tên là Nguyễn Tất Trung hiện còn sống tại Hà Nội.
Thanh niên cũng chán đảng vì đảng đã chứng minh nói “trăm voi không được bát nước xáo” , “nói một đàng làm một nẻo”, hay đã “đánh trống bỏ giùi” nhiều lần rồi.
BẰNG CHỨNG LỊCH SỬ
Bằng chứng thì nhiều vô cùng. Chỉ muốn nêu ra đây vài sự kiện lịch sử :
-Sau năm 1954, Đảng bắt thanh niên miền Bắc tòng quân vào giải phóng đồng bào miền Nam khỏi điều gọi là “ ách thống trị kìm kẹp và đàn áp của Đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm”.
- Trong Nam, lực lượng Cộng sản miền Bắc ở lại miền Nam sau Hiệp định Geneve 1954 từ dưới Vỹ tuyến 17, cũng đã tổ chức và cưỡng chế thanh niên sống trong vùng họ kiếm soát gia nhập đoàn quân ngụy danh “Mặt trận Giải phóng miền Nam” để phá hoại chính quyền non trẻ VNCH.
Nhưng sau 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn tính từ 1954-1975 đã có khoảng trên 1.1 triệu quân Cộng sản được ước tính đã tử thương, trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chưa tìm được xác). Trên 600,000 người lính khác bị thương.
Tài liệu cũng ghi nhận phía Việt Nam Cộng hòa có từ 250.000-316.000 quân lính chết và số bị thương là 1.170.000 người.
Trong số quân Đồng minh của VNCH bị thương vong thì Hoa Kỳ chiếm đa số với 58.209 tử trận, 2.000 Mất tích và 305.000 bị thương.
Tổn thất của phía VNCH được ghi từ 250.000-310.000 binh sỹ tử trận hoặc mất tích và khoảng 1.170.000 bị thương
Tuy nhiên số thường dân thương vong được ghi lại có từ 2 đến 4,000,000 người.
Nhưng hậu quả của cuộc chiến do miền Bắc chủ động chống chế độ Việt Nam Cộng Hòa là tự nó đã vạch ra sự giả dối và lừa đảo thanh niên hai miền Nam-Bắc của Chính quyền Cộng sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Đó là chỉ sau khi đặt chân vào Thủ đô Sài Gòn hoa lệ và các thành phố miền Nam, quân lính Cộng sản mới vỡ lẽ ra họ bị đánh lừa. Nhân dân miền Nam không hề bị kìm kẹp như đảng tuyên truyền mà đời sống vật chất của họ còn sung túc vạn lần hơn người dân miền Bắc. Có người lính miền Bắc đã so sánh miền Nam là thiên đàng hạ giới và miền Bắc là địa ngục trần gian.
Từ thất vọng này chồng lên những điều đảng nói không thật khác đã khiến thanh niên tuyệt vọng khi thấy rằng từ kẻ “chiến thắng ngoài chiến trường”, họ đã bị nhân dân miền Nam khinh thường và lên án là “kẻ xâm lược” , hay “quân cướp” đáng khinh bỉ.
Vì vậy sau ngày đất nước chính thức thống nhất (02/07/1976) để cho đảng Cộng sản độc quyền cai trị, mọi người đã hy vọng đất nước sẽ tiến nhanh và tiến mạnh về mọi mặt để giúp dân sung cới đời sống sung túc hơn.
Và ai cũng mong được sống trong một xã hội mới có công bằng xã hội và đoàn kết toàn dân để anh em Nam-Bắc một nhà cùng nắm gay nhau xây dựng lại quê hương.
Nhưng giấc mơ vừa chớm nở đã biến thành nỗi thất vọng ê chề cho đội ngũ Thanh niên, những người đã may mắn còn sống sau cuộc chiến. Bởi vì sau 10 năm kéo xã hội miền Nam xuống ngang hàng trâu ngựa với xã hội miền Bắc, đường lối kinh tế gọi nôm na là là “kế hoạch hóa, chỉ huy, bao cấp và tem phiếu” và chiến dịch “đánh tư sản mại bản” ở miền Nam năm 1977 của Phó Thủ tướng Phạm Hùng để đẩy dân thành thị miền Nam đi vùng kinh tế mới, đã xô cả nước đến bờ vực thẳm.
Hàng trăm ngàn người miền Nam, kể cả đội ngũ trí thức đã tìm đường trốn khỏi Việt Nan dù biết một sống mười chết trên Biển Đông hay trên đất liền qua ngả Cao Miên.
Thanh niên cũng đã thấy các trại tù lao động được mệnh danh “cải tạo” được dựng lên từ Nam ra Bắc để giam cầm quân-cán-chinh, văn nghệ sỹ và các lãnh tụ đảng phái và lãnh dạo tôn giáo miền Nam một thời gian dài hơn lời hứa của đảng.
Khi có lệnh tập trung học tập thì đảng bảo chỉ vài tuần hay vài tháng, nhưng đã kéo dài từ 1 đến 17 năm ròng rã ở những nơi rừng thiêng nước độc làm cho nhiều người chết vì bị tra tấn, thiếu ăn và bệnh tật. Có những nhân vật nổi tiếng của miền Nam như cựu Thủ tướng Phan Huy Quát, cựu Phó Thủ rướng Trần Văn Tuyên và Thi sỹ Vũ Hoàng Chương là nạn nhân của miệng lưỡi người Cộng sản.
CUỘC CHIẾN CAO MIÊN 1979-1989
Nhưng chỉ hai năm sau ngày phải “đổi mới hay là chết” để cứu nguy đất nước của nhóm Trường Chinh-Nguyễn Văn Linh tại Đại hội đảng VI và 5 năm sau ngày 30/4/1975, đảng CSVN lại xâm lăng Cao Miên dưới chiêu bài trả đũa quân Pol Pot đã phát động cuộc chiến dành lại đất ở biên giới Tây Nam.
Nhưng Việt Nam cũng đã phải trả một giá qúa đắt về nhân mạng của Thanh niên và trước sự lên án của Thế giới trong cuộc xâm lăng Cao Miên.
Theo tài liệu của Bách khoa toàn thư mở thì “Toàn cuộc chiến (tới năm 1988, bao gồm cả thời kỳ chiếm đóng Campuchia), có khoảng từ 10.000 tới 15.000 quân nhân Việt Nam chết và lối 30.000 bị thương.
Tính chung với thường dân thì từ năm 1977 tới tháng 10-1989 tổng số có lối 55.300 người chết hoặc bị thương.
Về phía người Cao Miên, theo cùng tài liệu, tính từ tháng 6-1977 đến tháng 12-1978 có 38.563 chết hoặc bị thương và 5.800 bị bắt the thống kê của Việt Nam.
Từ tháng 12-1978 tới 5-1979 số chết và bị thương là 30.000, hàng vạn người khác bị bắt.
Tới năm 1988, số dân Cao Miên có 100.000 người chết vì bệnh tật và đói khát do chiến tranh với Việt Nam gây ra.
Tất nhiên số thống kê này không bao gồm trên 1 triệu người Cao Miên bị chết dưới bàn tay diệt chủng đẫm máu của lực lượng Khmer đỏ do Pol Pot cầm đầu được Trung Hoa ủng hộ.
CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT-TRUNG
Để cứu đàn em Pol Pot đồng thời gây áp lực chống Việt Nam, lãnh tụ Trung Hoa Đặng Tiểu Bình khi ấy đã xua từ 400,000 đến 600,000 quân sang đánh Việt Nam dưới chiêu bài gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ ngày 17/02/1979 đến 16/03/1979.
Sau đó, Trung Quốc lại mở cuộc chiến biên giới đẫm máu thứ hai từ 1984 đến 1990 nhằm chiếm một số cao điểm chiến lược dọc biên giới, trong đó có cao điểm 1509, Việt Nam gọi là núi Đất hay Lão Sơn ( Laoshan,theo phía Trung Hoa) thuộc huyện Vỵ Xuyên của tỉnh Hà Giang.
Không có thống kê nào được công bố cho biết tổn thất của đôi bên. Việt Nam tuyên bố 10.000 dân thường bị thiệt mạng, trong khi con số 45,000 thường dân và quân lính Việt Nam thương vong đã được nói đến thường xuyên.
Về tổn thất của Trung Quốc, phía Việt Nam tuyên bố có 26.000 lính Trung Hoa chết, 37.000 bị thương, 280 xe tăng bị phá hủy.
Trung Quốc tuyên bố 6.954 chết, 14.800 bị thương
(nguồn khác của Trung Quốc thống kê có 8.531 chết, 21.000 bị thương)
Riêng tại mặt trận Vỵ Xuyên, Việt Nam tuyên bố đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 7.500 quân Trung Quốc. Cho đến nay, chỉ có Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang, Triệu Tài Vinh tiết lộ tại một buổi lễ ở Hà Nội ngày 14/7/2016:”Trong 5 năm chiến đấu bảo vệ biên giới (1984 - 1989), Hà Giang là nơi đương đầu với cuộc chiến ngay từ đầu và là địa phương thoát khỏi cuộc chiến muộn nhất, chịu nhiều tổn thất. Hơn 4.000 chiến sĩ hy sinh, hơn 9.000 cán bộ chiến sĩ bị thương."
Như vậy, người thanh niên Việt Nam đã không có giây phút nào để hưởng thụ hòa bình. Sau 3 cuộc chiến,từ nội chiến Bắc-Nam 1954-1975, chiến tranh với Cao Miên 1978-1988 và chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979-1990, đảng CSVN đã giết lần hồi không biết bao nhiêu trăm ngàn thanh niên tuấn tú là rường cột của đất nước.
Để rồi bây giờ, sau 30 năm gọi là đổi mới, Thanh niên vẫn chưa thấy tương lai của họ ở đâu hay sẽ không bao giờ có ?
Vì vậy nếu những Thanh niên đã ra khỏi cuộc chiến là lớp người thất vọng với đảng nhiều hơn bất cứ thành phần nào trong số dân 90 triệu người dân bây giờ, thì con cháu họ đang sống ra sao ?
THANH NIÊN THẤT NGHIỆP
Hãy đọc:”Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên, đặc biệt khu vực thành thị tăng mạnh và không có dấu hiệu giảm cho thấy đây là căn bệnh trầm kha của nhóm tuổi này.
Theo Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam sáng 18/3/2016 (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), trong quý IV/2015, tỷ lệ thất nghiệp giảm nhẹ so với quý III song vẫn tăng so với cùng kỳ 2014. Nhóm có trình độ cao đẳng chuyên nghiệp đứng ở vị trí cao nhất là 8,16%, tiếp theo là cao đẳng nghề 3,44%.
Tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm tuổi thanh niên là 7,21%, gấp 3,3 lần tỷ lệ chung. Trong đó, thanh niên thành thị là 12,21%. Đáng lưu ý, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên độ tuổi 20-24 có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở mức rất cao: cao đẳng chuyên nghiệp là 19,58% và đại học trở lên 20,79%. “ (Theo Zing.VN, 18/03/2016)
Trong một báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tháng 12/2015 thì số cử nhân và thạc sĩ thất nghiệp hiện nay chiếm tỷ lệ thất nghiệp 20% (225.500 người).
Báo Zing.VN viết:”Theo đánh giá, số lượng cử nhân, thạc sĩ không có việc làm gia tăng đáng kể so với con số 199.000 người của quý trước. Bên cạnh đó còn có 117.300 người có trình độ CĐ cũng đang thất nghiệp, tăng rất nhiều và nhanh so với vài tháng trước đây.”
