Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 15/8 dành cho những người không thể đến nhà thờ
Giáo Hội Năm Châu
03:00 14/08/2022
BÀI ĐỌC 1 Kh 11:19a,12:1-6a,10ab
Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.
Tôi là Gio-an, tôi thấy Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ.
Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con.
Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.
Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở.
Và tôi nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Ki-tô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính.”
Đó là Lời Chúa.
BÀI ĐỌC 2 1Cr 15:20-27
Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
Thưa anh em, Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.
Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người.
Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.
Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô.
Đó là Lời Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Đức Ma-ri-a được rước lên trời,
muôn vàn thiên sứ hoan hỷ mừng vui.
Ha-lê-lui-a.
TIN MỪNG Lc 1:39-56
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.
Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”
Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Đó là Lời Chúa.
Trần Gian Mong Tiếng Chào Của Mẹ
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
09:01 14/08/2022
Trần Gian Mong Tiếng Chào Của Mẹ
(Mẹ Về Trời 2022)
Hình như toàn thể sứ điệp phụng vụ của ngày lễ Mẹ Về Trời cả hồn và xác được gói ghém trong “tiếng chào của Mẹ” nơi cửa nhà bà chị họ Êlisabeth; bởi vì trong tiếng chào huyền nhiệm đó đã mang theo tất cả niềm vui và hy vọng cứu độ, điểm tựa và đích điểm cho mọi cuộc nhân sinh: “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1,44-45).
Và đây là những nội dung ý nghĩa ẩn chứa đằng sau “tiếng chào huyền nhiệm” đó:
Trước hết, có thể nói được, hôm nay chính là ngày kỷ niệm “Đức Mẹ Maria “giã từ trần gian” ! Một cuộc “giã từ” mà lại tràn ngập vui mừng nghĩ cũng lạ ! Mà cũng phải thôi; bởi vì đây là một cuộc “giã từ” không mang một chút u buồn của “sinh ly tử biệt” mà là một cuộc “ra đi”, “lên đường” của khải hoàn vinh thắng. Chính vì thế, trong “lễ giã từ” nầy, như phát biểu của nhà thần học Sertillanges, Hội Thánh đã hân hoan ca mừng bài “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (Magnificat) thay vì ảo não đau buồn với ca khúc “Từ Vực Sâu” (De Profundis) như vẫn thường được hát trong các lễ An Táng. Đơn giản, vì hôm nay, Hội Thánh mừng kính và tôn vinh một phụ nữ đã “đi qua kiếp sống trần gian”, đã “từ giã cuộc đời dương thế”, nhưng xác thân người phụ nữ đó không tan rửa trong ngôi huyệt mộ như bao nhiêu thân phận kiếp người, cho dù là một chút tro tàn sau gần 2000 năm, nhưng lại là một “thân xác sáng láng của một con người đầy đủ xác hồn được phục sinh”, được đưa về trời để hiện hữu trong Vương quốc Nước Trời hằng sống.
Dĩ nhiên, đây là “câu chuyện của niềm tin”, một niềm tin đã đi theo năm tháng trong suốt cuộc hành trình gần 2000 năm của dân Chúa. Thật vậy, ngay từ những thế kỷ đầu, niềm tin “Mẹ Về trời” đã được ghi dấu nơi giáo huấn của các Giáo Phụ, như phát biểu của Thánh Giáo Phụ Đamascênô: “Cần thiết rằng Con Thiên Chúa, khi sinh ra đã gìn giữ vẹn tuyền đức đồng trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh”.
Và rồi, trải qua dọc dài năm tháng suy tư, sùng mộ, đào sâu và củng cố, cuối cùng, chân lý “Mẹ Về Trời cả hồn và xác” đã được Giáo Hội định tín” cách đây 72 năm bởi Đức Giáo Hoàng Pio XII vào ngày 1.11.1950 qua Tông hiến “Munificentissimus Deus” với những lời lẽ như sau: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”.
Ngoài ý nghĩa đức tin mang chiều kích truyền thống đó, tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời còn mang lại một giá trị văn hóa tinh thần cho xã hội và lịch sử văn minh con người.
Thật vậy, tín điều “Mẹ Về Trời cả hồn và xác” được Giáo Hội tuyên tín sau 5 năm kết thúc đại chiến thứ 2 (1939-1945), và đã thổi vào thế giới một làn gió của sự sống và niềm hy vọng; của sự chiến thắng phục sinh và niềm vui ơn cứu độ trên cái chết và nỗi buồn thất vọng của những giá trị phi nhân và vô thần.
Hơn lúc nào hết, khi thế giới vẫn còn chìm trong nỗi ám ảnh chết chóc của đại dịch Covid-19, khi cuộc chiến Ukraina vẫn hằng ngày mang cho thế giới những nỗi đau của chết chóc, tàn phá, thương đau, khi nhiều nơi, nhiều miền trên thế giới vẫn oằn mình dưới sức nặng của bạo lực, chiến tranh, hận thù…, thì huyền nhiệm Đức Maria chiến thắng sự chết, vượt qua cõi trần để tiến vào Vương quốc vô biên sẽ là một niềm hy vọng lớn lao, một điểm tựa cần thiết !
Mẹ Về Trời cũng chính là một “luận điểm sống động” của một nền giáo lý, thần học Công Giáo luôn quý trọng thân xác và sự sống con người; một hữu thể được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng đặc biệt khi được vinh dự mang ảnh hình của Ngài, và được Con Thiên Chúa cứu độ bằng cái chết và sự phục sinh, nên không ai và không quyền lực nào được phép xúc phạm, coi thường…
Đây cũng chính là niềm tin mà Thánh Phaolô đã dạy cho dân thành Corintô từ những ngày khai sinh Giáo Hội: “Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Đức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế.” (Bđ 2).
Quả thật, Đức Maria phải là người tiên phong trong nhân loại đã thuộc về Đức Kitô trọn vẹn nhất và đã đi trước trong cuộc hành trình vượt qua cái chết để bước vào cuộc sống vĩnh hằng. Và như thế, lễ Mẹ về Trời chính là một tín hiệu vui mừng, là dấu chỉ của niềm hy vọng bao la cho đoàn dân Chúa, đoàn dân mà Mẹ chính là một “thành viên ưu tuyển” đi trước để dẫn đường như kinh Tiền Tụng Giáo Hội đọc lên trong ngày đại lễ hôm nay: “Hôm nay, Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế.”
Cho nên chúng ta có thể nói được rằng: mầu nhiệm “Đức Maria hồn Xác Về Trời” là một cách cắt nghĩa cụ thể chân lý cuối cùng mà Hội Thánh tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý: Xác tín vể chân lý phục sinh, về niềm hy vọng vĩnh cửu không có nghĩa yên tâm trốn chạy khỏi mọi thực tại đảo điên, mọi đau thương khổ luỵ và những đe doạ kinh hoàng của một “hiện sinh mang dáng đứng sự chết” đang có mặt và đe dọa từng ngày trong cuộc sống.
Bài sách Khải huyền hôm nay đã vẽ lên cái hiện thực đó bằng những hình ảnh cụ thể: “Một điềm lạ….một người nữ mặc áo….đang mang thai, kêu la chuyển bụng….một con rồng đỏ….”. Vâng, cuộc lữ hành trần thế của Hội Thánh cũng như của mỗi người chúng ta dưới thế gian nầy đều phải đi qua con đường dài tăm tối của khổ đau, sự chết, bách hại… Nhưng sách Khải huyền, cũng gọi mời chúng ta hãy vững tin: “Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta và uy quyền của Đức Kitô của Người đã được thực hiện”.
Chính vì thế, mừng lễ Mẹ Về Trời hôm nay, phụng vụ còn muốn nói với chúng ta rằng: ngày nay trên quê trời, chắc chắn Mẹ cũng đang dõi mắt theo từng bước chân của mỗi cuộc đời con cái dưới chốn trần ai. Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc thăm viếng của Đức Maria nơi nhà Bà Isave; và từ nơi mái nhà nầy đã vang lên lời tạ ơn và chúc tụng hồng ân cứu rỗi như đích điểm mà người đầu tiên được hưởng nhờ là chính Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hởn hở vui mừng, vì Thiên chúa Đấng Cứu độ tôi….Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, thật Danh Người chí thánh chí tôn…”.
Hồng ân đó hôm nay và mãi mãi sẽ được ban tặng cho tất cả những ai biết đón nhận Đức Kitô vào cuộc đời với thái độ tin tưởng phó thác và xin vâng như Đức Trinh Nữ Maria, hay như cách cắt nghĩa của Chúa Giêsu, hồng ân đó sẽ dành cho những ai “biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa” (Lc 11,28).
Chính vì thế, lễ Mẹ Về Trời lại mở ra cho chúng ta chiều kích của một “Cuộc Thăm viếng Mới”. Mẹ lại đến chia sẻ niềm vui ơn cứu độ và hy vọng phục sinh cho “con cháu E-và” đang dập vùi trong “chốn khách đày, nơi khóc lóc” (Kinh Lạy nữ Vương), và cũng lại một lần nữa gọi mời con cái Mẹ tiếp tục lên đường và đồng hành với Mẹ để mở ra những cuộc “thăm viếng khác” đến muôn vạn mái nhà, đến trăm nghìn địa chỉ, nhất là những địa chỉ tối tăm, đói khổ, tật bệnh, lầm lạc… đang cần bừng sáng lên những lời tin yêu Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Thần trí tôi hớn hở reo mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi…”.
Ước gì trong ngày lễ hôm nay, mỗi người chúng ta đều nghe vang vọng trong lòng chính “lời chào của Mẹ”, lời chào đã mang lại niềm vui ngút ngàn cho nhà ông Giacaria, đầy Thánh Thần và niềm vui cho cõi lòng bà Êlisabeth và bào thai trong dạ… Vâng,
Trần gian mong tiếng chào của Mẹ,
Để muôn mái ấm ngập niềm vui,
Để vạn sinh linh hòa khúc hát,
“Magnificat” rợp đất trời ! Amen.
Trương Đình Hiền
(Mẹ Về Trời 2022)
Hình như toàn thể sứ điệp phụng vụ của ngày lễ Mẹ Về Trời cả hồn và xác được gói ghém trong “tiếng chào của Mẹ” nơi cửa nhà bà chị họ Êlisabeth; bởi vì trong tiếng chào huyền nhiệm đó đã mang theo tất cả niềm vui và hy vọng cứu độ, điểm tựa và đích điểm cho mọi cuộc nhân sinh: “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1,44-45).
Và đây là những nội dung ý nghĩa ẩn chứa đằng sau “tiếng chào huyền nhiệm” đó:
Trước hết, có thể nói được, hôm nay chính là ngày kỷ niệm “Đức Mẹ Maria “giã từ trần gian” ! Một cuộc “giã từ” mà lại tràn ngập vui mừng nghĩ cũng lạ ! Mà cũng phải thôi; bởi vì đây là một cuộc “giã từ” không mang một chút u buồn của “sinh ly tử biệt” mà là một cuộc “ra đi”, “lên đường” của khải hoàn vinh thắng. Chính vì thế, trong “lễ giã từ” nầy, như phát biểu của nhà thần học Sertillanges, Hội Thánh đã hân hoan ca mừng bài “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (Magnificat) thay vì ảo não đau buồn với ca khúc “Từ Vực Sâu” (De Profundis) như vẫn thường được hát trong các lễ An Táng. Đơn giản, vì hôm nay, Hội Thánh mừng kính và tôn vinh một phụ nữ đã “đi qua kiếp sống trần gian”, đã “từ giã cuộc đời dương thế”, nhưng xác thân người phụ nữ đó không tan rửa trong ngôi huyệt mộ như bao nhiêu thân phận kiếp người, cho dù là một chút tro tàn sau gần 2000 năm, nhưng lại là một “thân xác sáng láng của một con người đầy đủ xác hồn được phục sinh”, được đưa về trời để hiện hữu trong Vương quốc Nước Trời hằng sống.
Dĩ nhiên, đây là “câu chuyện của niềm tin”, một niềm tin đã đi theo năm tháng trong suốt cuộc hành trình gần 2000 năm của dân Chúa. Thật vậy, ngay từ những thế kỷ đầu, niềm tin “Mẹ Về trời” đã được ghi dấu nơi giáo huấn của các Giáo Phụ, như phát biểu của Thánh Giáo Phụ Đamascênô: “Cần thiết rằng Con Thiên Chúa, khi sinh ra đã gìn giữ vẹn tuyền đức đồng trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh”.
Và rồi, trải qua dọc dài năm tháng suy tư, sùng mộ, đào sâu và củng cố, cuối cùng, chân lý “Mẹ Về Trời cả hồn và xác” đã được Giáo Hội định tín” cách đây 72 năm bởi Đức Giáo Hoàng Pio XII vào ngày 1.11.1950 qua Tông hiến “Munificentissimus Deus” với những lời lẽ như sau: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”.
Ngoài ý nghĩa đức tin mang chiều kích truyền thống đó, tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời còn mang lại một giá trị văn hóa tinh thần cho xã hội và lịch sử văn minh con người.
Thật vậy, tín điều “Mẹ Về Trời cả hồn và xác” được Giáo Hội tuyên tín sau 5 năm kết thúc đại chiến thứ 2 (1939-1945), và đã thổi vào thế giới một làn gió của sự sống và niềm hy vọng; của sự chiến thắng phục sinh và niềm vui ơn cứu độ trên cái chết và nỗi buồn thất vọng của những giá trị phi nhân và vô thần.
Hơn lúc nào hết, khi thế giới vẫn còn chìm trong nỗi ám ảnh chết chóc của đại dịch Covid-19, khi cuộc chiến Ukraina vẫn hằng ngày mang cho thế giới những nỗi đau của chết chóc, tàn phá, thương đau, khi nhiều nơi, nhiều miền trên thế giới vẫn oằn mình dưới sức nặng của bạo lực, chiến tranh, hận thù…, thì huyền nhiệm Đức Maria chiến thắng sự chết, vượt qua cõi trần để tiến vào Vương quốc vô biên sẽ là một niềm hy vọng lớn lao, một điểm tựa cần thiết !
Mẹ Về Trời cũng chính là một “luận điểm sống động” của một nền giáo lý, thần học Công Giáo luôn quý trọng thân xác và sự sống con người; một hữu thể được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng đặc biệt khi được vinh dự mang ảnh hình của Ngài, và được Con Thiên Chúa cứu độ bằng cái chết và sự phục sinh, nên không ai và không quyền lực nào được phép xúc phạm, coi thường…
Đây cũng chính là niềm tin mà Thánh Phaolô đã dạy cho dân thành Corintô từ những ngày khai sinh Giáo Hội: “Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Đức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế.” (Bđ 2).
Quả thật, Đức Maria phải là người tiên phong trong nhân loại đã thuộc về Đức Kitô trọn vẹn nhất và đã đi trước trong cuộc hành trình vượt qua cái chết để bước vào cuộc sống vĩnh hằng. Và như thế, lễ Mẹ về Trời chính là một tín hiệu vui mừng, là dấu chỉ của niềm hy vọng bao la cho đoàn dân Chúa, đoàn dân mà Mẹ chính là một “thành viên ưu tuyển” đi trước để dẫn đường như kinh Tiền Tụng Giáo Hội đọc lên trong ngày đại lễ hôm nay: “Hôm nay, Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế.”
Cho nên chúng ta có thể nói được rằng: mầu nhiệm “Đức Maria hồn Xác Về Trời” là một cách cắt nghĩa cụ thể chân lý cuối cùng mà Hội Thánh tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý: Xác tín vể chân lý phục sinh, về niềm hy vọng vĩnh cửu không có nghĩa yên tâm trốn chạy khỏi mọi thực tại đảo điên, mọi đau thương khổ luỵ và những đe doạ kinh hoàng của một “hiện sinh mang dáng đứng sự chết” đang có mặt và đe dọa từng ngày trong cuộc sống.
Bài sách Khải huyền hôm nay đã vẽ lên cái hiện thực đó bằng những hình ảnh cụ thể: “Một điềm lạ….một người nữ mặc áo….đang mang thai, kêu la chuyển bụng….một con rồng đỏ….”. Vâng, cuộc lữ hành trần thế của Hội Thánh cũng như của mỗi người chúng ta dưới thế gian nầy đều phải đi qua con đường dài tăm tối của khổ đau, sự chết, bách hại… Nhưng sách Khải huyền, cũng gọi mời chúng ta hãy vững tin: “Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta và uy quyền của Đức Kitô của Người đã được thực hiện”.
Chính vì thế, mừng lễ Mẹ Về Trời hôm nay, phụng vụ còn muốn nói với chúng ta rằng: ngày nay trên quê trời, chắc chắn Mẹ cũng đang dõi mắt theo từng bước chân của mỗi cuộc đời con cái dưới chốn trần ai. Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc thăm viếng của Đức Maria nơi nhà Bà Isave; và từ nơi mái nhà nầy đã vang lên lời tạ ơn và chúc tụng hồng ân cứu rỗi như đích điểm mà người đầu tiên được hưởng nhờ là chính Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hởn hở vui mừng, vì Thiên chúa Đấng Cứu độ tôi….Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, thật Danh Người chí thánh chí tôn…”.
Hồng ân đó hôm nay và mãi mãi sẽ được ban tặng cho tất cả những ai biết đón nhận Đức Kitô vào cuộc đời với thái độ tin tưởng phó thác và xin vâng như Đức Trinh Nữ Maria, hay như cách cắt nghĩa của Chúa Giêsu, hồng ân đó sẽ dành cho những ai “biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa” (Lc 11,28).
Chính vì thế, lễ Mẹ Về Trời lại mở ra cho chúng ta chiều kích của một “Cuộc Thăm viếng Mới”. Mẹ lại đến chia sẻ niềm vui ơn cứu độ và hy vọng phục sinh cho “con cháu E-và” đang dập vùi trong “chốn khách đày, nơi khóc lóc” (Kinh Lạy nữ Vương), và cũng lại một lần nữa gọi mời con cái Mẹ tiếp tục lên đường và đồng hành với Mẹ để mở ra những cuộc “thăm viếng khác” đến muôn vạn mái nhà, đến trăm nghìn địa chỉ, nhất là những địa chỉ tối tăm, đói khổ, tật bệnh, lầm lạc… đang cần bừng sáng lên những lời tin yêu Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Thần trí tôi hớn hở reo mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi…”.
Ước gì trong ngày lễ hôm nay, mỗi người chúng ta đều nghe vang vọng trong lòng chính “lời chào của Mẹ”, lời chào đã mang lại niềm vui ngút ngàn cho nhà ông Giacaria, đầy Thánh Thần và niềm vui cho cõi lòng bà Êlisabeth và bào thai trong dạ… Vâng,
Trần gian mong tiếng chào của Mẹ,
Để muôn mái ấm ngập niềm vui,
Để vạn sinh linh hòa khúc hát,
“Magnificat” rợp đất trời ! Amen.
Trương Đình Hiền
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:00 14/08/2022
32. Tôi tìm và đã tìm được phương pháp cho “lòng tôi khoan khoái”, đó chính là lấy tình yêu đáp trả lại tình yêu.
(Thánh Terese of Lisieux)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(trích từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
---------
http://www.vietcatholic.org
http://facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:08 14/08/2022
70. BÌNH TĨNH XEM XÉT
Các công cụ trên thuyền như: buồm, cột buồm, mái chèo, cột chèo, thì nên coi là quan trọng như nhau.
Một hôm, cột chèo và mái chèo bừng bừng tức giận nói:
- “Chúng ta là những công cụ rất cần thiết khi đi thuyền thì không thể thiếu, vậy mà phu thuyền rất coi nhẹ chúng ta, nhưng đối với cái buồm thì lại nhìn bằng cặp mắt khác, đem nó để ở chỗ cao nhất, đến nỗi khiến cho cái buồm dương dương đắc ý cho là thiên hạ duy chỉ có mình là tinh thần độc tôn, tại sao chúng ta không vây lại đánh nó, để diệt mẹ cái oai phong của nó đi”.
Bánh lái khuyên bảo:
- “Không nên như thế, nó dương dương đắc ý, tự cao tự đại, chẳng qua là lợi dụng gió thuận mà thôi, giả như hướng gió không đúng thì nó sẽ rụt đầu rụt cổ không dám ló ra, lúc đó thì các anh có thể vỗ ngực huênh hoang”.
Cột chèo và mái chèo bèn nói:
- “Cái quyền lực di chuyển hướng gió thì nằm trong tay bác, nếu gặp gió thuận thì bác chỉ cần lái nhẹ một bên thì hướng gió sẽ ngược ngay mà”.
Bánh lái thở dài nói:
- “Cái thứ vênh vang ấy thì cần gì phải so đo với nó chứ, các anh chỉ cần bình tĩnh nhìn nó, coi thử gió thuận được bao lâu?”
(Yết hậu ngữ)
Suy tư 70:
Giáo Hội của Đức Chúa Giê-su như là một chiếc thuyền lớn, đang lướt sóng giữa biển khơi trần gian nhiều nguy hiểm của những cám dỗ của ma quỷ để cập bến quê trời. Các công cụ để chiếc thuyền kỳ diệu này vượt sóng không phải là cánh buồm bằng vải, hoặc mái chèo bằng vật liệu chắc chắn, nhưng là bằng Bảy Bí Tích mầu nhiệm mà Đức Đức Chúa Giê-su đã lập ra, và nhờ các bí tích này mà Giáo Hội Công Giáo đón nhận những ơn sủng của Chúa để hiện diện, tồn tại và đang đi trên biển trần gian này để về quê thật là Nước Trời...
Nhờ bí tích Rửa Tội mà những người Ki-tô hữu đang ở trong chiếc thuyền này được liên kết lại với nhau thành một thân thể, và nhờ các bí tích mà họ được lớn lên trong ân sủng của Thiên Chúa, họ đồng tâm nhất trí với nhau thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ nhau trong tình huynh đệ (Cv 4, 32-35).
Hạnh phúc thay cho người mang danh Ki-tô hữu, bởi vì họ không so đo kò kè khi người này trổi vượt hơn người kia, bởi vì họ xác tín rằng: mỗi người đều là công cụ của Thiên Chúa dùng, để mưu ích cho tha nhân và làm sáng danh Ngài trong cuộc sống đời thường.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
http://facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Các công cụ trên thuyền như: buồm, cột buồm, mái chèo, cột chèo, thì nên coi là quan trọng như nhau.
Một hôm, cột chèo và mái chèo bừng bừng tức giận nói:
- “Chúng ta là những công cụ rất cần thiết khi đi thuyền thì không thể thiếu, vậy mà phu thuyền rất coi nhẹ chúng ta, nhưng đối với cái buồm thì lại nhìn bằng cặp mắt khác, đem nó để ở chỗ cao nhất, đến nỗi khiến cho cái buồm dương dương đắc ý cho là thiên hạ duy chỉ có mình là tinh thần độc tôn, tại sao chúng ta không vây lại đánh nó, để diệt mẹ cái oai phong của nó đi”.
Bánh lái khuyên bảo:
- “Không nên như thế, nó dương dương đắc ý, tự cao tự đại, chẳng qua là lợi dụng gió thuận mà thôi, giả như hướng gió không đúng thì nó sẽ rụt đầu rụt cổ không dám ló ra, lúc đó thì các anh có thể vỗ ngực huênh hoang”.
Cột chèo và mái chèo bèn nói:
- “Cái quyền lực di chuyển hướng gió thì nằm trong tay bác, nếu gặp gió thuận thì bác chỉ cần lái nhẹ một bên thì hướng gió sẽ ngược ngay mà”.
Bánh lái thở dài nói:
- “Cái thứ vênh vang ấy thì cần gì phải so đo với nó chứ, các anh chỉ cần bình tĩnh nhìn nó, coi thử gió thuận được bao lâu?”
(Yết hậu ngữ)
Suy tư 70:
Giáo Hội của Đức Chúa Giê-su như là một chiếc thuyền lớn, đang lướt sóng giữa biển khơi trần gian nhiều nguy hiểm của những cám dỗ của ma quỷ để cập bến quê trời. Các công cụ để chiếc thuyền kỳ diệu này vượt sóng không phải là cánh buồm bằng vải, hoặc mái chèo bằng vật liệu chắc chắn, nhưng là bằng Bảy Bí Tích mầu nhiệm mà Đức Đức Chúa Giê-su đã lập ra, và nhờ các bí tích này mà Giáo Hội Công Giáo đón nhận những ơn sủng của Chúa để hiện diện, tồn tại và đang đi trên biển trần gian này để về quê thật là Nước Trời...
Nhờ bí tích Rửa Tội mà những người Ki-tô hữu đang ở trong chiếc thuyền này được liên kết lại với nhau thành một thân thể, và nhờ các bí tích mà họ được lớn lên trong ân sủng của Thiên Chúa, họ đồng tâm nhất trí với nhau thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ nhau trong tình huynh đệ (Cv 4, 32-35).
Hạnh phúc thay cho người mang danh Ki-tô hữu, bởi vì họ không so đo kò kè khi người này trổi vượt hơn người kia, bởi vì họ xác tín rằng: mỗi người đều là công cụ của Thiên Chúa dùng, để mưu ích cho tha nhân và làm sáng danh Ngài trong cuộc sống đời thường.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
http://facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tại sao Ba Lan đã giảm 90% số ca phá thai hợp pháp?
