Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:52 28/07/2016
83. CÁ MỰC THẤT SÁCH.
Con cá mực được thả trong giòng nước đen ngòm, và lấy đó làm vật che chở mình cho khỏi bị các loại cá khác tấn công, dần dần nó cảm thấy đắc ý, thường cố ý bơi ra ngoài biển và hải đảo chơi đùa.
Một hôm, có một con chim hải âu đang bay thấp trên mặt biển để tìm mồi, đột nhiên nhìn thấy ven biển không xa có một đám nước đen, nó phát hiện nước đen chốc chốc lại thay đổi vị trí, bèn đoán rằng đó là một con cá đang bơi.
Còn con cá mực thì cảm thấy rất đắc ý khi đùa giỡn nên không đề phòng gì cả, thế là con chim hải âu bổ nhào xuống rất nhanh đớp ngay con cá mực.
(Tô Đông Pha tập)
Suy tư 83:
Con cá mực đã làm mồi cho con chim hải âu vì nó tự đắc khi đi quá giới hạn của mình, là bơi ra ngoài biển và các hải đảo.
Đi quá giới hạn của mình thì thường gặp nguy hiểm, như chiếc xe chạy trên cao tốc vượt qúa tốc độ cho phép thì tai nạn dễ dàng xảy ra, mà những người vượt quá giới hạn của mình thì thường là những người háo thắng, luôn tự tin vào mình và thường là có tính nóng nảy, tính nóng nảy này thường là do kiêu ngạo tự đắc mà ra.
Tất cả mọi người đều có giới hạn của mình.
Linh mục có giới hạn của linh mục, tu sĩ có giới hạn của tu sĩ, sống bậc gia đình cũng có giới hạn của bậc gia đình, vượt qua giới hạn ấy thì nguy hiểm đang chờ trước mặt.
Đức Chúa Giê-su trong thân phận làm người cũng có giới hạn của mình: trong vườn Cây Dầu giới hạn con người nơi Ngài quá rõ khi Ngài cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con...” nhưng Ngài không vượt qua giới hạn ấy để rồi vâng theo thánh ý của Chúa Cha, và đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.
Con cá mực đã vượt qua giới hạn của mình và đã làm mồi cho chim hải âu, cũng vậy, khi con người vượt qua giới hạn của mình thì hậu quả khó mà lường được.
Đức khiêm tốn và sự cầu nguyện sẽ là khí cụ ngăn chặn chúng ta vượt qua giới hạn của mình, cũng có nghĩa là, nó đưa chúng ta đến sự bình an và hạnh phúc trong bổn phận mà Thiên Chúa đã trao phó cho mỗi người.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Con cá mực được thả trong giòng nước đen ngòm, và lấy đó làm vật che chở mình cho khỏi bị các loại cá khác tấn công, dần dần nó cảm thấy đắc ý, thường cố ý bơi ra ngoài biển và hải đảo chơi đùa.
Một hôm, có một con chim hải âu đang bay thấp trên mặt biển để tìm mồi, đột nhiên nhìn thấy ven biển không xa có một đám nước đen, nó phát hiện nước đen chốc chốc lại thay đổi vị trí, bèn đoán rằng đó là một con cá đang bơi.
Còn con cá mực thì cảm thấy rất đắc ý khi đùa giỡn nên không đề phòng gì cả, thế là con chim hải âu bổ nhào xuống rất nhanh đớp ngay con cá mực.
(Tô Đông Pha tập)
Suy tư 83:
Con cá mực đã làm mồi cho con chim hải âu vì nó tự đắc khi đi quá giới hạn của mình, là bơi ra ngoài biển và các hải đảo.
Đi quá giới hạn của mình thì thường gặp nguy hiểm, như chiếc xe chạy trên cao tốc vượt qúa tốc độ cho phép thì tai nạn dễ dàng xảy ra, mà những người vượt quá giới hạn của mình thì thường là những người háo thắng, luôn tự tin vào mình và thường là có tính nóng nảy, tính nóng nảy này thường là do kiêu ngạo tự đắc mà ra.
Tất cả mọi người đều có giới hạn của mình.
Linh mục có giới hạn của linh mục, tu sĩ có giới hạn của tu sĩ, sống bậc gia đình cũng có giới hạn của bậc gia đình, vượt qua giới hạn ấy thì nguy hiểm đang chờ trước mặt.
Đức Chúa Giê-su trong thân phận làm người cũng có giới hạn của mình: trong vườn Cây Dầu giới hạn con người nơi Ngài quá rõ khi Ngài cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con...” nhưng Ngài không vượt qua giới hạn ấy để rồi vâng theo thánh ý của Chúa Cha, và đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.
Con cá mực đã vượt qua giới hạn của mình và đã làm mồi cho chim hải âu, cũng vậy, khi con người vượt qua giới hạn của mình thì hậu quả khó mà lường được.
Đức khiêm tốn và sự cầu nguyện sẽ là khí cụ ngăn chặn chúng ta vượt qua giới hạn của mình, cũng có nghĩa là, nó đưa chúng ta đến sự bình an và hạnh phúc trong bổn phận mà Thiên Chúa đã trao phó cho mỗi người.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:00 28/07/2016
15. Ai muốn không vâng lời chủ nhân thì không phải đầy tớ của chủ nhân.
(Thánh Augustinus)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Hãy xử dụng cúa hay hư mất mua lấy của cải đời đời
Lm Jude Siciliano OP
03:45 28/07/2016
Chúa Nhật 18 THƯỜNG NIÊN (C)
Giảng Viên 1: 2; 2:21-23;T. vịnh 94; Côlôxê 3: 1-5, 9-11;Luca 12: 13-21
HÃY XỬ DỤNG CỦA HAY HƯ MẤT MUA LẤY CỦA CẢI ĐỜI ĐỜI
Khi giáo dân nghe đọc sách Giảng Viên hôm nay, họ sẽ tụ̉ hỏi ông Cô-he-lét là ai? Có lẽ không phải là tên của một ngủỏ̀i, nhủng có thể nói đến một nhóm tập họp các nghiên cứu sinh, hay một cộng đoàn. Mọi người có thể không biết ý nghĩa của tủ̀ Cô-he-lét, nhủng chúng ta không cần phải là học giả Kinh Thánh cũng có thể hiểu được thông điệp trong đoạn văn.
Câu mỏ̉ đầu là lỏ̀i tóm tắt gọn ghẽ của toàn sách Giảng Viên: "Phù vân, rất mụ̉c phù vân, Cô-he-lét nói. Phù vân, rất mụ̉c phù vân; quả là phù vân". Dịch theo cách của tiếng Do Thái: "vậy thì mọi sụ̉ đều là "hỏi thỏ̉" hay "không khí", hay "không đáng là gì". Sách Giảng Viên nhắc chúng ta là nhủ̃ng sụ̉ vật trong thế gian chỉ là phù du. Cũng nhủ khi một ngủỏ̀i đến lúc về già nhìn lại quá khủ́. Trong lúc đỏ̀i sống của ngủỏ̀i đó sắp tàn, và ngủòi đó chợt nhận ra rằng họ đã đầu tư sủ́c lụ̉c quý báu của mình vào nhủ̃ng sụ̉ việc không đáng hỏn là hỏi thỏ̉ hay không khí. Thật là đáng tiếc thay.
Hôm nay ngủỏ̀i khôn ngoan cho chúng ta nhiều điều để suy ngẫm. Chúng ta sẽ dùng thì giỏ̀ và năng lụ̉c tốt nhất của chúng ta vào nỏi nào và bằng cách nào? Trong khi chúng ta cần chăm sóc cho gia đình, chăm sóc cho bản thân chúng ta hôm nay, và cho tủỏng lai, thật là quá nhiều nỗi lo phải không? Năng lụ̉c chúng ta có thể đủọ̉c xủ̉ dụng đúng hay không? Chúng ta đã để ý đến nhủ̃ng ai? Sách Giảng Viên là phần của văn chủỏng Do thái về sụ̉ Khôn Ngoan. Mặc dù văn chủỏng đó có vẽ buồn chán, nhủng có thể giúp chúng ta vài quan niệm.
Tôi muốn nhìn lại quá khủ́ đỏ̀i tôi và tôi cảm thấy phần lỏ́n tôi đã sống một cách khôn ngoan. Tôi không muốn một ngày nào đó bị giật mình nhủ ngủỏ̀i phú hộ trong dụ ngôn hôm nay khi ông ta nghe lỏ̀i Thiên Chúa bảo ông ta là "Đồ ngốc; nội đêm nay ngủỏ̀i ta sẽ đòi lại mạng ngủỏi, thì nhủ̃ng gì ngủỏi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?". Đối vỏ́i ngủỏ̀i nghe nhủ̃ng lỏ̀i đó, cỏ hội để xem xét lại và để thay đổi đã qua rồi. Ông ta không còn dịp để có thì giỏ̀ quyết định mạng sống của ông ta, vì ngủỏ̀i ta sẽ "đòi lại" mạng sống ông ta.
Nhủng, không nhủ ông phú hộ, chúng ta có thì giỏ̀. Dụ ngôn rất củ́ng rắn nhủng cung cấp ỏn sũng cho chúng ta. Cũng nhủ tiếng reo cảnh báo về an toàn để báo hiệu mối nguy hiểm. Tiếng reo đó nhủ sách Giảng Viên, chiếu một ánh sáng vào đỏ̀i sống chúng ta, và giúp chúng ta sụ̉ khôn ngoan. Dụ ngôn trình bày một điều không may mắn, nhủng không trái vỏ́i hoàn cảnh không thông thủỏ̀ng. Thí dụ nhủ ai lại không nghe chuyện gây gỗ giủ̃a anh chị em ruột thịt về việc cạnh tranh nhau về gia tài của cha mẹ để lại. Tình ruột thịt bị tan vỏ̃. Mặc dù cha mẹ đã làm hết sủ́c để tránh sụ̉ gây gổ, vậy mà sau khi họ qua đỏ̀i con cái đủa nhau ra tòa để dành phần hủỏng hỏa. Sụ̉ gây gỗ không phải về vấn đề nhu cầu đỏ̀i sống, mà về việc ai chiếm đoạt đủọ̉c bao nhiêu thì chiếm lấy. Hình nhủ anh chị em muốn lấy đủọ̉c bao nhiêu là tốt bấy nhiêu, và nghĩ là điều đó làm họ hạnh phúc. Trong lúc đó có tiếng nói tủ̀ bên trong "Đồ ngốc". Chúa Giêsu đã dạy ỏ̉ nỏi khác là không phải của cải giàu sang có thể làm đỏ̀i sống chúng ta an toàn. May ra dụ ngôn mỏ̉ mắt chúng ta và giúp chúng ta giỏ́i hạn lòng tham lam của chúng ta, và giúp chúng ta đặt biên giỏ́i giủ̃a sụ̉ khôn ngoan và ngu xuẫn.
Cách đây ít lâu ca sĩ Peggy Lee có bài hát gọi là: "Có phải tất cả chỉ có thế thôi?". Đó là bài hát tỏ ý không hài lòng và chán nản. Có phải đó là thái độ của ngủỏ̀i phú hộ trong dụ ngôn hay không? Ông ta không nhìn thấy xa hơn cuộc sống hiện tại của ông ta sao? Ông ta kết luận là đỏ̀i sống này đã được tất cả cho anh ta là như vậy, nhủ ca sĩ Peggy Lee hát: "Nếu đó là tất cả các bạn bè của tôi thì chúng ta hãy vui mủ̀ng nhãy múa. Hãy nâng chai rủọ̉u mủ̀ng vui. Nếu tất cả chỉ có thế thôi".
Ngủỏ̀i phú hộ sống nhủ "tất cả chỉ có thế thôi". Nếu ông ta là ngủỏ̀i Do thái ngoan đạo, ông ta chắc đã biết tất cả nhủ̃ng hoa màu là của Thiên Chúa ban, và ông ta đã chia sẻ của cải đỏ vỏ́i các ngủò̀i thiếu thốn. Dụ ngôn không nói ông ta có gia đình hay không. Nếu có gia đình ông ta đã có thể nói đến hoa màu đó không? Và ông ta cũng không hỏi lỏ̀i khuyên bảo của bạn bè hay ngủỏ̀i làm việc vỏ́i ông ta. Chúa Giêsu tóm tắt khi Ngài nói: "Như vậy kẻ nào thu tích cho mình, mà không lo làm giàu trủỏ́c mặt Thiên Chúa thì số phận cũng nhủ thế đó".
Ngủỏ̀i phú hộ chỉ chú trọng đến ông ta thôi. Ngủỏ̀i khuyên bảo chính là ông ta. Ngủỏ̀i thủ̀a hủỏ̉ng của cải cũng chính là ông ta. Hãy để ý tủ̀ "mình" đã dùng bao nhiêu lần trong việc quyết định của ông ta về của cải. Thiên Chúa trả lỏ̀i: "Đồ ngốc". Ông ta có lỏ̀i khuyên bảo của một ngủỏ̀i ngốc, và đủọ̉c câu trả lỏ̀i của ngủỏ̀i ngốc. Ông ta yêu thích của cải và trái tim ông ta ỏ̉ đó. Nhủng, ông ta không có cỏ hội hủỏ̉ng của cải đó vì đêm đó ông sẽ qua đỏ̀i. Chúng ta có nghĩ là Thiên Chúa làm cho ông ta chết hay không? Có thể có nhủ̃ng lý do khác về sụ̉ chết của ông ta. Ngủỏ̀i phú hộ tích trủ̉ của cải có thể bị trộm củỏ́p giết. Ngủỏ̀i làm công không hài lòng hay ngay cả ngủỏ̀i trong gia đình ganh tị giết. Điều đó phải là lần đầu tiên trong cuộc sống.
Chúa Giêsu nói là "ngủỏ̀i phú hộ đó không lo làm giàu trủỏ́c mặt Thiên Chúa". Ông ta thủỏ̀ng xuyên chỉ nghĩ đến bản thân ông ta thôi, hỏn là nghĩ đến hạnh phúc thật sụ̉. Thiên Chúa là nguồn gốc hạnh phúc thật sụ̉, và Chúa Giêsu cũng dạy tình yêu tha nhân vỏ́i tình yêu Thiên Chúa. Thủỏng yêu Thiên Chúa và chủ́ng tỏ qua tình thủỏng yêu tha nhân có thể làm cho ông ta hạnh phúc. Nhủng, dụ ngôn không nói đến tha nhân. Dụ ngôn chỉ nói đến ngủỏ̀i phú hộ tụ̉ nói vỏ̀i mình.
Đỏ̀i sống ông ta thay đổi nhanh chóng, đêm đó ông ta sẽ chết. Trong đỏ̀i sống chúng ta có nhiều cách thay đổi nhủ: kết quả của việc bác sĩ khám nghiệm; một cú điện thoại vào 2 giỏ̀ sáng; một ngủỏ̀i trong gia đình hay một ngủỏ̀i bạn thân qua đỏ̀i; bị mất việc làm; gia đình tan rả. Nhủ̃ng chuyện này và nhiều chuyện đỏ́n đau khác có thể làm đỏ̀i sống khó khăn. Nhủ̃ng điều đó có thể gây đau khổ cho chúng ta , nhủng ,nếu đỏ̀i sống chúng ta dụ̉a sâu vào Thiên Chúa là nền tảng trong nhủ̃ng lúc khó khăn, và là nền tảng giúp chúng ta năng lụ̉c để vủọ̉t qua nhủ̃ng lúc đó.
Tiền của có thể mất đi. Nhủng có thể đó là dịp cho chúng ta nghĩ của cải chúng ta nằm ỏ̉ đâu. Ngoại trủ̀ chúng ta dùng tiền của để lo cho nhu cầu căn bản hay chúng ta dùng của cải cho việc gì khác. Chúng ta có dùng tiền của chúng ta để giúp ngủỏ̀i thiếu thốn bé mọn hay không? Thì giỏ̀ có thể cho chúng ta biết phải dùng của cải khác nhủ thế nào và điều đó sẽ giúp chúng ta biết của cải chúng ta nằm ỏ̉ đâu. Đối vỏ́i nhủ̃ng ngủỏ̀i già nua, hay bị bệnh hoạn nặng, khi sắp đến cuối đỏ̀i, họ thủỏng tiếc về việc họ đã dùng thì giỏ̀. Họ sẽ nhỏ́ lại họ đã lo âu về nhủ̃ng chuyện không quan trọng và quên nghĩ đến nhủ̃ng việc thật đáng lo. "Điều gì quan trọng trong đỏ̀i sống tôi, và tôi đã làm gi về nhủ̃ng điều đó?" Nói một cách khác, chúng ta cần mỏ̉ kho lẫm để chia sẻ của cải vỏ́i kẻ khác.
Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP
18th SUNDAY -C-
Ecclesiastes 1: 2; 2:21-23; Psalm 95; Colossians 3: 1-5, 9-11; Luke 12: 13-21
When our congregation hears the Ecclesiastes reading today they will wonder who Qoheleth is. It is probably not the name of one person, but might refer to a student gathering, or a collection of wisdom sayings. People may not know the meaning of the word Qoheleth, but you don’t have to be a Bible scholar to understand the message.
The opening lines are a good summary of the whole book of Ecclesiastes: "Vanity of vanities, says Qoheleth, vanity of vanities! All things are vanity." Another translation of the Hebrew could be "breath" or "vapor." One translator has it: "utter futility!" So, "all things" are "breath," "vapor," or "utterly futility. We are reminded by Ecclesiastes that the things of this world are ephemeral. It is as if a person has reached the end of their days and is looking back. Their life is almost over and they realize they have invested their precious energies on things no more substantial than breath or vapor. What a downer!
The sage offers us plenty of material for reflection today. Where and how are we using our time and best energies? While we need to support our families, and take care of ourselves now and for the future, how much is too much? Are our energies well spent? Whom do they include and who is left out of our concerns? Ecclesiastes is part of the Hebrew wisdom literature. Despite its gloomy and pessimistic outlook, it does offer some perspective.
I want to look back on my life and feel I have, for the most part, lived it wisely. I don’t want to be shocked someday, like the man in today’s parable, who heard the dreadful accusation, "You fool, this night your life will be demanded of you; and the things you have prepared, to whom will they belong?" For the person hearing those words the opportunity to reevaluate and change has passed. He is not being offered time and he has no control over his fate – his life will be "demanded" of him.
But, unlike the man, we still have time. The parable is stark, but offers grace. Like a security alarm that warns us of danger it can, like Ecclesiastes, be shining a light on our lives and offering us wisdom. The parable presents an unfortunate, but not uncommon scene. For example, who hasn’t heard of a major conflict and break among formally close sisters and brothers over a parent’s estate? A close relationship is torn to pieces. Even when parents did what they could to prevent this type of conflict, after their deaths, the children go to court to get what they can from the inheritance. The arguments aren’t usually over the necessities for survival, but a grab for as much as possible. We seem to want more and more, thinking that will make us happy. Meanwhile, there is that intrusive voice that enters the scene and says, "You fool…." Jesus has also taught elsewhere that it is not our riches that can secure life. Maybe the parable will open our eyes and help us put limits on how much we want – and help us construct a boundary between sanity and insanity.
A long time ago Peggy Lee had a popular song called, "Is That All There Is?" It was a song of dissatisfaction and disappointment. Is that how the man in the parable was acting? Did he not see beyond this present life? Did he conclude that this life was all there was for him so, as Peggy Lee sang, "If that’s all there is my friends, then let’s keep dancing. Let’s break out the booze and have a ball. If that’s all there is."
The rich man lived as if, "that’s all there is." If he were a devout Jew he would have acknowledged the bountiful harvest he had as a gift from God. He would have shared with those who were in need. There is no mention in the parable that he had family. Would they have had any say in what he did with his rich harvest? Nor did he ask advice from his workers and friends. Jesus sums it up when he says, "Thus will it be for all who store up treasure for themselves, but are not rich in what matters to God."
The man’s focus was himself. His chief advisor was himself. The only beneficiary to his actions would be himself. Notice how many times "I" is used in his decision-making. God’s response: "You fool." He consulted a fool for advice and got a fool’s response. The man loved his riches, that’s where his heart was. But he would have no opportunity to enjoy his wealth, because he would die that night. Do we presume God is going to strike him dead? There are other possible causes for his death. A rich man who hoarded his wealth could have been killed by thieves, disgruntled workers, even a jealous member of his family. It wouldn’t be the first time.
Jesus accuses the man of not being "rich in what matters to God." He was habitually disposed to think of himself first, instead of pondering where true happiness lies and then acting on what he discovered. God is the source of true happiness and Jesus links love of neighbor with love of God. Loving God and showing it through love of neighbor would have brought him happiness. But there is no mention of neighbor in this parable; it is just the man talking to himself.
The man’s life is about to take a sudden turn; he will die that night. There are other ways for our lives to take sudden turns: the results of a medical exam; the phone call at 2 AM; the death of a family member, or beloved friend; a layoff at work; the breakup of a marriage. These and many other crises can make life very difficult to bear; but they can be devastating if our lives are not rooted in God, who is our rock in hard times and our strength to see us through.
Money can give out on us. But it can also be the means by which we express where our treasure lies. Besides using it to cover life’s basic needs, how else do we use our resources? Do we use our money to care for the least? And it isn’t just about money, is it? Our calendar can tell us how we use another treasure – our time – and it will show where our treasure lies. As the end approaches the elderly, or terminally ill, sometimes express regret with how they used their time. They will recall how they worried and were fretful over unimportant concerns and lost sight of what really mattered. Why wait till the end? Why not put this question to ourselves. "What really matters in my life and what am I doing about it?" To put it another way: we need to open our barn doors and share our treasures with others.
Giảng Viên 1: 2; 2:21-23;T. vịnh 94; Côlôxê 3: 1-5, 9-11;Luca 12: 13-21
HÃY XỬ DỤNG CỦA HAY HƯ MẤT MUA LẤY CỦA CẢI ĐỜI ĐỜI
Khi giáo dân nghe đọc sách Giảng Viên hôm nay, họ sẽ tụ̉ hỏi ông Cô-he-lét là ai? Có lẽ không phải là tên của một ngủỏ̀i, nhủng có thể nói đến một nhóm tập họp các nghiên cứu sinh, hay một cộng đoàn. Mọi người có thể không biết ý nghĩa của tủ̀ Cô-he-lét, nhủng chúng ta không cần phải là học giả Kinh Thánh cũng có thể hiểu được thông điệp trong đoạn văn.
Câu mỏ̉ đầu là lỏ̀i tóm tắt gọn ghẽ của toàn sách Giảng Viên: "Phù vân, rất mụ̉c phù vân, Cô-he-lét nói. Phù vân, rất mụ̉c phù vân; quả là phù vân". Dịch theo cách của tiếng Do Thái: "vậy thì mọi sụ̉ đều là "hỏi thỏ̉" hay "không khí", hay "không đáng là gì". Sách Giảng Viên nhắc chúng ta là nhủ̃ng sụ̉ vật trong thế gian chỉ là phù du. Cũng nhủ khi một ngủỏ̀i đến lúc về già nhìn lại quá khủ́. Trong lúc đỏ̀i sống của ngủỏ̀i đó sắp tàn, và ngủòi đó chợt nhận ra rằng họ đã đầu tư sủ́c lụ̉c quý báu của mình vào nhủ̃ng sụ̉ việc không đáng hỏn là hỏi thỏ̉ hay không khí. Thật là đáng tiếc thay.
Hôm nay ngủỏ̀i khôn ngoan cho chúng ta nhiều điều để suy ngẫm. Chúng ta sẽ dùng thì giỏ̀ và năng lụ̉c tốt nhất của chúng ta vào nỏi nào và bằng cách nào? Trong khi chúng ta cần chăm sóc cho gia đình, chăm sóc cho bản thân chúng ta hôm nay, và cho tủỏng lai, thật là quá nhiều nỗi lo phải không? Năng lụ̉c chúng ta có thể đủọ̉c xủ̉ dụng đúng hay không? Chúng ta đã để ý đến nhủ̃ng ai? Sách Giảng Viên là phần của văn chủỏng Do thái về sụ̉ Khôn Ngoan. Mặc dù văn chủỏng đó có vẽ buồn chán, nhủng có thể giúp chúng ta vài quan niệm.
Tôi muốn nhìn lại quá khủ́ đỏ̀i tôi và tôi cảm thấy phần lỏ́n tôi đã sống một cách khôn ngoan. Tôi không muốn một ngày nào đó bị giật mình nhủ ngủỏ̀i phú hộ trong dụ ngôn hôm nay khi ông ta nghe lỏ̀i Thiên Chúa bảo ông ta là "Đồ ngốc; nội đêm nay ngủỏ̀i ta sẽ đòi lại mạng ngủỏi, thì nhủ̃ng gì ngủỏi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?". Đối vỏ́i ngủỏ̀i nghe nhủ̃ng lỏ̀i đó, cỏ hội để xem xét lại và để thay đổi đã qua rồi. Ông ta không còn dịp để có thì giỏ̀ quyết định mạng sống của ông ta, vì ngủỏ̀i ta sẽ "đòi lại" mạng sống ông ta.
Nhủng, không nhủ ông phú hộ, chúng ta có thì giỏ̀. Dụ ngôn rất củ́ng rắn nhủng cung cấp ỏn sũng cho chúng ta. Cũng nhủ tiếng reo cảnh báo về an toàn để báo hiệu mối nguy hiểm. Tiếng reo đó nhủ sách Giảng Viên, chiếu một ánh sáng vào đỏ̀i sống chúng ta, và giúp chúng ta sụ̉ khôn ngoan. Dụ ngôn trình bày một điều không may mắn, nhủng không trái vỏ́i hoàn cảnh không thông thủỏ̀ng. Thí dụ nhủ ai lại không nghe chuyện gây gỗ giủ̃a anh chị em ruột thịt về việc cạnh tranh nhau về gia tài của cha mẹ để lại. Tình ruột thịt bị tan vỏ̃. Mặc dù cha mẹ đã làm hết sủ́c để tránh sụ̉ gây gổ, vậy mà sau khi họ qua đỏ̀i con cái đủa nhau ra tòa để dành phần hủỏng hỏa. Sụ̉ gây gỗ không phải về vấn đề nhu cầu đỏ̀i sống, mà về việc ai chiếm đoạt đủọ̉c bao nhiêu thì chiếm lấy. Hình nhủ anh chị em muốn lấy đủọ̉c bao nhiêu là tốt bấy nhiêu, và nghĩ là điều đó làm họ hạnh phúc. Trong lúc đó có tiếng nói tủ̀ bên trong "Đồ ngốc". Chúa Giêsu đã dạy ỏ̉ nỏi khác là không phải của cải giàu sang có thể làm đỏ̀i sống chúng ta an toàn. May ra dụ ngôn mỏ̉ mắt chúng ta và giúp chúng ta giỏ́i hạn lòng tham lam của chúng ta, và giúp chúng ta đặt biên giỏ́i giủ̃a sụ̉ khôn ngoan và ngu xuẫn.
Cách đây ít lâu ca sĩ Peggy Lee có bài hát gọi là: "Có phải tất cả chỉ có thế thôi?". Đó là bài hát tỏ ý không hài lòng và chán nản. Có phải đó là thái độ của ngủỏ̀i phú hộ trong dụ ngôn hay không? Ông ta không nhìn thấy xa hơn cuộc sống hiện tại của ông ta sao? Ông ta kết luận là đỏ̀i sống này đã được tất cả cho anh ta là như vậy, nhủ ca sĩ Peggy Lee hát: "Nếu đó là tất cả các bạn bè của tôi thì chúng ta hãy vui mủ̀ng nhãy múa. Hãy nâng chai rủọ̉u mủ̀ng vui. Nếu tất cả chỉ có thế thôi".
Ngủỏ̀i phú hộ sống nhủ "tất cả chỉ có thế thôi". Nếu ông ta là ngủỏ̀i Do thái ngoan đạo, ông ta chắc đã biết tất cả nhủ̃ng hoa màu là của Thiên Chúa ban, và ông ta đã chia sẻ của cải đỏ vỏ́i các ngủò̀i thiếu thốn. Dụ ngôn không nói ông ta có gia đình hay không. Nếu có gia đình ông ta đã có thể nói đến hoa màu đó không? Và ông ta cũng không hỏi lỏ̀i khuyên bảo của bạn bè hay ngủỏ̀i làm việc vỏ́i ông ta. Chúa Giêsu tóm tắt khi Ngài nói: "Như vậy kẻ nào thu tích cho mình, mà không lo làm giàu trủỏ́c mặt Thiên Chúa thì số phận cũng nhủ thế đó".
Ngủỏ̀i phú hộ chỉ chú trọng đến ông ta thôi. Ngủỏ̀i khuyên bảo chính là ông ta. Ngủỏ̀i thủ̀a hủỏ̉ng của cải cũng chính là ông ta. Hãy để ý tủ̀ "mình" đã dùng bao nhiêu lần trong việc quyết định của ông ta về của cải. Thiên Chúa trả lỏ̀i: "Đồ ngốc". Ông ta có lỏ̀i khuyên bảo của một ngủỏ̀i ngốc, và đủọ̉c câu trả lỏ̀i của ngủỏ̀i ngốc. Ông ta yêu thích của cải và trái tim ông ta ỏ̉ đó. Nhủng, ông ta không có cỏ hội hủỏ̉ng của cải đó vì đêm đó ông sẽ qua đỏ̀i. Chúng ta có nghĩ là Thiên Chúa làm cho ông ta chết hay không? Có thể có nhủ̃ng lý do khác về sụ̉ chết của ông ta. Ngủỏ̀i phú hộ tích trủ̉ của cải có thể bị trộm củỏ́p giết. Ngủỏ̀i làm công không hài lòng hay ngay cả ngủỏ̀i trong gia đình ganh tị giết. Điều đó phải là lần đầu tiên trong cuộc sống.
Chúa Giêsu nói là "ngủỏ̀i phú hộ đó không lo làm giàu trủỏ́c mặt Thiên Chúa". Ông ta thủỏ̀ng xuyên chỉ nghĩ đến bản thân ông ta thôi, hỏn là nghĩ đến hạnh phúc thật sụ̉. Thiên Chúa là nguồn gốc hạnh phúc thật sụ̉, và Chúa Giêsu cũng dạy tình yêu tha nhân vỏ́i tình yêu Thiên Chúa. Thủỏng yêu Thiên Chúa và chủ́ng tỏ qua tình thủỏng yêu tha nhân có thể làm cho ông ta hạnh phúc. Nhủng, dụ ngôn không nói đến tha nhân. Dụ ngôn chỉ nói đến ngủỏ̀i phú hộ tụ̉ nói vỏ̀i mình.
Đỏ̀i sống ông ta thay đổi nhanh chóng, đêm đó ông ta sẽ chết. Trong đỏ̀i sống chúng ta có nhiều cách thay đổi nhủ: kết quả của việc bác sĩ khám nghiệm; một cú điện thoại vào 2 giỏ̀ sáng; một ngủỏ̀i trong gia đình hay một ngủỏ̀i bạn thân qua đỏ̀i; bị mất việc làm; gia đình tan rả. Nhủ̃ng chuyện này và nhiều chuyện đỏ́n đau khác có thể làm đỏ̀i sống khó khăn. Nhủ̃ng điều đó có thể gây đau khổ cho chúng ta , nhủng ,nếu đỏ̀i sống chúng ta dụ̉a sâu vào Thiên Chúa là nền tảng trong nhủ̃ng lúc khó khăn, và là nền tảng giúp chúng ta năng lụ̉c để vủọ̉t qua nhủ̃ng lúc đó.
Tiền của có thể mất đi. Nhủng có thể đó là dịp cho chúng ta nghĩ của cải chúng ta nằm ỏ̉ đâu. Ngoại trủ̀ chúng ta dùng tiền của để lo cho nhu cầu căn bản hay chúng ta dùng của cải cho việc gì khác. Chúng ta có dùng tiền của chúng ta để giúp ngủỏ̀i thiếu thốn bé mọn hay không? Thì giỏ̀ có thể cho chúng ta biết phải dùng của cải khác nhủ thế nào và điều đó sẽ giúp chúng ta biết của cải chúng ta nằm ỏ̉ đâu. Đối vỏ́i nhủ̃ng ngủỏ̀i già nua, hay bị bệnh hoạn nặng, khi sắp đến cuối đỏ̀i, họ thủỏng tiếc về việc họ đã dùng thì giỏ̀. Họ sẽ nhỏ́ lại họ đã lo âu về nhủ̃ng chuyện không quan trọng và quên nghĩ đến nhủ̃ng việc thật đáng lo. "Điều gì quan trọng trong đỏ̀i sống tôi, và tôi đã làm gi về nhủ̃ng điều đó?" Nói một cách khác, chúng ta cần mỏ̉ kho lẫm để chia sẻ của cải vỏ́i kẻ khác.
Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP
18th SUNDAY -C-
Ecclesiastes 1: 2; 2:21-23; Psalm 95; Colossians 3: 1-5, 9-11; Luke 12: 13-21
When our congregation hears the Ecclesiastes reading today they will wonder who Qoheleth is. It is probably not the name of one person, but might refer to a student gathering, or a collection of wisdom sayings. People may not know the meaning of the word Qoheleth, but you don’t have to be a Bible scholar to understand the message.
The opening lines are a good summary of the whole book of Ecclesiastes: "Vanity of vanities, says Qoheleth, vanity of vanities! All things are vanity." Another translation of the Hebrew could be "breath" or "vapor." One translator has it: "utter futility!" So, "all things" are "breath," "vapor," or "utterly futility. We are reminded by Ecclesiastes that the things of this world are ephemeral. It is as if a person has reached the end of their days and is looking back. Their life is almost over and they realize they have invested their precious energies on things no more substantial than breath or vapor. What a downer!
The sage offers us plenty of material for reflection today. Where and how are we using our time and best energies? While we need to support our families, and take care of ourselves now and for the future, how much is too much? Are our energies well spent? Whom do they include and who is left out of our concerns? Ecclesiastes is part of the Hebrew wisdom literature. Despite its gloomy and pessimistic outlook, it does offer some perspective.
I want to look back on my life and feel I have, for the most part, lived it wisely. I don’t want to be shocked someday, like the man in today’s parable, who heard the dreadful accusation, "You fool, this night your life will be demanded of you; and the things you have prepared, to whom will they belong?" For the person hearing those words the opportunity to reevaluate and change has passed. He is not being offered time and he has no control over his fate – his life will be "demanded" of him.
But, unlike the man, we still have time. The parable is stark, but offers grace. Like a security alarm that warns us of danger it can, like Ecclesiastes, be shining a light on our lives and offering us wisdom. The parable presents an unfortunate, but not uncommon scene. For example, who hasn’t heard of a major conflict and break among formally close sisters and brothers over a parent’s estate? A close relationship is torn to pieces. Even when parents did what they could to prevent this type of conflict, after their deaths, the children go to court to get what they can from the inheritance. The arguments aren’t usually over the necessities for survival, but a grab for as much as possible. We seem to want more and more, thinking that will make us happy. Meanwhile, there is that intrusive voice that enters the scene and says, "You fool…." Jesus has also taught elsewhere that it is not our riches that can secure life. Maybe the parable will open our eyes and help us put limits on how much we want – and help us construct a boundary between sanity and insanity.
A long time ago Peggy Lee had a popular song called, "Is That All There Is?" It was a song of dissatisfaction and disappointment. Is that how the man in the parable was acting? Did he not see beyond this present life? Did he conclude that this life was all there was for him so, as Peggy Lee sang, "If that’s all there is my friends, then let’s keep dancing. Let’s break out the booze and have a ball. If that’s all there is."
The rich man lived as if, "that’s all there is." If he were a devout Jew he would have acknowledged the bountiful harvest he had as a gift from God. He would have shared with those who were in need. There is no mention in the parable that he had family. Would they have had any say in what he did with his rich harvest? Nor did he ask advice from his workers and friends. Jesus sums it up when he says, "Thus will it be for all who store up treasure for themselves, but are not rich in what matters to God."
The man’s focus was himself. His chief advisor was himself. The only beneficiary to his actions would be himself. Notice how many times "I" is used in his decision-making. God’s response: "You fool." He consulted a fool for advice and got a fool’s response. The man loved his riches, that’s where his heart was. But he would have no opportunity to enjoy his wealth, because he would die that night. Do we presume God is going to strike him dead? There are other possible causes for his death. A rich man who hoarded his wealth could have been killed by thieves, disgruntled workers, even a jealous member of his family. It wouldn’t be the first time.
Jesus accuses the man of not being "rich in what matters to God." He was habitually disposed to think of himself first, instead of pondering where true happiness lies and then acting on what he discovered. God is the source of true happiness and Jesus links love of neighbor with love of God. Loving God and showing it through love of neighbor would have brought him happiness. But there is no mention of neighbor in this parable; it is just the man talking to himself.
The man’s life is about to take a sudden turn; he will die that night. There are other ways for our lives to take sudden turns: the results of a medical exam; the phone call at 2 AM; the death of a family member, or beloved friend; a layoff at work; the breakup of a marriage. These and many other crises can make life very difficult to bear; but they can be devastating if our lives are not rooted in God, who is our rock in hard times and our strength to see us through.
Money can give out on us. But it can also be the means by which we express where our treasure lies. Besides using it to cover life’s basic needs, how else do we use our resources? Do we use our money to care for the least? And it isn’t just about money, is it? Our calendar can tell us how we use another treasure – our time – and it will show where our treasure lies. As the end approaches the elderly, or terminally ill, sometimes express regret with how they used their time. They will recall how they worried and were fretful over unimportant concerns and lost sight of what really mattered. Why wait till the end? Why not put this question to ourselves. "What really matters in my life and what am I doing about it?" To put it another way: we need to open our barn doors and share our treasures with others.
Không nên thu tích cúa cái
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
03:50 28/07/2016
Chúa Nhật XVIII THƯỜNG NIÊN, năm C
Lc 12, 13 – 21
KHÔNG NÊN THU TÍCH CỦA CẢI
Chúa đến trần gian để dạy cho con người về tìm được sự sống đời đời .Bởi vì, con người sinh ra trên đời này, cơm gạo bạc tiền, vật chất luôn là những cám dỗ làm cho con người nhiều khi quên đi điều chính yếu không phải chỉ chăm chú vào những của cải hay hư nát ở đời này, nhưng mục đích chính của nhân loại, của con người là tìm của cải không hư nát, đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sống ở thế giới, sống nơi gian trần, của cải, vật chất, lương thực là cần thiết thật nhưng là người Công Giáo : phẩm giá của con người không cho chúng ta dừng lại nơi những thực tại hữu hình ở trần gian này. Trong Cựu Ước, Ông Côhêlét đã nói :” Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân “ ( Gv 1, 2 ).
Do đó, nếu chúng ta tưởng rằng của cải ở trần gian này là mục đích chính yếu thì họ đã lầm . Thực tế, Thánh Vịnh 39 đã cho chúng ta thấy rõ sự mau qua của đời này như thế nào :” Tuổi đời con Chúa đo cho vài gang tấc, kiếp sống này, Chúa kể bằng không. Sống ở đời, con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng trên đường tựa bóng câu.Công vất vả vả việc làm ngược xuôi:làn gió thoảng, ký cóp mà chẳng ai hay sẽ hưởng dùng “. Dụ ngôn người phú hộ giầu có cho chúng ta hiểu rõ điều này. Người phú hộ ngu xuẩn, có của cải dư thừa, đến nỗi phải xây kho lẫm to lớn hơn để chứa của cải. Cái dại dột của người phú hộ là luôn dựa vào của cải, luôn níu kéo của cải, ông ta không nghĩ rằng một lúc nào đó ông cũng phải chết đột ngột, không thể mang theo được bất cứ thứ gì đi theo…Ông phú hộ cứ tưởng sư giầu sang, dư của, lắm tiền sẽ làm cho ông sống mãi: ông không nghĩ tới cái chết bao giờ cả. Ông tham lam và như nhiều người khác ở thế gian này tham lam, bao nhiêu tiền của cũng không đủ, càng có tiền, càng muốn có thêm. Ông và nhiều ngươi cứ tưởng lắm của là bảo đảm được hạnh phúc ở đời này, do đó, không cần kiếm những giá trị vĩnh viễn, của cải không bị ten sét, mối mọt gặm nhấm vv…Tuy nhiên, ông phú hộ và nhiều người đã lầm tưởng vì tất cả đều phải chết và khi chết họ sẽ đòi phải trả lời trước Chúa, và như thế sự sống vĩnh cửu họ cũng bị mất !.
Lời Chúa Chúa Nhật XVIII thường niên, năm C cho chúng ta hiểu thế nào là giầu có của cải ở trần gian. Chúa đã gọi những kẻ giầu có kiểu này là những kẻ ngu xuẩn. Thực tế, cái ngu xuẩn, dại khờ của người phú hộ là không nhìn xa, thấy rộng. ông ta chỉ xây lẫm và không nhìn ra khỏi cái kho lẫm của mình. Ông ngu dại đến nỗi không để một ngõ ngách nào để có thể nhìn thấy anh Lazarô đói nghèo đang nằm chờ từng miếng vụn của bánh mì trên bàn của ông phú hộ rơi xuống. Cái mỉa mai là chỉ có con chó đến liếm những chỗ ghẻ chốc cho anh Lazarô! Cái ngu dại khác là ông phú hộ cũng không biết rằng sau khi chết mình chẳng có thể đem được bất cứ gì đi theo với mình.
Vâng, những kẻ ngu xuẩn, dại khờ là những kẻ sống nhưng không biết mình sống để làm gì, của cải mình làm với mục đích gì và chết rồi mình sẽ đi về đâu ? Những kẻ ngu dại là những kẻ lấy cái phụ làm cái chính, lấy của cải, lấy thú vui, quyền lợi, danh vọng làm mục đích, cùng đích của cuộc đời. Những người này không biết chia sẻ của cải Chúa ban, chà đạp người nghèo và tranh giành với người khác, đặc biệt với những người thấp cổ bé họng, những người nghèo khổ để làm giầu cho bản thân và gia đình của mình vv…Đời sống con người quả thực không dài nhưng nhiều khi cái khó nó bó cái khôn làm cho con người ra ngu dai để chỉ biết nhìn thật gần mà không biết nhìn xa và không biết làm những hành động bác ái tỏa sáng vv…
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mọi người, nhắc nhớ chúng ta :” Sự sống đời này thật mau qua “ như người xưa thường ví von “ cuộc sống là phù du, như hoa sớm nở, chiều tàn vv…”. Sự sống vĩnh cửu, của ăn trường tồn mới là điều con người và chúng ta phải đầu tư lâu dài để tìm kiếm.Con người chúng ta phải có những định hướng và chấn chỉnh theo đúng Lời Chúa để cuộc đời chúng ta được hạnh phúc tròn đầy. Chúng ta là người có niềm tin, chúng ta phải sống đúng niềm tin để giữa sự bon chen của cuộc sống, chúng ta vẫn là những người khôn ngoan theo ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống ô tạp, bon chen, xin Chúa giúp chúng con biết chọn lựa và tìm kiếm những của cải thường tồn là của cải mà Chúa muốn chúng con tìm kiếm.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Cái ngu dại của người phú hộ là gì ?
2.Người ta có sống mãi ở đời để hưởng thụ không ?
3.Khôn ngoan của người đời là gì ?
4.Người có đức tin phải sống thế nào giữa cuộc đời đầy bon chen này ?
5.Giá trị của Nước Trời là gì ?
Lc 12, 13 – 21
KHÔNG NÊN THU TÍCH CỦA CẢI
Chúa đến trần gian để dạy cho con người về tìm được sự sống đời đời .Bởi vì, con người sinh ra trên đời này, cơm gạo bạc tiền, vật chất luôn là những cám dỗ làm cho con người nhiều khi quên đi điều chính yếu không phải chỉ chăm chú vào những của cải hay hư nát ở đời này, nhưng mục đích chính của nhân loại, của con người là tìm của cải không hư nát, đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sống ở thế giới, sống nơi gian trần, của cải, vật chất, lương thực là cần thiết thật nhưng là người Công Giáo : phẩm giá của con người không cho chúng ta dừng lại nơi những thực tại hữu hình ở trần gian này. Trong Cựu Ước, Ông Côhêlét đã nói :” Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân “ ( Gv 1, 2 ).
Do đó, nếu chúng ta tưởng rằng của cải ở trần gian này là mục đích chính yếu thì họ đã lầm . Thực tế, Thánh Vịnh 39 đã cho chúng ta thấy rõ sự mau qua của đời này như thế nào :” Tuổi đời con Chúa đo cho vài gang tấc, kiếp sống này, Chúa kể bằng không. Sống ở đời, con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng trên đường tựa bóng câu.Công vất vả vả việc làm ngược xuôi:làn gió thoảng, ký cóp mà chẳng ai hay sẽ hưởng dùng “. Dụ ngôn người phú hộ giầu có cho chúng ta hiểu rõ điều này. Người phú hộ ngu xuẩn, có của cải dư thừa, đến nỗi phải xây kho lẫm to lớn hơn để chứa của cải. Cái dại dột của người phú hộ là luôn dựa vào của cải, luôn níu kéo của cải, ông ta không nghĩ rằng một lúc nào đó ông cũng phải chết đột ngột, không thể mang theo được bất cứ thứ gì đi theo…Ông phú hộ cứ tưởng sư giầu sang, dư của, lắm tiền sẽ làm cho ông sống mãi: ông không nghĩ tới cái chết bao giờ cả. Ông tham lam và như nhiều người khác ở thế gian này tham lam, bao nhiêu tiền của cũng không đủ, càng có tiền, càng muốn có thêm. Ông và nhiều ngươi cứ tưởng lắm của là bảo đảm được hạnh phúc ở đời này, do đó, không cần kiếm những giá trị vĩnh viễn, của cải không bị ten sét, mối mọt gặm nhấm vv…Tuy nhiên, ông phú hộ và nhiều người đã lầm tưởng vì tất cả đều phải chết và khi chết họ sẽ đòi phải trả lời trước Chúa, và như thế sự sống vĩnh cửu họ cũng bị mất !.