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ - Nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT nói : “Đây là điều đáng lo ngại.” Còn PGS Văn Như Cương thì co rằng: “ 225.500 người là sự lãng phí về thời gian, tuổi trẻ.”
Giáo sư Cương còn phê bình:”Do đào tạo không sát với thực tế, nhà trường vốn chỉ dạy những gì họ có chứ không dạy điều xã hội cần.”
Trong khi đó, báo Tuổi Trẻ Online đưa tin ngày 18/03/2016 rằng :” Hiện nhóm thanh niên từ 15-24 tuổi thất nghiệp chiếm trên 53%. Có 20% thanh niên thất nghiệp trình độ Cao đẳng , gần 21% trình độ từ Đại học trở lên.”
Theo số liệu được ông Doãn Mậu Diệp, Thứ trưởng Bộ ao động-Thương binh-Xã hội (LĐTB&XH, cho biết tại “Hội thảo công bố bản tin cập nhật thị trường lao động quý 4 năm 2015”, thì :”Tính đến quý 4 năm 2015, số người có việc làm đã đạt 53,5 triệu người/tổng số 54,59 triệu người từ 15 tuổi trở lên. Tức là vẫn còn trên 1 triệu người trong độ tuổi lao động đang thất nghiệp. Trong đó nữ giới thất nghiệp chiếm gần 44%, thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm gần 48%, thất nghiệp trong nhóm thanh niên (15-24 tuổi) chiếm trên 53%.”
DU HỌC KHÔNG VỀ NƯỚC
Đó là tình trạng thất nghiêp của thành phần thanh niên có học hàm đàng hòang ở trong nước. Nhưng ngoài lý do không tìm được việc làm vì thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp còn có vấn đề không có tiền lót tay, qùa cáp và quen biết hay không được ai gửi gắm.
Câu chuyện 12/13 quán quân của cuộc thi " Đường lên đỉnh Olympia" do VTV3 tổ chức được du học nước ngoài nhưng sau khi tốt nghiệp đã không về nước là một bài học khác cho lối dùng người của nhà nước CSVN.
Tác giả Hành Thiện coi đầy là “một con số nhức nhối” và nói rằng:”Tôi không trách các em bởi các em có quyền lựa chọn con đường mình đi.”
Tuy nhiên ông cũng nói:”Tình trạng xin việc phải có phong bì lót tay đang là căn bệnh trầm kha của xã hội. Người ta không cần nhân tài. Anh có tài nhưng muốn vào chỗ này, chỗ kia thì cũng phải có tài… chính, hay phải có thân, có thế. Rõ ràng, bạn trẻ nào có khát vọng cống hiến cho đất nước tất sẽ nản lòng.
Nói thế mới thấy xót xa số tiền ba tỉ USD mà người Việt bỏ ra hàng năm cho con em du học, con số tương đương với tổng kim ngạch xuất khẩu gạo hay tiền bán dầu thô của cả nước.”
Bài viết của Hành Thiện kể tiếp:”Vị Tiến sĩ với 5 bài viết trên báo quốc tế/năm vẫn lo trượt.. lao động tiên tiến cuối năm.
Xin kể về chuyện của Tiến sĩ N.T.A, một trong nhiều du học sinh được đưa vào cuốn sách "Tấm gương người làm khoa học" (tập 12), một câu chuyện khiến người ta phải suy nghĩ. N.T.A có khát vọng cống hiến cho đất nước, muốn trở về Tổ quốc sau gần chục năm du học ở Pháp và Mỹ, nhưng khi về làm việc trong nước lại cảm thấy có nhiều điều cay đắng.”
Ông Thiện kể tiếp:”Tiến sĩ N.T.A kể với tôi, anh đã chọn con đường trở về nước, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ tại Pháp và sau tiến sĩ tại Mỹ. Khi làm việc ở nước ngoài, anh là nhà khoa học được đánh giá cao, còn khi về làm việc ở một viện nghiên cứu ở Việt Nam, với cùng một công việc nghiên cứu, cùng một số lượng bài báo công bố quốc tế, anh được đánh giá thậm chí không bằng cả những người mới ra trường, và suýt không nhận được danh hiệu lao đông tiên tiến, nếu như không có ý kiến của một cựu du học sinh khác trong cuộc họp Hội đồng thi đua. Sau này, chính anh cựu du học sinh này cũng đã xin chuyển cơ quan.”
Chuyện đút lót, chạy chức, chạy quyền, chuyện bè phái và cả chuyện tham nhũng không còn là những thứ nghe lạ tai trong xã hội Việt Nam, hay dó là chuyện của người lớn hoặc là những thứ “đặc sản” của cán bộ, đảng viên.
Bởi vì khi con cái thấy cha mẹ, anh chị có thể sống giầu và làm giầu dễ dàng bằng nước bọt thì chúng cũng tìm cách hưởng thụ từ những đồng tiến bất chính kia.
Một cuộc nghiên cứu của Bộ Nội Vụ phối hợp với Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam (UNFPA) tổ chức ngày 2-3-2016 cno thấy :”Về hành vi nguy cơ sức khỏe như hút thuốc lá, sử dụng rượu bia của thanh niên trước đây thường có mẫu tương đối nhỏ, sử dụng hình thức phỏng vấn hoặc phát phiếu tự điền dẫn đến việc các số liệu hiện tại có thể chưa phản ánh chính thức tỉ lệ có hành vi nguy cơ trong thanh niên Việt Nam hiện tại.
Tuy nhiên, các số liệu này đã cho thấy một tỉ lệ tương đối cao của thanh niên Việt Nam hút thuốc lá và uống rượu bia.” (Theo báo Tuổi Trẻ online)
Một viên chức Bộ Nội vụ cho biết các quán bia rượu hiện nay đang thu hút rất đồng thanh niên nhưng không cho biết họ lấy tiến đâu mà ăn nhậu như thế.
NGHIỆN MA TÚY
Trong khi đó, theo một bài trên Website Khám phá ngày 30/05/2016 thì :”Hiện nay, không ít người trẻ tuổi đang tìm vui trong những cuộc chơi thác loạn thâu đêm suốt sáng, lạm dụng ma túy đá để đạt được hưng phấn, mê mẩn không còn suy nghĩ hay lo lắng gì nữa. Đáng buồn hơn, độ tuổi những đối tượng này đang có xu hướng trẻ hóa. Điều này đang đặt ra thách thức đối với cơ quan chức năng, cũng như gia đình và toàn xã hội.
Có rất nhiều con đường, rất nhiều lý do để người nghiện đến với ma túy đá, nhưng lí do phổ biến nhất là họ cho rằng nó là một thú chơi sành điệu và không gây nghiện. Thật ra, đó chỉ là suy nghĩ của người sử dụng, cố bao biện cho hành vi sai trái của mình. Trên thực tế, loại ma túy này rất độc cho não, sử dụng nhiều sẽ gây nghiện, gây nhiễm độc và suy nhược thần kinh, suy kiệt cơ thể, gây bệnh cho tim, giảm trí nhớ, mất trí nhớ và rối loạn tâm thần. Còn hiện tượng người sử dụng ma túy đá không thấy vật vã điên loạn như khi dùng heroin nên lầm tưởng là ma túy đá không gây nghiện, chính sự hiểu lầm và chủ quan này đã làm gia tăng số người nghiện ma túy đá lên theo cấp số nhân như hiện nay.”
Nhưng có ai biết Việt Nam hiện có bao niêu con nghiện ?
Một báo cáo của nhà nước đăng trên báo điện tử Tiếng Chuông, cơ quan báo chuyên về những tệ nạn xã hội cho biết:” Tính đến tháng 9/2014, cả nước có 204.377 người sử dụng ma tuý, trong đó 85% tiêm chích các loại ma tuý như heroin . Những người tiêm chích ma tuý chiếm ưu thế trong nhóm nhiễm HIV tại Việt Nam, chiếm 45% số người nhiễm HIV (Uỷ Ban Quốc Gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, 2012).”
Thực tế tình hình là như thế mà báo Quân đội Nhân dân vẫn cố tình tìm cách chạy quanh cho rằng những thiếu sót của thanh niên hiện nay là :”Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và một phần do hạn chế về nhận thức, thanh niên là đối tượng trọng điểm để các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, lôi kéo, kích động…, nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.” (báo Quân đội Nhân dân, 27/06/2016)
Bài báo đã làm ngơ thái độ chán đảng của Thanh Niên khi viết rằng:”Các thế lực phản động, cơ hội, chống đối chính trị… luôn triệt để lợi dụng đặc điểm tâm lý nhạy cảm, ham tiếp cận cái mới, thích tự do, tự khẳng định mình… của thanh niên, trong khi vốn sống và nhận thức chính trị-xã hội của họ còn hạn chế, để dụ dỗ, lôi kéo, tiêm nhiễm bằng cả vật chất và văn hóa, lối sống thực dụng, ngoại lai. Đồng thời, họ cũng lợi dụng những sơ hở, buông lỏng trong công tác quản lý, hoặc một bộ phận thanh niên đua đòi theo trào lưu, lối sống thực dụng, đòi xét lại quá khứ…, để lôi kéo, kích động, tập hợp thanh niên tham gia, hòng gây mất an ninh trật tự, chống đối chính quyền.”
Viết như thế nhưng đảng đâu biết Thanh niên cũng như một số không nhỏ cán bộ đảng viên đã “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” xa đảng từ khuya rồi ? -/-
Phạm Trần
(08/016)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Nhà Tạm bằng kính trong suốt được không? Việc đặt Mình Thánh Chúa cuối Thánh lễ được thực hiện như thế nào?
Nguyễn Trọng Đa
09:56 30/08/2016
Giải đáp phụng vụ: Nhà Tạm bằng kính trong suốt được không? Việc đặt Mình Thánh Chúa cuối Thánh lễ được thực hiện như thế nào?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi 1: Tôi mới đến thăm một trung tâm tĩnh tâm, nơi đó có một nhà nguyện Thánh Thể nhỏ trong một căn phòng của nhà khách. Trong nhà nguyện, Thánh Thể hiện diện, nhưng không ở trong một nhà tạm (ít nhất là theo nghĩa truyền thống). Thay vào đó, một bình thánh được giữ trong một vật dường như là một chiếc bình thủy tinh nhỏ lộn ngược. Tôi thấy điều này đáng lo ngại, và đã đề cập đến nó với các người khác, nhưng vài tháng sau khi tôi quay trở lại, tình trạng là vẫn như cũ. Việc này xem ra là bất cẩn, nếu bất cứ ai có thể thăm viếng nhà nguyện vào bất cứ giờ nào, và nếu họ muốn, họ tiến lên và mang Thánh Thể đi bất cứ lúc nào. Thưa cha, liệu có một hướng dẫn rõ ràng về việc giữ đúng cách Mình Thánh Chúa không, và nhà tạm phải là như thế nào? - J. C., Toronto, Canada.
Hỏi 2: Đâu là thứ tự đúng của việc đặt Mình Thánh Chúa cuối Thánh lễ? Liệu Thánh lễ phải là xong rồi, mới đặt Mình Thánh Chúa chăng? Chúng con có thể tìm thấy ở đâu một số ý tưởng cho thứ tự cuộc rước Mình Thánh Chúa một lần nữa sau Thánh Lễ? - A. R., Fullerton, California, Hoa Kỳ.
