Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 11/07: Hành Trang và Sứ Vụ Môn Đệ Đức Ki-tô – Lm. Antôn Nguyễn Thế Nhân, SSS
Giáo Hội Năm Châu
00:51 10/07/2024
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu,
Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn. “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em. Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn được xử khoan hồng hơn thành đó.
Đó là lời Chúa
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:42 10/07/2024
16. Cầu nguyện là để được ân điển như làm việc để lập được công lao.
(Thánh Thomas Aquinas)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:45 10/07/2024
3. CHẾ NHẠO CHỦ NHÀ BỦN XỈN
Có một người làm tiệc thết đãi thầy giáo dạy học cho con mình, nhưng trên bàn tiệc món ăn rất ít.
Hôm ấy trời mưa lớn nên lối đi trơn trợt, có đứa bé bưng thức ăn lên thì bị té ngã làm hư cái mâm, chủ nhà chửi mắng om sòm, đứa bé nói:
- “Tại đường quá trơn.”
Chủ nhà nói:
- “Nếu mày có thể viết chữ “trơn 滑” thì khỏi bị đánh.”
Đứa bé trả lời:
- “Chữ ‘trơn’ 『滑』 phía trên có một ngôi sao, ở giữa có một cái chấm, phía dưới giống như cái ngó sen, một bên có cái xương lớn.”
Chủ nhà nghe đứa bé không những nói ra chữ “trơn 滑”, mà lại còn mượn chữ này để chế nhạo ông ta là bủn xỉn nên đỏ mặt tía tai.
(Nhã Ngược)
Suy tư 3:
Làm hư cái mâm thì tội cũng không lớn bằng người keo kiết bủn xỉn với tha nhân, bởi vì cái mâm chỉ là một thứ vật chất có tiền là mua được ngay, nhưng keo kiết bủn xỉn với tha nhân thì làm hư cái tình cảm sâu xa trong tâm hồn giữa người với nhau.
Có hai hạng nhà giàu: một hạng thì rất rộng tay ban phát giúp đỡ tha nhân, bởi vì họ luôn tự biết rằng Thiên Chúa ban cho họ có của ăn của để là để họ thay mặt Ngài giúp đỡ tha nhân; một hạng khác thì rất bủn xỉn vì họ nghĩ rằng mình làm ăn đầu tắt mặt tối mới có tiền bạc, tội gì phải đem cho người khác chứ, thế là họ bủn xỉn với tha nhân và có khi keo kiết với cả bản thân của mình, tức là không dám ăn gì mặc gì, bởi vì sợ tốn tiền...
Cái mâm không thể quý hơn tâm hồn, lại càng không thể làm cho người giàu có sống thọ, nhưng lòng quảng đại chính là phương thuốc làm cho người nghèo biết nở nụ cười, người đau khổ tìm thấy sự an ủi, và mọi người đều thấy Thiên Chúa hiện diện giữa họ qua hành vi quảng đại bác ái của mình.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Có một người làm tiệc thết đãi thầy giáo dạy học cho con mình, nhưng trên bàn tiệc món ăn rất ít.
Hôm ấy trời mưa lớn nên lối đi trơn trợt, có đứa bé bưng thức ăn lên thì bị té ngã làm hư cái mâm, chủ nhà chửi mắng om sòm, đứa bé nói:
- “Tại đường quá trơn.”
Chủ nhà nói:
- “Nếu mày có thể viết chữ “trơn 滑” thì khỏi bị đánh.”
Đứa bé trả lời:
- “Chữ ‘trơn’ 『滑』 phía trên có một ngôi sao, ở giữa có một cái chấm, phía dưới giống như cái ngó sen, một bên có cái xương lớn.”
Chủ nhà nghe đứa bé không những nói ra chữ “trơn 滑”, mà lại còn mượn chữ này để chế nhạo ông ta là bủn xỉn nên đỏ mặt tía tai.
(Nhã Ngược)
Suy tư 3:
Làm hư cái mâm thì tội cũng không lớn bằng người keo kiết bủn xỉn với tha nhân, bởi vì cái mâm chỉ là một thứ vật chất có tiền là mua được ngay, nhưng keo kiết bủn xỉn với tha nhân thì làm hư cái tình cảm sâu xa trong tâm hồn giữa người với nhau.