Đặng Tự Do
05:15 14/08/2022
Tờ báo Rzeczpospolita của Ba Lan ngày 30/7 đưa tin 107 ca phá thai hợp pháp đã được ghi nhận ở đất nước hơn 40 triệu dân vào năm 2021, so với 1.076 ca của năm trước, cho thấy mức giảm đến 90%. Điều này là do vào tháng 10 năm 2020, Tòa án Hiến pháp Ba Lan tuyên bố rằng luật năm 1993 cho phép phá thai vì khuyết tật nặng và không thể phục hồi hoặc một căn bệnh nan y đe dọa tính mạng là vi hiến. Urszula Dudziak, phó giáo sư tại Khoa Khoa học Gia đình tại Đại học Công Giáo Gioan Phaolô II ở Lublin, cho biết mặc dù tỷ lệ nạo phá thai được dự đoán sẽ giảm xuống, nhưng con số này có thể tăng trở lại nếu những người ủng hộ sự sống dựa vào “vòng nguyệt quế”. Theo phương ngôn của người Ba Lan dựa vào “vòng nguyệt quế” có nghĩa là ỷ y hay nói văn hoa hơn một chút là ngủ quên trong chiến thắng.
Bà cho biết vẫn cần phải làm nhiều việc, đặc biệt là giáo dục mọi người về “tình yêu thương và trách nhiệm” và về những “định kiến” cũng như một chương trình nhằm đưa ra những chăm sóc trước khi sinh.
Source:Aleteia
Đức Thánh Cha Piô thứ 12 là một người bạn lớn của dân Do Thái
Đặng Tự Do
05:17 14/08/2022
Đức Thánh Cha Piô 12 đã giúp che giấu những người Do Thái bị lùng bắt trên khắp nước Ý trong chiến tranh thế giới thứ hai. Người Do Thái, chẳng hạn như Thủ tướng Israel lúc bấy giờ là Golda Meier, đã công nhận điều này.
Chẳng may, có những trào lưu bài Công Giáo, tấn công ngài và cáo buộc rằng vị Giáo Hoàng đã im lặng không quyết liệt chống lại Hitler. Các vở kịch như “The Vicar” của Rolf Hochhuth vào năm 1963, và sau đó là một cuốn sách của John Cornwell vào năm 1999 đã tìm cách bôi nhọ ngài đến mức gọi ngài là “Giáo hoàng của Hitler”.
Trong một bài báo đăng trên Omnes, nhà báo Jose Garcia Peregrin đã nhìn lại cách hình ảnh Đức Thánh Cha Piô 12 bị bôi bẩn và biến thành “huyền thoại đen”. Tuy nhiên, nhà báo muốn nhấn mạnh và ghi nhớ một số sự kiện nhất định, chẳng hạn như việc Đức Piô XII lên án chủ nghĩa Quốc xã, hành động của ngài giúp đỡ người Do Thái; và những phản ứng bạo lực của Đức Quốc xã, là những kẻ đã quyết liệt lên án Đức Giáo Hoàng.
Ngài là “một vị Giáo hoàng không những không im lặng trước nạn diệt chủng, mà còn nỗ lực cứu càng nhiều càng tốt; và là người đã thành công chính xác bằng cách làm như vậy một cách lặng lẽ”
Source:Aleteia
Giáo Hội Á Căn Đình khởi động cuộc hành hương để thu hút sự chú ý đến cuộc khủng hoảng ma tuý
Đặng Tự Do
05:17 14/08/2022
Một nhóm “linh mục ổ chuột” ở Á Căn Đình đã khởi động một cuộc hành hương kéo dài một năm để làm nổi bật cuộc khủng hoảng nghiện ma túy của quốc gia, sử dụng hình ảnh của Đức Mẹ Lujan,quan thầy của Á Căn Đình.
Nhóm các linh mục Đại Gia Đình Chúa Kitô, gọi tắt là FGHC, đã khởi động dự án vào ngày 7 tháng 8 từ đền thánh Đức Mẹ San Cayetano ở Buenos Aires. Những người hành hương sẽ mang một bản sao của ảnh Đức Mẹ qua các trung tâm cai nghiện ma túy Hogar de Cristo có mặt trên khắp Á Căn Đình.
Thánh lễ khai mạc cuộc hành hương được cử hành bởi Đức Giám Mục Phụ Tá Gustavo Oscar Carrara, Đại diện Giám mục cho Khu ổ chuột và Khu dân cư nổi tiếng của Buenos Aires và phó chủ tịch Caritas Á Căn Đình.
Tuy nhiên, bài giảng đã được giảng bởi Cha José María “Pepe” Di Paola, một trong những linh mục khu ổ chuột, và là chủ tịch của Liên Đoàn Các Đại Gia Đình Chúa Kitô, nơi mà ngài gọi là những nơi “thể hiện lòng trắc ẩn như Chúa Giêsu đã yêu cầu chúng tôi, những nơi mà chúng ta đón nhận những người mà xã hội loại bỏ. “
“Chúng ta muốn có một Á Căn Đình nơi không có ai chết vì nghiện ma túy, và chúng ta sẽ đi khắp Á Căn Đình với hình ảnh Đức Mẹ hành hương với chúng ta”.
Di Paola nhấn mạnh rằng nhiều người trong số những người tham gia cuộc đi bộ là những người trẻ đã khỏi nghiện ma túy với sự hỗ trợ của hàng chục trung tâm mà Giáo Hội Công Giáo đã thành lập ở Á Căn Đình, theo yêu cầu cụ thể của Đức Tổng Giám Mục Jorge Mario Bergoglio, ngày nay được biết đến nhiều hơn với danh xưng Đức Thánh Cha Phanxicô.
“Chúng ta bắt đầu cuộc đi bộ này để truyền hy vọng tương tự cho những người trẻ khác chưa có được ngày hôm nay”
Cha Di Paola nhấn mạnh rằng: “Chúng ta muốn một đất nước không có ma túy. Chúng ta muốn một đất nước tràn đầy hy vọng cho những người trẻ tuổi. Chúng ta không muốn có những đứa trẻ thất bại vì ma túy”.
Hogar de Cristo hay Nhà Chúa Kitô đầu tiên được khánh thành trong lễ Phục sinh năm 2008 bởi Đức Tổng Giám Mục Bergoglio, người trong Thánh lễ Tiệc ly hôm Thứ Năm Tuần Thánh, đã rửa chân cho một nhóm thanh thiếu niên đã trở thành nạn nhân của Paco, là loại ma túy bất hợp pháp rẻ nhất đầy rẫy trên đường phố của Buenos Aires.
Paco là những gì còn sót lại từ các nhà bếp sản xuất cocaine cho Hoa Kỳ và Âu Châu và là một hỗn hợp gây nghiện cao của cocaine thô được trộn với hóa chất, keo dán, thủy tinh nghiền và thuốc diệt chuột.
Cha Di Paola nói: “Chúng ta sẽ kỷ niệm vào tháng Ba tới đây, khi cuộc hành trình xuyên suốt đất nước này kết thúc, 15 năm cuộc đời và 10 năm hiện diện của Đức Giáo Hoàng Phanxicô của chúng ta”.
Hàng nghìn nam nữ thanh niên - một số trẻ mới 9 tuổi - nghiện loại ma túy được biết đến ở địa phương là muertos vivientes, tức là kẻ chết biết đi.
Đi cùng với hình ảnh của Đức Mẹ Lujan sẽ là một lá cờ mô tả nhiều trẻ em và thanh thiếu niên đã thất bại trong trận chiến với ma túy, như một lời nhắc nhở về những gì họ đang hướng tới: “một Á Căn Đình nơi chúng ta có thể ngăn chặn việc sử dụng, nhưng cũng giúp đỡ những người đã chìm trong ma túy. chúng ta muốn họ nhận được những gì Chúa Giêsu yêu cầu ở chúng ta: đó là trở thành Người Samaritanô nhân hậu, người nâng đỡ những người đã ngã xuống, đang ở trong trái tim của mọi người dân Á Căn Đình”
Ngày được chọn để khởi động cuộc hành hương - ngày 7 tháng 8, ngày lễ Thánh Cajetan, được biết đến ở Á Căn Đình là Thánh Bảo trợ của Công việc và Bánh mì - không phải là ngẫu nhiên.
Vị linh mục gọi ngôi đền là “nơi tốt nhất để bắt đầu cuộc hành hương này để Thánh Cajetan lắng nghe sự tuyệt vọng của biết bao thanh niên chìm trong ma túy, những người không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, sự tuyệt vọng của những người mẹ không tìm thấy nơi chốn. hoặc cách để cho con cái họ lý do để sống với niềm vui và hy vọng. chúng ta biết ngài sẽ lắng nghe họ. Ngài sẽ lắng nghe tất cả chúng ta “.
Trước đó trong ngày, Đức Hồng Y Mario Aurelio Poli, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô lựa chọn làm người kế vị tại Buenos Aires, đã cử hành thánh lễ cho hàng ngàn người hành hương.
Source:Crux
Phỏng vấn Đức Hồng Y Parolin, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, về v/đ ngoại giao, Nga, Trung Quốc và vũ khí hạt nhân.
Trần Mạnh Trác
15:44 14/08/2022
(ZENIT News - LIMES online / Rome, 11.08.2022).- Tạp chí Địa chính trị Ý LIMES đã thực hiện một cuộc phỏng vấn với Quốc Vụ Khanh Vatican. Nhấn mạnh trong cuộc phỏng vấn là các chủ đề liên quan đến lãnh vực ngoại giao của Tòa Thánh nhưng nó cũng có một số câu hỏi cá nhân, về thời kỳ đầu của chức vụ ngoại giao của Đức Hồng Y Pietro Parolin.
Dịch theo phiên bản tiếng Anh của Virginia M. Forrester (Bản gốc tiếng Ý của ban biên tập ZENIT)
* * *
LIMES: Chính sách ngoại giao của Vatican khác với các nền ngoại giao khác như thế nào?
Đức Hồng Y Parolin: Ngoại giao của Tòa thánh không liên quan vào nền ngoại giao cuả một Quốc gia mà liên quan tới những thực tế của luật pháp quốc tế. Trên thực tế, Tòa thánh không có quyền lợi chính trị, kinh tế, quân sự, v.v. Ngoại giao của Tòa thánh phục vụ cho Giám mục Rôma, vị Chủ chăn của Giáo hội hoàn vũ. Do đó, trên hết, nó có một chức năng tôn giáo rõ ràng, vì là một trong những công cụ hiệp thông và hợp tác giữa vị Giáo hoàng và các Giám mục trong việc bảo đảm quyền tự do của các Giáo hội địa phương trong mối quan hệ với các Cơ quan Dân quyền. Nền ngoại giao của Tòa thánh cam kết bảo vệ phẩm giá và các quyền cơ bản của con người, bảo vệ những người yếu nhất và tận cùng cuả trái đất, làm việc suốt đời trong tất cả các giai đoạn, thúc đẩy hòa giải và hòa bình thông qua đối thoại, ngăn chặn và giải quyết xung đột, để hỗ trợ sự phát triển toàn diện và truyền bá tình huynh đệ phổ quát. Ở cấp độ này, nền ngoại giao của Tòa thánh chia sẻ nhiều mục tiêu của ngoại giao dân sự. Nó tiếp tục tin tưởng vào tầm quan trọng của các tổ chức quốc tế, chủ yếu là LHQ, và nhấn mạnh ý tưởng và phương pháp của chủ nghĩa đa phương.
LIMES: Địa chính trị có phải là một phần của nền ngoại giao của Tòa thánh không?
Đức Hồng Y Parolin: Kiến thức về thực tế địa chính trị là điều kiện không thể thiếu để thực hiện nghiệp vụ ngoại giao với hiệu quả cao nhất có thể. Điều này cũng áp dụng cho chính sách ngoại giao của Tòa thánh. Cần phải đắm mình trong lịch sử và văn hóa cổ đại và gần đây của những thực tại mà một người hoạt động, để biết đặc điểm của chúng, theo dõi sự tiến hóa của chúng, để suy ngẫm sâu sắc hơn về động lực của quan hệ quốc tế, kiên nhẫn dệt nên một mạng lưới quan hệ dọc ngang và không bao giờ đóng cửa đối thoại. Tất cả điều này không phải với thái độ của những người quan sát lạnh lùng và tách biệt, mà là tình cảm quan tâm và tham gia vào các sự kiện vui buồn của mỗi quốc gia và của toàn thể nhân loại chúng ta, điều mà tôi không tìm thấy cách diễn đạt nào tốt hơn là với từ "tình yêu." Như Thánh Paul Vi đã nói: chúng ta có con người trong trái tim, con người toàn diện, tất cả mọi người trong ý nghiã mà Đức Hồng Y Domenico Tardini, Bộ trưởng Ngoại giao của Đức Gioan XXIII, đã diễn tả một cách ý nhị. Trả lời cho những người hỏi ngài rằng liệu nền ngoại giao của Tòa Thánh có phải là “đứng đầu thế giới không”, ngài trả lời với một giọng hài hước rằng: “Nếu nó là thứ hai...(thì nguy mất.) “
LIMES: Ngài có một quá khứ hoạt động ngoại giao dài đằng sau lưng. Điều gì đã thúc đẩy ngài đến với cam kết này?
Đức Hồng Y Parolin: Tôi không thể trả lời câu hỏi này ngoài việc đề cập đến những kế hoạch bí ẩn mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Trên thực tế, sau khi tôi được Truyền chức linh mục và vài năm mục vụ tại một giáo xứ, Đức Giám Mục đã gửi tôi đến Rôma để học về Giáo luật, với ý định của ngài và tôi là trở lại làm việc tại giáo phận, nhưng ngài đã nhận được yêu cầu từ Rôma, đưa tôi vào cơ quan ngoại giao của Tòa thánh. Tôi chấp nhận, với sự đồng ý của DGM, và tôi ở lại đây, rất nhiều năm! Tuy nhiên, niềm tin cơ bản của tôi vẫn nguyên vẹn: rằng ơn gọi của tôi là một linh mục. Tôi đã nghiệm rằng việc phục vụ cho nền ngoại giao Giáo hội như là một sự thể hiện cụ thể của ơn gọi LM đó; Tuy không lúc nào cũng rõ ràng, nhưng tôi chấp nhận như một dấu chỉ của Sự Quan Phòng cuả Chuá được đọc dưới ánh sáng của sự phân định của Giáo Hội. Tôi tạ ơn Chúa vì trong những hoàn cảnh khác nhau mà tôi đã gặp, Ngài đã ban cho tôi ân sủng để có thể đồng hành với sứ mệnh ngoại giao như là chứng tá cuả một linh mục, bất chấp những yếu kém và hạn chế của tôi.
LIMES: Giáo Hội Công Giáo, theo định nghĩa, là phổ quát. Những việc ngoại giao cuả ngài có phổ quát không?
Đức Hồng Y Parolin: Giáo hội cố gắng như vậy và tôi tin là như vậy. Trước hết, vì thành phần của Đoàn ngoại giao: các Đại diện của Đức Giáo Hoàng đến từ các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới.
Đây là một điểm đặc biệt so với các chính sách ngoại giao của các Quốc gia mà tất cả các thành viên của họ, theo sinh quán hoặc quốc tịch, thuộc về quốc gia gửi họ đi. Nhưng, tất nhiên, xuất xứ không đủ để chứng nhận tính phổ quát. Do đó, những người chuẩn bị để phục vụ Đức Giáo Hoàng trong lĩnh vực ngoại giao được kêu gọi để có một viễn cảnh phổ quát, để “thở” –Tôi có thể nói - nhịp điệu của tính phổ quát. Sự đào tạo cụ thể ở Rôma góp phần vào việc ấy (trong Học viện Giáo hoàng), là trung tâm của Công Giáo.
LIMES: Trong thời gian gần đây, có vẻ như vai trò của các Giáo Hội Công Giáo “quốc gia” có xu hướng đặt câu hỏi về tính cách phổ quát của Giáo hội Rôma. Một số thậm chí còn đề xuất một Tòa thánh không còn liên kết với Rôma, nhưng lưu hành ở những nơi khác nhau về mặt địa lý. Điều này có khả thi không?
Đức Hồng Y Parolin: Sự hiện diện của Tòa Thánh tại Rôma gắn liền với hình bóng của vị Tông Đồ Phêrô, người đã rao giảng Tin Mừng ở Rôma và chịu tử đạo. Giáo hoàng là Người kế vị Thánh Phêrô và ngài là Giám mục của Rome. Sự thật là, trong một số giai đoạn lịch sử, và thậm chí trong một thời gian dài, vị Giáo hoàng đã sống ở một nơi khác (hãy nghĩ đến thời kỳ Avignon) và tình trạng này có thể lặp lại trong trường hợp gặp trở ngại nghiêm trọng. Nhưng về nguyên tắc, tôi loại trừ giả thuyết về một Tòa thánh không còn liên kết với Rôma và lưu hành ở những nơi khác nhau về mặt địa lý. Các Giáo Hội Công Giáo “quốc gia” cũng không tồn tại. Trong mối liên hệ này, người ta nói không đúng khi nói về Giáo hội “của” Pháp, của Tây Ban Nha, của Nam Sudan, của Việt Nam, nhưng phải là Giáo hội “ở” Pháp, ở Tây Ban Nha, v.v. Nghĩa là, đó là Giáo hộiCông Giáo duy nhất bắt nguồn từ các thực tế địa lý khác nhau và từ đó sinh ra sự phong phú cuả Giáo Hội. Do đó, chỉ nên sử dụng cụm từ giáo hội “địa phương”. Trên thực tế, cần phải bảo vệ khỏi nguy cơ chủ nghĩa dân tộc, được hiểu là sự phổ biến của bản sắc dân tộc, tư cách thành viên và tình cảm, tự chúng là những giá trị tích cực và là một nguồn lực – nhưng gây tổn hại cho sự cởi mở của Công Giáo, cụ thể là tính phổ quát. Trong Thư gửi tín hữu Ga-la-ti, Thánh Phao-lô viết: “Không có người Do Thái hay người Hy Lạp; không có nô lệ hay người tự do; không có người nam hay người nữ, bởi vì tất cả các bạn là một trong Đức Chúa Jêsus Kitô. ” Sau đó, có một tình huynh đệ thậm chí còn rộng lớn hơn, bắt nguồn từ bản chất con người chung của chúng ta, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta trong Thông điệp Fratelli Tutti. Trở lại chủ đề các Giáo hội “quốc gia”, Có một điều khác nữa là sự tản quyền, tức là sự gia tăng quyền lực của các Giáo hội địa phương và của các Hội đồng Giám mục. Đặc biệt kể từ Công đồng Vatican II, Giáo Hội Công Giáo tái lập nguyên tắc khởi thủy là giám mục đoàn (Episcopal Collegiality.) Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh về tính đồng nghị (synodality,) tính tập đoàn và tính đồng nghị (collegiality and synodality,) phải được liên kết và kết hợp với quyền tối thượng của Giáo hoàng La Mã.
LIMES: Nguồn gốc của Giáo hoàng có tầm quan trọng nào trong quan điểm địa chính trị của Tòa thánh? Ví dụ: nếu vào những năm 80 (trước), Giáo hoàng đã là người Argentina và ngày nay lại là người Ba Lan, thì điều gì sẽ thay đổi?
Đức Hồng Y Parolin: Chúng tôi không thể đặt ra một giả thuyết về những gì có thể xảy ra bởi vì, như chúng ta biết, lịch sử không được tạo ra với những “và nếu”. Tuy nhiên, điều tự nhiên là nguồn gốc, sự hình thành, kinh nghiệm và lịch sử cá nhân ảnh hưởng đến việc thực thi chức vụ của một Giáo hoàng, nhưng với tư cách là Người đứng đầu hữu hình của Giáo hội hoàn vũ, ngài là Mục sư của tất cả và cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, chúng tôi rất ý thức về ý nghĩa của Hiệp định tháng 10 năm 1978 đối với châu Âu và toàn thế giới, và sự xuất hiện trên ngai toà thánh Peter của Thánh John Paul II, một Giáo hoàng người Slav, người đến từ sau Bức màn sắt, từ một đất nước dưới sự kiểm soát của Liên Xô. Ngài đã góp tiếng nói cho "Giáo hội thầm lặng", ngài là người bảo vệ quyền tự do tôn giáo và ủng hộ công đoàn Solidarnosc. Ngài tin chắc rằng chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu sẽ sụp nổ; do đó ngài không bao giờ coi mình là kiến trúc sư của sự sụp đổ của nó, nhưng, không nghi ngờ gì nữa, ngài đóng một vai trò quan trọng để sự chuyển đổi mang tính lịch sử này diễn ra mà không cần đổ nhiều máu. Điều tương tự sẽ xảy ra nếu Giáo hoàng là một người khác? Thật khó để nói. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng, nhìn vào lịch sử của các triều đại Giáo hoàng cuối cùng, có thể thấy một số yếu tố liên quan đến sự quan phòng cuả Chuá, cụ thể là mỗi vị trong những Người kế vị thánh Phêrô đều là một món quà cho Giáo hội và thế giới.
LIMES: Đức Giáo Hoàng đã nhiều lần đưa ra lời kêu gọi chân thành cho nền hòa bình giữa người Nga và người Ukraine, nhưng đã vô ích và không được đáp lại. Tại sao?
Đức Hồng Y Parolin: Tiếng nói của Đức Giáo Hoàng thường là " ox clamantis in deserto”(“ Một tiếng khóc trong sa mạc ”). Đó là một tiếng tiên tri, của lời tiên tri sáng suốt. Nó giống như một hạt giống cần một mảnh đất màu mỡ để kết trái. Nếu các diễn viên chính của cuộc xung đột không chú ý đến lời nói của ngài, thì đáng buồn thay, sẽ không có gì xảy ra, kết thúc cuộc chiến sẽ không đạt được kết quả. Chính vì vậy, như nó đã xảy ra vào năm 1917, Bản ghi chú hòa bình nổi tiếng của DGH Benedict XV trong tông huấn “cuộc giết chóc vô ích” về Thế chiến thứ nhất, đã bị các thế lực hiếu chiến thời đó phớt lờ. Nó được lặp lại với lời kêu gọi của Đức Piô XII, là người đã làm mọi thứ có thể để tránh thảm kịch lớn của Thế chiến thứ hai. Chúng ta hãy nghĩ lại, gần gũi hơn, về lời khẩn cầu chân thành của Thánh John Paul II, vào năm 2003 đã cầu xin rằng Iraq đừng bị tấn công. Cũng như vậy trong ngày hôm nay, trong vấn đề bi thảm của Ukraine, dường như không có bất kỳ ý chí nào muốn tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình thực sự và chấp nhận đề nghị hòa giải. Rõ ràng, việc một bên đề xuất sự đàm phán hoặc đơn phương thế chấp tài sản vào đó thì vẫn là chưa đủ, điều quan trọng là cả hai bên phải bày tỏ ý muốn của mình.
Một lần nữa... "vox clamantis in deserto". Nhưng những lời của Đức Giáo Hoàng tiếp tục là bằng chứng có giá trị cao nhất, ảnh hưởng đến nhiều lương tâm, khiến mọi người nhận thức rõ hơn rằng hòa bình và chiến tranh bắt đầu trong tâm hồn chúng ta và tất cả chúng ta đều được kêu gọi đóng góp để thúc đẩy hòa bình và tránh chiến tranh.
LIMES: Đức Thánh Cha Phanxicô đã than thở ngay lập tức về “cuộc chiến tranh vỡ mảnh trên toàn cầu” hiện nay. Tại sao lời ngôn sứ của ngài bị đánh giá thấp, và theo nghĩa nào thì hành động xâm lược của Nga đối với Ukraine có thể đánh dấu một bước nhảy vọt cuả các mảnh lên tới một cuộc xung đột toàn cầu thực sự?
Đức Hồng Y Parolin: Cuộc chiến ở Ukraine thu hút sự chú ý của chúng tôi vì một số lý do, chủ yếu vì đây là cuộc xung đột ở trung tâm châu Âu, giữa các Quốc gia Cơ đốc giáo, do một quốc gia có vũ khí hạt nhân khởi xướng, với khả năng tình hình sẽ vượt quá tầm kiểm soát. Bạn nói đúng, bởi vì, khi bạn chỉ ra khả năng có một bước nhảy tiêu cực lên tới sự kết hợp của các mảnh, trở thành một cuộc xung đột thực của toàn thế giới. Tôi nghĩ rằng chúng ta vẫn chưa thể dự đoán hoặc tính toán hậu quả của những gì đang xảy ra. Hàng nghìn người chết, thành phố bị phá hủy, hàng triệu người phải di dời, thiên nhiên xung quanh bị tàn phá, nguy cơ đói kém do thiếu ngũ cốc ở rất nhiều nơi trên thế giới, cuộc khủng hoảng năng lượng... Làm thế nào mà chúng ta không nhận ra rằng phản ứng duy nhất, con đường khả thi duy nhất, viễn cảnh khả thi duy nhất là ngừng vũ khí và thúc đẩy một nền hòa bình công bằng và lâu dài? Liên quan đến sự quan sát sâu sắc của dức Giáo hoàng Phanxicô về một cuộc Thế Chiến thứ ba và việc kết nạp thêm các mảnh, tôi muốn nói thêm rằng Dức Giáo hoàng và Tòa thánh đã luôn chú ý đến nhiều cuộc chiến bị lãng quên mà vì xa chúng ta, ít quan hệ đến chúng ta hoặc, trong trường hợp, bị bỏ rơi nhanh chóng khỏi tâm điểm của các phương tiện truyền thông quốc tế lớn. Sẽ rất đáng để đọc lại các văn bản của Đức Giáo Hoàng như thông điệp Urbi et Orbi và diễn văn của ngài gửi tới Ngoại giao Đoàn bên cạnh Tòa thánh.