A: Bởi vì cả hai câu hỏi liên quan đến phép Thánh Thể, tôi sẽ giải quyết chúng cách ngắn gọn.
Trước hết, các qui định liên quan đến cấu trúc của nhà tạm được tìm thấy trong Qui chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 314:
"Tùy theo cấu trúc của thánh đường và thể theo các tục lệ chính đáng địa phương, Mình Thánh Chúa được lưu giữ trong nhà tạm, nơi phần trang trọng của thánh đường, có dấu nhận biết, có trang trí và thích hợp cho việc cầu nguyện.
"Theo thói quen, chỉ có một nhà tạm, không thể di chuyển, làm bằng vật liệu vững chắc, không trong suốt, và phải đóng kín để tránh tối đa mọi nguy cơ phạm thánh. Nên làm phép nhà tạm trước khi dùng trong phụng vụ, theo nghi thức mô tả trong Nghi thức Rôma" (Bản dịch Việt ngữ của Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Chí Cần, Giáo phận Nha Trang).
Nhà tạm được mô tả bởi bạn đọc của chúng tôi chắc chắn đã không tuân thủ qui định này về nhiều điểm. Rõ ràng nhà tạm là phải không trong suốt, và không thể di chuyển. Tôi đề nghị bạn đọc này nên thông báo cho vị Giám mục của giáo phận, nơi có nhà tĩnh tâm ấy, vì phải có phép của ngài mới làm được nhà nguyện, và sự thực hiện nhà nguyện được ngài giám sát trực tiếp.
Một nguồn có giá trị cho các chủ đề của việc đặt Mình Thánh Chúa, tôn thờ và rước kiệu Thánh Thể, có thể được tìm thấy trong cuốn "Ceremonies of the Modern Roman Rite” (Nghi thức của Nghi lễ Rôma hiện đại) của Đức Ông (nay là giám mục) Peter J. Elliott, được nhà xuất bản Ignatius Press ấn hành. Cuốn sách này tổng hợp một cách có hiệu quả nhiều nguồn chính thức, như cuốn “Nghi thức Rôma cho việc chầu Mình Thánh ngoài Thánh Lễ” và cuốn “Nghi thức của Giám mục”. Ngoài ra, còn có nhiều ấn phẩm gần đây cung cấp ý tưởng cho bài thánh ca và các văn bản thích hợp, vốn có thể được sử dụng trong việc chầu Mình Thánh và rước kiệu Mình Thánh. Một nguồn trực tuyến xuất sắc được tìm thấy tại http://www.therealpresence.org.
Dựa vào tác phẩm của Đức Ông Elliott, chúng tôi có thể nói những điều sau đây liên quan đến câu hỏi về việc đặt Mình Thánh Chúa vào cuối Thánh Lễ:
Trong khi Thánh Lễ không bao giờ được cử hành trước Mình Thánh Chúa đã được đặt ("trong cùng một khu vực nhà thờ hay nhà nguyện", nơi mà Mình Thánh Chúa được đặt), việc đặt và chầu Mình Thánh Chúa có thể bắt đầu ngay lập tức, sau một Thánh Lễ. Hành động này có thể được xem là phát sinh từ phụng vụ Thánh Thể; do đó, một Mình Thánh đã truyền phép trong Thánh Lễ sẽ được đặt ngay lập tức, sau phần Rước lễ.
Lời nguyện sau Hiệp lễ được đọc tại ghế chủ tọa. Lời chúc lành và lởi chào cuối lễ được bỏ qua. Sau khi đọc Lời nguyện sau Hiệp lễ, vị chủ tế, phó tế và các thừa tác viên xếp hàng trước bàn thờ, bái gối và sau đó quỳ xuống, trong khi ca đoàn hát một bài thánh ca tôn thờ Thánh Thể. Linh mục xông hương Mình Thánh như thường lệ khi chầu Thánh Thể. Sau khi xông hương và một khoảnh khắc cầu nguyện trong thinh lặng, tất cả bái gối và trở vào phòng thánh. Bài thánh ca kết lễ được bỏ qua.
Việc sùng kính có thể thực hiện ngay sau khi xông hương (trước khi đoàn cử hành trở lại phòng thánh), nhưng Phép Lành Mình Thánh Chúa không được làm ngay sau Thánh Lễ.
Sự đề nghị rằng, Mình Thánh được đặt phải được truyền phép trong Thánh Lễ, nhắm đến trên hết cho các dịp thỉnh thoảng chầu. Điều này sẽ không là thực tế ở những nơi có việc chầu Thánh Thể hàng ngày hoặc chầu liên tục nhiều ngày. Trong trường hợp này, thật là tốt hơn cho linh mục kết thúc Thánh lễ như bình thường, trở vào phòng thánh, cởi áo lễ ra, và sau đó trở ra để đặt Mình Thánh.
Liên quan đến phần trả lời trên đây, có thêm hai câu hỏi khác được gửi tới. Một độc giả tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ, hỏi: "Giáo Hội nói thế nào về việc “chầu Mình Thánh theo yêu cầu”? Nhà thờ giáo xứ của chúng tôi có một nhà chầu. Việc chiêm ngắm và tôn thờ Thánh Thể có thể được thực hiện bởi bất cứ ai, bằng cách mở hai cửa sổ nhỏ ở cửa nhà tạm; cửa nhà tạm vẫn bị khóa, và chỉ có Mình Thánh được nhìn thấy mà thôi. Sự thực hành này dường như tầm thường hóa sự uy nghiêm của Thiên Chúa. Liệu sự thực hành này là đúng về mặt phụng vụ không?"
Một độc giả ở Chicago hỏi: “Một giáo dân hào phóng tặng một 'nhà tạm' bằng kính cho nhà chầu. Món quà (rất đắt tiền) đã được chấp nhận, và hiện giờ đứng trên bàn thờ trong nhà chầu. Nhà tạm bằng kính này không được chăm sóc trong thời gian dài, với Hào Quang và Mình Thánh Chúa bên trong, phía sau mặt kính. Trước tiên, liệu con là đúng chăng khi giả định rằng thủy tinh là một vật liệu không thích hợp cho một nhà tạm? Nếu vậy, vấn đề có thể được sửa chữa, bằng cách sử dụng một tấm màn, hoặc màn che để che 'nhà tạm', khi nhà nguyện vắng người chăng?"
Về câu hỏi đầu tiên, chúng tôi có thể trả lời rằng việc đặt Mình Thánh phải liên kết với một hình thức mạnh của sự tôn thờ. Điều này đòi hỏi một việc đặt Mình Thánh phù hợp, một khoảng thời gian cố định, mà trong đó Mình Thánh Chúa là không bao giờ còn lại một mình, và kết thúc bằng việc cất Mình Thánh trong một cách chính thức, tốt nhất là sau Phép Lành Mình Thánh Chúa.
Tình hình được mô tả ở trên là rõ ràng không một sự tôn thờ, như mong muốn của Giáo Hội. Trong thực tế, sự thực hành ấy có chứa một mối nguy thực sự của việc phá hoại tôn thờ Chúa hiện diện trong nhà tạm khép kín. Nó hình như đưa ra một thông điệp rằng việc tôn thờ duy nhất là thờ Mình Thánh Chúa được đặt, vốn chỉ đơn giản là sai.
Về câu hỏi đầu tiên, chúng tôi có thể trả lời rằng việc đặt Mình Thánh phải liên kết với một hình thức mạnh của sự tôn thờ. Điều này đòi hỏi một việc đặt Mình Thánh phù hợp, một một khoảng thời gian cố định, mà trong đó Mình Thánh Chúa là không bao giờ còn lại một mình, và kết thúc bằng việc cất Mình Thánh trong một cách chính thức, tốt nhất là sau Phép Lành Mình Thánh Chúa.
Tình hình được mô tả ở trên là rõ ràng không một sự tôn thờ, như mong muốn của Giáo Hội. Trong thực tế, sự thực hành ấy có chứa một mối nguy thực sự của việc phá hoại tôn thờ Chúa hiện diện trong nhà tạm khép kín. Nó hình như đưa ra một thông điệp rằng việc tôn thờ duy nhất là thờ Mình Thánh Chúa được đặt, vốn chỉ đơn giản là sai.
Điều này không có nghĩa rằng hình dạng nhà tạm với một cửa sổ không thể được sử dụng cho việc đặt Mình Thánh Chúa. Khả năng này tồn tại trong một số trường hợp, nhưng chỉ khi các điều kiện nêu trên (không để Thánh Chúa một mình mà không có ai, vv) được đáp ứng.
Tình hình thứ hai là hơi khác. Nếu "nhà tạm bằng kính" này có thể được xem như là một bảo vệ cho hào quang, trong khi chầu công khai, thì nó có thể được nhìn nhận.
Tuy nhiên, nó có thể trái với Qui chế, nếu một nhà tạm trong suốt bị bỏ mặc và không ai chăm sóc. Sự che phủ nó bằng một tấm màn che, khi không có việc chầu công khai, sẽ chỉ là một giải pháp, nếu nó là kính không vỡ, vốn sẽ gây khó khăn nhiều cho việc xâm phạm nhà tạm.
Do đó, tôi đề nghị nó chỉ nên được sử dụng như một loại ngai bảo vệ cho hào quang, trong giờ chầu trọng thể, và rằng cần có một nhà tạm cứng rắn vững chắc thích hợp cất giữ Mình Thánh như thường lệ. (Zenit.org 25-8-2009, 8-9-2009)
Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi 1: Tôi mới đến thăm một trung tâm tĩnh tâm, nơi đó có một nhà nguyện Thánh Thể nhỏ trong một căn phòng của nhà khách. Trong nhà nguyện, Thánh Thể hiện diện, nhưng không ở trong một nhà tạm (ít nhất là theo nghĩa truyền thống). Thay vào đó, một bình thánh được giữ trong một vật dường như là một chiếc bình thủy tinh nhỏ lộn ngược. Tôi thấy điều này đáng lo ngại, và đã đề cập đến nó với các người khác, nhưng vài tháng sau khi tôi quay trở lại, tình trạng là vẫn như cũ. Việc này xem ra là bất cẩn, nếu bất cứ ai có thể thăm viếng nhà nguyện vào bất cứ giờ nào, và nếu họ muốn, họ tiến lên và mang Thánh Thể đi bất cứ lúc nào. Thưa cha, liệu có một hướng dẫn rõ ràng về việc giữ đúng cách Mình Thánh Chúa không, và nhà tạm phải là như thế nào? - J. C., Toronto, Canada.
Hỏi 2: Đâu là thứ tự đúng của việc đặt Mình Thánh Chúa cuối Thánh lễ? Liệu Thánh lễ phải là xong rồi, mới đặt Mình Thánh Chúa chăng? Chúng con có thể tìm thấy ở đâu một số ý tưởng cho thứ tự cuộc rước Mình Thánh Chúa một lần nữa sau Thánh Lễ? - A. R., Fullerton, California, Hoa Kỳ.
A: Bởi vì cả hai câu hỏi liên quan đến phép Thánh Thể, tôi sẽ giải quyết chúng cách ngắn gọn.
Trước hết, các qui định liên quan đến cấu trúc của nhà tạm được tìm thấy trong Qui chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 314:
"Tùy theo cấu trúc của thánh đường và thể theo các tục lệ chính đáng địa phương, Mình Thánh Chúa được lưu giữ trong nhà tạm, nơi phần trang trọng của thánh đường, có dấu nhận biết, có trang trí và thích hợp cho việc cầu nguyện.