Có hai hạng nhà giàu: một hạng thì rất rộng tay ban phát giúp đỡ tha nhân, bởi vì họ luôn tự biết rằng Thiên Chúa ban cho họ có của ăn của để là để họ thay mặt Ngài giúp đỡ tha nhân; một hạng khác thì rất bủn xỉn vì họ nghĩ rằng mình làm ăn đầu tắt mặt tối mới có tiền bạc, tội gì phải đem cho người khác chứ, thế là họ bủn xỉn với tha nhân và có khi keo kiết với cả bản thân của mình, tức là không dám ăn gì mặc gì, bởi vì sợ tốn tiền...
Cái mâm không thể quý hơn tâm hồn, lại càng không thể làm cho người giàu có sống thọ, nhưng lòng quảng đại chính là phương thuốc làm cho người nghèo biết nở nụ cười, người đau khổ tìm thấy sự an ủi, và mọi người đều thấy Thiên Chúa hiện diện giữa họ qua hành vi quảng đại bác ái của mình.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Vô giá mà cho không
Lm. Minh Anh
14:51 10/07/2024
VÔ GIÁ MÀ CHO KHÔNG
“Các con đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy!”.
“Chúng ta không trả gì cho tình yêu của Chúa Cha, không trả gì cho sự cứu chuộc của Chúa Con, không trả gì cho bảy nguồn ân huệ của Chúa Thánh Thần; và cũng không trả gì cho sự yên nghỉ hạnh phúc đời đời của mình! Thật đáng kinh ngạc khi nghĩ đến những gì chúng ta hưởng và những gì chúng ta đáng chịu. Hãy gắn trên cửa địa ngục tấm bảng “Đáng Chịu”, trên cửa thiên đàng tấm bảng “Cho Không!”. Những gì Thiên Chúa dành cho chúng ta là vô giá mà cho không!” - Richard Baxter.
Kính thưa Anh Chị em,
“Những gì Thiên Chúa dành cho chúng ta là vô giá mà cho không!”. Lời Chúa hôm nay đặt ra câu hỏi, chỉ riêng Tin Mừng, giá phải trả của nó là bao nhiêu? Thật thú vị, không chỉ một mà là hai: giá ‘mua’, giá ‘bán!’. Phải ‘tốn’ bao nhiêu để ‘mua hay nhận’ Tin Mừng? Và phải ‘tính’ bao nhiêu để ‘bán hay trao tặng’ nó? Kết quả là một câu trả lời kép, nó ‘vô giá mà cho không’ nên liệu đó mà ‘mua’, liệu đó mà ‘bán!’.
Tin Mừng - Lời Thiên Chúa - không bao giờ được thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật. Nó vô giá! Chúa Giêsu nói, “Các con đã được cho không”, nghĩa là để có nó, bạn không phải trả bất cứ một thứ gì. Lời vô giá đó xem ra cũng đã từng được tặng không cho Israel. Qua Hôsê, Thiên Chúa nói với họ những lời không thể ngọt ngào hơn, “Khi Israel còn non trẻ, Ta đã yêu nó; từ Ai Cập, Ta đã gọi con Ta về”; “Ta đã tập đi cho Épraim, đã đỡ cánh tay nó”; “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” - bài đọc một. Israel không trả gì cả, tuyệt đối không, khi được chọn làm dân riêng của Ngài!
“Thì cũng phải cho không như vậy!”. Chúng ta không có quyền tính phí hoặc mong đợi bất cứ điều gì để cho đi một cái gì đó mà chúng ta không sở hữu. Sứ điệp cứu rỗi của Phúc Âm thuộc về Chúa Kitô; Ngài đến thế gian, tự do trao tặng nó miễn phí cho mọi người! Chúng ta cũng phải tặng miễn phí Tin Mừng cho người khác; hành động tặng trao này hàm chứa một đòi hỏi âm thầm, thúc giục hiến dâng chính mình. Vậy đâu là lời biện minh cho việc tự do ‘tặng trao’ này? Lý do chỉ vì chúng ta hưởng nhận từ Thiên Chúa tình yêu đời đời của Ngài, một tình yêu ‘vô giá mà cho không!’.