Lời Chúa Chúa Nhật XVIII thường niên, năm C cho chúng ta hiểu thế nào là giầu có của cải ở trần gian. Chúa đã gọi những kẻ giầu có kiểu này là những kẻ ngu xuẩn. Thực tế, cái ngu xuẩn, dại khờ của người phú hộ là không nhìn xa, thấy rộng. ông ta chỉ xây lẫm và không nhìn ra khỏi cái kho lẫm của mình. Ông ngu dại đến nỗi không để một ngõ ngách nào để có thể nhìn thấy anh Lazarô đói nghèo đang nằm chờ từng miếng vụn của bánh mì trên bàn của ông phú hộ rơi xuống. Cái mỉa mai là chỉ có con chó đến liếm những chỗ ghẻ chốc cho anh Lazarô! Cái ngu dại khác là ông phú hộ cũng không biết rằng sau khi chết mình chẳng có thể đem được bất cứ gì đi theo với mình.
Vâng, những kẻ ngu xuẩn, dại khờ là những kẻ sống nhưng không biết mình sống để làm gì, của cải mình làm với mục đích gì và chết rồi mình sẽ đi về đâu ? Những kẻ ngu dại là những kẻ lấy cái phụ làm cái chính, lấy của cải, lấy thú vui, quyền lợi, danh vọng làm mục đích, cùng đích của cuộc đời. Những người này không biết chia sẻ của cải Chúa ban, chà đạp người nghèo và tranh giành với người khác, đặc biệt với những người thấp cổ bé họng, những người nghèo khổ để làm giầu cho bản thân và gia đình của mình vv…Đời sống con người quả thực không dài nhưng nhiều khi cái khó nó bó cái khôn làm cho con người ra ngu dai để chỉ biết nhìn thật gần mà không biết nhìn xa và không biết làm những hành động bác ái tỏa sáng vv…
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mọi người, nhắc nhớ chúng ta :” Sự sống đời này thật mau qua “ như người xưa thường ví von “ cuộc sống là phù du, như hoa sớm nở, chiều tàn vv…”. Sự sống vĩnh cửu, của ăn trường tồn mới là điều con người và chúng ta phải đầu tư lâu dài để tìm kiếm.Con người chúng ta phải có những định hướng và chấn chỉnh theo đúng Lời Chúa để cuộc đời chúng ta được hạnh phúc tròn đầy. Chúng ta là người có niềm tin, chúng ta phải sống đúng niềm tin để giữa sự bon chen của cuộc sống, chúng ta vẫn là những người khôn ngoan theo ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống ô tạp, bon chen, xin Chúa giúp chúng con biết chọn lựa và tìm kiếm những của cải thường tồn là của cải mà Chúa muốn chúng con tìm kiếm.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Cái ngu dại của người phú hộ là gì ?
2.Người ta có sống mãi ở đời để hưởng thụ không ?
3.Khôn ngoan của người đời là gì ?
4.Người có đức tin phải sống thế nào giữa cuộc đời đầy bon chen này ?
5.Giá trị của Nước Trời là gì ?
Gia Nghiệp
Lm Vũđình Tường
07:12 28/07/2016
Nói đến gia nghiệp là nói đến những gì người đi sau nhận được của người đi trước để lại. Gia nghiệp không thuần mang í nghĩa của cải vật chất mà nặng về tinh thần, sức sống, sự khôn ngoan, cái hay, điều tốt, tiền nhân tích trữ qua kinh nghiệm sống. Như thế hưởng gia nghiệp là hưởng những gì cao quí, tốt lành và thánh thiện. Chính những tinh tuý của tiền nhân để lại giúp cho thế hệ sau tiến thêm hơn nữa trên con đường trở nên trọn lành. Thực phẩm cần cho thân xác và tâm hồn -Tâm hồn trong bài này tạm hiểu đó là khối óc -Tuy nhiên tâm hồn không dùng chung thực phẩm thân xác dùng mà cần thực phẩm riêng cho tâm linh. Tâm hồn vui hưởng âm nhạc, tìm vui qua sách báo, thanh thản hưởng cảnh mặt trời lặn ngoài đại dương hay mặt trời mọc trong buổi sáng tinh mơ. Tâm hồn cũng thích bay bổng thả hồn vào trăng, sao, vui hồn nhiên cùng mây vần vũ. Tâm hồn không phải tìm vui cho tâm hồn mà thực sự học hỏi, phân tích trước khi tích luỹ, chắt lọc điều thiện hảo, làm giầu đời sống nội tâm và chuẩn bị hành trang cho cuộc sống tương lai. Tương lai đây là tương lai cho chính cá nhân người đó và nếu là bộ óc thông minh xuất chúng những kinh nghiệm quí báu đó còn để lại cho thế hệ mai sau. Con cháu hưởng gia nghiệp đó qua sách vở, tài liệu và các phương tiện truyền thông.
Tâm hồn vươn ra, hướng thượng bởi bản tính mong tìm kiếm chân lí của tâm hồn. Tâm hồn không bao giờ thoả mãn ở mức độ vật chất nhưng luôn muốn vươn cao lên mãi, vượt ra khỏi chính nó để học hỏi thêm về bí mật của vũ trụ mong trả lời khúc mắc con người từ đâu đến và cuối đời đi về đâu. Gia nghiệp tiền nhân để lại có nhiều câu trả lời cho vấn đề này. Các câu trả lời không đồng nhất bởi nhận thức khác biệt về đời sống tâm linh của từng thế hệ. Có những điều thế hệ trước coi là huyền bí thế hệ sau có câu giải đáp thoả đáng. Dẫu vậy vẫn còn nhiều vấn nạn chưa có câu giải đáp thích hợp. Sự khác biệt đa dạng gây nên bởi tính phức tạp và vô hạn của thế giới vật chất và thế giới tâm linh. Tâm hồn có nhận thức nhiều vể thế giới vật chất nhưng rất giới hạn về thế giới vô hình. Cả hai thế giới chứa nhiều điều kì diệu, mỗi ngày tâm hồn đều có khám phá mới và tâm hồn cũng nhận biết những khám phá mới này vô cùng tận, vì càng khám phá thêm, tâm hồn cảm nhận vũ trụ chúng ta đang sống vĩ đại hơn cảm nghĩ lúc đầu, hơn nữa chính vũ trụ cũng đang lớn rộng từng giây phút, nhanh hơn những khám phá của tâm hồn.
Vấn đề người xưa và ngày nay người ta đang tìm kiếm có lẽ không nằm ở câu hỏi có Đấng Tạo Hoá hay không mà chính là khả năng của khối óc. Có hai trường phái đối nghịch. Một cho là khối óc con người là vô tận và có khả năng giải thích được mọi sự, nếu ngày nay chưa có câu trả lời cho vấn đề không có nghĩa là khối óc đầu hàng mà chính là chưa tìm ra câu trả lời. Trường phái khác cho là khối óc con người có giới hạn và không thể có câu trả lời thích đáng cho tất cả mọi vấn đề. Khi tìm hiểu liên quan đến Đấng Tạo Hoá thì cả hai trường phái đều bảo thủ, xác quyết quan điểm của mình đúng. Điều xác quyết này hoàn toàn trái với nhận thức khối óc dù tài giỏi đến đâu cũng có lúc sai lầm. Nhóm chấp nhận khối óc có giới hạn không chấp nhận giải thích của nhóm kia cho là vũ trụ hiện tại xảy ra do ‘tự nhiên mà có - happen by chance’. Nhóm chấp nhận giới hạn của khối óc tin là vũ trụ này do Đấng Sáng Tạo dựng nên.
Hậu thế hưởng gia nghiệp của tiền nhân gồm cả nhận thức tổng quát về vũ trụ lẫn niềm tin tâm linh bởi chúng là nền tảng giúp con người hướng tiến về tương lai. Kitô hữu hưởng gia nghiệp về nhận thức vũ trụ cộng thêm niềm tin vào Đấng Tạo Hoá; tngười từ chối tin vào Đấng Tạo Hoá không hưởng gia nghiệp đức tin này. Đặt niềm tin vào Đức Kitô mang lại một hy vọng lớn lao cho cuộc sống trường sinh và đó là gia nghiệp đời đời bởi chính Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết và những ai tin vào Ngài cũng sẽ hưởng thành quả sống lại vinh quang của chính Đức Kitô - món quà từ trời cao.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Tâm hồn vươn ra, hướng thượng bởi bản tính mong tìm kiếm chân lí của tâm hồn. Tâm hồn không bao giờ thoả mãn ở mức độ vật chất nhưng luôn muốn vươn cao lên mãi, vượt ra khỏi chính nó để học hỏi thêm về bí mật của vũ trụ mong trả lời khúc mắc con người từ đâu đến và cuối đời đi về đâu. Gia nghiệp tiền nhân để lại có nhiều câu trả lời cho vấn đề này. Các câu trả lời không đồng nhất bởi nhận thức khác biệt về đời sống tâm linh của từng thế hệ. Có những điều thế hệ trước coi là huyền bí thế hệ sau có câu giải đáp thoả đáng. Dẫu vậy vẫn còn nhiều vấn nạn chưa có câu giải đáp thích hợp. Sự khác biệt đa dạng gây nên bởi tính phức tạp và vô hạn của thế giới vật chất và thế giới tâm linh. Tâm hồn có nhận thức nhiều vể thế giới vật chất nhưng rất giới hạn về thế giới vô hình. Cả hai thế giới chứa nhiều điều kì diệu, mỗi ngày tâm hồn đều có khám phá mới và tâm hồn cũng nhận biết những khám phá mới này vô cùng tận, vì càng khám phá thêm, tâm hồn cảm nhận vũ trụ chúng ta đang sống vĩ đại hơn cảm nghĩ lúc đầu, hơn nữa chính vũ trụ cũng đang lớn rộng từng giây phút, nhanh hơn những khám phá của tâm hồn.
Vấn đề người xưa và ngày nay người ta đang tìm kiếm có lẽ không nằm ở câu hỏi có Đấng Tạo Hoá hay không mà chính là khả năng của khối óc. Có hai trường phái đối nghịch. Một cho là khối óc con người là vô tận và có khả năng giải thích được mọi sự, nếu ngày nay chưa có câu trả lời cho vấn đề không có nghĩa là khối óc đầu hàng mà chính là chưa tìm ra câu trả lời. Trường phái khác cho là khối óc con người có giới hạn và không thể có câu trả lời thích đáng cho tất cả mọi vấn đề. Khi tìm hiểu liên quan đến Đấng Tạo Hoá thì cả hai trường phái đều bảo thủ, xác quyết quan điểm của mình đúng. Điều xác quyết này hoàn toàn trái với nhận thức khối óc dù tài giỏi đến đâu cũng có lúc sai lầm. Nhóm chấp nhận khối óc có giới hạn không chấp nhận giải thích của nhóm kia cho là vũ trụ hiện tại xảy ra do ‘tự nhiên mà có - happen by chance’. Nhóm chấp nhận giới hạn của khối óc tin là vũ trụ này do Đấng Sáng Tạo dựng nên.
Hậu thế hưởng gia nghiệp của tiền nhân gồm cả nhận thức tổng quát về vũ trụ lẫn niềm tin tâm linh bởi chúng là nền tảng giúp con người hướng tiến về tương lai. Kitô hữu hưởng gia nghiệp về nhận thức vũ trụ cộng thêm niềm tin vào Đấng Tạo Hoá; tngười từ chối tin vào Đấng Tạo Hoá không hưởng gia nghiệp đức tin này. Đặt niềm tin vào Đức Kitô mang lại một hy vọng lớn lao cho cuộc sống trường sinh và đó là gia nghiệp đời đời bởi chính Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết và những ai tin vào Ngài cũng sẽ hưởng thành quả sống lại vinh quang của chính Đức Kitô - món quà từ trời cao.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Suy niệm lễ thánh Matha
Lm. Anthony Trung Thành
08:18 28/07/2016
LẾ THÁNH MATHA
Lời Chúa : Lc 10,38-42
Một hôm, Đức Giê-su vào một làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói : "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !" Chúa đáp : "Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."
Suy Niệm LẾ THÁNH MATHA
Thánh Matha quê ở Bethany. Ngài có em gái là Maria và em trai là Lazarô. Tin mừng kể lại hai biến cố đặc biệt có sự hiện diện của Thánh Matha.
Biến cố thứ nhất, việc Chúa Giêsu và các môn đệ tới thăm nhà của thánh Matha (x. Lc 10,38-42). Biến cố này cho chúng ta thấy lòng hiếu khách và tinh thần phục vụ của thánh nhân. Thánh Nữ đã lo lắng chuẩn bị mọi thứ để đón tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ. Chắc chắn Chúa Giêsu rất hài lòng về sự phục vụ này, bởi vị thánh nhân đã họa lại tinh thần của Ngài, như Ngài nói: “Ta đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ…” (x. Mt 20,28). Ngài cũng kêu mời các môn đệ luôn phải có tinh thần phục vụ: “Người làm lớn phải là người phục vụ” (x. Mt 20, 25-27). Nhưng trong phục vụ không được ghen tương: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !"(Lc 10, 40) , mà cần phải có sự khiêm nhường và lòng yêu mến. Mặt khác, người phục vụ luôn cần phải kết hợp với cầu nguyện, cần phải lắng nghe Chúa nói. Chính vì vậy, Chúa Giêsu mới nhắc nhở Matha rằng: "Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi" (Lc 10, 31-42).
Trong thực tế nhiều người trong chúng ta cũng giống như thái độ của Matha “lo lắng nhiều chuyện quá”: Nhiều người quá lo lắng về của cải vật chất, công ăn việc làm, cái ăn cái mặc nhưng quên đi việc cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích; nhiều người cha người mẹ lo lắng vất vả kiếm cho được nhiều tiền, lo chạy trường chạy lớp cho con cái, lo đủ thứ cho con cái...Nhưng lại thiếu trách nhiệm với con cái trong đời sống nhân bản và đức tin. Kết quả sẽ như thế nào? Tôi có gặp một gia đình người Việt đang sống ở Mỹ. Ông bà có năm người con, tất cả đều sinh ra ở Việt Nam. Khi qua Mỹ, chúng đang còn nhỏ và được gửi tới các trường học. Ông bà lo lắng mọi cách để kiếm tiền. Vì công việc cho nên, cha mẹ con cái ít khi gặp nhau. Có khi cả tuần cha mẹ con cái mới gặp nhau được một lần. Không duy trì được thói quen giáo dục nhân bản và đức tin cho con cái như khi trước. Vì thế, tình cảm giữa cha mẹ và con cái càng ngày càng nhạt. Đời sống đạo và các truyền thống tốt đẹp khác nơi con cái cũng nhật dần…Giờ có tuổi rồi, ông bà mới cảm thấy hối hận. Ông bà nói: “giá như khi đó, ít làm việc hơn, dành thời gian nhiều hơn quan tâm tới con cái, đọc kinh cầu nguyện chung với con cái trong gia đình…thì có lẽ bây giờ chắc chắn chúng sẽ tốt hơn”. Nhưng mọi sự đều quá muộn.
Biến cố thứ hai, sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ cho Lazaro đã chết bốn ngày được sống lại (x. Ga 11, 1-44). Qua biến này, cho chúng ta thấy được lòng tin của Thánh Matha vào Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11, 21-22). Không những Matha tin vào việc Chúa Giêsu có thể làm cho kẻ chết sống lại mà Thánh nhân còn tin vào sự sống lại. Chúng ta biết được điều đó qua đoạn trao đổi giữa Thánh Nhân và Chúa Giêsu sau đây: “Đức Giê-su nói: ‘Em chị sẽ sống lại!’ Cô Mác-ta thưa: ‘Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.’Đức Giê-su liền phán: ‘Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?’ Cô Mác-ta đáp: ‘Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian’” (Ga 11, 23-27).
Qua hai biến cố trên chứng tỏ sự gắn bó, tin tưởng của Thánh Matha đối với Chúa Giêsu và tinh thần cộng tác, sự phục vụ của thánh nhân đối với công cuộc loan báo Tin mừng. Coi Chúa như là người bạn chân thành. Chúa Giêsu cũng coi gia đình của Thánh Matha là nơi thân quen, nơi để nghỉ ngơi sau những hành trình truyền giáo vất vả. Mỗi người chúng ta hãy học nơi Thánh Nhân, luôn coi Chúa như là người bạn để biết tiếp đón Chúa một cách chân thành: đón tiếp Chúa qua đời sống cầu nguyện; đón tiếp Chúa qua việc suy gẫm Lời Chúa; đón tiếp Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể; đón tiếp Chúa qua việc từ thiện, bác ái: “Vì khi ta đói các ngươi cho ăn, khi ta khát các ngươi cho uống…” (x. Mt 25, 31-46).
Xin cho tất cả chúng ta luôn biết noi gương thánh nhân về tinh thần phục vụ, sống gắn bó với Chúa, tin tưởng nơi Chúa, nhất là tin vào sự sống lại, vì đó là niềm tin chủ đạo điều khiển cuộc sống của mỗi người kitô hữu chúng ta. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
Lời Chúa : Lc 10,38-42
Một hôm, Đức Giê-su vào một làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói : "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !" Chúa đáp : "Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."
Suy Niệm LẾ THÁNH MATHA
Thánh Matha quê ở Bethany. Ngài có em gái là Maria và em trai là Lazarô. Tin mừng kể lại hai biến cố đặc biệt có sự hiện diện của Thánh Matha.
Biến cố thứ nhất, việc Chúa Giêsu và các môn đệ tới thăm nhà của thánh Matha (x. Lc 10,38-42). Biến cố này cho chúng ta thấy lòng hiếu khách và tinh thần phục vụ của thánh nhân. Thánh Nữ đã lo lắng chuẩn bị mọi thứ để đón tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ. Chắc chắn Chúa Giêsu rất hài lòng về sự phục vụ này, bởi vị thánh nhân đã họa lại tinh thần của Ngài, như Ngài nói: “Ta đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ…” (x. Mt 20,28). Ngài cũng kêu mời các môn đệ luôn phải có tinh thần phục vụ: “Người làm lớn phải là người phục vụ” (x. Mt 20, 25-27). Nhưng trong phục vụ không được ghen tương: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !"(Lc 10, 40) , mà cần phải có sự khiêm nhường và lòng yêu mến. Mặt khác, người phục vụ luôn cần phải kết hợp với cầu nguyện, cần phải lắng nghe Chúa nói. Chính vì vậy, Chúa Giêsu mới nhắc nhở Matha rằng: "Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi" (Lc 10, 31-42).
Trong thực tế nhiều người trong chúng ta cũng giống như thái độ của Matha “lo lắng nhiều chuyện quá”: Nhiều người quá lo lắng về của cải vật chất, công ăn việc làm, cái ăn cái mặc nhưng quên đi việc cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích; nhiều người cha người mẹ lo lắng vất vả kiếm cho được nhiều tiền, lo chạy trường chạy lớp cho con cái, lo đủ thứ cho con cái...Nhưng lại thiếu trách nhiệm với con cái trong đời sống nhân bản và đức tin. Kết quả sẽ như thế nào? Tôi có gặp một gia đình người Việt đang sống ở Mỹ. Ông bà có năm người con, tất cả đều sinh ra ở Việt Nam. Khi qua Mỹ, chúng đang còn nhỏ và được gửi tới các trường học. Ông bà lo lắng mọi cách để kiếm tiền. Vì công việc cho nên, cha mẹ con cái ít khi gặp nhau. Có khi cả tuần cha mẹ con cái mới gặp nhau được một lần. Không duy trì được thói quen giáo dục nhân bản và đức tin cho con cái như khi trước. Vì thế, tình cảm giữa cha mẹ và con cái càng ngày càng nhạt. Đời sống đạo và các truyền thống tốt đẹp khác nơi con cái cũng nhật dần…Giờ có tuổi rồi, ông bà mới cảm thấy hối hận. Ông bà nói: “giá như khi đó, ít làm việc hơn, dành thời gian nhiều hơn quan tâm tới con cái, đọc kinh cầu nguyện chung với con cái trong gia đình…thì có lẽ bây giờ chắc chắn chúng sẽ tốt hơn”. Nhưng mọi sự đều quá muộn.
Biến cố thứ hai, sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ cho Lazaro đã chết bốn ngày được sống lại (x. Ga 11, 1-44). Qua biến này, cho chúng ta thấy được lòng tin của Thánh Matha vào Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11, 21-22). Không những Matha tin vào việc Chúa Giêsu có thể làm cho kẻ chết sống lại mà Thánh nhân còn tin vào sự sống lại. Chúng ta biết được điều đó qua đoạn trao đổi giữa Thánh Nhân và Chúa Giêsu sau đây: “Đức Giê-su nói: ‘Em chị sẽ sống lại!’ Cô Mác-ta thưa: ‘Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.’Đức Giê-su liền phán: ‘Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?’ Cô Mác-ta đáp: ‘Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian’” (Ga 11, 23-27).
Qua hai biến cố trên chứng tỏ sự gắn bó, tin tưởng của Thánh Matha đối với Chúa Giêsu và tinh thần cộng tác, sự phục vụ của thánh nhân đối với công cuộc loan báo Tin mừng. Coi Chúa như là người bạn chân thành. Chúa Giêsu cũng coi gia đình của Thánh Matha là nơi thân quen, nơi để nghỉ ngơi sau những hành trình truyền giáo vất vả. Mỗi người chúng ta hãy học nơi Thánh Nhân, luôn coi Chúa như là người bạn để biết tiếp đón Chúa một cách chân thành: đón tiếp Chúa qua đời sống cầu nguyện; đón tiếp Chúa qua việc suy gẫm Lời Chúa; đón tiếp Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể; đón tiếp Chúa qua việc từ thiện, bác ái: “Vì khi ta đói các ngươi cho ăn, khi ta khát các ngươi cho uống…” (x. Mt 25, 31-46).
Xin cho tất cả chúng ta luôn biết noi gương thánh nhân về tinh thần phục vụ, sống gắn bó với Chúa, tin tưởng nơi Chúa, nhất là tin vào sự sống lại, vì đó là niềm tin chủ đạo điều khiển cuộc sống của mỗi người kitô hữu chúng ta. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:01 28/07/2016
84. HỌC BƠI TRÊN BỜ.
Có một người ở phương bắc rất là dũng cảm, đứng bộ tấn giống như người giỏi võ, làm việc gì cũng không sợ, nhưng chỉ có điều là không biết bơi lội, mỗi lần nhìn thấy người khác lặn sâu dưới nước bơi như cá, linh hoạt như ý, thì rất là ngưỡng mộ, thế là bèn đi thỉnh giáo người ấy.
Người ấy đem cách bơi dưới nước và phải lấy hơi như thế nào để nói cho anh ta biết, sau khi nghe xong thì anh ta cảm thấy rất là đơn giản, bèn chạy đến bên sông và tung người nhảy xuống sông. Nhưng ai mà biết được anh ta bơi như thế nào nên đứng đợi thử xem mà chẳng kéo anh ta lên, bởi vì nguyên tắc chủ yếu để biết bơi thì anh ta chưa nhớ mà đã vội quên, cho nên khi vừa nhào xuống nước là chân tay đập tứ tung loạn xà ngầu.
Và tiếp theo thì “ùm ùm, ùm ùm” rồi uống mấy ngụm nước, không bao lâu thì hết hơi.
(Tô Đông Pha tập)
Suy tư 84:
Nói thì dễ, mà làm thì khó.
Nói lý thuyết về cách bơi, cách nín thở khi bơi thì dễ, đó gọi là học bởi trên bờ; nhưng khi nhảy xuống sông thì bị chìm mất tiêu, nói và hành phải đi đôi với nhau.
Nói kính mến Thiên Chúa thì rất là dễ, nhưng hễ mỗi lần đi dâng thánh lễ thì giống như đi lên đoạn đầu đài không bằng, vì thánh lễ đối với họ là một sự lãng phí thời gian vô ích !
Nói yêu người như chính mình thì dễ, nhưng hể thấy ai đụng chạm đến mình thì phùng má trợn mắt lên mà chửi.
Nói ra những khuyết điểm của anh em, của chị em, của tha nhân thì dễ, nhưng sửa chữa những khuyết điểm của mình thì rất khó.
Thiên Chúa không muốn chúng ta tố cáo anh em chị em vì những khuyết điểm của họ, bởi vì chỉ có ma quỷ mới tố cáo vì ghen ghét, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn thấy khuyết điểm của người khác mà răn đe mình, sửa đổi mình và cầu nguyện cho họ.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Có một người ở phương bắc rất là dũng cảm, đứng bộ tấn giống như người giỏi võ, làm việc gì cũng không sợ, nhưng chỉ có điều là không biết bơi lội, mỗi lần nhìn thấy người khác lặn sâu dưới nước bơi như cá, linh hoạt như ý, thì rất là ngưỡng mộ, thế là bèn đi thỉnh giáo người ấy.
Người ấy đem cách bơi dưới nước và phải lấy hơi như thế nào để nói cho anh ta biết, sau khi nghe xong thì anh ta cảm thấy rất là đơn giản, bèn chạy đến bên sông và tung người nhảy xuống sông. Nhưng ai mà biết được anh ta bơi như thế nào nên đứng đợi thử xem mà chẳng kéo anh ta lên, bởi vì nguyên tắc chủ yếu để biết bơi thì anh ta chưa nhớ mà đã vội quên, cho nên khi vừa nhào xuống nước là chân tay đập tứ tung loạn xà ngầu.
Và tiếp theo thì “ùm ùm, ùm ùm” rồi uống mấy ngụm nước, không bao lâu thì hết hơi.
(Tô Đông Pha tập)
Suy tư 84:
Nói thì dễ, mà làm thì khó.
Nói lý thuyết về cách bơi, cách nín thở khi bơi thì dễ, đó gọi là học bởi trên bờ; nhưng khi nhảy xuống sông thì bị chìm mất tiêu, nói và hành phải đi đôi với nhau.
Nói kính mến Thiên Chúa thì rất là dễ, nhưng hễ mỗi lần đi dâng thánh lễ thì giống như đi lên đoạn đầu đài không bằng, vì thánh lễ đối với họ là một sự lãng phí thời gian vô ích !
Nói yêu người như chính mình thì dễ, nhưng hể thấy ai đụng chạm đến mình thì phùng má trợn mắt lên mà chửi.
Nói ra những khuyết điểm của anh em, của chị em, của tha nhân thì dễ, nhưng sửa chữa những khuyết điểm của mình thì rất khó.
Thiên Chúa không muốn chúng ta tố cáo anh em chị em vì những khuyết điểm của họ, bởi vì chỉ có ma quỷ mới tố cáo vì ghen ghét, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn thấy khuyết điểm của người khác mà răn đe mình, sửa đổi mình và cầu nguyện cho họ.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:03 28/07/2016
16. Phục tùng là được con đường bình an.
(Thánh Dolerthe)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Giữ mình khỏi mọi thứ tham lam
Lm. Đan Vinh
21:53 28/07/2016
HIỆP SỐNG TIN MỪNG : CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN C
Gv 1,2; 2,21-23 ; Cl 3,1-5.9-11 ; Lc 12,13-21
GIỮ MÌNH KHỎI MỌI THỨ THAM LAM
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 12,13-21
(13) Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. (14) Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?” (15) Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam. Vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. (16) Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, (17) mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây ? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu ! (18) Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. (19) Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: Hồn ta hỡi. Mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !”. (20) Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?” (21) Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó”.
2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần chính như sau:
- PHẦN THỨ NHẤT: Một anh thanh niên đến khiếu nại xin Đức Giêsu can thiệp để người anh phải chia gia tài cho anh ta. Nhưng Người từ chối, và nhân dịp này đã dạy mọi người phải tránh thói tham lam ích kỷ, cũng đừng trông cậy vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời mình.
- PHẦN THỨ HAI: Người kể ra dụ ngôn về một người giàu có chỉ lo thu tích của cải và làm giàu cho bản thân. Điều đó thật là dại khờ ! Vì chính lúc anh ta tưởng rằng tương lai cuộc đời của mình được của cải bảo đảm, để yên tâm nghỉ ngơi ăn uống và vui chơi thỏa thích, lại là lúc cái chết thình lình ập đến. Thế thì số tài sản của anh ta tích trữ kia sẽ về tay ai ? Cuối cùng Người kêu gọi người ta hãy lo làm giàu về thiêng liêng, để những của cải này sẽ có giá trị trước tòa phán xét sau này.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-15: + “Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”: Luật Môsê qui định: trong việc thừa kế, chỉ con trai mới được chia gia tài. Trưởng nam được hưởng trọn phần di sản về bất động sản như đất đai nhà cửa, và còn được gấp đôi phần động sản như tiền bạc, hoa màu... nữa (x. Đnl 21,17). Vậy có một người anh cả kia sau khi cha chết đã chiếm hết tài sản cha để lại và không chia cho người em phần nhỏ bé mà lẽ ra anh ta được hưởng. Thời Đức Giêsu người Do thái thường yêu cầu một luật sĩ đứng ra làm trọng tài khi có sự tranh chấp về Luật pháp. + Ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?: Tuy “là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết” (Cv 10,42), nhưng Đức Giêsu đã từ chối can thiệp về việc chia gia tài này, vì điều cấp bách mà Người sắp phải chu toàn là đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn, nên Người tránh mất thì giờ vào việc riêng cá nhân, vốn thuộc thẩm quyền của các đầu mục Do thái (x. Xh 2,14). + Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam...: Tuy từ chối can thiệp, nhưng Đức Giêsu không nhắm mắt làm ngơ. Người nhân cơ hội này giúp cho anh ta và những người hiện diện tránh lòng tham tiền bạc của cải và tránh trông cậy quá đáng vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời của mình.
- C 16-19: + Có một nhà phú hộ kia: Dụ ngôn cho thấy ông phú hộ đã thành công trong công việc làm ăn. Ông mở rộng thêm nhà kho để tích trữ thóc lúa dư thừa cho an toàn. + Ta sẽ nhủ lòng: đồng nghĩa với: “Tôi sẽ bảo hồn tôi”. Danh từ “hồn” có nghĩa là một con người sống động. + Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !: Của cải vật chất đã tác động làm cho ông nhà giàu không những chi lo làm giàu, mà còn dẫn ông ta đến chỗ ăn chơi sa đọa và lười biếng làm việc bổn phận, đồng thời trông cậy số tài sản lớn lao đã tích trữ được kia sẽ bảo đảm cho tương lai cuộc đời của mình.
- C 20-21: + Đồ ngốc: Cựu ước dùng kiểu nói “ngốc, ngu dại” để ám chỉ những người chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa như lời Thánh vịnh đă viết: “Kẻ ngu si tự nhủ: Làm chi có Chúa Trời” (x. Tv 14,1). Người phú hộ này được coi là kẻ ngu dại, vì đã lãng quên Thiên Chúa, do quá bon chen về việc kiếm thêm của cải vật chất. + Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi: Có nghĩa là đêm nay Thiên Chúa sẽ gọi ngươi ra khỏi thế gian bằng cái chết. + Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?: Thiên Chúa mới là chủ của sự sống và sự chết chứ không phải tiền bạc. Của cải trần gian không thể bảo đảm cho người ta được sống mãi mãi. Khi chết thì cả người anh giàu có khờ dại và đứa em nghèo khó tham lam đều không thể mang theo mình sang thế giới bên kia được. Như thế: Lòng tham lam và sự tích trữ của cải là một hành động khờ dại và vô ích ! + Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó: Đức Giêsu nhắn nhủ về việc sử dụng của cải. Nếu dùng của cải để hưởng thụ một mình thì sẽ bị trắng tay khi giờ chết đến. Nhưng nếu dùng của cải để làm việc thiện, quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói, thì đó là một cách để làm giàu trước mặt Thiên Chúa và sẽ đem lại hạnh phúc vĩnh viễn cho mình ở đời sau (x. Lc 12,33; 18,22; 16,9; Mt 25,40).
4. CÂU HỎI: 1) Tại sao người em lại yêu cầu Đức Giêsu can thiệp để người anh chia gia tài cho mình ? 2) Đức Giêsu đã từ chối can thiệp về việc chia gia tài này vì lý do gì ? 3) Đức Giêsu đã khuyên bảo thế nào về thái độ phải có đối với tiền bạc của cải trần gian ? 4) Tại sao Đức Giêsu gọi kẻ chỉ biết thu tích của cải vật chất và quá trông cậy vào giá trị của đồng tiền là “đồ ngốc” ? 5) Người muốn các tín hữu phải sử dụng tiền bạc của cải trần gian thế nào cho có lợi ở đời sau ?
I. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG THAM KHÔNG ĐÁY :
TOLSTOI kể rằng một bác nông dân kia tên là Pakhom rất thích có một mảnh đất làm tài sản riêng. Sau một thời gian làm lụng cực nhọc, bác ta rất mừng khi tậu được một mảnh đất rộng tới 40 mẫu tây. Nhưng rồi sau đó, anh muốn sở hữu một mảnh khác rộng hơn. Anh liền chịu vất vả làm lụng để dành, rồi bán đi mảnh đất cũ, cộng thêm tiền để dành, và cuối cùng đã mua được một mảnh đất 80 mẫu tây. Nhưng anh vẫn chưa cảm thấy thoả mãn, muốn có một mảnh đất khác rộng hơn nữa. Có người mách bảo rằng ở vùng bên kia núi có một bộ lạc mà dân chúng sống rất đơn giản, họ có rất nhiều đất, ai muốn mua bao nhiêu cũng được. Ngay sáng hôm sau, anh nông dân liền đi sang vùng đất phía bên kia núi. Vị tù trưởng bộ lạc nói : "Anh chỉ cần đặt cọc trước 1000 rúp là có thể sở hữu được một vùng đất mà anh có thể đi vòng quanh được trong một ngày hôm đó. Nhưng phải nhớ kỹ điều kiện là bắt đầu xuất phát từ 6 giờ sáng và đến đúng 6 giờ chiều phải quay trở lại điểm đã xuất phát. Nếu về không kịp một giây thì anh sẽ bị mất trắng số tiền đã đặt cọc 1000 rúp kia !"
Đêm hôm đó bác nông dân cảm thấy thật sung sướng không sao ngủ được. Vừa rạng sáng hôm sau anh đã có mặt để nhờ người đánh dấu điểm xuất phát rồi bắt đầu đi. Càng đi anh càng sung sướng khi nhìn thấy phần đất của mình mỗi lúc một rộng thêm. Anh cứ đi và đi mãi quên cả dừng lại dọc đường để nghỉ ngơi ăn uống. Khi thấy mặt trời bắt đầu xuống núi anh liền hốt hoảng quay trở về. Nhưng vì đã đi quá xa sợ về không kịp nên anh cắm đầu chạy. Khi chạy về tới điểm đã xuất phát thì anh đã ngã gục xuống. Vị tù trưởng đến chúc mừng : "Xin chia vui với anh. Từ trước tới nay tôi chưa gặp được người nào đi xa được như anh. Anh hãy nhận phần đất của anh". Nhưng người nông dân kia đã không thể đứng dậy được nữa để nhận lấy phần đất của mình, vì anh đã chết rồi !
2) TỪ “MỘT TÊN SÁT NHÂN” TRỞ THÀNH ÂN NHÂN CỦA THẾ GIỚI.
Cách đây khá lâu, vào một buổi sáng sớm, khi mở mấy tờ báo hằng ngày ra đọc, ON-PHIT NÔ-BƠN (Alfred Nobel) vô cùng sủng sốt khi nhìn thấy trên nhiều tờ báo hằng ngày được phát hành số lượng rất lớn, đã đồng loạt đưa tin về cái chết của ông với những hàng tít trên trang nhất, kèm theo những bài bình luận đầy ác cảm đối với ông. Họ dùng những từ có tính bôi nhọ, hạ nhục cá nhân ông như: “Nô-bơn, ông vua cốt mìn đã chết”, “Tên đồ tể Nô-bơn đã bị tiêu đời”, “Nô-bơn, một tên sát nhân đã chế tạo các thứ vũ khí giết người hàng loạt giờ đây không còn nữa !”... Sau đó dư luận mới té ngửa rằng: người chết không phải là Nô-bơn nhưng là người anh ruột có tên gần giống với ông. Mặc dù các tờ báo kia sau đó đã phải đính chính và xin lỗi về sự loan tin thất thiệt. Nhưng dù sao các bài bình luận đó cũng là một cú “sốc” đối với Nô-bơn. Nó đánh thức lương tâm khiến ông luôn suy nghĩ và tự hỏi: “Tại sao báo chí lại coi ta là một tên đồ tể giết người như vậy ? Tại sao dư luận lại tỏ ra ác cảm và thù hận ta như thế ? Tại sao chẳng thấy ai nói một lời an ủi thông cảm và lấy làm tiếc về cái chết của ta ?” Sau thời gian này, Nô-bơn đã quyết định phải biến đổi hình ảnh xấu trong dư luận đang có về mình. Ông đã nhờ luật sư lập tờ di chúc để trao tặng toàn bộ số tài sản kếch sù đang gửi trong ngân hàng, số tiền do ông kiếm được nhờ bán các phát minh khoa học về cốt mìn cho chính phủ. Từ đó mỗi năm một ủy ban quốc tế đã lấy ra số tiền lời, chia thành 5 phần thưởng có giá trị lớn để trao tặng cho những người có công về các lãnh vực: hòa bình, vật lý, hóa học, y học và văn chương. Nô-bơn đã thành công trong việc sử dụng tiền của vào việc tốt đẹp. Việc đó không những làm cho ông lấy lại quân bình về tinh thần, mà nó còn giúp ông biến đổi dư luận đang coi ông là “một tên đồ tể giết người”, công khai nhận ông là một vị đại ân nhân của nhân loại.
3) VỀ BA NGƯỜI BẠN THÂN CỦA CHÚNG TA :
Một người kia có 3 người bạn, trong đó hai người là bạn rất thân còn người thứ ba chỉ là bạn thân bình thường. Nhưng rồi đến một ngày nọ, ông ta bị quân lính đến bắt và bị đưa ra trước quan tòa. Ông ta liền xin 3 người bạn thân kia đi theo ra trước tòa án biện hộ cho mình. Nhưng anh bạn thân thứ nhất liền từ chối và dứt khoát không chịu theo ông, viện cớ bận nhiều việc phải làm không thể đi được. Anh bạn thứ hai thì cũng bằng lòng đi theo ông ta đến tòa, nhưng khi đến nơi, anh ta liền dừng lại và sợ không dám theo ông vào nghe tòa xử. Chỉ có anh bạn thứ ba tuy không được ông mấy yêu thích, nhưng đã tỏ thái độ trung thành khi sẵn sàng ra trước tòa án để biện hộ cho ông cuối cùng được trắng án và còn được ban thưởng nữa.
Mỗi người chúng ta cũng có ba người bạn giống như người trong câu chuyện trên: Anh bạn thứ nhất là Tiền Bạc Của Cải: Khi chúng ta chết, anh bạn Tiền Bạc này lập tức bỏ rơi chúng ta, chỉ để lại cho chúng ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Anh bạn thứ hai chính là các Thân Bằng Quyến Thuộc. Họ yêu thương khóc lóc tiễn đưa chúng ta ra tới nghĩa trang, nhưng sau đó đã trở về nhà. Chỉ duy anh bạn thứ ba là các Việc Lành Phúc Đức. Chúng sẵn sàng đi theo chúng ta ra trước tòa Chúa phán xét và giúp chúng ta xin cho chúng ta được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
3. THẢO LUẬN: 1) Có hai cách sử dụng đồng tiền: Nếu dùng tiền cách ích kỷ thì ta sẽ bị mất sự sống ở đời sau. Ngược lại nếu dùng tiền của đời này cách bác ái vị tha thì ta sẽ có cuộc sống vĩnh hằng. Vậy bạn quyết tâm sẽ sử dụng tiền bạc thế nào ? 2) Trong những ngày này bạn sẽ làm gì cụ thể để biến những đồng tiền vật chất trở thành đồng tiền thiêng liêng có giá trị cho phần rỗi đời đời sau khi chết ?
4. SUY NIỆM:
1) Giữ mình khỏi mọi thứ tham lam:
Nhân có người yêu cầu Đức Giêsu can thiệp để người anh ruột chia gia tài cho anh ta. Người trả lời: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?”. Nhân dịp này Người đã kể dụ ngôn về một nhà phú hộ đã lo làm giàu rồi lại lo hưởng thụ số tài sản đã kiếm được, để dạy mọi người phải tránh cho mình thói xấu tham lam ích kỷ như sau:
-Thói tham lam: Lòng tham của nhà phú hộ biểu lộ qua sự tính toán làm giàu. Tính toán để làm tăng thêm lợi nhuận tiền bạc qua câu nói : “Ta sẽ phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó”.
-Thói ích kỷ: Lẽ ra nhà phú hộ có thể làm được biết bao việc tốt cho tha nhân với số tài sản lớn lao đó như : giúp đỡ những người nghèo khổ sống bên cạnh nhà ông, tăng lương cho những người làm công cho ông; Đóng góp xây dựng trường học tại địa phương để trẻ em có nơi học hành tử tế; Góp phần tu bổ hội đường của làng ông đang ở cho khang trang tốt đẹp hơn... Nhưng ông đã không làm như thế, mà chỉ quan tâm dùng tiền để thỏa mãn các nhu cầu hưởng các lạc thú ích kỷ qua suy nghĩ như sau: “Thôi, hãy cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !”
2) Giá trị đích thực của đồng tiền là gì ? :
a) Loài người thường gán cho tiền bạc của cải nhiều giá trị cao quý như sau:
- Đồng tiền rất được yêu quý : “Đồng tiền liền khúc ruột” và “Của đau, con xót” …
- Đồng tiền có sức vạn năng : “Có tiền mua tiên cũng được” hoặc “Kim ngân phá lề luật”.
- Đồng tiền là chúa tể mọi sự : “Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là đồng chí thật thân thương; Là đồng hương rất thân cận; Là thời vận tuổi thanh xuân… Tóm lại là vui mừng và phấn khởi !”.
b) Nhưng Lời Chúa dạy chúng ta hôm nay lại không phải như thế ! :
- Sách Giảng Viên trong bài đọc I đã nhắn nhủ người đời : “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”.
- Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu một khi nhờ bí tích Rửa Tội được trở nên thụ tạo mới, được mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Người thì : “Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
- Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã dạy : “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Vì những kẻ giàu có mà thiếu lòng nhân ái thì quả thật khờ dại như lời Chúa phán với tên phú hộ : “Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi thì lúc đó những của cải ngươi tích trữ kia sẽ để lại cho ai ?”. Thánh Phaolô cũng khuyên đồ đệ Timôthê như sau : “Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó” (1 Tm 6,7).
- Vì thế, thái độ khôn ngoan của các tín hữu là : Đừng quá tham lam tiền bạc, nhưng hãy : “Sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33), và hãy biết quảng đại sẻ chia những đồng tiền mình đang chiếm hữu cho những người nghèo khổ túng cực.
- Một vị thừa sai tại Phi châu cũng cho biết như sau: Có một số dân tộc Phi châu hiện vẫn giữ tục lệ này là: Khi một người trong bộ lạc chết, trước khi liệm xác chết vào quan tài, họ sẽ lột bỏ tất cả y phục kẻ đó đang mặc rồi mới đem đi chôn. Tục lệ này nói lên sự thật này là: chúng ta sẽ rời bỏ thế gian mà không mang theo được gì như tiền bạc châu báu và mọi vật dụng khác ! Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn dạy qua Tin mừng hôm nay : Khi chết thì cái chúng ta cần đến không phải là những gì đã tích trữ được khi còn sống, mà chính là những việc tốt đã làm ở trần gian. Vì “Không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Thực tế đã có biết bao người giàu phải ra đi mãi mãi khi chưa kịp “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”. Cho nên điều quan trọng chúng ta phải làm là: ý thức về giá trị đích thực của tiền bạc : Chúng chỉ có giá trị tương đối ở đời này và là phương tiện Chúa ban để chúng ta sử dụng mà phục vụ làm sáng danh Chúa và mưu ích cho tha nhân, nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc đời sau. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ coi tiền bạc là ông chủ, nhưng chỉ là đầy tớ. Vì quả thật : “Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu !”.
3) Chúng ta phải làm gì ? :
- Ưu tiên tìm Nước Thiên Chúa : Đối với của cải vật chất Đức Giêsu dạy các tín hữu : “Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,32-33).
- Biến đồng tiền vật chất đời này trở thành đồng tiền thiêng liêng đời sau : Chúng ta cần ưu tiên “lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Đồng tiền chúng ta tích trữ được hôm nay, chúng ta vẫn có thể biến chúng thành những đồng tiền có giá trị trước tòa phán xét mai ngày, bằng cách : Tích cực góp phần vào việc xây dựng Hội Thánh “làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” ; Quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói bệnh tật, như lời Chúa phán : “Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6,20). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu sẽ xét xử chúng ta dựa vào những việc bác ái chúng ta đã làm cho tha nhân như sau : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu , các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-36.40).
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊSU. Bài học Chúa dạy chúng con hôm nay là phải biết khôn ngoan sử dụng tiền bạc của cải Chúa đã ban cho chúng con. Trong thực tế những kẻ đang giàu lại muốn ngày một giàu thêm. Còn những kẻ nghèo mà có lòng tham thì “bao nhiêu cũng không vừa!”, “Của vào nhà khó như gió vào nhà trống”: Người nghèo thật khổ lắm chắc Chúa đã quá rõ.