LIMES: Đức Thánh Cha Phanxicô không phải là “Tuyên úy của Phương Tây” như một số Tiền nhiệm của ngài đã có thể có vẻ như vậy. Đó là một sự lựa chọn có liên quan đến tiểu sử của ngài hay một sự thay đổi sâu sắc trong tầm nhìn của Giáo hội về thế giới?
Đức Hồng Y Parolin: Bạn đã nói rất hay: “đã có thể có vẻ như vậy,” bởi vì tôi không nghĩ điều đó thực sự xảy ra. Tôi nhớ, chẳng hạn, lập trường của Đức Piô XII về cuộc Chiến tranh ở Triều Tiên năm 1950, và việc từ chối “nhập ngũ” một cách nào đó bởi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Tôi nhớ Thánh John Paul II đã bắt tay với Hồi giáo, đã bác bỏ bằng tất cả sức lực của mình ý tưởng về “sự đụng độ của các nền văn minh” sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2002. Chúng ta đừng quên cử chỉ của ngài tập hợp các nhà lãnh đạo của các tôn giáo trên thế giới tại Assisi, để thúc đẩy hòa bình và loại bỏ bất kỳ lời biện minh nào về sự lạm dụng nhân danh Chúa cho mục đích bạo lực và khủng bố. Tôi chỉ đưa ra hai ví dụ, nhưng còn nhiều ví dụ nữa để cho thấy cách nói sáo rỗng của câu “Tuyên úy phương Tây” không phù hợp với vị Mục tử của Giáo hội hoàn vũ, bất chấp những nỗ lực để giành lấy ngài từ cả hai bên. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người mà các Hồng Y đã gọi lên ngai toà thánh Phêrô 9 năm trước, chọn ra ngài “gần như từ chỗ tận cùng thế giới”, dường như ít có gì phù hợp với những lời sáo rỗng “Tuyên úy phương Tây." Tôi tin rằng tính phổ quát và sự quan tâm và cảm hóa đặc biệt đối với các dân tộc ở các nước nghèo nhất, cũng như một Giáo hội ít châu Âu hơn và cái nhìn đa phương về các vấn đề quốc tế là một phần trong DNA của Giáo Hội Công Giáo. Và chúng là một phần của quá trình đã bắt đầu và tiếp tục trong các triều đại Giáo hoàng trước đó. Tất cả các Giáo hoàng, ít nhất là kể từ Đức Piô XII, đã đưa ra một bước nữa theo hướng này.
LIMES: Ngài đã đóng một vai trò đặc biệt trong cuộc đàm phán với Trung Quốc về một Thỏa thuận vẫn còn là bí mật. Bí mật phụ thuộc vào điều gì và ngày nay có thể đánh giá gì về kết quả của nó?
Đức Hồng Y Parolin: Đối thoại giữa Tòa thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bắt đầu theo yêu cầu của Thánh Gioan Phaolô II và tiếp tục trong các triều đại Giáo hoàng Benedict XVI và Francisco, dẫn đến việc ký kết Thỏa thuận tạm thời về việc bổ nhiệm các Giám mục ở Trung Quốc vào năm 2018. Trên thực tế, đặc điểm của tính chất tạm thời là khuyên các bên không nên công khai nó, với hy vọng kiểm tra hoạt động của nó trong lúc thực thi và đưa ra quyết định về nó. Mục tiêu của Thỏa thuận là đảm bảo rằng tất cả các Giám mục của Trung Quốc đều hiệp thông với Người kế vị Thánh Phêrô và sự thống nhất thiết yếu sẽ được đảm bảo giữa các cộng đồng giáo hội, trong nội bộ và giữa các cộng đồng đó, dưới sự hướng dẫn của các Giám mục xứng đáng hoặc lý tưởng, hoàn toàn là người Trung Quốc nhưng cũng hoàn toàn theo đạo thiên chúa. Thỏa thuận xác định rằng việc bổ nhiệm của họ phải tuân theo các thủ tục cụ thể, bắt nguồn từ lịch sử gần đây của Cơ đốc giáo đó, nhưng không bỏ qua các yếu tố cơ bản và bất khả xâm phạm của Giáo lý Công Giáo. Nếu không phải như vậy, thì sẽ không còn Giáo Hội Công Giáo ở Trung Quốc nữa, mà là một cái gì đó khác! Giáo hội kêu gọi sự tự do hợp pháp trong việc bổ nhiệm các Giám mục của mình, quan tâm rằng họ phải là những Mục tử chân chính theo Trái tim của Chúa Kitô và không đáp ứng các tiêu chí đơn thuần khác của con người, nhưng chúng ta cũng không nên lấy làm tai tiếng bởi vì trong thực tế là trong một số tình huống nhất định, Giáo hội cũng đã đáp ứng các nhu cầu cụ thể, chẳng hạn như các kiến nghị do các Cơ quan chính trị bày tỏ. Về việc đánh giá kết quả của Hiệp định, tôi cho rằng có thể nói rằng đã có những bước tiến về phía trước, nhưng không phải tất cả những trở ngại và khó khăn đều đã được khắc phục, nhưng cũng còn một đường rất xa để thi hành đúng đắn và qua việc đối thoại chân thành, để hoàn chỉnh nó.
LIMES: Kiev hay Moscow, nơi nào là ưu tiên trong chương trình nghị sự của Đức Thánh Cha và tại sao?
Đức Hồng Y Parolin: Như chính Đức Thánh Cha đã giải thích công khai, mong muốn lớn nhất của ngài và do đó, ưu tiên của ngài là thông qua chuyến đi của ngài, một lợi ích cụ thể sẽ đạt được. Với ý tưởng này, ngài cho biết muốn đến Kiev để mang lại niềm an ủi và hy vọng cho những người dân bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Ngài cũng đã tuyên bố sẵn sàng đi Moscow, và tất cả những xung đột bị lãng quên đều nằm trong trái tim của Giáo hoàng. Những người chết, là thứ nhất, và sau đó là gia đình của họ, những người đã mất tất cả, những người đã phải chạy trốn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã mong muốn thể hiện cụ thể sự gần gũi này qua các chuyến công du của các Hồng Y Konrad Krajewski và Michael Czerny và với chuyến công tác đến Ukraine của Bộ trưởng Quan hệ với các Quốc gia và Tổ chức Quốc tế, Đức Tổng Giám Mục Paul R. Gallagher.
LIMES: Đức Giáo Hoàng Francisco đã gặp gỡ ông Vladimir Putin ba lần - vào các năm 2013, 2015 và 2019. Mối quan hệ của ngài với Tổng thống Nga là gì?
Đức Hồng Y Parolin: Ngay từ những tháng đầu tiên của triều đại Giáo hoàng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp cận Tổng thống Nga để giải quyết cuộc xung đột ở Syria. Các cuộc gặp sau đó diễn ra thân mật và giúp chúng ta có thể tìm ra những điểm hội tụ. Kể từ tháng 2 năm ngoái, các cuộc tiếp xúc diễn ra thông qua ngoại giao, không còn trực tiếp. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc lại ở đây cử chỉ của Đức Giáo Hoàng vào ngày sau khi bắt đầu chiến sự, khi mặc dù đã bị đau đầu gối, nhưng ngài vẫn đích thân đến Đại sứ quán Liên bang Nga tại Tòa thánh để cầu xin Tổng thống Putin ngừng lại hành động xâm lược Ukraine.
LIMES: Đức Giáo Hoàng thường bị buộc tội ở Hoa Kỳ và ở các nước khác là thân Nga, đôi khi với giọng điệu gay gắt. Ý kiến của ngài như thế nào?
Đức Hồng Y Parolin: Tôi thú nhận rằng tôi có phần sợ hãi trước sự đơn giản hóa này. Có phải Giáo hoàng thân Nga vì ngài yêu cầu hòa bình? Có phải Giáo hoàng thân Nga vì ngài lên án cuộc chạy đua vũ trang và việc sử dụng những khoản tiền khổng lồ để mua những vũ khí mới và ngày càng mạnh mẽ hơn, thay vì sử dụng các nguồn lực sẵn có cho cuộc chiến chống lại nạn đói khát, sức khỏe, hạnh phúc, giáo dục, chuyển đổi sinh thái trên thế giới? Có phải Giáo hoàng thân Nga vì ngài kêu gọi suy ngẫm về điều gì đã dẫn đến những sự kiện đáng kinh ngạc và nguy hiểm này, nhắc nhở chúng ta rằng việc cùng tồn tại dựa trên liên minh quân sự hoặc lợi ích kinh tế là 'cùng tồn tại' bằng đất sét? Có phải Giáo hoàng thân Nga vì ông ấy yêu cầu một “kế hoạch hòa bình” thay vì duy trì “kế hoạch chiến tranh”? Nhưng thực tế không nên được đơn giản quá nhiều. Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên án hành động gây hấn của Nga đối với Ukraine ngay từ giây phút đầu tiên, với những từ ngữ rõ ràng; ngài chưa bao giờ đánh đồng kẻ xâm lược và kẻ bị xâm lược, ngài cũng không giữ một khoảng cách đều nhau với cả hai bên. Có thể nói, ngài là người “rõ ràng”, tức là gần gũi với những người đang gánh chịu hậu quả bất chính của cuộc chiến này, ngay từ đầu là những nạn nhân dân thường, sau đó là những người lính và gia đình của họ, bao gồm cả những người mẹ của rất nhiều người. những người đàn ông trẻ tuổi và những người lính Nga còn rất trẻ, những người chưa có tin tức về con trai của họ đã chết trong trận chiến. Do đó, tôi cho rằng một số lời chỉ trích không hào phóng và thậm chí hơi thô bạo, có lẽ được liên kết với nhận xét rằng Giáo hoàng không phải là “Tuyên úy của phương Tây”.
LIMES: Giáo hội có phải theo chủ nghĩa chủ hòa không? Giáo hội chấp nhận sử dụng vũ khí trong giới hạn nào?
Đức Hồng Y Parolin: Tin Mừng là một lời loan báo về hòa bình, một lời hứa và một món quà của hòa bình. Tất cả các trang của Tin Mừng đều có đầy đủ hòa bình. Các Thiên thần loan báo hoà bình vào thời điểm Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem. Chính Ngài cũng mong muốn điều đó cho các môn đồ nagy sau phục sinh. Giáo hội noi gương Chúa của mình: Giáo hội tin vào hòa bình, hoạt động vì hòa bình, chiến đấu cho hòa bình, làm chứng cho hòa bình và cố gắng xây dựng hòa bình. Về mặt này, giáo hội là người theo chủ nghĩa chủ hòa.Về việc sử dụng vũ khí, Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo quy định quyền tự vệ. Mọi người có quyền tự vệ nếu họ bị tấn công. Tuy nhiên, sự tự vệ vũ trang hợp pháp này phải được thực hiện trong những điều kiện nhất định mà Sách Giáo lý đã liệt kê: rằng tất cả các phương tiện khác để chấm dứt một cuộc xâm lược chứng tỏ là không thể thực hiện được hoặc không hiệu quả; rằng có lý do hợp lý để thành công; rằng việc sử dụng vũ khí không gây ra những tệ nạn và rối loạn lớn hơn những điều cần được loại bỏ. Cuối cùng, Giáo lý nói rằng, khi đánh giá câu hỏi này, sức mạnh của các phương tiện hủy diệt hiện đại đóng một vai trò quan trọng. Vì những lý do này, trong Thông điệp Fratelli Tutti,Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng chiến tranh không còn có thể được coi là một giải pháp, bởi vì những rủi ro có lẽ sẽ luôn vượt quá mức hữu dụng giả định được quy cho nó. Ngài kết thúc bằng lời kêu gọi tương tự của Thánh Phaolô VI tại Liên Hiệp Quốc vào ngày 4 tháng 10 năm 1965 “Không còn chiến tranh, chiến tranh không bao giờ nữa!”
LIMES: Việc trang bị vũ khí cho quân kháng chiến Ukraine có đúng không?
Đức Hồng Y Parolin: Tôi sẽ trả lời câu hỏi này nhờ bản thân tuân theo các nguyên tắc vừa được nêu ra. Các quyết định cụ thể tương ứng với các nhà cai trị, như Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thừa nhận. Tuy nhiên, không được quên rằng việc giải trừ quân bị là câu trả lời thích hợp và quyết định duy nhất cho những câu hỏi này, theo Huấn Quyền của Giáo Hội. Thí dụ chúng ta hãy đọc lại Thông điệp của Thánh Gioan XXIII ở Terris, nói về một cuộc giải giáp chung và phải được kiểm soát hiệu quả. Qua mối liên hệ này, tôi thấy đúng khi chúng ta ngay từ đầu yêu cầu kẻ tấn công từ bỏ vũ khí chứ không yêu cầu kẻ bị tấn công làm như vậy.
LIMES: Những kẻ quyền lực dường như không còn hiểu nhau, trong khi các quy tắc cũ và thói quen ngoại giao bị vi phạm và những giọng điệu gây tranh cãi dẫn đến những lời xúc phạm đẫm máu giữa các nguyên thủ quốc gia. Ngài nghĩ sao?
Đức Hồng Y Parolin: Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong lễ Regina Coeli ngày 1 tháng Năm, sự leo thang quân sự ngày càng đi kèm với sự leo thang bằng lời nói. Rõ ràng, tôi không đánh đồng giữa lời nói và vũ khí, sự lăng mạ và ném bom. Nhưng, thật không may, sự leo thang lại tạo ra một con đường khác. Chiến tranh bắt đầu trong trái tim con người. Mọi sự xúc phạm đẫm máu đều lấy đi hòa bình và gây khó khăn cho bất kỳ cuộc thương lượng nào. Chúng ta không được lùi bước trước cái logic của việc hạ nhục đối thủ, kẻ thù.
LIMES: Không đồng ý với Thượng phụ Kirill, Hội đồng Giáo hội Chính thống Ukraine khẳng định độc lập và tự chủ hoàn toàn khỏi Tòa Thượng phụ Moscow. Ngài đánh giá thế nào về sự ly giáo trên thực tế này và nó có thể gây ra những hậu quả gì trong quan hệ giữa Rome, Moscow và Kiev?
Đức Hồng Y Parolin: Tôi không biết liệu có thích hợp để nói về một “cuộc ly giáo” hay không. Cuộc chiến đang diễn ra chắc chắn liên quan đến các dân tộc anh em trong đức tin Cơ đốc và nhìn chung, những người cử hành cùng một Phụng vụ. Đó là một vết thương sâu sắc và đẫm máu cho Cơ đốc giáo Đông phương và cho tất cả các Cơ đốc nhân. Trong trường hợp này, vẫn còn quá sớm để hiểu được hậu quả của những gì đang xảy ra. Tuy nhiên, không nghi ngờ gì nữa, điều gây sốc và tai tiếng hơn khi họ là những người theo đạo Thiên Chúa, ở trung tâm Châu Âu, đang tham gia vào những sự kiện bi thảm này.
LIMES: Cuộc đối thoại giữa Rome và Moscow dường như đã đạt đến một trong những điểm thấp nhất. Ngài có đồng ý không?
Đức Hồng Y Parolin: Đó là một cuộc đối thoại khó, nó tiến lên từng bước nhỏ và cũng trải qua những thăng trầm. Nó đã nhận được một động lực quan trọng với cuộc gặp lịch sử tại Cuba vào năm 2016 giữa Đức Giáo Hoàng Francisco và Thượng phụ Kirill. Như đã biết, công việc đã được tiến hành cho cuộc họp thứ hai, được lên kế hoạch vào tháng 6 năm ngoái tại Jerusalem, nhưng sau đó đã bị đình chỉ. Nó sẽ không được hiểu và cuộc chiến đang diễn ra sẽ ảnh hưởng đến nó quá nhiều. Tuy nhiên, cuộc đối thoại không hề bị gián đoạn.
LIMES: Sự rạn nứt giữa Chính thống giáo Ukraine và Nga có thể gây ra hậu quả gì đối với những người Công Giáo Hy Lạp ở Ukraine?
Đức Hồng Y Parolin: Còn quá sớm để đưa ra dự đoán. Tôi tưởng tượng rằng các Giáo hội Ukraine sẽ ngày càng nhận thức được sự khác biệt của cả hai cũng như những điểm chung của họ. Tuy nhiên, chúng ta sẽ phải chờ đợi diễn biến của các sự kiện, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến các quyết định gần đây được Hội đồng Giáo Hội Chính thống Ukraine thông qua.
LIMES: Mối quan hệ như thế nào giữa Công Giáo Hy Lạp và Công Giáo Latinh ở Ukraine, và Giáo hội uyển chuyển như thế nào giữa hai thực tại này?
Đức Hồng Y Parolin: Giáo Hội luôn coi là một sự phong phú, những đa dạng của các Nghi lễ và Truyền thống Phụng vụ, những biểu hiện của lịch sử và văn hóa của các nhóm dân cư khác nhau và của một đức tin đáp ứng với cuộc sống. Do đó, tất cả các Giáo hội, cả Latinh cũng như Đông phương, đều đóng góp vào sự hiệp nhất đa dạng và sự hòa hợp của Công Giáo. Ở Ukraine, cả Giáo hội Latinh cũng như Công Giáo Hy Lạp đều rất năng động và mặc dù dựa trên các thành phần văn hóa và thực tế xã hội có phần khác biệt, nhưng họ tôn trọng và phát huy bản sắc của người dân Ukraine. Điều hy vọng là sự hợp tác giữa họ cũng sẽ ngày càng phát triển, vì lợi ích của Dân Thiên Chúa. Tôi tưởng tượng rằng trải nghiệm đau buồn mà họ đang sống sẽ giúp củng cố mối quan hệ đoàn kết giữa họ và với các Giáo hội khác trong nước. Cùng với nhau chịu đựng chung, thì bình thường sẽ củng cố thêm tình bạn.
Dịch theo phiên bản tiếng Anh của Virginia M. Forrester (Bản gốc tiếng Ý của ban biên tập ZENIT)
* * *
LIMES: Chính sách ngoại giao của Vatican khác với các nền ngoại giao khác như thế nào?
Đức Hồng Y Parolin: Ngoại giao của Tòa thánh không liên quan vào nền ngoại giao cuả một Quốc gia mà liên quan tới những thực tế của luật pháp quốc tế. Trên thực tế, Tòa thánh không có quyền lợi chính trị, kinh tế, quân sự, v.v. Ngoại giao của Tòa thánh phục vụ cho Giám mục Rôma, vị Chủ chăn của Giáo hội hoàn vũ. Do đó, trên hết, nó có một chức năng tôn giáo rõ ràng, vì là một trong những công cụ hiệp thông và hợp tác giữa vị Giáo hoàng và các Giám mục trong việc bảo đảm quyền tự do của các Giáo hội địa phương trong mối quan hệ với các Cơ quan Dân quyền. Nền ngoại giao của Tòa thánh cam kết bảo vệ phẩm giá và các quyền cơ bản của con người, bảo vệ những người yếu nhất và tận cùng cuả trái đất, làm việc suốt đời trong tất cả các giai đoạn, thúc đẩy hòa giải và hòa bình thông qua đối thoại, ngăn chặn và giải quyết xung đột, để hỗ trợ sự phát triển toàn diện và truyền bá tình huynh đệ phổ quát. Ở cấp độ này, nền ngoại giao của Tòa thánh chia sẻ nhiều mục tiêu của ngoại giao dân sự. Nó tiếp tục tin tưởng vào tầm quan trọng của các tổ chức quốc tế, chủ yếu là LHQ, và nhấn mạnh ý tưởng và phương pháp của chủ nghĩa đa phương.
LIMES: Địa chính trị có phải là một phần của nền ngoại giao của Tòa thánh không?
Đức Hồng Y Parolin: Kiến thức về thực tế địa chính trị là điều kiện không thể thiếu để thực hiện nghiệp vụ ngoại giao với hiệu quả cao nhất có thể. Điều này cũng áp dụng cho chính sách ngoại giao của Tòa thánh. Cần phải đắm mình trong lịch sử và văn hóa cổ đại và gần đây của những thực tại mà một người hoạt động, để biết đặc điểm của chúng, theo dõi sự tiến hóa của chúng, để suy ngẫm sâu sắc hơn về động lực của quan hệ quốc tế, kiên nhẫn dệt nên một mạng lưới quan hệ dọc ngang và không bao giờ đóng cửa đối thoại. Tất cả điều này không phải với thái độ của những người quan sát lạnh lùng và tách biệt, mà là tình cảm quan tâm và tham gia vào các sự kiện vui buồn của mỗi quốc gia và của toàn thể nhân loại chúng ta, điều mà tôi không tìm thấy cách diễn đạt nào tốt hơn là với từ "tình yêu." Như Thánh Paul Vi đã nói: chúng ta có con người trong trái tim, con người toàn diện, tất cả mọi người trong ý nghiã mà Đức Hồng Y Domenico Tardini, Bộ trưởng Ngoại giao của Đức Gioan XXIII, đã diễn tả một cách ý nhị. Trả lời cho những người hỏi ngài rằng liệu nền ngoại giao của Tòa Thánh có phải là “đứng đầu thế giới không”, ngài trả lời với một giọng hài hước rằng: “Nếu nó là thứ hai...(thì nguy mất.) “
LIMES: Ngài có một quá khứ hoạt động ngoại giao dài đằng sau lưng. Điều gì đã thúc đẩy ngài đến với cam kết này?
Đức Hồng Y Parolin: Tôi không thể trả lời câu hỏi này ngoài việc đề cập đến những kế hoạch bí ẩn mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Trên thực tế, sau khi tôi được Truyền chức linh mục và vài năm mục vụ tại một giáo xứ, Đức Giám Mục đã gửi tôi đến Rôma để học về Giáo luật, với ý định của ngài và tôi là trở lại làm việc tại giáo phận, nhưng ngài đã nhận được yêu cầu từ Rôma, đưa tôi vào cơ quan ngoại giao của Tòa thánh. Tôi chấp nhận, với sự đồng ý của DGM, và tôi ở lại đây, rất nhiều năm! Tuy nhiên, niềm tin cơ bản của tôi vẫn nguyên vẹn: rằng ơn gọi của tôi là một linh mục. Tôi đã nghiệm rằng việc phục vụ cho nền ngoại giao Giáo hội như là một sự thể hiện cụ thể của ơn gọi LM đó; Tuy không lúc nào cũng rõ ràng, nhưng tôi chấp nhận như một dấu chỉ của Sự Quan Phòng cuả Chuá được đọc dưới ánh sáng của sự phân định của Giáo Hội. Tôi tạ ơn Chúa vì trong những hoàn cảnh khác nhau mà tôi đã gặp, Ngài đã ban cho tôi ân sủng để có thể đồng hành với sứ mệnh ngoại giao như là chứng tá cuả một linh mục, bất chấp những yếu kém và hạn chế của tôi.
LIMES: Giáo Hội Công Giáo, theo định nghĩa, là phổ quát. Những việc ngoại giao cuả ngài có phổ quát không?
Đức Hồng Y Parolin: Giáo hội cố gắng như vậy và tôi tin là như vậy. Trước hết, vì thành phần của Đoàn ngoại giao: các Đại diện của Đức Giáo Hoàng đến từ các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới.
Đây là một điểm đặc biệt so với các chính sách ngoại giao của các Quốc gia mà tất cả các thành viên của họ, theo sinh quán hoặc quốc tịch, thuộc về quốc gia gửi họ đi. Nhưng, tất nhiên, xuất xứ không đủ để chứng nhận tính phổ quát. Do đó, những người chuẩn bị để phục vụ Đức Giáo Hoàng trong lĩnh vực ngoại giao được kêu gọi để có một viễn cảnh phổ quát, để “thở” –Tôi có thể nói - nhịp điệu của tính phổ quát. Sự đào tạo cụ thể ở Rôma góp phần vào việc ấy (trong Học viện Giáo hoàng), là trung tâm của Công Giáo.
LIMES: Trong thời gian gần đây, có vẻ như vai trò của các Giáo Hội Công Giáo “quốc gia” có xu hướng đặt câu hỏi về tính cách phổ quát của Giáo hội Rôma. Một số thậm chí còn đề xuất một Tòa thánh không còn liên kết với Rôma, nhưng lưu hành ở những nơi khác nhau về mặt địa lý. Điều này có khả thi không?