Anh Chị em,
“Phải cho không như vậy!”. Tại sao? Bởi lẽ, Tin Mừng không là gì khác ngoài một Con Người, Đức Giêsu Kitô! Ngài đến giữa chúng ta, trong chúng ta, cách nhưng không; thì đến lượt, chúng ta cũng phải trở thành món quà ‘cho không’ đối với người khác! Mọi sự bạn và tôi có, ơn tự nhiên, ơn siêu nhiên; từ đôi môi biết nói, đôi tai biết nghe; từ hơi thở tự nhiên, siêu nhiên; từ sự sống thể xác, tinh thần; từ những gì thấy được đến những gì vô hình; thời gian, không gian… mọi sự đều được ‘cho không’. Đó là “tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, sự cứu chuộc của Chúa Con, bảy nguồn ân huệ của Chúa Thánh Thần”. Nếu cảm nhận sâu sắc ân huệ của Thiên Chúa, chúng ta hẳn đã thay đổi cách sống! Hôm nay, hãy bắt đầu lại với những gì nhỏ nhất, một nụ cười, một sự hiện diện cảm thông, một ánh mắt nhân từ, một lời nói yêu thương… và nhất định thế giới sẽ đổi thay!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, những gì con hưởng, Chúa ‘cho không’; những gì con đáng chịu, Chúa ‘rước lấy’. Xin dạy con luôn sống trong tâm tình sám hối và tạ ơn!”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Các con đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy!”.
“Chúng ta không trả gì cho tình yêu của Chúa Cha, không trả gì cho sự cứu chuộc của Chúa Con, không trả gì cho bảy nguồn ân huệ của Chúa Thánh Thần; và cũng không trả gì cho sự yên nghỉ hạnh phúc đời đời của mình! Thật đáng kinh ngạc khi nghĩ đến những gì chúng ta hưởng và những gì chúng ta đáng chịu. Hãy gắn trên cửa địa ngục tấm bảng “Đáng Chịu”, trên cửa thiên đàng tấm bảng “Cho Không!”. Những gì Thiên Chúa dành cho chúng ta là vô giá mà cho không!” - Richard Baxter.
Kính thưa Anh Chị em,
“Những gì Thiên Chúa dành cho chúng ta là vô giá mà cho không!”. Lời Chúa hôm nay đặt ra câu hỏi, chỉ riêng Tin Mừng, giá phải trả của nó là bao nhiêu? Thật thú vị, không chỉ một mà là hai: giá ‘mua’, giá ‘bán!’. Phải ‘tốn’ bao nhiêu để ‘mua hay nhận’ Tin Mừng? Và phải ‘tính’ bao nhiêu để ‘bán hay trao tặng’ nó? Kết quả là một câu trả lời kép, nó ‘vô giá mà cho không’ nên liệu đó mà ‘mua’, liệu đó mà ‘bán!’.
Tin Mừng - Lời Thiên Chúa - không bao giờ được thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật. Nó vô giá! Chúa Giêsu nói, “Các con đã được cho không”, nghĩa là để có nó, bạn không phải trả bất cứ một thứ gì. Lời vô giá đó xem ra cũng đã từng được tặng không cho Israel. Qua Hôsê, Thiên Chúa nói với họ những lời không thể ngọt ngào hơn, “Khi Israel còn non trẻ, Ta đã yêu nó; từ Ai Cập, Ta đã gọi con Ta về”; “Ta đã tập đi cho Épraim, đã đỡ cánh tay nó”; “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” - bài đọc một. Israel không trả gì cả, tuyệt đối không, khi được chọn làm dân riêng của Ngài!
“Thì cũng phải cho không như vậy!”. Chúng ta không có quyền tính phí hoặc mong đợi bất cứ điều gì để cho đi một cái gì đó mà chúng ta không sở hữu. Sứ điệp cứu rỗi của Phúc Âm thuộc về Chúa Kitô; Ngài đến thế gian, tự do trao tặng nó miễn phí cho mọi người! Chúng ta cũng phải tặng miễn phí Tin Mừng cho người khác; hành động tặng trao này hàm chứa một đòi hỏi âm thầm, thúc giục hiến dâng chính mình. Vậy đâu là lời biện minh cho việc tự do ‘tặng trao’ này? Lý do chỉ vì chúng ta hưởng nhận từ Thiên Chúa tình yêu đời đời của Ngài, một tình yêu ‘vô giá mà cho không!’.