"Theo thói quen, chỉ có một nhà tạm, không thể di chuyển, làm bằng vật liệu vững chắc, không trong suốt, và phải đóng kín để tránh tối đa mọi nguy cơ phạm thánh. Nên làm phép nhà tạm trước khi dùng trong phụng vụ, theo nghi thức mô tả trong Nghi thức Rôma" (Bản dịch Việt ngữ của Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Chí Cần, Giáo phận Nha Trang).
Nhà tạm được mô tả bởi bạn đọc của chúng tôi chắc chắn đã không tuân thủ qui định này về nhiều điểm. Rõ ràng nhà tạm là phải không trong suốt, và không thể di chuyển. Tôi đề nghị bạn đọc này nên thông báo cho vị Giám mục của giáo phận, nơi có nhà tĩnh tâm ấy, vì phải có phép của ngài mới làm được nhà nguyện, và sự thực hiện nhà nguyện được ngài giám sát trực tiếp.
Một nguồn có giá trị cho các chủ đề của việc đặt Mình Thánh Chúa, tôn thờ và rước kiệu Thánh Thể, có thể được tìm thấy trong cuốn "Ceremonies of the Modern Roman Rite” (Nghi thức của Nghi lễ Rôma hiện đại) của Đức Ông (nay là giám mục) Peter J. Elliott, được nhà xuất bản Ignatius Press ấn hành. Cuốn sách này tổng hợp một cách có hiệu quả nhiều nguồn chính thức, như cuốn “Nghi thức Rôma cho việc chầu Mình Thánh ngoài Thánh Lễ” và cuốn “Nghi thức của Giám mục”. Ngoài ra, còn có nhiều ấn phẩm gần đây cung cấp ý tưởng cho bài thánh ca và các văn bản thích hợp, vốn có thể được sử dụng trong việc chầu Mình Thánh và rước kiệu Mình Thánh. Một nguồn trực tuyến xuất sắc được tìm thấy tại http://www.therealpresence.org.
Dựa vào tác phẩm của Đức Ông Elliott, chúng tôi có thể nói những điều sau đây liên quan đến câu hỏi về việc đặt Mình Thánh Chúa vào cuối Thánh Lễ:
Trong khi Thánh Lễ không bao giờ được cử hành trước Mình Thánh Chúa đã được đặt ("trong cùng một khu vực nhà thờ hay nhà nguyện", nơi mà Mình Thánh Chúa được đặt), việc đặt và chầu Mình Thánh Chúa có thể bắt đầu ngay lập tức, sau một Thánh Lễ. Hành động này có thể được xem là phát sinh từ phụng vụ Thánh Thể; do đó, một Mình Thánh đã truyền phép trong Thánh Lễ sẽ được đặt ngay lập tức, sau phần Rước lễ.
Lời nguyện sau Hiệp lễ được đọc tại ghế chủ tọa. Lời chúc lành và lởi chào cuối lễ được bỏ qua. Sau khi đọc Lời nguyện sau Hiệp lễ, vị chủ tế, phó tế và các thừa tác viên xếp hàng trước bàn thờ, bái gối và sau đó quỳ xuống, trong khi ca đoàn hát một bài thánh ca tôn thờ Thánh Thể. Linh mục xông hương Mình Thánh như thường lệ khi chầu Thánh Thể. Sau khi xông hương và một khoảnh khắc cầu nguyện trong thinh lặng, tất cả bái gối và trở vào phòng thánh. Bài thánh ca kết lễ được bỏ qua.
Việc sùng kính có thể thực hiện ngay sau khi xông hương (trước khi đoàn cử hành trở lại phòng thánh), nhưng Phép Lành Mình Thánh Chúa không được làm ngay sau Thánh Lễ.
Sự đề nghị rằng, Mình Thánh được đặt phải được truyền phép trong Thánh Lễ, nhắm đến trên hết cho các dịp thỉnh thoảng chầu. Điều này sẽ không là thực tế ở những nơi có việc chầu Thánh Thể hàng ngày hoặc chầu liên tục nhiều ngày. Trong trường hợp này, thật là tốt hơn cho linh mục kết thúc Thánh lễ như bình thường, trở vào phòng thánh, cởi áo lễ ra, và sau đó trở ra để đặt Mình Thánh.
Liên quan đến phần trả lời trên đây, có thêm hai câu hỏi khác được gửi tới. Một độc giả tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ, hỏi: "Giáo Hội nói thế nào về việc “chầu Mình Thánh theo yêu cầu”? Nhà thờ giáo xứ của chúng tôi có một nhà chầu. Việc chiêm ngắm và tôn thờ Thánh Thể có thể được thực hiện bởi bất cứ ai, bằng cách mở hai cửa sổ nhỏ ở cửa nhà tạm; cửa nhà tạm vẫn bị khóa, và chỉ có Mình Thánh được nhìn thấy mà thôi. Sự thực hành này dường như tầm thường hóa sự uy nghiêm của Thiên Chúa. Liệu sự thực hành này là đúng về mặt phụng vụ không?"
Một độc giả ở Chicago hỏi: “Một giáo dân hào phóng tặng một 'nhà tạm' bằng kính cho nhà chầu. Món quà (rất đắt tiền) đã được chấp nhận, và hiện giờ đứng trên bàn thờ trong nhà chầu. Nhà tạm bằng kính này không được chăm sóc trong thời gian dài, với Hào Quang và Mình Thánh Chúa bên trong, phía sau mặt kính. Trước tiên, liệu con là đúng chăng khi giả định rằng thủy tinh là một vật liệu không thích hợp cho một nhà tạm? Nếu vậy, vấn đề có thể được sửa chữa, bằng cách sử dụng một tấm màn, hoặc màn che để che 'nhà tạm', khi nhà nguyện vắng người chăng?"
Về câu hỏi đầu tiên, chúng tôi có thể trả lời rằng việc đặt Mình Thánh phải liên kết với một hình thức mạnh của sự tôn thờ. Điều này đòi hỏi một việc đặt Mình Thánh phù hợp, một khoảng thời gian cố định, mà trong đó Mình Thánh Chúa là không bao giờ còn lại một mình, và kết thúc bằng việc cất Mình Thánh trong một cách chính thức, tốt nhất là sau Phép Lành Mình Thánh Chúa.
Tình hình được mô tả ở trên là rõ ràng không một sự tôn thờ, như mong muốn của Giáo Hội. Trong thực tế, sự thực hành ấy có chứa một mối nguy thực sự của việc phá hoại tôn thờ Chúa hiện diện trong nhà tạm khép kín. Nó hình như đưa ra một thông điệp rằng việc tôn thờ duy nhất là thờ Mình Thánh Chúa được đặt, vốn chỉ đơn giản là sai.
Về câu hỏi đầu tiên, chúng tôi có thể trả lời rằng việc đặt Mình Thánh phải liên kết với một hình thức mạnh của sự tôn thờ. Điều này đòi hỏi một việc đặt Mình Thánh phù hợp, một một khoảng thời gian cố định, mà trong đó Mình Thánh Chúa là không bao giờ còn lại một mình, và kết thúc bằng việc cất Mình Thánh trong một cách chính thức, tốt nhất là sau Phép Lành Mình Thánh Chúa.
Tình hình được mô tả ở trên là rõ ràng không một sự tôn thờ, như mong muốn của Giáo Hội. Trong thực tế, sự thực hành ấy có chứa một mối nguy thực sự của việc phá hoại tôn thờ Chúa hiện diện trong nhà tạm khép kín. Nó hình như đưa ra một thông điệp rằng việc tôn thờ duy nhất là thờ Mình Thánh Chúa được đặt, vốn chỉ đơn giản là sai.
Điều này không có nghĩa rằng hình dạng nhà tạm với một cửa sổ không thể được sử dụng cho việc đặt Mình Thánh Chúa. Khả năng này tồn tại trong một số trường hợp, nhưng chỉ khi các điều kiện nêu trên (không để Thánh Chúa một mình mà không có ai, vv) được đáp ứng.
Tình hình thứ hai là hơi khác. Nếu "nhà tạm bằng kính" này có thể được xem như là một bảo vệ cho hào quang, trong khi chầu công khai, thì nó có thể được nhìn nhận.
Tuy nhiên, nó có thể trái với Qui chế, nếu một nhà tạm trong suốt bị bỏ mặc và không ai chăm sóc. Sự che phủ nó bằng một tấm màn che, khi không có việc chầu công khai, sẽ chỉ là một giải pháp, nếu nó là kính không vỡ, vốn sẽ gây khó khăn nhiều cho việc xâm phạm nhà tạm.
Do đó, tôi đề nghị nó chỉ nên được sử dụng như một loại ngai bảo vệ cho hào quang, trong giờ chầu trọng thể, và rằng cần có một nhà tạm cứng rắn vững chắc thích hợp cất giữ Mình Thánh như thường lệ. (Zenit.org 25-8-2009, 8-9-2009)
Nguyễn Trọng Đa
Văn Hóa
Mùa Thu trong Đường thi
Lê Đình Thông
10:09 30/08/2016
MÙA THU TRONG ĐƯỜNG THI
Cách đây khoảng 1300 năm, các nhà thơ Trung Quốc cũng trải qua mấy chiều tàn nắng nhạt, trong tiết thu đìu hiu, làm phai tàn lá ngô đồng. Cảnh vật tương tự như mùa thu viễn xứ vào lúc này. Thời gian tuy có chia lìa, đông tây cách biệt thăm thẳm. Nhưng mùa thu vẫn muôn thuở với bấy nhiêu tâm sự mà các thi nhân gieo vần, nói hộ.
Bộ Toàn Đường Thi tập hợp trên hai ngàn thi nhân, với gần năm chục ngàn bài thơ, là một công trình đồ sộ. Trong số báo này, mùa thu Trung Quốc được gom lại trong vài trang giấy qua ba thi hào thời Thịnh Đường (713-766): Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Như vậy là bỏ qua được ba thời: Sơ Đường (618-713), Trung Đường (766-835) và Vãn Đường (836-905). Thời Thịnh Đường tuy ngắn hơn ba thời Sơ, Trung, Mạt, nhưng lại dài hơn bất cứ thời kỳ nào trong văn học Trung Quốc, có chiều dài “vạn trượng": vượt thời gian; vượt tới hai lần không gian. Vì ngoài không gian địa lý, thi ca Thịnh Đường lắng sâu tận cõi lòng.
Tiếp tục công việc gạn lọc, chúng tôi giữ lại ba nhà thơ. Trong thi ca của mỗi thi nhân, xin bỏ qua hai khuynh hướng “biên tái” và “xã hội.” Chỉ còn lại khuynh hướng “điền viên.” Và trong “điền viên” xin giữ vầng trăng thu.
I – Mùa thu trong thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị
Hàn Dũ có câu thơ:
Lý, Đỗ văn chương tại,Quang diễm vạn trượng trường.
(Văn chương Lý Bạch, Đỗ Phủ còn, Ánh sáng dài vạn trượng.)
Thơ Lý Bạch tự nhiên, phóng khoáng. Thơ Đỗ Phủ điêu luyện, gần gũi với nhân sinh. Bạch Cư Dị tiếp nối khuynh hướng hiện thực, chủ trương:
Văn chương hợp vi thời nhi trước,Thi ca hợp vi sự nhi tác.(Văn chương vì thời thế, Làm thơ vì hiện thực.)