- LẠY CHÚA. Xin ban cho chúng con “mưa thuận gió hòa”, cho con người biết nghĩ tới nhau và biết chia sẻ cho nhau đáp ứng các nhu cầu cần thiết. Xin Chúa soi sáng cho người giàu biết thực hành Lời Chúa hôm nay để biết làm giàu cả về phần thiêng liêng, bằng cách quan tâm chia sẻ cơm áo vật chất cho những người đói khổ bất hạnh. Xin cho người nghèo đừng chỉ miệt mài đi tìm kiếm tiền của như lẽ sống đời mình. Xin cho mọi người chúng con biết thực hành Lời Chúa dạy : “Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác như ăn gì mặc gì thì Người sẽ thêm cho chúng con sau” (Mt 6,33).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
Gv 1,2; 2,21-23 ; Cl 3,1-5.9-11 ; Lc 12,13-21
GIỮ MÌNH KHỎI MỌI THỨ THAM LAM
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 12,13-21
(13) Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. (14) Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?” (15) Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam. Vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. (16) Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, (17) mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây ? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu ! (18) Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. (19) Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: Hồn ta hỡi. Mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !”. (20) Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?” (21) Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó”.
2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần chính như sau:
- PHẦN THỨ NHẤT: Một anh thanh niên đến khiếu nại xin Đức Giêsu can thiệp để người anh phải chia gia tài cho anh ta. Nhưng Người từ chối, và nhân dịp này đã dạy mọi người phải tránh thói tham lam ích kỷ, cũng đừng trông cậy vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời mình.
- PHẦN THỨ HAI: Người kể ra dụ ngôn về một người giàu có chỉ lo thu tích của cải và làm giàu cho bản thân. Điều đó thật là dại khờ ! Vì chính lúc anh ta tưởng rằng tương lai cuộc đời của mình được của cải bảo đảm, để yên tâm nghỉ ngơi ăn uống và vui chơi thỏa thích, lại là lúc cái chết thình lình ập đến. Thế thì số tài sản của anh ta tích trữ kia sẽ về tay ai ? Cuối cùng Người kêu gọi người ta hãy lo làm giàu về thiêng liêng, để những của cải này sẽ có giá trị trước tòa phán xét sau này.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-15: + “Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”: Luật Môsê qui định: trong việc thừa kế, chỉ con trai mới được chia gia tài. Trưởng nam được hưởng trọn phần di sản về bất động sản như đất đai nhà cửa, và còn được gấp đôi phần động sản như tiền bạc, hoa màu... nữa (x. Đnl 21,17). Vậy có một người anh cả kia sau khi cha chết đã chiếm hết tài sản cha để lại và không chia cho người em phần nhỏ bé mà lẽ ra anh ta được hưởng. Thời Đức Giêsu người Do thái thường yêu cầu một luật sĩ đứng ra làm trọng tài khi có sự tranh chấp về Luật pháp. + Ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?: Tuy “là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết” (Cv 10,42), nhưng Đức Giêsu đã từ chối can thiệp về việc chia gia tài này, vì điều cấp bách mà Người sắp phải chu toàn là đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn, nên Người tránh mất thì giờ vào việc riêng cá nhân, vốn thuộc thẩm quyền của các đầu mục Do thái (x. Xh 2,14). + Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam...: Tuy từ chối can thiệp, nhưng Đức Giêsu không nhắm mắt làm ngơ. Người nhân cơ hội này giúp cho anh ta và những người hiện diện tránh lòng tham tiền bạc của cải và tránh trông cậy quá đáng vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời của mình.
- C 16-19: + Có một nhà phú hộ kia: Dụ ngôn cho thấy ông phú hộ đã thành công trong công việc làm ăn. Ông mở rộng thêm nhà kho để tích trữ thóc lúa dư thừa cho an toàn. + Ta sẽ nhủ lòng: đồng nghĩa với: “Tôi sẽ bảo hồn tôi”. Danh từ “hồn” có nghĩa là một con người sống động. + Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !: Của cải vật chất đã tác động làm cho ông nhà giàu không những chi lo làm giàu, mà còn dẫn ông ta đến chỗ ăn chơi sa đọa và lười biếng làm việc bổn phận, đồng thời trông cậy số tài sản lớn lao đã tích trữ được kia sẽ bảo đảm cho tương lai cuộc đời của mình.
- C 20-21: + Đồ ngốc: Cựu ước dùng kiểu nói “ngốc, ngu dại” để ám chỉ những người chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa như lời Thánh vịnh đă viết: “Kẻ ngu si tự nhủ: Làm chi có Chúa Trời” (x. Tv 14,1). Người phú hộ này được coi là kẻ ngu dại, vì đã lãng quên Thiên Chúa, do quá bon chen về việc kiếm thêm của cải vật chất. + Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi: Có nghĩa là đêm nay Thiên Chúa sẽ gọi ngươi ra khỏi thế gian bằng cái chết. + Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?: Thiên Chúa mới là chủ của sự sống và sự chết chứ không phải tiền bạc. Của cải trần gian không thể bảo đảm cho người ta được sống mãi mãi. Khi chết thì cả người anh giàu có khờ dại và đứa em nghèo khó tham lam đều không thể mang theo mình sang thế giới bên kia được. Như thế: Lòng tham lam và sự tích trữ của cải là một hành động khờ dại và vô ích ! + Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó: Đức Giêsu nhắn nhủ về việc sử dụng của cải. Nếu dùng của cải để hưởng thụ một mình thì sẽ bị trắng tay khi giờ chết đến. Nhưng nếu dùng của cải để làm việc thiện, quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói, thì đó là một cách để làm giàu trước mặt Thiên Chúa và sẽ đem lại hạnh phúc vĩnh viễn cho mình ở đời sau (x. Lc 12,33; 18,22; 16,9; Mt 25,40).
4. CÂU HỎI: 1) Tại sao người em lại yêu cầu Đức Giêsu can thiệp để người anh chia gia tài cho mình ? 2) Đức Giêsu đã từ chối can thiệp về việc chia gia tài này vì lý do gì ? 3) Đức Giêsu đã khuyên bảo thế nào về thái độ phải có đối với tiền bạc của cải trần gian ? 4) Tại sao Đức Giêsu gọi kẻ chỉ biết thu tích của cải vật chất và quá trông cậy vào giá trị của đồng tiền là “đồ ngốc” ? 5) Người muốn các tín hữu phải sử dụng tiền bạc của cải trần gian thế nào cho có lợi ở đời sau ?
I. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG THAM KHÔNG ĐÁY :
TOLSTOI kể rằng một bác nông dân kia tên là Pakhom rất thích có một mảnh đất làm tài sản riêng. Sau một thời gian làm lụng cực nhọc, bác ta rất mừng khi tậu được một mảnh đất rộng tới 40 mẫu tây. Nhưng rồi sau đó, anh muốn sở hữu một mảnh khác rộng hơn. Anh liền chịu vất vả làm lụng để dành, rồi bán đi mảnh đất cũ, cộng thêm tiền để dành, và cuối cùng đã mua được một mảnh đất 80 mẫu tây. Nhưng anh vẫn chưa cảm thấy thoả mãn, muốn có một mảnh đất khác rộng hơn nữa. Có người mách bảo rằng ở vùng bên kia núi có một bộ lạc mà dân chúng sống rất đơn giản, họ có rất nhiều đất, ai muốn mua bao nhiêu cũng được. Ngay sáng hôm sau, anh nông dân liền đi sang vùng đất phía bên kia núi. Vị tù trưởng bộ lạc nói : "Anh chỉ cần đặt cọc trước 1000 rúp là có thể sở hữu được một vùng đất mà anh có thể đi vòng quanh được trong một ngày hôm đó. Nhưng phải nhớ kỹ điều kiện là bắt đầu xuất phát từ 6 giờ sáng và đến đúng 6 giờ chiều phải quay trở lại điểm đã xuất phát. Nếu về không kịp một giây thì anh sẽ bị mất trắng số tiền đã đặt cọc 1000 rúp kia !"
Đêm hôm đó bác nông dân cảm thấy thật sung sướng không sao ngủ được. Vừa rạng sáng hôm sau anh đã có mặt để nhờ người đánh dấu điểm xuất phát rồi bắt đầu đi. Càng đi anh càng sung sướng khi nhìn thấy phần đất của mình mỗi lúc một rộng thêm. Anh cứ đi và đi mãi quên cả dừng lại dọc đường để nghỉ ngơi ăn uống. Khi thấy mặt trời bắt đầu xuống núi anh liền hốt hoảng quay trở về. Nhưng vì đã đi quá xa sợ về không kịp nên anh cắm đầu chạy. Khi chạy về tới điểm đã xuất phát thì anh đã ngã gục xuống. Vị tù trưởng đến chúc mừng : "Xin chia vui với anh. Từ trước tới nay tôi chưa gặp được người nào đi xa được như anh. Anh hãy nhận phần đất của anh". Nhưng người nông dân kia đã không thể đứng dậy được nữa để nhận lấy phần đất của mình, vì anh đã chết rồi !
2) TỪ “MỘT TÊN SÁT NHÂN” TRỞ THÀNH ÂN NHÂN CỦA THẾ GIỚI.
Cách đây khá lâu, vào một buổi sáng sớm, khi mở mấy tờ báo hằng ngày ra đọc, ON-PHIT NÔ-BƠN (Alfred Nobel) vô cùng sủng sốt khi nhìn thấy trên nhiều tờ báo hằng ngày được phát hành số lượng rất lớn, đã đồng loạt đưa tin về cái chết của ông với những hàng tít trên trang nhất, kèm theo những bài bình luận đầy ác cảm đối với ông. Họ dùng những từ có tính bôi nhọ, hạ nhục cá nhân ông như: “Nô-bơn, ông vua cốt mìn đã chết”, “Tên đồ tể Nô-bơn đã bị tiêu đời”, “Nô-bơn, một tên sát nhân đã chế tạo các thứ vũ khí giết người hàng loạt giờ đây không còn nữa !”... Sau đó dư luận mới té ngửa rằng: người chết không phải là Nô-bơn nhưng là người anh ruột có tên gần giống với ông. Mặc dù các tờ báo kia sau đó đã phải đính chính và xin lỗi về sự loan tin thất thiệt. Nhưng dù sao các bài bình luận đó cũng là một cú “sốc” đối với Nô-bơn. Nó đánh thức lương tâm khiến ông luôn suy nghĩ và tự hỏi: “Tại sao báo chí lại coi ta là một tên đồ tể giết người như vậy ? Tại sao dư luận lại tỏ ra ác cảm và thù hận ta như thế ? Tại sao chẳng thấy ai nói một lời an ủi thông cảm và lấy làm tiếc về cái chết của ta ?” Sau thời gian này, Nô-bơn đã quyết định phải biến đổi hình ảnh xấu trong dư luận đang có về mình. Ông đã nhờ luật sư lập tờ di chúc để trao tặng toàn bộ số tài sản kếch sù đang gửi trong ngân hàng, số tiền do ông kiếm được nhờ bán các phát minh khoa học về cốt mìn cho chính phủ. Từ đó mỗi năm một ủy ban quốc tế đã lấy ra số tiền lời, chia thành 5 phần thưởng có giá trị lớn để trao tặng cho những người có công về các lãnh vực: hòa bình, vật lý, hóa học, y học và văn chương. Nô-bơn đã thành công trong việc sử dụng tiền của vào việc tốt đẹp. Việc đó không những làm cho ông lấy lại quân bình về tinh thần, mà nó còn giúp ông biến đổi dư luận đang coi ông là “một tên đồ tể giết người”, công khai nhận ông là một vị đại ân nhân của nhân loại.
3) VỀ BA NGƯỜI BẠN THÂN CỦA CHÚNG TA :
Một người kia có 3 người bạn, trong đó hai người là bạn rất thân còn người thứ ba chỉ là bạn thân bình thường. Nhưng rồi đến một ngày nọ, ông ta bị quân lính đến bắt và bị đưa ra trước quan tòa. Ông ta liền xin 3 người bạn thân kia đi theo ra trước tòa án biện hộ cho mình. Nhưng anh bạn thân thứ nhất liền từ chối và dứt khoát không chịu theo ông, viện cớ bận nhiều việc phải làm không thể đi được. Anh bạn thứ hai thì cũng bằng lòng đi theo ông ta đến tòa, nhưng khi đến nơi, anh ta liền dừng lại và sợ không dám theo ông vào nghe tòa xử. Chỉ có anh bạn thứ ba tuy không được ông mấy yêu thích, nhưng đã tỏ thái độ trung thành khi sẵn sàng ra trước tòa án để biện hộ cho ông cuối cùng được trắng án và còn được ban thưởng nữa.
Mỗi người chúng ta cũng có ba người bạn giống như người trong câu chuyện trên: Anh bạn thứ nhất là Tiền Bạc Của Cải: Khi chúng ta chết, anh bạn Tiền Bạc này lập tức bỏ rơi chúng ta, chỉ để lại cho chúng ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Anh bạn thứ hai chính là các Thân Bằng Quyến Thuộc. Họ yêu thương khóc lóc tiễn đưa chúng ta ra tới nghĩa trang, nhưng sau đó đã trở về nhà. Chỉ duy anh bạn thứ ba là các Việc Lành Phúc Đức. Chúng sẵn sàng đi theo chúng ta ra trước tòa Chúa phán xét và giúp chúng ta xin cho chúng ta được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
3. THẢO LUẬN: 1) Có hai cách sử dụng đồng tiền: Nếu dùng tiền cách ích kỷ thì ta sẽ bị mất sự sống ở đời sau. Ngược lại nếu dùng tiền của đời này cách bác ái vị tha thì ta sẽ có cuộc sống vĩnh hằng. Vậy bạn quyết tâm sẽ sử dụng tiền bạc thế nào ? 2) Trong những ngày này bạn sẽ làm gì cụ thể để biến những đồng tiền vật chất trở thành đồng tiền thiêng liêng có giá trị cho phần rỗi đời đời sau khi chết ?
4. SUY NIỆM:
1) Giữ mình khỏi mọi thứ tham lam:
Nhân có người yêu cầu Đức Giêsu can thiệp để người anh ruột chia gia tài cho anh ta. Người trả lời: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?”. Nhân dịp này Người đã kể dụ ngôn về một nhà phú hộ đã lo làm giàu rồi lại lo hưởng thụ số tài sản đã kiếm được, để dạy mọi người phải tránh cho mình thói xấu tham lam ích kỷ như sau:
-Thói tham lam: Lòng tham của nhà phú hộ biểu lộ qua sự tính toán làm giàu. Tính toán để làm tăng thêm lợi nhuận tiền bạc qua câu nói : “Ta sẽ phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó”.
-Thói ích kỷ: Lẽ ra nhà phú hộ có thể làm được biết bao việc tốt cho tha nhân với số tài sản lớn lao đó như : giúp đỡ những người nghèo khổ sống bên cạnh nhà ông, tăng lương cho những người làm công cho ông; Đóng góp xây dựng trường học tại địa phương để trẻ em có nơi học hành tử tế; Góp phần tu bổ hội đường của làng ông đang ở cho khang trang tốt đẹp hơn... Nhưng ông đã không làm như thế, mà chỉ quan tâm dùng tiền để thỏa mãn các nhu cầu hưởng các lạc thú ích kỷ qua suy nghĩ như sau: “Thôi, hãy cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !”
2) Giá trị đích thực của đồng tiền là gì ? :
a) Loài người thường gán cho tiền bạc của cải nhiều giá trị cao quý như sau:
- Đồng tiền rất được yêu quý : “Đồng tiền liền khúc ruột” và “Của đau, con xót” …
- Đồng tiền có sức vạn năng : “Có tiền mua tiên cũng được” hoặc “Kim ngân phá lề luật”.
- Đồng tiền là chúa tể mọi sự : “Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là đồng chí thật thân thương; Là đồng hương rất thân cận; Là thời vận tuổi thanh xuân… Tóm lại là vui mừng và phấn khởi !”.
b) Nhưng Lời Chúa dạy chúng ta hôm nay lại không phải như thế ! :
- Sách Giảng Viên trong bài đọc I đã nhắn nhủ người đời : “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”.
- Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu một khi nhờ bí tích Rửa Tội được trở nên thụ tạo mới, được mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Người thì : “Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
- Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã dạy : “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Vì những kẻ giàu có mà thiếu lòng nhân ái thì quả thật khờ dại như lời Chúa phán với tên phú hộ : “Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi thì lúc đó những của cải ngươi tích trữ kia sẽ để lại cho ai ?”. Thánh Phaolô cũng khuyên đồ đệ Timôthê như sau : “Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó” (1 Tm 6,7).
- Vì thế, thái độ khôn ngoan của các tín hữu là : Đừng quá tham lam tiền bạc, nhưng hãy : “Sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33), và hãy biết quảng đại sẻ chia những đồng tiền mình đang chiếm hữu cho những người nghèo khổ túng cực.
- Một vị thừa sai tại Phi châu cũng cho biết như sau: Có một số dân tộc Phi châu hiện vẫn giữ tục lệ này là: Khi một người trong bộ lạc chết, trước khi liệm xác chết vào quan tài, họ sẽ lột bỏ tất cả y phục kẻ đó đang mặc rồi mới đem đi chôn. Tục lệ này nói lên sự thật này là: chúng ta sẽ rời bỏ thế gian mà không mang theo được gì như tiền bạc châu báu và mọi vật dụng khác ! Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn dạy qua Tin mừng hôm nay : Khi chết thì cái chúng ta cần đến không phải là những gì đã tích trữ được khi còn sống, mà chính là những việc tốt đã làm ở trần gian. Vì “Không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Thực tế đã có biết bao người giàu phải ra đi mãi mãi khi chưa kịp “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”. Cho nên điều quan trọng chúng ta phải làm là: ý thức về giá trị đích thực của tiền bạc : Chúng chỉ có giá trị tương đối ở đời này và là phương tiện Chúa ban để chúng ta sử dụng mà phục vụ làm sáng danh Chúa và mưu ích cho tha nhân, nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc đời sau. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ coi tiền bạc là ông chủ, nhưng chỉ là đầy tớ. Vì quả thật : “Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu !”.
3) Chúng ta phải làm gì ? :
- Ưu tiên tìm Nước Thiên Chúa : Đối với của cải vật chất Đức Giêsu dạy các tín hữu : “Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,32-33).
- Biến đồng tiền vật chất đời này trở thành đồng tiền thiêng liêng đời sau : Chúng ta cần ưu tiên “lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Đồng tiền chúng ta tích trữ được hôm nay, chúng ta vẫn có thể biến chúng thành những đồng tiền có giá trị trước tòa phán xét mai ngày, bằng cách : Tích cực góp phần vào việc xây dựng Hội Thánh “làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” ; Quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói bệnh tật, như lời Chúa phán : “Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6,20). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu sẽ xét xử chúng ta dựa vào những việc bác ái chúng ta đã làm cho tha nhân như sau : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu , các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-36.40).
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊSU. Bài học Chúa dạy chúng con hôm nay là phải biết khôn ngoan sử dụng tiền bạc của cải Chúa đã ban cho chúng con. Trong thực tế những kẻ đang giàu lại muốn ngày một giàu thêm. Còn những kẻ nghèo mà có lòng tham thì “bao nhiêu cũng không vừa!”, “Của vào nhà khó như gió vào nhà trống”: Người nghèo thật khổ lắm chắc Chúa đã quá rõ.
- LẠY CHÚA. Xin ban cho chúng con “mưa thuận gió hòa”, cho con người biết nghĩ tới nhau và biết chia sẻ cho nhau đáp ứng các nhu cầu cần thiết. Xin Chúa soi sáng cho người giàu biết thực hành Lời Chúa hôm nay để biết làm giàu cả về phần thiêng liêng, bằng cách quan tâm chia sẻ cơm áo vật chất cho những người đói khổ bất hạnh. Xin cho người nghèo đừng chỉ miệt mài đi tìm kiếm tiền của như lẽ sống đời mình. Xin cho mọi người chúng con biết thực hành Lời Chúa dạy : “Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác như ăn gì mặc gì thì Người sẽ thêm cho chúng con sau” (Mt 6,33).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Chương trình và các Chủ đề Giáo lý tiếng Việt tại WYD 2016 ở Krakow, Ba Lan
VietCatholic Network
07:59 28/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Mỗi vị giám mục giáo lý viên sẽ trình bầy 3 bài giáo lý theo 3 chủ đề sau:
Chủ Đề 1: Nay là thời thương xót! được trình bày vào Thứ Tư, 27 tháng Bẩy
Bài giáo lý này tập chú vào một đoạn trong Bài Giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô khi đọc Kinh Chiều Thứ Nhất của Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, 11 tháng Tư năm 2015, Ngài đã nói như sau:
“Nhiều người tự hỏi trong tâm hồn: tại sao ngày nay mà còn cần Năm Thánh Thương Xót? Đơn giản chỉ vì trong thời buổi thay đổi lớn lao có tính lịch sử này, Giáo Hội được kêu gọi phải cung cấp nhiều dấu chỉ hữu hiệu hơn cho thấy Thiên Chúa hiện hữu và gần gũi ta. Đây là thời để Giáo Hội khám phá lại ý nghĩa của sứ mệnh mà Chúa của mình đã ủy thác cho mình vào ngày Phục Sinh: trở thành dấu chỉ và dụng cụ của lòng thương xót của Chúa Cha (xem Ga 20:21-23). Một năm trong đó để Chúa Giêsu đánh động và được lòng thương xót của Người biến cải, hầu trở nên các nhân chứng của lòng thương xót?” (Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Bài Giảng khi đọc Kinh Chiều Thứ Nhất Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, 11 tháng Tư năm 2015).
Chủ Đề 2: Chúng ta hãy để lòng thương xót của Chúa Kitô đánh động Thứ Năm, 28 tháng Bẩy
Ý tưởng chủ đạo là một đoạn trong Sứ Điệp của Đức Giáo Hoàng gửi Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2016, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng:
“Các con, các thanh nam thanh nữ thân yêu, các con có bao giờ cảm nhận được cái nhìn yêu thương hoài hoài trên các con, một cái nhìn quá bên kia các tội lỗi, các giới hạn và các sai phạm của các con, và vẫn cứ tin tưởng ở các con và hy vọng trông mong ở đời các con chưa? Các con có nhận ra rằng các con qúy báu dường bao đối với Thiên Chúa, Đấng đã ban cho các con mọi sự chỉ vì yêu các con không?” (Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sứ Điệp gửi Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2016).
Chủ Đề 3: Lạy Chúa, xin Chúa làm cho con trở thành khí cụ của lòng Chúa thương xót! Vào ngày Thứ Sáu, 29 tháng Bẩy
Các bạn trẻ cùng với vị Giám Mục phụ trách sẽ phân tích một số đoạn trích từ Nhật Ký của Thánh Nữ Faustina Ko-wal-ska. Trích từ Nhật Ký Thánh Nữ Faustina Kowalska, trang163, Thánh nữ đã cầu nguyện như sau:
“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con để mắt con biết thương xót, ngõ hầu con không bao giờ nghi ngờ hay phán đoán từ dáng vẻ bề ngoài, nhưng tìm kiếm những gì đẹp đẽ trong linh hồn các người lân cận của con và chạy tới cứu giúp họ.
“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con để lưỡi con biết thương xót ngõ hầu con không bao giờ nói tiêu cực về các người lân cận của con, nhưng có lời an ủi và tha thứ mọi người.
“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con để tay con biết thương xót và đầy những việc làm tốt lành.
“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con để chân con biết thương xót, ngõ hầu con mau mắn giúp đỡ người lân cận của con, thắng vượt sự mệt mỏi và kiệt sức của riêng con.”
“Ôi lạy Chúa, xin Chúa giúp con, để trái tim con biết thương xót ngõ hầu con biết cảm nhận mọi đau khổ của người lân cận của con”.
Theo hướng dẫn của Ban tổ Chức, các vị giám mục được khích lệ giảng những bài dậy ứng khẩu, trình bầy các điển hình và những giai thoại có ý nghĩa. Người trẻ đánh giá cao các câu trả lời đơn sơ nhưng có thế giá cho các câu hỏi của họ.
Vì thế, các vị giám mục được mạnh mẽ khích lệ đem các câu truyện và các chứng tá riêng của các ngài vào bài giáo lý, và trình bầy với giới trẻ các điển hình mẫu gương tích cực như hạnh các thánh; các “người anh hùng” trẻ tuổi như Chân Phúc Pier Giorgio Frassati và Chân Phúc Chiara Lu-cê Badanô; các thánh bổn mạng của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2016: Thánh Gioan Phaolô II và Thánh Nữ Faustina.
Các giám mục giáo lý viên được yêu cầu khai triển đề tài hàng ngày để nói vào khoảng 20 phút. Sau đó dành thì giờ thoả đáng để người trẻ đặt câu hỏi và vị giám mục trả lời. Mỗi ngày, bài giáo lý sẽ kết thúc với Thánh Lễ do vị giám mục giáo lý viên chủ tế; ngài sẽ giảng một bài giảng ngắn.
Trong các ngày có giáo lý, các nhóm giới trẻ sẽ được lần lượt mời tham dự Cuộc Hành Hương Thương Xót từ Đền Thánh Gioan Phaolô II tới Đền Thánh Chúa Thương xót.
Đức Thánh Cha Phanxicô bị trượt té khi xông hương bàn thờ tại Đền Thánh Đức Mẹ Częstochowa
Đặng Tự Do
05:29 28/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Những hình ảnh mà quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là thánh lễ kỷ niệm 1050 năm vua Ba Lan chịu phép rửa tội tại Częstochowa.
Thánh lễ diễn ra tại Đền Thánh Đức Mẹ Częstochowa. Chính tại nơi đây Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cử hành Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 1991 với một diễn từ làm rung động hàng triệu con tim những bạn trẻ Đông Âu vừa thoát ra khỏi chế độ cộng sản.
Khi Đức Thánh Cha xông hương quanh bàn thờ, ngài bất thình bị trượt té. Đức Ông Guido Marini trưởng phòng nghi lễ phủ Giáo Hoàng, và các Giám Mục đồng tế đã vực ngài dậy.
Đức Thánh Cha có vẻ như không sao nên ngài tiếp tục xông hương quanh gain cung thánh.
Đức Thánh Cha gặp gỡ các Giám Mục Ba Lan tại nhà thờ chính tòa Wawel
VietCatholic Network
10:05 28/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sau cuộc hội đàm với tổng thống, Đức Thánh Cha và tổng thống cùng duyệt qua hàng quân danh dự để đi bộ từ sân tòa nhà chính phủ trong khu vực hoàng cung Wawel sang nhà thờ chính tòa Wawel để gặp gỡ các Giám Mục Công Giáo Ba Lan tại nhà thờ chính tòa Wawel. Đây là nơi đã từng diễn ra các buổi lễ đăng quang và an táng của các hoàng đế Ba Lan.
Phát biểu với đài phát thanh Vatican hôm 25 tháng Bẩy, Cha Federico Lombardi, SJ, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa Thánh, cho biết Đức Thánh Cha sẽ không đọc diễn văn trước các Giám Mục như dự trù vì ngài muốn dùng dịp này như một thời điểm để lắng nghe và trả lời các giám mục. Ngài muốn các Giám Mục được thoải mái và tự do trao đổi ý kiến và đặt câu hỏi; cho nên, sẽ không có truyền hình trực tiếp cuộc gặp gỡ này.
Theo cha Lombardi, điều này trên thực tế không nên được xem như một sự thay đổi lịch trình chuyến tông du. Đúng hơn, Đức Giáo Hoàng muốn nói rõ công thức mà ngài thích trong dịp này - và đó cũng là một trong những lựa chọn của ngài trong các chuyến tông du. Ngài thích một “cuộc gặp gỡ thân quen và đối thoại.”
Do đó, cha Lombardi cho biết thêm, Đức Thánh Cha Phanxicô không có ý định trình bày một bài diễn văn dài với các giám mục; nhưng muốn nói chuyện với các ngài, lắng nghe những gì các ngài nói và có thể trả lời những câu hỏi mà các ngài sẽ đặt ra trong một bầu khí thanh thản tuyệt đối.
Đây là lý do giải thích quyết định sẽ không phát sóng truyền hình trực tiếp để sự kiện có thể được tiến hành trong một bầu không khí huynh đệ.
Trước khi vào bên trong Vương Cung Thánh Đường, Đức Thánh Cha dừng lại bắt tay tổng thống Andrzej Duda. Một nữ nhân viên phiên dịch đã xin Đức Thánh Cha ban phép lành cho cô.
Đức Hồng Y Stanisław Dziwisz là Tổng Giám Mục Krakow và cha sở nhà thờ chính toà đã đón tiếp Đức Thánh Cha ở cửa và giới thiệu Kinh sĩ đoàn.
Vì đây là cuộc họp riêng giữa Đức Thánh Cha và các Giám Mục nên tổng thống đã dừng lại ở cửa nhà thờ và quay về.
Đức Cha Damian Muskus, Giám Mục Phụ Tá của tổng giáo phận Krakow, Tổng Điều Phối của ban tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Krakow 2016 đang hôn tay Đức Thánh Cha.
Đức Thánh Cha đã lần lượt bắt tay từng vị trong kinh sĩ đoàn.
Đức Thánh Cha rảy nước thánh trên các vị hiện diện.
Ngay khi tiến vào bên trong nhà thờ, Đức Thánh Cha được Đức Hồng Y Stanisław Dziwisz hướng dẫn tiến đên bàn thờ tuyên xưng đức tin nơi có thánh tích của thánh Stanisław và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Bàn thờ này cũng còn được gọi là bàn thờ tổ quốc vì các vua thường đặt các kỷ vật chiến thắng gần mộ thánh Stanisław. Đức Thánh Cha đã nghe giải thích một vài sự kiện lịch sử liên quan đến bàn thờ trước khi cầu nguyện hồi lâu tạ đây.
Đức Thánh Cha làm dấu kết thúc lời cầu nguyện của ngài.
Đức Thánh Cha được hướng dẫn thăm chung quanh nhà thờ.
Nhà thờ chính toà Wawel được xây để kính hai thánh Stanisław và Wencesław tọa lạc cạnh lâu đài hoàng gia đã được xây ít lâu sau khi giáo phận được thành lập hồi năm 1000. Cấu trúc như hiện nay đã có từ năm 1364. Đây cũng là đền thánh quốc gia nơi các vua Ba Lan được đội triều thiên trong lễ nghi phong vương.
Trong nhà nguyện các vua Waza có mộ của Đức Giám Mục Giovanni Prandola qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1266. Trên bàn thờ nhà nguyện của Đức Giám Mục Pietro Tomicki có một hòm bằng bạc đựng thánh tích của chân phước Vincenzo Kadlubek qua đời năm 1223. Bên cạnh nhà mặc áo có cây thánh giá thuộc hậu bán thế kỷ XIII. Theo truyền thống từ thánh giá này Chúa Giêsu đã nói chuyện với thánh hoàng hậu Edvige, qua đời năm 1399 có mộ bên dưới thánh giá. Hôn nhân của thánh nữ với ông hoàng Lituani đã khiến cho Lituania theo Kitô giáo. Thánh Edvige khi còn sống đã săn sóc người nghèo và các bệnh nhân và thành lập nhiều nhà thương. Thánh nữ cũng giữ gìn tu sửa các nhà thờ và rất sùng mộ Chúa Giêsu Thánh Thể. Trong di chúc thánh nữ để lại tất cả nữ trang của mình cho việc xây cất đại học Krakow năm 1400. Thánh nữ được phong chân phước và được Đức Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh.
Trong nhà thờ chính toà này cũng có mộ của nhiều thánh, các vua, các tướng lãnh và thi sĩ.
Đức Thánh Cha cầu nguyện bên mộ thánh Wencesław.
Đức Thánh Cha lên phía trên bàn thờ giữa tiếng vỗ tay hoan hô của các Giám Mục Ba Lan.
Đức Hồng Y Stanisław Dziwisz đang nói đôi lời chào mừng Đức Thánh Cha.
Đức Thánh Cha tặng một chén lễ cho Đức Hồng Y Stanisław Dziwisz.
Đức Cha Stanislao Gadecki, Tổng Giám Mục Poznan, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan đã nhân danh 130 Giám Mục hiện diện ngỏ lời chào mừng Đức Thánh Cha và cám ơn ngài đã nói chuyện thân mật với các Giám Mục.
Đức Thánh Cha thăm tu viện của các nữ tu Dòng Đức Bà Thăm Viếng tại Krakow
VietCatholic Network
10:38 28/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sau khi cử hành thánh lễ riêng tại Tòa Giám Mục Krakow vào lúc 7:00 sáng, Đức Thánh Cha đã ra phi trường quốc tế Balice nơi ngài đã đáp xuống chiều hôm qua để đáp máy bay trực thăng đi Jasna Góra. Trên đường đến sân bay ngài đã ghé thăm tu viện của các nữ tu Dòng Đức Bà Thăm Viếng tại Krakow, cách Tòa Giám Mục chỉ vài chục thước.
Đức Cha Damian Muskus , Tổng Điều Phối của ban tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Krakow 2016, nói tại tu viện ở số 7 đường Jana, Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ các nữ tu và “trong cuộc họp này, Đức Thánh Cha cầu nguyện với các chị em và gặp gỡ với các học sinh trong một trường học do các sơ điều hành.”
Tại sao tu viện của các nữ tu Dòng Đức Bà Thăm Viếng tại Krakow được bao gồm trong chương trình tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz giải thích như sau: “Tại Vatican, các nữ tu Dòng Đức Bà Thăm Viếng làm việc trong một xưởng riêng của Đức Giáo Hoàng. Đó là nơi mà tất cả các công việc chuẩn bị cho các cuộc tông du được thực hiện như huy chương, lễ phục.. Các nữ tu phụ trách tất cả các công việc đó”.
Các vị Giáo Hoàng thỉnh thoảng đến thăm các nữ tu để tri ân những hy sinh của họ. Trong tinh thần đó, Mẹ Bề trên Tổng quyền đã đề nghị bao gồm tu viện tại Krakow trong chuyến tông du Ba Lan của Đức Thánh Cha.
Video ĐTC đọc diễn từ tại hoàng cung Wawel chào quan chức chính phủ, ngoại giao đoàn và xã hội dân sự Ba Lan
VietCatholic Network
11:58 28/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sau lễ nghi dành cho các vị quốc khách tại phi trường quốc tế Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha đã lên xe đến cố đô Wawel nơi các lễ nghi đón tiếp được diễn ra long trọng tại hoàng cung Wawel.
Trong diễn từ tại sân tòa nhà chính phủ tại Krakow, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Ba Lan cần tiếp tục phát triển các gốc rễ kitô sâu đậm và căn tính quốc gia của mình cho thiện ích chung. Ngài đặc biệt xoáy ngay vào vấn đề người nhập cư là một vấn đề được coi là có những khác biệt rất lớn giữa Đức Thánh Cha và hàng Giám Mục Ba Lan.
Ngỏ lời chào hàng lãnh đạo chính trị, ngoại giao đoàn và giới chức xã hội dân sự, và văn hóa, Đức Thánh Cha nói:
“Đây là lần đầu tiên tôi viếng thăm Trung và Đông Âu châu, và tôi vui sướng bắt đầu từ Ba Lan, là quốc gia có trong hàng các con cái của thánh Gioan Phaolô II, người đã đề xướng và thăng tiến Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Đức Gioan Phaolô II thích nói tới một Âu châu thở bằng hai lá phổi của mình: giấc mộng về một nền nhân bản âu châu mới được linh hoạt bởi hơi thở linh hứng sáng tạo và hài hoà của hai lá phổi và bởi nền văn hoá chung, tìm thấy gốc rễ vững vàng nhất của nó trong Kitô giáo.
“Ký ức là nét đặc thù của dân tộc Ba Lan. Tôi đã luôn luôn bị đánh động bởi ý thức sinh động về lịch sử của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Khi nói về các dân tộc, ngài đã luôn luôn khởi hành từ lịch sử của chúng, để nêu bật các kho tàng về nhân bản và tinh thần. Ý thức về căn cước, tự do khỏi các mặc cảm tự tôn, là điều cần thiết để xây dựng một cộng đoàn quốc gia trên nền tảng gia tài nhân bản, xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo, để linh hứng cho xã hội và văn hóa, duy trì cho chúng trung thành với truyền thống, đồng thời rộng mở cho việc canh tân và cho tương lai. Chính trong viễn tượng đó mà quý vị đã cử hành 1050 năm Ba Lan lãnh nhận đức tin. Chắc chắn nó đã là một thời điểm mạnh mẽ của sự hiệp nhất quốc gia, củng cố con đường vững chắc giúp đạt thiện ích chung của toàn dân Ba Lan.
Cả việc cộng tác trong lãnh vực quốc tế và việc tôn trọng nhau cũng làm trưởng thành lương tâm và việc tôn trọng căn tính riêng và việc tôn trọng căn tính của người khác. Không thể có đối thoại, nếu mỗi người không khởi hành từ căn tính riêng của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống cá nhân cũng như cuộc sống cộng đoàn xã hội có hai loại ký ức tốt và xấu, tích cực và tiêu cực. Ký ức tốt là ký ức mà Thánh Kinh chỉ cho thấy trong thánh thi Magnificat, bài ca của Mẹ Maria chúc tụng Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài. Ký ức xấu trái lại là ký ức hướng cái nhìn của tâm trí tới sự dữ, trước hết là sự dữ do người khác sa phạm. Nhìn vào lịch sử mới đây của quý vị tôi cảm tạ Thiên Chúa, vì quý vị đã biết để cho ký ức tích cực thắng thế: chẳng hạn khi cử hành 50 năm tha thứ cho nhau giữa hai HĐGM Ba Lan và Đức, sau Đệ Nhị Thế Chiến. Sáng kiến này ban đầu liên lụy tới hai cộng đoàn Giáo Hội, nhưng cũng đã tháp nhập một tiến trình xã hội, chính trị, văn hóa và tôn giáo không thể quay trở lại đàng sau làm thay đổi lịch sử tương giao giữa hai dân tộc. Về việc hoà giải này chúng ta cũng nhớ tới Tuyên ngôn chung giữa Giáo Hội Công Giáo Ba Lan và Giáo Hội chính thống Nga, một hành động đã khơi dậy một tiến trình xích lại gần nhau và tình huynh đệ không chỉ giữa hai Giáo Hội, nhưng cả giữa hai dân tộc nữa.
Như thế, quốc gia Ba Lan cao quý cho thấy có thể làm lớn lên ký ức tốt, và bỏ rơi ký ức xấu như thế nào. Để được như vậy cần phải có một niềm hy vọng vững vàng và lòng tin tưởng nơi Đấng hướng dẫn số phận của các dân tộc, mở ra các cánh cửa khép kín, biến đổi các khó khăn thành các cơ may, và tạo ra các khung cảnh mới ở nơi xem ra không thể có được. Lịch sử Ba Lan chứng minh cho điều đó: sau các bão táp và tối tăm dân tộc của quý vị, được tái lập trong phẩm giá của nó, đã có thể hát lên như người Do thái từ Babilonia trở về: “Ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126, 1-2). Ý thức về con đường đã đi qua và niềm vui đối với các mục đích đã đạt được trao ban sức mạnh và sự thanh thản giúp đương đầu với các thách đố của thời điểm, đòi hỏi can đảm của sự thật và một dấn thân luân lý đạo đức liên tục, để cho các tiến trình quyết định và hành động cũng như các tương quan nhân bản luôn luôn tôn trọng phẩm giá con người. Mọi hoạt động đều đuợc lôi cuốn: kể cả kinh tế, tương quan với môi sinh và chính kiểu giải quyết hiện tượng di cư.
Vấn đề di cư đòi hỏi một bổ sung của sự khôn ngoan và lòng thương xót, để thắng vượt các sơ hãi và thực hiện thiện ích lớn hơn. Đức Thánh Cha khẳng định:
Cần nhận diện các lý do của việc di cư từ Ba Lan, bằng cách tạo dễ dàng cho những người muốn trở về. Đồng thời cũng cần sẵn sàng tiếp đón những người chạy trốn chiến tranh và đói khổ: tình liên đới đối với những người bị tước đoạt các quyền căn bản, trong đó có quyền tuyên xưng đức tin trong tự do và an ninh. Đồng thời cũng phải khuyến khích các sự cộng tác và cùng hoạt động trên bình diện quốc tế, hầu tìm ra các giải pháp cho các xung khắc và chiến tranh bắt buộc biết bao nhiêu người rời bỏ nhà cửa và quê hương của họ. Như vậy, đây là việc làm những gì có thể để xoa dịu các khổ đau của họ, không mệt mỏi hoạt động với trí thông minh và liên tục cho công lý và hoà bình, bằng cách làm chứng cho các giá trị nhân bản và kitô bằng việc làm.
Dưới ánh sáng lịch sử ngàn năm của nó, tôi kêu mời quốc gia Ba Lan hướng nhìn về tương lai và các vấn để phải đương đầu với niềm hy vọng. Thái độ như thế tạo dễ dàng cho một bầu khí tôn trọng giữa tất cả mọi thành phần xã hội, và một đối chiếu xây dựng giữa các lập trường khác nhau. Ngoài ra nó tạo các điều kiện tốt hơn cho sự trưởng thành dân sự, kinh tế và cả dân số nữa, dưỡng nuôi sự tin tưởng cống hiến một cuộc sống tốt cho con cái mình. Thật thế, họ không chỉ phải đương đầu với các vấn đề, mà cũng được hưởng các vẻ đẹp của thiên nhiên nữa, là thiện ích mà chúng ta phải biết thực hiện và phổ biến, niềm hy vọng mà chúng ta biết trao ban cho họ. Chính các đường lối chính trị xã hội thăng tiến gia đình là tế bào nòng cốt của xã hội, yểm trợ các gia đình yếu kém và nghèo túng nhất, nâng đỡ chúng trong việc tiếp nhận sự sống có trách nhiệm, sẽ hữu hiệu hơn nữa trong cách thế này. Sự sống luôn luôn cần được tiếp nhận và bảo vệ - cả hai việc tiếp nhận và bảo vệ - từ lúc thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên, và chúng ta tất cả đều được mời gọi tôn trọng nó và lo lắng cho nó. Đàng khác, chính Nhà nước, Giáo Hội và xã hội có bổn phận đồng hành và trợ giúp bất cứ ai sống trong các hoàn cảnh khó khăn trầm trọng, để một người con không bao giở phải cảm thấy mình là một gánh nặng nhưng như là một món qua, và để các người yếu đuối và nghèo túng nhất không bị bỏ rơi.
Trước khi kết thúc bài diễn văn, Đức Thánh Cha quay sang phía Tổng thống Ba Lan và nói:
Kính thưa tổng thống,
Quốc gia Ba Lan có thể tin tưởng nơi sự cộng tác của Giáo Hội Công Giáo như trong suốt lịch sử dài của mình, để dưới ánh sáng của các nguyên tắc kitô linh hứng nó và đã rèn luyện lịch sử và căn tính của Ba Lan, trong các điều kiện lịch sử nó biết tiến triển trên con đường của mình, trung thành với các truyền thống tốt đẹp nhất, tràn đầy tin tưởng và hy vọng cả trong những lúc khó khăn nhất.
Trong khi tái bầy tỏ lòng biết ơn của tôi, tôi xin cầu chúc tổng thống và từng người trong quý vị hiện diện một việc phục vụ thiện ích chung thanh thản và phong phú.”
Đức Thánh Cha viếng Đức Mẹ Częstochowa trong tiếng nhạc uy linh
VietCatholic Network
15:52 28/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Đây là một ngôi đền nổi tiếng bậc nhất Ba Lan được dành để kính viếng Đức Trinh Nữ Maria và là một trong những trung tâm hành hương kính Đức Mẹ lớn nhất của nước này. Hình ảnh tiêu biểu của ngôi đền này là tượng Đức Mẹ Đen, Black Madonna hay còn được gọi là Đức Mẹ Częstochowa. Các tín hữu tấp nập hành hương quanh năm vì nhiều người nhận được những ơn lạ hồn xác sau khi kính viếng tượng ảnh Đức Mẹ tại đây.
Địa điểm này chính thức được coi là di sản quốc gia từ ngày 16 tháng 10 năm 1994.
Chính tại đây, từ ngày 10 đến 15 tháng 8 năm 1991, một triệu sáu trăm ngàn người trẻ đã cùng với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cử hành Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần đầu tiên sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ hoàn toàn tại Đông Âu.
Khi tới Đền Thánh, Đức Thánh Cha được Cha Bề trên Tổng quyền dòng Thánh Phaolô và 300 Đan sĩ của dòng đón tiếp và hướng dẫn vào nhà nguyện, trước ảnh Đức Mẹ Đen. Bên trái bàn thờ có một bình thánh tích đựng giải áo mang vết máu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 khi ngài bị mưu sát ngày 13-5-1981.
Trong tiếng nhạc uy hùng, ảnh Đức Mẹ Đen hay còn được gọi là Đức Mẹ Đen Częstochowa được mở dần ra cho Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng kính viếng. Các đan sĩ đã quỳ xuống khi ảnh Đức Mẹ được mở dần ra.
Đức Thánh Cha cầu nguyện trong thinh lặng và dâng kính Đức Mẹ đóa hoa hồng vàng, theo thói quen của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm.
Giờ đây ngài đọc một Kinh Kính Mừng để kính Đức Mẹ.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các bạn trẻ: “Nói hành nói tỏi là một hình thức khủng bố”
Martino Trần Oanh
16:15 28/07/2016
(Vatican Radio) Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tiếp tục chuyến công du ở Ba Lan nhân dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, đã trả lời câu hỏi của ba bạn trẻ vào tối thứ tư.