Đức Hồng Y Parolin: Sự hiện diện của Tòa Thánh tại Rôma gắn liền với hình bóng của vị Tông Đồ Phêrô, người đã rao giảng Tin Mừng ở Rôma và chịu tử đạo. Giáo hoàng là Người kế vị Thánh Phêrô và ngài là Giám mục của Rome. Sự thật là, trong một số giai đoạn lịch sử, và thậm chí trong một thời gian dài, vị Giáo hoàng đã sống ở một nơi khác (hãy nghĩ đến thời kỳ Avignon) và tình trạng này có thể lặp lại trong trường hợp gặp trở ngại nghiêm trọng. Nhưng về nguyên tắc, tôi loại trừ giả thuyết về một Tòa thánh không còn liên kết với Rôma và lưu hành ở những nơi khác nhau về mặt địa lý. Các Giáo Hội Công Giáo “quốc gia” cũng không tồn tại. Trong mối liên hệ này, người ta nói không đúng khi nói về Giáo hội “của” Pháp, của Tây Ban Nha, của Nam Sudan, của Việt Nam, nhưng phải là Giáo hội “ở” Pháp, ở Tây Ban Nha, v.v. Nghĩa là, đó là Giáo hộiCông Giáo duy nhất bắt nguồn từ các thực tế địa lý khác nhau và từ đó sinh ra sự phong phú cuả Giáo Hội. Do đó, chỉ nên sử dụng cụm từ giáo hội “địa phương”. Trên thực tế, cần phải bảo vệ khỏi nguy cơ chủ nghĩa dân tộc, được hiểu là sự phổ biến của bản sắc dân tộc, tư cách thành viên và tình cảm, tự chúng là những giá trị tích cực và là một nguồn lực – nhưng gây tổn hại cho sự cởi mở của Công Giáo, cụ thể là tính phổ quát. Trong Thư gửi tín hữu Ga-la-ti, Thánh Phao-lô viết: “Không có người Do Thái hay người Hy Lạp; không có nô lệ hay người tự do; không có người nam hay người nữ, bởi vì tất cả các bạn là một trong Đức Chúa Jêsus Kitô. ” Sau đó, có một tình huynh đệ thậm chí còn rộng lớn hơn, bắt nguồn từ bản chất con người chung của chúng ta, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta trong Thông điệp Fratelli Tutti. Trở lại chủ đề các Giáo hội “quốc gia”, Có một điều khác nữa là sự tản quyền, tức là sự gia tăng quyền lực của các Giáo hội địa phương và của các Hội đồng Giám mục. Đặc biệt kể từ Công đồng Vatican II, Giáo Hội Công Giáo tái lập nguyên tắc khởi thủy là giám mục đoàn (Episcopal Collegiality.) Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh về tính đồng nghị (synodality,) tính tập đoàn và tính đồng nghị (collegiality and synodality,) phải được liên kết và kết hợp với quyền tối thượng của Giáo hoàng La Mã.
LIMES: Nguồn gốc của Giáo hoàng có tầm quan trọng nào trong quan điểm địa chính trị của Tòa thánh? Ví dụ: nếu vào những năm 80 (trước), Giáo hoàng đã là người Argentina và ngày nay lại là người Ba Lan, thì điều gì sẽ thay đổi?
Đức Hồng Y Parolin: Chúng tôi không thể đặt ra một giả thuyết về những gì có thể xảy ra bởi vì, như chúng ta biết, lịch sử không được tạo ra với những “và nếu”. Tuy nhiên, điều tự nhiên là nguồn gốc, sự hình thành, kinh nghiệm và lịch sử cá nhân ảnh hưởng đến việc thực thi chức vụ của một Giáo hoàng, nhưng với tư cách là Người đứng đầu hữu hình của Giáo hội hoàn vũ, ngài là Mục sư của tất cả và cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, chúng tôi rất ý thức về ý nghĩa của Hiệp định tháng 10 năm 1978 đối với châu Âu và toàn thế giới, và sự xuất hiện trên ngai toà thánh Peter của Thánh John Paul II, một Giáo hoàng người Slav, người đến từ sau Bức màn sắt, từ một đất nước dưới sự kiểm soát của Liên Xô. Ngài đã góp tiếng nói cho "Giáo hội thầm lặng", ngài là người bảo vệ quyền tự do tôn giáo và ủng hộ công đoàn Solidarnosc. Ngài tin chắc rằng chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu sẽ sụp nổ; do đó ngài không bao giờ coi mình là kiến trúc sư của sự sụp đổ của nó, nhưng, không nghi ngờ gì nữa, ngài đóng một vai trò quan trọng để sự chuyển đổi mang tính lịch sử này diễn ra mà không cần đổ nhiều máu. Điều tương tự sẽ xảy ra nếu Giáo hoàng là một người khác? Thật khó để nói. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng, nhìn vào lịch sử của các triều đại Giáo hoàng cuối cùng, có thể thấy một số yếu tố liên quan đến sự quan phòng cuả Chuá, cụ thể là mỗi vị trong những Người kế vị thánh Phêrô đều là một món quà cho Giáo hội và thế giới.
LIMES: Đức Giáo Hoàng đã nhiều lần đưa ra lời kêu gọi chân thành cho nền hòa bình giữa người Nga và người Ukraine, nhưng đã vô ích và không được đáp lại. Tại sao?
Đức Hồng Y Parolin: Tiếng nói của Đức Giáo Hoàng thường là " ox clamantis in deserto”(“ Một tiếng khóc trong sa mạc ”). Đó là một tiếng tiên tri, của lời tiên tri sáng suốt. Nó giống như một hạt giống cần một mảnh đất màu mỡ để kết trái. Nếu các diễn viên chính của cuộc xung đột không chú ý đến lời nói của ngài, thì đáng buồn thay, sẽ không có gì xảy ra, kết thúc cuộc chiến sẽ không đạt được kết quả. Chính vì vậy, như nó đã xảy ra vào năm 1917, Bản ghi chú hòa bình nổi tiếng của DGH Benedict XV trong tông huấn “cuộc giết chóc vô ích” về Thế chiến thứ nhất, đã bị các thế lực hiếu chiến thời đó phớt lờ. Nó được lặp lại với lời kêu gọi của Đức Piô XII, là người đã làm mọi thứ có thể để tránh thảm kịch lớn của Thế chiến thứ hai. Chúng ta hãy nghĩ lại, gần gũi hơn, về lời khẩn cầu chân thành của Thánh John Paul II, vào năm 2003 đã cầu xin rằng Iraq đừng bị tấn công. Cũng như vậy trong ngày hôm nay, trong vấn đề bi thảm của Ukraine, dường như không có bất kỳ ý chí nào muốn tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình thực sự và chấp nhận đề nghị hòa giải. Rõ ràng, việc một bên đề xuất sự đàm phán hoặc đơn phương thế chấp tài sản vào đó thì vẫn là chưa đủ, điều quan trọng là cả hai bên phải bày tỏ ý muốn của mình.
Một lần nữa... "vox clamantis in deserto". Nhưng những lời của Đức Giáo Hoàng tiếp tục là bằng chứng có giá trị cao nhất, ảnh hưởng đến nhiều lương tâm, khiến mọi người nhận thức rõ hơn rằng hòa bình và chiến tranh bắt đầu trong tâm hồn chúng ta và tất cả chúng ta đều được kêu gọi đóng góp để thúc đẩy hòa bình và tránh chiến tranh.
LIMES: Đức Thánh Cha Phanxicô đã than thở ngay lập tức về “cuộc chiến tranh vỡ mảnh trên toàn cầu” hiện nay. Tại sao lời ngôn sứ của ngài bị đánh giá thấp, và theo nghĩa nào thì hành động xâm lược của Nga đối với Ukraine có thể đánh dấu một bước nhảy vọt cuả các mảnh lên tới một cuộc xung đột toàn cầu thực sự?
Đức Hồng Y Parolin: Cuộc chiến ở Ukraine thu hút sự chú ý của chúng tôi vì một số lý do, chủ yếu vì đây là cuộc xung đột ở trung tâm châu Âu, giữa các Quốc gia Cơ đốc giáo, do một quốc gia có vũ khí hạt nhân khởi xướng, với khả năng tình hình sẽ vượt quá tầm kiểm soát. Bạn nói đúng, bởi vì, khi bạn chỉ ra khả năng có một bước nhảy tiêu cực lên tới sự kết hợp của các mảnh, trở thành một cuộc xung đột thực của toàn thế giới. Tôi nghĩ rằng chúng ta vẫn chưa thể dự đoán hoặc tính toán hậu quả của những gì đang xảy ra. Hàng nghìn người chết, thành phố bị phá hủy, hàng triệu người phải di dời, thiên nhiên xung quanh bị tàn phá, nguy cơ đói kém do thiếu ngũ cốc ở rất nhiều nơi trên thế giới, cuộc khủng hoảng năng lượng... Làm thế nào mà chúng ta không nhận ra rằng phản ứng duy nhất, con đường khả thi duy nhất, viễn cảnh khả thi duy nhất là ngừng vũ khí và thúc đẩy một nền hòa bình công bằng và lâu dài? Liên quan đến sự quan sát sâu sắc của dức Giáo hoàng Phanxicô về một cuộc Thế Chiến thứ ba và việc kết nạp thêm các mảnh, tôi muốn nói thêm rằng Dức Giáo hoàng và Tòa thánh đã luôn chú ý đến nhiều cuộc chiến bị lãng quên mà vì xa chúng ta, ít quan hệ đến chúng ta hoặc, trong trường hợp, bị bỏ rơi nhanh chóng khỏi tâm điểm của các phương tiện truyền thông quốc tế lớn. Sẽ rất đáng để đọc lại các văn bản của Đức Giáo Hoàng như thông điệp Urbi et Orbi và diễn văn của ngài gửi tới Ngoại giao Đoàn bên cạnh Tòa thánh.
LIMES: Đức Thánh Cha Phanxicô không phải là “Tuyên úy của Phương Tây” như một số Tiền nhiệm của ngài đã có thể có vẻ như vậy. Đó là một sự lựa chọn có liên quan đến tiểu sử của ngài hay một sự thay đổi sâu sắc trong tầm nhìn của Giáo hội về thế giới?
Đức Hồng Y Parolin: Bạn đã nói rất hay: “đã có thể có vẻ như vậy,” bởi vì tôi không nghĩ điều đó thực sự xảy ra. Tôi nhớ, chẳng hạn, lập trường của Đức Piô XII về cuộc Chiến tranh ở Triều Tiên năm 1950, và việc từ chối “nhập ngũ” một cách nào đó bởi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Tôi nhớ Thánh John Paul II đã bắt tay với Hồi giáo, đã bác bỏ bằng tất cả sức lực của mình ý tưởng về “sự đụng độ của các nền văn minh” sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2002. Chúng ta đừng quên cử chỉ của ngài tập hợp các nhà lãnh đạo của các tôn giáo trên thế giới tại Assisi, để thúc đẩy hòa bình và loại bỏ bất kỳ lời biện minh nào về sự lạm dụng nhân danh Chúa cho mục đích bạo lực và khủng bố. Tôi chỉ đưa ra hai ví dụ, nhưng còn nhiều ví dụ nữa để cho thấy cách nói sáo rỗng của câu “Tuyên úy phương Tây” không phù hợp với vị Mục tử của Giáo hội hoàn vũ, bất chấp những nỗ lực để giành lấy ngài từ cả hai bên. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người mà các Hồng Y đã gọi lên ngai toà thánh Phêrô 9 năm trước, chọn ra ngài “gần như từ chỗ tận cùng thế giới”, dường như ít có gì phù hợp với những lời sáo rỗng “Tuyên úy phương Tây." Tôi tin rằng tính phổ quát và sự quan tâm và cảm hóa đặc biệt đối với các dân tộc ở các nước nghèo nhất, cũng như một Giáo hội ít châu Âu hơn và cái nhìn đa phương về các vấn đề quốc tế là một phần trong DNA của Giáo Hội Công Giáo. Và chúng là một phần của quá trình đã bắt đầu và tiếp tục trong các triều đại Giáo hoàng trước đó. Tất cả các Giáo hoàng, ít nhất là kể từ Đức Piô XII, đã đưa ra một bước nữa theo hướng này.
LIMES: Ngài đã đóng một vai trò đặc biệt trong cuộc đàm phán với Trung Quốc về một Thỏa thuận vẫn còn là bí mật. Bí mật phụ thuộc vào điều gì và ngày nay có thể đánh giá gì về kết quả của nó?
Đức Hồng Y Parolin: Đối thoại giữa Tòa thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bắt đầu theo yêu cầu của Thánh Gioan Phaolô II và tiếp tục trong các triều đại Giáo hoàng Benedict XVI và Francisco, dẫn đến việc ký kết Thỏa thuận tạm thời về việc bổ nhiệm các Giám mục ở Trung Quốc vào năm 2018. Trên thực tế, đặc điểm của tính chất tạm thời là khuyên các bên không nên công khai nó, với hy vọng kiểm tra hoạt động của nó trong lúc thực thi và đưa ra quyết định về nó. Mục tiêu của Thỏa thuận là đảm bảo rằng tất cả các Giám mục của Trung Quốc đều hiệp thông với Người kế vị Thánh Phêrô và sự thống nhất thiết yếu sẽ được đảm bảo giữa các cộng đồng giáo hội, trong nội bộ và giữa các cộng đồng đó, dưới sự hướng dẫn của các Giám mục xứng đáng hoặc lý tưởng, hoàn toàn là người Trung Quốc nhưng cũng hoàn toàn theo đạo thiên chúa. Thỏa thuận xác định rằng việc bổ nhiệm của họ phải tuân theo các thủ tục cụ thể, bắt nguồn từ lịch sử gần đây của Cơ đốc giáo đó, nhưng không bỏ qua các yếu tố cơ bản và bất khả xâm phạm của Giáo lý Công Giáo. Nếu không phải như vậy, thì sẽ không còn Giáo Hội Công Giáo ở Trung Quốc nữa, mà là một cái gì đó khác! Giáo hội kêu gọi sự tự do hợp pháp trong việc bổ nhiệm các Giám mục của mình, quan tâm rằng họ phải là những Mục tử chân chính theo Trái tim của Chúa Kitô và không đáp ứng các tiêu chí đơn thuần khác của con người, nhưng chúng ta cũng không nên lấy làm tai tiếng bởi vì trong thực tế là trong một số tình huống nhất định, Giáo hội cũng đã đáp ứng các nhu cầu cụ thể, chẳng hạn như các kiến nghị do các Cơ quan chính trị bày tỏ. Về việc đánh giá kết quả của Hiệp định, tôi cho rằng có thể nói rằng đã có những bước tiến về phía trước, nhưng không phải tất cả những trở ngại và khó khăn đều đã được khắc phục, nhưng cũng còn một đường rất xa để thi hành đúng đắn và qua việc đối thoại chân thành, để hoàn chỉnh nó.
LIMES: Kiev hay Moscow, nơi nào là ưu tiên trong chương trình nghị sự của Đức Thánh Cha và tại sao?
Đức Hồng Y Parolin: Như chính Đức Thánh Cha đã giải thích công khai, mong muốn lớn nhất của ngài và do đó, ưu tiên của ngài là thông qua chuyến đi của ngài, một lợi ích cụ thể sẽ đạt được. Với ý tưởng này, ngài cho biết muốn đến Kiev để mang lại niềm an ủi và hy vọng cho những người dân bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Ngài cũng đã tuyên bố sẵn sàng đi Moscow, và tất cả những xung đột bị lãng quên đều nằm trong trái tim của Giáo hoàng. Những người chết, là thứ nhất, và sau đó là gia đình của họ, những người đã mất tất cả, những người đã phải chạy trốn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã mong muốn thể hiện cụ thể sự gần gũi này qua các chuyến công du của các Hồng Y Konrad Krajewski và Michael Czerny và với chuyến công tác đến Ukraine của Bộ trưởng Quan hệ với các Quốc gia và Tổ chức Quốc tế, Đức Tổng Giám Mục Paul R. Gallagher.
LIMES: Đức Giáo Hoàng Francisco đã gặp gỡ ông Vladimir Putin ba lần - vào các năm 2013, 2015 và 2019. Mối quan hệ của ngài với Tổng thống Nga là gì?
Đức Hồng Y Parolin: Ngay từ những tháng đầu tiên của triều đại Giáo hoàng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp cận Tổng thống Nga để giải quyết cuộc xung đột ở Syria. Các cuộc gặp sau đó diễn ra thân mật và giúp chúng ta có thể tìm ra những điểm hội tụ. Kể từ tháng 2 năm ngoái, các cuộc tiếp xúc diễn ra thông qua ngoại giao, không còn trực tiếp. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc lại ở đây cử chỉ của Đức Giáo Hoàng vào ngày sau khi bắt đầu chiến sự, khi mặc dù đã bị đau đầu gối, nhưng ngài vẫn đích thân đến Đại sứ quán Liên bang Nga tại Tòa thánh để cầu xin Tổng thống Putin ngừng lại hành động xâm lược Ukraine.
LIMES: Đức Giáo Hoàng thường bị buộc tội ở Hoa Kỳ và ở các nước khác là thân Nga, đôi khi với giọng điệu gay gắt. Ý kiến của ngài như thế nào?
Đức Hồng Y Parolin: Tôi thú nhận rằng tôi có phần sợ hãi trước sự đơn giản hóa này. Có phải Giáo hoàng thân Nga vì ngài yêu cầu hòa bình? Có phải Giáo hoàng thân Nga vì ngài lên án cuộc chạy đua vũ trang và việc sử dụng những khoản tiền khổng lồ để mua những vũ khí mới và ngày càng mạnh mẽ hơn, thay vì sử dụng các nguồn lực sẵn có cho cuộc chiến chống lại nạn đói khát, sức khỏe, hạnh phúc, giáo dục, chuyển đổi sinh thái trên thế giới? Có phải Giáo hoàng thân Nga vì ngài kêu gọi suy ngẫm về điều gì đã dẫn đến những sự kiện đáng kinh ngạc và nguy hiểm này, nhắc nhở chúng ta rằng việc cùng tồn tại dựa trên liên minh quân sự hoặc lợi ích kinh tế là 'cùng tồn tại' bằng đất sét? Có phải Giáo hoàng thân Nga vì ông ấy yêu cầu một “kế hoạch hòa bình” thay vì duy trì “kế hoạch chiến tranh”? Nhưng thực tế không nên được đơn giản quá nhiều. Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên án hành động gây hấn của Nga đối với Ukraine ngay từ giây phút đầu tiên, với những từ ngữ rõ ràng; ngài chưa bao giờ đánh đồng kẻ xâm lược và kẻ bị xâm lược, ngài cũng không giữ một khoảng cách đều nhau với cả hai bên. Có thể nói, ngài là người “rõ ràng”, tức là gần gũi với những người đang gánh chịu hậu quả bất chính của cuộc chiến này, ngay từ đầu là những nạn nhân dân thường, sau đó là những người lính và gia đình của họ, bao gồm cả những người mẹ của rất nhiều người. những người đàn ông trẻ tuổi và những người lính Nga còn rất trẻ, những người chưa có tin tức về con trai của họ đã chết trong trận chiến. Do đó, tôi cho rằng một số lời chỉ trích không hào phóng và thậm chí hơi thô bạo, có lẽ được liên kết với nhận xét rằng Giáo hoàng không phải là “Tuyên úy của phương Tây”.
LIMES: Giáo hội có phải theo chủ nghĩa chủ hòa không? Giáo hội chấp nhận sử dụng vũ khí trong giới hạn nào?
Đức Hồng Y Parolin: Tin Mừng là một lời loan báo về hòa bình, một lời hứa và một món quà của hòa bình. Tất cả các trang của Tin Mừng đều có đầy đủ hòa bình. Các Thiên thần loan báo hoà bình vào thời điểm Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem. Chính Ngài cũng mong muốn điều đó cho các môn đồ nagy sau phục sinh. Giáo hội noi gương Chúa của mình: Giáo hội tin vào hòa bình, hoạt động vì hòa bình, chiến đấu cho hòa bình, làm chứng cho hòa bình và cố gắng xây dựng hòa bình. Về mặt này, giáo hội là người theo chủ nghĩa chủ hòa.Về việc sử dụng vũ khí, Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo quy định quyền tự vệ. Mọi người có quyền tự vệ nếu họ bị tấn công. Tuy nhiên, sự tự vệ vũ trang hợp pháp này phải được thực hiện trong những điều kiện nhất định mà Sách Giáo lý đã liệt kê: rằng tất cả các phương tiện khác để chấm dứt một cuộc xâm lược chứng tỏ là không thể thực hiện được hoặc không hiệu quả; rằng có lý do hợp lý để thành công; rằng việc sử dụng vũ khí không gây ra những tệ nạn và rối loạn lớn hơn những điều cần được loại bỏ. Cuối cùng, Giáo lý nói rằng, khi đánh giá câu hỏi này, sức mạnh của các phương tiện hủy diệt hiện đại đóng một vai trò quan trọng. Vì những lý do này, trong Thông điệp Fratelli Tutti,Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng chiến tranh không còn có thể được coi là một giải pháp, bởi vì những rủi ro có lẽ sẽ luôn vượt quá mức hữu dụng giả định được quy cho nó. Ngài kết thúc bằng lời kêu gọi tương tự của Thánh Phaolô VI tại Liên Hiệp Quốc vào ngày 4 tháng 10 năm 1965 “Không còn chiến tranh, chiến tranh không bao giờ nữa!”
LIMES: Việc trang bị vũ khí cho quân kháng chiến Ukraine có đúng không?
Đức Hồng Y Parolin: Tôi sẽ trả lời câu hỏi này nhờ bản thân tuân theo các nguyên tắc vừa được nêu ra. Các quyết định cụ thể tương ứng với các nhà cai trị, như Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thừa nhận. Tuy nhiên, không được quên rằng việc giải trừ quân bị là câu trả lời thích hợp và quyết định duy nhất cho những câu hỏi này, theo Huấn Quyền của Giáo Hội. Thí dụ chúng ta hãy đọc lại Thông điệp của Thánh Gioan XXIII ở Terris, nói về một cuộc giải giáp chung và phải được kiểm soát hiệu quả. Qua mối liên hệ này, tôi thấy đúng khi chúng ta ngay từ đầu yêu cầu kẻ tấn công từ bỏ vũ khí chứ không yêu cầu kẻ bị tấn công làm như vậy.
LIMES: Những kẻ quyền lực dường như không còn hiểu nhau, trong khi các quy tắc cũ và thói quen ngoại giao bị vi phạm và những giọng điệu gây tranh cãi dẫn đến những lời xúc phạm đẫm máu giữa các nguyên thủ quốc gia. Ngài nghĩ sao?
Đức Hồng Y Parolin: Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong lễ Regina Coeli ngày 1 tháng Năm, sự leo thang quân sự ngày càng đi kèm với sự leo thang bằng lời nói. Rõ ràng, tôi không đánh đồng giữa lời nói và vũ khí, sự lăng mạ và ném bom. Nhưng, thật không may, sự leo thang lại tạo ra một con đường khác. Chiến tranh bắt đầu trong trái tim con người. Mọi sự xúc phạm đẫm máu đều lấy đi hòa bình và gây khó khăn cho bất kỳ cuộc thương lượng nào. Chúng ta không được lùi bước trước cái logic của việc hạ nhục đối thủ, kẻ thù.
LIMES: Không đồng ý với Thượng phụ Kirill, Hội đồng Giáo hội Chính thống Ukraine khẳng định độc lập và tự chủ hoàn toàn khỏi Tòa Thượng phụ Moscow. Ngài đánh giá thế nào về sự ly giáo trên thực tế này và nó có thể gây ra những hậu quả gì trong quan hệ giữa Rome, Moscow và Kiev?
Đức Hồng Y Parolin: Tôi không biết liệu có thích hợp để nói về một “cuộc ly giáo” hay không. Cuộc chiến đang diễn ra chắc chắn liên quan đến các dân tộc anh em trong đức tin Cơ đốc và nhìn chung, những người cử hành cùng một Phụng vụ. Đó là một vết thương sâu sắc và đẫm máu cho Cơ đốc giáo Đông phương và cho tất cả các Cơ đốc nhân. Trong trường hợp này, vẫn còn quá sớm để hiểu được hậu quả của những gì đang xảy ra. Tuy nhiên, không nghi ngờ gì nữa, điều gây sốc và tai tiếng hơn khi họ là những người theo đạo Thiên Chúa, ở trung tâm Châu Âu, đang tham gia vào những sự kiện bi thảm này.
LIMES: Cuộc đối thoại giữa Rome và Moscow dường như đã đạt đến một trong những điểm thấp nhất. Ngài có đồng ý không?
Đức Hồng Y Parolin: Đó là một cuộc đối thoại khó, nó tiến lên từng bước nhỏ và cũng trải qua những thăng trầm. Nó đã nhận được một động lực quan trọng với cuộc gặp lịch sử tại Cuba vào năm 2016 giữa Đức Giáo Hoàng Francisco và Thượng phụ Kirill. Như đã biết, công việc đã được tiến hành cho cuộc họp thứ hai, được lên kế hoạch vào tháng 6 năm ngoái tại Jerusalem, nhưng sau đó đã bị đình chỉ. Nó sẽ không được hiểu và cuộc chiến đang diễn ra sẽ ảnh hưởng đến nó quá nhiều. Tuy nhiên, cuộc đối thoại không hề bị gián đoạn.
LIMES: Sự rạn nứt giữa Chính thống giáo Ukraine và Nga có thể gây ra hậu quả gì đối với những người Công Giáo Hy Lạp ở Ukraine?