Các khuynh hướng vừa kể được thể hiện qua thơ thu của ba thi hào thời Thịnh Đường: Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị.
1) Lý Bạch (701-762):
Tiểu sử: Ông sinh đời Đường Trung Tông (hơn Đỗ Phủ một giáp), mất đời Đường Đại Tông. Năm 25 tuổi, chu du khắp chốn. 42 tuổi được tiến cử vào kinh đô (Trường An). 55 tuổi: giúp Lý Lân chống An Lộc Sơn. Nhưng Túc Tông sợ em là Lý Lân thắng sẽ cướp ngôi, sai đại quân tiêu diệt Lý Lân. Lý Lân bị giết. Lý Bạch bị đầy biệt xứ. Một năm trước khi chết, ông theo Lý Quang dẹp loạn An Lộc Sơn. Giữa đường bị bệnh, mất năm 62 tuổi. Theo Ngụy Hạo, ông chết trong đầm nước. Theo Vương Đĩnh Bảo, Lý Bạch bận áo gấm, nhẩy xuống sông Thái Thạch, ôm trăng mà chết.
Mùa thu trong thơ Lý Bạch: Khi sinh tiền, Lý Bạch sáng tác hai chục ngàn bài thơ, nay còn lưu truyền 1800 bài (chưa tới 1/10). Trong kho tàng đồ sộ đó, các bài thơ viết về mùa thu chỉ như lá mùa thu. Như bài Đại thu tình. Sau đây là hai bài thơ thu: Thu tịch lữ hoài (Tối mùa thu nhớ nhà) và Thu phố ca (Bài ca Thu phố). Trước hết là Thu tịch lữ hoài, kèm theo bản dịch của Tản Đà:
Lương phong độ thu hải,
Xuy ngã hương tứ phi.
Liên sơn khứ vô tế,
Lưu thủy hà thời qui.
Mục cực phù vân sắc,
Tâm đoạn minh nguyệt huy.
Phương thảo yết nhu diệm,
Bạch lộ thôi hàn y.
Mộng trường Ngân hán lạc,
Giác bãi thiên tinh hi.
Hàm bi tưởng cựu quốc,
Khấp hạ thùy năng huy?
Thơ dịch của Tản Đà:
Lạnh lùng gió vượt bể thu,
Hồn quê theo gió như vù vù bay.
Chạy dài dãy núi liền mây,
Nước trôi trôi mãi có ngày về chăng?
Đám mây vút mắt xa chừng,
Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi.
Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi,
Áo may mặc rét giục người móc sa!
Giấy mơ rơi giải Ngân hà,
Sao thưa lác đác tỉnh ra khắp trời.
Đoái thương nước cũ ngậm ngùi,
Khóc thương giọt lệ lau chùi đố ai?
*
Bài thơ thứ hai của Lý Bạch tên là Thu phố ca, chỉ có bốn câu. Tôi mạo muội dịch thoát, nhưng vẫn giữ nguyên thể tứ tuyệt. Tuyệt là dứt. Lý Bạch chọn hình thức thi ca này, phải chăng vì cuối bài, nhà thơ vẽ ra mùa thu tuyệt lộ: Hà xứ đắc thu sương? (Còn chỗ nào để lọt sương thu):
Bạch phát tam thiên trượng,
Duyên sầu tự cá trường.
Bất tri minh kính lý,
Hà xứ đắc thu sương?
*
Tóc trắng xõa ê chề,
Sầu đời dài lê thê.
Gương trong mà mù mịt,
Sương thu che lối về?
Trong hai bài thơ thu của Lý Bạch, hai câu kết đều được đặt ở thể nghi vấn. Nghi vấn, với rất nhiều nghi ngại. Chúng ta mến cả hai, có lẽ vì mái tóc đã phủ đầy sương thu. Trong câu mở đầu bài Tương tiến tửu, Lý Bạch xót xa cho mùa thu nhân sinh:
Biết chăng ai! Sông Hoàng Hà ngọn nước tại lưng trời, tuôn đến bể khôn vời lại được.Biết chăng nữa! Đài gương mái tóc bạc, sớm như tơ mà tối đã như gương. (Vô danh dịch)
Trong bài Thu tịch lữ hoài, Lý Bạch nhớ nhà (lữ hoài). Như nỗi nhớ nhà của chúng ta. Trong câu kết, tác giả “ôm mối sầu khi chạnh nhớ đến cố quốc” (Hàm bi tưởng cựu quốc).
Đó là cách nhìn mùa thu của trích tiên (tiên đầy xuống trần). Thơ thu của Lý Bạch là thơ huyền ngoại âm, vị ngoại vị (âm thanh ngoài dây tơ, mùi vị ngoài mùi vị). Thu cảnh chỉ là cái cớ để nói về thu tâm. Khuynh hướng này có gì khác biệt với Đỗ Phủ?
2) Đỗ Phủ (712-770):
Tiểu sử: Quê quán tỉnh Hà Nam, Đỗ Phủ xuất thân từ một gia đình quan lại nên nhiều dịp đi đây đó. Ông lận đận trên đường khoa bảng. Tới lúc được một chức quan nhỏ thì có loạn An Lộc Sơn. Ông có lần can gián vua nên bị thất sủng. Đỗ Phủ từ quan, dắt díu vợ con chạy loạn. Những năm cuối đời, ông trôi giạt quanh hồ Động Đình, nghèo đói và bệnh tật. Lý Bạch chết chìm dưới sông. Còn Đỗ Phủ qua đời trên chiếc thuyền nan, bồng bềnh trên sóng nước. Bên Pháp, vào năm 1190, vua Philippe Auguste đề tặng kinh thành Paris châm ngôn: Fluctuat nec mergitur (Sóng gió làm con tầu chòng chành nhưng không chìm). Sóng gió của thi nhân là “... tiếng sóng ở trong lòng.” Nên Lý Bạch, Đỗ Phủ chia nhau hai động từ của kinh thành Ánh sáng: L'un a été battu par les flots (fluctuat). L'autre a sombré dans l'eau (mergitur). Chỉ vì thi nhân “không” không (nec) chìm (phủ định tới hai lần) nên hình hài mới chung thân ngụp lặn. Nhờ vậy, văn học mới có thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ: Lý, Đỗ văn chương tại (Hàn Dũ).
Thơ thu của Đỗ Phủ: Trong văn học nước nhà, Nguyễn Khuyến là tác giả ba bài Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. (Trình tự rất hợp lý: thi nhân câu cá trước tiên, tiếp đó là tửu nhập, sau cùng mới gieo vần. Như vậy, làm thơ thường là chặng cuối đường tổng hợp, sau khi thi nhân đã thực hiện hai phân tích: 1) Đối cảnh (Thu điếu); 2) Đối tâm (Thu ẩm). Ở đây, Yên Đổ (Thu) điếu trước để có cá ngon mà ẩm, mà vịnh. Cộng lại vẫn là ba, giống như là Tam Nguyên).
Đỗ Phủ làm tám bài Thu hứng (Thu hứng bát thủ). Từ kỳ nhất tới kỳ bát, theo thể thất ngôn bát cú. Nếu chép ra đây cả tám bài, vị chi là 8x8 = 64, e quá dài. Vì vậy, chỉ chọn hai kỳ (bát thủ tuyển nhị): tứ và thất.
Kỳ tứ giống tình cảnh quê nhà: dinh thự có chủ mới, áo mũ người cai trị cũng khác trước. Vì vậy, tôi mạo muội “tái sinh” bài thơ. “Tái sinh,” vì bản tiếng Việt bỏ bớt địa danh Trung Quốc (Trường An). “Cuộc cờ” (dịch kỳ) trong nguyên bản đổi lại thành Bàn Cờ. Hai phần luận và kết cũng thay đổi cho thích hợp:
Văn đạo Trường An tự dịch kỳ,
Bách niên thế sự bất thăng bi.
Công hầu đệ trạch giai tân chủ,
Văn vũ y quan dị tích thì.
Trực bắc quan san kim cổ chấn,
Chinh tây xa mã vũ thư trì.
Ngư long tịch mịch thu giang lãnh,
Cố quốc bình cư hữu sở ti (tư).
*
Quê ta có phố Bàn Cờ,
Từ lâu đổi chủ treo cờ Vàng Sao.
Dinh cơ biệt thự ra vào,
Toàn là cán bộ lao xao nửa mùa.
Áo quần khác hẳn thời xưa,
Tuy thôi chinh chiến mà chưa tòng thời.
Lòng dân ly tán không ngơi,
Mùa thu lại đến chơi vơi là sầu.
Bờ sông vắng lặng đêm thâu,
Chạnh lòng tiếc nuối hàng cau quê nhà.
Trong Thu hứng bát thủ, kỳ thất là bức tranh tương phản: đối diện với trời thu bao la bát ngát là một ngư ông nhỏ bé, cô đơn:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.(Nguyễn Khuyến)
Có gì là lạ? Ao thu là cõi người ta mịt mù hơi thu (Thu). Chiếc thuyền câu bé tẻo teo là trái tim ta (Tâm), nổi trôi trên huyết quản chằng chịt. Nên vương Sầu chỉ là: nhân > quả (principe de causalité). Nếu chiết tự:
Thu + Tâm = Sầu.
Sau đây là nguyên tác của Đỗ Phủ:
Côn minh trì thủy Hán thời công,
Vũ đế tinh kỳ tại nhãn trung.
Chức nữ cơ ti hư dạ nguyệt,
Thạch kình lân giáp động thu phong.
Ba phiêu cô mễ trầm vân hắc,
Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng.
Quan tái cực thiên duy điều đạo,
Giang hồ mãn địa nhất ngư ông.
Kỳ thất không khác gì tâm sự của chúng ta. Vì vậy, tôi mạn phép “chuyển hóa” bài Đường thi qua thể lục bát:
Ao tù làm nhớ biển Đông,
Mắt sầu chạnh nhớ võ công một thời.
Trăng khuya khung cửi chơi vơi,
Trời thu lộng gió biển khơi lạnh lùng.
Bờ lau mà tưởng ngàn trùng,
Sương thu chùi sạch phấn hồng cánh sen.
Lối xưa mờ mịt cài then,
Sông hồ bát ngát thuyền men giữa dòng.
Lúc sinh thời, có lần Đỗ Phủ nhủ lòng: Thơ chưa làm kinh động lòng người thì chết chưa yên (Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu). Khi đọc bát thủ, Kim Thánh Thán có lời bình: Thương tâm thấu tới xương. Ngâm nga tám bài Thu hứng, lòng chợt là lau sậy lao xao. Từ lâu, cuộc sống đã hóa thân thành cây sậy Pascal. Nhưng sậy Pascal vẫn trôi dạt về phương Đông, cận kề với lau lách của Bạch Cư Dị:
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Phan Huy Vịnh dịch là:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.
Hơi thu, với tiếng đàn tỳ bà buồn não nuột đã thấm vào thơ thu của Bạch Cư Dị.
3) Bạch Cư Dị (772-846):
Tiểu sử: Bảy mươi lăm năm nhân sinh của họ Bạch là ba phần tư thế kỷ giặc giã, từ giặc An Lộc Sơn tới giặc Sử Tư Minh. Ông là con vị quan nhỏ, thuở nhỏ túng thiếu. Năm 28 tuổi đậu tiến sĩ. Tính tình bộc trực, ông bị biếm làm tư mã Giang Châu, nơi có bến Tầm Dương. Bến Tầm Dương đã mở ra bến bờ mới trong thi ca Bạch Cư Dị. Ông để lại cho hậu thế gần ba ngàn bài thơ, trong đó có nhiều bài viết về mùa thu.