Cô gái đầu tiên kể lại, do tình cờ cô đã nhỡ chuyến tàu hồi đầu tháng này và sau đó gặp một tai nạn khủng khiếp. Cô hỏi Đức Thánh Cha làm sao để cô có thể đạt trở lại tâm lý bình thường và vượt qua nỗi sợ hãi mà bây giờ cô vẫn còn cảm thấy.
Đức Thánh Cha đã tâm tình rằng đây không phải là một vết thương thể lý nhưng là một vết thương sâu đậm của tâm hồn; nỗi lo sợ. Ngài giải thích rằng cuộc sống đầy những vết sẹo và sự đau khổ, nhưng những bạn thanh thiếu niên có thể học hỏi cách thức để trở nên khôn ngoan. Ngài bày tỏ sự cần thiết quan trọng trong việc học và chấp nhận để sống với cả hai kinh nghiệm đau đớn và vui sướng với lòng dũng cảm và sự chịu đựng. Sống với niềm vui giúp ta hướng về phía trước và gìn giữ ta trong nỗi sợ.
Cô gái thứ hai trình bày là cô đã đến Ý cách đây sáu năm với một sự hiểu biết rất cơ bản về Ý ngữ. Cô trở thành một nạn nhân của sự dọa nạt và chèn ép đến nổi cô thường nghĩ đến tự tử. Mặc dù cô đã chọn để tha thứ, cô giải thích với Đức Thánh Cha rằng cô vẫn cảm thấy oán giận đối với những người làm tổn thương mình. Cô hỏi làm thế nào để cô có thể tha thứ cho những người đó thật sự hoàn toàn và tiếp tục dấn bước về phía trước vì cô không thích lòng thù ghét.
Đức Thánh Cha Phanxicô trước tiên cảm ơn cô đã kể lại câu chuyện thương tâm của mình. Ngài dẫn đưa cô gái về một ý thức diễn tả về sự ác độc có thể của lời nói; phao tin đồn là một hình thức của sự khủng bố, khủng bố trong lời nói, xúc phạm trái tim tâm hồn của người khác, kể cả phẩm giá chủng tộc trong trường hợp của người thiếu nữ này. Chúng ta cần chọn sự im lặng, kiên nhẫn và quan trọng nhất là sự tha thứ, tuy nhiên những lựa chọn này là không dễ dàng. Chúng ta luôn cầu xin Chúa giúp đỡ trong việc lựa chọn phương thứcđể tha thứ và quên hoàn toàn, và cầu xin Ngài tha thứ cho những người làm tổn thương chúng ta.
Câu hỏi cuối cùng đến từ một cậu bé, đã có mặt ở Nice trong cuộc tấn công vào ngày Lễ Độc Lập Pháp (Bastille Day) mới vừa rồi. Anh hỏi Đức Thánh Cha làm thế nào để những người trẻ có thể tiếp tục lây lan hòa bình trong một thế giới đầy thù hận?
Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời rằng hòa bình xây dựng những cây cầu nối và sự ganh ghét xây dựng những bức tường chia rẽ, và trong cuộc sống, chúng ta có sự lựa chọn hoặc là xây dựng những cây cầu để nối kết nhau hay xây dựng các bức tường ngăn rẽ. Bức tường chia rẽ con người, làm sự ghét bỏ gia tăng, trong khi đó cây cầu đoàn kết cho phép con người kết nối và liên lạc với nhau. Chúng ta có khả năng xây dựng một cây cầu của tình người, mỗi lần chúng ta nắm tay một ai đó. Ngay cả khi cây cầu bị sụp đổ, chúng ta vẫn phải kiên trì và tìm kiếm những phương thức khác để kiến tạo chúng trở lại.
Cô gái đầu tiên kể lại, do tình cờ cô đã nhỡ chuyến tàu hồi đầu tháng này và sau đó gặp một tai nạn khủng khiếp. Cô hỏi Đức Thánh Cha làm sao để cô có thể đạt trở lại tâm lý bình thường và vượt qua nỗi sợ hãi mà bây giờ cô vẫn còn cảm thấy.
Đức Thánh Cha đã tâm tình rằng đây không phải là một vết thương thể lý nhưng là một vết thương sâu đậm của tâm hồn; nỗi lo sợ. Ngài giải thích rằng cuộc sống đầy những vết sẹo và sự đau khổ, nhưng những bạn thanh thiếu niên có thể học hỏi cách thức để trở nên khôn ngoan. Ngài bày tỏ sự cần thiết quan trọng trong việc học và chấp nhận để sống với cả hai kinh nghiệm đau đớn và vui sướng với lòng dũng cảm và sự chịu đựng. Sống với niềm vui giúp ta hướng về phía trước và gìn giữ ta trong nỗi sợ.
Cô gái thứ hai trình bày là cô đã đến Ý cách đây sáu năm với một sự hiểu biết rất cơ bản về Ý ngữ. Cô trở thành một nạn nhân của sự dọa nạt và chèn ép đến nổi cô thường nghĩ đến tự tử. Mặc dù cô đã chọn để tha thứ, cô giải thích với Đức Thánh Cha rằng cô vẫn cảm thấy oán giận đối với những người làm tổn thương mình. Cô hỏi làm thế nào để cô có thể tha thứ cho những người đó thật sự hoàn toàn và tiếp tục dấn bước về phía trước vì cô không thích lòng thù ghét.
Đức Thánh Cha Phanxicô trước tiên cảm ơn cô đã kể lại câu chuyện thương tâm của mình. Ngài dẫn đưa cô gái về một ý thức diễn tả về sự ác độc có thể của lời nói; phao tin đồn là một hình thức của sự khủng bố, khủng bố trong lời nói, xúc phạm trái tim tâm hồn của người khác, kể cả phẩm giá chủng tộc trong trường hợp của người thiếu nữ này. Chúng ta cần chọn sự im lặng, kiên nhẫn và quan trọng nhất là sự tha thứ, tuy nhiên những lựa chọn này là không dễ dàng. Chúng ta luôn cầu xin Chúa giúp đỡ trong việc lựa chọn phương thứcđể tha thứ và quên hoàn toàn, và cầu xin Ngài tha thứ cho những người làm tổn thương chúng ta.
Câu hỏi cuối cùng đến từ một cậu bé, đã có mặt ở Nice trong cuộc tấn công vào ngày Lễ Độc Lập Pháp (Bastille Day) mới vừa rồi. Anh hỏi Đức Thánh Cha làm thế nào để những người trẻ có thể tiếp tục lây lan hòa bình trong một thế giới đầy thù hận?
Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời rằng hòa bình xây dựng những cây cầu nối và sự ganh ghét xây dựng những bức tường chia rẽ, và trong cuộc sống, chúng ta có sự lựa chọn hoặc là xây dựng những cây cầu để nối kết nhau hay xây dựng các bức tường ngăn rẽ. Bức tường chia rẽ con người, làm sự ghét bỏ gia tăng, trong khi đó cây cầu đoàn kết cho phép con người kết nối và liên lạc với nhau. Chúng ta có khả năng xây dựng một cây cầu của tình người, mỗi lần chúng ta nắm tay một ai đó. Ngay cả khi cây cầu bị sụp đổ, chúng ta vẫn phải kiên trì và tìm kiếm những phương thức khác để kiến tạo chúng trở lại.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xẩy chân tại bậc thềm bàn thờ và ngã xuống đất ở Czestochowa
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
17:14 28/07/2016
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xẩy chân tại bậc thềm bàn thờ và ngã xuống đất ở Czestochowa
Krakow - Thứ năm, 28.7.2016. Khoảnh khắc làm đứng tim của mọi người giáo dân hiện diện và trên truyền hình trực tiếp trong chuyến đi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến Ba Lan dịp họp mặt Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Krakow 2016 là việc ĐGH đã xẩy chân ngã xuống đất tại bàn thờ ngoài trời của tu viện Jasna Gora ở Czestochowa vào sáng nay.
Lúc Đức Giáo Hoàng Phanxicô xông hương bàn thờ thì xẩy chân tại một bậc thềm và ngã nằm trên thảm đỏ trong lúc tay còn cầm bình xông hương. Đức Ông trưởng nghi lễ và những người chung quanh vội vàng kéo áo để vực ĐGH đứng dậy. Ngài tiếp tục dâng thánh lễ như chưa có chuyện gì xảy ra. Cha Federico Lombardi phát ngôn viên Tòa Thánh cho báo chí biết sau đó: "Sau khi ngã ĐGH không bị hề hấn gì. Ngài đã cử hành toàn bộ thánh lễ như mọi khi". Chứng minh điều này đã đúng vì vào buổi chiều trước hàng trăm ngàn bạn trẻ tại công viên Błonia Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã có dịp khuấy động làm cho giới trẻ vui sướng reo hò vang trời. Theo những người thân cận của ĐGH cho biết Ngài không hề nhắc đến việc ngã vào sáng nay.
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
Lúc Đức Giáo Hoàng Phanxicô xông hương bàn thờ thì xẩy chân tại một bậc thềm và ngã nằm trên thảm đỏ trong lúc tay còn cầm bình xông hương. Đức Ông trưởng nghi lễ và những người chung quanh vội vàng kéo áo để vực ĐGH đứng dậy. Ngài tiếp tục dâng thánh lễ như chưa có chuyện gì xảy ra. Cha Federico Lombardi phát ngôn viên Tòa Thánh cho báo chí biết sau đó: "Sau khi ngã ĐGH không bị hề hấn gì. Ngài đã cử hành toàn bộ thánh lễ như mọi khi". Chứng minh điều này đã đúng vì vào buổi chiều trước hàng trăm ngàn bạn trẻ tại công viên Błonia Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã có dịp khuấy động làm cho giới trẻ vui sướng reo hò vang trời. Theo những người thân cận của ĐGH cho biết Ngài không hề nhắc đến việc ngã vào sáng nay.
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
Nữ Tu trốn thoát nói về bọn khủng bố ISIS tấn công ở Pháp.
Giuse Thẩm Nguyễn
17:26 28/07/2016
Nữ Tu trốn thoát nói về bọn khủng bố ISIS tấn công ở Pháp.
Paris, France(EWTN News/CNA).- Nữ Tu Danielle, một trong những người bị bắt làm con tin bởi bọn khủng bố tại một nhà thờ ở Pháp, đã trốn thoát trong lúc bọn khủng bố sơ ý và báo cho cảnh sát.
Tuy nhiên, họ đã không đến kịp để cứu sống cha Jacques Hamel, 84 tuổi.
Khi nói với đài phát thanh RMC, nữ tu cho biết vụ khủng bố này đã dẫn đến cái chết của một linh mục đầu tiên dưới tay bọn khủng bố ISIS tại Âu Châu và làm cho một người khác bị thương nặng.
Nữ tu nói “Tôi không nghĩ là bọn họ sẽ tới sát hại cha Jacques.Lúc đó trời còn tờ mờ sáng. Ngài đang đứng trước bàn thờ, bọn họ bắt ngài quỳ xuống và rồi ngài bắt đầu chống lại. Khi chúng tôi nhìn thấy bọn họ cầm dao tôi tự nhủ thầm “nguy rồi, thực sự điều tồi tệ đang xảy ra,”
Nữ tu Danielle nói rằng các nữ tu khác và các giáo dân hiện diện đã la lên bảo bọn khủng bố dừng tay, nhưng bọn họ cứ làm.
“Bọn họ la hét ‘Bọn Kitô giáo các người đang loại trừ chúng tao”. Họ cũng thu hình của họ trên băng hình. Họ đã nói như một bài giảng bằng tiếng Ả Rập gần bàn thờ. Thật là khủng khiếp!”
Nữ tu nhớ lại, “Cha Jacques thật là tuyệt vời, ngài là một linh mục phi thường. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói về ngài.”
Cha Hamel bị giết vào hôm Thứ Ba sau khi hai tay súng vũ trang tấn công vào một nhà thờ ở Saint-Etienne-du-Rouvray tại Normanday trong lúc ngài đang dâng lễ. Bọn này vào nhà thờ và bắt linh mục chủ tế và bốn người khác làm con tin. Cơ quan công lực địa phương cho biết là bọn tấn công đã cắt cổ vị linh mục và hai tên khủng bố đã bị bắn chết bởi cảnh sát. Một con tin bị thương nặng.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lên án vụ “ bạo lực phi lý ” trong một tuyên bố vào hôm Thứ Ba, và thêm rằng ngài đang cầu nguyện cho những nạn nhân của thảm kịch này.
Các Giám Mục Pháp đã chọn ngày Thứ Sáu, 29 tháng Bẩy, là ngày ăn chay cầu nguyện. Đức Ông Oliver Ribadeau Dumas, Tổng Thư Ký của Hội Đồng Giám Mục Pháp hiện đang tham gia đại hội Giới Trẻ Thế Giới ở Poland nói quyết định này được thảo luận vào ngày 26 tháng Bẩy.
Ngài nói với các phóng viên ở Krakow rằng “ Những gì xảy ra ở Pháp thì trước đây đã xảy ra tại các nước khác, và thật ra chúng ta biết người Kitô hữu đang hiến dâng cả đời mình vì niềm tin của họ,”
“Họ chết vì họ là mục tiêu của lòng thù hận và đây là một sự kiện giúp cho chúng ta thêm động lực để sống trong tình anh em cùng một cha như chúng ta được mời gọi.”
Giuse Thẩm Nguyễn
Nữ tu Danielle |
Tuy nhiên, họ đã không đến kịp để cứu sống cha Jacques Hamel, 84 tuổi.
Khi nói với đài phát thanh RMC, nữ tu cho biết vụ khủng bố này đã dẫn đến cái chết của một linh mục đầu tiên dưới tay bọn khủng bố ISIS tại Âu Châu và làm cho một người khác bị thương nặng.
Nữ tu nói “Tôi không nghĩ là bọn họ sẽ tới sát hại cha Jacques.Lúc đó trời còn tờ mờ sáng. Ngài đang đứng trước bàn thờ, bọn họ bắt ngài quỳ xuống và rồi ngài bắt đầu chống lại. Khi chúng tôi nhìn thấy bọn họ cầm dao tôi tự nhủ thầm “nguy rồi, thực sự điều tồi tệ đang xảy ra,”
Nữ tu Danielle nói rằng các nữ tu khác và các giáo dân hiện diện đã la lên bảo bọn khủng bố dừng tay, nhưng bọn họ cứ làm.
“Bọn họ la hét ‘Bọn Kitô giáo các người đang loại trừ chúng tao”. Họ cũng thu hình của họ trên băng hình. Họ đã nói như một bài giảng bằng tiếng Ả Rập gần bàn thờ. Thật là khủng khiếp!”
Nữ tu nhớ lại, “Cha Jacques thật là tuyệt vời, ngài là một linh mục phi thường. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói về ngài.”
Cha Hamel bị giết vào hôm Thứ Ba sau khi hai tay súng vũ trang tấn công vào một nhà thờ ở Saint-Etienne-du-Rouvray tại Normanday trong lúc ngài đang dâng lễ. Bọn này vào nhà thờ và bắt linh mục chủ tế và bốn người khác làm con tin. Cơ quan công lực địa phương cho biết là bọn tấn công đã cắt cổ vị linh mục và hai tên khủng bố đã bị bắn chết bởi cảnh sát. Một con tin bị thương nặng.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lên án vụ “ bạo lực phi lý ” trong một tuyên bố vào hôm Thứ Ba, và thêm rằng ngài đang cầu nguyện cho những nạn nhân của thảm kịch này.
Các Giám Mục Pháp đã chọn ngày Thứ Sáu, 29 tháng Bẩy, là ngày ăn chay cầu nguyện. Đức Ông Oliver Ribadeau Dumas, Tổng Thư Ký của Hội Đồng Giám Mục Pháp hiện đang tham gia đại hội Giới Trẻ Thế Giới ở Poland nói quyết định này được thảo luận vào ngày 26 tháng Bẩy.
Ngài nói với các phóng viên ở Krakow rằng “ Những gì xảy ra ở Pháp thì trước đây đã xảy ra tại các nước khác, và thật ra chúng ta biết người Kitô hữu đang hiến dâng cả đời mình vì niềm tin của họ,”
“Họ chết vì họ là mục tiêu của lòng thù hận và đây là một sự kiện giúp cho chúng ta thêm động lực để sống trong tình anh em cùng một cha như chúng ta được mời gọi.”
Giuse Thẩm Nguyễn
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong buổi lễ chào đón ngài tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới
J.B. Đặng Minh An dịch
19:43 28/07/2016
Chào các bạn, chúc một buổi chiều tốt lành!
Cuối cùng chúng ta cũng ở bên nhau! Cảm ơn các con đã chào đón nồng nhiệt cha! Cha cám ơn Đức Hồng Y Dziwisz, các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, các chủng sinh và những người đã đi cùng chúng con. Cha cũng biết ơn tất cả những người đã giúp tổ chức cuộc họp ngày hôm nay của chúng ta ở đây, những người đã “đi những thêm nhiều dặm đường” để chúng ta có thể cử hành niềm tin của mình.
Trong miền đất này, nơi sinh quán của ngài, cha đặc biệt muốn cảm ơn Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là người đầu tiên đưa ra ý tưởng về những cuộc gặp gỡ này và tạo ra những đông lực cho những cuộc gặp gỡ như thế. Từ trên thiên đàng, ngài đang hiện diện với chúng ta và ngài nhìn thấy tất cả các bạn: rất nhiều người trẻ tuổi từ một loạt các quốc gia, các nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau nhưng với cùng một mục tiêu, đó là vui mừng vì Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta. Nói rằng Chúa Giêsu đang sống động có nghĩa là nhen nhóm trở lại nhiệt tình của chúng ta muốn được theo Ngài, và canh tân mong muốn mãnh liệt của chúng ta muốn trở thành môn đệ của Ngài. Còn cơ hội nào tốt hơn để canh tân tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu cho bằng việc xây dựng tình bạn giữa các con với nhau! Còn cách nào tốt hơn để xây dựng tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu hơn là chia sẻ tình bạn ấy với người khác! Còn cách nào tốt hơn để trải nghiệm những niềm vui lan tỏa của Tin Mừng cho bằng làm mọi cách để đem Tin Mừng đến cho tất cả những tình huống thương đau và khó khăn!
Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta đến với Ngày Giới Trẻ Thế Giới Thứ Ba Mươi Mốt này. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Phúc thay ai có lòng xót thương, vì người ấy sẽ được thương xót (Mt 5: 7). Thực là phúc cho những ai có thể tha thứ, có thể thông cảm chân thành, và có thể trao ban những gì là tốt nhất của mình cho người khác.
Các bạn trẻ thân mến, trong những ngày này Ba Lan sống trong một bầu khí lễ hội; Ba Lan trong những ngày này muốn trở thành gương mặt luôn trẻ trung của lòng thương xót. Từ vùng đất này, cùng với các bạn và tất cả những người trẻ, kể cả những người không thể có mặt ngày nay nhưng tham gia với chúng ta qua các phương tiện truyền thông khác nhau, chúng ta sẽ làm cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới trở thành một Lễ Hội đích thực.
Trong những năm làm giám mục, cha đã học được một điều. Không có gì đẹp hơn là được nhìn thấy nhiệt tình, tâm huyết, lòng nhiệt thành và năng lượng của nhiều người trẻ trong cuộc sống của họ. Khi Chúa Giêsu chạm đến trái tim của một người trẻ, người ấy trở nên có khả năng tạo ra những điều thực sự tuyệt vời. Thật là thú vị để lắng nghe các con chia sẻ những ước mơ của mình, những băn khoăn và sự thiếu kiên nhẫn của chúng con với những người nói rằng đó là những điều không thể thay đổi. Đối với cha, thật là một ân sủng của Thiên Chúa khi được nhìn thấy đông đảo các con, với tất cả các câu hỏi, và những cố gắng để tạo ra một sự khác biệt. Thật là đẹp và ấm áp được thấy tất cả những bồn chồn! Hôm nay Giáo Hội nhìn đến chúng con và muốn học hỏi từ các con, để được yên tâm rằng Lòng Thương Xót của Chúa Cha luôn có một khuôn mặt luôn tươi trẻ, và không ngừng mời gọi chúng ta là một phần trong vương quốc của Ngài.
Cha biết các con có lòng nhiệt thành truyền giáo, vì thế cha lặp lại: lòng thương xót luôn có một khuôn mặt trẻ trung! Bởi vì một trái tim nhân hậu luôn được thúc đẩy để tiến ra ngoài vùng thoải mái của nó. Một trái tim nhân hậu có thể đi ra ngoài và gặp gỡ những người khác; nó đã sẵn sàng để đón nhận tất cả mọi người. Một trái tim nhân hậu có thể là một nơi ẩn náu cho những ai vô gia cư hoặc đã bị mất đi mái nhà của mình; nó có thể xây dựng một ngôi nhà và một gia đình cho những người bị buộc phải di cư; nó biết thế nào là dịu dàng và từ bi. Một trái tim nhân hậu có thể chia sẻ cơm bánh của mình với những người tị nạn và người di cư đang đói khát và chào đón họ. Nói chữ “thương xót” cùng với trọn con người các con là nói về những cơ hội, về tương lai, sự dấn thân, tin tưởng, cởi mở, hiếu khách, lòng từ bi và những giấc mơ.
Hãy để cha nói với các con một điều cha đã học được trong những năm này. Cha thật đau khổ khi gặp gỡ những người trẻ, những người dường như đã chọn việc “nghỉ hưu sớm”. Cha lo lắng khi nhìn thấy những người trẻ, những người đã chịu thua cả trước khi trận đấu bắt đầu, những người đang bị đánh bại ngay cả trước khi họ bắt đầu chơi, những người đi lòng vòng rầu rĩ như thể cuộc sống không có ý nghĩa. Từ sâu thẳm, những người trẻ tuổi như thế đang chán ... và nhàm chán! Nhưng cũng thật là khó khăn, và buồn phiền, khi chứng kiến những người trẻ tuổi lãng phí cuộc sống của họ trong việc tìm kiếm những cảm giác mạnh hoặc săn tìm cái cảm giác cho rằng mình đang rất là sống động bằng cách lần theo những nẻo đường đen tối và cuối cùng phải trả giá cho điều đó ... và phải trả giá đắt. Thật là buồn khi chứng kiến những người trẻ lãng phí những năm tháng đẹp nhất trong đời, lãng phí năng lượng của họ khi chạy theo những kẻ rao bán các ảo tưởng ngây thơ (ở quê cha, người ta gọi những con người ấy là “các nhà buôn khói”), là những người cướp đi từ các con những gì là tốt nhất.
Chúng ta đang tập hợp nơi đây để giúp đỡ lẫn nhau, bởi vì chúng ta không muốn bị cướp đi những gì là tốt nhất của mình. Chúng ta không muốn bị cướp đi năng lượng, niềm vui, những giấc mơ của chúng ta cho những ảo tưởng ngây thơ.
Vì vậy, cha hỏi các con: Các con đang tìm kiếm những xúc cảm trống rỗng trong cuộc sống mình, hay các con muốn cảm nhận được một sức mạnh có thể mang đến cho các con một cảm giác lâu dài của sự viên mãn trong cuộc sống? Các con đang tìm kiếm những xúc động trống rỗng, hoặc sức mạnh của ân sủng? Để tìm sự viên mãn, để đạt được sức mạnh mới, có một cách. Đó không phải là một thứ gì hay một vật gì, nhưng là một người, một người đang sống. Tên của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu có thể mang đến cho các con một niềm đam mê đích thực cho cuộc sống. Chúa Giêsu có thể truyền cảm hứng cho chúng ta không chấp nhận những gì là kém thua, nhưng những gì là tốt nhất. Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta, thúc đẩy chúng ta và giúp chúng ta tiếp tục cố gắng bất cứ khi nào chúng ta bị cám dỗ từ bỏ. Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta nhìn lên và mơ ước những điều tuyệt vời.
Trong Phúc Âm, chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu, trên đường lên Giêrusalem, đã dừng lại ở một ngôi nhà – ngôi nhà của Martha, Maria và Lazarô – và Người được họ chào đón. Ngài dừng lại, đi vào và dành thời gian cho họ. Hai người phụ nữ chào đón Ngài bởi vì họ biết Ngài là người cởi mở và chu đáo. Bận rộn với nhiều công việc và trách nhiệm khiến chúng ta có một chút như Martha: bận rộn, phân tán, không ngừng chạy từ nơi này đến nơi khác ... nhưng chúng ta cũng có thể giống như Maria: bất cứ khi nào chúng ta nhìn thấy một cảnh quan đẹp, hoặc nhìn vào một video từ một người bạn trên điện thoại di động của chúng ta, chúng ta có thể dừng lại và suy nghĩ, dừng lại và lắng nghe ... Trong những ngày này, Chúa Giêsu muốn dừng lại và vào nhà của chúng ta. Ngài sẽ nhìn thấy chúng ta vội vã tất bật với tất cả các mối quan tâm của chúng ta, như Chúa đã thấy nơi Martha ... và Ngài sẽ chờ đợi chúng ta lắng nghe Ngài, như Maria đã tạo không gian cho Ngài trong bối cảnh của những nhộn nhịp. Cầu xin ngày này có thể được phó thác cho Chúa Giêsu và cho việc lắng nghe nhau. Xin cho những ngày này có thể giúp chúng ta đón nhận Chúa Giêsu nơi tất cả những ai chúng ta chia sẻ cùng một ngôi nhà, trong các khu dân cư, trong các nhóm và trường học của chúng ta.
Bất cứ ai chào đón Chúa Giêsu, đều học cách yêu thương như Người. Vì thế, Ngài hỏi chúng ta xem liệu chúng ta có ao ước một cuộc sống tròn đầy không? Các con có muốn có một cuộc sống viên mãn không? Hãy bắt đầu bằng cách để cho mình được cởi mở và chu đáo! Bởi vì hạnh phúc được gieo và nở hoa nơi lòng thương xót. Đó là câu trả lời của Ngài, là đề nghị và là thách thức của Ngài, cuộc phiêu lưu của Ngài là lòng thương xót. Lòng Thương Xót luôn có một khuôn mặt trẻ trung. Giống như của Maria làng Bêtania, người ngồi như một môn đệ bên chân Chúa Giêsu và vui vẻ lắng nghe lời Ngài, vì cô biết rằng ở đó cô sẽ tìm được bình an. Cũng giống như Đức Maria thành Nazareth, với lời xin vâng táo bạo đã bước vào một cuộc phiêu lưu của lòng thương xót. Tất cả các thế hệ sẽ gọi Mẹ là có phước; với tất cả chúng ta Mẹ là “Mẹ của Lòng Thương Xót”.
Cùng nhau, chúng ta sẽ xin Chúa: “Xin khởi động nơi chúng con một cuộc phiêu lưu của lòng thương xót! Xin khởi động nơi chúng con cuộc phiêu lưu trong việc xây dựng những chiếc cầu và xô đổ những bức tường, những hàng rào và dây thép gai. Xin khởi động nơi chúng con cuộc phiêu lưu giúp đỡ người nghèo. Những người cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi, hoặc không còn tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống của họ. Xin hãy cho chúng con biết lắng nghe, như Maria làng Bêtania, những người chúng con không hiểu, những nền văn hóa và các dân tộc khác, cho dù chúng con sợ hãi hay coi như một mối đe dọa. Xin hãy cho chúng con biết lắng nghe những người cao niên, như Đức Maria thành Nazareth đã lắng nghe bà Elizabeth, để học hỏi từ sự khôn ngoan của họ.
Lạy Chúa, này chúng con đây. Xin hãy sai chúng con đi chia sẻ tình yêu thương xót của Chúa. Chúng con muốn chào đón Chúa ở giữa chúng con trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới này. Chúng con muốn khẳng định rằng cuộc sống của chúng con được viên mãn khi được hình thành bởi lòng thương xót, vì đó là phần tốt hơn, và sẽ không bao giờ bị lấy đi khỏi chúng con.
Cuối cùng chúng ta cũng ở bên nhau! Cảm ơn các con đã chào đón nồng nhiệt cha! Cha cám ơn Đức Hồng Y Dziwisz, các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, các chủng sinh và những người đã đi cùng chúng con. Cha cũng biết ơn tất cả những người đã giúp tổ chức cuộc họp ngày hôm nay của chúng ta ở đây, những người đã “đi những thêm nhiều dặm đường” để chúng ta có thể cử hành niềm tin của mình.
Trong miền đất này, nơi sinh quán của ngài, cha đặc biệt muốn cảm ơn Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là người đầu tiên đưa ra ý tưởng về những cuộc gặp gỡ này và tạo ra những đông lực cho những cuộc gặp gỡ như thế. Từ trên thiên đàng, ngài đang hiện diện với chúng ta và ngài nhìn thấy tất cả các bạn: rất nhiều người trẻ tuổi từ một loạt các quốc gia, các nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau nhưng với cùng một mục tiêu, đó là vui mừng vì Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta. Nói rằng Chúa Giêsu đang sống động có nghĩa là nhen nhóm trở lại nhiệt tình của chúng ta muốn được theo Ngài, và canh tân mong muốn mãnh liệt của chúng ta muốn trở thành môn đệ của Ngài. Còn cơ hội nào tốt hơn để canh tân tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu cho bằng việc xây dựng tình bạn giữa các con với nhau! Còn cách nào tốt hơn để xây dựng tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu hơn là chia sẻ tình bạn ấy với người khác! Còn cách nào tốt hơn để trải nghiệm những niềm vui lan tỏa của Tin Mừng cho bằng làm mọi cách để đem Tin Mừng đến cho tất cả những tình huống thương đau và khó khăn!
Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta đến với Ngày Giới Trẻ Thế Giới Thứ Ba Mươi Mốt này. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Phúc thay ai có lòng xót thương, vì người ấy sẽ được thương xót (Mt 5: 7). Thực là phúc cho những ai có thể tha thứ, có thể thông cảm chân thành, và có thể trao ban những gì là tốt nhất của mình cho người khác.
Các bạn trẻ thân mến, trong những ngày này Ba Lan sống trong một bầu khí lễ hội; Ba Lan trong những ngày này muốn trở thành gương mặt luôn trẻ trung của lòng thương xót. Từ vùng đất này, cùng với các bạn và tất cả những người trẻ, kể cả những người không thể có mặt ngày nay nhưng tham gia với chúng ta qua các phương tiện truyền thông khác nhau, chúng ta sẽ làm cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới trở thành một Lễ Hội đích thực.
Trong những năm làm giám mục, cha đã học được một điều. Không có gì đẹp hơn là được nhìn thấy nhiệt tình, tâm huyết, lòng nhiệt thành và năng lượng của nhiều người trẻ trong cuộc sống của họ. Khi Chúa Giêsu chạm đến trái tim của một người trẻ, người ấy trở nên có khả năng tạo ra những điều thực sự tuyệt vời. Thật là thú vị để lắng nghe các con chia sẻ những ước mơ của mình, những băn khoăn và sự thiếu kiên nhẫn của chúng con với những người nói rằng đó là những điều không thể thay đổi. Đối với cha, thật là một ân sủng của Thiên Chúa khi được nhìn thấy đông đảo các con, với tất cả các câu hỏi, và những cố gắng để tạo ra một sự khác biệt. Thật là đẹp và ấm áp được thấy tất cả những bồn chồn! Hôm nay Giáo Hội nhìn đến chúng con và muốn học hỏi từ các con, để được yên tâm rằng Lòng Thương Xót của Chúa Cha luôn có một khuôn mặt luôn tươi trẻ, và không ngừng mời gọi chúng ta là một phần trong vương quốc của Ngài.
Cha biết các con có lòng nhiệt thành truyền giáo, vì thế cha lặp lại: lòng thương xót luôn có một khuôn mặt trẻ trung! Bởi vì một trái tim nhân hậu luôn được thúc đẩy để tiến ra ngoài vùng thoải mái của nó. Một trái tim nhân hậu có thể đi ra ngoài và gặp gỡ những người khác; nó đã sẵn sàng để đón nhận tất cả mọi người. Một trái tim nhân hậu có thể là một nơi ẩn náu cho những ai vô gia cư hoặc đã bị mất đi mái nhà của mình; nó có thể xây dựng một ngôi nhà và một gia đình cho những người bị buộc phải di cư; nó biết thế nào là dịu dàng và từ bi. Một trái tim nhân hậu có thể chia sẻ cơm bánh của mình với những người tị nạn và người di cư đang đói khát và chào đón họ. Nói chữ “thương xót” cùng với trọn con người các con là nói về những cơ hội, về tương lai, sự dấn thân, tin tưởng, cởi mở, hiếu khách, lòng từ bi và những giấc mơ.
Hãy để cha nói với các con một điều cha đã học được trong những năm này. Cha thật đau khổ khi gặp gỡ những người trẻ, những người dường như đã chọn việc “nghỉ hưu sớm”. Cha lo lắng khi nhìn thấy những người trẻ, những người đã chịu thua cả trước khi trận đấu bắt đầu, những người đang bị đánh bại ngay cả trước khi họ bắt đầu chơi, những người đi lòng vòng rầu rĩ như thể cuộc sống không có ý nghĩa. Từ sâu thẳm, những người trẻ tuổi như thế đang chán ... và nhàm chán! Nhưng cũng thật là khó khăn, và buồn phiền, khi chứng kiến những người trẻ tuổi lãng phí cuộc sống của họ trong việc tìm kiếm những cảm giác mạnh hoặc săn tìm cái cảm giác cho rằng mình đang rất là sống động bằng cách lần theo những nẻo đường đen tối và cuối cùng phải trả giá cho điều đó ... và phải trả giá đắt. Thật là buồn khi chứng kiến những người trẻ lãng phí những năm tháng đẹp nhất trong đời, lãng phí năng lượng của họ khi chạy theo những kẻ rao bán các ảo tưởng ngây thơ (ở quê cha, người ta gọi những con người ấy là “các nhà buôn khói”), là những người cướp đi từ các con những gì là tốt nhất.
Chúng ta đang tập hợp nơi đây để giúp đỡ lẫn nhau, bởi vì chúng ta không muốn bị cướp đi những gì là tốt nhất của mình. Chúng ta không muốn bị cướp đi năng lượng, niềm vui, những giấc mơ của chúng ta cho những ảo tưởng ngây thơ.
Vì vậy, cha hỏi các con: Các con đang tìm kiếm những xúc cảm trống rỗng trong cuộc sống mình, hay các con muốn cảm nhận được một sức mạnh có thể mang đến cho các con một cảm giác lâu dài của sự viên mãn trong cuộc sống? Các con đang tìm kiếm những xúc động trống rỗng, hoặc sức mạnh của ân sủng? Để tìm sự viên mãn, để đạt được sức mạnh mới, có một cách. Đó không phải là một thứ gì hay một vật gì, nhưng là một người, một người đang sống. Tên của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu có thể mang đến cho các con một niềm đam mê đích thực cho cuộc sống. Chúa Giêsu có thể truyền cảm hứng cho chúng ta không chấp nhận những gì là kém thua, nhưng những gì là tốt nhất. Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta, thúc đẩy chúng ta và giúp chúng ta tiếp tục cố gắng bất cứ khi nào chúng ta bị cám dỗ từ bỏ. Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta nhìn lên và mơ ước những điều tuyệt vời.
Trong Phúc Âm, chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu, trên đường lên Giêrusalem, đã dừng lại ở một ngôi nhà – ngôi nhà của Martha, Maria và Lazarô – và Người được họ chào đón. Ngài dừng lại, đi vào và dành thời gian cho họ. Hai người phụ nữ chào đón Ngài bởi vì họ biết Ngài là người cởi mở và chu đáo. Bận rộn với nhiều công việc và trách nhiệm khiến chúng ta có một chút như Martha: bận rộn, phân tán, không ngừng chạy từ nơi này đến nơi khác ... nhưng chúng ta cũng có thể giống như Maria: bất cứ khi nào chúng ta nhìn thấy một cảnh quan đẹp, hoặc nhìn vào một video từ một người bạn trên điện thoại di động của chúng ta, chúng ta có thể dừng lại và suy nghĩ, dừng lại và lắng nghe ... Trong những ngày này, Chúa Giêsu muốn dừng lại và vào nhà của chúng ta. Ngài sẽ nhìn thấy chúng ta vội vã tất bật với tất cả các mối quan tâm của chúng ta, như Chúa đã thấy nơi Martha ... và Ngài sẽ chờ đợi chúng ta lắng nghe Ngài, như Maria đã tạo không gian cho Ngài trong bối cảnh của những nhộn nhịp. Cầu xin ngày này có thể được phó thác cho Chúa Giêsu và cho việc lắng nghe nhau. Xin cho những ngày này có thể giúp chúng ta đón nhận Chúa Giêsu nơi tất cả những ai chúng ta chia sẻ cùng một ngôi nhà, trong các khu dân cư, trong các nhóm và trường học của chúng ta.
Bất cứ ai chào đón Chúa Giêsu, đều học cách yêu thương như Người. Vì thế, Ngài hỏi chúng ta xem liệu chúng ta có ao ước một cuộc sống tròn đầy không? Các con có muốn có một cuộc sống viên mãn không? Hãy bắt đầu bằng cách để cho mình được cởi mở và chu đáo! Bởi vì hạnh phúc được gieo và nở hoa nơi lòng thương xót. Đó là câu trả lời của Ngài, là đề nghị và là thách thức của Ngài, cuộc phiêu lưu của Ngài là lòng thương xót. Lòng Thương Xót luôn có một khuôn mặt trẻ trung. Giống như của Maria làng Bêtania, người ngồi như một môn đệ bên chân Chúa Giêsu và vui vẻ lắng nghe lời Ngài, vì cô biết rằng ở đó cô sẽ tìm được bình an. Cũng giống như Đức Maria thành Nazareth, với lời xin vâng táo bạo đã bước vào một cuộc phiêu lưu của lòng thương xót. Tất cả các thế hệ sẽ gọi Mẹ là có phước; với tất cả chúng ta Mẹ là “Mẹ của Lòng Thương Xót”.
Cùng nhau, chúng ta sẽ xin Chúa: “Xin khởi động nơi chúng con một cuộc phiêu lưu của lòng thương xót! Xin khởi động nơi chúng con cuộc phiêu lưu trong việc xây dựng những chiếc cầu và xô đổ những bức tường, những hàng rào và dây thép gai. Xin khởi động nơi chúng con cuộc phiêu lưu giúp đỡ người nghèo. Những người cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi, hoặc không còn tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống của họ. Xin hãy cho chúng con biết lắng nghe, như Maria làng Bêtania, những người chúng con không hiểu, những nền văn hóa và các dân tộc khác, cho dù chúng con sợ hãi hay coi như một mối đe dọa. Xin hãy cho chúng con biết lắng nghe những người cao niên, như Đức Maria thành Nazareth đã lắng nghe bà Elizabeth, để học hỏi từ sự khôn ngoan của họ.
Lạy Chúa, này chúng con đây. Xin hãy sai chúng con đi chia sẻ tình yêu thương xót của Chúa. Chúng con muốn chào đón Chúa ở giữa chúng con trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới này. Chúng con muốn khẳng định rằng cuộc sống của chúng con được viên mãn khi được hình thành bởi lòng thương xót, vì đó là phần tốt hơn, và sẽ không bao giờ bị lấy đi khỏi chúng con.
Video WYD 2016: Thánh lễ kỷ niệm 1050 năm vua Ba Lan chịu phép rửa tội tại Częstochowa
VietCatholic Network
21:47 28/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Những hình ảnh mà quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là thánh lễ kỷ niệm 1050 năm vua Ba Lan chịu phép rửa tội tại Częstochowa.
Tu viện Jasna Góra tại Częstochowa là một ngôi đền nổi tiếng bậc nhất Ba Lan được dành để kính viếng Đức Trinh Nữ Maria và đây là địa điểm hành hương quan trọng nhất của cả nước, hàng năm, hàng triệu người tới đây kính viếng. Hình ảnh tiêu biểu của ngôi đền này là tượng Đức Mẹ Đen, Black Madonna hay còn được gọi là Đức Mẹ Częstochowa. Các tín hữu tấp nập hành hương quanh năm vì nhiều người nhận được những ơn lạ hồn xác sau khi kính viếng tượng ảnh Đức Mẹ tại đây. Địa điểm này chính thức được coi là di sản quốc gia từ ngày 16 tháng 10 năm 1994.
Chính tại đây, từ ngày 10 đến 15 tháng 8 năm 1991, một triệu sáu trăm ngàn người trẻ đã cùng với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cử hành Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần đầu tiên sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ hoàn toàn tại Đông Âu.
Đan viện Jasna Góra này tọa lạc cách Krakow khoảng 90 dặm và đại đa số những người tới đây lúc Đức Giáo Hoàng viếng thăm là người Ba Lan chứ không hẳn là khách hành hương của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, thành thử, đây là cơ hội hàng đầu để Đức Phanxicô khẳng định ý thức quốc gia sâu sắc của Ba Lan, bắt nguồn từ lòng sùng kính Đức Mẹ.
Kế hoạch khởi thủy của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là chỉ đến đây kính viếng Đức Bà Đen một thời gian vắn mà thôi. Nhưng sau đó, ngài được HDGM Ba Lan thuyết phục cử hành Thánh Lễ ở địa điểm này, nhằm nâng cao tinh thần chính trị và văn hóa cho cả các nhà lãnh đạo lẫn dân chúng Ba Lan.
Thế là tại đây, ngài sẽ cử hành Thánh Lễ để tưởng niệm 1,050 năm lễ rửa tội cho nhà Vua Ba Lan cũng là lễ rửa tội cho Ba Lan, đánh dấu nền độc lập quốc gia.
Thánh lễ diễn ra tại Đền Thánh Đức Mẹ Częstochowa. Chính tại nơi đây Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cử hành Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 1991 với một diễn từ làm rung động hàng triệu con tim những bạn trẻ Đông Âu vừa thoát ra khỏi chế độ cộng sản.
Sau khi nhắc lại những lời trích từ thư Rôma đoạn 8 từ câu 15 đến câu 17,
“Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi! “Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.”
Vị Giáo Hoàng Ba Lan nói:
“Với tất cả các bạn trẻ, nhân dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới này, tôi nói: hãy nhận lấy Thánh Thần và hãy mạnh mẽ trong đức tin! ‘Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ’ (2 Tim 1: 7).
Các con đã nhận lãnh Thần Khí làm cho chúng con nên nghĩa tử. Các con là con cái Thiên Chúa, là những người nam nữ được tái sinh trong bí tích Rửa Tội và được củng cố trong phép Thêm Sức, các con hãy là những người đầu tiên để xây dựng một nền văn minh mới, nền văn minh của sự thật và tình yêu, các con hãy là ánh sáng của thế giới và là muối của trái đất này.
Cha đang nghĩ đến những thay đổi sâu sắc đang diễn ra trên thế giới. Đối với nhiều người các cánh cửa được mở tung ra cho hy vọng về một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá của họ, và nhân bản hơn. Trong mối liên hệ này, cha nhớ lại những lời thực sự có tính tiên tri của Công đồng Vatican II: ‘Thần Khí của Thiên Chúa, Đấng với sự quan phòng kỳ diệu đang hướng dẫn lịch sử và canh tân bộ mặt trái đất, đang hiện diện trong diễn trình tiến hóa này’ (Vui mừng và Hy Vọng, 26)”
Không ít các bạn trẻ Đông Âu, những người vừa được hưởng tự do sau một thời gian dài sống trong chế độ cộng sản đã rưng rưng ngấn lệ.
Chính tại địa điểm lịch sử này, 25 năm sau, chúng ta đang chứng kiến thánh lễ kỷ niệm 1050 năm vua Ba Lan chịu phép rửa tội.
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong buổi ra mắt các bạn trẻ tại công viên Błonia
VietCatholic Network
22:41 28/07/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sau lễ nghi này, Đức Thánh Cha đã lên một chiếc xe điện để đi cùng một nóm các bạn trẻ khuyết tật đến công viên Błonia nơi ngài sẽ chính thức được các bạn trẻ tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới chào đón.
Đức Thánh Cha Phanxicô đang dùng Pope mobile để đi vòng quanh chào các bạn trẻ.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Błonia Park là một đồng cỏ rộng lớn với diện tích 48 ha tiếp giáp trực tiếp với trung tâm lịch sử của thành phố Kraków, Ba Lan.
Lịch sử của công viên được bắt đầu vào năm 1162, khi một nhà quý tộc giàu có tên là Jaksa Miechowa – là người sáng lập ra chi nhánh Ba Lan của Dòng Hiệp Sĩ Thánh Mộ - hiến miếng đất giữa Zwierzyniec và Lobzow cho các nữ tu dòng Norbertine. Ý định của ông là để nhận được những lời chúc lành trước chuyến hành hương của ông đến Thánh Địa Giêrusalem.
Trong hai thế kỷ tiếp theo cánh đồng này thuộc về các nữ tu. Vào năm 1366, các nữ tu trao đổi cánh đồng này chính quyền thành phố để lấy một dinh thự tại đường Florianska. Các nông dân từ các làng lân cận đã dùng cánh đồng để thả gia súc của họ.
Cho đến thế kỷ 19, công viên Błonia hầu như đã bị bỏ quên, và thường bị ngập lụt do nước dâng cao từ sông Rudawa, góp phần vào sự lây lan của dịch bệnh. Sau khi tháo nước cho cánh đồng này, Błonia được cải tạo thành một công viên. Năm 1809, khi Ba Lan được sát nhập vào Liên Hiệp Warsaw, Błonia là một nơi duyệt binh của quân đội.