Đức Hồng Y Parolin: Còn quá sớm để đưa ra dự đoán. Tôi tưởng tượng rằng các Giáo hội Ukraine sẽ ngày càng nhận thức được sự khác biệt của cả hai cũng như những điểm chung của họ. Tuy nhiên, chúng ta sẽ phải chờ đợi diễn biến của các sự kiện, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến các quyết định gần đây được Hội đồng Giáo Hội Chính thống Ukraine thông qua.
LIMES: Mối quan hệ như thế nào giữa Công Giáo Hy Lạp và Công Giáo Latinh ở Ukraine, và Giáo hội uyển chuyển như thế nào giữa hai thực tại này?
Đức Hồng Y Parolin: Giáo Hội luôn coi là một sự phong phú, những đa dạng của các Nghi lễ và Truyền thống Phụng vụ, những biểu hiện của lịch sử và văn hóa của các nhóm dân cư khác nhau và của một đức tin đáp ứng với cuộc sống. Do đó, tất cả các Giáo hội, cả Latinh cũng như Đông phương, đều đóng góp vào sự hiệp nhất đa dạng và sự hòa hợp của Công Giáo. Ở Ukraine, cả Giáo hội Latinh cũng như Công Giáo Hy Lạp đều rất năng động và mặc dù dựa trên các thành phần văn hóa và thực tế xã hội có phần khác biệt, nhưng họ tôn trọng và phát huy bản sắc của người dân Ukraine. Điều hy vọng là sự hợp tác giữa họ cũng sẽ ngày càng phát triển, vì lợi ích của Dân Thiên Chúa. Tôi tưởng tượng rằng trải nghiệm đau buồn mà họ đang sống sẽ giúp củng cố mối quan hệ đoàn kết giữa họ và với các Giáo hội khác trong nước. Cùng với nhau chịu đựng chung, thì bình thường sẽ củng cố thêm tình bạn.
Huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 14/8/2022
Đặng Tự Do
16:45 14/08/2022
Chúa Nhật 14 tháng 8, Giáo Hội trên toàn thế giới cử hành Chúa Nhật thứ 20 Mùa Quanh Năm.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em,
Trong Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, có một diễn tả về Chúa Giêsu luôn đánh động chúng ta và thách thức chúng ta. Khi đang cùng đi với các môn đệ, Chúa Giêsu nói: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Chúa đang nói về ngọn lửa gì vậy? Và những lời này có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay, đâu là ý nghĩa ngọn lửa mà Chúa Giêsu mang đến?
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu đến để mang đến cho thế giới Phúc Âm, tức là tin mừng về tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Vì vậy, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Tin Mừng giống như một ngọn lửa, bởi vì nó là một sứ điệp mà khi nó bùng lên trong lịch sử, sẽ đốt cháy những cân bằng cũ trong cuộc sống, đốt cháy những cân bằng cũ trong não trạng của chúng ta, thách thức chúng ta thoát ra khỏi chủ nghĩa cá nhân của mình, thách thức chúng ta vượt qua tính ích kỷ, thách thức chúng ta chuyển từ nô lệ của tội lỗi và sự chết sang cuộc sống mới của Đấng Phục sinh, của Chúa Giêsu Phục sinh. Nói cách khác, Tin Mừng không để mọi thứ như chúng vốn có; Khi Tin Mừng đi qua, và được lắng nghe và tiếp nhận, mọi thứ không y như chúng vốn có. Tin Mừng kích động sự thay đổi và mời gọi sự hoán cải. Tin Mừng không tạo ra một nền hòa bình thân mật giả tạo, nhưng gây ra sự bồn chồn khiến chúng ta phải hành động, và thúc đẩy chúng ta mở lòng ra với Chúa và với anh em của chúng ta. Tin Mừng giống như lửa: trong khi sưởi ấm chúng ta bằng tình yêu của Chúa, Tin Mừng muốn đốt cháy lòng ích kỷ của chúng ta, để soi sáng những mặt tối của cuộc sống - tất cả chúng ta đều có những mặt tối như thế! - Tin Mừng đến để thiêu đốt những thần tượng giả tạo đang nô dịch chúng ta.
Theo sự trỗi dậy của nhà tiên tri trong Kinh thánh - chẳng hạn, chúng ta hãy nghĩ đến Êlia và Giêrêmia - Chúa Giêsu được thổi bùng lên bởi tình yêu của Thiên Chúa và để tình yêu ấy lan rộng khắp thế giới, Ngài đã tiêu hao hết cá nhân mình, yêu thương đến cùng, nghĩa là cái chết, và cái chết trên thập giá (xem Phil 2: 8). Người được đầy dẫy Chúa Thánh Linh, Đấng được so sánh với lửa, với ánh sáng và sức mạnh, Người vén màn thiên nhan nhiệm mầu của Thiên Chúa và ban sự sung mãn cho những người bị coi là hư mất, phá bỏ rào cản của sự loại trừ, chữa lành những vết thương trên cơ thể và linh hồn, và đổi mới một tôn giáo vốn đã bị giản lược thành các thực hành bên ngoài. Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu là lửa: Ngài thay đổi, thanh lọc.
Vậy, lời đó của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với chúng ta, đối với mỗi người chúng ta - đối với tôi, đối với anh chị em - lời này của Chúa Giêsu, về lửa, có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Thưa: lời ấy mời gọi chúng ta thắp lại ngọn lửa đức tin, để nó không trở thành vấn đề thứ yếu, hay một phương tiện đối với hạnh phúc của mỗi cá nhân, giúp chúng ta có thể trốn tránh những thử thách của cuộc sống hoặc dấn thân trong Giáo hội và xã hội. Thật vậy - như một nhà thần học đã nói - đức tin vào Chúa “trấn an chúng ta - nhưng không phải ở mức độ của chúng ta, hoặc để tạo ra một ảo tưởng tê liệt, hoặc một sự hài lòng tự mãn, nhưng để thôi thúc chúng ta hành động” (De Lubac, The Discovery of God ). Tóm lại, đức tin không phải là một “bài hát ru” chúng ta vào giấc ngủ. Niềm tin chân chính là ngọn lửa, ngọn lửa sống để giúp chúng ta luôn tỉnh táo và năng động ngay cả khi đêm xuống!
Và sau đó, chúng ta có thể tự hỏi: tôi có say mê Phúc Âm không? Tôi có thường xuyên đọc Phúc âm không? Tôi có mang sách Phúc Âm với tôi không? Đức tin mà tôi tuyên xưng và ca tụng có đưa tôi đến sự yên tĩnh tự mãn hay nó đốt cháy ngọn lửa làm chứng trong tôi? Chúng ta cũng có thể tự hỏi mình câu hỏi này. Giáo hội: trong các cộng đoàn của chúng ta, ngọn lửa Thánh Thần có bùng cháy với lòng say mê cầu nguyện và bác ái, và niềm vui đức tin không? Hay chúng ta kéo mình theo sự mệt mỏi và thói quen, với khuôn mặt ủ rũ, trên môi luôn than thở và những câu chuyện phiếm mỗi ngày? Thưa anh chị em, chúng ta hãy tự kiểm tra điều này, để chúng ta cũng có thể nói, giống như Chúa Giêsu: chúng ta được đốt cháy bởi ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa, và chúng ta muốn lan tỏa nó ra khắp thế giới, để mang nó đến với mọi người, để mỗi người người ta có thể khám phá ra sự dịu dàng của Chúa Cha và cảm nghiệm niềm vui của Chúa Giêsu, Đấng mở rộng trái tim - và Chúa Giêsu mở rộng trái tim! - và làm cho cuộc sống tươi đẹp. Chúng ta hãy cầu xin Đức Thánh Trinh Nữ về điều này: xin Mẹ, Đấng đã đón nhận ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, cầu bầu cho chúng ta.
Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:
Anh chị em thân mến,
Tôi muốn thu hút sự chú ý của anh chị em đến cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng đang ảnh hưởng đến Somalia và các khu vực khác nhau của các nước láng giềng. Người dân vùng này vốn đã sống trong những điều kiện rất bấp bênh, nay lại gặp nguy hiểm đến tính mạng do hạn hán. Tôi hy vọng rằng tình đoàn kết quốc tế có thể ứng phó hiệu quả với tình huống khẩn cấp này. Thật không may, chiến tranh làm chệch hướng sự chú ý và nguồn lực, nhưng đây là những mục tiêu đòi hỏi sự cam kết cao nhất: cuộc chiến chống đói, y tế và giáo dục.
Tôi gửi lời chào nồng nhiệt tới anh chị em, những tín hữu của Rôma và những người hành hương từ nhiều quốc gia khác nhau. Tôi thấy cờ Ba Lan, Ukraine, Pháp, Ý và Á Căn Đình! Rất nhiều khách hành hương. Đặc biệt, tôi chào các nhà giáo dục và giáo lý viên từ đơn vị mục vụ Codevigo, Padua, các sinh viên đại học của Phong trào Thanh niên Salêdiêng ở Triveneto, và những người trẻ của đơn vị mục vụ Villafranca, Verona.
Và một ý nghĩ đặc biệt đến với nhiều người hành hương đang tập trung ngày hôm nay tại Đền thờ Lòng Chúa Thương Xót ở Krakow, nơi cách đây hai mươi năm Thánh Gioan Phaolô II đã thực hiện hành động Ủy thác Thế giới cho Lòng Thương xót Chúa. Hơn bao giờ hết, ngày nay chúng ta thấy ý nghĩa của cử chỉ đó, mà chúng ta phải đổi mới trong lời cầu nguyện và trong cuộc sống làm chứng. Lòng thương xót là con đường cứu rỗi cho mỗi người chúng ta và cho toàn thế giới. Và chúng ta hãy cầu xin Chúa thương xót, thương xót và thương xót đặc biệt cho những người Ukraine tử đạo.
Chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật nhiều may mắn. Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng và xin chào tạm biệt tất cả anh chị em và đặc biệt là những người trẻ tuổi của phong trào Immacolata.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice VaticanaPOPE FRANCIS ANGELUS Saint Peter's Square Sunday, 14 August 2022
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng:
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!
Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”
Anh chị em thân mến, chào anh chị em,
Trong Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, có một diễn tả về Chúa Giêsu luôn đánh động chúng ta và thách thức chúng ta. Khi đang cùng đi với các môn đệ, Chúa Giêsu nói: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Chúa đang nói về ngọn lửa gì vậy? Và những lời này có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay, đâu là ý nghĩa ngọn lửa mà Chúa Giêsu mang đến?
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu đến để mang đến cho thế giới Phúc Âm, tức là tin mừng về tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Vì vậy, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Tin Mừng giống như một ngọn lửa, bởi vì nó là một sứ điệp mà khi nó bùng lên trong lịch sử, sẽ đốt cháy những cân bằng cũ trong cuộc sống, đốt cháy những cân bằng cũ trong não trạng của chúng ta, thách thức chúng ta thoát ra khỏi chủ nghĩa cá nhân của mình, thách thức chúng ta vượt qua tính ích kỷ, thách thức chúng ta chuyển từ nô lệ của tội lỗi và sự chết sang cuộc sống mới của Đấng Phục sinh, của Chúa Giêsu Phục sinh. Nói cách khác, Tin Mừng không để mọi thứ như chúng vốn có; Khi Tin Mừng đi qua, và được lắng nghe và tiếp nhận, mọi thứ không y như chúng vốn có. Tin Mừng kích động sự thay đổi và mời gọi sự hoán cải. Tin Mừng không tạo ra một nền hòa bình thân mật giả tạo, nhưng gây ra sự bồn chồn khiến chúng ta phải hành động, và thúc đẩy chúng ta mở lòng ra với Chúa và với anh em của chúng ta. Tin Mừng giống như lửa: trong khi sưởi ấm chúng ta bằng tình yêu của Chúa, Tin Mừng muốn đốt cháy lòng ích kỷ của chúng ta, để soi sáng những mặt tối của cuộc sống - tất cả chúng ta đều có những mặt tối như thế! - Tin Mừng đến để thiêu đốt những thần tượng giả tạo đang nô dịch chúng ta.
Theo sự trỗi dậy của nhà tiên tri trong Kinh thánh - chẳng hạn, chúng ta hãy nghĩ đến Êlia và Giêrêmia - Chúa Giêsu được thổi bùng lên bởi tình yêu của Thiên Chúa và để tình yêu ấy lan rộng khắp thế giới, Ngài đã tiêu hao hết cá nhân mình, yêu thương đến cùng, nghĩa là cái chết, và cái chết trên thập giá (xem Phil 2: 8). Người được đầy dẫy Chúa Thánh Linh, Đấng được so sánh với lửa, với ánh sáng và sức mạnh, Người vén màn thiên nhan nhiệm mầu của Thiên Chúa và ban sự sung mãn cho những người bị coi là hư mất, phá bỏ rào cản của sự loại trừ, chữa lành những vết thương trên cơ thể và linh hồn, và đổi mới một tôn giáo vốn đã bị giản lược thành các thực hành bên ngoài. Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu là lửa: Ngài thay đổi, thanh lọc.
Vậy, lời đó của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với chúng ta, đối với mỗi người chúng ta - đối với tôi, đối với anh chị em - lời này của Chúa Giêsu, về lửa, có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Thưa: lời ấy mời gọi chúng ta thắp lại ngọn lửa đức tin, để nó không trở thành vấn đề thứ yếu, hay một phương tiện đối với hạnh phúc của mỗi cá nhân, giúp chúng ta có thể trốn tránh những thử thách của cuộc sống hoặc dấn thân trong Giáo hội và xã hội. Thật vậy - như một nhà thần học đã nói - đức tin vào Chúa “trấn an chúng ta - nhưng không phải ở mức độ của chúng ta, hoặc để tạo ra một ảo tưởng tê liệt, hoặc một sự hài lòng tự mãn, nhưng để thôi thúc chúng ta hành động” (De Lubac, The Discovery of God ). Tóm lại, đức tin không phải là một “bài hát ru” chúng ta vào giấc ngủ. Niềm tin chân chính là ngọn lửa, ngọn lửa sống để giúp chúng ta luôn tỉnh táo và năng động ngay cả khi đêm xuống!
Và sau đó, chúng ta có thể tự hỏi: tôi có say mê Phúc Âm không? Tôi có thường xuyên đọc Phúc âm không? Tôi có mang sách Phúc Âm với tôi không? Đức tin mà tôi tuyên xưng và ca tụng có đưa tôi đến sự yên tĩnh tự mãn hay nó đốt cháy ngọn lửa làm chứng trong tôi? Chúng ta cũng có thể tự hỏi mình câu hỏi này. Giáo hội: trong các cộng đoàn của chúng ta, ngọn lửa Thánh Thần có bùng cháy với lòng say mê cầu nguyện và bác ái, và niềm vui đức tin không? Hay chúng ta kéo mình theo sự mệt mỏi và thói quen, với khuôn mặt ủ rũ, trên môi luôn than thở và những câu chuyện phiếm mỗi ngày? Thưa anh chị em, chúng ta hãy tự kiểm tra điều này, để chúng ta cũng có thể nói, giống như Chúa Giêsu: chúng ta được đốt cháy bởi ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa, và chúng ta muốn lan tỏa nó ra khắp thế giới, để mang nó đến với mọi người, để mỗi người người ta có thể khám phá ra sự dịu dàng của Chúa Cha và cảm nghiệm niềm vui của Chúa Giêsu, Đấng mở rộng trái tim - và Chúa Giêsu mở rộng trái tim! - và làm cho cuộc sống tươi đẹp. Chúng ta hãy cầu xin Đức Thánh Trinh Nữ về điều này: xin Mẹ, Đấng đã đón nhận ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, cầu bầu cho chúng ta.
Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:
Anh chị em thân mến,
Tôi muốn thu hút sự chú ý của anh chị em đến cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng đang ảnh hưởng đến Somalia và các khu vực khác nhau của các nước láng giềng. Người dân vùng này vốn đã sống trong những điều kiện rất bấp bênh, nay lại gặp nguy hiểm đến tính mạng do hạn hán. Tôi hy vọng rằng tình đoàn kết quốc tế có thể ứng phó hiệu quả với tình huống khẩn cấp này. Thật không may, chiến tranh làm chệch hướng sự chú ý và nguồn lực, nhưng đây là những mục tiêu đòi hỏi sự cam kết cao nhất: cuộc chiến chống đói, y tế và giáo dục.
Tôi gửi lời chào nồng nhiệt tới anh chị em, những tín hữu của Rôma và những người hành hương từ nhiều quốc gia khác nhau. Tôi thấy cờ Ba Lan, Ukraine, Pháp, Ý và Á Căn Đình! Rất nhiều khách hành hương. Đặc biệt, tôi chào các nhà giáo dục và giáo lý viên từ đơn vị mục vụ Codevigo, Padua, các sinh viên đại học của Phong trào Thanh niên Salêdiêng ở Triveneto, và những người trẻ của đơn vị mục vụ Villafranca, Verona.
Và một ý nghĩ đặc biệt đến với nhiều người hành hương đang tập trung ngày hôm nay tại Đền thờ Lòng Chúa Thương Xót ở Krakow, nơi cách đây hai mươi năm Thánh Gioan Phaolô II đã thực hiện hành động Ủy thác Thế giới cho Lòng Thương xót Chúa. Hơn bao giờ hết, ngày nay chúng ta thấy ý nghĩa của cử chỉ đó, mà chúng ta phải đổi mới trong lời cầu nguyện và trong cuộc sống làm chứng. Lòng thương xót là con đường cứu rỗi cho mỗi người chúng ta và cho toàn thế giới. Và chúng ta hãy cầu xin Chúa thương xót, thương xót và thương xót đặc biệt cho những người Ukraine tử đạo.
Chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật nhiều may mắn. Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng và xin chào tạm biệt tất cả anh chị em và đặc biệt là những người trẻ tuổi của phong trào Immacolata.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
Tin Giáo Hội Việt Nam
Video đêm diễn nguyện Bên Mẹ La Vang tại linh đài Đức Mẹ La Vang Quảng Trị
TGP Huế
09:31 14/08/2022
Tưởng nhớ Cha Micae Lê Văn Khâm
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
19:45 14/08/2022
TƯỞNG NHỚ CHA MICAE LÊ VĂN KHÂM
NGUYÊN GIÁM QUẢN,
NGUYÊN TỔNG ĐẠI DIỆN GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG
Hôm nay, Chúa nhật 14.8.2022, khi vừa dâng thánh lễ xong, tôi nhận được tin buồn, cha Micae Lê Văn Khâm từ trần sau thời gian ngắn bị nhiễm covid và bị cách ly tại bệnh viện. Như vậy, cha ra đi mà bên cạnh không có người thân. Nay cha trở về cũng chỉ là một bộ hài cốt. Giáo phận tổ chức tang lễ cho cha trong niềm kính yêu và thương tiếc.
Như vậy, cha Micae Lê Văn Khâm đã kết thúc hành trình 83 năm làm người, trong đó có đến 54 năm làm linh mục của Chúa tại giáo phận Phú Cường.
Lúc sinh thời, cha đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng trong giáo phận như: Giáo sư Tiểu Chủng viện Phú Cường, Quản lý giáo phận gần trọn thập niên 1990, hai lần làm Tổng Đại diện (tổng cộng khoảng 14 năm), cha sở nhà thờ Chánh tòa giáo phận...
Đặc biệt, sau khi hai Đức Giám Mục Chánh tòa tiên khởi của giáo phận Giuse Phạm Văn Thiên và Louis Hà Kim Danh lần lượt nghỉ hưu và qua đời, cha Micae làm Giám quản giáo phận đến bốn năm, trước khi Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ được chọn làm Giám mục Phú Cường...
Ơn gọi của tôi có sự góp mặt không nhỏ của cha Micae. Khoảng hơn 10 năm đầu đời linh mục của mình, khi còn hiện diện tại hạt Phú Cường, dù không nói ra, tôi chọn cha làm cha giải tội và linh hướng riêng.
Vì thế, hàng tháng, tôi xưng tội với cha. Rất nhiều lần, gặp khó khăn, tôi tìm đến cha. Cha cũng chưa bao giờ xác nhận là cha linh hướng của tôi. Tuy nhiên, mỗi lần thấy tôi tìm gặp, cha ân cần lắng nghe, an ủi và cho ý kiến. Nhờ cha, tôi đã vượt qua nhiều khó khăn tưởng chừng khó có thể vượt qua...
Có lẽ vì hiểu nhiều về tâm tư và con người tôi, nên nhiều lần có những cuộc tổ chức hội họp, lễ lạy trong giáo phận, tôi đều được cha cho phép tham gia như khai mạc và kết thúc Năm Thánh 2000; khai mạc và kết thúc Năm Mân Côi (10.2002 - 10.2003); khai mạc và kết thúc Năm Năm Thánh Thể (10.2004 - 10.2005)...
Hoặc có những cột mốc quan trọng trong cuộc đời tôi, cha hiện diện để động viên và cầu nguyện cho tôi. Chẳng hạn, cha Micae chủ sự ngày tôi nhận nhiệm sở giáo xứ Bến Sắn, chủ sự hoặc giảng lễ các thánh lễ tạ ơn nhân 10 năm, 15 năm và 17 năm tôi được lãnh nhận thánh chức...
Trong máy vi tính của tôi, vẫn còn giữ mãi một kỷ niệm. Đó là bài phát biểu mà cha Micae Lê Văn Khâm, với tư cách là Tổng Đại Diện của giáo phận Phú Cường, được mời phát biểu vào ngày 30.11.2007, tại cuộc họp báo cáo cuối năm của một cơ quan nhà nước tỉnh Bình Dương.
Nay cha đã về Nhà Cha, để tưởng nhớ vị linh mục suốt đời trung thành với ơn gọi, đã cống hiến công sức lớn lao cho giáo phận Phú Cường, đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ làm đầy tớ của Chúa nơi trần gian, chúng ta cùng đọc lại một phần của bài phát biểu ấy để thấm thía hơn những tâm huyết của Người Cha, Người Anh đi trước. Trong bài phát biểu, có đoạn Cha Micae nói:
"...Từ phía những người Việt nam Công Giáo, tuy khiêm tốn mang hạt cải đi gieo, dù nó góp phần cách nhỏ nhoi và tiệm tiến, nhưng cũng nhằm hoàn thiện một phần xã hội trần thế, lớn dần lên theo cách của Thầy Giêsu, Chúa chúng ta.
Những người Việt nam công giáo hay những người Công Giáo tại Việt nam đều có chung một chí hướng là ‘Phúc Âm hoá’ nơi môi trưòng mình sống, dầu hoàn cảnh có thuận lợi hay không thuận lợi.
Sự cộng tác và hợp tác là hai yêu tố của hai mặt của một bàn tay linh động và đầy chất sống. Nhờ ánh sáng của Lời Chúa, người công dân Công Giáo biết hoà trộn nhuần nhuyễn cách sống đạo Chúa và cách sống đời thường của mình sao cho hiệu quả cao.
Tôi biểu dương và hết sức trân trọng những linh mục, tu sĩ và giáo dân đã tích cực dấn thân không mệt mỏi.
Tôi đánh giá cao và khích lệ mạnh mẽ những thành quả thu hoạch được trong năm năm qua của cộng đồng dân Chúa tại phần đất Bình Dương, một phần của Giáo phận Phú Cường.
Về nhu cầu của người Công Giáo là nơi phượng tư (nhà thờ). Chính nơi nầy giúp cho người tín hữu thường xuyên đến cầu nguyện, sám hối, định tâm hướng thiện và trở nên người tốt. Điều nầy rất lợi cho xã hội. Một nhà thờ được dựng lên có khả năng xoá bõ hẳn nhiều nhà tù.
Giáo dục được một người trở nên tốt là đồng nghĩa sản sinh một thế hệ tốt tiếp theo. Nên rất cần những cơ sở thờ phượng ở những nơi có đông dân cư sinh sống, như khu công nghiệp, khu dân cư mới….
Di dân (dân nhập cư) là nguồn lợi tức không đồng vốn. Giúp cho di dân ổn định cuộc sống thì sản phẩm xã hội sẽ tăng.
Tỉnh Bình Dương đang có nhiều khu công nghiệp, có nhiều dân nhập cư, lương cũng như giáo đến từ nhiều miền khác nhau của đất nước. Do đó, vấn đề dân nhập cư cũng là một bài toán ẩn tiềm nhiều phức tạp! Sự có mặt của tôn giáo trong lúc nầy cũng rất cần thiết cho sự cải thiện xã hội.
Chúa Giêsu đã từng thốt lên với Cha của Ngài: “Ut sint unum - Xin cho tất cả họp nhất”.
KÍNH chúc Đại hội thành công, thành công với mục tiêu cao hơn … xa hơn... VÀ… tốt hơn…"
Mới đây chừng vài tháng, tôi đến thăm cha, cha hỏi thăm tôi đủ thứ về sức khỏe, về công việc, về đời sống, về tương quan... Cha còn gởi lời thăm đến ông bà cố của tôi. Nhắc lại vài kỷ niệm trong quá khứ, cha lại tiếp tục ân cần động viên và tỏ dấu vui mừng khi nghe tôi nói về những điều tích cực.
Tôi chân thành thưa với cha: "Con không còn sợ làm linh mục như những ngày đầu con đến với cha. Ngày đó, nếu không có cha giúp, con không biết bây giờ mình ra sao".
Cha Micae ôn tồn và khiêm tốn đáp lại: "Ơn Chúa hết. Không có ơn Chúa, làm gì tụi mình còn đây".