Thơ thu của Bạch Cư Dị: Thơ thu của Bạch Cư Dị nhiều hơn Lý Bạch, Đỗ Phủ, tự nhiên, giản dị giống như tên ông (Cư Dị). Hơi thu trong thơ ông bay rất xa, đậu lại trong hồn thơ Tản Đà. Trong hai năm 1937-38, Tản Đà (1889-1939) dịch 75 bài thơ chữ Hán, đăng trên báo Ngày Nay. Nhưng chỉ có 58 bài là Đường thi. Trong số có 38 bài của Bạch Cư Dị, chứng tỏ có mối giao hòa, “đồng thanh tương ứng” giữa Bạch Cư Dị và Tản Đà. Tản Đà dịch nhiều thơ họ Bạch, nhất là những bài viết về mùa thu. Nào là Thu trùng, Tảo thu độc dạ, Thu mộ giao cư hoài, Thu giang tống khách, Thu san, Trung thu nguyệt v.v...
Đó là chưa kể nhiều bài, tuy đầu đề không dính dáng gì đến mùa thu, nhưng chất liệu vẫn là thu sầu. Bài Văn dạ châm có câu:
Thùy gia tư phụ thu đảo bạch.
Tản Đà dịch là:
Nhà ai cô gái nhớ chồng,Đêm thu đập lụa lạnh lùng gió trăng.
Bài Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp có mấy chữ: đề hồng diệp (Khi mùa thu tới, lá cây phong sắc đỏ). Bài Trường hận ca có câu Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì. Tản Đà dịch là: Thu khi mưa rụng lá ngô đồng. (Dị bản: Thu kia mưa rụng lá ngô đồng). Bài Tì bà hành có câu: Phong diệp địch hoa thu sắt sắt. Phan Huy Vịnh dịch là: Quạnh hơi lau lách đìu hiu v.v.
Sau đây là hai bài thơ thu của Bạch Cư Dị, kèm theo bản dịch của Tản Đà. Bài thứ nhất là Thu trùng (Tiếng trùng mùa thu):
Thiết thiết ám song hạ,Yêu yêu thâm thảo lý.Thu thiên tư phụ tâm,Vũ dạ sầu nhân nhĩ.
Bản dịch của Tản Đà:
Tiếng đâu dưới vách kêu ran,Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ non.Trời thu gái nhớ chồng son,Mưa dầm đêm vắng ai buồn lắng tai.
Thu sầu, vì người cô phụ tưởng nhớ hình ảnh kẻ chinh phu (LưuTrọng Lư). Xin chép thêm bài Thu mộ giao cư thư hoài (Cuối thu, ở miền quê viết tả lòng mình), tác giả tự sự mối sầu thu:
Giao cư nhân sự thiểu,Trú ngọa đối lâm man.Cùng hạng yếm đa vũ,Bần gia sầu tảo hàn.Cát y thu vị hoán,Thư quyển bịnh nhưng khan.Nhược vấn sinh nhai kế,Tiền khê nhất điếu can.
Thơ dịch của Tản Đà:
Ở quê, thưa việc ít người,Giữa trưa nằm khểnh ngắm coi núi đèo.Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều,Lạnh lùng chi sớm cảnh nghèo thêm lo.Áo lương còn mặc mùa thu,Ốm đau sách vẫn đôi pho chẳng rời.Lấy chi qua sống ngày trời,Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.
Cả hai bài thơ thu của họ Bạch đều viết theo thể ngũ ngôn. Bài đầu: tứ tuyệt, bài sau: bát cú. Hai bài thơ thu của Lý Bạch (Thu tịch lữ hoài và Thu phố ca) cũng làm theo thể ngũ ngôn. Thu tịch lữ hoài làm theo lối thơ cổ phong (12 câu). Bài Thu phố ca: tứ tuyệt. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư tuy là thơ mới, nhưng vẫn là năm chữ. Sự trùng hợp này sẽ được trình bầy trong phần II: Cảm nhận Đường thi.
II – Cảm nhận Đường thi
Trong Hương Xưa, nhạc sĩ Cung Tiến có dòng nhạc nói về Đường thi. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cho rằng: Thanh thế thơ Đường ở nước ta xưa nay bao giờ cũng lớn. Tôi xin thêm: nhất là thơ viết về mùa thu. Trong tâm hồn người Việt có dáng dấp mùa thu. Nhưng thu tâm được che dấu bằng nụ cười. Vì vậy, Nguyễn Văn Vĩnh mới viết: An Nam ta có một thói lạ là gì cũng cười. Theo ý chúng tôi, chân dung người Việt: bên ngoài hàm tiếu bên trong thu sầu. Nguyễn Văn Vĩnh chỉ nói hiện tượng (phénomène) mà bỏ quên ẩn tượng (noumène). Ta tiếp nhận thơ Đường viết về mùa thu chính vì mối ẩn tượng đó, được thể hiện qua Thu ca, Thu sắc và Thu học.
1. Thu Ca
Những bài vịnh thu hay đều viết theo thể ngũ ngôn. Bài thơ mới được coi là hay nhất viết về mùa thu của Lưu Trọng Lư cũng theo lối thơ năm chữ. Il pleut dans mon coeur của Verlaine là một trong những bài thơ giầu nhạc điệu trong thi ca Pháp là thơ sáu chân (hexamètre). Thể thơ ngũ ngôn đầy nhạc tính, có lẽ vì trùng hợp với cung điệu ngũ âm của quốc nhạc: Cung, Thương, Giốc, Trủy, Vũ.
Cung thương làu bậc ngũ âm,Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.(Nguyễn Du, Kiều)
Ta thử lập luận theo tam đoạn luận để thiết lập mối tương quan giữa mùa thu và thơ ngũ ngôn:
- Tiền đề: Mùa thu là mùa đầy nhạc điệu.
- Trung đề: Các bài thơ ngũ ngôn mùa thu giầu nhạc tính của Lý Bạch, Bạch Cư Dị thời xưa, bài thơ thu năm chữ của Lưu Trọng Lư chứng tỏ thơ ngũ ngôn có nhiều thanh âm.
- Kết luận: Vì vậy, nhiều bài thơ thu được viết theo thể ngũ ngôn.
Mặt khác, không thể tách thơ thu ra khỏi nhạc thu. Trong âm nhạc Việt Nam, nhiều bài thơ thu đã được phổ nhạc.
2. Thu Sắc
Một năm có hai mùa màu sắc phong phú: mùa xuân và mùa thu. Màu sắc mùa xuân là của đất trời nên tươi thắm: màu vàng của hoa mai, hoa cúc rộn ràng; màu hồng của hoa đào reo vui. Còn màu sắc mùa thu nhuốm màu nhân sinh: màu vàng (lá ngô đồng), màu đỏ (lá cây phong) mùa thu gợi sầu, ghi dấu năm tháng tàn phai hay gợi lại chân trời cũ mờ khuất:
Màu thời gian không xanh,Màu thời gian tím ngắt.Đoàn Phú Tứ
Một năm có bốn mùa. Hai kỳ xuân thu biểu hiện nhân sinh. Mùa xuân hướng tới tương lai. Mùa thu hồi tưởng quá khứ. Hiện tại chỉ là sự níu kéo vụng về giữa hiện tại và quá khứ. Vì vậy, ngôn ngữ thi ca mùa thu mới có cố hương, cố nhân, cố quận v.v.
3. Thu Thủy
Cảnh đẹp mùa thu là tấm gương soi vóc dáng giai nhân. Chân dung người đàn bà đẹp thuở xưa bao giờ cũng có làn sóng mùa thu (thu ba), nước mùa thu (thu thủy). Sóng nước mùa thu rung động nhẹ nhàng, vương sầu. Người đàn bà thuở xưa giống như chiếc lá mùa thu, không biết trôi giạt chốn nào. Sự bất định và nỗi sầu bao giờ cũng có chung định mệnh:
Em chỉ là người em gái thôi,Người em sầu mộng của muôn đời.Tình em như tuyết giăng đầu núi,Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.Lưu Trọng Lư
Yêu người, thi nhân càng thêm mến cảnh, nặng lòng với mùa thu. Trong Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân kể chuyện người xưa thắp bạch lạp, đọc Đường thi in thạch bản. Ngọn bạch lạp đó chỉ làm tăng lên nỗi cô đơn và hiu quạnh của Đường thi viết về mùa thu.
4. Thu Học
Tôi xin tạo từ mới (néologisme): Thu học, để nối cõi sau (aval) của dòng thơ thu về với nguồn cội, khởi đi từ Đường thi. Ngày xưa có thu, có học, nhưng chưa có thu học, vì niên học gắn liền với nông lịch. Từ khi có tân học, năm nào mùa thu cũng dẫn ta tới trường. Vì vậy, những người nặng nợ với đèn sách đều chung tình với mùa thu. Ai mà quên đuợc mấy dòng văn xuôi của Edmondo De Amicis (1846-1908), Hà Mai Anh dịch sang tiếng Việt, mở đầu cuốn Tâm Hồn Cao Thượng (Cuore: Grand Coeur, 1886): Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng hè đã thoáng qua như giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi đưa tôi vào trường Baretti để ghi tên lên lớp ba.
Thanh Tịnh (1911, Huế-1988) có đoạn văn xuôi rất hay viết về ngày khai trường, thuở nhỏ học thuộc lòng nên nhớ mãi:
"Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi trên giấy, vì hồi ấy tôi chưa biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đi đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại nhiều lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học.” (Thanh Tịnh, Quê Mẹ 1941).
Vần thơ tựu trường xem ra ngây thơ, chất phác giống như sách vở học trò:
Hôm nay ngày khai trường,Ngoài phố vui như hội.Tiếng guốc giầy inh ỏi,Rộn rã trên vỉa đường.
Trong các thế hệ tân học, suốt từ năm lên sáu tới khoảng tam thập nhi lập, một phần tuổi đời là tuổi học đường. Vì vậy, thu học càng làm ta nặng tình với mùa thu, thơ thu và xa hơn nữa là thơ Đường.
*
Năm nay, vào mùa thu, khi lá ngô đồng rơi rụng khắp đường phố Paris, những câu thơ Đường dẫn ta quay về chân trời cũ. Chân trời đó có thể rất xa. Nhưng cũng thể rất gần, ở ngay trong tâm ta. Trái tim đó đang rung động khi nghe lại mấy vần thơ thu đông tây, kim cổ.
Cách đây khoảng 1300 năm, các nhà thơ Trung Quốc cũng trải qua mấy chiều tàn nắng nhạt, trong tiết thu đìu hiu, làm phai tàn lá ngô đồng. Cảnh vật tương tự như mùa thu viễn xứ vào lúc này. Thời gian tuy có chia lìa, đông tây cách biệt thăm thẳm. Nhưng mùa thu vẫn muôn thuở với bấy nhiêu tâm sự mà các thi nhân gieo vần, nói hộ.
Tiếp tục công việc gạn lọc, chúng tôi giữ lại ba nhà thơ. Trong thi ca của mỗi thi nhân, xin bỏ qua hai khuynh hướng “biên tái” và “xã hội.” Chỉ còn lại khuynh hướng “điền viên.” Và trong “điền viên” xin giữ vầng trăng thu.