Ngày nay, Błonia là một khu vực giải trí, với các sự kiện lớn như các buổi hòa nhạc và triển lãm. Nơi đây cũng đã từng diễn ra các Thánh Lễ lớn do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cử hành vào những năm 1979, 1983, 1987, 1997 và 2002. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 cũng đã từng cử hành thánh lễ ở đây trong chuyến tông du Ba Lan vào tháng Năm 2006.
Trong bài giảng thánh lễ với các bạn trẻ, Đức Thánh Cha nói:
Chào các bạn, chúc một buổi chiều tốt lành!
Cuối cùng chúng ta cũng ở bên nhau! Cảm ơn các con đã chào đón nồng nhiệt cha! Cha cám ơn Đức Hồng Y Dziwisz, các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, các chủng sinh và những người đã đi cùng chúng con. Cha cũng biết ơn tất cả những người đã giúp tổ chức cuộc họp ngày hôm nay của chúng ta ở đây, những người đã “đi những thêm nhiều dặm đường” để chúng ta có thể cử hành niềm tin của mình.
Trong miền đất này, nơi sinh quán của ngài, cha đặc biệt muốn cảm ơn Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là người đầu tiên đưa ra ý tưởng về những cuộc gặp gỡ này và tạo ra những đông lực cho những cuộc gặp gỡ như thế. Từ trên thiên đàng, ngài đang hiện diện với chúng ta và ngài nhìn thấy tất cả các bạn: rất nhiều người trẻ tuổi từ một loạt các quốc gia, các nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau nhưng với cùng một mục tiêu, đó là vui mừng vì Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta. Nói rằng Chúa Giêsu đang sống động có nghĩa là nhen nhóm trở lại nhiệt tình của chúng ta muốn được theo Ngài, và canh tân mong muốn mãnh liệt của chúng ta muốn trở thành môn đệ của Ngài. Còn cơ hội nào tốt hơn để canh tân tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu cho bằng việc xây dựng tình bạn giữa các con với nhau! Còn cách nào tốt hơn để xây dựng tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu hơn là chia sẻ tình bạn ấy với người khác! Còn cách nào tốt hơn để trải nghiệm những niềm vui lan tỏa của Tin Mừng cho bằng làm mọi cách để đem Tin Mừng đến cho tất cả những tình huống thương đau và khó khăn!
Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta đến với Ngày Giới Trẻ Thế Giới Thứ Ba Mươi Mốt này. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Phúc thay ai có lòng xót thương, vì người ấy sẽ được thương xót (Mt 5: 7). Thực là phúc cho những ai có thể tha thứ, có thể thông cảm chân thành, và có thể trao ban những gì là tốt nhất của mình cho người khác.
Các bạn trẻ thân mến, trong những ngày này Ba Lan sống trong một bầu khí lễ hội; Ba Lan trong những ngày này muốn trở thành gương mặt luôn trẻ trung của lòng thương xót. Từ vùng đất này, cùng với các bạn và tất cả những người trẻ, kể cả những người không thể có mặt ngày nay nhưng tham gia với chúng ta qua các phương tiện truyền thông khác nhau, chúng ta sẽ làm cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới trở thành một Lễ Hội đích thực.
Trong những năm làm giám mục, cha đã học được một điều. Không có gì đẹp hơn là được nhìn thấy nhiệt tình, tâm huyết, lòng nhiệt thành và năng lượng của nhiều người trẻ trong cuộc sống của họ. Khi Chúa Giêsu chạm đến trái tim của một người trẻ, người ấy trở nên có khả năng tạo ra những điều thực sự tuyệt vời. Thật là thú vị để lắng nghe các con chia sẻ những ước mơ của mình, những băn khoăn và sự thiếu kiên nhẫn của chúng con với những người nói rằng đó là những điều không thể thay đổi. Đối với cha, thật là một ân sủng của Thiên Chúa khi được nhìn thấy đông đảo các con, với tất cả các câu hỏi, và những cố gắng để tạo ra một sự khác biệt. Thật là đẹp và ấm áp được thấy tất cả những bồn chồn! Hôm nay Giáo Hội nhìn đến chúng con và muốn học hỏi từ các con, để được yên tâm rằng Lòng Thương Xót của Chúa Cha luôn có một khuôn mặt luôn tươi trẻ, và không ngừng mời gọi chúng ta là một phần trong vương quốc của Ngài.
Cha biết các con có lòng nhiệt thành truyền giáo, vì thế cha lặp lại: lòng thương xót luôn có một khuôn mặt trẻ trung! Bởi vì một trái tim nhân hậu luôn được thúc đẩy để tiến ra ngoài vùng thoải mái của nó. Một trái tim nhân hậu có thể đi ra ngoài và gặp gỡ những người khác; nó đã sẵn sàng để đón nhận tất cả mọi người. Một trái tim nhân hậu có thể là một nơi ẩn náu cho những ai vô gia cư hoặc đã bị mất đi mái nhà của mình; nó có thể xây dựng một ngôi nhà và một gia đình cho những người bị buộc phải di cư; nó biết thế nào là dịu dàng và từ bi. Một trái tim nhân hậu có thể chia sẻ cơm bánh của mình với những người tị nạn và người di cư đang đói khát và chào đón họ. Nói chữ “thương xót” cùng với trọn con người các con là nói về những cơ hội, về tương lai, sự dấn thân, tin tưởng, cởi mở, hiếu khách, lòng từ bi và những giấc mơ.
Hãy để cha nói với các con một điều cha đã học được trong những năm này. Cha thật đau khổ khi gặp gỡ những người trẻ, những người dường như đã chọn việc “nghỉ hưu sớm”. Cha lo lắng khi nhìn thấy những người trẻ, những người đã chịu thua cả trước khi trận đấu bắt đầu, những người đang bị đánh bại ngay cả trước khi họ bắt đầu chơi, những người đi lòng vòng rầu rĩ như thể cuộc sống không có ý nghĩa. Từ sâu thẳm, những người trẻ tuổi như thế đang chán ... và nhàm chán! Nhưng cũng thật là khó khăn, và buồn phiền, khi chứng kiến những người trẻ tuổi lãng phí cuộc sống của họ trong việc tìm kiếm những cảm giác mạnh hoặc săn tìm cái cảm giác cho rằng mình đang rất là sống động bằng cách lần theo những nẻo đường đen tối và cuối cùng phải trả giá cho điều đó ... và phải trả giá đắt. Thật là buồn khi chứng kiến những người trẻ lãng phí những năm tháng đẹp nhất trong đời, lãng phí năng lượng của họ khi chạy theo những kẻ rao bán các ảo tưởng ngây thơ (ở quê cha, người ta gọi những con người ấy là “các nhà buôn khói”), là những người cướp đi từ các con những gì là tốt nhất.
Chúng ta đang tập hợp nơi đây để giúp đỡ lẫn nhau, bởi vì chúng ta không muốn bị cướp đi những gì là tốt nhất của mình. Chúng ta không muốn bị cướp đi năng lượng, niềm vui, những giấc mơ của chúng ta cho những ảo tưởng ngây thơ.
Vì vậy, cha hỏi các con: Các con đang tìm kiếm những xúc cảm trống rỗng trong cuộc sống mình, hay các con muốn cảm nhận được một sức mạnh có thể mang đến cho các con một cảm giác lâu dài của sự viên mãn trong cuộc sống? Các con đang tìm kiếm những xúc động trống rỗng, hoặc sức mạnh của ân sủng? Để tìm sự viên mãn, để đạt được sức mạnh mới, có một cách. Đó không phải là một thứ gì hay một vật gì, nhưng là một người, một người đang sống. Tên của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu có thể mang đến cho các con một niềm đam mê đích thực cho cuộc sống. Chúa Giêsu có thể truyền cảm hứng cho chúng ta không chấp nhận những gì là kém thua, nhưng những gì là tốt nhất. Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta, thúc đẩy chúng ta và giúp chúng ta tiếp tục cố gắng bất cứ khi nào chúng ta bị cám dỗ từ bỏ. Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta nhìn lên và mơ ước những điều tuyệt vời.
Trong Phúc Âm, chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu, trên đường lên Giêrusalem, đã dừng lại ở một ngôi nhà – ngôi nhà của Martha, Maria và Lazarô – và Người được họ chào đón. Ngài dừng lại, đi vào và dành thời gian cho họ. Hai người phụ nữ chào đón Ngài bởi vì họ biết Ngài là người cởi mở và chu đáo. Bận rộn với nhiều công việc và trách nhiệm khiến chúng ta có một chút như Martha: bận rộn, phân tán, không ngừng chạy từ nơi này đến nơi khác ... nhưng chúng ta cũng có thể giống như Maria: bất cứ khi nào chúng ta nhìn thấy một cảnh quan đẹp, hoặc nhìn vào một video từ một người bạn trên điện thoại di động của chúng ta, chúng ta có thể dừng lại và suy nghĩ, dừng lại và lắng nghe ... Trong những ngày này, Chúa Giêsu muốn dừng lại và vào nhà của chúng ta. Ngài sẽ nhìn thấy chúng ta vội vã tất bật với tất cả các mối quan tâm của chúng ta, như Chúa đã thấy nơi Martha ... và Ngài sẽ chờ đợi chúng ta lắng nghe Ngài, như Maria đã tạo không gian cho Ngài trong bối cảnh của những nhộn nhịp. Cầu xin ngày này có thể được phó thác cho Chúa Giêsu và cho việc lắng nghe nhau. Xin cho những ngày này có thể giúp chúng ta đón nhận Chúa Giêsu nơi tất cả những ai chúng ta chia sẻ cùng một ngôi nhà, trong các khu dân cư, trong các nhóm và trường học của chúng ta.
Bất cứ ai chào đón Chúa Giêsu, đều học cách yêu thương như Người. Vì thế, Ngài hỏi chúng ta xem liệu chúng ta có ao ước một cuộc sống tròn đầy không? Các con có muốn có một cuộc sống viên mãn không? Hãy bắt đầu bằng cách để cho mình được cởi mở và chu đáo! Bởi vì hạnh phúc được gieo và nở hoa nơi lòng thương xót. Đó là câu trả lời của Ngài, là đề nghị và là thách thức của Ngài, cuộc phiêu lưu của Ngài là lòng thương xót. Lòng Thương Xót luôn có một khuôn mặt trẻ trung. Giống như của Maria làng Bêtania, người ngồi như một môn đệ bên chân Chúa Giêsu và vui vẻ lắng nghe lời Ngài, vì cô biết rằng ở đó cô sẽ tìm được bình an. Cũng giống như Đức Maria thành Nazareth, với lời xin vâng táo bạo đã bước vào một cuộc phiêu lưu của lòng thương xót. Tất cả các thế hệ sẽ gọi Mẹ là có phước; với tất cả chúng ta Mẹ là “Mẹ của Lòng Thương Xót”.
Cùng nhau, chúng ta sẽ xin Chúa: “Xin khởi động nơi chúng con một cuộc phiêu lưu của lòng thương xót! Xin khởi động nơi chúng con cuộc phiêu lưu trong việc xây dựng những chiếc cầu và xô đổ những bức tường, những hàng rào và dây thép gai. Xin khởi động nơi chúng con cuộc phiêu lưu giúp đỡ người nghèo. Những người cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi, hoặc không còn tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống của họ. Xin hãy cho chúng con biết lắng nghe, như Maria làng Bêtania, những người chúng con không hiểu, những nền văn hóa và các dân tộc khác, cho dù chúng con sợ hãi hay coi như một mối đe dọa. Xin hãy cho chúng con biết lắng nghe những người cao niên, như Đức Maria thành Nazareth đã lắng nghe bà Elizabeth, để học hỏi từ sự khôn ngoan của họ.
Lạy Chúa, này chúng con đây. Xin hãy sai chúng con đi chia sẻ tình yêu thương xót của Chúa. Chúng con muốn chào đón Chúa ở giữa chúng con trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới này. Chúng con muốn khẳng định rằng cuộc sống của chúng con được viên mãn khi được hình thành bởi lòng thương xót, vì đó là phần tốt hơn, và sẽ không bao giờ bị lấy đi khỏi chúng con.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ trao tác vụ đọc sách và giúp lễ cho Quý thầy Dòng Thánh Tâm
Vinh sơn Nguyễn Văn Hanh, CSC.
08:12 28/07/2016
Lễ trao tác vụ đọc sách và giúp lễ cho Quý thầy Dòng Thánh Tâm
Ngày 28.7.2016, tại nhà thờ Dòng Thánh Tâm, lúc 5 giờ 30 sáng Thứ Năm, Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, trao tác vụ Đọc Sách và Giúp Lễ cho 15 tu sĩ Dòng Thánh Tâm-Huế.
Xem Hình
Trong những ngày vừa qua, bầu không khi tại Dòng Thánh Tâm Huế hân hoan lạ thường, Quý linh mục và tu sĩ trong nước và nước ngoài tề tựu đông đảo tại trụ sở Nhà Trung ương ở Huế, dự kỳ tĩnh tâm năm( đợt I từ ngày 19/7-24/7 năm 2016; đợt II từ ngày 1/8-6/8 năm 2016) và dự khóa thường huấn diễn ra sau kỳ tĩnh tâm. Thánh lễ trao tác vụ Đọc Sách và Giúp Lễ đan xen giữa kỳ tĩnh tâm và khóa thường huấn.
Khi giờ đã điểm, từng hồi chuông ngân vang thật dài, cất lên từ tháp chuông Hội Dòng; ca đoàn hân hoan trong bài nhập lễ; đoàn Đồng Tế di chuyển từ dưới Hội Trường lên nhà thờ, tạo nên những cung bậc thánh thiêng thật khó diễn tả. Người ta nhận thấy trong đoàn đồng tế, ngoài Quý linh mục Dòng Thánh Tâm còn có cha Giogiô Nguyễn Thành Phương, thư ký Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế. Phía cộng đoàn tham dự, ngoài anh em Thánh Tâm còn có Quý sơ, Quý giáo hữu và các em Lưu trú Thánh Tâm.
Trong phần đầu Lễ, Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê đã mời gọi cộng đoàn tạ ơn Chúa với Hội Dòng Thánh Tâm, cách riêng với Quý thầy lãnh tác vụ hôm nay. Ngài nói: “mặc dù Giáo Hội đã giảm thiểu bằng việc bãi bỏ nghi thức cắt tóc và 4 chức nhỏ, đổi chức Đọc Sách và Giúp Lễ thành tác vụ, nhưng vẫn là điều kiện cần có của ứng sinh tiến tới chức thánh; hay cả những tu sĩ, giáo dân sống đời phục vụ, trong phận vụ riêng biệt mà Giáo Hội trao phó…”
Tưởng cũng nên nói thêm, ngày 15. 08. 1972, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã ban Tông Thư Ministeria Quaedam bãi bỏ việc cắt tóc (tonsure) và 4 chức nhỏ: mở cửa nhà thờ (Porter), trừ quỉ (exorcist), đọc sách (lector) và giúp lễ (acolyte).
Thừa tác vụ Đọc Sách có phận vụ chính là đọc Lời Chúa trong cộng đoàn phụng vụ, ngoại trừ bài Tin Mừng trong thánh lễ, đồng thời hướng dẫn cộng đoàn cầu nguyện khi không có mặt thừa tác viên có chức thánh. Khi cử hành thánh lễ, nếu không có phó tế, thừa tác viên còn xướng các ý nguyện trong lời nguyện chung hoặc đọc thánh vịnh, đáp ca khi không có ca viên. Bên cạnh đó, thừa tác viên có bổn phận dạy tín hữu lãnh nhận các bí tích, hay chuẩn bị tín hữu đọc Lời Chúa trong các cử hành phụng vụ. Ngoài ra, theo Quy chế sách lễ Rôma 2002, cho phép thầy đọc sách mang sách Tin Mừng khi đi rước đầu lễ nếu phó tế vắng mặt.
Thừa tác vụ Giúp Lễ có công việc chính là phục vụ bàn thờ và trợ giúp phó tế, linh mục trong các cử hành phụng vụ, nhất là thánh lễ;chuẩn bị lễ vật trên bàn thờ và là thừa tác viên ngoại thường trao Mình Thánh Chúa cho giáo dân. Ngoài ra, thừa tác viên có thể chủ tọa buổi cử hành phụng vụ Lời Chúa khi vắng mặt các thừa tác viên có chức thánh và cho giáo dân rước lễ; thăm viếng và trao Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân; đặt Mình Thánh Chúa cho giáo dân chầu và sau đó cất vào Nhà Tạm, nhưng không được ban phép lành; mang thánh giá và nến trong cử hành phụng vụ; nếu không có phó tế, sẽ giúp chủ tế tiếp nhận lễ vật, dọn chén và bình thánh, đưa nước và rượu, bình hương cho chủ tế, tráng chén và cất các bình thánh khi phó tế vắng mặt.
Trong phần chia sẻ Lời Chúa, Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng nhắc nhở các ứng sinh sống tinh thần hy sinh phục vụ. Ngài nói: “có lẽ Chúa Giêsu rất buồn khi các Tông đồ tranh nhau, ai là người lớn nhất, ai là người làm đầu, ai sẽ là người ngồi bên hữu bên tả của Thầy Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu kiên trì dạy cho họ biết sống tinh thần phục vụ, vì Ngài đến không phải được phục vụ mà là phục vụ và hiến dâng mạng sống…”
Trong số 15 ứng sinh lãnh tác vụ hôm nay, có 2 thầy lãnh tác vụ Đọc Sách, các thầy đã học xong Thần học I và 13 thầy lãnh tác vụ Giúp Lễ, Quý thầy đã học hết Thần học II.
Hiện tại, Dòng Thánh Tâm có khoảng hơn 90 tusĩ đang theo hoc Triết học và Thần học. Hội Dòng gởi Quý thầy đào tạo tại: Đại Chủng Viện Huế là nơi chính, Trung Tâm Học Vấn Đaminh, Đại Chủng viện Bùi Chu và Học viện Liên Dòng.
Trước khi kết thúc Thánh Lễ, cha Bề trên Tổng Quyền Antôn Huỳnh Đầy cất cao lời tri ân Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế, đồng thời Ngài là Phó Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Tổng luôn chăm lo cho Hội Dòng, yêu thương, nâng đỡ Hội Dòng bằng biết bao nhiêu việc thiện hảo, hôm nay đây, dù Ngài bận nhiều công việc nhưng vẫn có thể hiện diện để ban tác vụ cho Quý tusĩ trong Hội Dòng.
Cha Bề trên cũng cảm ơn cha Thư ký Tòa Tổng Giám muc Giogiô Nguyễn Thành Phương, Ngài vừa là Thư ký, vừa cai quản giáo xứ Gia Hội, công việc rất nhiều nhưng vẫn hiện diện bên cạnh Đức Tổng Giám mục, trong Thánh Lễ trao tác vụ cho Quý thầy Dòng, Hội Dòng xin Thánh Tâm Chúa xuống muôn ơn trên Cha và trên công tác mục vụ của Cha.
Tiếp đó, cha Bề trên cũng cám ơn Quý sơ và Quý anh chị em tín hữu đã hiện diện, đồng hành với Hội Dòng, với Quý thầy trong thời gian qua, nhất là trong Thánh Lễ này.
Thánh Lễ khép lại trong niềm vui ơn thánh. Xin kính chúc Quý thầy hăng say phục vụ, đúng như lời Đức Tổng Giám mục đã căn dặn Quý thầy trong Thánh Lễ hôm nay.
Vinh sơn Nguyễn Văn Hanh, CSC.
Ngày 28.7.2016, tại nhà thờ Dòng Thánh Tâm, lúc 5 giờ 30 sáng Thứ Năm, Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, trao tác vụ Đọc Sách và Giúp Lễ cho 15 tu sĩ Dòng Thánh Tâm-Huế.
Xem Hình
Trong những ngày vừa qua, bầu không khi tại Dòng Thánh Tâm Huế hân hoan lạ thường, Quý linh mục và tu sĩ trong nước và nước ngoài tề tựu đông đảo tại trụ sở Nhà Trung ương ở Huế, dự kỳ tĩnh tâm năm( đợt I từ ngày 19/7-24/7 năm 2016; đợt II từ ngày 1/8-6/8 năm 2016) và dự khóa thường huấn diễn ra sau kỳ tĩnh tâm. Thánh lễ trao tác vụ Đọc Sách và Giúp Lễ đan xen giữa kỳ tĩnh tâm và khóa thường huấn.
Khi giờ đã điểm, từng hồi chuông ngân vang thật dài, cất lên từ tháp chuông Hội Dòng; ca đoàn hân hoan trong bài nhập lễ; đoàn Đồng Tế di chuyển từ dưới Hội Trường lên nhà thờ, tạo nên những cung bậc thánh thiêng thật khó diễn tả. Người ta nhận thấy trong đoàn đồng tế, ngoài Quý linh mục Dòng Thánh Tâm còn có cha Giogiô Nguyễn Thành Phương, thư ký Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế. Phía cộng đoàn tham dự, ngoài anh em Thánh Tâm còn có Quý sơ, Quý giáo hữu và các em Lưu trú Thánh Tâm.
Trong phần đầu Lễ, Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê đã mời gọi cộng đoàn tạ ơn Chúa với Hội Dòng Thánh Tâm, cách riêng với Quý thầy lãnh tác vụ hôm nay. Ngài nói: “mặc dù Giáo Hội đã giảm thiểu bằng việc bãi bỏ nghi thức cắt tóc và 4 chức nhỏ, đổi chức Đọc Sách và Giúp Lễ thành tác vụ, nhưng vẫn là điều kiện cần có của ứng sinh tiến tới chức thánh; hay cả những tu sĩ, giáo dân sống đời phục vụ, trong phận vụ riêng biệt mà Giáo Hội trao phó…”
Tưởng cũng nên nói thêm, ngày 15. 08. 1972, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã ban Tông Thư Ministeria Quaedam bãi bỏ việc cắt tóc (tonsure) và 4 chức nhỏ: mở cửa nhà thờ (Porter), trừ quỉ (exorcist), đọc sách (lector) và giúp lễ (acolyte).
Thừa tác vụ Đọc Sách có phận vụ chính là đọc Lời Chúa trong cộng đoàn phụng vụ, ngoại trừ bài Tin Mừng trong thánh lễ, đồng thời hướng dẫn cộng đoàn cầu nguyện khi không có mặt thừa tác viên có chức thánh. Khi cử hành thánh lễ, nếu không có phó tế, thừa tác viên còn xướng các ý nguyện trong lời nguyện chung hoặc đọc thánh vịnh, đáp ca khi không có ca viên. Bên cạnh đó, thừa tác viên có bổn phận dạy tín hữu lãnh nhận các bí tích, hay chuẩn bị tín hữu đọc Lời Chúa trong các cử hành phụng vụ. Ngoài ra, theo Quy chế sách lễ Rôma 2002, cho phép thầy đọc sách mang sách Tin Mừng khi đi rước đầu lễ nếu phó tế vắng mặt.
Thừa tác vụ Giúp Lễ có công việc chính là phục vụ bàn thờ và trợ giúp phó tế, linh mục trong các cử hành phụng vụ, nhất là thánh lễ;chuẩn bị lễ vật trên bàn thờ và là thừa tác viên ngoại thường trao Mình Thánh Chúa cho giáo dân. Ngoài ra, thừa tác viên có thể chủ tọa buổi cử hành phụng vụ Lời Chúa khi vắng mặt các thừa tác viên có chức thánh và cho giáo dân rước lễ; thăm viếng và trao Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân; đặt Mình Thánh Chúa cho giáo dân chầu và sau đó cất vào Nhà Tạm, nhưng không được ban phép lành; mang thánh giá và nến trong cử hành phụng vụ; nếu không có phó tế, sẽ giúp chủ tế tiếp nhận lễ vật, dọn chén và bình thánh, đưa nước và rượu, bình hương cho chủ tế, tráng chén và cất các bình thánh khi phó tế vắng mặt.
Trong phần chia sẻ Lời Chúa, Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng nhắc nhở các ứng sinh sống tinh thần hy sinh phục vụ. Ngài nói: “có lẽ Chúa Giêsu rất buồn khi các Tông đồ tranh nhau, ai là người lớn nhất, ai là người làm đầu, ai sẽ là người ngồi bên hữu bên tả của Thầy Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu kiên trì dạy cho họ biết sống tinh thần phục vụ, vì Ngài đến không phải được phục vụ mà là phục vụ và hiến dâng mạng sống…”
Trong số 15 ứng sinh lãnh tác vụ hôm nay, có 2 thầy lãnh tác vụ Đọc Sách, các thầy đã học xong Thần học I và 13 thầy lãnh tác vụ Giúp Lễ, Quý thầy đã học hết Thần học II.
Hiện tại, Dòng Thánh Tâm có khoảng hơn 90 tusĩ đang theo hoc Triết học và Thần học. Hội Dòng gởi Quý thầy đào tạo tại: Đại Chủng Viện Huế là nơi chính, Trung Tâm Học Vấn Đaminh, Đại Chủng viện Bùi Chu và Học viện Liên Dòng.
Trước khi kết thúc Thánh Lễ, cha Bề trên Tổng Quyền Antôn Huỳnh Đầy cất cao lời tri ân Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế, đồng thời Ngài là Phó Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Tổng luôn chăm lo cho Hội Dòng, yêu thương, nâng đỡ Hội Dòng bằng biết bao nhiêu việc thiện hảo, hôm nay đây, dù Ngài bận nhiều công việc nhưng vẫn có thể hiện diện để ban tác vụ cho Quý tusĩ trong Hội Dòng.
Cha Bề trên cũng cảm ơn cha Thư ký Tòa Tổng Giám muc Giogiô Nguyễn Thành Phương, Ngài vừa là Thư ký, vừa cai quản giáo xứ Gia Hội, công việc rất nhiều nhưng vẫn hiện diện bên cạnh Đức Tổng Giám mục, trong Thánh Lễ trao tác vụ cho Quý thầy Dòng, Hội Dòng xin Thánh Tâm Chúa xuống muôn ơn trên Cha và trên công tác mục vụ của Cha.
Tiếp đó, cha Bề trên cũng cám ơn Quý sơ và Quý anh chị em tín hữu đã hiện diện, đồng hành với Hội Dòng, với Quý thầy trong thời gian qua, nhất là trong Thánh Lễ này.
Thánh Lễ khép lại trong niềm vui ơn thánh. Xin kính chúc Quý thầy hăng say phục vụ, đúng như lời Đức Tổng Giám mục đã căn dặn Quý thầy trong Thánh Lễ hôm nay.
Vinh sơn Nguyễn Văn Hanh, CSC.
Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới: Bài Giáo Lý Việt Ngữ số 1, ngày Thứ Tư 27.7.2016
Chân Phương
08:16 28/07/2016
Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới: Bài Giáo Lý Việt Ngữ số 1, ngày Thứ Tư 27.7.2016
Bài giáo lý do Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên - Giám mục Hải Phòng, Chủ tịch Ủy ban Mục vụ Giới trẻ thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam hướng dẫn.
Chủ đề: Thời của lòng thương xót
Bối cảnh xã hội: nếu xã hội của chúng ta ngày càng được cải thiện và phát triển, nhờ những phát minh khám phá của kỹ thuật hiện đại, thì lại có nguy cơ thiếu vắng tình người. Ở mọi lĩnh vực khác nhau như gia đình, cộng đoàn giáo xứ và xã hội, người ta nói đến chứng vô cảm. Con người ngày càng dửng dưng với nhau. Tình người trở nên khô cằn. Hậu quả là chia rẽ, ly tán, bạo lực, cướp của giết người.
Chính trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha Phanxicô có sáng kiến cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót (Khai mặc 8-12-2015, kết thúc 20-11-2016). "Thương xót như Chúa Cha" là chủ đề của Năm Thánh. Đây chính là lời mời gọi của Chúa Giêsu, và hôm nay, Giáo Hội tiếp tục làm cho lời mời gọi đó vang lên trong mọi môi trường của cuộc sống.
Năm Thánh Lòng Thương Xót có ý nghĩa ngôn sứ và là một dấu chỉ của thời đại. Sức mạnh của Giáo Hội thời nay không dựa trên quyền lực thế gian hay tiền bạc, vật chất. Giáo Hội tìm thấy sức mạnh và tạo ảnh hưởng nơi con người thời nay qua những nỗ lực cố gắng thực thi lòng thương xót. Đức Thánh Cha viết: "Trụ cột nâng đỡ đời sống Giáo Hội chính là lòng thương xót. tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải được thấm đẫm sự dịu dàng; không một sứ điệp và chứng từ nào của Giáo Hội trước thế giới lại có thể vắng bóng lòng thương xót. Tinh yêu thương xót và thông cảm chính là phương thế để củng cố tính cách đáng tin của Giáo Hội. Giáo Hội "vô cùng khao khát trao ban lòng thương xót" (Misericordiae Vultus, số 10).
Nhờ việc thực thi lòng thương xót, chứng từ của Giáo Hội trở nên khả tính trong một xã hội đang thiếu vắng tình người. Đức Thánh Cha viết: "Thời đại ngày nay, khi Giáo Hội đang thực thi công cuộc Tân Phúc-âm-hóa, lòng thương xót quả là cần thiết một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và canh tân các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đới với Giáo Hội cũng như với tính cách đáng tin của lời Giáo Hội rao giảng chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Giáo Hội cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha" (Misericordiae Vultus, số 12).
Trong tình hiệp thông với Giáo Hội, mỗi bạn trẻ chúng ta hãy sống tinh thần Năm Thánh một cách cụ thể. Trước hết, hãy nhận ra lòng thương xót của Chúa trong cuộc đời. Mỗi chúng ta còn nhiều khuyết điểm cần được Chúa thương xót tha thứ. Đón nhận lòng thương xót của Chúa, mỗi người cũng hãy trở nên những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu trong cuộc sống hôm nay, để cùng nhay làm cho "thời của lòng thương xót" được hiện hữu và ảnh hưởng nơi mọi người.
Đại hội Giới trẻ là điểm nhấn để chúng ta thể hiện tinh thần hiệp thông với Đức Thánh Cha và với các Bạn trẻ toàn thế giới. Học hỏi giáo lý, cầu nguyện, gặp gỡ giao lưu, nhất là buổi canh thức cầu nguyện và Thánh lễ do Đức Thánh Ca chủ sự, tất cả đều nhằm diễn tả niềm vui của đức tin Kitô giáo và sức sống kỳ diệu của Giáo Hội. Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta. Ngài đang nhìn chúng ta với ánh mắt yêu thương và với lòng từ bi thương xót. Các Bạn hãy nhận ra điều đó và hãy sẻ chia với mọi người.
- Mỗi bạn trẻ chúng ta đã nghe nói, đã biết, đã làm gì để sống tinh thần của Năm Thánh?
- Khi đến với Đại hội Giới trẻ, chúng ta có chủ đích và mong ước gì?
Chân Phương
Bài giáo lý do Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên - Giám mục Hải Phòng, Chủ tịch Ủy ban Mục vụ Giới trẻ thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam hướng dẫn.
Chủ đề: Thời của lòng thương xót
Bối cảnh xã hội: nếu xã hội của chúng ta ngày càng được cải thiện và phát triển, nhờ những phát minh khám phá của kỹ thuật hiện đại, thì lại có nguy cơ thiếu vắng tình người. Ở mọi lĩnh vực khác nhau như gia đình, cộng đoàn giáo xứ và xã hội, người ta nói đến chứng vô cảm. Con người ngày càng dửng dưng với nhau. Tình người trở nên khô cằn. Hậu quả là chia rẽ, ly tán, bạo lực, cướp của giết người.
Chính trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha Phanxicô có sáng kiến cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót (Khai mặc 8-12-2015, kết thúc 20-11-2016). "Thương xót như Chúa Cha" là chủ đề của Năm Thánh. Đây chính là lời mời gọi của Chúa Giêsu, và hôm nay, Giáo Hội tiếp tục làm cho lời mời gọi đó vang lên trong mọi môi trường của cuộc sống.
Năm Thánh Lòng Thương Xót có ý nghĩa ngôn sứ và là một dấu chỉ của thời đại. Sức mạnh của Giáo Hội thời nay không dựa trên quyền lực thế gian hay tiền bạc, vật chất. Giáo Hội tìm thấy sức mạnh và tạo ảnh hưởng nơi con người thời nay qua những nỗ lực cố gắng thực thi lòng thương xót. Đức Thánh Cha viết: "Trụ cột nâng đỡ đời sống Giáo Hội chính là lòng thương xót. tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải được thấm đẫm sự dịu dàng; không một sứ điệp và chứng từ nào của Giáo Hội trước thế giới lại có thể vắng bóng lòng thương xót. Tinh yêu thương xót và thông cảm chính là phương thế để củng cố tính cách đáng tin của Giáo Hội. Giáo Hội "vô cùng khao khát trao ban lòng thương xót" (Misericordiae Vultus, số 10).
Nhờ việc thực thi lòng thương xót, chứng từ của Giáo Hội trở nên khả tính trong một xã hội đang thiếu vắng tình người. Đức Thánh Cha viết: "Thời đại ngày nay, khi Giáo Hội đang thực thi công cuộc Tân Phúc-âm-hóa, lòng thương xót quả là cần thiết một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và canh tân các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đới với Giáo Hội cũng như với tính cách đáng tin của lời Giáo Hội rao giảng chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Giáo Hội cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha" (Misericordiae Vultus, số 12).
Trong tình hiệp thông với Giáo Hội, mỗi bạn trẻ chúng ta hãy sống tinh thần Năm Thánh một cách cụ thể. Trước hết, hãy nhận ra lòng thương xót của Chúa trong cuộc đời. Mỗi chúng ta còn nhiều khuyết điểm cần được Chúa thương xót tha thứ. Đón nhận lòng thương xót của Chúa, mỗi người cũng hãy trở nên những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu trong cuộc sống hôm nay, để cùng nhay làm cho "thời của lòng thương xót" được hiện hữu và ảnh hưởng nơi mọi người.
Đại hội Giới trẻ là điểm nhấn để chúng ta thể hiện tinh thần hiệp thông với Đức Thánh Cha và với các Bạn trẻ toàn thế giới. Học hỏi giáo lý, cầu nguyện, gặp gỡ giao lưu, nhất là buổi canh thức cầu nguyện và Thánh lễ do Đức Thánh Ca chủ sự, tất cả đều nhằm diễn tả niềm vui của đức tin Kitô giáo và sức sống kỳ diệu của Giáo Hội. Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta. Ngài đang nhìn chúng ta với ánh mắt yêu thương và với lòng từ bi thương xót. Các Bạn hãy nhận ra điều đó và hãy sẻ chia với mọi người.
- Mỗi bạn trẻ chúng ta đã nghe nói, đã biết, đã làm gì để sống tinh thần của Năm Thánh?
- Khi đến với Đại hội Giới trẻ, chúng ta có chủ đích và mong ước gì?
Chân Phương
Giáo xứ Thuận Nghĩa: 237 em thiếu nhi rước lễ lần đầu
Px. Đinh Nguyễn
11:01 28/07/2016
Giáo xứ Thuận Nghĩa: 237 em thiếu nhi rước lễ lần đầu
Chiều ngày 28/ 07/2016 Giáo xứ Thuận Nghĩa long trọng tổ chức thánh lễ cầu nguyện cho 237 em rước lễ lần đầu.
Xem Hình
Để chuẩn bị cho các em được xưng tội và rước lễ lần đầu, ngày 13/06/2016 Cha Antôn quản xứ đã tổ chức khóa học dành cho các em đến tuổi được rước lễ. Trong khóa học, quý Thầy đã giúp các em học hỏi về Lời Chúa và Giáo Lý để các em hiểu rõ hơn về Bí tích Giao Hòa và Bí tích Thánh Thể. Chắc chắn những kiến thức quý thầy đã truyền đạt có thể giúp các em hiểu biết hơn về tình yêu của Thiên Chúa thông qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Giao Hòa và Thánh Thể. Đó cũng là thời gian quý Thầy giúp các em chuẩn bị tâm hồn sốt sáng để đón nhận Chúa vào lòng.
Trước niềm vui được giao hòa với Thiên Chúa và Giáo Hội. Sáng ngày 28/07/2016, các em đã quy tụ về ngôi thánh đường Giáo xứ với khuôn mặt tươi vui, có nhiều Cha mẹ đã cùng các em đến nhà thờ để sám hối và lãnh nhận Bí tích Giao Hòa, đó như là tấm gương sáng cho các em noi theo. Trước khi lãnh nhận Bí tích Giao Hòa các em đã được Cha Antôn quản xứ huấn từ: Ngài nói lên sự cao quý của Bí tích Giao Hòa và Thánh Thể, nhắn nhủ các em phải siêng năng đón nhận để luôn luôn đủ sức chống trả chước ma quỷ cám dỗ và luôn được sống trong ân nghĩa Chúa.
Lúc 15h45 chiều ngày 28/07/2016, thánh lễ cầu nguyện cho các em rước lễ lần đầu được diễn ra với sự hiện diện của Cha Antôn Nguyễn Văn Đính quản xứ Thuận Nghĩa, chủ tế thánh lễ. Đồng tế với ngài, có Cha Giuse Nguyễn Văn Đồng quản xứ Tân Yên, quý Cha quê hương. Hiện diện trong thánh lễ còn có quý tu sĩ nam nữ, chủng sinh, các em học sinh cùng đông đảo các bậc phụ huynh trong toàn Giáo xứ, đặc biệt có 237 em mới đươc lãnh nhận Bí tích Giao Hòa.
Trong bài giảng, Cha Giuse Nguyễn Văn Đồng đã nhấn mạnh đến Bí tích Thánh Thể trong 3 khía cạnh: Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu; Thánh Thể là dấu chỉ của sự hiệp thông và Bí tích Thánh Thể là một sự biến đổi. Ngài mời gọi các em: hãy lãnh nhận lấy tình yêu của Chúa qua Bí tích Thánh Thể và đem chính tình yêu đó đến với mọi người, trước tiên là đối với các thành viên trong gia đình; hãy hy sinh giúp đỡ những người xung quanh và sống thân tình với nhau như Ba Ngôi Thiên Chúa, từ đó các em sẽ được biến đổi thành những người tốt có ích cho Giáo Hội và xã hội. Ngài cũng nhắn nhủ đến các bậc phụ huynh phải làm gương sáng cho các em noi theo trong đời sống đạo cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Ngài gửi lời chúc mừng đến các em cùng gia đình của các em. Quả thật, đây là một ngày đặc biệt, một mốc son mới trong cuộc đời các em. Một niềm vui lớn của gia đình và Giáo xứ, vì nay Giáo xứ có thêm những người con trưởng thành, những người con sẽ ra đi làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa.
Ước mong sao các em được rước Mình Máu Thánh Chúa hôm nay sẽ giữ mãi tâm tình mến yêu và tạ ơn đối với Thiên Chúa, luôn khao khát rước Chúa vào lòng như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: “Nếm thử mà xem, mà xem Chúa ngọt ngào, ngọt ngào xiết bao.”
Px. Đinh Nguyễn
Chiều ngày 28/ 07/2016 Giáo xứ Thuận Nghĩa long trọng tổ chức thánh lễ cầu nguyện cho 237 em rước lễ lần đầu.
Xem Hình
Để chuẩn bị cho các em được xưng tội và rước lễ lần đầu, ngày 13/06/2016 Cha Antôn quản xứ đã tổ chức khóa học dành cho các em đến tuổi được rước lễ. Trong khóa học, quý Thầy đã giúp các em học hỏi về Lời Chúa và Giáo Lý để các em hiểu rõ hơn về Bí tích Giao Hòa và Bí tích Thánh Thể. Chắc chắn những kiến thức quý thầy đã truyền đạt có thể giúp các em hiểu biết hơn về tình yêu của Thiên Chúa thông qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Giao Hòa và Thánh Thể. Đó cũng là thời gian quý Thầy giúp các em chuẩn bị tâm hồn sốt sáng để đón nhận Chúa vào lòng.
Trước niềm vui được giao hòa với Thiên Chúa và Giáo Hội. Sáng ngày 28/07/2016, các em đã quy tụ về ngôi thánh đường Giáo xứ với khuôn mặt tươi vui, có nhiều Cha mẹ đã cùng các em đến nhà thờ để sám hối và lãnh nhận Bí tích Giao Hòa, đó như là tấm gương sáng cho các em noi theo. Trước khi lãnh nhận Bí tích Giao Hòa các em đã được Cha Antôn quản xứ huấn từ: Ngài nói lên sự cao quý của Bí tích Giao Hòa và Thánh Thể, nhắn nhủ các em phải siêng năng đón nhận để luôn luôn đủ sức chống trả chước ma quỷ cám dỗ và luôn được sống trong ân nghĩa Chúa.
Lúc 15h45 chiều ngày 28/07/2016, thánh lễ cầu nguyện cho các em rước lễ lần đầu được diễn ra với sự hiện diện của Cha Antôn Nguyễn Văn Đính quản xứ Thuận Nghĩa, chủ tế thánh lễ. Đồng tế với ngài, có Cha Giuse Nguyễn Văn Đồng quản xứ Tân Yên, quý Cha quê hương. Hiện diện trong thánh lễ còn có quý tu sĩ nam nữ, chủng sinh, các em học sinh cùng đông đảo các bậc phụ huynh trong toàn Giáo xứ, đặc biệt có 237 em mới đươc lãnh nhận Bí tích Giao Hòa.
Trong bài giảng, Cha Giuse Nguyễn Văn Đồng đã nhấn mạnh đến Bí tích Thánh Thể trong 3 khía cạnh: Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu; Thánh Thể là dấu chỉ của sự hiệp thông và Bí tích Thánh Thể là một sự biến đổi. Ngài mời gọi các em: hãy lãnh nhận lấy tình yêu của Chúa qua Bí tích Thánh Thể và đem chính tình yêu đó đến với mọi người, trước tiên là đối với các thành viên trong gia đình; hãy hy sinh giúp đỡ những người xung quanh và sống thân tình với nhau như Ba Ngôi Thiên Chúa, từ đó các em sẽ được biến đổi thành những người tốt có ích cho Giáo Hội và xã hội. Ngài cũng nhắn nhủ đến các bậc phụ huynh phải làm gương sáng cho các em noi theo trong đời sống đạo cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Ngài gửi lời chúc mừng đến các em cùng gia đình của các em. Quả thật, đây là một ngày đặc biệt, một mốc son mới trong cuộc đời các em. Một niềm vui lớn của gia đình và Giáo xứ, vì nay Giáo xứ có thêm những người con trưởng thành, những người con sẽ ra đi làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa.
Ước mong sao các em được rước Mình Máu Thánh Chúa hôm nay sẽ giữ mãi tâm tình mến yêu và tạ ơn đối với Thiên Chúa, luôn khao khát rước Chúa vào lòng như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: “Nếm thử mà xem, mà xem Chúa ngọt ngào, ngọt ngào xiết bao.”
Px. Đinh Nguyễn
“Phóng sự Đại Hội hành hương kính Mẹ La Vang tại Thủ Đô Mĩ 2016”:
Mục Vụ Van Bút
17:34 28/07/2016
Để xem tin tức và hình ảnh “Phóng sự Đại Hội hành hương kính Mẹ La Vang tại Thủ Đô Mĩ 2016”:
1. Chương trình Hội Diễn Thánh Ca Lòng Thương Xót Chúa tại Nhà Thờ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Arlington, Virginia, 22/07/2016.
2. Hành hương kính Mẹ La Vang dịp 10 năm thiết kế nguyện đường Mẹ La Vang tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm, Washington DC, 23/07,
xin nhấn vào đường link này:
http://www.mucvuvanbut.net/index.php?option=com_content&view=article&id=3554:phong-su-dai-hoi-hanh-huong-kinh-me-la-vang-tai-thu-do-mi-2016&catid=57:tin-giao-hoi-viet-nam&Itemid=97
1. Chương trình Hội Diễn Thánh Ca Lòng Thương Xót Chúa tại Nhà Thờ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Arlington, Virginia, 22/07/2016.
2. Hành hương kính Mẹ La Vang dịp 10 năm thiết kế nguyện đường Mẹ La Vang tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm, Washington DC, 23/07,
xin nhấn vào đường link này:
http://www.mucvuvanbut.net/index.php?option=com_content&view=article&id=3554:phong-su-dai-hoi-hanh-huong-kinh-me-la-vang-tai-thu-do-mi-2016&catid=57:tin-giao-hoi-viet-nam&Itemid=97
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Từ miệng đảng đến lưỡi quốc hội
Phạm Trần
08:21 28/07/2016
TỪ MIỆNG ĐẢNG ĐẾN LƯỠI QUỐC HỘI
“Lực lượng thù địch” hay “thế lực thù địch” là hai nhóm chữ quen thuộc phát ra từ miệng Đảng từ lâu đã leo qua cái lưỡi Quốc hội từ khi xẩy ra thảm họa cá chết ở miền Trung.
Hiện tượng này tuy mới mà không lạ vì Đại biểu Quốc hội cũng là đảng viên nên đảng nói sao thì đại biểu dân phải nói thế. Mèo không thể nói khác mỉu.
Nhưng khi Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trần Đại Quang, cũng là Đại biểu Quốc hội, tìm cách buộc tội “các thế lực thù địch” để che đậy thất bại của đảng và nhà nước thì tự họ đã biểu lộ những thiếu sót và bất cập của bản thân.
Chẳng hạn như khi đánh gía kết qủa cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngày 22/5/2016, ông Trọng đã nói rằng:” Cuộc bầu cử diễn ra có nhiều thuận lợi song sự cố cá chết bất thường ở miền Trung, sự chống phá của các lực lượng thù địch... đã gây không ít khó khăn cho công tác bầu cử” (báo Người Lao Động,18/07/2016).