Anh Chị em,
“Phải cho không như vậy!”. Tại sao? Bởi lẽ, Tin Mừng không là gì khác ngoài một Con Người, Đức Giêsu Kitô! Ngài đến giữa chúng ta, trong chúng ta, cách nhưng không; thì đến lượt, chúng ta cũng phải trở thành món quà ‘cho không’ đối với người khác! Mọi sự bạn và tôi có, ơn tự nhiên, ơn siêu nhiên; từ đôi môi biết nói, đôi tai biết nghe; từ hơi thở tự nhiên, siêu nhiên; từ sự sống thể xác, tinh thần; từ những gì thấy được đến những gì vô hình; thời gian, không gian… mọi sự đều được ‘cho không’. Đó là “tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, sự cứu chuộc của Chúa Con, bảy nguồn ân huệ của Chúa Thánh Thần”. Nếu cảm nhận sâu sắc ân huệ của Thiên Chúa, chúng ta hẳn đã thay đổi cách sống! Hôm nay, hãy bắt đầu lại với những gì nhỏ nhất, một nụ cười, một sự hiện diện cảm thông, một ánh mắt nhân từ, một lời nói yêu thương… và nhất định thế giới sẽ đổi thay!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, những gì con hưởng, Chúa ‘cho không’; những gì con đáng chịu, Chúa ‘rước lấy’. Xin dạy con luôn sống trong tâm tình sám hối và tạ ơn!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk lên án cuộc tấn công vào bệnh viện nhi đồng: Đây là một tội lỗi kêu thấu đến trời cao
Đặng Tự Do
01:36 10/07/2024
Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk đã lên án cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga vào bệnh viện nhi đồng Okhmatdyt, và khẳng định “Đây là một tội lỗi kêu thấu đến trời cao”.
Hôm Thứ Hai, 08 Tháng Bẩy, quân xâm lược Nga đã tiến hành một cuộc tấn công hỏa tiễn lớn vào Ukraine. Đáng chú ý, một trong những tòa nhà của Bệnh viện Nhi đồng Okhmatdyt và một bệnh viện phụ sản tư nhân ở Kyiv đã bị trúng hỏa tiễn. Nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương đã gọi tội ác này của Nga là “tội lỗi kêu thấu đến trời cao”.
Ngài bày tỏ nỗi đau buồn sâu sắc: “Thật kinh hoàng khi chứng kiến những đứa trẻ đến điều trị tại trung tâm thận nhân tạo lại bị bọn tội phạm Nga giết hại một cách tàn nhẫn”. Theo ngài, nhiều người trong số họ đang cận kề cái chết - họ đang phải sử dụng thiết bị thông khí phổi nhân tạo. Nhiều người đang trải qua phẫu thuật vào thời điểm đó. Việc mất điện khiến mạng sống của họ gặp nguy hiểm.
“Nhân danh Thiên Chúa, với tất cả quyết tâm của mình, chúng tôi lên án tội ác chống lại loài người này”, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav nói. “Đây không chỉ là tội ác chống lại luật lệ và quy tắc của con người, cụ thể là các quy tắc chiến tranh quốc tế. Đây là một tội lỗi kêu thấu đến trời cao đòi phải trả thù, theo đạo đức Kitô giáo.”
Nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương kêu gọi tất cả những người có thiện chí cùng tham gia lên án tội ác và làm mọi cách có thể để ngăn chặn và truy tố kẻ gây hấn.
“Hôm nay chúng ta khóc với tất cả các nạn nhân, chúng ta cầu nguyện cho tất cả những người thiệt mạng, đặc biệt là những trẻ em vô tội. Chúng ta muốn bao bọc tất cả những người bị thương bằng tình yêu Kitô giáo của chúng ta, đặc biệt là tất cả những người đang bị tổn thương nhiều nhất”, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav nói.