I – Mùa thu trong thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị
Hàn Dũ có câu thơ:
Lý, Đỗ văn chương tại,Quang diễm vạn trượng trường.
(Văn chương Lý Bạch, Đỗ Phủ còn, Ánh sáng dài vạn trượng.)
Thơ Lý Bạch tự nhiên, phóng khoáng. Thơ Đỗ Phủ điêu luyện, gần gũi với nhân sinh. Bạch Cư Dị tiếp nối khuynh hướng hiện thực, chủ trương:
Văn chương hợp vi thời nhi trước,Thi ca hợp vi sự nhi tác.(Văn chương vì thời thế, Làm thơ vì hiện thực.)
Các khuynh hướng vừa kể được thể hiện qua thơ thu của ba thi hào thời Thịnh Đường: Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị.
1) Lý Bạch (701-762):
Tiểu sử: Ông sinh đời Đường Trung Tông (hơn Đỗ Phủ một giáp), mất đời Đường Đại Tông. Năm 25 tuổi, chu du khắp chốn. 42 tuổi được tiến cử vào kinh đô (Trường An). 55 tuổi: giúp Lý Lân chống An Lộc Sơn. Nhưng Túc Tông sợ em là Lý Lân thắng sẽ cướp ngôi, sai đại quân tiêu diệt Lý Lân. Lý Lân bị giết. Lý Bạch bị đầy biệt xứ. Một năm trước khi chết, ông theo Lý Quang dẹp loạn An Lộc Sơn. Giữa đường bị bệnh, mất năm 62 tuổi. Theo Ngụy Hạo, ông chết trong đầm nước. Theo Vương Đĩnh Bảo, Lý Bạch bận áo gấm, nhẩy xuống sông Thái Thạch, ôm trăng mà chết.
Mùa thu trong thơ Lý Bạch: Khi sinh tiền, Lý Bạch sáng tác hai chục ngàn bài thơ, nay còn lưu truyền 1800 bài (chưa tới 1/10). Trong kho tàng đồ sộ đó, các bài thơ viết về mùa thu chỉ như lá mùa thu. Như bài Đại thu tình. Sau đây là hai bài thơ thu: Thu tịch lữ hoài (Tối mùa thu nhớ nhà) và Thu phố ca (Bài ca Thu phố). Trước hết là Thu tịch lữ hoài, kèm theo bản dịch của Tản Đà:
Lương phong độ thu hải,
Xuy ngã hương tứ phi.
Liên sơn khứ vô tế,
Lưu thủy hà thời qui.
Mục cực phù vân sắc,
Tâm đoạn minh nguyệt huy.
Phương thảo yết nhu diệm,
Bạch lộ thôi hàn y.
Mộng trường Ngân hán lạc,
Giác bãi thiên tinh hi.
Hàm bi tưởng cựu quốc,
Khấp hạ thùy năng huy?
Thơ dịch của Tản Đà:
Lạnh lùng gió vượt bể thu,
Hồn quê theo gió như vù vù bay.
Chạy dài dãy núi liền mây,
Nước trôi trôi mãi có ngày về chăng?
Đám mây vút mắt xa chừng,
Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi.
Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi,
Áo may mặc rét giục người móc sa!
Giấy mơ rơi giải Ngân hà,
Sao thưa lác đác tỉnh ra khắp trời.
Đoái thương nước cũ ngậm ngùi,
Khóc thương giọt lệ lau chùi đố ai?
*
Bài thơ thứ hai của Lý Bạch tên là Thu phố ca, chỉ có bốn câu. Tôi mạo muội dịch thoát, nhưng vẫn giữ nguyên thể tứ tuyệt. Tuyệt là dứt. Lý Bạch chọn hình thức thi ca này, phải chăng vì cuối bài, nhà thơ vẽ ra mùa thu tuyệt lộ: Hà xứ đắc thu sương? (Còn chỗ nào để lọt sương thu):
Bạch phát tam thiên trượng,
Duyên sầu tự cá trường.
Bất tri minh kính lý,
Hà xứ đắc thu sương?
*
Tóc trắng xõa ê chề,
Sầu đời dài lê thê.
Gương trong mà mù mịt,
Sương thu che lối về?
Trong hai bài thơ thu của Lý Bạch, hai câu kết đều được đặt ở thể nghi vấn. Nghi vấn, với rất nhiều nghi ngại. Chúng ta mến cả hai, có lẽ vì mái tóc đã phủ đầy sương thu. Trong câu mở đầu bài Tương tiến tửu, Lý Bạch xót xa cho mùa thu nhân sinh:
Biết chăng ai! Sông Hoàng Hà ngọn nước tại lưng trời, tuôn đến bể khôn vời lại được.Biết chăng nữa! Đài gương mái tóc bạc, sớm như tơ mà tối đã như gương. (Vô danh dịch)
Trong bài Thu tịch lữ hoài, Lý Bạch nhớ nhà (lữ hoài). Như nỗi nhớ nhà của chúng ta. Trong câu kết, tác giả “ôm mối sầu khi chạnh nhớ đến cố quốc” (Hàm bi tưởng cựu quốc).
Đó là cách nhìn mùa thu của trích tiên (tiên đầy xuống trần). Thơ thu của Lý Bạch là thơ huyền ngoại âm, vị ngoại vị (âm thanh ngoài dây tơ, mùi vị ngoài mùi vị). Thu cảnh chỉ là cái cớ để nói về thu tâm. Khuynh hướng này có gì khác biệt với Đỗ Phủ?
2) Đỗ Phủ (712-770):
Tiểu sử: Quê quán tỉnh Hà Nam, Đỗ Phủ xuất thân từ một gia đình quan lại nên nhiều dịp đi đây đó. Ông lận đận trên đường khoa bảng. Tới lúc được một chức quan nhỏ thì có loạn An Lộc Sơn. Ông có lần can gián vua nên bị thất sủng. Đỗ Phủ từ quan, dắt díu vợ con chạy loạn. Những năm cuối đời, ông trôi giạt quanh hồ Động Đình, nghèo đói và bệnh tật. Lý Bạch chết chìm dưới sông. Còn Đỗ Phủ qua đời trên chiếc thuyền nan, bồng bềnh trên sóng nước. Bên Pháp, vào năm 1190, vua Philippe Auguste đề tặng kinh thành Paris châm ngôn: Fluctuat nec mergitur (Sóng gió làm con tầu chòng chành nhưng không chìm). Sóng gió của thi nhân là “... tiếng sóng ở trong lòng.” Nên Lý Bạch, Đỗ Phủ chia nhau hai động từ của kinh thành Ánh sáng: L'un a été battu par les flots (fluctuat). L'autre a sombré dans l'eau (mergitur). Chỉ vì thi nhân “không” không (nec) chìm (phủ định tới hai lần) nên hình hài mới chung thân ngụp lặn. Nhờ vậy, văn học mới có thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ: Lý, Đỗ văn chương tại (Hàn Dũ).
Thơ thu của Đỗ Phủ: Trong văn học nước nhà, Nguyễn Khuyến là tác giả ba bài Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. (Trình tự rất hợp lý: thi nhân câu cá trước tiên, tiếp đó là tửu nhập, sau cùng mới gieo vần. Như vậy, làm thơ thường là chặng cuối đường tổng hợp, sau khi thi nhân đã thực hiện hai phân tích: 1) Đối cảnh (Thu điếu); 2) Đối tâm (Thu ẩm). Ở đây, Yên Đổ (Thu) điếu trước để có cá ngon mà ẩm, mà vịnh. Cộng lại vẫn là ba, giống như là Tam Nguyên).
Đỗ Phủ làm tám bài Thu hứng (Thu hứng bát thủ). Từ kỳ nhất tới kỳ bát, theo thể thất ngôn bát cú. Nếu chép ra đây cả tám bài, vị chi là 8x8 = 64, e quá dài. Vì vậy, chỉ chọn hai kỳ (bát thủ tuyển nhị): tứ và thất.
Kỳ tứ giống tình cảnh quê nhà: dinh thự có chủ mới, áo mũ người cai trị cũng khác trước. Vì vậy, tôi mạo muội “tái sinh” bài thơ. “Tái sinh,” vì bản tiếng Việt bỏ bớt địa danh Trung Quốc (Trường An). “Cuộc cờ” (dịch kỳ) trong nguyên bản đổi lại thành Bàn Cờ. Hai phần luận và kết cũng thay đổi cho thích hợp:
Văn đạo Trường An tự dịch kỳ,
Bách niên thế sự bất thăng bi.
Công hầu đệ trạch giai tân chủ,
Văn vũ y quan dị tích thì.
Trực bắc quan san kim cổ chấn,
Chinh tây xa mã vũ thư trì.
Ngư long tịch mịch thu giang lãnh,
Cố quốc bình cư hữu sở ti (tư).
*
Quê ta có phố Bàn Cờ,
Từ lâu đổi chủ treo cờ Vàng Sao.
Dinh cơ biệt thự ra vào,
Toàn là cán bộ lao xao nửa mùa.
Áo quần khác hẳn thời xưa,
Tuy thôi chinh chiến mà chưa tòng thời.
Lòng dân ly tán không ngơi,
Mùa thu lại đến chơi vơi là sầu.
Bờ sông vắng lặng đêm thâu,
Chạnh lòng tiếc nuối hàng cau quê nhà.
Trong Thu hứng bát thủ, kỳ thất là bức tranh tương phản: đối diện với trời thu bao la bát ngát là một ngư ông nhỏ bé, cô đơn:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.(Nguyễn Khuyến)
Có gì là lạ? Ao thu là cõi người ta mịt mù hơi thu (Thu). Chiếc thuyền câu bé tẻo teo là trái tim ta (Tâm), nổi trôi trên huyết quản chằng chịt. Nên vương Sầu chỉ là: nhân > quả (principe de causalité). Nếu chiết tự:
Thu + Tâm = Sầu.
Sau đây là nguyên tác của Đỗ Phủ:
Côn minh trì thủy Hán thời công,
Vũ đế tinh kỳ tại nhãn trung.
Chức nữ cơ ti hư dạ nguyệt,
Thạch kình lân giáp động thu phong.
Ba phiêu cô mễ trầm vân hắc,
Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng.
Quan tái cực thiên duy điều đạo,
Giang hồ mãn địa nhất ngư ông.
Kỳ thất không khác gì tâm sự của chúng ta. Vì vậy, tôi mạn phép “chuyển hóa” bài Đường thi qua thể lục bát:
Ao tù làm nhớ biển Đông,
Mắt sầu chạnh nhớ võ công một thời.
Trăng khuya khung cửi chơi vơi,
Trời thu lộng gió biển khơi lạnh lùng.
Bờ lau mà tưởng ngàn trùng,
Sương thu chùi sạch phấn hồng cánh sen.
Lối xưa mờ mịt cài then,
Sông hồ bát ngát thuyền men giữa dòng.
Lúc sinh thời, có lần Đỗ Phủ nhủ lòng: Thơ chưa làm kinh động lòng người thì chết chưa yên (Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu). Khi đọc bát thủ, Kim Thánh Thán có lời bình: Thương tâm thấu tới xương. Ngâm nga tám bài Thu hứng, lòng chợt là lau sậy lao xao. Từ lâu, cuộc sống đã hóa thân thành cây sậy Pascal. Nhưng sậy Pascal vẫn trôi dạt về phương Đông, cận kề với lau lách của Bạch Cư Dị:
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Phan Huy Vịnh dịch là:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.