Trước hết không phải tự nhiên mà cá chết nên không “bất thường”. Formosa mà đảng đã nhắm mắt rước vào Hà Tĩnh đã thải chất độc ra biển nên sinh vật biển mới chết. Khỏang 5 triệu người dân của 4 Tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang sống điêu đứng cũng chẳng phải là “bất thường”.
Nhiều viên chức đảng và nhà nước đã hạ thấp thảm họa môi trường và cá chết xuống hàng “sự cố” (tai nạn) trong khi Formosa đã chủ tâm xả chất độc ra biển với sự tiếp tay của những cán bộ lãnh đạo Hà Tĩnh bất chính và vô trách nhiệm, hàng đầu là các viên chức Tài Nguyên và Môi trường kém hay không có kiến thức khoa học và thiếu chuyên môn công nghiệp từ địa phương Hà Tĩnh về Trung ương Hà Nội.
Thứ hai là từ ngày xẩy ra cá chết (6/4/2016) đến ngày bầu cử (22/5/2016) là 28 ngày mà ông Trọng đã không dám nói tiếng nào về thảm họa môi trường khủng khiếp này. Ông cũng không thèm đi thăm các nạn nhân để xem họ đang gặp những khó khăn như thế nào trong đời sống.
Ông Trọng đã ngồi ở Hà Nội và đi đây đó hô hào tổ chức bầu cử như không có chuyện cá chết. Là người lãnh đạo nhưng đã hành động thiếu nhân bản và vô trách nhiệm như thế mà ông lại muốn dân đi bỏ phiếu bầu lên những Đại biểu cũng vô tâm và vô cảm như ông thì ông Trọng chưa mắc bệnh tâm thần là may.
Ai cũng biết người dân trong vùng bị nạn khi ấy hoang mang và hỏang sợ tột cùng. Hàng trăm ngàn ngư dân không còn biển để kiếm cơm. Thuyền đã phơi bờ, nhà đói, tiền cạn và sự chết đã bao phủ một vùng bao la trải dài hơn 200 cây số từ ven bờ đến xa bờ và trên đất liền.
Nhưng nhiều màn kịch tắm biển, “ăn cá an tòan” trơ trẽn phản cảm của các viên chức lãnh đạo đảng và nhà nước đã diễn ra, như trường hợp Bộ trưởng Thông tin và Truyền Thông Trương Minh Tuấn ở Quảng Bình hôm 30/04/2016.
Người dân ở nhiều vùng đất nước đã xuống đường phản kháng và lên án cách giải quyết rùa bò, lúng túng và chắp vá của nhà nước. Trước hòan cảnh kinh tế và việc làm khó khăn như thế thì có nạn nhân nào còn lòng dạ đi bỏ phiếu để bầu ra những đại diện giống ông Trọng ?
Vì vậy họ đã chọn ngồi nhà cho khỏi đói, đồng thời cũng để bầy tỏ thái độ tẩy chay bầu cử khiến ông Trọng bực tức. Ông ta đã lên án và quy chụp họ vào với “chống phá của các lực lượng thù địch” để biện minh cho bầu cử không đạt yêu cầu.
Thế rồi tại buổi khai mạc Khóa họp đầu tiên của Quốc hội khóa 14 ngày 20/07/2016, ông Trọng lại bị ám ảnh bởi hình ảnh “thù địch” đã chen vào đầu các Đại biểu khi ông nói trong diễn văn:” Trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp của nước ta phải luôn kiên định lập trường tư tưởng, giữ vững mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng, chú trọng nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, tiếp thu có chọn lọc, vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình, điều kiện Việt Nam.”
Rồi ông ra lệnh:”Tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác để cho các thế lực xấu, thù địch lợi dụng chống phá chúng ta bằng cách hướng lái hệ thống luật pháp của chúng ta đi con đường khác, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.”
Thiết tưởng ông Trọng đã qúa dè dặt đến mất tự tin khi sử dụng các chữ “thế lực xấu, thù địch” để hù họa các Đại biểu trong công tác làm luật. Ai cũng biết tất cả các Dự luật đều cho đảng và nhà nước sọan cho Quốc hội thảo luận lấy lệ để thông qua cho có vẻ dân chủ và hợp hiến. Do đó, từ bao lâu nay, dù có cố gắng mấy, Quốc hội cũng không sao gột tẩy được nhãn hiệu “đảng cử dân bầu” hay “con dấu vô tri” cho đảng sử dụng.
CHỦ TỊCH NƯỚC
Đến lượt Đại tướng Công an, Chủ tịch nước Trần Đại Quang cũng chỉ biết nói theo ông Trọng.
Sau khi được Quốc hội chính thức bổ nhiệm ngày 25/07/2016, ông Quang cũng chỉ biết nói lại những điều người dân đã phải nghe mỏi tai hàng chục năm qua.
Ông bình luận tình hình hiện nay với báo chí trong cuộc phỏng vấn được chuẩn bị từ trước:”Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố quốc tế tiếp tục gia tăng với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Các thế lực thù địch, phản động ráo riết đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hoà bình,” bạo loạn, lật đổ với nhiều âm mưu, thủ đoạn mới hết sức thâm độc và xảo quyệt hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.” (theo TTXVN, Thông tấn xã Việt Nam)
Điều được gọi là “diễn biến hòa bình” thông thường nằm trong đầu các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam (CSVN) là hình ảnh của các nước Tây phương do Hoa Kỳ cầm đầu. Những đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền, tự do báo chí, tự do tự tưởng, tôn giáo và hoạt động của các tổ chức dân sự, của những Bloggers, Nhà báo độc lập ngoài báo lề đảng v.v… đều nằm trong cái khung gọi là “diễn biến hòa bình”. Những hoạt động của bất cứ ai, bất luận từ đâu đến hay của quốc gia nào nhằm vào Việt Nam cũng đều bị nhà nước đội cho cái mũ chống đảng, chống nhân dân và chủ trương bạo động lật đổ chế độ.
Không có dấu hiệu nào cho thấy các hoạt động của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam được nhà nước xếp vào hàng ngũ “diễn biến hòa bình”. Nhưng tình trạng lệ thuộc kinh tế và kỹ nghệ vào Trung Quốc , cũng như quan hệ lâu đời giữa hai đảng Cộng sản Trung-Việt đã đặt Việt Nam nằm gọn trong chiếc còng nô lệ Trung Quốc. Dù lãnh đạo đảng có cải chính cũng không được. Bằng chứng 90 phần trăm các dự án kinh tế ở Việt Nam nằm trong tay các Công ty Trung Quốc đã chứng minh.
Trong suốt cuộc phỏng vấn của một số báo, không có câu hỏi nào trực tiếp đến tình hình Biển Đông hay áp lực của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Ông Quang chi nói chung chung, đại khái lập lại chủ trương của đảng là:” Quan tâm củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, khả năng sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.”
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Đến lượt Chủ tịch Quốc hội Nguyễn thị Kim Ngân cũng không khá hơn. Nhiều câu nói của Bà coi như “tát nước theo mưa” cho không chệch hướng. Cách hành xử của Bà làm cho vai trò Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất nước và là Đại diện cho dân không còn là của dân nữa.
Chẳng hạn như 4 ngày trước cuộc bầu cử Quốc hội (22/05/2016), bà Ngân kêu gọi:”Văn phòng Hội đồng bầu cử đề nghị tăng cường an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đề phòng sự phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng để bảo vệ bầu cử.
"Kiên quyết không để các thế lực thù địch, phản động lôi kéo quần chúng, phá hoại cuộc bầu cử, bảo đảm thông tin thông suốt, kịp thời, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng của nhân dân trong dịp bầu cử", báo cáo của Hội đồng bầu cử nêu.”
Rồi bà Ngân, giống như ông Trọng, đã ghép chuyện cá chết miền Trung vào với âm mưu “phá họai cuộc bầu cử”.
Bà nói:”Thời gian qua, sau sự việc cá chết hàng loạt ở miền Trung, dưới danh nghĩa bảo vệ môi trường, hàng nghìn người đã tụ tập gây mất an ninh trật tự ở một số tỉnh, thành. Họ mang theo hơi cay, có nhiều hành vi quá khích gây thương tích cho lực lượng chức năng. Công an TP HCM nhận định đằng sau động thái gây rối là âm mưu của tổ chức Việt Tân "tạo bạo loạn chính trị", "phá hoại cuộc bầu cử".
Khi đưa lời cáo buộc mà chỉ biết căn cứ vào “nhận định của Công an Thành phố Hồ Chí Minh” để suy diễn thì thật nguy hiểm. Tại sao bà Ngân lại coi hành động đòi nước sạch, biển sạch của dân vùng cá chết miền Trung có liên hệ với âm mưu bạo loạn chính trị để phá bầu cử của tổ chức Việt Tân mà không đưa ra chứng cớ nào ?
Hành động của Bà Chủ tịch Quốc hội hiển nhiên đã coi thường những khó khăn của dân vùng bị nạn. Hàng ngàn người Công Giáo đã xuống đường biểu tình phản đối Formosa, đòi trừng phạt những cán bộ đã tiếp tay cho Formosa hủy hoại môi trường, giết hại sinh vật biển gây khốn khổ kinh tế cho dân mà bà lại buộc họ “bạo loạn chính trị” để “phá họai bầu cử” thì bà có còn là Đại biểu của dân Việt Nam không ?
Cũng không thấy bà đi thăm dân bị nạn, chẳng thấy bóng dáng bà Chủ tịch Ngân ở bất cứ nơi nào có cá chết. Bà còn không muốn lập ban điều tra vụ cá chết và Formosa do Đại biểu Trương Trọng Nghĩa đề nghị.
Trong cuộc họp báo ngày 23/07/2016, các báo cùng tường thuật :”Bà Ngân cho biết, hiện nay chưa có chủ trương lập uỷ ban lâm thời. Để có kết luận về Formosa, Chính phủ đã rất cố gắng, tổ chức gây ra đã nhận lỗi và cam kết khắc phục, đó là thắng lợi bước đầu….không chỉ Chính phủ, các cơ quan chức năng mà Quốc hội cũng đang có nhưng giám sát độc lập riêng để đánh giá đầy đủ, khách quan.”
Lạ chưa ? Chuyện của Hành pháp điều tra vụ cá chết và Thủ phạm Formosa là chuyện của nhà nước, không phải nhiệm vụ của Quốc hội, cơ quan đại diện cho dân. Khi bà Ngân chống thành lập Ban điều tra riêng là bà đã trúng bẫy tuyên truyền của Ban Tuyên giáo đảng từ bấy lâu nay lập luận rằng “mọi việc đã có nhà nước lo”.
Hơn nữa khi nhà nước nhận 500 triệu dollars bồi thường của Formosa thì Quốc hội cũng chưa biết chắc là đủ hay thiếu để bồi thường cho dân và khắc phục mội trường theo lời hứa của Formosa. Còn chuyện Quốc hội “giám sát” thì từa xưa đến nay, Quốc hội không giám sát được đảng mà chỉ biết cúi đầu nhận lệnh.
Quốc hội không dám điều tra Dự án khai thác Bauxite ở Tây Nguyên vì Bộ Chính trị đã làm theo yêu cầu của Trung Quốc. Quốc hội cũng không dám ra Nghị quyết lên án hành động lấn chiếm biển đảo Việt Nam của Bắc Kinh ở Biển Đông là hai bằng chứng tiêu biểu cho bất lực, vô dụng của Quốc hội.
LUẬT BIỂU TÌNH-BIỂN ĐÔNG
Cũng trong cuộc họp báo ngày 23/07/2016, Bà Ngân còn biện bạch cho việc trì hõan Luật biểu tình chưa đưa ra Quốc hội vì còn nhiều ý kiến khác biệt. Dự luật này do Bộ Công an phối hợp với Bộ Quốc phòng sọan thảo đáng lẽ đã phải đưa ra thảo luận trong lần họp thứ 11 của Quốc hội khoá trước (13), nhưng phía Quân đội quyết chống. Phe này cho rằng nếu không cẩn thận thì Luật biểu tình sẽ là “đổi mới chính trị” đe dọa trực tiếp đến quyền lãnh đạo độc tôn của đảng.
Bà Ngân nói:”"Luật Biểu tình liên quan đến quyền của công dân, việc lùi là để nghiên cứu căn cơ thấu đáo phù hợp với tình hình của đất nước. Đất nước ta ổn định, trong khi nhiều nơi tình hình cho thấy rất lo lắng, nên việc ban hành luật phải phù hợp tình hình, bảo đảm lợi ích của đất nước, bảo đảm quyền của người dân, nhưng không làm rối loạn đất nước."
Lập luận nước đôi của Bà Ngân có khác quan điểm bảo thủ, độc tài và vi hiến của Bộ Quốc phòng không ? Bởi vì điều 25 của Hiến pháp 2013 đã quy định:”Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Như vậy, một khi chưa có luật thì dân mất quyền và Hiến pháp cũng vô dụng, do đó theo tường thuật của báo Việt Nam thì Bà Ngân đã chữa cháy:” Tuy nhiên, bà cho biết, Luật Biểu tình sẽ được Quốc hội khoá 14 nghiêm túc xem xét sau khi Chính phủ trình, chứ không lùi vô thời hạn.”
Nhưng nếu bên Chính phủ cứ bảo “chưa thống nhất ý kiến” nên chưa thể trình ra Quốc hội thì bà Ngân làm gì được ? Tòan là chuyện tầm phào, lãng nhách –theo ngôn ngữ của người Nam Bộ như bà Ngân.
Liên quan đến tình hình Biển Đông và áp lực của Trung Quốc, Bà Ngân nói mang máng giống như ông Nguyễn Phú Trọng:”Việt Nam nhất quán một quan điểm về chủ quyền, chưa bao giờ thay đổi, đó là vấn đề thiêng liêng với mỗi một người dân Việt Nam. Người Việt Nam hơn bất cứ đâu đều yêu chuộng hòa bình. Việt Nam có nhiều biện pháp đấu tranh để đảm bảo chủ quyền lãnh thổ nhưng cũng đảm bảo môi trường hoà bình, ổn định cho người dân.
“Bảo vệ hòa bình không phải hô hào cho thật to, kích động thế này thế khác là có được chủ quyền, không có đâu. Một số tổ chức, cá nhân lên tiếng hô hào thế này thế nọ nhưng những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước? Chưa làm gì cả, chỉ có nói, kích động các phần tử để làm rối tình hình.”
Đây là lần đầu tiên người ta được nghe từ miệng bà Ngân những lời lên án các công dân Việt Nam trong và ngoài nước đã và đang đấu tranh chống Trung Quốc và chống thái độ thờ ơ, sợ hãi Trung Quốc của đảng CSVN.
Không biết những lần người dân xuống đường biểu tình chống Tầu đàn áp, giết hại ngư dân và ăn cướp tài sản của họ ở Biển Đông từ năm 2007 đến năm 2012 thì bà Ngân ở xó xỉnh nào mà không thấy lên tiếng nói năng vài lời ?
Cũng chưa bao giờ thấy bà dám hé răng lên án Công an và côn đồ của Công an đã đàn áp gây đổ máu cho người dân trong các cuộc tập hợp truy ơn các chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh ở Hòang Sa năm 1974 và các chiên sỹ quân đội nhân dân đã bỏ mình vì tổ quốc ở Trường Sa năm 1988.
Khi nhân dân kỷ niệm và truy điệu trên 40 ngàn chiến sỹ và đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân Tầu xăm lược ở Biên giới Việt-Trung năm 1979 thì có ai thấy mặt bà Ngân ở đâu không ?
Do đó khi nghe bà chất vấn lòng yêu nước của “những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước?” thì bà hãy soi mặt vào gương mà tự hỏi mình “đã làm gì cho đất nước” chưa ?
Thế mới biết những gì Đảng nói xưa nay đã dính vào cái lưỡi của bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. -/-
Phạm Trần
(07/016)
“Lực lượng thù địch” hay “thế lực thù địch” là hai nhóm chữ quen thuộc phát ra từ miệng Đảng từ lâu đã leo qua cái lưỡi Quốc hội từ khi xẩy ra thảm họa cá chết ở miền Trung.
Hiện tượng này tuy mới mà không lạ vì Đại biểu Quốc hội cũng là đảng viên nên đảng nói sao thì đại biểu dân phải nói thế. Mèo không thể nói khác mỉu.
Nhưng khi Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trần Đại Quang, cũng là Đại biểu Quốc hội, tìm cách buộc tội “các thế lực thù địch” để che đậy thất bại của đảng và nhà nước thì tự họ đã biểu lộ những thiếu sót và bất cập của bản thân.
Chẳng hạn như khi đánh gía kết qủa cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngày 22/5/2016, ông Trọng đã nói rằng:” Cuộc bầu cử diễn ra có nhiều thuận lợi song sự cố cá chết bất thường ở miền Trung, sự chống phá của các lực lượng thù địch... đã gây không ít khó khăn cho công tác bầu cử” (báo Người Lao Động,18/07/2016).
Trước hết không phải tự nhiên mà cá chết nên không “bất thường”. Formosa mà đảng đã nhắm mắt rước vào Hà Tĩnh đã thải chất độc ra biển nên sinh vật biển mới chết. Khỏang 5 triệu người dân của 4 Tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang sống điêu đứng cũng chẳng phải là “bất thường”.
Nhiều viên chức đảng và nhà nước đã hạ thấp thảm họa môi trường và cá chết xuống hàng “sự cố” (tai nạn) trong khi Formosa đã chủ tâm xả chất độc ra biển với sự tiếp tay của những cán bộ lãnh đạo Hà Tĩnh bất chính và vô trách nhiệm, hàng đầu là các viên chức Tài Nguyên và Môi trường kém hay không có kiến thức khoa học và thiếu chuyên môn công nghiệp từ địa phương Hà Tĩnh về Trung ương Hà Nội.
Thứ hai là từ ngày xẩy ra cá chết (6/4/2016) đến ngày bầu cử (22/5/2016) là 28 ngày mà ông Trọng đã không dám nói tiếng nào về thảm họa môi trường khủng khiếp này. Ông cũng không thèm đi thăm các nạn nhân để xem họ đang gặp những khó khăn như thế nào trong đời sống.
Ông Trọng đã ngồi ở Hà Nội và đi đây đó hô hào tổ chức bầu cử như không có chuyện cá chết. Là người lãnh đạo nhưng đã hành động thiếu nhân bản và vô trách nhiệm như thế mà ông lại muốn dân đi bỏ phiếu bầu lên những Đại biểu cũng vô tâm và vô cảm như ông thì ông Trọng chưa mắc bệnh tâm thần là may.
Ai cũng biết người dân trong vùng bị nạn khi ấy hoang mang và hỏang sợ tột cùng. Hàng trăm ngàn ngư dân không còn biển để kiếm cơm. Thuyền đã phơi bờ, nhà đói, tiền cạn và sự chết đã bao phủ một vùng bao la trải dài hơn 200 cây số từ ven bờ đến xa bờ và trên đất liền.
Nhưng nhiều màn kịch tắm biển, “ăn cá an tòan” trơ trẽn phản cảm của các viên chức lãnh đạo đảng và nhà nước đã diễn ra, như trường hợp Bộ trưởng Thông tin và Truyền Thông Trương Minh Tuấn ở Quảng Bình hôm 30/04/2016.
Người dân ở nhiều vùng đất nước đã xuống đường phản kháng và lên án cách giải quyết rùa bò, lúng túng và chắp vá của nhà nước. Trước hòan cảnh kinh tế và việc làm khó khăn như thế thì có nạn nhân nào còn lòng dạ đi bỏ phiếu để bầu ra những đại diện giống ông Trọng ?
Vì vậy họ đã chọn ngồi nhà cho khỏi đói, đồng thời cũng để bầy tỏ thái độ tẩy chay bầu cử khiến ông Trọng bực tức. Ông ta đã lên án và quy chụp họ vào với “chống phá của các lực lượng thù địch” để biện minh cho bầu cử không đạt yêu cầu.
Thế rồi tại buổi khai mạc Khóa họp đầu tiên của Quốc hội khóa 14 ngày 20/07/2016, ông Trọng lại bị ám ảnh bởi hình ảnh “thù địch” đã chen vào đầu các Đại biểu khi ông nói trong diễn văn:” Trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp của nước ta phải luôn kiên định lập trường tư tưởng, giữ vững mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng, chú trọng nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, tiếp thu có chọn lọc, vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình, điều kiện Việt Nam.”
Rồi ông ra lệnh:”Tuyệt đối không mơ hồ, mất cảnh giác để cho các thế lực xấu, thù địch lợi dụng chống phá chúng ta bằng cách hướng lái hệ thống luật pháp của chúng ta đi con đường khác, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.”
Thiết tưởng ông Trọng đã qúa dè dặt đến mất tự tin khi sử dụng các chữ “thế lực xấu, thù địch” để hù họa các Đại biểu trong công tác làm luật. Ai cũng biết tất cả các Dự luật đều cho đảng và nhà nước sọan cho Quốc hội thảo luận lấy lệ để thông qua cho có vẻ dân chủ và hợp hiến. Do đó, từ bao lâu nay, dù có cố gắng mấy, Quốc hội cũng không sao gột tẩy được nhãn hiệu “đảng cử dân bầu” hay “con dấu vô tri” cho đảng sử dụng.
CHỦ TỊCH NƯỚC
Đến lượt Đại tướng Công an, Chủ tịch nước Trần Đại Quang cũng chỉ biết nói theo ông Trọng.
Sau khi được Quốc hội chính thức bổ nhiệm ngày 25/07/2016, ông Quang cũng chỉ biết nói lại những điều người dân đã phải nghe mỏi tai hàng chục năm qua.
Ông bình luận tình hình hiện nay với báo chí trong cuộc phỏng vấn được chuẩn bị từ trước:”Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố quốc tế tiếp tục gia tăng với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Các thế lực thù địch, phản động ráo riết đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hoà bình,” bạo loạn, lật đổ với nhiều âm mưu, thủ đoạn mới hết sức thâm độc và xảo quyệt hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.” (theo TTXVN, Thông tấn xã Việt Nam)
Điều được gọi là “diễn biến hòa bình” thông thường nằm trong đầu các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam (CSVN) là hình ảnh của các nước Tây phương do Hoa Kỳ cầm đầu. Những đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền, tự do báo chí, tự do tự tưởng, tôn giáo và hoạt động của các tổ chức dân sự, của những Bloggers, Nhà báo độc lập ngoài báo lề đảng v.v… đều nằm trong cái khung gọi là “diễn biến hòa bình”. Những hoạt động của bất cứ ai, bất luận từ đâu đến hay của quốc gia nào nhằm vào Việt Nam cũng đều bị nhà nước đội cho cái mũ chống đảng, chống nhân dân và chủ trương bạo động lật đổ chế độ.
Không có dấu hiệu nào cho thấy các hoạt động của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam được nhà nước xếp vào hàng ngũ “diễn biến hòa bình”. Nhưng tình trạng lệ thuộc kinh tế và kỹ nghệ vào Trung Quốc , cũng như quan hệ lâu đời giữa hai đảng Cộng sản Trung-Việt đã đặt Việt Nam nằm gọn trong chiếc còng nô lệ Trung Quốc. Dù lãnh đạo đảng có cải chính cũng không được. Bằng chứng 90 phần trăm các dự án kinh tế ở Việt Nam nằm trong tay các Công ty Trung Quốc đã chứng minh.
Trong suốt cuộc phỏng vấn của một số báo, không có câu hỏi nào trực tiếp đến tình hình Biển Đông hay áp lực của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Ông Quang chi nói chung chung, đại khái lập lại chủ trương của đảng là:” Quan tâm củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, khả năng sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.”
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Đến lượt Chủ tịch Quốc hội Nguyễn thị Kim Ngân cũng không khá hơn. Nhiều câu nói của Bà coi như “tát nước theo mưa” cho không chệch hướng. Cách hành xử của Bà làm cho vai trò Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất nước và là Đại diện cho dân không còn là của dân nữa.
Chẳng hạn như 4 ngày trước cuộc bầu cử Quốc hội (22/05/2016), bà Ngân kêu gọi:”Văn phòng Hội đồng bầu cử đề nghị tăng cường an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đề phòng sự phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng để bảo vệ bầu cử.
"Kiên quyết không để các thế lực thù địch, phản động lôi kéo quần chúng, phá hoại cuộc bầu cử, bảo đảm thông tin thông suốt, kịp thời, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng của nhân dân trong dịp bầu cử", báo cáo của Hội đồng bầu cử nêu.”
Rồi bà Ngân, giống như ông Trọng, đã ghép chuyện cá chết miền Trung vào với âm mưu “phá họai cuộc bầu cử”.
Bà nói:”Thời gian qua, sau sự việc cá chết hàng loạt ở miền Trung, dưới danh nghĩa bảo vệ môi trường, hàng nghìn người đã tụ tập gây mất an ninh trật tự ở một số tỉnh, thành. Họ mang theo hơi cay, có nhiều hành vi quá khích gây thương tích cho lực lượng chức năng. Công an TP HCM nhận định đằng sau động thái gây rối là âm mưu của tổ chức Việt Tân "tạo bạo loạn chính trị", "phá hoại cuộc bầu cử".
Khi đưa lời cáo buộc mà chỉ biết căn cứ vào “nhận định của Công an Thành phố Hồ Chí Minh” để suy diễn thì thật nguy hiểm. Tại sao bà Ngân lại coi hành động đòi nước sạch, biển sạch của dân vùng cá chết miền Trung có liên hệ với âm mưu bạo loạn chính trị để phá bầu cử của tổ chức Việt Tân mà không đưa ra chứng cớ nào ?
Hành động của Bà Chủ tịch Quốc hội hiển nhiên đã coi thường những khó khăn của dân vùng bị nạn. Hàng ngàn người Công Giáo đã xuống đường biểu tình phản đối Formosa, đòi trừng phạt những cán bộ đã tiếp tay cho Formosa hủy hoại môi trường, giết hại sinh vật biển gây khốn khổ kinh tế cho dân mà bà lại buộc họ “bạo loạn chính trị” để “phá họai bầu cử” thì bà có còn là Đại biểu của dân Việt Nam không ?
Cũng không thấy bà đi thăm dân bị nạn, chẳng thấy bóng dáng bà Chủ tịch Ngân ở bất cứ nơi nào có cá chết. Bà còn không muốn lập ban điều tra vụ cá chết và Formosa do Đại biểu Trương Trọng Nghĩa đề nghị.
Trong cuộc họp báo ngày 23/07/2016, các báo cùng tường thuật :”Bà Ngân cho biết, hiện nay chưa có chủ trương lập uỷ ban lâm thời. Để có kết luận về Formosa, Chính phủ đã rất cố gắng, tổ chức gây ra đã nhận lỗi và cam kết khắc phục, đó là thắng lợi bước đầu….không chỉ Chính phủ, các cơ quan chức năng mà Quốc hội cũng đang có nhưng giám sát độc lập riêng để đánh giá đầy đủ, khách quan.”
Lạ chưa ? Chuyện của Hành pháp điều tra vụ cá chết và Thủ phạm Formosa là chuyện của nhà nước, không phải nhiệm vụ của Quốc hội, cơ quan đại diện cho dân. Khi bà Ngân chống thành lập Ban điều tra riêng là bà đã trúng bẫy tuyên truyền của Ban Tuyên giáo đảng từ bấy lâu nay lập luận rằng “mọi việc đã có nhà nước lo”.
Hơn nữa khi nhà nước nhận 500 triệu dollars bồi thường của Formosa thì Quốc hội cũng chưa biết chắc là đủ hay thiếu để bồi thường cho dân và khắc phục mội trường theo lời hứa của Formosa. Còn chuyện Quốc hội “giám sát” thì từa xưa đến nay, Quốc hội không giám sát được đảng mà chỉ biết cúi đầu nhận lệnh.
Quốc hội không dám điều tra Dự án khai thác Bauxite ở Tây Nguyên vì Bộ Chính trị đã làm theo yêu cầu của Trung Quốc. Quốc hội cũng không dám ra Nghị quyết lên án hành động lấn chiếm biển đảo Việt Nam của Bắc Kinh ở Biển Đông là hai bằng chứng tiêu biểu cho bất lực, vô dụng của Quốc hội.
LUẬT BIỂU TÌNH-BIỂN ĐÔNG
Cũng trong cuộc họp báo ngày 23/07/2016, Bà Ngân còn biện bạch cho việc trì hõan Luật biểu tình chưa đưa ra Quốc hội vì còn nhiều ý kiến khác biệt. Dự luật này do Bộ Công an phối hợp với Bộ Quốc phòng sọan thảo đáng lẽ đã phải đưa ra thảo luận trong lần họp thứ 11 của Quốc hội khoá trước (13), nhưng phía Quân đội quyết chống. Phe này cho rằng nếu không cẩn thận thì Luật biểu tình sẽ là “đổi mới chính trị” đe dọa trực tiếp đến quyền lãnh đạo độc tôn của đảng.
Bà Ngân nói:”"Luật Biểu tình liên quan đến quyền của công dân, việc lùi là để nghiên cứu căn cơ thấu đáo phù hợp với tình hình của đất nước. Đất nước ta ổn định, trong khi nhiều nơi tình hình cho thấy rất lo lắng, nên việc ban hành luật phải phù hợp tình hình, bảo đảm lợi ích của đất nước, bảo đảm quyền của người dân, nhưng không làm rối loạn đất nước."
Lập luận nước đôi của Bà Ngân có khác quan điểm bảo thủ, độc tài và vi hiến của Bộ Quốc phòng không ? Bởi vì điều 25 của Hiến pháp 2013 đã quy định:”Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Như vậy, một khi chưa có luật thì dân mất quyền và Hiến pháp cũng vô dụng, do đó theo tường thuật của báo Việt Nam thì Bà Ngân đã chữa cháy:” Tuy nhiên, bà cho biết, Luật Biểu tình sẽ được Quốc hội khoá 14 nghiêm túc xem xét sau khi Chính phủ trình, chứ không lùi vô thời hạn.”
Nhưng nếu bên Chính phủ cứ bảo “chưa thống nhất ý kiến” nên chưa thể trình ra Quốc hội thì bà Ngân làm gì được ? Tòan là chuyện tầm phào, lãng nhách –theo ngôn ngữ của người Nam Bộ như bà Ngân.
Liên quan đến tình hình Biển Đông và áp lực của Trung Quốc, Bà Ngân nói mang máng giống như ông Nguyễn Phú Trọng:”Việt Nam nhất quán một quan điểm về chủ quyền, chưa bao giờ thay đổi, đó là vấn đề thiêng liêng với mỗi một người dân Việt Nam. Người Việt Nam hơn bất cứ đâu đều yêu chuộng hòa bình. Việt Nam có nhiều biện pháp đấu tranh để đảm bảo chủ quyền lãnh thổ nhưng cũng đảm bảo môi trường hoà bình, ổn định cho người dân.
“Bảo vệ hòa bình không phải hô hào cho thật to, kích động thế này thế khác là có được chủ quyền, không có đâu. Một số tổ chức, cá nhân lên tiếng hô hào thế này thế nọ nhưng những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước? Chưa làm gì cả, chỉ có nói, kích động các phần tử để làm rối tình hình.”
Đây là lần đầu tiên người ta được nghe từ miệng bà Ngân những lời lên án các công dân Việt Nam trong và ngoài nước đã và đang đấu tranh chống Trung Quốc và chống thái độ thờ ơ, sợ hãi Trung Quốc của đảng CSVN.
Không biết những lần người dân xuống đường biểu tình chống Tầu đàn áp, giết hại ngư dân và ăn cướp tài sản của họ ở Biển Đông từ năm 2007 đến năm 2012 thì bà Ngân ở xó xỉnh nào mà không thấy lên tiếng nói năng vài lời ?
Cũng chưa bao giờ thấy bà dám hé răng lên án Công an và côn đồ của Công an đã đàn áp gây đổ máu cho người dân trong các cuộc tập hợp truy ơn các chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh ở Hòang Sa năm 1974 và các chiên sỹ quân đội nhân dân đã bỏ mình vì tổ quốc ở Trường Sa năm 1988.
Khi nhân dân kỷ niệm và truy điệu trên 40 ngàn chiến sỹ và đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân Tầu xăm lược ở Biên giới Việt-Trung năm 1979 thì có ai thấy mặt bà Ngân ở đâu không ?
Do đó khi nghe bà chất vấn lòng yêu nước của “những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước?” thì bà hãy soi mặt vào gương mà tự hỏi mình “đã làm gì cho đất nước” chưa ?
Thế mới biết những gì Đảng nói xưa nay đã dính vào cái lưỡi của bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. -/-
Phạm Trần
(07/016)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tình yêu vợ chồng: Một bài phụng ca
Trần Văn Cảnh
10:53 28/07/2016
TÌNH YÊU VỢ CHỒNG: MỘT BÀI PHỤNG CA
Trong các đề tài của đời sống con người, có lẽ « tình yêu » là đề tài được nói đến nhiều nhất, trong khắp các thời đại, ở khắp các lục địa, qua khắp các thể loại nghệ thuật và văn chương. Đã là người, ai mà chẳng yêu. Nhưng yêu là gì ? Vì sao yêu ? Yêu do động lực nào ? Yêu vì mục đích nào ? Yêu thế nào ? Yêu ở đâu ? Yêu khi nào ? Ai yêu ? Yêu ai ?
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã lưu ý chúng ta phải « nhớ đến sự đa dạng ý nghĩa của thuật ngữ ''tình yêu'': chúng ta nói đến tình yêu tổ quốc, tình yêu nghề nghiệp, tình yêu bạn bè, yêu thích việc làm, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và thân bằng quyến thuộc, tình yêu tha nhân và tình yêu đối với Thiên Chúa » [1].
Dưới khía cạnh tình yêu vợ chồng, có ba ơn gọi chính : ơn gọi sống khiết tịnh, ơn gọi sống tình yêu vợ chồng và ơn gọi sống góa. Bản thân là một người đã chọn sống ơn gọi tình yêu vợ chồng, muốn tìm hiểu hơn về ơn gọi này hầu giúp mình và giúp những người mình có trách nhiệm phải giúp, trong bài này, người viết chỉ muốn đề cập đến ơn gọi thứ hai là ơn gọi sống tình yêu vợ chồng. Và xin khởi đầu cới ba câu hỏi căn bản : Văn hóa Việt Nam ghi khắc gì về tình yêu vợ chồng ? Đức tin Công Giáo trao cho tình yêu vợ chồng sứ mệnh gì ? Tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu vợ chồng Công Giáo đưa về đâu ?
1.Tu là cõi phúc, tình là giây oan
Văn chương bình dân Việt nam có một kho tàng phong phú về hấp lực yêu thương, tình ái trai gái.
Bài hát quan họ Bắc Ninh : « Yêu nhau cởi áo ối à cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a, rằng a ối a qua cầu (x2), tình tình tình gió bay (x2). Yêu nhau cởi nhẫn ối a cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a, rằng a ối a qua cầu, rằng a ối a qua cầu (x2), tình tình tình đánh rơi (x2). Yêu nhau cởi nón ối à cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a, rằng a ối a qua cầu (x2), tình tình tình gió bay (x2) ».
Ca dao bình dân :
« Anh về, em chẳng cho về.
Em nắm vạt áo, em đề tặng anh.
Câu thơ ba chữ rành rành :
Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình là ba.
Chữ trung thì để phần cha,
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình ».
Nhưng về tình yêu vợ chồng, thì chữ tình, chữ yêu lại ít được dùng đến, mà hay dùng những chữ khác, như nghĩa tào khang, chồng hòa, vợ thuận, nhà thường :
« Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hòa, vợ thuận, nhà thường yên vui,
Sinh con mới ra thân người
Làm ăn thịnh vượng, đời đời ấn nỏ.
Dường như về tình yêu vợ chồng, văn chương bình dân, phát xuất từ tâm tình bột phát, của sức sống tự nhiên, đã đè nén cái hấp lực yêu thương tình ái trai gái để khép mình vào khuôn khổ lễ nghi, thuần phong, mỹ tục của văn chương bác học, qua những tư tưởng hướng đạo của ba tôn giáo Phật, Lão, Khổng, mà truyền thống dân tộc đã chịu ảnh hưởng sâu xa.
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca Mâu Ni (-623-543) sáng lập, mà nền tảng xây trên Tứ Diệu Đế.
Khổ đế (chân lý về khổ) : đời là bể khổ ; khổ vì đau khổ, như sinh lão bệnh tử ; khổ vì sự thay đổi và khổ vì duyên sinh.
Tập khổ đế (chân lý về nguồn gốc của khổ) : nguồn gốc của đau khổ là vô minh, ham muốn.
Diệt khổ đế (chân lý về diệt khổ) : muốn diệt khổ phải thắng được vô minh, ham muốn.
Đạo đế (chân lý về con đường thoát khổ) : con đường thắng vô minh, ham muốn là con đường tu, là chiêm niệm, từ bi, thờ ơ với phúc họa, để ra khỏi vòng luân hồi của cõi vô thường, tới được niết bàn là nơi thinh không, thanh tịnh không còn ham muốn.
Chữ tình ái, được nói đến trong thập nhị nhân duyên, ở duyên thứ 8 (thụ sinh ái : cảm nhận với thế giới bên ngoài sinh ham muốn) và thứ 9 (ái sinh thủ : ham muốn sinh ra chiếm đoạt), là một trong thập nhị nhân duyên lôi cuốn con người vào vòng luân hồi « vô thường ».
« Tu là cõi phúc, tình là giây oan » là câu thơ mà Nguyễn Du đã dùng để diễn tả xác tín Phật giáo của văn hóa Việt Nam rằng con đường tu bát chánh đạo là con đường chân chính đưa vào cõi phúc Niết bàn, nhờ xa lánh trần tục, nuôi tâm dưỡng tính ; Còn tình lưu luyến trai gái chỉ là giây oan, vì nó là một ham muốn mãnh liệt, là sợi dây oan nghiệt trói buộc con người vào ham muốn, vô minh, đau khổ.
Đạo Lão do Lão Tử (-604-531) sáng lập, mà những điều căn bản đã được ghi chép trong « Lão Tử - Đạo Đức Kinh ». Lão tử bác bỏ thuyết trời sinh ra vạn vật, mà có cái gì khác sinh ra vũ trụ, có trước thượng đế. Cái đó, ông không biết tên là gì, tạm đặt tên cho nó là “đạo” Đạo là “mẹ của vạn vật” (Đạo Đức Kinh, ch.25). Đạo bất biến, vô danh, vô vi. « Đạo sinh ra vạn vật, đức bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở mỗi vật (…); vật chất khiến cho mỗi vật thành hình; hoàn cảnh [khí hậu, thuỷ thổ] hoàn thành mỗi vật » (Chương 51).
Đạo có ba tính chất là mộc mạc, tự nhiên và quay trở về. “Đạo vĩnh cửu thì không làm gì (vô vi - vì là tự nhiên) mà không gì không làm (vô bất vi - vì vạn vật nhờ nó mà sinh, mà lớn); bậc vua chúa giữ được đạo thì vạn vật sẽ tự biến hóa (sinh, lớn). Trong quá trình biến hóa, tư dục của chúng phát ra thì ta dùng cái mộc mạc vô danh (tính cách, bản chất của đạo) mà trấn áp hiện tượng đó, khiến cho vạn vật không còn tư dục nữa. Không còn tư dục mà trầm tĩnh thì thiên hạ sẽ tự ổn định” (Chương 37). [Đạo] lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về) (Chương 5).
Đạo có cái gì tương đối và tương phản. “Cái gì hoàn toàn thì dường như khiếm khuyết mà công dụng lại không bao giờ hết; cái gì cực đầy thì dường như hư không mà công dụng lại vô cùng; cực thẳng thì dường như cong, cực khéo thì dường như vụng, ăn nói cực khéo thì dường như ấp úng” (Chương 45). “Đạo trời giống như buộc dây cung vào cung chăng? Dây cung ở cao quá thì hạ nó xuống, ở thấp quá thì đưa nó lên; dài quá thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào. Đạo trời bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu” (ch.77). “Đạo người thì không vậy [thói thường ở đời thì không như đạo trời], bớt chỗ thiếu mà cấp thêm cho chỗ dư. Ai là người có dư mà cung cấp cho những người thiếu thốn trong thiên hạ? Chỉ có người đắc đạo mới làm được như vậy” (ch.77).
Vấn đề tình yêu trai gái hay vợ chồng không phải là đề tài quan trọng và hầu như không được đề cập đến trong Đạo Đức Kinh. Ông chê những đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và trung hiếu của đạo Khổng. “Cho nên đạo mất rồi, sau mới có đức. Đức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là sự biểu hiện của sự suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của hỗn loạn. Dùng trí tuệ mà tính toán trước thì chỉ là cái loè loẹt của đạo, mà là nguồn gốc của ngu muội” (ch.38). Và có một câu gián tiếp nói về gia đình : “Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi trung” (Chương 18).
Đạo Khổng do Khổng Tử (-551-479) sáng lập, có kỳ vọng đảm bảo sự hài hòa tương quan tam tài « thiên, địa, nhân », đặc biệt chú trọng đến trật tự, nề nếp xã hội, dựa vào ngũ luân, ngũ thường. Ngũ luân là năm tương quan : Cha con có tình thân (Phụ tử hữu Thân), Vua tôi có nghĩa (Quân thần hữu Nghĩa), Chồng vợ có sự phân biệt (Phu phụ hữu Biệt), người lớn người nhỏ (anh em) có thứ tự (Trưởng ấu hữu Tự), bằng hữu có lòng tin (Bằng hữu hữu Tín)”; Ngũ thường là năm nguyên tắc cư xử ở đời : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Qua ngũ luân, ngũ thường, lý tưởng là đạt được chữ trung dung, quân bình giữa hai lực đẩy và hai sức hút, là âm dương. Kinh Dịch viết : « Âm dương giả, thiên địa chi đạo giả, vạn vật chi cương kỷ », nghĩa là « Âm dương là đạo của trời đất, là cương kỷ của vạn vật ». Rộng hơn và cụ thể hơn, thì âm dương phải phối hợp mới có trời đất. Khí âm hay sinh, nhưng phải có khí dương mới sinh được ; Khí dương hay nuôi vật, nhưng nếu không có khí âm, thì không lớn được. Cho nên, theo luật tự nhiên của trời đất, đã có khí âm, khí dương, ắt phải có đôi lứa vợ chồng. Trai phải có vợ ; Gái phải có chồng ; Phải phối hợp âm dương thì mới có thể sinh trưởng được. Như vậy, theo Khổng giáo, đời sống vợ chồng là lẽ tự nhiên của trời đất, nguồn gốc đến từ hấp lực đực cái, giống như các sinh vật khác, nhưng được giáo hóa đi vào khuôn khổ luân thường.
Có một tâm hồn thấm nhuần sâu xa tư tưởng âm dương Khổng giáo, Ôn Như Hầu đã viết trong « Cung oán ngâm khúc », từ câu 125 đến 128 về tình yêu vợ chồng rằng :
« Kìa điểu thú là loài vạn vật
Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng
Có âm dương có vợ chồng
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê ».
2.Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai
Đức tin Công Giáo đã đưa cho tình yêu vợ chồng một ý nghĩa và một vai trò rất cao cả. Thi sĩ bác sĩ Công Giáo Vân Uyên Nguyễn Văn Ái đã tóm gọn rất khéo rằng : « Chữ yêu trong tình nam nữ và vợ chồng, theo Thánh kinh, bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Thiên ý mong muốn con người bắt đầu được hưởng cõi phúc ngay tại đời này, qua kiếp sống phu thê và sẽ còn nối tiếp đời đời trong tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là như vậy. Con người lấy gì đền đáp lại ? Chỉ có yêu mới đền đáp được tình yêu. Đó là nguồn thi hứng dẫn đến câu thơ « Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai » [2].
Nhưng Thánh kinh đã viết gì về tình yêu nam nữ và vợ chồng ? Bác sĩ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái trả lời qua một bài trình bày như sau [3] :
Trong Cựu Ước theo sách Sáng Thế, ngay từ khi tạo dựng ra trời đất và con người, Thiên Chúa đã chúc phúc cho sự kết hợp nam nữ được coi như có một giá trị tôn giáo độc đáo. Cả nam lẫn nữ, con người được tạo dựng theo hình ảnh giống như Thiên Chúa.
Người nam khi thấy người nữ đã kêu lên : « Đây là xương thịt của tôi ». Do đó người nam từ bỏ cha mẹ, lưu luyến người nữ, và cả hai trở thành « nhất thể » (Gn, 1-2), một thân xác (une seule chair).
Nhiều đấng Tiên Tri trong Cựu Ước, như Osée (1,2+), Jérémie (18,1+), Isaïe (1, 21), Ezéchiel (16 ;23),… khi đề cập tới mối liên quan giữa Thiên Chúa và Dân Cựu Do Thái (Israel) đã xử dụng hình ảnh tình yêu nam nữ.
Các tiên tri coi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân được chọn (Israel) cũng như tình của người nam. Một người nam vừa hiền từ chung thủy, vừa đòi hỏi, ghen tương. Các tiên tri cũng nói về những phản bội, chối bỏ, tà đạo của dân cựu do thái (Israel) được coi như người nữ bất trung. Có khi còn dùng cả danh từ nặng hơn chữ bất trung.
Nhưng dù vậy, tình của Thiên Chúa cũng không dập tắt, vì Thiên Chúa yêu cho đến cùng (Jn 13, 1)
Khi nói đến tình yêu nam nữ trong Cựu Ước không thể nào không nói tới bài Diễm ca (Cantique des Cantiques), một điệp khúc nói về tình yêu nam nữ thắm thiết và chung thủy.