Tuy phải ngồi xe lăn, hơi gầy hơn, có bệnh nền và đã gần 83 tuổi, nhưng cha Micae vẫn còn khỏe mạnh và minh mẫn. Vậy mà chỉ với con vi trùng vô hình, đã có thể cướp mất sự sống của cha.
Kính thưa cha Micae, người thầy của riêng con, con yêu mến cha, con tưởng nhớ cha. Nghe tin cha đã bình yên ngơi nghỉ, con xin viết vội vài dòng để bày tỏ lòng biết ơn và niềm thương cảm của con dành cho cha.
Phận làm con, chúng con chỉ còn biết dâng lời cầu nguyện cho cha. Xin Chúa luôn ấp ủ cha trong tình thương của Ngài. Xin Chúa dìu cha vào thiên đàng như xưa người trộm lành đã hạnh phúc và hãnh diện tháp tùng với Chúa vào thiên đàng vậy.
Trước tòa Chúa, xin cha thương cầu nguyện cho chúng con với. Xin Cha hãy tiếp tục đồng hành cùng giáo phận, như xưa, khi còn hoạt động, cha đã không mệt mỏi để xây dựng giáo phận dù thời chiến hay thời bình, dù miền đồng bằng hay vùng kinh tế mới, dù trải qua bao nhiêu lần bỉ cực hay thảnh thơi, dù còn hoạt động hay những năm tháng hưu dưỡng...
Chúng con kính chào từ biệt cha. Hẹn một ngày, chúng ta lại gặp nhau trong Nước Chúa, Nước Hằng Sống, Vĩnh Phúc và Bình An!
La Vang 2022 - Rước Kiệu và Thánh Lễ mừng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
TGP Huế
22:00 14/08/2022
Văn Hóa
Tiếng Chào Xưa Đi Cùng Năm Tháng
Sơn Ca Linh
09:03 14/08/2022
(Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1,44-45)
“Một tiếng chào cao hơn mâm cổ”,
Người ta vẫn thường nói đó sao !
Hai ngàn năm thăng trầm mấy độ,
Hôm nay về nghe chuyện “Tiếng Chào” !
Tiếng chào xưa đi cùng năm tháng,
Của người thôn nữ Maria.
Tiếng chào mang âm thanh rất lạ,
Vọng qua miền sơn cước Giuđêa !
Như Tin Mừng Luca đã kể:
Mẹ vào nhà Gia-ca-ri-a,
Cất tiếng chào Ê-li-sa-bét,
Bỗng dưng điều lạ đã xảy ra...
Tiếng chào sao ấm êm hồn hậu,
Huyền nhiệm Thần Linh Chúa dâng cao !
Trong dạ chị thai nhi bừng nhảy,
Lạ thay vừa nghe tiếng Em chào !
Thì ra Em là người có phúc,
Bởi vì Em là kẻ đã tin,
Em đã cưu mang Lời vinh phúc,
Nên chi lòng chị ngợp Thánh Linh !
Và sau “tiếng chào” thân thương ấy,
Đã vang lên một khúc “huyền ca”,
Vâng, bài ca kinh Magnificat,
Hai ngàn năm vẫn mãi ngân xa !
Tiếng chào, vâng tiếng chào của Mẹ,
Đã mang theo biển phúc sông ân.
Không chỉ riêng nhà Giacaria đó,
Mà muôn thế hệ cõi gian trần !
Căn hộ Ukraina chờ bước Mẹ,
Thiếu phụ Tân Cương mãi xuyến xao…
Bao tiếng thai nhi đang buồn khóc,
Cần biết bao nhiêu tiếng Mẹ Chào !
Mẹ ơi, một lần thăm viếng nữa,
Về trên lối cũ với đường xưa.
Vẫn nẻo trần gian, đường cát bụi,
Thương đau, khổ lụy mãi dư thừa !
Mẹ về xin mang lời xưa đó,
Lời chào nguyên vẹn của Thánh Linh,
Lời đã hóa thân thành máu thịt,
Lời mang trọn cả một khối tình !
Ngày nay dẫu đất trời cách biệt,
Và Mẹ đang ngự chốn thiên đàng.
Nhưng trong cõi hiệp thông Nhiệm Thể,
Mẹ vẫn hằng chăm sóc đỡ nâng !
Trần gian mong tiếng chào của Mẹ,
Để muôn mái ấm ngập niềm vui,
Để vạn sinh linh hòa khúc hát,
“Magnificat” rợp đất trời !
Sơn Ca Linh (Mẹ Về Trời 2022)
Jacques Maritain triết gia
Vũ Văn An
19:49 14/08/2022
Theo Wikipedia, quan tâm và công trình của Maritain bao trùm nhiều khía cạnh của triết học; thẩm mỹ học, lý thuyết chính trị, triết lý về khoa học, siêu hình học, bản chất giáo dục, phụng vụ và giáo hội học.
Tiểu sử
Về cuộc đời ông, chúng tôi xin dựa vào New Catholic Encyclopedia để trình bầy một số khía cạnh. Ông sinh tại Paris ngày 18 tháng 11 năm 1882, qua đời tại Toulouse ngày 28 tháng 4 năm 1973, thọ 90 tuổi.
Maritain là con trai của Paul Maritain, một luật sư, và Geneviève Favre, con gái của Jules Favre (một trong những người thành lập nền Đệ tam Cộng hòa Pháp). Ông lớn lên trong một môi trường Thệ phản cấp tiến, và được giáo dục tại Lycée Henri IV (1898–99) và tại Sorbonne, nơi ông chuẩn bị lấy bằng cử nhân về triết học (1900–01) và các khoa học tự nhiên (1901–02). Thoạt đầu, lưu ý tới triết lý của Spinoza, nhưng không lâu sau đó, sớm chịu ảnh hưởng của các giáo sư xác tín rằng chỉ có khoa học mới có thể cung cấp câu trả lời cho tất cả các vấn nạn về thân phận con người.
Tại Sorbonne, Maritain gặp một nữ sinh viên người Nga gốc Do Thái, Raïssa Oumansoff, người sẽ chia sẻ cuộc sống và cuộc tìm kiếm sự thật của ông. (Hơn 50 năm sau, vào năm 1954, Jacques viết: “sự trợ giúp và gợi hứng của Raïssa yêu quý của tôi đã thâm nhập trọn cuộc sống của tôi và tất cả công việc của tôi. Nếu có một điều tốt nào trong đó mà tôi đã làm được, thì đó là công lao của nàng, sau Thiên Chúa.'') Jacques và Raïssa đính hôn vào năm 1902.
Ngay sau đó ít lâu, vì chủ nghĩa duy khoa học của các giáo sư đã để lại cho họ một cảm thức sâu xa về sự vô nghĩa của đời sống, họ đã trải qua giai đoạn trầm cảm. Nhờ sự thúc giục của một người bạn, Charles Péguy, Jacques và Raïssa tham dự các giảng khóa của Henri Bergson tại Collège de France (1903–04); Triết lý của Bergson đưa ra một giải pháp thay thế cho chủ nghĩa duy vật khoa học và trong một thời gian, Jacques đã bị thu hút bởi chủ nghĩa Bergson. Năm 1904 Jacques và Raïssa kết hôn và nhờ ảnh hưởng của một người bạn khác, Léon Bloy, đã được tiếp nhận vào Giáo Hội Công Giáo ngày 11 tháng 6 năm 1906. Vài tháng sau, vào tháng 8, vợ chồng Maritain di chuyển đến Heidelberg, nơi Jacques học sinh học dưới sự dìu dắt của Hans Driesch (1906–08).
Năm 1908, Jacques và Raïssa, cùng với em gái Véra của Raïssa, trở về Pháp. Véra đã sống với vợ chồng Maritain liên tục cho đến khi cô qua đời. Trong một vài tháng sau đó, theo gợi ý của Raïssa, Jacques bắt đầu đọc một số tác phẩm của Thánh Tôma Aquinô; trước đó, trong thời gian dưỡng bệnh, chính Raïssa đã được Cha Humbert Clérissac, một cha Dòng Đa Minh, dẫn nhập vào các công trình của Thánh Tôma. Jacques mô tả hiệu quả của việc đọc cuốn Summa Theologiae (Tổng luận Thần học) của Thánh Tôma như một “cơn lũ sáng láng” và dứt khoát từ bỏ học thuyết Bergson.
Năm 1912, Maritain bắt đầu giảng dạy tại Lycée Stanislaus. Trong tác phẩm triết học ban đầu của ông (thí dụ: ‘‘Khoa học Hiện đại và lý trí’’ 1910, và “triết học Bergson”, 1913), ông đã tìm cách bênh vực triết học của Thánh Tôma chống các đối thủ Bergson và thế tục của nó. Ông sớm được bổ nhiệm làm Trợ lý Giáo sư tại Học Viện Công Giáo Paris (gắn liền với Ghế Lịch sử Triết học Hiện đại), trở thành Giáo sư đầy đủ vào năm 1921 và, vào năm 1928, được bổ nhiệm giữ Ghế Luận lý học và Vũ trụ học, ghế mà ông nắm giữ cho đến năm 1939.
Bắt đầu từ giữa những năm 1920, Maritain đã khai triển mối quan tâm mạnh mẽ đối với việc áp dụng triết học vào các mối quan tâm xã hội.
Thoạt đầu bị thu hút bởi phong trào xã hội L’ACTION FRANÇAISE, ông đã rời bỏ nó khi Giáo Hội Công Giáo kết án nó. Các ý tưởng của Maritain đặc biệt gây ảnh hưởng ở châu Mỹ Latinh và phần lớn do nền triết lý chính trị của ông, ông đã bị tấn công từ cả cánh tả lẫn cánh hữu, ở Pháp và ở nước ngoài. Các giảng khóa ở Châu Mỹ Latinh vào năm 1936 dẫn đến việc ông được bổ nhiệm làm thành viên hàm thụ của Hàn lâm viện Văn chương Brazil, nhưng cũng đã trở thành đối tượng cho một chiến dịch gièm pha.
Bắt đầu từ tháng 12 năm 1932, Maritain đi du lịch hàng năm qua Bắc Mỹ, thường dạy ở Toronto tại Viện (sau này là Viện Giáo hoàng) Trung cổ Học. Sau các giảng khóa của ông ở Toronto lúc đầu năm 1940, ông chuyển đến Hoa Kỳ và đến tháng 6, quyết định ở lại đây. Trong Thế Chiến thứ hai, ông đã dạy tại Princeton (1941–42) và tại Đại học Columbia (1941–44). Ông đã có công trong việc thành lập một trường đại học Pháp lưu vong ở New York — École Libre des Hautes Études — và tích cực trong nỗ lực chiến tranh, ghi âm các chương trình phát sóng dành cho nước Pháp bị chiếm đóng.
Tháng 12 năm 1944, Maritain được bổ nhiệm làm đại sứ Pháp tại Vatican, và đã tham gia vào các cuộc thảo luận dẫn đến việc soạn thảo Tuyên ngôn chung của Liên hiệp quốc về Nhân quyền. Sau khi hoàn thành việc bổ nhiệm này vào năm 1948, Maritain trở lại Princeton với tư cách giáo sư ưu trí, nơi ông giảng dạy hàng năm về các chủ đề trong triết học đạo đức và chính trị, mặc dù trong mùa hè ông thường xuyên trở lại Pháp để trình bầy các khóa học ngắn về triết học — nhất là là tại L’Eau vive. Một vài tháng sau cái chết của Véra, vào ngày 1 tháng 1 năm 1960, Jacques và Raïssa trở về Pháp. Nhưng chính Raïssa nhanh chóng lâm bệnh, và qua đời vào ngày 4 tháng 11 năm 1960. Jacques chuyển đến Toulouse, sống với một dòng tu, Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu. Ông vẫn yêu mến các Tiểu Đệ từ lâu, những người theo đuổi một cuộc sống về cơ bản có tính chiêm niệm giữa trần thế và ''ở cốt lõi quần chúng''; ông đã tham dự thánh lễ thành lập của họ ở Vương cung thánh đường Sacré-Coeur vào năm 1933, và ngay từ đầu đã có ảnh hưởng lớn đến việc đào tạo trí thức và tâm linh của họ.
Chính trong ‘‘tình huynh đệ’’ ở Toulouse này mà Maritain đã viết cuốn sách nổi tiếng và gây tranh cãi của mình “Người nông dân Garonne” về những gì ông coi như một số các bối rối trong thế giới hậu Công đồng Vatican II. Ông đã hoàn thành một số cuốn sách khác— Thiên Chúa và Việc Cho phép điều ác, Về Ân sủng và Nhân tính của Chúa Giêsu, và Về Giáo hội của Chúa Kitô: Ngôi vị của Giáo hội và Nhân viên của Giáo hội.
Năm 1970, ông xin gia nhập dòng này, và qua đời tại Toulouse ngày 28 tháng 4 năm 1973. Ông được chôn cất cùng với Raïssa ở Kolbsheim, Alsace, Pháp.
Công trình và tư tưởng
Cũng theo New Catholic Encyclopedia, trong nhiều cuốn sách, bài báo và các bài giảng của mình, Maritain đã phát triển và đào sâu các lý thuyết cổ điển của triết học Tôma. Ông nhấn mạnh rằng các triết gia Công Giáo phải làm nhiều hơn, thay vì chỉ lặp lại quan điểm của Thánh Tôma và chính ông đã hết sức cố gắng giải quyết các vấn đề được triết học và văn hóa đương thời nêu lên, bằng cách trình bày các hiểu biết thông sáng của Thánh Tôma một cách độc đáo. Dù nguồn cảm hứng sâu sắc nhất cho nhiều ý tưởng của Maritain là công trình của Thánh Tôma, nhận thức luận và thẩm mỹ học của ông cho thấy nhiều ảnh hưởng khác, đặc biệt của thánh Gioan Thánh Giá. Maritain không bao giờ thay đổi niềm tin rằng người ta phải tìm trong tư tưởng của Thánh Tôma các nguyên tắc cho một nền siêu hình học thực tiễn và hiện sinh và các cơ sở của nền triết học chính trị và đạo đức biết tôn trọng phẩm giá của con người và mối quan hệ của họ với Thiên Chúa.
Trong suốt diễn trình làm việc của ông, Maritain liên tục kêu gọi sự chú ý đến việc trong mọi khía cạnh của nền văn hóa hiện đại—nghệ thuật, thi ca, khoa học, triết học, và thậm chí cả trong lĩnh vực đời sống thiêng liêng — có một prise de conscience, một sự trưởng thành trong ý thức về chính mình.
Ông thấy việc phấn đấu để được tự chủ nói trên và một bản sắc trọn vẹn hơn như nét đặc trưng của thời đại hiện đại; đồng thời, ông phàn nàn việc mất đi cảm thức hiện hữu và cảm thức yêu thương trong cuộc sống hiện đại. Mặc dù Maritain luôn đưa ra nhiều lời chỉ trích sắc cạnh đối với nền văn hóa hiện đại (thí dụ: trong cuốn Antimoderne, năm 1922), ông thừa nhận và nhấn mạnh nhiều hơn tới các đóng góp tích cực của nó. Nhiệm vụ phía trước cho Các triết gia Kitô giáo tương lai, như ông vốn hình dung, là phải ý thức được sứ mệnh của họ, các nguồn lực của họ, và phương pháp luận của họ và tầm quan trọng của việc khôi phục một nền triết lý về hữu thể và một nền triết lý xã hội và chính trị cởi mở đối với sứ điệp Tin Mừng về tình yêu.
Triết học Luân lý, Xã hội, Chính trị.
Trong cuốn Triết học Luân lý, Maritain trở về với các triết gia luân lý vĩ đại trong quá khứ và đánh giá các vấn đề được họ coi là nền tảng trong đạo đức học. Trong cuốn Neuf leçons sur la Philosophie [Chín bài học triết học] của ông, và cuốn di cảo của ông La loi naturelle ou loi non-écrite [Luậ tự nhiên hay luật bất thành văn] (các giảng khóa được trình bầy, vào năm 1949 và 1950, tại L’Eau vive, và cùng với nhau, sẽ là cơ sở cho tập dự kiến thứ hai của Triết học Luân lý), Maritain đã cung cấp một giải trình tích cực về một lý thuyết luân lý, dựa trên luật tự nhiên, nhưng vừa mang tính triết học đích thực vừa hoàn toàn phù hợp với truyền thống Kitô giáo.
Trong Chủ nghĩa Nhân bản Toàn diện, Maritain đã đưa ra một hiến chương cho nền triết học xã hội Kitô giáo. Bắt đầu với hoàn cảnh cụ thể của con người trước số phận của họ, Maritain đã hình dung ra một hình thức văn minh sẽ được đặc trưng bởi một chủ nghĩa NHÂN BẢN toàn diện qui thần đối lập với qui nhân, và cố gắng hướng tới lý tưởng của một cộng đồng đích thực bằng cách biểu lộ sự tôn trọng đối với nhân phẩm và các nhân quyền. Trong tác phẩm này và các tác phẩm khác (Tự do và Thế giới Hiện đại, Kitô giáo và Dân chủ, Các Quyền của Con người và Luật Tự nhiên), Maritain kêu gọi một chủ nghĩa nhân bản Kitô giáo để đạt được mục tiêu một Thế giới Kitô giáo Mới. Trong cuốn Con người và Nhà nước, ông đã định nghĩa lại các khái niệm chính trị căn bản — thí dụ: bộ phận chính trị, nhà nước, nhân dân và chủ quyền — và bảo vệ các nguyên tắc và định chế dân chủ cho tất cả các quốc gia. Để chứng minh một số quyền căn bản đã được mọi người công nhận, ông chỉ ra thỏa thuận chung về những quyền đó được tìm thấy trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948. Maritain công nhận quyền của người lao động cũng như quyền của nhân vị và quyền công dân.
Xuyên suốt đạo đức học và triết học xã hội và chính trị của Maritain, ta thấy chủ đề quán xuyến TỰ DO. Ông hiểu ''tự do'' không như phóng túng, mà là sự phát triển đầy đủ của nhân vị phù hợp với bản chất của họ— đặc biệt, đạt được sự hoàn thiện về đạo đức và tâm linh vốn là ''lợi ích chung.'' Trong các công trình như Ngôi vị và Lợi ích chung, Maritain phân biệt giữa hữu thể nhân bản như một cá nhân và như một NGÔI VỊ. Hữu thể nhân bản là những cá nhân bao lâu họ là thành phần của trật tự vật chất, xã hội, và chịu trách nhiệm đối với trật tự này. Tuy nhiên, vì họ là thành phần của trật tự tâm linh, họ cũng là các ngôi vị. Ngôi vị là một tổng thể, có phẩm giá, ‘‘phải được đối xử như một cứu cánh’’ và có số phận siêu việt. CHỦ NGHĨA NHÂN VỊ của Maritain là via media (con đường trung dung) giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể, và đã có ảnh hưởng trong các tác phẩm của Edith Stein (Thánh Teresa Benedicta) và Karol Wojtyła (Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II).
Nhận thức.
Maritain cho rằng, vì nhân loại hướng tới tự do, nên không có gì ngạc nhiên khi mục tiêu chính của giáo dục là chinh phục tự do nội tâm (Giáo dục đang ở Ngã tư đường). Tự do như vậy là tự do hoàn thành và mở rộng và tương tự như những gì được hưởng bởi những người hợp nhất với Chúa trong PHÚC KIẾN (Beatific Vision). Đối với Maritain, theo đuổi tự do cao nhất và chiêm niệm cao nhất chỉ là là hai khía cạnh của cùng một mưu cầu (Confession de foi). Cuộc mưu cầu khôn ngoan và tự do này là mục tiêu của ông.
Trong cuốn The Degrees of Knowledge [Các mức độ nhận thức], Maritain đã khảo sát một loạt vấn đề nhằm chứng minh tính đa dạng và tương thích yếu tính của các lĩnh vực nhận thức khác nhau, từ khoa học và triết học đến đức tin và huyền nhiệm tôn giáo.
Ông lập luận rằng nhận thức có nhiều trật tự khác nhau và bên trong các trật tự này, các mức độ khác nhau được xác định bởi bản chất của đối tượng được biết và liên quan tới "mức độ trừu tượng hóa". Tuy nhiên, tất cả đều có liên quan hữu cơ. Maritain gọi quan điểm của chính ông là ''chủ nghĩa hiện thực phê phán'', và chủ trương rằng, bất chấp sự khác biệt giữa chúng, CHỦ NGHĨA KANT, CHỦ NGHĨA DUY TÂM, CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG, VÀ CHỦ NGHĨA DUY NGHIỆM tất cả đều phản ảnh ảnh hưởng của CHŨ NGHĨA DUY DANH (NOMINALISM) — mà cho rằng các khái niệm phổ quát đều do tâm trí con người sáng tạo ra và đều không có nền tảng trong thực tại.
Trong suốt các trước tác của ông về triết học lý thuyết, và đặc biệt trong cuốn Dẫn nhập vào Siêu hình học và cuốn Sự Hiện hữu và Thể Hiện hữu, có một sự nhấn mạnh tới đặc tính hiện sinh của một triết lý hiện thực về hữu thể; trong quan điểm của Maritain, nhận thức cũng như tình yêu đều dìm mình đang hiện hữu.
Giống như Thánh Tôma, Maritain cho rằng không có xung đột giữa đức tin và lý trí đích thực, niềm tin tôn giáo cởi mở đối với việc thảo luận thuận lý và sự hiện hữu của Thiên Chúa và một số niềm tin tôn giáo căn bản có thể được chứng minh về mặt triết học. Maritain cho hay, có nhiều cách để con người tiếp cận Thiên Chúa, nhưng trong cuốn Các Phương pháp Tiếp cận với Thiên Chúa, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khẳng định lại năm con đường của Thánh Tôma cho tâm trí hiện đại và của việc khám phá các phương pháp tiếp cận mới dựa trên các kinh nghiệm thi ca và cụ thể khác. Ngoài việc phát triển ‘con đường thứ sáu’, Maritain lập luận rằng các hữu thể nhân bản cũng có một nhận thức tiền triết học hoặc trực giác về Thiên Chúa, một nhận thức, dù hữu lý, nhưng không thể diễn đạt thành lời.
Nghệ thuật và Thi ca.
Trong các lĩnh vực nghệ thuật và thi ca được ông suy tư trong suốt cuộc đời của ông, công trình chính của Maritain chắc chắn là cuốn Trực giác Sáng tạo trong Nghệ thuật và Thi ca.
Ở đây, ông đã tìm cách làm sáng tỏ bản chất ‘‘mầu nhiệm của thi ca'' và diễn trình sáng tạo bằng các nguồn của nó trong ''vô thức tâm linh''. Trong cuốn sách này, và trong cuốn Nghệ thuật và Chủ nghĩa Kinh viện, Maritain thường xuyên dựa vào ý kiến nghệ thuật và thi ca của Raïssa, bà vốn là một nghệ sĩ và thi sĩ.
Ảnh hưởng.
Vào thời điểm ông qua đời, Maritain đã có thể là triết gia Công Giáo nổi tiếng nhất trên thế giới.
Bề rộng công trình triết học của ông, ảnh hưởng của ông đối với các giáo huấn xã hội của Giáo Hội Công Giáo, và sự hăng hái của ông bảo vệ nhân quyền khiến ông trở thành một trong những nhân vật chính của thời đại ông.
Triết lý của Maritain được đánh dấu bằng một thúc đẩy tôn giáo sâu sắc và đôi khi mang một chiều hướng thần học và thậm chí chiêm niệm. Như Yves Simon đã chỉ ra, ơn gọi của ông là ơn gọi của một triết gia Kitô giáo nhằm khảo sát các vấn đề triết học mà không mất tầm nhìn về mối liên hệ của chúng với đức tin và thần học. Maritain ''ít bị mê hoặc'' bởi kiểu nói ''triết học Kitô giáo,'' nhưng chấp nhận khái niệm này là hợp pháp bao lâu nó chỉ một triết lý hiện hữu trong bầu khí đức tin minh nhiên. Tuy thế - và đây là một điểm mà bản thân Maritain nhấn mạnh trong các tác phẩm sau này của ông — tác phẩm của chính ông có tính triết học, không phải thần học; nó theo đuổi cùng đích triết học bằng phương tiện của các phương pháp triết học chặt chẽ. Công trình của ông nhằm làm chứng nhân danh quyền tự trị của triết học và điều tra "mầu nhiệm của hiện sinh tạo dựng.” Đồng thời, ông nói, triết học không thể đứng cô lập khỏi cuộc sống và đức tin cụ thể. Nó đạt được các mục tiêu của nó chỉ khi nào hoàn toàn kết hợp với mọi nguồn ánh sáng và kinh nghiệm trong tâm trí con người. Chỉ nền triết lý Kitô giáo nào quan niệm và theo đuổi một lý tưởng như vậy mới có khả năng của ‘‘cứu chuộc được thời gian và cứu chuộc được mọi cuộc tìm kiếm sự thật con người.''