Hơi thu, với tiếng đàn tỳ bà buồn não nuột đã thấm vào thơ thu của Bạch Cư Dị.
3) Bạch Cư Dị (772-846):
Tiểu sử: Bảy mươi lăm năm nhân sinh của họ Bạch là ba phần tư thế kỷ giặc giã, từ giặc An Lộc Sơn tới giặc Sử Tư Minh. Ông là con vị quan nhỏ, thuở nhỏ túng thiếu. Năm 28 tuổi đậu tiến sĩ. Tính tình bộc trực, ông bị biếm làm tư mã Giang Châu, nơi có bến Tầm Dương. Bến Tầm Dương đã mở ra bến bờ mới trong thi ca Bạch Cư Dị. Ông để lại cho hậu thế gần ba ngàn bài thơ, trong đó có nhiều bài viết về mùa thu.
Thơ thu của Bạch Cư Dị: Thơ thu của Bạch Cư Dị nhiều hơn Lý Bạch, Đỗ Phủ, tự nhiên, giản dị giống như tên ông (Cư Dị). Hơi thu trong thơ ông bay rất xa, đậu lại trong hồn thơ Tản Đà. Trong hai năm 1937-38, Tản Đà (1889-1939) dịch 75 bài thơ chữ Hán, đăng trên báo Ngày Nay. Nhưng chỉ có 58 bài là Đường thi. Trong số có 38 bài của Bạch Cư Dị, chứng tỏ có mối giao hòa, “đồng thanh tương ứng” giữa Bạch Cư Dị và Tản Đà. Tản Đà dịch nhiều thơ họ Bạch, nhất là những bài viết về mùa thu. Nào là Thu trùng, Tảo thu độc dạ, Thu mộ giao cư hoài, Thu giang tống khách, Thu san, Trung thu nguyệt v.v...
Đó là chưa kể nhiều bài, tuy đầu đề không dính dáng gì đến mùa thu, nhưng chất liệu vẫn là thu sầu. Bài Văn dạ châm có câu:
Thùy gia tư phụ thu đảo bạch.
Tản Đà dịch là:
Nhà ai cô gái nhớ chồng,Đêm thu đập lụa lạnh lùng gió trăng.
Bài Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp có mấy chữ: đề hồng diệp (Khi mùa thu tới, lá cây phong sắc đỏ). Bài Trường hận ca có câu Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì. Tản Đà dịch là: Thu khi mưa rụng lá ngô đồng. (Dị bản: Thu kia mưa rụng lá ngô đồng). Bài Tì bà hành có câu: Phong diệp địch hoa thu sắt sắt. Phan Huy Vịnh dịch là: Quạnh hơi lau lách đìu hiu v.v.
Sau đây là hai bài thơ thu của Bạch Cư Dị, kèm theo bản dịch của Tản Đà. Bài thứ nhất là Thu trùng (Tiếng trùng mùa thu):
Thiết thiết ám song hạ,Yêu yêu thâm thảo lý.Thu thiên tư phụ tâm,Vũ dạ sầu nhân nhĩ.
Bản dịch của Tản Đà:
Tiếng đâu dưới vách kêu ran,Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ non.Trời thu gái nhớ chồng son,Mưa dầm đêm vắng ai buồn lắng tai.
Thu sầu, vì người cô phụ tưởng nhớ hình ảnh kẻ chinh phu (LưuTrọng Lư). Xin chép thêm bài Thu mộ giao cư thư hoài (Cuối thu, ở miền quê viết tả lòng mình), tác giả tự sự mối sầu thu:
Giao cư nhân sự thiểu,Trú ngọa đối lâm man.Cùng hạng yếm đa vũ,Bần gia sầu tảo hàn.Cát y thu vị hoán,Thư quyển bịnh nhưng khan.Nhược vấn sinh nhai kế,Tiền khê nhất điếu can.
Thơ dịch của Tản Đà:
Ở quê, thưa việc ít người,Giữa trưa nằm khểnh ngắm coi núi đèo.Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều,Lạnh lùng chi sớm cảnh nghèo thêm lo.Áo lương còn mặc mùa thu,Ốm đau sách vẫn đôi pho chẳng rời.Lấy chi qua sống ngày trời,Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.
Cả hai bài thơ thu của họ Bạch đều viết theo thể ngũ ngôn. Bài đầu: tứ tuyệt, bài sau: bát cú. Hai bài thơ thu của Lý Bạch (Thu tịch lữ hoài và Thu phố ca) cũng làm theo thể ngũ ngôn. Thu tịch lữ hoài làm theo lối thơ cổ phong (12 câu). Bài Thu phố ca: tứ tuyệt. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư tuy là thơ mới, nhưng vẫn là năm chữ. Sự trùng hợp này sẽ được trình bầy trong phần II: Cảm nhận Đường thi.
II – Cảm nhận Đường thi
Trong Hương Xưa, nhạc sĩ Cung Tiến có dòng nhạc nói về Đường thi. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cho rằng: Thanh thế thơ Đường ở nước ta xưa nay bao giờ cũng lớn. Tôi xin thêm: nhất là thơ viết về mùa thu. Trong tâm hồn người Việt có dáng dấp mùa thu. Nhưng thu tâm được che dấu bằng nụ cười. Vì vậy, Nguyễn Văn Vĩnh mới viết: An Nam ta có một thói lạ là gì cũng cười. Theo ý chúng tôi, chân dung người Việt: bên ngoài hàm tiếu bên trong thu sầu. Nguyễn Văn Vĩnh chỉ nói hiện tượng (phénomène) mà bỏ quên ẩn tượng (noumène). Ta tiếp nhận thơ Đường viết về mùa thu chính vì mối ẩn tượng đó, được thể hiện qua Thu ca, Thu sắc và Thu học.
1. Thu Ca
Những bài vịnh thu hay đều viết theo thể ngũ ngôn. Bài thơ mới được coi là hay nhất viết về mùa thu của Lưu Trọng Lư cũng theo lối thơ năm chữ. Il pleut dans mon coeur của Verlaine là một trong những bài thơ giầu nhạc điệu trong thi ca Pháp là thơ sáu chân (hexamètre). Thể thơ ngũ ngôn đầy nhạc tính, có lẽ vì trùng hợp với cung điệu ngũ âm của quốc nhạc: Cung, Thương, Giốc, Trủy, Vũ.
Cung thương làu bậc ngũ âm,Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.(Nguyễn Du, Kiều)
Ta thử lập luận theo tam đoạn luận để thiết lập mối tương quan giữa mùa thu và thơ ngũ ngôn:
- Tiền đề: Mùa thu là mùa đầy nhạc điệu.
- Trung đề: Các bài thơ ngũ ngôn mùa thu giầu nhạc tính của Lý Bạch, Bạch Cư Dị thời xưa, bài thơ thu năm chữ của Lưu Trọng Lư chứng tỏ thơ ngũ ngôn có nhiều thanh âm.
- Kết luận: Vì vậy, nhiều bài thơ thu được viết theo thể ngũ ngôn.
Mặt khác, không thể tách thơ thu ra khỏi nhạc thu. Trong âm nhạc Việt Nam, nhiều bài thơ thu đã được phổ nhạc.
2. Thu Sắc
Một năm có hai mùa màu sắc phong phú: mùa xuân và mùa thu. Màu sắc mùa xuân là của đất trời nên tươi thắm: màu vàng của hoa mai, hoa cúc rộn ràng; màu hồng của hoa đào reo vui. Còn màu sắc mùa thu nhuốm màu nhân sinh: màu vàng (lá ngô đồng), màu đỏ (lá cây phong) mùa thu gợi sầu, ghi dấu năm tháng tàn phai hay gợi lại chân trời cũ mờ khuất:
Màu thời gian không xanh,Màu thời gian tím ngắt.Đoàn Phú Tứ
Một năm có bốn mùa. Hai kỳ xuân thu biểu hiện nhân sinh. Mùa xuân hướng tới tương lai. Mùa thu hồi tưởng quá khứ. Hiện tại chỉ là sự níu kéo vụng về giữa hiện tại và quá khứ. Vì vậy, ngôn ngữ thi ca mùa thu mới có cố hương, cố nhân, cố quận v.v.
3. Thu Thủy
Cảnh đẹp mùa thu là tấm gương soi vóc dáng giai nhân. Chân dung người đàn bà đẹp thuở xưa bao giờ cũng có làn sóng mùa thu (thu ba), nước mùa thu (thu thủy). Sóng nước mùa thu rung động nhẹ nhàng, vương sầu. Người đàn bà thuở xưa giống như chiếc lá mùa thu, không biết trôi giạt chốn nào. Sự bất định và nỗi sầu bao giờ cũng có chung định mệnh:
Em chỉ là người em gái thôi,Người em sầu mộng của muôn đời.Tình em như tuyết giăng đầu núi,Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.Lưu Trọng Lư
Yêu người, thi nhân càng thêm mến cảnh, nặng lòng với mùa thu. Trong Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân kể chuyện người xưa thắp bạch lạp, đọc Đường thi in thạch bản. Ngọn bạch lạp đó chỉ làm tăng lên nỗi cô đơn và hiu quạnh của Đường thi viết về mùa thu.
4. Thu Học
Tôi xin tạo từ mới (néologisme): Thu học, để nối cõi sau (aval) của dòng thơ thu về với nguồn cội, khởi đi từ Đường thi. Ngày xưa có thu, có học, nhưng chưa có thu học, vì niên học gắn liền với nông lịch. Từ khi có tân học, năm nào mùa thu cũng dẫn ta tới trường. Vì vậy, những người nặng nợ với đèn sách đều chung tình với mùa thu. Ai mà quên đuợc mấy dòng văn xuôi của Edmondo De Amicis (1846-1908), Hà Mai Anh dịch sang tiếng Việt, mở đầu cuốn Tâm Hồn Cao Thượng (Cuore: Grand Coeur, 1886): Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng hè đã thoáng qua như giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi đưa tôi vào trường Baretti để ghi tên lên lớp ba.
Thanh Tịnh (1911, Huế-1988) có đoạn văn xuôi rất hay viết về ngày khai trường, thuở nhỏ học thuộc lòng nên nhớ mãi:
"Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi trên giấy, vì hồi ấy tôi chưa biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đi đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại nhiều lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học.” (Thanh Tịnh, Quê Mẹ 1941).
Vần thơ tựu trường xem ra ngây thơ, chất phác giống như sách vở học trò:
Hôm nay ngày khai trường,Ngoài phố vui như hội.Tiếng guốc giầy inh ỏi,Rộn rã trên vỉa đường.
Trong các thế hệ tân học, suốt từ năm lên sáu tới khoảng tam thập nhi lập, một phần tuổi đời là tuổi học đường. Vì vậy, thu học càng làm ta nặng tình với mùa thu, thơ thu và xa hơn nữa là thơ Đường.
*
Năm nay, vào mùa thu, khi lá ngô đồng rơi rụng khắp đường phố Paris, những câu thơ Đường dẫn ta quay về chân trời cũ. Chân trời đó có thể rất xa. Nhưng cũng thể rất gần, ở ngay trong tâm ta. Trái tim đó đang rung động khi nghe lại mấy vần thơ thu đông tây, kim cổ.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Làng Chài
Nguyễn Ngọc Liên
19:28 30/08/2016
Ảnh của Nguyễn Ngọc Liên
Miền Trung biển rộng cá nhiều
Ngư dân chăm chỉ, đủ đều ấm no.
(bt)