Lời thơ là lời của người nữ được yêu (la bien aimée) nói về tình yêu của người yêu đối với mình. Theo truyền thuyết, tác giả bài này là vua Salômông. Đây là một bài thơ ngụ ngôn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Israel, giống như tình yêu nam nữ.
Bài Diễm Ca được trình bày và sắp xếp theo những đoạn đường trở lại và những hy vọng của dân Israel, gồm có 5 bài ca, một phần mở đầu và một phần kết, xen lẫn (theo kiểu kịch thuật Hy Lạp) một vài đoạn đồng ca hoặc song ca đối đáp với người nữ.
Nhiều nhà thần học coi bài Diễm Ca như một bài thánh ca thánh nhất trong các bài thánh ca. Theo tôi, bài Diễm Ca là một bài tình ca tình nhất trong các bài tình ca. Đây chỉ là một cách nói, vì theo đạo của chúng ta, thánh và tình là một, thánh là yêu mà tình cũng là yêu.
Xin nêu làm thí dụ ba câu đầu lời nói của người nữ được yêu (la bien aimée), để có một ý niệm về tính chất diễm tình của bài Diễm ca diễn tả mối tình đắm say cả hồn lẫn xác ; ba câu này trích trong cuốn Bible de Jérusalem viết bằng pháp ngữ :
« Qu’il me baise des baisers de sa bouche
Tes amours sont plus délicieuses que le vin
L’arôme de tes parfums est exquis » (Ct, 1, 2-3)
Theo ấn bản Kinh Thánh mới nhất vừa được Tòa Tổng Giám Mục Sài gòn thực hiện năm 1998 (trang 1231) ba câu này được dịch như sau :
« Ước gì chàng hôn ta những nụ hôn chính môi miệng chàng
Ân ái của anh còn ngọt ngào hơn rượu
Mùi hương anh thơm ngát ».
Minh châu dịch :
« Môi tìm môi đón nụ hôn tình ái
Ngây ngất say hơn hẳn rượu ngọt bùi
Hương ai tỏa xác hồn xao xuyến mãi ».
Vân Uyên dịch :
« Đợi môi âu yếm đến hôn em
kết tình dịu ngọt hơn bồ tửu
Ngây ngất hương người thật ấm êm ».
Điểm lạ lùng của chữ yêu trong Cựu Ước là tình yêu nam nữ cả hồn lẫn xác được đặt tận đỉnh cao của tình thiên tính.
Theo Tân Ước, tình yêu nam nữ chỉ tìm thấy toàn vẹn ý nghĩa và đạt tới sự thật, khi qua hôn nhân bí tích trở thành tình yêu vợ chồng.
Trong thơ gửi tín hữu Ephêsô, thánh Phaolô gọi tình yêu vợ chồng là « huyền nhiệm lớn » (grand mystère). Huyền nhiệm đã kỳ lạ. Huyền nhiệm lớn là kỳ lạ trên sự kỳ lạ (Ep 5,32).
Tình yêu vợ chồng được thánh Phaolô so sánh với tình của Chúa Kytô đối với Giáo Hội. Tình yêu vợ chồng, mà thường tình cho là trần tục, trở thành « kỳ lạ trên sự kỳ lạ » vì được coi như mối tình mầu nhiệm không bao giờ phai, kéo dài vô tận trong thời gian, của « Thiên Chúa làm ngườỉ », kết hợp với « nhiệm thể » của mình là Giáo Hội (Ep 5, 23-25).
Như vậy, tình yêu vợ chồng trở thành như một trong những trung tâm điểm của đức tin. Nói cách khác, tình yêu vợ chồng khi đạt tới mức « yêu » cũng là một con đường dẫn tới Thiên Chúa, dẫn tới cõi phúc.
Theo Tân Ước, nhiều lần Chúa Kytô đã ví nước Trời như một Tiệc Cưới và tự ví mình như chàng rể (Mt 9,15 ; 22,1-14 ; 25,1-13 ; Ga 3,29).
Chúa Kitô đã giảng về tính chung thủy gắn bó, không có gì có thể phân chia tình vợ chồng trong hôn nhân bí tích. Theo Phúc Âm của thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã nói : « Vợ chồng không còn là hai mà là một. Những người Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được chia rẽ » (Mat 19,6).
Đối với người đời xưa cũng như đời nay, những lời nói này thật không phải dễ hiểu và dễ chấp nhận. Chính những môn đệ của Chúa Kytô cũng đã thốt lên : « Nếu số phận của người nam phải đối xử với vợ như vậy, thà đừng kết hôn còn hơn ». Và Chúa Kytô đã trả lời « Không phải ai cũng hiểu được. Chỉ có kẻ Chúa cho hiểu mới hiểu » (Mat 19, 10-11).
3.Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài
« Thiên Chúa là Tình yêu », thông điệp của ĐGH Bênêdictô XVI ban hành tại Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 25.12.2005, có lẽ đã là cách Chúa cho chúng ta hiểu hơn về tình yêu hôn nhân (eros) toàn vẹn cả hồn lẫn xác, có thể dẫn tới tình yêu bác ái (agape) của Giáo Hội mà đưa ta tới Thiên Chúa, tới cõi phúc.
Yêu chồng, yêu vợ mặn mà
Yêu người yêu Chúa, cùng là bài ca.
Vợ chồng « nhất thể » đôi ta
Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài
Thông điệp được chia làm hai phần. Phần I nói về « Sự thống nhất của tình yêu trong sáng tạo và lịch sử cứu độ ». Phần II nói về « tình yêu bác ái và hoạt động bác ái của Hội Thánh như là một cộng đoàn của tình yêu ». Đức ông Giuse Mai Đức Vinh đã tóm tắt thông điệp như sau cho khóa Gặp Gỡ Huấn Luyện Giới Trưởng Thành lần thứ XIII, từ 21 đến 24, tháng 05, năm 2009 tại Orsay, ngoại ô Paris [4]:
Phần I : Đức Thánh Cha xác định một số dữ kiện thiết yếu liên quan đến tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một cách huyền nhiệm và nhưng không. Những dữ kiện đó là :
1. ‘Tình yêu’ bộc lộ dưới nhiều hình dạng (yêu nước, yêu nghề, yêu bạn bè… yêu Chúa). Nhưng mọi hình dạng đều quy về một tình yêu duy nhất và hoàn toàn trổi vượt, đó là Tình Yêu nơi Thiên Chúa (số 2).
2. Ba hình dạng chính yếu của tình yêu là (số 3):
- ‘tình ái’ (eros) : tức là tình yêu giữa một người nam và một người nữ. Trong Tân Ước ít nói dến dạng thức tình yêu này
- ‘tình bạn’ (Philia) : tức tình yêu bằng hữu giữa người này với người khác. Trong Tân Ước, đặc biệt trong Tin Mừng Thánh Gioan nói đến một cách sâu sắc về tình yêu bạn hữu giữa Chúa Giêsu và các môn đệ (x Ga 15 tt).
- ‘tình bác ái’ (Agape) : tức là tình yêu có phẩm tính sâu sắc, phổ quát, siêu nhiên, vị tha… Các Tân Ước đều dùng nhiều dạng thức tình yêu này.
3. Đức Thánh Cha nói riêng về ‘tình ái’ (Eros) (số 4-5): Văn hóa Hy lạp đề cao dạng tình yêu này, coi tình yêu này là mãnh lực mạnh nhất (Omnia vincit amor, et nos cedamus amori). Nhiều tôn giáo ‘suy tôn khả năng sinh sản’, ‘tục mại dâm thiêng liêng trong các đền thờ’ đều coi tình ái như một thứ quyền lực thiêng liêng, ngang hàng với Thiên Chúa. Cựu Ước cực lực chống lại chủ trương trên đây của tôn giáo này, coi đó là tiêu biểu cho một cám dỗ chống lại đức tin độc thần và chống lại nó như một hình thái sa đọa tôn giáo. Tuy nhiên Cựu Ước không hề loại bỏ tình ái (eros) đúng nghĩa… Vì khi được uốn nắn và thanh luyện, tình ái dẫn con người dến gần với Thiên Chúa… Khi nói về tình ái (eros), người ta nghĩ đến thân xác, đến dục tính… và người ta chỉ trích Kitô Giáo trong quá khứ, đã coi thường và khinh bỉ thân xác và dục tính... Tuy nhiên, phải khẳng định : lối tôn sùng thân xác ngày nay là một sai lầm, vì nó đã biến thân xác và tình dục thành đồ vật mua bán, và chính con người cũng trở thành ‘món hàng’ thương mại (số 4-5).
4. Ngài cũng nói riêng về ‘tình bác ái’ (Agape) tiêu biểu cho ý niệm tình yêu trong Thánh Kinh. Tình bác ái (agape) và tình ái (eros) không tách rời nhau hoàn toàn, nhưng tình bác ái (agape) vượt lên trên tình ái (eros), thay vì tình ái ích kỷ, chỉ đi kiếm ‘điều lợi cho mình’, thì tình bác ái (agape) lo tìm điều tốt, điều lợi cho người mình yêu, nó sẵn sàng từ bỏ và chấp nhận hy sinh. Nói cách khác, tình ái (eros) là tình yêu ‘trần thế’ (mondain), còn tình bác ái (agape) là tình yêu lấy đức tin làm cơ sở. Tình ái (eros) thì hẹp hòi, tạm bợ, còn tình bác ái (agape) rộng mở và lâu bền. Tình bác ái (agape) chính là tình ái (eros) được siêu nhiên hóa, nhân bản hóa, được mở rộng cho mọi người và đến với mọi người… như giáo huấn của thánh Phaolô : « Ai kết hợp với Chúa Giêsu (eros), thì trở nên cùng một thần trí với Ngài (agape) » (1Cr6,17). Sau cùng tình bác ái (agape) diễn tả huyền nhiệm của bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa Giêsu hoàn toàn hiến thân (agape) cho nhân loại…(số 6-11)
5. Chúa Giêsu, hiện thân của tình yêu Thiên Chúa : ‘Thiên Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa yêu chúng ta trước và đã ban Đức Giêsu, con chí ái của Ngài cho chúng ta. Do đó, Chúa Giêsu là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa giữa chúng ta (tam cùng với chúng ta) : cùng sống, cùng hoạt động và cùng yêu với chúng ta… Và như vậy, Thiên Chúa gia tăng niềm vui, Thiên Chúa trở thành niềm vui cho chúng ta… Niềm vui này chúng ta có thể múc lấy mỗi ngày nơi Bí Tích thánh Thể… và như vậy, vì yêu chúng ta, ‘Thiên Chúa trở nên tất cả trong mọi sự’ (1Cr 15,28) cho chúng ta. Đó là tình yêu Agape tuyệt hảo ! (số 12-18)
Phần II : Đức Thánh Cha nói về những thể hiện tình bác ái (agape) cụ thể trong Hội Thánh, theo giới răn ‘yêu thương người ta như chính mình’ (Mc 15, 31). Dĩ nhiên không thể nói hết, Đức Thánh Cha chỉ ‘nói đến một số yếu tố căn bản để khơi dậy trong thế giới một năng dộng mới mẻ mà con người hay chính Giáo Hội phải thực hiện hầu đáp trả lại tình yêu của Thiên Chúa’. Vì thế, Giáo Hội là một Cộng đồng yêu thương, thể hiện tình yêu. Đức Thánh Cha nêu bật những điểm sau đây :
1. Hoạt động bác ái của Hội Thánh là thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi : Vì thế thánh Aucơtinh viết : «Tìm thấy tình bác ái (agape) là nhìn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi » (19).
2. Bác ái là nhiệm vụ của Hội Thánh (20-25) :
- Bác ái là nhiệm vụ của mỗi tín hữu, nhưng cũng là nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn Giáo Hội, từ cộng đoàn địa phương, đến Giáo Hội địa phương, và đến Giáo Hội hoàn vũ. Giáo Hội đã ý thức nhiệm vụ này ngay từ buổi đầu : ‘Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, để mọi sự làm của chung… (Cv 2,44-45). Theo thánh Luca, những yếu tố cấu thành của Hội Thánh bấy giờ là : Lời rao giảng của các tông đồ, hiệp thông, bẻ bánh, cầu nguyện (số 20).
- Hoạt động bác ái đòi hỏi những thừa tác mới : chức phó tế (diaconia) (Cv 6,5-6) phụ tá các tông đồ trong việc ‘phục vụ việc cầu nguyện, phục vụ Lời Chúa, phục vụ bàn ăn (Cv 6,1-6) (21).
- Ba hoạt động, ba nhiệm vụ : Tiệc Thánh Thể – Tiệc lời Chúa – Hoạt động bác ái (agape) : lo cho quả phụ, trẻ mồ côi, bệnh nhân, tù đầy… (số 22). Nói cách khác, bản tính xâu xa nhất của Hội Thánh được diễn tả qua ba nhiệm vụ : Loan báo lời của Thiên Chúa (Kerygma-martyria), cử hành các Bí tích (leitourgia), và thi hành tác vụ bác ái (diakonia) (số 23-24).
- Ba nhiệm vụ bổ túc cho nhau, gắn liền với nhau làm cho Hội Thánh trở thành gia đình của Thiên Chúa, đại gia đình đức tin (Gl 6,10) (số 25).
3. Bác ái không đủ, còn phải có công bằng : từ thế kỷ XIX, người ta chống lại hoạt động bác ái của Hội Thánh, nhất là thuyết Maxít, người ta bảo : người nghèo không cần đến bác ái nhưng cần công bằng…
- Vì thế Giáo Hội ra các thông điệp xã hội : Đức Lêo ‘Rerum Novarum’ (1891), Đức Piô XI ‘Quadragesimo Anno’ (1931), Đức Gioan XXIII ‘Mater et Magistra’, Đức Phaolô VI ‘Populorum’ (1967), Octogesima Adveniens’ (1971), Đức Gioan Phaolô II ‘Laborem Exercens’ (1981), ‘Sollicitudo Rei Socialis’ (1987). Hội Đồng Công Lý Hòa Bình ‘Cuốn tóm lược giáo huấn xã hội của Hội Thánh’ (2004).
- a) Công bằng (justitia): Nguyên tắc ‘Công bằng xã hội’ : Của Xêsa trả cho Xêsa, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa (Mt 22,21). Giáo Hội và Quốc Gia vừa tách biệt vừa tương quan với nhau…theo những xác định của Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Mục Vụ (GS 74, 68, 42) (số 28).
- Về ‘công bằng xã hội’, Hội Thánh không thay thế chính trị hay chính quyền, nhưng Hội Thánh không đứng ngoài lề cuộc đấu tranh cho công bằng.
- b) Tình yêu (Caritas) luôn là cốt lõi của xã hội, dù là xã hội công bằng nhất. Vì thế một xã hội, một quốc gia hay một khuynh hướng muốn loại bỏ tình yêu, … là loại bỏ chính con người. Con người không chỉ sống bằng cơm bánh… Phục vụ con người không phải chỉ chăm lo về thân xác, nhưng còn cả về tinh thần, bồi dưỡng con người không chỉ bằng những yếu tố vật chất, nhưng còn bằng những yếu tố tinh thần… Vật chất hay tinh thần đều sắc đọng trong TÌNH YÊU.
- Tuy nhiên việc hình thành các cơ cấu công bằng không trực tiếp là nhiệm vụ của Hội Thánh, nhưng thuộc lãnh vực chính trị, lãnh vực Quốc gia hay Nhà Nước (luật pháp, kinh tế, xã hội, hành chánh, nghiệp đoàn…). Với tư cách công dân, người tín hữu có bổn phận hợp tác và tuân thủ đúng đắn…
- Mặt khác các tổ chức bác ái của Hội Thánh làm thành một công trình riêng (opus proprium), và hoạt động ngay giữa lòng quốc gia, xã hội. Hội Thánh không bao giờ được miễn trừ hoạt động bác ái, trong mọi hoàn cảnh, việc bác ái của người tín hữu luôn là cần thiết (số 29).
4. Nhiều cơ cấu bác ái trong xã hội hiện nay : Vài nét tổng quát của cuộc tranh đấu công bằng và tình yêu hiện nay trên thế giới :
a) Phương tiện truyền thông thu hẹp trái đất, dù có hiểu lầm và căng thẳng, nhưng tin tức mau lẹ, giúp đỡ liên đới mau chóng (động đất, tai uơng…). Một bằng chứng tích cực về tiến trình toàn cầu hóa : Nhờ phương tiện truyền thông, khoảng cách giữa con người không còn nữa, những hoạt động bác ái có thể và phải bao gồm mọi người và mọi nhu cầu.
b) Bối cảnh xã hội và chính trị hiện nay đã khai sinh và tăng trưởng nhiều hình thức thiện nguyện (quốc gia, Giáo Hội, tư nhân) và nhiều hình thức cộng tác giữa các Quốc gia và các cơ quan từ thiện của Giáo Hội với dồi dào kết quả. Với sứ mệnh làm chứng về Tình Yêu Thiên Chúa, tổ chức bác ái của Giáo Hội đem phẩm tính Kitô giáo cho các tổ chức của chính phủ hay của tư nhân, ngược lại các tổ chức của quốc gia giúp tổ chức của Hội Thánh có thêm phương tiện và hiệu lực…
5. Khía cạnh riêng biệt của hoạt động bác ái của Hội Thánh (31).
- Nguồn gốc : ‘Thiên Chúa là tình yêu… (1Ga 4,8) ; Yêu thương người khác như chính mình… (Mc 12,31). Tám mối phúc thật…(Mt 4,3-12). Xét xử theo luật bác ái (Mt 25,31).
- Tổ chức Caritas quốc tế hiện nay … quy tụ cơ cấu, tài lực, nhân sự, phương án…
- Hoạt động bác ái kitô giáo phải độc lập với các phe nhóm và ý thức hệ… Hoạt động bác ái phải thể hiện tình liên đới và hiêïp nhất giữa cá nhân, trong cộng đoàn, ngoài xã hội…
- Hoạt động bác ái không được xử dụng như kế hoạch chiêu dụ tín đồ… (31)
6. Những ngưòi chịu trách nhiệm về hoạt động bác ái của Hội Thánh.
- Là chính Hội Thánh, cụ thể từ thời Đức Phaolô VI là Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm (Cor Unum). (x. Giáo luật Đ 394). Luôn nhân danh Giáo Hội, luôn phải có sự phối hợp theo cấp bậc hoạt đọâng (32).
- Không lấy cảm hứng từ các ý thức hệ với mục tiêu là cải tiến trần gian, nhưng luôn luôn ‘tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta’ (2Cr5,14) (33).
- Không thể không cộng tác với các tổ chức khác … tuy nhiên luôn giữ vững căn tính ‘tình yêu Chúa thúc đẩy chúng ta…’ (34)
- Phải phục vụ trong khiêm tốn… ‘chúng ta chỉ là đầy tớ vô dụng’ (Lc 17,10) (35).
- Cần giữ quân bình giữa hai cực đoan : - tham vọng muốn làm hết, làm ngay, không đo sức mình… - cám dỗ đầu hàng, khoanh tay… (36)
- Yếu tố giúp giữ quân bình : lòng đạo đức, việc cầu nguyện (gương chân phước Têrêsa Calcutta) (số 36-37). Cầu nguyện để ‘giải tỏa’ những thắc mắc theo kiểu ông Gióp (xG 23,3+5-6+15-16), lời than của chính Chúa Giêsu trên Thánh Giá (Mt 27,46), lời sách Khải Huyền (kh 6,10)… và để giữ vững niềm tin, đức cậy và lòng bác ái (số 38-39).
LỜI KẾT
Văn hóa Việt Nam ghi khắc gì về tình yêu vợ chồng ? Đức tin Công Giáo trao cho tình yêu vợ chồng sứ mệnh gì ? Tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu vợ chồng Công Giáo đưa về đâu ?
Về câu hỏi thứ nhất, chúng ta đã tìm được câu trả lời của văn hào Nguyễn Du rằng : « Tu là cõi phúc, tình là giây oan ». Văn chương bình dân Việt Nam rất phong phú về tình yêu trai gái và tình yêu thân xác. Văn chương truyền thống tam giáo Lão, Phật, Khổng, thì hoặc là không nói đến tình yêu vợ chồng, hoặc là nói đến như một nhân duyên của cõi vô thường, hoặc nói đến những ngũ luân ngũ thường như những luật lệ để đối xử với nhau, hầu giữ gìn tôn ti trật tự trong gia đình và ngoài xã hội ; còn tình yêu vợ chồng, thì đó chỉ là lẽ tự nhiên của trời đất, nguồn gốc đến từ hấp lực đực cái, giống như các sinh vật khác, nhưng phải được giáo hóa để đi vào khuôn khổ luân thường.
Về câu hỏi thứ hai, Thánh Thư, Cựu ước cũng như Tân Ước đã cho chúng ta hay rằng : « Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai », vì tình yêu vợ chồng là một bí tích trao truyền lại cho thế giới hữu hình cái mầu nhiệm vô hình được che đậy nơi Thiên Chúa từ đời đời. Đó là mầu nhiệm về chân lý và về tình yêu, mầu nhiệm của cuộc sống thiên tính, mà loài người được thực sự chia phần. Mầu nhiệm đó là mầu nhiệm « Thiên Chúa là Tình Yêu », yêu bất chấp sự đau khổ và sự chết. Tình yêu vợ chồng, khi đạt tới mức yêu, cũng là một con đường dẫn tới cõi phúc, yêu để đền nghì tình Chúa yêu ta (Ai là Thiên Chúa).
Trả lời câu hỏi thứ ba, chúng ta đã tìm được cánh cửa đức tin mở lối qua thông điệp « Thiên Chúa là Tình yêu » của ĐGH Bênêđictô XVI, giúp ta hiểu rằng tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu đầy đủ hồn xác của bí tích vợ chồng Công Giáo đưa ta từ tình yêu người bạn đời đến tình yêu mọi người và đến đáp trả tình yêu Thiên Chúa, mà chúng ta tóm gọn trong bốn câu thơ :
Yêu chồng, yêu vợ mặn mà
Yêu người yêu Chúa, cùng là bài ca.
Vợ chồng « nhất thể » đôi ta
Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài
Tình yêu vợ chồng, đầy đủ hồn xác, đưa ta đến hạnh phúc, đến tình yêu bác ái với mọi người và đến tình yêu Thiên Chúa. Điều này cũng dễ hiểu, vì tình yêu vợ chồng đầy đủ hồn xác là một tình yêu toàn diện, là một dâng hiến về thân xác, một hiệp thông về tình cảm, một tha thứ chịu đựng theo lý trí, một hòa thuận theo ý chí và một tâm tình kính yêu của con tim. Tất cả tình yêu vợ chồng toàn diện này, cũng như tất cả các tình yêu bác ái với mọi người, tình yêu với Thiên Chúa đều là bài ca, một bài ca phụng tự. Tình yêu vợ chồng toàn diện này, nói theo Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là « Bí tích các thân xác », « bí tích trọng đại », « không chia cắt điều Chúa đã nối kết » và là « Ơn gọi các thân xác » [5].
Trần Văn Cảnh
Ghi chú :
1. ĐGH Bênêđictô XVI, Thiên Chúa là Tình yêu, , 2005, số 2.
2. Nguyễn Văn Ái : Chữ tình và chữ yêu ; trong « Đường vào tình yêu », Giáo Xứ Việt Nam Paris, 2000, tr. 255-265).
3. Ibidem.
4. Lm Mai Đức Vinh : Tìm hiểu thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu ; trong Trần Văn Cảnh : Công Giáo Việt Nam tại Pháp, 226 năm hành trình Đức Tin, 1784-2010 ; 2011, tr. 164-170
5. Yves Semen ; La Spiritualité conjugale selon Jean-Paul II, Ed. Presse de la Renaissance, Paris : 2010, pp. 55-67.
Trong các đề tài của đời sống con người, có lẽ « tình yêu » là đề tài được nói đến nhiều nhất, trong khắp các thời đại, ở khắp các lục địa, qua khắp các thể loại nghệ thuật và văn chương. Đã là người, ai mà chẳng yêu. Nhưng yêu là gì ? Vì sao yêu ? Yêu do động lực nào ? Yêu vì mục đích nào ? Yêu thế nào ? Yêu ở đâu ? Yêu khi nào ? Ai yêu ? Yêu ai ?
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã lưu ý chúng ta phải « nhớ đến sự đa dạng ý nghĩa của thuật ngữ ''tình yêu'': chúng ta nói đến tình yêu tổ quốc, tình yêu nghề nghiệp, tình yêu bạn bè, yêu thích việc làm, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và thân bằng quyến thuộc, tình yêu tha nhân và tình yêu đối với Thiên Chúa » [1].
Dưới khía cạnh tình yêu vợ chồng, có ba ơn gọi chính : ơn gọi sống khiết tịnh, ơn gọi sống tình yêu vợ chồng và ơn gọi sống góa. Bản thân là một người đã chọn sống ơn gọi tình yêu vợ chồng, muốn tìm hiểu hơn về ơn gọi này hầu giúp mình và giúp những người mình có trách nhiệm phải giúp, trong bài này, người viết chỉ muốn đề cập đến ơn gọi thứ hai là ơn gọi sống tình yêu vợ chồng. Và xin khởi đầu cới ba câu hỏi căn bản : Văn hóa Việt Nam ghi khắc gì về tình yêu vợ chồng ? Đức tin Công Giáo trao cho tình yêu vợ chồng sứ mệnh gì ? Tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu vợ chồng Công Giáo đưa về đâu ?
1.Tu là cõi phúc, tình là giây oan
Văn chương bình dân Việt nam có một kho tàng phong phú về hấp lực yêu thương, tình ái trai gái.
Bài hát quan họ Bắc Ninh : « Yêu nhau cởi áo ối à cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a, rằng a ối a qua cầu (x2), tình tình tình gió bay (x2). Yêu nhau cởi nhẫn ối a cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a, rằng a ối a qua cầu, rằng a ối a qua cầu (x2), tình tình tình đánh rơi (x2). Yêu nhau cởi nón ối à cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a, rằng a ối a qua cầu (x2), tình tình tình gió bay (x2) ».
Ca dao bình dân :
« Anh về, em chẳng cho về.
Em nắm vạt áo, em đề tặng anh.
Câu thơ ba chữ rành rành :
Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình là ba.
Chữ trung thì để phần cha,
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình ».
Nhưng về tình yêu vợ chồng, thì chữ tình, chữ yêu lại ít được dùng đến, mà hay dùng những chữ khác, như nghĩa tào khang, chồng hòa, vợ thuận, nhà thường :
« Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hòa, vợ thuận, nhà thường yên vui,
Sinh con mới ra thân người
Làm ăn thịnh vượng, đời đời ấn nỏ.
Dường như về tình yêu vợ chồng, văn chương bình dân, phát xuất từ tâm tình bột phát, của sức sống tự nhiên, đã đè nén cái hấp lực yêu thương tình ái trai gái để khép mình vào khuôn khổ lễ nghi, thuần phong, mỹ tục của văn chương bác học, qua những tư tưởng hướng đạo của ba tôn giáo Phật, Lão, Khổng, mà truyền thống dân tộc đã chịu ảnh hưởng sâu xa.
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca Mâu Ni (-623-543) sáng lập, mà nền tảng xây trên Tứ Diệu Đế.
Khổ đế (chân lý về khổ) : đời là bể khổ ; khổ vì đau khổ, như sinh lão bệnh tử ; khổ vì sự thay đổi và khổ vì duyên sinh.
Tập khổ đế (chân lý về nguồn gốc của khổ) : nguồn gốc của đau khổ là vô minh, ham muốn.
Diệt khổ đế (chân lý về diệt khổ) : muốn diệt khổ phải thắng được vô minh, ham muốn.
Đạo đế (chân lý về con đường thoát khổ) : con đường thắng vô minh, ham muốn là con đường tu, là chiêm niệm, từ bi, thờ ơ với phúc họa, để ra khỏi vòng luân hồi của cõi vô thường, tới được niết bàn là nơi thinh không, thanh tịnh không còn ham muốn.
Chữ tình ái, được nói đến trong thập nhị nhân duyên, ở duyên thứ 8 (thụ sinh ái : cảm nhận với thế giới bên ngoài sinh ham muốn) và thứ 9 (ái sinh thủ : ham muốn sinh ra chiếm đoạt), là một trong thập nhị nhân duyên lôi cuốn con người vào vòng luân hồi « vô thường ».
« Tu là cõi phúc, tình là giây oan » là câu thơ mà Nguyễn Du đã dùng để diễn tả xác tín Phật giáo của văn hóa Việt Nam rằng con đường tu bát chánh đạo là con đường chân chính đưa vào cõi phúc Niết bàn, nhờ xa lánh trần tục, nuôi tâm dưỡng tính ; Còn tình lưu luyến trai gái chỉ là giây oan, vì nó là một ham muốn mãnh liệt, là sợi dây oan nghiệt trói buộc con người vào ham muốn, vô minh, đau khổ.
Đạo Lão do Lão Tử (-604-531) sáng lập, mà những điều căn bản đã được ghi chép trong « Lão Tử - Đạo Đức Kinh ». Lão tử bác bỏ thuyết trời sinh ra vạn vật, mà có cái gì khác sinh ra vũ trụ, có trước thượng đế. Cái đó, ông không biết tên là gì, tạm đặt tên cho nó là “đạo” Đạo là “mẹ của vạn vật” (Đạo Đức Kinh, ch.25). Đạo bất biến, vô danh, vô vi. « Đạo sinh ra vạn vật, đức bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở mỗi vật (…); vật chất khiến cho mỗi vật thành hình; hoàn cảnh [khí hậu, thuỷ thổ] hoàn thành mỗi vật » (Chương 51).
Đạo có ba tính chất là mộc mạc, tự nhiên và quay trở về. “Đạo vĩnh cửu thì không làm gì (vô vi - vì là tự nhiên) mà không gì không làm (vô bất vi - vì vạn vật nhờ nó mà sinh, mà lớn); bậc vua chúa giữ được đạo thì vạn vật sẽ tự biến hóa (sinh, lớn). Trong quá trình biến hóa, tư dục của chúng phát ra thì ta dùng cái mộc mạc vô danh (tính cách, bản chất của đạo) mà trấn áp hiện tượng đó, khiến cho vạn vật không còn tư dục nữa. Không còn tư dục mà trầm tĩnh thì thiên hạ sẽ tự ổn định” (Chương 37). [Đạo] lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về) (Chương 5).
Đạo có cái gì tương đối và tương phản. “Cái gì hoàn toàn thì dường như khiếm khuyết mà công dụng lại không bao giờ hết; cái gì cực đầy thì dường như hư không mà công dụng lại vô cùng; cực thẳng thì dường như cong, cực khéo thì dường như vụng, ăn nói cực khéo thì dường như ấp úng” (Chương 45). “Đạo trời giống như buộc dây cung vào cung chăng? Dây cung ở cao quá thì hạ nó xuống, ở thấp quá thì đưa nó lên; dài quá thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào. Đạo trời bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu” (ch.77). “Đạo người thì không vậy [thói thường ở đời thì không như đạo trời], bớt chỗ thiếu mà cấp thêm cho chỗ dư. Ai là người có dư mà cung cấp cho những người thiếu thốn trong thiên hạ? Chỉ có người đắc đạo mới làm được như vậy” (ch.77).
Vấn đề tình yêu trai gái hay vợ chồng không phải là đề tài quan trọng và hầu như không được đề cập đến trong Đạo Đức Kinh. Ông chê những đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và trung hiếu của đạo Khổng. “Cho nên đạo mất rồi, sau mới có đức. Đức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là sự biểu hiện của sự suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của hỗn loạn. Dùng trí tuệ mà tính toán trước thì chỉ là cái loè loẹt của đạo, mà là nguồn gốc của ngu muội” (ch.38). Và có một câu gián tiếp nói về gia đình : “Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi trung” (Chương 18).
Đạo Khổng do Khổng Tử (-551-479) sáng lập, có kỳ vọng đảm bảo sự hài hòa tương quan tam tài « thiên, địa, nhân », đặc biệt chú trọng đến trật tự, nề nếp xã hội, dựa vào ngũ luân, ngũ thường. Ngũ luân là năm tương quan : Cha con có tình thân (Phụ tử hữu Thân), Vua tôi có nghĩa (Quân thần hữu Nghĩa), Chồng vợ có sự phân biệt (Phu phụ hữu Biệt), người lớn người nhỏ (anh em) có thứ tự (Trưởng ấu hữu Tự), bằng hữu có lòng tin (Bằng hữu hữu Tín)”; Ngũ thường là năm nguyên tắc cư xử ở đời : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Qua ngũ luân, ngũ thường, lý tưởng là đạt được chữ trung dung, quân bình giữa hai lực đẩy và hai sức hút, là âm dương. Kinh Dịch viết : « Âm dương giả, thiên địa chi đạo giả, vạn vật chi cương kỷ », nghĩa là « Âm dương là đạo của trời đất, là cương kỷ của vạn vật ». Rộng hơn và cụ thể hơn, thì âm dương phải phối hợp mới có trời đất. Khí âm hay sinh, nhưng phải có khí dương mới sinh được ; Khí dương hay nuôi vật, nhưng nếu không có khí âm, thì không lớn được. Cho nên, theo luật tự nhiên của trời đất, đã có khí âm, khí dương, ắt phải có đôi lứa vợ chồng. Trai phải có vợ ; Gái phải có chồng ; Phải phối hợp âm dương thì mới có thể sinh trưởng được. Như vậy, theo Khổng giáo, đời sống vợ chồng là lẽ tự nhiên của trời đất, nguồn gốc đến từ hấp lực đực cái, giống như các sinh vật khác, nhưng được giáo hóa đi vào khuôn khổ luân thường.
Có một tâm hồn thấm nhuần sâu xa tư tưởng âm dương Khổng giáo, Ôn Như Hầu đã viết trong « Cung oán ngâm khúc », từ câu 125 đến 128 về tình yêu vợ chồng rằng :
« Kìa điểu thú là loài vạn vật
Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng
Có âm dương có vợ chồng
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê ».
2.Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai
Đức tin Công Giáo đã đưa cho tình yêu vợ chồng một ý nghĩa và một vai trò rất cao cả. Thi sĩ bác sĩ Công Giáo Vân Uyên Nguyễn Văn Ái đã tóm gọn rất khéo rằng : « Chữ yêu trong tình nam nữ và vợ chồng, theo Thánh kinh, bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Thiên ý mong muốn con người bắt đầu được hưởng cõi phúc ngay tại đời này, qua kiếp sống phu thê và sẽ còn nối tiếp đời đời trong tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là như vậy. Con người lấy gì đền đáp lại ? Chỉ có yêu mới đền đáp được tình yêu. Đó là nguồn thi hứng dẫn đến câu thơ « Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai » [2].
Nhưng Thánh kinh đã viết gì về tình yêu nam nữ và vợ chồng ? Bác sĩ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái trả lời qua một bài trình bày như sau [3] :
Trong Cựu Ước theo sách Sáng Thế, ngay từ khi tạo dựng ra trời đất và con người, Thiên Chúa đã chúc phúc cho sự kết hợp nam nữ được coi như có một giá trị tôn giáo độc đáo. Cả nam lẫn nữ, con người được tạo dựng theo hình ảnh giống như Thiên Chúa.
Người nam khi thấy người nữ đã kêu lên : « Đây là xương thịt của tôi ». Do đó người nam từ bỏ cha mẹ, lưu luyến người nữ, và cả hai trở thành « nhất thể » (Gn, 1-2), một thân xác (une seule chair).
Nhiều đấng Tiên Tri trong Cựu Ước, như Osée (1,2+), Jérémie (18,1+), Isaïe (1, 21), Ezéchiel (16 ;23),… khi đề cập tới mối liên quan giữa Thiên Chúa và Dân Cựu Do Thái (Israel) đã xử dụng hình ảnh tình yêu nam nữ.
Các tiên tri coi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân được chọn (Israel) cũng như tình của người nam. Một người nam vừa hiền từ chung thủy, vừa đòi hỏi, ghen tương. Các tiên tri cũng nói về những phản bội, chối bỏ, tà đạo của dân cựu do thái (Israel) được coi như người nữ bất trung. Có khi còn dùng cả danh từ nặng hơn chữ bất trung.
Nhưng dù vậy, tình của Thiên Chúa cũng không dập tắt, vì Thiên Chúa yêu cho đến cùng (Jn 13, 1)
Khi nói đến tình yêu nam nữ trong Cựu Ước không thể nào không nói tới bài Diễm ca (Cantique des Cantiques), một điệp khúc nói về tình yêu nam nữ thắm thiết và chung thủy.
Lời thơ là lời của người nữ được yêu (la bien aimée) nói về tình yêu của người yêu đối với mình. Theo truyền thuyết, tác giả bài này là vua Salômông. Đây là một bài thơ ngụ ngôn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Israel, giống như tình yêu nam nữ.
Bài Diễm Ca được trình bày và sắp xếp theo những đoạn đường trở lại và những hy vọng của dân Israel, gồm có 5 bài ca, một phần mở đầu và một phần kết, xen lẫn (theo kiểu kịch thuật Hy Lạp) một vài đoạn đồng ca hoặc song ca đối đáp với người nữ.
Nhiều nhà thần học coi bài Diễm Ca như một bài thánh ca thánh nhất trong các bài thánh ca. Theo tôi, bài Diễm Ca là một bài tình ca tình nhất trong các bài tình ca. Đây chỉ là một cách nói, vì theo đạo của chúng ta, thánh và tình là một, thánh là yêu mà tình cũng là yêu.
Xin nêu làm thí dụ ba câu đầu lời nói của người nữ được yêu (la bien aimée), để có một ý niệm về tính chất diễm tình của bài Diễm ca diễn tả mối tình đắm say cả hồn lẫn xác ; ba câu này trích trong cuốn Bible de Jérusalem viết bằng pháp ngữ :
« Qu’il me baise des baisers de sa bouche
Tes amours sont plus délicieuses que le vin
L’arôme de tes parfums est exquis » (Ct, 1, 2-3)
Theo ấn bản Kinh Thánh mới nhất vừa được Tòa Tổng Giám Mục Sài gòn thực hiện năm 1998 (trang 1231) ba câu này được dịch như sau :
« Ước gì chàng hôn ta những nụ hôn chính môi miệng chàng
Ân ái của anh còn ngọt ngào hơn rượu
Mùi hương anh thơm ngát ».
Minh châu dịch :
« Môi tìm môi đón nụ hôn tình ái
Ngây ngất say hơn hẳn rượu ngọt bùi
Hương ai tỏa xác hồn xao xuyến mãi ».
Vân Uyên dịch :
« Đợi môi âu yếm đến hôn em
kết tình dịu ngọt hơn bồ tửu
Ngây ngất hương người thật ấm êm ».
Điểm lạ lùng của chữ yêu trong Cựu Ước là tình yêu nam nữ cả hồn lẫn xác được đặt tận đỉnh cao của tình thiên tính.
Theo Tân Ước, tình yêu nam nữ chỉ tìm thấy toàn vẹn ý nghĩa và đạt tới sự thật, khi qua hôn nhân bí tích trở thành tình yêu vợ chồng.
Trong thơ gửi tín hữu Ephêsô, thánh Phaolô gọi tình yêu vợ chồng là « huyền nhiệm lớn » (grand mystère). Huyền nhiệm đã kỳ lạ. Huyền nhiệm lớn là kỳ lạ trên sự kỳ lạ (Ep 5,32).
Tình yêu vợ chồng được thánh Phaolô so sánh với tình của Chúa Kytô đối với Giáo Hội. Tình yêu vợ chồng, mà thường tình cho là trần tục, trở thành « kỳ lạ trên sự kỳ lạ » vì được coi như mối tình mầu nhiệm không bao giờ phai, kéo dài vô tận trong thời gian, của « Thiên Chúa làm ngườỉ », kết hợp với « nhiệm thể » của mình là Giáo Hội (Ep 5, 23-25).
Như vậy, tình yêu vợ chồng trở thành như một trong những trung tâm điểm của đức tin. Nói cách khác, tình yêu vợ chồng khi đạt tới mức « yêu » cũng là một con đường dẫn tới Thiên Chúa, dẫn tới cõi phúc.
Theo Tân Ước, nhiều lần Chúa Kytô đã ví nước Trời như một Tiệc Cưới và tự ví mình như chàng rể (Mt 9,15 ; 22,1-14 ; 25,1-13 ; Ga 3,29).
Chúa Kitô đã giảng về tính chung thủy gắn bó, không có gì có thể phân chia tình vợ chồng trong hôn nhân bí tích. Theo Phúc Âm của thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã nói : « Vợ chồng không còn là hai mà là một. Những người Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được chia rẽ » (Mat 19,6).
Đối với người đời xưa cũng như đời nay, những lời nói này thật không phải dễ hiểu và dễ chấp nhận. Chính những môn đệ của Chúa Kytô cũng đã thốt lên : « Nếu số phận của người nam phải đối xử với vợ như vậy, thà đừng kết hôn còn hơn ». Và Chúa Kytô đã trả lời « Không phải ai cũng hiểu được. Chỉ có kẻ Chúa cho hiểu mới hiểu » (Mat 19, 10-11).
3.Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài
« Thiên Chúa là Tình yêu », thông điệp của ĐGH Bênêdictô XVI ban hành tại Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 25.12.2005, có lẽ đã là cách Chúa cho chúng ta hiểu hơn về tình yêu hôn nhân (eros) toàn vẹn cả hồn lẫn xác, có thể dẫn tới tình yêu bác ái (agape) của Giáo Hội mà đưa ta tới Thiên Chúa, tới cõi phúc.
Yêu chồng, yêu vợ mặn mà
Yêu người yêu Chúa, cùng là bài ca.
Vợ chồng « nhất thể » đôi ta
Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài
Thông điệp được chia làm hai phần. Phần I nói về « Sự thống nhất của tình yêu trong sáng tạo và lịch sử cứu độ ». Phần II nói về « tình yêu bác ái và hoạt động bác ái của Hội Thánh như là một cộng đoàn của tình yêu ». Đức ông Giuse Mai Đức Vinh đã tóm tắt thông điệp như sau cho khóa Gặp Gỡ Huấn Luyện Giới Trưởng Thành lần thứ XIII, từ 21 đến 24, tháng 05, năm 2009 tại Orsay, ngoại ô Paris [4]:
Phần I : Đức Thánh Cha xác định một số dữ kiện thiết yếu liên quan đến tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một cách huyền nhiệm và nhưng không. Những dữ kiện đó là :
1. ‘Tình yêu’ bộc lộ dưới nhiều hình dạng (yêu nước, yêu nghề, yêu bạn bè… yêu Chúa). Nhưng mọi hình dạng đều quy về một tình yêu duy nhất và hoàn toàn trổi vượt, đó là Tình Yêu nơi Thiên Chúa (số 2).
2. Ba hình dạng chính yếu của tình yêu là (số 3):
- ‘tình ái’ (eros) : tức là tình yêu giữa một người nam và một người nữ. Trong Tân Ước ít nói dến dạng thức tình yêu này
- ‘tình bạn’ (Philia) : tức tình yêu bằng hữu giữa người này với người khác. Trong Tân Ước, đặc biệt trong Tin Mừng Thánh Gioan nói đến một cách sâu sắc về tình yêu bạn hữu giữa Chúa Giêsu và các môn đệ (x Ga 15 tt).
- ‘tình bác ái’ (Agape) : tức là tình yêu có phẩm tính sâu sắc, phổ quát, siêu nhiên, vị tha… Các Tân Ước đều dùng nhiều dạng thức tình yêu này.
3. Đức Thánh Cha nói riêng về ‘tình ái’ (Eros) (số 4-5): Văn hóa Hy lạp đề cao dạng tình yêu này, coi tình yêu này là mãnh lực mạnh nhất (Omnia vincit amor, et nos cedamus amori). Nhiều tôn giáo ‘suy tôn khả năng sinh sản’, ‘tục mại dâm thiêng liêng trong các đền thờ’ đều coi tình ái như một thứ quyền lực thiêng liêng, ngang hàng với Thiên Chúa. Cựu Ước cực lực chống lại chủ trương trên đây của tôn giáo này, coi đó là tiêu biểu cho một cám dỗ chống lại đức tin độc thần và chống lại nó như một hình thái sa đọa tôn giáo. Tuy nhiên Cựu Ước không hề loại bỏ tình ái (eros) đúng nghĩa… Vì khi được uốn nắn và thanh luyện, tình ái dẫn con người dến gần với Thiên Chúa… Khi nói về tình ái (eros), người ta nghĩ đến thân xác, đến dục tính… và người ta chỉ trích Kitô Giáo trong quá khứ, đã coi thường và khinh bỉ thân xác và dục tính... Tuy nhiên, phải khẳng định : lối tôn sùng thân xác ngày nay là một sai lầm, vì nó đã biến thân xác và tình dục thành đồ vật mua bán, và chính con người cũng trở thành ‘món hàng’ thương mại (số 4-5).