Công trình triết học của Maritain đã được dịch sang khoảng 20 ngôn ngữ. Sự nổi tiếng của nó một phần, do nó được viết cho một độc giả tổng quát, hơn là học thuật. Một số trước tác của Maritain mang tính bút chiến và vì mối quan tâm của ông thường là giải quyết các vấn đề chuyên biệt thuộc thời đại ông, nên thỉnh thoảng chúng có giọng điệu của thời đại ấy. Trong thời đại của ông, người ta tranh cãi xoay quanh các chủ đề sau đây một cách đặc biệt: sự khác biệt giữa tính ngôi vị [personality] và tính cá nhân [individuality] trong mối tương quan với lợi ích chung (thí dụ: Charles de Koninck), sự phân biệt giữa luận lý kinh nghiệm học và bản thể học trong mức độ trừu tượng đầu tiên (xem cuốn TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC), tính độc lập của triết học luân lý đối với thần học, và chính khái niệm triết học Kitô giáo (thí dụ: Étienne GILSON). Chủ đề khác mà Maritain đã có những đóng góp có giá trị bao gồm thẩm quyền và tự do trong một xã hội đa nguyên, bản chất và việc thực hiện ý chí tự do, trực giác hiện sinh về tính chủ quan, hữu thể có ý hướng tình yêu, và loại suy của hữu thể và các hoàn hảo của nó — điều mà Maritain coi như một nguyên tắc hoạt động trong các khu vực đa dạng nhất của thực tại và tư tưởng. Bản thân Ông hy vọng sẽ đóng góp phần nào vào việc hiểu sâu hơn về mầu nhiệm của điều ác (Thiên Chúa và Việc Cho phép Điều ác).
Tuy nhiên, không dễ đặt tư tưởng Maritain bên trong lịch sử triết học thế kỷ 20. Rõ ràng, tác động công trình của ông là mạnh nhất trong những quốc gia mà Đạo Công Giáo có ảnh hưởng. Mặc dù triết lý chính trị của ông đã dẫn ông, ít nhất là trong thời ông, đến chỗ được coi là một người tự do và thậm chí là một nhà dân chủ xã hội, ông đã tránh xa chủ nghĩa xã hội và, trong The Peasant of the Garonne [Người nông dân Miền Garonne], ông là nhà phê bình rất sớm về nhiều cải cách tôn giáo theo sau Công đồng Vatican II. Do đó, ông thường bị những người theo chủ nghĩa tự do đương thời coi là quá bảo thủ, và bị nhiều người bảo thủ coi là quá tự do.
Một lần nữa, mặc dù thường được coi là một người theo chủ nghĩa Tôma, nhưng theo Gilson, ‘‘chủ nghĩa Tôma’’ của Maritain thực sự là một NHẬN THỨC LUẬN và do đó, hoàn toàn không phải là một chủ nghĩa Tôma thực sự.
Từ năm 1958, Trung tâm Jacques Maritain đã hoạt động tại Đại học Notre Dame ở Hoa Kỳ; Cercle d’Études Jacques et Raïssa Maritain, ở Kolbsheim, Pháp, cũng lưu giữ một bộ sưu tập phong phú các bản thảo và đã tích cực xuất bản cả sách lẫn các bài viết về công trình của Maritain và bộ Oeuvres de Jacques et Raïssa Maritain, 15 quyển. (Fribourg, Thụy Sĩ: Éditions Universalitaires, 1982-95). Có một số tạp chí học thuật dành cho công trình của Maritain, chẳng hạn như Études maritainiennes / Maritain Studies, the Cahiers Jacques Maritain (được biên tập bởi Cercle d’Études ở Kolbsheim), và các Notes et documents (trong các ấn bản quốc tế và Brasil). Ngoài Institut International Jacques Maritain (Rome), hiện có một số hai mươi hiệp hội quốc gia họp thường xuyên để thảo luận Công trình của Maritain. Mối quan tâm liên tục tới tư tưởng của Maritain trong thế giới nói tiếng Anh đã dẫn đến việc xuất bản bộ sách gồm 20 tập, bằng tiếng Anh, tựa là The Collected Works of Jacques Maritain (Các tác phẩm được sưu tầm của Jacques Maritain) dưới sự bảo trợ của Nhà xuất bản Đại học Notre Dame.
Kỳ tới: Các đóng góp lớn lao của Jacques Maritain
VietCatholic TV
Bất ngờ: Sau Crimea, lại nổ lớn ở Mariupol. Tướng tá Nga chạy, bỏ rơi lính, Ukraine kêu gọi đầu hàng
VietCatholic Media
03:27 14/08/2022
1. Giới lãnh đạo quân đội Nga bỏ rơi binh sĩ chạy sang tả ngạn sông Dnipro. Ukraine kêu gọi quân Nga đầu hàng
Trong bản báo cáo sáng Chúa Nhật 14 tháng 8, Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết ở phía nam Ukraine, ban lãnh đạo quân đội Nga đã bỏ chạy qua sông Dnipro, khiến các binh sĩ ở hữu ngạn bị bỏ rơi trong bối cảnh đang diễn ra các cuộc tấn công dữ dội của Lực lượng vũ trang Ukraine.
Người đứng đầu quân sự khu vực Mykolaiv, Vitaliy Kim cho biết như trên: “Thật đáng tiếc cho những binh sĩ Nga ngây thơ khi họ bị bỏ rơi ở hữu ngạn sông Dnipro. Toàn bộ ban lãnh đạo của họ đang chạy trốn sang bên kia sông Dnipro.”
Theo ông Vitaliy Kim, lực lượng Nga bị bỏ rơi tốt nhất là nên đầu hàng vì họ không còn nhiều lựa chọn. Lực lượng vũ trang Ukraine đã tấn công cây cầu đường bộ bắc qua con đập ở Nova Kakhovka, nơi mà quân Nga sử dụng để chuyển thiết bị sang hữu ngạn. Trước đó, cầu đường Antonivka bắc qua sông Dnipro ở thành phố Kherson đã bị hư hỏng nghiêm trọng. Cầu Daryiv bắc qua sông Inhulets ở vùng Kherson cũng bị phá hủy.
2. Tiếng nổ mạnh kinh hoàng ở Mariupol
Tại Mariupol, nơi bị quân đội Nga tạm thời chiếm đóng, cư dân địa phương đã báo cáo về một vụ nổ mạnh. Thị trưởng Mariupol lưu vong Vadim Boychenko cho biết
“Một vụ nổ mạnh mẽ ở Mariupol! Lúc 15:40, một tiếng nổ lớn vang lên ở Mariupol bị chiếm đóng. Cả thành phố đều nghe thấy. Cư dân địa phương đã báo cáo điều này. Thông tin chi tiết sẽ được cung cấp sau.”
Mariupol trải qua một trong những thảm họa nhân đạo lớn nhất do sự xâm lược của Nga gây ra. Thành phố gần như bị phá hủy hoàn toàn bởi pháo kích của kẻ thù.
Hiện tại, Mariupol không có nguồn cung cấp điện, nước và khí đốt bình thường. Kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược của Nga, đã có tới 22.000 dân thường thiệt mạng trong thành phố. Hơn 50.000 người đã bị trục xuất sang Nga và các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng tạm thời của vùng Donetsk.
Mariupol đang đứng trước thảm họa môi trường và bùng phát các bệnh truyền nhiễm. Thị trưởng Vadim Boychenko cho biết việc chôn cất hàng loạt thi thể trong các hố nông trên khắp thành phố, và hệ thống thoát nước bị hư hại do bom và hỏa tiễn có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng sức khỏe.
Ông nói thêm rằng mưa mùa hè có nguy cơ làm ô nhiễm nguồn nước khi ông thúc ép lực lượng Nga cho phép người dân rời khỏi thành phố một cách an toàn.
Ngoài thảm họa nhân đạo do những người chiếm đóng và những kẻ cộng tác với người Nga tạo ra, thành phố đang trên đà bùng phát các bệnh truyền nhiễm.
3. Tuyên truyền viên hàng đầu của Putin cảnh báo nước Anh có 'tầm cỡ phù hợp' cho một cuộc tấn công hạt nhân bằng hỏa tiễn siêu thanh Satan-2
Trong chương trình khung giờ vàng trên Kênh 1 của Nga, đầy cường điệu và cuồng loạn, Bộ trưởng Quốc phòng Anh Ben Wallace đã bị đấu tố và bị buộc tội dàn dựng cuộc chiến của Ukraine chống lại Nga, và bị chụp mũ là 'khủng bố quốc tế'.
Một chuyên gia quốc phòng của Putin nhận xét rằng:”'Ben Wallace đang trở nên giống Osama Bin Laden” trong khi các đoạn clip ghi lại cảnh Wallace phát biểu tại Hạ Viện được phát trong hậu cảnh.
Các vụ tấn công nhằm vào Wallace và Anh từ những nhà tuyên truyền có khuôn mặt nhăn nhó thừa nhận rằng cuộc chiến của Nga đang diễn ra tồi tệ, và vũ khí phương Tây đang chứng tỏ là một lợi ích đáng kể cho nỗ lực của Ukraine nhằm đẩy lùi lực lượng của Vladimir Putin.
Cuộc tấn công bằng lời nói diễn ra sau một cuộc tấn công vào Crimea gây hốt hoảng cho Mạc Tư Khoa. Cuộc tấn công cho thấy Kyiv có thể có được khả năng tấn công tầm xa mới với khả năng thay đổi cục diện cuộc chiến.
Đại tá Igor Korotchenko - tổng biên tập tạp chí Quốc phòng Nga - tham gia cuộc tấn công trong chương trình 60 Minutes.
Ông nói: “Chúng tôi thấy cách Ben Wallace, Bộ trưởng Quốc phòng Anh, thúc giục Ukraine tấn công Crimea của Nga. Ông ta tuyên bố rằng bất kỳ mục tiêu nào trên Crimea đều là hợp pháp cho các cuộc tấn công”.
“Đó là một tuyên bố rất nghiêm trọng. Chúng ta thấy sự hợp nhất của Kyiv và London trong hoạt động quân sự và các cuộc tấn công vào các đối tượng của Nga.”
Đại tá Igor Korotchenko, có biệt danh là Vua Nổ, người đã chế ra câu chuyện 100,000 binh sĩ Bắc Hàn sắp tràn vào Ukraine để chiến đấu cho Putin, lại tung ra thêm một tin đồn thất thiệt nữa.
“Có thông tin về một kế hoạch tấn công cây cầu Crimea đang phát triển dưới sự chỉ đạo của Wallace.”
Cây cầu là dự án mơ ước của Putin, và được khánh thành cách đây 4 năm để nối Crimea sáp nhập vào Nga bằng đường bộ và đường sắt. Một cuộc tấn công vào cây cầu sẽ là một đòn giáng mạnh vào nỗ lực chiến tranh của Mạc Tư Khoa, và sẽ cắt Crimea khỏi đất liền Nga.
Korotchenko tuyên bố: “Chúng ta đang nói về các hành động khủng bố quốc tế”.
“Tên Ben Wallace này phải chịu trách nhiệm về lời nói và hành động của mình vì hắn đã trở nên giống Osama Bin Laden.”
Đại tá Igor Korotchenko phác họa kế hoạch tấn công cầu Kerch nối Crimea với lãnh thổ Krasnodar của Nga như sau:
“Là một phần trong hoạt động của Vương quốc Anh với mật vụ của Ukraine, một bệ phóng hỏa tiễn chống hạm được lắp đặt trên một tàu sân bay dưới lá cờ trung lập hướng tới Georgia”.
'Khi họ đi qua nơi có thể tấn công cầu Crimean, hệ thống phát tín hiệu bị đứt và con tàu biến mất khỏi hệ thống giám sát.”
“Nó tấn công cây cầu Crimean, và sau đó hướng đến Georgia”.
'Trên đường đi, mọi bằng chứng đều bị tiêu hủy và đạt được hiệu quả tuyên truyền”.
“Tất nhiên, chúng ta có một hệ thống phòng không đáng tin cậy, nhưng họ hy vọng có thể phá hoại vào ban đêm hoặc trong điều kiện thời tiết xấu.”
Đại tá Igor Korotchenko kết luận rằng Nga đang chứng kiến bàn tay của người Anh hầu như ở khắp mọi nơi và để đối phó cách hay nhất là tiên hạ thủ vi cường: “Anh là một quốc gia có kích thước phù hợp cho một hỏa tiễn siêu thanh Sarmat. Một Sarmat, chỉ một Sarmat thôi là đủ”.
Câu chuyện pháo kích làm sập cầu Crimea của vua nổ Igor Korotchenko chưa gây ra được thiệt hại nào cho Anh quốc đã gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho Nga. Du khách đang nghỉ tại bán đảo đang lũ lượt bỏ chạy vì lo nếu cầu sập, họ không có con đường nào để quay lại Nga.
4. Báo cáo của Cục Tình Báo Bộ Quốc Phòng Anh
Trong bản báo cáo mới nhất, Cục Tình Báo Bộ Quốc Phòng Anh đã nhận định như sau về tình hình ở Kherson.
Hai cây cầu đường bộ chủ yếu dẫn vào vùng lãnh thổ bị Nga chiếm đóng ở bờ tây sông Dnipro ở vùng Kherson hiện có lẽ đã không còn có thể sử dụng được cho mục đích tiếp tế quân sự thiết yếu.
Vào ngày 10 tháng 8, các cuộc tấn công chính xác của Ukraine có khả năng khiến con đường băng qua sông Dnipro tại Nova Kakhovka không thể sử dụng cho các xe quân sự hạng nặng. Trong những ngày gần đây, Nga chỉ thành công trong việc sửa chữa bề ngoài cây cầu đường Antonivsky bị hư hỏng có khả năng vẫn chưa bị phá hủy cấu trúc. Tuần trước, cây cầu đường sắt chính gần Kherson cũng bị hư hỏng thêm. Kể từ cuối tháng 7, Nga đã sử dụng một chiếc phà phao gần cầu đường sắt làm tuyến đường tiếp tế quân sự chính của mình.
Ngay cả khi Nga cố gắng sửa chữa đáng kể các cây cầu, chúng sẽ vẫn là một lỗ hổng quan trọng. Việc tiếp tế trên bộ cho vài nghìn quân Nga ở bờ Tây gần như chắc chắn chỉ dựa vào hai cầu phà phao bắc qua sông. Với chuỗi cung ứng của họ bị hạn chế như thế, khả năng tiếp tế người Nga cố đưa sang bờ tây hầu chắc là một yếu tố thiết yếu trong sức chịu đựng của các lực lượng Nga.
5. Lực lượng Ukraine tấn công các vị trí của Nga ở Nova Kakhovka bị chiếm đóng
Lực lượng vũ trang Ukraine đã tấn công các vị trí của Nga ở Nova Kakhovka bị chiếm đóng ở vùng Kherson, với một đám khói đen được quan sát thấy bốc lên phía trên thành phố.
Serhii Khlan, Phó Chủ tịch Hội đồng Khu vực Kherson, cho biết như trên trong cuộc họp báo vào sáng Chúa Nhật 14 tháng 8.
“Chúng tôi tiếp tục đánh vào các vị trí của Nga ở Nova Kakhovka. Một đám khói có thể được nhìn thấy phía trên thành phố. Chúng tôi tiếp tục đốt những con Orc.” Orc là quái nhân hình người đầu thú, được người Ukraine dùng để ám chỉ quân xâm lược Nga.
Theo Ông Serhii Khlan, lực lượng Ukraine đã tấn công vào nhà máy kỹ thuật điện, nơi Nga chứa các vũ khí, và đạn dược, gây ra vụ nổ kinh hoàng này.
Vào ngày 13 tháng 8, các vụ nổ mạnh cũng được báo cáo ở Mariupol và Melitopol.
6. Zelenskiy nói Avdiivka, Marinka, Pisky, Bakhmut là những điểm nóng ở vùng Donetsk
Tình hình ở khu vực Donetsk vẫn còn khó khăn, với các hành động thù địch căng thẳng nhất diễn ra ở Avdiivka, Marinka, Pisky và Bakhmut.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy cho biết điều này trong bài phát biểu hàng đêm của mình trước quốc dân đồng bào.
“Giao tranh ác liệt vẫn tiếp tục ở Donbas. Các điểm nóng nhất ở tiền tuyến theo hướng này không thay đổi - Avdiivka, Marinka, Pisky, Bakhmut và toàn bộ khu vực liên quan. Nga đã gửi đến đó một lượng quân sự khổng lồ - pháo binh, thiết bị, và con người. Tất cả các hậu vệ của chúng ta ở đó là những người hùng thực sự,” Ông Zelenskiy nói.
Theo ông, lực lượng phòng thủ của Ukraine rất mạnh ở khu vực Kharkiv, và những nỗ lực tấn công của quân xâm lược đều thất bại.
“Cuộc chiến đấu ở phía nam của đất nước cho những tin tin tốt lành về các lực lượng Nga bị loại khỏi vòng chiến và phương tiện của quân đội Nga bị phá hủy. Chúng tôi không để mất một ngày nào - chúng tôi đang làm giảm tiềm năng của quân xâm lược Nga.”
7. Lực lượng Nga tra tấn hơn 1.000 người ở Enerhodar
Kể từ tháng 4, hơn 1.000 người đã phải đi qua các phòng tra tấn của Nga ở thành phố Enerhodar tạm thời bị chiếm đóng ở vùng Zaporizhzhia.
Thị trưởng Enerhodar, Dmytro Orlov cho biết như trên trong cuộc phỏng vấn dành cho Radio NV.
Orlov nói: “Hơn một nghìn người đã phải đi qua những phòng tra tấn này, theo ước tính khiêm tốn”.
Theo ông, một số trong số những người cuối cùng được trả tự do bởi những kẻ xâm lược có vết thương do súng bắn, trong khi những người khác bị thương ở các bộ phận khác nhau trên cơ thể do vũ khí phi sát thương. Có một số phòng tra tấn ở chính Enerhodar và bên ngoài thành phố, nơi áp lực tâm lý và thể chất đè nặng lên những người Ukraine bị bắt cóc. Quân Nga bắt cóc những người có quan điểm thân Ukraine hoặc các nhân viên quản lý và hành chính của thành phố và những người làm việc cho nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia, những người mà họ muốn thuyết phục hợp tác.
Hiện tại, theo thị trưởng, những kẻ xâm lược đang bắt giữ lên đến một trăm con tin. Tuy nhiên, không thể xác định chính xác số người bị bắt cóc, vì người thân của họ không phải lúc nào cũng báo cáo vì sợ bị hại thêm.
8. 20% các đơn vị của Nga ở Ukraine bị xoá sổ
Lực lượng Nga đang chịu tổn thất đáng kể, chủ yếu về nhân lực. 20% số đơn vị vũ trang Nga tham gia chiến đấu ở Ukraine đã bị xoá sổ.
Tổng Tư lệnh Các Lực lượng Vũ trang Ukraine Valerii Zaluzhnyi cho biết như trên sau cuộc điện đàm với Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, Tướng Mark Milley.
“Tôi duy trì các cuộc nói chuyện liên tục với Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, Tướng Mark Milley. Trong cuộc trò chuyện qua điện thoại hôm nay, chúng tôi một lần nữa điểm qua những tổn thất của Nga trong cuộc chiến này. Chúng tôi ghi nhận kẻ thù đang chịu tổn thất đáng kể, chủ yếu về nhân lực – 20% các đơn vị vũ trang Nga tham gia vào các cuộc chiến ở Ukraine đã bị xoá sổ”, tướng Zaluzhnyi nói.
Ngoài ra, Zaluzhnyi cũng thông báo cho Milley về tình hình hoạt động, nhấn mạnh rằng các cuộc chiến đang diễn ra dọc theo 1.300 km giới tuyến. Vị Tổng Tư lệnh nhấn mạnh Ukraine đang rất cần được tăng cường hỏa lực pháo binh. Ông đã đề cập vấn đề này với các đối tác quốc tế một lần nữa.
Trong bản báo cáo sáng Chúa Nhật 14 tháng 8, Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết Lực lượng vũ trang Ukraine đã loại khỏi vòng chiến khoảng 43.400 binh sĩ Nga trong khoảng thời gian từ ngày 24 tháng 2 đến ngày 13 tháng 8, trong đó có 200 người chỉ riêng trong ngày 13 tháng 8.
Phò sinh Ba Lan thành công lớn. Có thể ĐTC sẽ tông du Ukraine trước khi thăm Kazakhstan
VietCatholic Media
05:14 14/08/2022
1. Tại sao Ba Lan đã giảm 90% số ca phá thai hợp pháp
Tờ báo Rzeczpospolita của Ba Lan ngày 30/7 đưa tin 107 ca phá thai hợp pháp đã được ghi nhận ở đất nước hơn 40 triệu dân vào năm 2021, so với 1.076 ca của năm trước, cho thấy mức giảm đến 90%. Điều này là do vào tháng 10 năm 2020, Tòa án Hiến pháp Ba Lan tuyên bố rằng luật năm 1993 cho phép phá thai vì khuyết tật nặng và không thể phục hồi hoặc một căn bệnh nan y đe dọa tính mạng là vi hiến. Urszula Dudziak, phó giáo sư tại Khoa Khoa học Gia đình tại Đại học Công Giáo Gioan Phaolô II ở Lublin, cho biết mặc dù tỷ lệ nạo phá thai được dự đoán sẽ giảm xuống, nhưng con số này có thể tăng trở lại nếu những người ủng hộ sự sống dựa vào “vòng nguyệt quế”. Theo phương ngôn của người Ba Lan dựa vào “vòng nguyệt quế” có nghĩa là ỷ y hay nói văn hoa hơn một chút là ngủ quên trong chiến thắng.
Bà cho biết vẫn cần phải làm nhiều việc, đặc biệt là giáo dục mọi người về “tình yêu thương và trách nhiệm” và về những “định kiến” cũng như một chương trình nhằm đưa ra những chăm sóc trước khi sinh.
Source:Aleteia
2. Đức Thánh Cha Piô thứ 12 là một người bạn lớn của dân Do Thái
Đức Thánh Cha Piô 12 đã giúp che giấu những người Do Thái bị lùng bắt trên khắp nước Ý trong chiến tranh thế giới thứ hai. Người Do Thái, chẳng hạn như Thủ tướng Israel lúc bấy giờ là Golda Meier, đã công nhận điều này.
Chẳng may, có những trào lưu bài Công Giáo, tấn công ngài và cáo buộc rằng vị Giáo Hoàng đã im lặng không quyết liệt chống lại Hitler. Các vở kịch như “The Vicar” của Rolf Hochhuth vào năm 1963, và sau đó là một cuốn sách của John Cornwell vào năm 1999 đã tìm cách bôi nhọ ngài đến mức gọi ngài là “Giáo hoàng của Hitler”.
Trong một bài báo đăng trên Omnes, nhà báo Jose Garcia Peregrin đã nhìn lại cách hình ảnh Đức Thánh Cha Piô 12 bị bôi bẩn và biến thành “huyền thoại đen”. Tuy nhiên, nhà báo muốn nhấn mạnh và ghi nhớ một số sự kiện nhất định, chẳng hạn như việc Đức Piô XII lên án chủ nghĩa Quốc xã, hành động của ngài giúp đỡ người Do Thái; và những phản ứng bạo lực của Đức Quốc xã, là những kẻ đã quyết liệt lên án Đức Giáo Hoàng.
Ngài là “một vị Giáo hoàng không những không im lặng trước nạn diệt chủng, mà còn nỗ lực cứu càng nhiều càng tốt; và là người đã thành công chính xác bằng cách làm như vậy một cách lặng lẽ”
Source:Aleteia
3. Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Ukraine trước khi thăm Kazakhstan
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm Kiev, thủ đô Ukraine, trước cuộc viếng thăm tại Kazakhstan.
Đại sứ Ukraine cạnh Tòa Thánh, ông Andrij Yurash, tuyên bố như trên sau khi được Đức Thánh Cha tiếp kiến riêng tại Vatican, sáng thứ Bảy, ngày 06 tháng Tám vừa qua.
Chưa có tin chính thức nào từ phía Tòa Thánh. Trong một tweet Đại sứ Yurash nói rằng: “Từ bao nhiêu năm nay, nhất là từ đầu cuộc chiến tranh, Ukraine vẫn chờ đợi Đức Giáo Hoàng và vui mừng chào đón ngài, trước khi ngài viếng thăm Kazakhstan”.
Tuyên bố này khẳng định những gì đã được tiên báo, nghĩa là Đức Thánh Cha không thể thăm Kiev sau cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Kirill, Giáo chủ Chính thống Nga tại Nur-Sultan, thủ đô Kazakhstan, ngày 14 tháng Chín, trong Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới kỳ VII. Nói khác đi, đối với Ukraine, một cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại nước này, sau cuộc gặp gỡ với “một trong những người chính ủng hộ cuộc chiến tranh của Tổng thống Putin” sẽ thực là một “làn khói nơi mắt của dân Ukraine”. Vì thế, nên tránh những hiểu lầm và đau buồn, bằng cách làm sao để cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại Ukraine sớm diễn ra.
Cũng qua Twitter, Đại sứ Yurash thuật lại những lời quan trọng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong cuộc tiếp kiến. Ngài nói: “Tôi rất gần gũi với Ukraine và tôi muốn bày tỏ sự gần gũi này qua cuộc viếng thăm của tôi ở Ukraine”.