4. Ngài cũng nói riêng về ‘tình bác ái’ (Agape) tiêu biểu cho ý niệm tình yêu trong Thánh Kinh. Tình bác ái (agape) và tình ái (eros) không tách rời nhau hoàn toàn, nhưng tình bác ái (agape) vượt lên trên tình ái (eros), thay vì tình ái ích kỷ, chỉ đi kiếm ‘điều lợi cho mình’, thì tình bác ái (agape) lo tìm điều tốt, điều lợi cho người mình yêu, nó sẵn sàng từ bỏ và chấp nhận hy sinh. Nói cách khác, tình ái (eros) là tình yêu ‘trần thế’ (mondain), còn tình bác ái (agape) là tình yêu lấy đức tin làm cơ sở. Tình ái (eros) thì hẹp hòi, tạm bợ, còn tình bác ái (agape) rộng mở và lâu bền. Tình bác ái (agape) chính là tình ái (eros) được siêu nhiên hóa, nhân bản hóa, được mở rộng cho mọi người và đến với mọi người… như giáo huấn của thánh Phaolô : « Ai kết hợp với Chúa Giêsu (eros), thì trở nên cùng một thần trí với Ngài (agape) » (1Cr6,17). Sau cùng tình bác ái (agape) diễn tả huyền nhiệm của bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa Giêsu hoàn toàn hiến thân (agape) cho nhân loại…(số 6-11)
5. Chúa Giêsu, hiện thân của tình yêu Thiên Chúa : ‘Thiên Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa yêu chúng ta trước và đã ban Đức Giêsu, con chí ái của Ngài cho chúng ta. Do đó, Chúa Giêsu là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa giữa chúng ta (tam cùng với chúng ta) : cùng sống, cùng hoạt động và cùng yêu với chúng ta… Và như vậy, Thiên Chúa gia tăng niềm vui, Thiên Chúa trở thành niềm vui cho chúng ta… Niềm vui này chúng ta có thể múc lấy mỗi ngày nơi Bí Tích thánh Thể… và như vậy, vì yêu chúng ta, ‘Thiên Chúa trở nên tất cả trong mọi sự’ (1Cr 15,28) cho chúng ta. Đó là tình yêu Agape tuyệt hảo ! (số 12-18)
Phần II : Đức Thánh Cha nói về những thể hiện tình bác ái (agape) cụ thể trong Hội Thánh, theo giới răn ‘yêu thương người ta như chính mình’ (Mc 15, 31). Dĩ nhiên không thể nói hết, Đức Thánh Cha chỉ ‘nói đến một số yếu tố căn bản để khơi dậy trong thế giới một năng dộng mới mẻ mà con người hay chính Giáo Hội phải thực hiện hầu đáp trả lại tình yêu của Thiên Chúa’. Vì thế, Giáo Hội là một Cộng đồng yêu thương, thể hiện tình yêu. Đức Thánh Cha nêu bật những điểm sau đây :
1. Hoạt động bác ái của Hội Thánh là thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi : Vì thế thánh Aucơtinh viết : «Tìm thấy tình bác ái (agape) là nhìn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi » (19).
2. Bác ái là nhiệm vụ của Hội Thánh (20-25) :
- Bác ái là nhiệm vụ của mỗi tín hữu, nhưng cũng là nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn Giáo Hội, từ cộng đoàn địa phương, đến Giáo Hội địa phương, và đến Giáo Hội hoàn vũ. Giáo Hội đã ý thức nhiệm vụ này ngay từ buổi đầu : ‘Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, để mọi sự làm của chung… (Cv 2,44-45). Theo thánh Luca, những yếu tố cấu thành của Hội Thánh bấy giờ là : Lời rao giảng của các tông đồ, hiệp thông, bẻ bánh, cầu nguyện (số 20).
- Hoạt động bác ái đòi hỏi những thừa tác mới : chức phó tế (diaconia) (Cv 6,5-6) phụ tá các tông đồ trong việc ‘phục vụ việc cầu nguyện, phục vụ Lời Chúa, phục vụ bàn ăn (Cv 6,1-6) (21).
- Ba hoạt động, ba nhiệm vụ : Tiệc Thánh Thể – Tiệc lời Chúa – Hoạt động bác ái (agape) : lo cho quả phụ, trẻ mồ côi, bệnh nhân, tù đầy… (số 22). Nói cách khác, bản tính xâu xa nhất của Hội Thánh được diễn tả qua ba nhiệm vụ : Loan báo lời của Thiên Chúa (Kerygma-martyria), cử hành các Bí tích (leitourgia), và thi hành tác vụ bác ái (diakonia) (số 23-24).
- Ba nhiệm vụ bổ túc cho nhau, gắn liền với nhau làm cho Hội Thánh trở thành gia đình của Thiên Chúa, đại gia đình đức tin (Gl 6,10) (số 25).
3. Bác ái không đủ, còn phải có công bằng : từ thế kỷ XIX, người ta chống lại hoạt động bác ái của Hội Thánh, nhất là thuyết Maxít, người ta bảo : người nghèo không cần đến bác ái nhưng cần công bằng…
- Vì thế Giáo Hội ra các thông điệp xã hội : Đức Lêo ‘Rerum Novarum’ (1891), Đức Piô XI ‘Quadragesimo Anno’ (1931), Đức Gioan XXIII ‘Mater et Magistra’, Đức Phaolô VI ‘Populorum’ (1967), Octogesima Adveniens’ (1971), Đức Gioan Phaolô II ‘Laborem Exercens’ (1981), ‘Sollicitudo Rei Socialis’ (1987). Hội Đồng Công Lý Hòa Bình ‘Cuốn tóm lược giáo huấn xã hội của Hội Thánh’ (2004).
- a) Công bằng (justitia): Nguyên tắc ‘Công bằng xã hội’ : Của Xêsa trả cho Xêsa, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa (Mt 22,21). Giáo Hội và Quốc Gia vừa tách biệt vừa tương quan với nhau…theo những xác định của Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Mục Vụ (GS 74, 68, 42) (số 28).
- Về ‘công bằng xã hội’, Hội Thánh không thay thế chính trị hay chính quyền, nhưng Hội Thánh không đứng ngoài lề cuộc đấu tranh cho công bằng.
- b) Tình yêu (Caritas) luôn là cốt lõi của xã hội, dù là xã hội công bằng nhất. Vì thế một xã hội, một quốc gia hay một khuynh hướng muốn loại bỏ tình yêu, … là loại bỏ chính con người. Con người không chỉ sống bằng cơm bánh… Phục vụ con người không phải chỉ chăm lo về thân xác, nhưng còn cả về tinh thần, bồi dưỡng con người không chỉ bằng những yếu tố vật chất, nhưng còn bằng những yếu tố tinh thần… Vật chất hay tinh thần đều sắc đọng trong TÌNH YÊU.
- Tuy nhiên việc hình thành các cơ cấu công bằng không trực tiếp là nhiệm vụ của Hội Thánh, nhưng thuộc lãnh vực chính trị, lãnh vực Quốc gia hay Nhà Nước (luật pháp, kinh tế, xã hội, hành chánh, nghiệp đoàn…). Với tư cách công dân, người tín hữu có bổn phận hợp tác và tuân thủ đúng đắn…
- Mặt khác các tổ chức bác ái của Hội Thánh làm thành một công trình riêng (opus proprium), và hoạt động ngay giữa lòng quốc gia, xã hội. Hội Thánh không bao giờ được miễn trừ hoạt động bác ái, trong mọi hoàn cảnh, việc bác ái của người tín hữu luôn là cần thiết (số 29).
4. Nhiều cơ cấu bác ái trong xã hội hiện nay : Vài nét tổng quát của cuộc tranh đấu công bằng và tình yêu hiện nay trên thế giới :
a) Phương tiện truyền thông thu hẹp trái đất, dù có hiểu lầm và căng thẳng, nhưng tin tức mau lẹ, giúp đỡ liên đới mau chóng (động đất, tai uơng…). Một bằng chứng tích cực về tiến trình toàn cầu hóa : Nhờ phương tiện truyền thông, khoảng cách giữa con người không còn nữa, những hoạt động bác ái có thể và phải bao gồm mọi người và mọi nhu cầu.
b) Bối cảnh xã hội và chính trị hiện nay đã khai sinh và tăng trưởng nhiều hình thức thiện nguyện (quốc gia, Giáo Hội, tư nhân) và nhiều hình thức cộng tác giữa các Quốc gia và các cơ quan từ thiện của Giáo Hội với dồi dào kết quả. Với sứ mệnh làm chứng về Tình Yêu Thiên Chúa, tổ chức bác ái của Giáo Hội đem phẩm tính Kitô giáo cho các tổ chức của chính phủ hay của tư nhân, ngược lại các tổ chức của quốc gia giúp tổ chức của Hội Thánh có thêm phương tiện và hiệu lực…
5. Khía cạnh riêng biệt của hoạt động bác ái của Hội Thánh (31).
- Nguồn gốc : ‘Thiên Chúa là tình yêu… (1Ga 4,8) ; Yêu thương người khác như chính mình… (Mc 12,31). Tám mối phúc thật…(Mt 4,3-12). Xét xử theo luật bác ái (Mt 25,31).
- Tổ chức Caritas quốc tế hiện nay … quy tụ cơ cấu, tài lực, nhân sự, phương án…
- Hoạt động bác ái kitô giáo phải độc lập với các phe nhóm và ý thức hệ… Hoạt động bác ái phải thể hiện tình liên đới và hiêïp nhất giữa cá nhân, trong cộng đoàn, ngoài xã hội…
- Hoạt động bác ái không được xử dụng như kế hoạch chiêu dụ tín đồ… (31)
6. Những ngưòi chịu trách nhiệm về hoạt động bác ái của Hội Thánh.
- Là chính Hội Thánh, cụ thể từ thời Đức Phaolô VI là Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm (Cor Unum). (x. Giáo luật Đ 394). Luôn nhân danh Giáo Hội, luôn phải có sự phối hợp theo cấp bậc hoạt đọâng (32).
- Không lấy cảm hứng từ các ý thức hệ với mục tiêu là cải tiến trần gian, nhưng luôn luôn ‘tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta’ (2Cr5,14) (33).
- Không thể không cộng tác với các tổ chức khác … tuy nhiên luôn giữ vững căn tính ‘tình yêu Chúa thúc đẩy chúng ta…’ (34)
- Phải phục vụ trong khiêm tốn… ‘chúng ta chỉ là đầy tớ vô dụng’ (Lc 17,10) (35).
- Cần giữ quân bình giữa hai cực đoan : - tham vọng muốn làm hết, làm ngay, không đo sức mình… - cám dỗ đầu hàng, khoanh tay… (36)
- Yếu tố giúp giữ quân bình : lòng đạo đức, việc cầu nguyện (gương chân phước Têrêsa Calcutta) (số 36-37). Cầu nguyện để ‘giải tỏa’ những thắc mắc theo kiểu ông Gióp (xG 23,3+5-6+15-16), lời than của chính Chúa Giêsu trên Thánh Giá (Mt 27,46), lời sách Khải Huyền (kh 6,10)… và để giữ vững niềm tin, đức cậy và lòng bác ái (số 38-39).
LỜI KẾT
Văn hóa Việt Nam ghi khắc gì về tình yêu vợ chồng ? Đức tin Công Giáo trao cho tình yêu vợ chồng sứ mệnh gì ? Tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu vợ chồng Công Giáo đưa về đâu ?
Về câu hỏi thứ nhất, chúng ta đã tìm được câu trả lời của văn hào Nguyễn Du rằng : « Tu là cõi phúc, tình là giây oan ». Văn chương bình dân Việt Nam rất phong phú về tình yêu trai gái và tình yêu thân xác. Văn chương truyền thống tam giáo Lão, Phật, Khổng, thì hoặc là không nói đến tình yêu vợ chồng, hoặc là nói đến như một nhân duyên của cõi vô thường, hoặc nói đến những ngũ luân ngũ thường như những luật lệ để đối xử với nhau, hầu giữ gìn tôn ti trật tự trong gia đình và ngoài xã hội ; còn tình yêu vợ chồng, thì đó chỉ là lẽ tự nhiên của trời đất, nguồn gốc đến từ hấp lực đực cái, giống như các sinh vật khác, nhưng phải được giáo hóa để đi vào khuôn khổ luân thường.
Về câu hỏi thứ hai, Thánh Thư, Cựu ước cũng như Tân Ước đã cho chúng ta hay rằng : « Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai », vì tình yêu vợ chồng là một bí tích trao truyền lại cho thế giới hữu hình cái mầu nhiệm vô hình được che đậy nơi Thiên Chúa từ đời đời. Đó là mầu nhiệm về chân lý và về tình yêu, mầu nhiệm của cuộc sống thiên tính, mà loài người được thực sự chia phần. Mầu nhiệm đó là mầu nhiệm « Thiên Chúa là Tình Yêu », yêu bất chấp sự đau khổ và sự chết. Tình yêu vợ chồng, khi đạt tới mức yêu, cũng là một con đường dẫn tới cõi phúc, yêu để đền nghì tình Chúa yêu ta (Ai là Thiên Chúa).
Trả lời câu hỏi thứ ba, chúng ta đã tìm được cánh cửa đức tin mở lối qua thông điệp « Thiên Chúa là Tình yêu » của ĐGH Bênêđictô XVI, giúp ta hiểu rằng tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu đầy đủ hồn xác của bí tích vợ chồng Công Giáo đưa ta từ tình yêu người bạn đời đến tình yêu mọi người và đến đáp trả tình yêu Thiên Chúa, mà chúng ta tóm gọn trong bốn câu thơ :
Yêu chồng, yêu vợ mặn mà
Yêu người yêu Chúa, cùng là bài ca.
Vợ chồng « nhất thể » đôi ta
Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài
Tình yêu vợ chồng, đầy đủ hồn xác, đưa ta đến hạnh phúc, đến tình yêu bác ái với mọi người và đến tình yêu Thiên Chúa. Điều này cũng dễ hiểu, vì tình yêu vợ chồng đầy đủ hồn xác là một tình yêu toàn diện, là một dâng hiến về thân xác, một hiệp thông về tình cảm, một tha thứ chịu đựng theo lý trí, một hòa thuận theo ý chí và một tâm tình kính yêu của con tim. Tất cả tình yêu vợ chồng toàn diện này, cũng như tất cả các tình yêu bác ái với mọi người, tình yêu với Thiên Chúa đều là bài ca, một bài ca phụng tự. Tình yêu vợ chồng toàn diện này, nói theo Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là « Bí tích các thân xác », « bí tích trọng đại », « không chia cắt điều Chúa đã nối kết » và là « Ơn gọi các thân xác » [5].
Trần Văn Cảnh
Ghi chú :
1. ĐGH Bênêđictô XVI, Thiên Chúa là Tình yêu, , 2005, số 2.
2. Nguyễn Văn Ái : Chữ tình và chữ yêu ; trong « Đường vào tình yêu », Giáo Xứ Việt Nam Paris, 2000, tr. 255-265).
3. Ibidem.
4. Lm Mai Đức Vinh : Tìm hiểu thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu ; trong Trần Văn Cảnh : Công Giáo Việt Nam tại Pháp, 226 năm hành trình Đức Tin, 1784-2010 ; 2011, tr. 164-170
5. Yves Semen ; La Spiritualité conjugale selon Jean-Paul II, Ed. Presse de la Renaissance, Paris : 2010, pp. 55-67.
Tin Đáng Chú Ý
Khi Đài Loan chuyển rác vào Việt Nam
Lữ Giang
11:03 28/07/2016
Hôm 18.7.2016, khi phát biểu tại hội nghị do Hội đồng bầu cử Quốc gia tổ chức, ông Nguyễn Phú Trọng nói rằng cuộc bầu cử diễn ra trong bối cảnh đất nước có nhiều thời cơ, thuận lợi, đồng thời có không ít khó khăn. Cụ thể, tình hình hạn hán nghiêm trọng ở miền Trung và Tây Nguyên, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, sự cố hải sản chết bất thường ở một số tỉnh ven biển miền Trung, sự chống phá của các thế lực thù địch..., đã gây không ít khó khăn cho công tác bầu cử”.
Cả thế giới đều biết cuộc bầu cử vừa qua chỉ là “cuộc bầu cử tiền định” nên chẳng có biến cố nào ảnh hưởng đến nó cả, nhưng ông Trọng nói bâng quơ rồi kéo vụ cá chết và “sự chống phá của các thế lực thù địch” vào để biện hộ cho những chính sách sai lầm đã bị phản đối mạnh mẽ trong những tháng qua, nhất là chủ trương “PHÁT TRIỂN BẰNG MỌI GIÁ” bằng cách cho Đài Loan CHUYỂN RÁC từ Trung Quốc xuống Việt Nam, đưa đất nước vào những ngày đen tối.
Những người không nắm vững tin hình tin rằng các nhà đầu tư Đài Loan tại Việt Nam chỉ là tay sai của Trung Quốc, nhưng thực tế không phải như vậy. Các nhà đầu tư Đài Loan đang làm ăn ở Trung Quốc hiện nay nhận thấy “thời vàng son” ở Trung Quốc đã qua rồi nên đang cùng với các nhà đầu tư Trung Quốc CHUYỂN RÁC xuống Đông Nam Á. Trong bước đầu, Đài Loan đang thua Trung Quốc, nhưng về lâu về dài, với chủ trương “ĐẦU TƯ BẰNG PHONG BÌ”, Đài Loan sẽ vượt xa Tung Quốc. Đài Loan tin rằng với phương thức đó, họ có thể đổ vào Việt Nam những thứ mà các nước khác không chấp nhận. Họ đang làm như vậy ở Tiền Giang (Mỹ Tho) và Hà Tĩnh và đang thành công.
THỜI LÀM ĂN Ở TRUNG QUỐC ĐÃ HẾT
Trong cuộc họp báo ngày 16.6.2016 tại Quốc hội Đài Loan, Các dân biểu Đài Loan nói rằng nếu Formosa là thủ phạm của hàng tấn cá chết thì có thể gây tổn hại cho chính sách của tân Tổng thống Thái Anh Văn vì bà muốn xúc tiến đầu tư vào Đông Nam Á trong nỗ lực giảm lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.
Khi Mỹ còn đánh phá Trung Quốc, Đài Loan và các nhà đấu tranh ở hải ngoại được coi là “thành trì chống cộng của thế giới tự do” và “tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á”. Đến năm 1971 khi Mỹ đẩy Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc và công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Đài Loan “trở cờ đón gió” rất lẹ, người Hoa ở hải ngoại cũng đi theo. Năm 1990 Hoa Kỳ bắt đầu đầu tư vào Trung Quốc thì qua năm 1991, Tổng thống Lý Đăng Huy tuyên bố rằng chính phủ của ông không còn tranh chấp quyền cai trị với những người Cộng sản ở lục địa nữa. Sau đó, Đài Loan bắt chước Mỹ, xâm nhập thị trường Trung Quốc. Đến cuối năm 2000, các nhà phân tích đã đánh giá tình hình đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc bằng “ba con số không”: 50.000 dự án, 500.000 người và 50 tỉ USD. Nhưng đến năm 2001 nó đã tăng vọt lên 70.000 dự án, 1 triệu người Đài Loan và 100 tỉ USD. Thành phố Thượng Hải trở trành một Đài Bắc thứ hai. Nhờ vậy, Đài Loan đã phát triển nhanh và trở thành một trong 4 Con Rồng Kinh Tế Á Châu, bỏ Việt Nam xa: Đài Loan có diện tích 36.193 km2, dân số 23.496.068, GDP danh nghĩa là 505.452 tỷ USD. Việt Nam có diện tích 331.698 km², dân số 94.444.200. nhưng GDP danh nghĩa chỉ có 239.719 tỷ USD.
Nhưng ngày nay, thời vàng son ở Trung Quốc sắp hết. Bắc Kinh đã thực hiện tái cơ cấu lại nền kinh tế, hướng vào các doanh nghiệp trong nước. Điều này đã thực sự tạo ra trở ngại lớn cho các nhà đầu tư Đài Loan. “Thách thức”, “dè dặt”, “đầy ngờ vực” là ba từ quen thuộc được các nhà đầu tư dùng để mô tả tình trạng đầu tư ở Trung Quốc. Nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, chi phí lao động cao hơn và những rào cản đối với việc tiếp cận thị trường. Bên cạnh đó, những khó khăn trong việc cạnh tranh với các công ty địa phương cũng đang là thách thức rất lớn với Đài Loan.
CHUYỂN RÁC XUỐNG VIỆT NAM
Dưới đầu đề “Trung Quốc ồ ạt đầu tư vào Việt Nam: Lành ít, dữ nhiều”, báo Vietnamnet.vn của Nhà Nước ngày 11.11.2015 đã viết: “Thống kê từ Bộ KHĐT cho thấy, từ cuối năm ngoái khi Hiệp định TPP chưa được ký kết, đã có khoảng 810 doanh nghiệp Trung Quốc và Đài Loan đầu tư vào 52 tỉnh, thành của Việt Nam. Đặc biệt, lĩnh vực dệt, nhuộm có sự tăng trưởng đột biến. Nhiều chuyên gia cảnh báo về làn sóng đầu tư này “lành ít, dữ nhiều’.
Nhưng Đảng CSVN và các đảng viên có quyền lực lại cho rằng đây là một dịp may hiếm có. Đảng đưa ra chủ trương “PHÁT TRIỂN BẰNG MỌI GIÁ” với hy vọng sẽ hốt mau và hốt mạnh!
1.- Đầu tư từ Trung Quốc
Theo số liệu thống kê, tính đến hết năm 2015, Trung Quốc có 1.296 dự án, vốn đầu tư đạt gần 10,2 tỷ USD. Các khoản đầu tư của Trung Quốc tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó có nhiều dự án sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hoà. Tiếp theo là lĩnh vực xây dựng, bất động sản. Những điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư Trung Quốc là: TP HCM, Bình Thuận, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Bình Dương, Lào Cai, Hải Phòng, Quảng Ninh...
Dựa trên những ưu đãi về thuế và nhiều cơ chế khác, các nhà đầu tư Trung Quốc rót mạnh vốn vào các ngành công nghiệp chế biến, dệt nhuộm… nhằm đón đầu xu thế khi Việt Nam gia nhập TPP.
2.- Đầu tư từ Đài Loan
Theo Cục Đầu Tư Nước Ngoài thuộc Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, chỉ tính riêng 4 tháng đầu năm 2016, Đài Loan xếp thứ 3/50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam với 39 dự án cấp mới, 25 lượt điều chỉnh vốn, tổng vốn đăng ký mới và điều chỉnh đạt 664,11 triệu USD.
Các dự án đầu tư của Đài Loan phân bổ tại 17 trong số 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Tiền Giang (Mỹ Tho) đứng đầu cả nước khi thu hút 34,5% tổng vốn đầu tư của Đài Loan tại Việt Nam, sau đó là Hà Tĩnh với 27,7% tổng vốn đầu tư.
Mười tỉnh, thành phố dẫn đầu về thu hút FDI của Đài Loan là Hà Tĩnh với 36 dự án, trị giá 10,27 tỷ USD; Đồng Nai 333 dự án trị giá 4,83 tỷ USA, sau đó là Bình Dương (688 dự án), TP Hồ Chí Minh (506 dự án), Bà Rịa-Vũng Tàu (28 dự án), Long An (150 dự án), Hải Phòng (44 dự án), Hải Dương (53 dự án), Ninh Bình (6 dự án) và Tây Ninh (72 dự án)
CHIẾN THUẬT ĐẦU TƯ BẰNG PHONG BÌ
Bây giờ ở Việt Nam làm cái gì cũng phải có phong bì. Đi học cũng có phong bì, vào nằm bệnh viện cũng có phong bì... Một sinh viên mới tốt nghiệp sư phạm, đến nộp đơn xin dạy học. Nộp đơn đã lâu mà chẳng thấy gọi, trong khi thằng bạn mới nộp tuần qua đã được gọi rồi. Hỏi anh ta làm sao để được gọi, anh ta viết xuống trên giấy: 60.000.000$ (khoảng 3.000 UDS)!
1.- Truyền thống xử dụng phong bì
Chỉ trong một thời gian ngắn, Đài Loan dã đầu tư vào Việt Nam trên 1.000 dự án một cách dễ dàng và đứng hàng thứ 3 trong 50 nước đã đầu tư vào Việt Nam. Tại sao?
Tại vì Đài Loan đã áp dụng chiến thuật đầu tư truyền thống của họ trong nhiều thế kỷ qua, đó là Chiến thuật ĐẦU TƯ BẰNG PHONG BÌ. Từ anh Bí Thư Đảng Ủy Xã đến anh Bộ Trưởng, Thủ Tướng hay Ủy Viên Bộ Chính Trị, cứ theo cấp bậc, quyền lực, phần hành... mà quyết định bề dày của phong bì. Cầm phong bì rồi là ký, chẳng cần luật lệ gì cả. Cứ nhìn lại vụ Formosa là thấy ngay.
2.- Xử dụng phong bì khi xin giấy phép
Ngày 15.1.2008, Công ty Formosa Hà Tĩnh gởi đơn xin đầu tư ở Vũng Án thì ngày 16.1.2008, tức chỉ một ngày sau, ông Võ Kim Cự, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Hà Tĩnh, đã đích thân làm tờ trình xin Thủ tướng cho phép Công ty Formosa đầu tư, không cần điều tra gì cả. Ông ta lại ký hợp đồng cho thuê đất 70 năm thay vì 50 năm như luật định. Formosa đã đưa bao nhiêu mà ông Cự làm nhanh như thế? 50.000 USD? 100.000 USD? Khó mà biết được.
Chưa đầy 2 tháng sau, ngày 4.3.2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký công văn mang số 323/TTg-QHQT đồng ý cho thành lập Công ty Formosa Hà Tĩnh và khai thác cảng Sơn Dương. Ngày 21.5.2008, Công ty nộp đơn xin chấp nhận Dự án đầu tư nhà máy liên hợp thép và Dự án cảng nước sâu Sơn Dương. Mới hơn nữa tháng, ngày 6.6.2008 Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải đã vội ký Công văn số 869/TTg-QHQT đồng ý cho Công ty Formosa Hà Tĩnh thực hiện hai dự án nói trên.
Công ty Formosa là một công ty chuyên sản xuất đồ nhựa, chưa có kinh nghiệm gì về sản xuất thép, tại sao ký giấy phép nhanh như thế? Câu trả lời rất giản dị: PHONG BÌ!
3.- Xử dụng phong bì khi đem chất thải đi chôn
Khi thực hiện, Formosa cũng đã dùng PHONG BÌ để được các viên chức địa phương trợ giúp làm bậy, bất chấp luật pháp và mọi hậu quả: Khoảng 14 tấn chất thải bùn đen của Formosa được chôn trong công viên tại tổ dân phố Hưng Thịnh (phường Sông Trí) và bãi rác ở xã Kỳ Tân (huyện Kỳ Anh) được nói là để “trồng cây cảnh”. Khi bị tố cáo, ngày 13.7.2016 ông Nguyễn Thượng Hiền, Cục trưởng Quản lý Chất thải và Cải thiện Môi trường cùng một số cán bộ đã tới tổ dân phố Hoàng Trinh khảo sát hiện trường chôn 100 tấn chất thải từ lò luyện cốc của Công ty Formosa. Ngoài 100 tấn chất thải này, Công ty còn khoảng hơn 700 tấn chất thải bùn ép đang được lưu kho, chưa được xử lý. Sẽ đổ đi đâu?
Nhiều tài xế xe tải ở Hà Tĩnh cho biết họ được Công ty Phú Hà thuê chở chất thải từ trụ sở ở xã Kỳ Tân ra Phú Thọ để xử lý. Tuy nhiên, khi đến gần tỉnh Phú Thọ, thấy thùng xe tải có hiện tượng dầu nhớt tràn ra nên đã quay xe về Hà Tĩnh trả lại hàng. Địa bàn Hà Tĩnh hiện có 7 điểm chôn lấp và xử lý chất thải của Formosa trên đất liền, trong đó tập trung chủ yếu ở thị xã Kỳ Anh. Nhà chức trách chờ kết quả phân tích mẫu bùn thải được phát hiện trong trang trại ở phường Kỳ Trinh. Bước đầu Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Tĩnh thừa nhận có thiếu sót lúc lấy mẫu, dẫn tới sự thiếu khách quan khi đưa ra kết quả xét nghiệm ban đầu.
4.- Sự an toàn khi nhận phong bì
Cở như ông Võ Kim Cự làm đảng viên suốt một đời, kiếm được khoảng 100.000 USD đâu phải dễ? Nay tự nhiên “của trên trời rơi xuống”, ngu gì mà không lượm? Mai sau dù có thế nào, cũng còn có một chút để hưởng già. Số mạng của dân và đất nước sẽ ra sao chẳng cần biết làm gì. Đó là tâm trạng chung của các cán bộ khi nhận Phong Bì của Đài Loan.
Người Tàu có truyền thống là khi đã đưa Phong Bì rồi thì không còn nghĩ đến nó nữa. Giả thiết người nhận phong bì có lật lọng hay làm không được việc họ cũng chẳng đòi lại, trả thù hay đi tố cáo, vì không muốn làm hỏng chuyện lớn, họ chỉ "cô lập" người bất tín. Do đó, nhận phong bì của Đài Loan rất an toàn.
Chúng tôi đưa vụ Formosa ra để làm một thí dụ cụ thể. Tất cả những vụ đầu tư khác của Đài Loan trên đất nước, từ Bắc tới Nam, đều đi theo mô thức đó. Vì thế mới có câu: "Đảng nhận Phong Bì, dân mang thảm họa!"
NGĂN CHẬN KẾ HOẠCH TÀN PHÁ QUÊ HƯƠNG
Dưới đầu đề “Phải dừng dự án "bức tử sông Hậu"!, báo Tuỏi Trẻ của Nhà Nước ngày 27.6.2016 đã báo động: “Các chuyên gia bày tỏ lo lắng với Tuổi Trẻ về việc triển khai nhà máy giấy của Công ty TNHH giấy Lee & Man Việt Nam (của Hongkong)“bức tử sông Hậu” ở Châu Thành, Hậu Giang”.
Ông Lê Bảo Kỳ, một hộ dân nuôi cá điêu hồng và cá chép bằng lồng bè Tân Phú, Cần Thơ, đã nói: “Nếu sông bị bức tử thì cuộc sống của người dân ở đây cũng bị bức tử theo. Gặp phóng viên tới đây chúng tôi mừng lắm vì nỗi bức xúc này không biết nói ở đâu. Liệu bây giờ nhà máy đã xây dựng vậy rồi có dừng lại được không, nếu được thì chúng tôi mừng lắm...”
Ai chẳng biết vừa phát triển vùa bảo vệ môi trường là chuyện khó, nhưng không quốc gia nào được quyền hy sinh môi trường để “PHÁT TRỄN BẰNG MỌI GIÁ”, vì chủ trương đó sẽ tàn phá dất nước không phải chỉ hôm nay mà nhiều thế hệ tiếp theo nữa. Tuy nhiên, các tập đoàn tham nhũng không quan tâm đến chuyện đó, họ chỉ muốn vơ vét cho đầy túi, sống chết mặc bây. Vụ Formosa Hà Tĩnh là một thí dụ điển hình trước mắt.
Nhưng thời đại hành động độc đoán với những thủ đoạn gian trá như thời cải cách ruộng đất không còn nữa vì dân trí ngày nay đã được nâng cao và guồng máy thông tin điện tử toàn cầu sẽ đua ra ánh sáng tất cả mọi sự gian trá.
Sáng Chúa Nhật 24.7.2016, gần 2000 giáo dân Giáo xứ Phú Yên và Song Ngọc ở Nghệ An đã biểu tình yêu cầu nhà cầm quyền phải đóng cửa Formosa và trả lại biển sạch cho dân. Mọi người và mọi nơi phải cùng dân chúng ở Hà Tĩnh và Nghệ An đứng lên ngăn chận kế hoạch tàn phá quê hương này.
Lữ Giang, Ngày 28.7.2016
Cả thế giới đều biết cuộc bầu cử vừa qua chỉ là “cuộc bầu cử tiền định” nên chẳng có biến cố nào ảnh hưởng đến nó cả, nhưng ông Trọng nói bâng quơ rồi kéo vụ cá chết và “sự chống phá của các thế lực thù địch” vào để biện hộ cho những chính sách sai lầm đã bị phản đối mạnh mẽ trong những tháng qua, nhất là chủ trương “PHÁT TRIỂN BẰNG MỌI GIÁ” bằng cách cho Đài Loan CHUYỂN RÁC từ Trung Quốc xuống Việt Nam, đưa đất nước vào những ngày đen tối.
THỜI LÀM ĂN Ở TRUNG QUỐC ĐÃ HẾT
Trong cuộc họp báo ngày 16.6.2016 tại Quốc hội Đài Loan, Các dân biểu Đài Loan nói rằng nếu Formosa là thủ phạm của hàng tấn cá chết thì có thể gây tổn hại cho chính sách của tân Tổng thống Thái Anh Văn vì bà muốn xúc tiến đầu tư vào Đông Nam Á trong nỗ lực giảm lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.
Khi Mỹ còn đánh phá Trung Quốc, Đài Loan và các nhà đấu tranh ở hải ngoại được coi là “thành trì chống cộng của thế giới tự do” và “tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á”. Đến năm 1971 khi Mỹ đẩy Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc và công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Đài Loan “trở cờ đón gió” rất lẹ, người Hoa ở hải ngoại cũng đi theo. Năm 1990 Hoa Kỳ bắt đầu đầu tư vào Trung Quốc thì qua năm 1991, Tổng thống Lý Đăng Huy tuyên bố rằng chính phủ của ông không còn tranh chấp quyền cai trị với những người Cộng sản ở lục địa nữa. Sau đó, Đài Loan bắt chước Mỹ, xâm nhập thị trường Trung Quốc. Đến cuối năm 2000, các nhà phân tích đã đánh giá tình hình đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc bằng “ba con số không”: 50.000 dự án, 500.000 người và 50 tỉ USD. Nhưng đến năm 2001 nó đã tăng vọt lên 70.000 dự án, 1 triệu người Đài Loan và 100 tỉ USD. Thành phố Thượng Hải trở trành một Đài Bắc thứ hai. Nhờ vậy, Đài Loan đã phát triển nhanh và trở thành một trong 4 Con Rồng Kinh Tế Á Châu, bỏ Việt Nam xa: Đài Loan có diện tích 36.193 km2, dân số 23.496.068, GDP danh nghĩa là 505.452 tỷ USD. Việt Nam có diện tích 331.698 km², dân số 94.444.200. nhưng GDP danh nghĩa chỉ có 239.719 tỷ USD.
Nhưng ngày nay, thời vàng son ở Trung Quốc sắp hết. Bắc Kinh đã thực hiện tái cơ cấu lại nền kinh tế, hướng vào các doanh nghiệp trong nước. Điều này đã thực sự tạo ra trở ngại lớn cho các nhà đầu tư Đài Loan. “Thách thức”, “dè dặt”, “đầy ngờ vực” là ba từ quen thuộc được các nhà đầu tư dùng để mô tả tình trạng đầu tư ở Trung Quốc. Nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, chi phí lao động cao hơn và những rào cản đối với việc tiếp cận thị trường. Bên cạnh đó, những khó khăn trong việc cạnh tranh với các công ty địa phương cũng đang là thách thức rất lớn với Đài Loan.
CHUYỂN RÁC XUỐNG VIỆT NAM
Dưới đầu đề “Trung Quốc ồ ạt đầu tư vào Việt Nam: Lành ít, dữ nhiều”, báo Vietnamnet.vn của Nhà Nước ngày 11.11.2015 đã viết: “Thống kê từ Bộ KHĐT cho thấy, từ cuối năm ngoái khi Hiệp định TPP chưa được ký kết, đã có khoảng 810 doanh nghiệp Trung Quốc và Đài Loan đầu tư vào 52 tỉnh, thành của Việt Nam. Đặc biệt, lĩnh vực dệt, nhuộm có sự tăng trưởng đột biến. Nhiều chuyên gia cảnh báo về làn sóng đầu tư này “lành ít, dữ nhiều’.
Nhưng Đảng CSVN và các đảng viên có quyền lực lại cho rằng đây là một dịp may hiếm có. Đảng đưa ra chủ trương “PHÁT TRIỂN BẰNG MỌI GIÁ” với hy vọng sẽ hốt mau và hốt mạnh!
1.- Đầu tư từ Trung Quốc
Theo số liệu thống kê, tính đến hết năm 2015, Trung Quốc có 1.296 dự án, vốn đầu tư đạt gần 10,2 tỷ USD. Các khoản đầu tư của Trung Quốc tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó có nhiều dự án sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hoà. Tiếp theo là lĩnh vực xây dựng, bất động sản. Những điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư Trung Quốc là: TP HCM, Bình Thuận, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Bình Dương, Lào Cai, Hải Phòng, Quảng Ninh...
Dựa trên những ưu đãi về thuế và nhiều cơ chế khác, các nhà đầu tư Trung Quốc rót mạnh vốn vào các ngành công nghiệp chế biến, dệt nhuộm… nhằm đón đầu xu thế khi Việt Nam gia nhập TPP.
2.- Đầu tư từ Đài Loan
Theo Cục Đầu Tư Nước Ngoài thuộc Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, chỉ tính riêng 4 tháng đầu năm 2016, Đài Loan xếp thứ 3/50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam với 39 dự án cấp mới, 25 lượt điều chỉnh vốn, tổng vốn đăng ký mới và điều chỉnh đạt 664,11 triệu USD.
Các dự án đầu tư của Đài Loan phân bổ tại 17 trong số 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Tiền Giang (Mỹ Tho) đứng đầu cả nước khi thu hút 34,5% tổng vốn đầu tư của Đài Loan tại Việt Nam, sau đó là Hà Tĩnh với 27,7% tổng vốn đầu tư.
Mười tỉnh, thành phố dẫn đầu về thu hút FDI của Đài Loan là Hà Tĩnh với 36 dự án, trị giá 10,27 tỷ USD; Đồng Nai 333 dự án trị giá 4,83 tỷ USA, sau đó là Bình Dương (688 dự án), TP Hồ Chí Minh (506 dự án), Bà Rịa-Vũng Tàu (28 dự án), Long An (150 dự án), Hải Phòng (44 dự án), Hải Dương (53 dự án), Ninh Bình (6 dự án) và Tây Ninh (72 dự án)
CHIẾN THUẬT ĐẦU TƯ BẰNG PHONG BÌ
Bây giờ ở Việt Nam làm cái gì cũng phải có phong bì. Đi học cũng có phong bì, vào nằm bệnh viện cũng có phong bì... Một sinh viên mới tốt nghiệp sư phạm, đến nộp đơn xin dạy học. Nộp đơn đã lâu mà chẳng thấy gọi, trong khi thằng bạn mới nộp tuần qua đã được gọi rồi. Hỏi anh ta làm sao để được gọi, anh ta viết xuống trên giấy: 60.000.000$ (khoảng 3.000 UDS)!
1.- Truyền thống xử dụng phong bì
Chỉ trong một thời gian ngắn, Đài Loan dã đầu tư vào Việt Nam trên 1.000 dự án một cách dễ dàng và đứng hàng thứ 3 trong 50 nước đã đầu tư vào Việt Nam. Tại sao?
Tại vì Đài Loan đã áp dụng chiến thuật đầu tư truyền thống của họ trong nhiều thế kỷ qua, đó là Chiến thuật ĐẦU TƯ BẰNG PHONG BÌ. Từ anh Bí Thư Đảng Ủy Xã đến anh Bộ Trưởng, Thủ Tướng hay Ủy Viên Bộ Chính Trị, cứ theo cấp bậc, quyền lực, phần hành... mà quyết định bề dày của phong bì. Cầm phong bì rồi là ký, chẳng cần luật lệ gì cả. Cứ nhìn lại vụ Formosa là thấy ngay.
2.- Xử dụng phong bì khi xin giấy phép
Ngày 15.1.2008, Công ty Formosa Hà Tĩnh gởi đơn xin đầu tư ở Vũng Án thì ngày 16.1.2008, tức chỉ một ngày sau, ông Võ Kim Cự, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Hà Tĩnh, đã đích thân làm tờ trình xin Thủ tướng cho phép Công ty Formosa đầu tư, không cần điều tra gì cả. Ông ta lại ký hợp đồng cho thuê đất 70 năm thay vì 50 năm như luật định. Formosa đã đưa bao nhiêu mà ông Cự làm nhanh như thế? 50.000 USD? 100.000 USD? Khó mà biết được.
Chưa đầy 2 tháng sau, ngày 4.3.2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký công văn mang số 323/TTg-QHQT đồng ý cho thành lập Công ty Formosa Hà Tĩnh và khai thác cảng Sơn Dương. Ngày 21.5.2008, Công ty nộp đơn xin chấp nhận Dự án đầu tư nhà máy liên hợp thép và Dự án cảng nước sâu Sơn Dương. Mới hơn nữa tháng, ngày 6.6.2008 Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải đã vội ký Công văn số 869/TTg-QHQT đồng ý cho Công ty Formosa Hà Tĩnh thực hiện hai dự án nói trên.
Công ty Formosa là một công ty chuyên sản xuất đồ nhựa, chưa có kinh nghiệm gì về sản xuất thép, tại sao ký giấy phép nhanh như thế? Câu trả lời rất giản dị: PHONG BÌ!
3.- Xử dụng phong bì khi đem chất thải đi chôn
Khi thực hiện, Formosa cũng đã dùng PHONG BÌ để được các viên chức địa phương trợ giúp làm bậy, bất chấp luật pháp và mọi hậu quả: Khoảng 14 tấn chất thải bùn đen của Formosa được chôn trong công viên tại tổ dân phố Hưng Thịnh (phường Sông Trí) và bãi rác ở xã Kỳ Tân (huyện Kỳ Anh) được nói là để “trồng cây cảnh”. Khi bị tố cáo, ngày 13.7.2016 ông Nguyễn Thượng Hiền, Cục trưởng Quản lý Chất thải và Cải thiện Môi trường cùng một số cán bộ đã tới tổ dân phố Hoàng Trinh khảo sát hiện trường chôn 100 tấn chất thải từ lò luyện cốc của Công ty Formosa. Ngoài 100 tấn chất thải này, Công ty còn khoảng hơn 700 tấn chất thải bùn ép đang được lưu kho, chưa được xử lý. Sẽ đổ đi đâu?
Chất thải Formosa chôn khắp nơi |
4.- Sự an toàn khi nhận phong bì
Cở như ông Võ Kim Cự làm đảng viên suốt một đời, kiếm được khoảng 100.000 USD đâu phải dễ? Nay tự nhiên “của trên trời rơi xuống”, ngu gì mà không lượm? Mai sau dù có thế nào, cũng còn có một chút để hưởng già. Số mạng của dân và đất nước sẽ ra sao chẳng cần biết làm gì. Đó là tâm trạng chung của các cán bộ khi nhận Phong Bì của Đài Loan.
Người Tàu có truyền thống là khi đã đưa Phong Bì rồi thì không còn nghĩ đến nó nữa. Giả thiết người nhận phong bì có lật lọng hay làm không được việc họ cũng chẳng đòi lại, trả thù hay đi tố cáo, vì không muốn làm hỏng chuyện lớn, họ chỉ "cô lập" người bất tín. Do đó, nhận phong bì của Đài Loan rất an toàn.
Giáo dân Nghệ An biểu tình đòi đóng cửa Formosa |
NGĂN CHẬN KẾ HOẠCH TÀN PHÁ QUÊ HƯƠNG
Dưới đầu đề “Phải dừng dự án "bức tử sông Hậu"!, báo Tuỏi Trẻ của Nhà Nước ngày 27.6.2016 đã báo động: “Các chuyên gia bày tỏ lo lắng với Tuổi Trẻ về việc triển khai nhà máy giấy của Công ty TNHH giấy Lee & Man Việt Nam (của Hongkong)“bức tử sông Hậu” ở Châu Thành, Hậu Giang”.
Ông Lê Bảo Kỳ, một hộ dân nuôi cá điêu hồng và cá chép bằng lồng bè Tân Phú, Cần Thơ, đã nói: “Nếu sông bị bức tử thì cuộc sống của người dân ở đây cũng bị bức tử theo. Gặp phóng viên tới đây chúng tôi mừng lắm vì nỗi bức xúc này không biết nói ở đâu. Liệu bây giờ nhà máy đã xây dựng vậy rồi có dừng lại được không, nếu được thì chúng tôi mừng lắm...”
Ai chẳng biết vừa phát triển vùa bảo vệ môi trường là chuyện khó, nhưng không quốc gia nào được quyền hy sinh môi trường để “PHÁT TRỄN BẰNG MỌI GIÁ”, vì chủ trương đó sẽ tàn phá dất nước không phải chỉ hôm nay mà nhiều thế hệ tiếp theo nữa. Tuy nhiên, các tập đoàn tham nhũng không quan tâm đến chuyện đó, họ chỉ muốn vơ vét cho đầy túi, sống chết mặc bây. Vụ Formosa Hà Tĩnh là một thí dụ điển hình trước mắt.
Nhưng thời đại hành động độc đoán với những thủ đoạn gian trá như thời cải cách ruộng đất không còn nữa vì dân trí ngày nay đã được nâng cao và guồng máy thông tin điện tử toàn cầu sẽ đua ra ánh sáng tất cả mọi sự gian trá.
Sáng Chúa Nhật 24.7.2016, gần 2000 giáo dân Giáo xứ Phú Yên và Song Ngọc ở Nghệ An đã biểu tình yêu cầu nhà cầm quyền phải đóng cửa Formosa và trả lại biển sạch cho dân. Mọi người và mọi nơi phải cùng dân chúng ở Hà Tĩnh và Nghệ An đứng lên ngăn chận kế hoạch tàn phá quê hương này.
Lữ Giang, Ngày 28.7.2016
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Ghế Văng Sân Trường
Nguyễn Đức Cung
20:58 28/07/2016
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Nhìn hoa phưọng tím,
ghế sân trường
Lâng lâng mong ước
ngày hè qua mau
Để mình lại được thấy nhau….
(nđc)