Cho đến nay, ngày giờ cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại Ukraine chưa được xác định và công bố. Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí đồng hành với Đức Thánh Cha trong chuyến tông đu mới đây tại Canada, Đức Tổng Giám Mục Paul Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh, nói rằng chính tôi cũng chưa biết ngày giờ, chính Đức Giáo Hoàng xác định vấn đề này. Điều chắc chắn là tại Ukraine, Đức Giáo Hoàng sẽ đến bằng xe lửa, như các vị lãnh đạo Âu châu khác, xét vì nếu đi bằng máy bay, sẽ có những vấn đề không vượt qua nổi về an ninh. Do đó có thể là đoàn xe sẽ đi từ Ba Lan hoặc từ Rumani, và có thể chỉ có một nhóm nhỏ các ký giả cùng đi. Nhưng chưa có quyết định gì chắc chắn.
4. Giáo Hội Á Căn Đình khởi động cuộc hành hương để thu hút sự chú ý đến cuộc khủng hoảng ma tuý
Một nhóm “linh mục ổ chuột” ở Á Căn Đình đã khởi động một cuộc hành hương kéo dài một năm để làm nổi bật cuộc khủng hoảng nghiện ma túy của quốc gia, sử dụng hình ảnh của Đức Mẹ Lujan,quan thầy của Á Căn Đình.
Nhóm các linh mục Đại Gia Đình Chúa Kitô, gọi tắt là FGHC, đã khởi động dự án vào ngày 7 tháng 8 từ đền thánh Đức Mẹ San Cayetano ở Buenos Aires. Những người hành hương sẽ mang một bản sao của ảnh Đức Mẹ qua các trung tâm cai nghiện ma túy Hogar de Cristo có mặt trên khắp Á Căn Đình.
Thánh lễ khai mạc cuộc hành hương được cử hành bởi Đức Giám Mục Phụ Tá Gustavo Oscar Carrara, Đại diện Giám mục cho Khu ổ chuột và Khu dân cư nổi tiếng của Buenos Aires và phó chủ tịch Caritas Á Căn Đình.
Tuy nhiên, bài giảng đã được giảng bởi Cha José María “Pepe” Di Paola, một trong những linh mục khu ổ chuột, và là chủ tịch của Liên Đoàn Các Đại Gia Đình Chúa Kitô, nơi mà ngài gọi là những nơi “thể hiện lòng trắc ẩn như Chúa Giêsu đã yêu cầu chúng tôi, những nơi mà chúng ta đón nhận những người mà xã hội loại bỏ. “
“Chúng ta muốn có một Á Căn Đình nơi không có ai chết vì nghiện ma túy, và chúng ta sẽ đi khắp Á Căn Đình với hình ảnh Đức Mẹ hành hương với chúng ta”.
Di Paola nhấn mạnh rằng nhiều người trong số những người tham gia cuộc đi bộ là những người trẻ đã khỏi nghiện ma túy với sự hỗ trợ của hàng chục trung tâm mà Giáo Hội Công Giáo đã thành lập ở Á Căn Đình, theo yêu cầu cụ thể của Đức Tổng Giám Mục Jorge Mario Bergoglio, ngày nay được biết đến nhiều hơn với danh xưng Đức Thánh Cha Phanxicô.
“Chúng ta bắt đầu cuộc đi bộ này để truyền hy vọng tương tự cho những người trẻ khác chưa có được ngày hôm nay”
Cha Di Paola nhấn mạnh rằng: “Chúng ta muốn một đất nước không có ma túy. Chúng ta muốn một đất nước tràn đầy hy vọng cho những người trẻ tuổi. Chúng ta không muốn có những đứa trẻ thất bại vì ma túy”.
Hogar de Cristo hay Nhà Chúa Kitô đầu tiên được khánh thành trong lễ Phục sinh năm 2008 bởi Đức Tổng Giám Mục Bergoglio, người trong Thánh lễ Tiệc ly hôm Thứ Năm Tuần Thánh, đã rửa chân cho một nhóm thanh thiếu niên đã trở thành nạn nhân của Paco, là loại ma túy bất hợp pháp rẻ nhất đầy rẫy trên đường phố của Buenos Aires.
Paco là những gì còn sót lại từ các nhà bếp sản xuất cocaine cho Hoa Kỳ và Âu Châu và là một hỗn hợp gây nghiện cao của cocaine thô được trộn với hóa chất, keo dán, thủy tinh nghiền và thuốc diệt chuột.
Cha Di Paola nói: “Chúng ta sẽ kỷ niệm vào tháng Ba tới đây, khi cuộc hành trình xuyên suốt đất nước này kết thúc, 15 năm cuộc đời và 10 năm hiện diện của Đức Giáo Hoàng Phanxicô của chúng ta”.
Hàng nghìn nam nữ thanh niên - một số trẻ mới 9 tuổi - nghiện loại ma túy được biết đến ở địa phương là muertos vivientes, tức là kẻ chết biết đi.
Đi cùng với hình ảnh của Đức Mẹ Lujan sẽ là một lá cờ mô tả nhiều trẻ em và thanh thiếu niên đã thất bại trong trận chiến với ma túy, như một lời nhắc nhở về những gì họ đang hướng tới: “một Á Căn Đình nơi chúng ta có thể ngăn chặn việc sử dụng, nhưng cũng giúp đỡ những người đã chìm trong ma túy. chúng ta muốn họ nhận được những gì Chúa Giêsu yêu cầu ở chúng ta: đó là trở thành Người Samaritanô nhân hậu, người nâng đỡ những người đã ngã xuống, đang ở trong trái tim của mọi người dân Á Căn Đình”
Ngày được chọn để khởi động cuộc hành hương - ngày 7 tháng 8, ngày lễ Thánh Cajetan, được biết đến ở Á Căn Đình là Thánh Bảo trợ của Công việc và Bánh mì - không phải là ngẫu nhiên.
Vị linh mục gọi ngôi đền là “nơi tốt nhất để bắt đầu cuộc hành hương này để Thánh Cajetan lắng nghe sự tuyệt vọng của biết bao thanh niên chìm trong ma túy, những người không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, sự tuyệt vọng của những người mẹ không tìm thấy nơi chốn. hoặc cách để cho con cái họ lý do để sống với niềm vui và hy vọng. chúng ta biết ngài sẽ lắng nghe họ. Ngài sẽ lắng nghe tất cả chúng ta “.
Trước đó trong ngày, Đức Hồng Y Mario Aurelio Poli, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô lựa chọn làm người kế vị tại Buenos Aires, đã cử hành thánh lễ cho hàng ngàn người hành hương.
Source:Crux
Nga tuyệt vọng ở Kherson: Ukraine cắt hết đường tiếp tế. Sợ nhà máy hạt nhân nổ tung, dân bỏ chạy
VietCatholic Media
15:32 14/08/2022
1. Dân chúng lũ lượt bỏ chạy khỏi Zaporizhzhya và Enerhodar
Trong cuộc họp báo chiều Chúa Nhật 14 tháng 8, tại Trung Tâm Thông Tin Kyiv, Phó Thủ tướng Ukraine Iryna Vereshchuk cho biết chính phủ đang lo trợ giúp cho người dân Zaporizhzhya và Energodar đang lũ lượt di tản khỏi hai thành phố này trước nguy cơ quân Nga cho nổ tung nhà máy điện hạt nhân dù vô tình hay cố ý.
Một đoạn video được hãng truyền thông Belarus Nexta chia sẻ trên Twitter cho thấy hàng chục chiếc xe hơi xếp hàng dài trên một con đường được tường trình nằm gần nhà máy. Có thể thấy các dòng xe đang dừng lại, có nhiều người đứng chờ và đứng bên ngoài phương tiện của họ.
“Mọi người đang rời khỏi Zaporizhzhya, Energodar và các thị trấn lân cận khác trong bối cảnh khu vực bị pháo kích liên tục,” Nexta viết trên Twitter.
Những người dùng Twitter khác, bao gồm Maria Avdeeva, giám đốc nghiên cứu tại Hiệp hội chuyên gia Âu Châu ở Ukraine, cũng chia sẻ đoạn phim.
“Một đoàn xe khổng lồ đang cố gắng rời khỏi Enerhodar bị chiếm đóng. Mọi người đang rời bỏ nhà của họ bên cạnh nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhya, do những kẻ khủng bố Nga kiểm soát, tống tiền thế giới bằng một thảm họa hạt nhân. Hôm nay người Nga lại bắn phá trạm hạt nhân,” cô viết.
Newsweek đã liên hệ với Bộ Ngoại giao Nga và Ukraine để đưa ra bình luận. Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia nằm trên lãnh thổ do Nga chiếm được từ tháng 3, nhưng vẫn tiếp tục được vận hành bởi các kỹ thuật viên Ukraine làm việc dưới sự giám sát của quân đội Mạc Tư Khoa.
Quân Nga núp trong nhà máy điện hạt nhân pháo kích ra vì họ chắc chắn người Ukraine không dám phản công. Chỉ huy Nga phụ trách nhà máy hạt nhân lớn nhất Âu Châu cho biết ông ta 'đã gài mìn khắp nhà máy điện và nói với người Ukraine rằng ông ta sẽ cho nổ tung nó nếu họ cố gắng tái chiếm', công ty năng lượng nguyên tử nhà nước Kyiv cho biết như trên.
Thiếu tướng Valery Vasilyev, người chỉ huy lực lượng bảo vệ hạt nhân, sinh học và hóa học của Nga, đã nói với người Ukraine làm việc trong nhà máy điện hạt nhân về những quả bom và cảnh báo: 'Đây sẽ là đất của Nga hoặc là đất bị thiêu rụi'.
Vasilyev cũng nói với binh lính Nga của ông ta rằng ngay cả khi họ nhận được 'mệnh lệnh khó khăn nhất, chúng ta phải thực hiện nó một cách vinh dự'.
Hôm thứ Bảy, Reuters đưa tin các quan chức Ukraine một lần nữa cho biết lực lượng Nga đã pháo kích gần nhà máy. Phía Nga lại nói rằng cuộc pháo kích đến từ các lực lượng Ukraine.
Mykhailo Podolyak, cố vấn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy, cho biết người Nga đang bắn vào một phần của nhà máy điện “nơi lưu trữ năng lượng cung cấp cho miền nam Ukraine.”
“Mục đích là để ngắt kết nối của chúng tôi với nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhya và đổ lỗi cho quân đội Ukraine về việc này,” ông nói.
Tổng thống Zelenskiy đã cáo buộc Mạc Tư Khoa sử dụng 'khủng bố hạt nhân' làm vũ khí khi cuộc xâm lược đất nước của Putin bị chùn bước. Các sự kiện tại địa điểm Zaporizhzhia - nơi Kyiv cáo buộc rằng quân Nga đã chạm đường dây điện hôm thứ Sáu - đã khiến cả thế giới phải hoảng hốt.
Guterres cho biết Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, gọi tắt là IAEA, phải được quyền viếng thăm nhà máy.
Ông Guterres nói: “Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ IAEA trong tất cả các nỗ lực của họ nhằm tạo ra các điều kiện ổn định nhà máy.
Hôm thứ Sáu, cựu Tổng thống Nga Dmitry Medvedev nói rằng “tai nạn” có thể xảy ra tại nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia và cả các nhà máy điện hạt nhân ở Liên minh Âu Châu.
Phát biểu của cựu Tổng thống Nga Dmitry Medvedev khiến nhiều người quan ngại rằng trong nỗi tuyệt vọng vì không thắng nổi trong cuộc xâm lược tại Ukraine, Nga có thể cố ý cho nổ tung nhà máy điện hạt nhân này, như một cách để xoay chuyển tình hình.
Trong một cuộc phỏng vấn với The New York Times, Edwin Lyman, một chuyên gia năng lượng hạt nhân tại Liên minh các nhà khoa học hạt nhân, cảnh báo rằng không cần phải có một vụ nổ tại nhà máy điện hạt nhân này, chỉ cần hỏa hoạn xảy ra tại một trong các máy biến áp của nhà máy cũng có thể khiến hệ thống làm mát của cơ sở ngừng hoạt động, do đó có thể dẫn đến việc giải phóng các chất phóng xạ.
2. Ngũ Giác Đài đánh giá cao hiệu quả của Ukraine
Một quan chức Ngũ Giác Đài đã ca ngợi quân đội Ukraine trong cuộc chiến chống lại Nga và nói rằng họ đã làm được những điều mà “chúng tôi có thể không nghĩ là có thể.”
Quan chức Bộ Quốc phòng nói rằng mặc dù lực lượng của Nga lớn hơn Ukraine, nhưng tinh thần của quân đội Vladimir Putin cũng như khả năng của họ đã bị ảnh hưởng nặng nề.
Trên thang điểm từ 0 đến 10, quan chức này đặt mức độ hiệu quả của các lực lượng vũ trang Ukraine là 12 trên 10 “dựa trên mức độ ấn tượng của họ đối với chúng tôi theo nhiều cách khác nhau”.
Các quan chức cho biết, các vụ nổ tại một căn cứ không quân ở Crimea do Nga chiếm đóng hôm thứ Ba đã gây ra thiệt hại đáng kể cho máy bay và vũ khí của Nga, mặc dù Mỹ không biết nguyên nhân gây ra vụ nổ.
Hôm thứ Sáu, CNN trích dẫn các chuyên gia và hình ảnh vệ tinh báo cáo rằng ít nhất 8 máy bay chiến đấu của Nga đã bị phá hủy trong các vụ nổ. Đây có thể là tổn thất lớn nhất của Nga về máy bay quân sự trong một ngày kể từ Thế chiến thứ hai. Trong số các máy bay bị phá hủy có cả máy bay ném bom Su-24 và máy bay chiến đấu đa năng Su-30.
Ngũ Giác Đài nhận định rằng trong cuộc chiến, đã có nhiều thương vong dân sự do “các cuộc ném bom bừa bãi mà các lực lượng Nga tiến hành.”
Tuy nhiên, các lực lượng của Nga đã bị ảnh hưởng bởi “khả năng của Ukraine trong việc phá hủy các sở chỉ huy và kiểm soát của Nga, các kho vũ khí, đạn dược, các địa điểm bảo trì và hậu cần” và rằng người Ukraine “đã tìm ra cách để làm những điều mà chúng tôi có thể không nghĩ là có thể.”
Ngũ Giác Đài cũng cho biết tại thành phố Kherson, nơi đang diễn ra cuộc phản công của Kyiv, các lực lượng của Ukraine tiếp tục gây sức ép mạnh lên người Nga, những người đã bị cản trở bởi các cuộc tấn công của Kyiv vào tuyến đường sắt Antonovsky và cầu đường bộ qua sông Dnipro.
Newsweek đã liên hệ với Bộ Quốc phòng Nga để đưa ra bình luận.
3. Các mật vụ của Putin từ chối làm việc ở Ukraine do Nga chiếm đóng ngay cả khi được đề nghị gấp tám lần mức lương bình thường của họ
Các nhân viên mật vụ của Vladimir Putin từ chối làm việc tại các khu vực do Nga chiếm đóng ở Ukraine. Một nguồn tin nội bộ của cơ quan đặc vụ Nga, gọi tắt là FSB, đã cho biết như trên.
Nguồn tin cho biết, ngay cả mức lương cao hơn bình thường từ 6 đến 8 lần cũng không thuyết phục được các sĩ quan phản gián chuyển đến các khu vực bị xâm chiếm.
Putin khẩn cấp cần các nhân viên tình báo quân sự và chính quy để thực thi quyền cai trị của mình ở hai 'nước cộng hòa nhân dân' ở miền đông Ukraine, Donetsk và Luhansk cũng như Kherson, Zaporizhzhia và Kharkiv.
Tuy nhiên, các đặc vụ của FSB đang né tránh việc bổ nhiệm, lấy giấy chứng nhận y tế từ các bác sĩ liên quan đến bản thân hoặc các thành viên gia đình.
Sự thiếu trung thành với Putin từ các đặc vụ tình báo cũng phản ánh sự miễn cưỡng của quân đội khi được điều động đến khu vực chiến sự, điều này đã dẫn đến việc Điện Cẩm Linh tuyệt vọng tuyển mộ các tù nhân chưa qua đào tạo và dân thường trong cái gọi là 'Quân đội của các ông Bố' để triển khai ra tiền tuyến.
Các giám đốc cơ quan mật vụ 'siloviki' của Putin thậm chí đang cố gắng thu hút các đặc vụ đã nghỉ hưu hoặc bị sa thải cho các vai trò trong vùng chiến sự.
Nhưng có rất ít hoặc không có sự quan tâm, một nguồn tin của FSB nói với kênh Telegram.
Họ nói: 'Chúng tôi đã gọi cho 200 người đã nghỉ hưu và chỉ có ba người nói rằng họ sẽ suy nghĩ về điều đó; những người còn lại thẳng thừng từ chối.”
'Điều này bất chấp những hứa hẹn về các khoản thanh toán và lợi ích khổng lồ.'
Các sĩ quan đã được cung cấp khoảng 5.000 bảng Anh một tháng để phục vụ trong các khu vực bị chiếm đóng.
Con số này cao gấp tám lần mức lương thông thường của họ, và nhiều hơn rất nhiều so với khoản thanh toán cho những người lính chiến đấu trong chiến tranh.
Báo cáo cho biết: 'Các bộ phận nhân sự đang tích cực kêu gọi các nhân viên cũ, thậm chí cả những người bị sa thải vì lý do mất uy tín.”
Một số sĩ quan báo cáo rằng họ đã 'kiệt sức' bởi gần sáu tháng làm nhiệm vụ cấp tốc với những ngày nghỉ bị hủy bỏ trong chiến tranh.
Nhiều người được cho là đang tìm cách từ bỏ nhiệm vụ.
FSB là Cơ quan An ninh Liên bang của Nga và là cơ quan kế nhiệm KGB, từng do Putin lãnh đạo.
Người đứng đầu hiện tại của nó là đồng minh thân cận của ông Alexander Bortnikov.
Báo cáo nói rằng đã có bất đồng công khai trong hàng ngũ, và một số sĩ quan FSB được cử đến các đồn xa ở miền đông Siberia như là các hình phạt nhằm cảnh báo những người khác.
“Sự thiếu hụt nhân sự trong dịch vụ đặc biệt cũng được xác nhận bởi một dự thảo nghị định do chính FSB đệ trình. Dự thảo sẽ cho phép ký hợp đồng với những tân binh chỉ có trình độ trung học, không cần cao hơn, như yêu cầu trước đây, và với những người chưa có kinh nghiệm thực hiện nghĩa vụ quân sự”.
4. Ukraine cho biết họ đã cắt bỏ cây cầu quan trọng ở khu vực Kherson - khiến hàng nghìn quân Nga bị cắt nguồn cung cấp
Ukraine đã phá bỏ một cây cầu quan trọng ở khu vực Kherson và tiếp tục làm tê liệt các đường tiếp tế của Nga. Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine đã cho biết như trên trong bản báo cáo chiều Chúa Nhật 14 tháng 8.
Trong vài tuần qua, quân đội Ukraine đã cố gắng tạo cơ sở cho một cuộc phản công nhằm giành lại khu vực Kherson do Nga chiếm đóng ở miền Nam Ukraine mà Nga đã chiếm được trong những ngày đầu của cuộc chiến.
Biến cố này xảy ra chỉ vài tuần sau khi cây cầu Antonovsky bị hư hại nặng và ngừng hoạt động bởi các hỏa tiễn của Ukraine đã khoét các lỗ thủng trên mặt cầu.
Đến chiều Chúa Nhật, quân Ukraine báo cáo rằng một cuộc tấn công của Ukraine đã làm hư hỏng cây cầu còn hoạt động cuối cùng trên con đập ở Nova Kakhovka bắc qua sông Dnipro.
'Việc phá hủy cầu đường bộ của đập Nova Kakhovka đã được bảo đảm, với kết quả là nó đã không còn hoạt động nữa', Bộ Chỉ huy Tác chiến phía Nam của quân đội Ukraine đã cho biết như trên.
Serhii Khlan, phó chủ tịch Hội đồng Khu vực Kherson, cho biết 'Người Nga không còn khả năng chuyển giao thiết bị của họ nữa.”
Tình báo quân sự Anh cũng cho hai cây cầu đường bộ chủ yếu dẫn vào vùng lãnh thổ bị Nga chiếm đóng ở bờ tây sông Dnipro ở vùng Kherson hiện có lẽ đã không còn có thể sử dụng được cho mục đích tiếp tế quân sự thiết yếu.
Vào ngày 10 tháng 8, các cuộc tấn công chính xác của Ukraine có khả năng khiến con đường băng qua sông Dnipro tại Nova Kakhovka không thể sử dụng cho các xe quân sự hạng nặng. Trong những ngày gần đây, Nga chỉ thành công trong việc sửa chữa bề ngoài cây cầu đường Antonivsky bị hư hỏng có khả năng vẫn chưa bị phá hủy cấu trúc. Tuần trước, cây cầu đường sắt chính gần Kherson cũng bị hư hỏng thêm. Kể từ cuối tháng 7, Nga đã sử dụng một chiếc phà phao gần cầu đường sắt làm tuyến đường tiếp tế quân sự chính của mình.
Ngay cả khi Nga cố gắng sửa chữa đáng kể các cây cầu, chúng sẽ vẫn là một lỗ hổng quan trọng. Việc tiếp tế trên bộ cho vài nghìn quân Nga ở bờ Tây gần như chắc chắn chỉ dựa vào hai cầu phà phao bắc qua sông. Với chuỗi cung ứng của họ bị hạn chế như thế, khả năng tiếp tế người Nga cố đưa sang bờ tây hầu chắc là một yếu tố thiết yếu trong sức chịu đựng của các lực lượng Nga.
Kherson là thành phố lớn duy nhất đã rơi vào tay quân đội của Putin trong cuộc chiến kéo dài 5 tháng và là chỗ đứng duy nhất của Nga trên bờ Tây sông Dnipro chảy xuống trung tâm Ukraine.
Việc tái chiếm thành phố này sẽ giáng một đòn tuyên truyền lớn đối với các lực lượng của Putin, và đánh dấu sự kết thúc có thể xảy ra đối với nỗ lực đẩy về phía tây dọc Hắc Hải đến cảng Odesa.
Các tướng lĩnh của Nga trước đây đã nói rằng việc cắt Ukraine khỏi Hắc Hải – ngăn chặn chính phủ Zelenskiy tiếp cận các tuyến đường thương mại sinh lợi nhất của họ - là mục tiêu chính trong cuộc chiến của họ.
Việc tái chiếm thành phố cũng sẽ tạo ra một động lực lớn cho Ukraine, chứng tỏ rằng quân đội của họ có thể tấn công cũng như phòng thủ.
Nó có thể sẽ thúc đẩy sự hỗ trợ mới từ những người ủng hộ phương Tây về tiền bạc và vũ khí với hy vọng Ukraine sẽ sử dụng chúng để tái chiếm toàn bộ lãnh thổ bị Nga chiếm giữ, mà Kyiv đã xác định là mục tiêu chiến tranh chính của họ.
Việc chiếm được Kherson sẽ làm lung lay Crimea - lãnh thổ được Nga sáp nhập vào năm 2014 và mang tầm quan trọng biểu tượng to lớn đối với chế độ của Putin
5. Lực lượng Nga cố gắng xuyên thủng hệ thống phòng thủ của Ukraine về phía Sloviansk
Các binh sĩ Ukraine ở khu vực Dolyna đã đẩy lùi một cuộc tấn công của Nga theo hướng Sloviansk - một nỗ lực của quân Nga mà Bộ Tổng tham mưu gọi là “vô nghĩa”.
Đó là theo bản cập nhật về chiến sự do Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang phát hành vào lúc 6:00 giờ địa phương chiều Chúa Nhật, ngày 14 tháng 8.
Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine nhấn mạnh rằng tình hình ở các hướng Volyn, Polissia và Siversky không có thay đổi đáng kể nào. Việc luân chuyển các đơn vị của Quân khu phía Tây của Nga vẫn tiếp tục. Pháo binh của quân Nga đã bắn phá các khu định cư biên giới từ lãnh thổ của Liên bang Nga.
Ở hướng Kharkiv, quân xâm lược đang dùng trọng pháo và máy bay tấn công dọc theo đường giới tuyến, duy trì hoạt động trinh sát trên không với cường độ cao bằng việc sử dụng máy bay không người lái.
Quân Nga đã cố gắng do thám trong khu vực Pytomnyk, nhưng không thành công. Các đơn vị của họ buộc phải rút lui, chịu tổn thất nặng. Người Nga cũng thực hiện các cuộc không kích gần Peremoha, Rtyshchyvka và Pytomnyk. Họ cũng đang thực hiện các biện pháp để bảo đảm hỗ trợ hậu cần cho các đơn vị tiền phương của họ và bổ sung thương vong.
Trên hướng Sloviansk, đối phương tấn công bằng đủ loại hỏa lực, sử dụng xe tăng và pháo binh cùng với máy bay ném bom, gần Brazhkivka, Bohorodychne và Dolyna. Họ cũng cố gắng xuyên thủng hệ thống phòng thủ của Ukraine ở khu vực Dolyna, nơi các lực lượng Ukraine đã đẩy lùi thành các nỗ lực “vô nghĩa” của quân Nga.
Trên hướng Donetsk, kẻ thù đã bắn vào các đơn vị Ukraine, sử dụng xe tăng, trọng pháo và các phản lực cơ. Tuy nhiên, trong suốt 24 giờ qua, quân Nga không tiến được chút nào.