Đức Tổng Giám Mục cũng bày tỏ lời chia buồn chân thành tới gia đình và bạn bè của những người đã thiệt mạng và bị thương, đồng thời cảm ơn các nhân viên y tế Ukraine vì sự cống hiến và tinh thần anh hùng của họ: “Chúng tôi thấy họ đã cứu sống ngay cả khi mặt họ chảy máu. Vào những khoảnh khắc này, các nhân viên y tế và tình nguyện viên đang đứng thành dây chuyền tháo dỡ những viên đá để cứu thêm những đứa trẻ có trái tim đang đập dưới đống đổ nát. “
“Lạy Chúa, nhờ quyền năng của Chúa, xin khơi dậy trong chúng con niềm hy vọng bảo vệ sự sống của những trẻ em và phụ nữ của chúng con. Lạy Thiên Chúa nhân từ, xin ban phúc lành cho mảnh đất Ukraine đang đau khổ của chúng con bằng nền hòa bình công chính của Ngài!”
Trước hậu quả của cuộc tấn công hỏa tiễn của quân xâm lược vào Kyiv, ngày 9 tháng 7 được tuyên bố là Ngày Quốc tang của Ukraine. Chỉ tính riêng ở Thủ đô Kyiv đã có 33 người thiệt mạng và 117 người bị thương.
Source:UGCC“This Is a Sin That Cries to Heaven for Vengeance”: His Beatitude Sviatoslav Condemns Russian Missile Attack on Okhmatdyt
Hôm Thứ Hai, 08 Tháng Bẩy, quân xâm lược Nga đã tiến hành một cuộc tấn công hỏa tiễn lớn vào Ukraine. Đáng chú ý, một trong những tòa nhà của Bệnh viện Nhi đồng Okhmatdyt và một bệnh viện phụ sản tư nhân ở Kyiv đã bị trúng hỏa tiễn. Nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương đã gọi tội ác này của Nga là “tội lỗi kêu thấu đến trời cao”.
Ngài bày tỏ nỗi đau buồn sâu sắc: “Thật kinh hoàng khi chứng kiến những đứa trẻ đến điều trị tại trung tâm thận nhân tạo lại bị bọn tội phạm Nga giết hại một cách tàn nhẫn”. Theo ngài, nhiều người trong số họ đang cận kề cái chết - họ đang phải sử dụng thiết bị thông khí phổi nhân tạo. Nhiều người đang trải qua phẫu thuật vào thời điểm đó. Việc mất điện khiến mạng sống của họ gặp nguy hiểm.
“Nhân danh Thiên Chúa, với tất cả quyết tâm của mình, chúng tôi lên án tội ác chống lại loài người này”, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav nói. “Đây không chỉ là tội ác chống lại luật lệ và quy tắc của con người, cụ thể là các quy tắc chiến tranh quốc tế. Đây là một tội lỗi kêu thấu đến trời cao đòi phải trả thù, theo đạo đức Kitô giáo.”
Nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương kêu gọi tất cả những người có thiện chí cùng tham gia lên án tội ác và làm mọi cách có thể để ngăn chặn và truy tố kẻ gây hấn.
“Hôm nay chúng ta khóc với tất cả các nạn nhân, chúng ta cầu nguyện cho tất cả những người thiệt mạng, đặc biệt là những trẻ em vô tội. Chúng ta muốn bao bọc tất cả những người bị thương bằng tình yêu Kitô giáo của chúng ta, đặc biệt là tất cả những người đang bị tổn thương nhiều nhất”, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav nói.
Đức Tổng Giám Mục cũng bày tỏ lời chia buồn chân thành tới gia đình và bạn bè của những người đã thiệt mạng và bị thương, đồng thời cảm ơn các nhân viên y tế Ukraine vì sự cống hiến và tinh thần anh hùng của họ: “Chúng tôi thấy họ đã cứu sống ngay cả khi mặt họ chảy máu. Vào những khoảnh khắc này, các nhân viên y tế và tình nguyện viên đang đứng thành dây chuyền tháo dỡ những viên đá để cứu thêm những đứa trẻ có trái tim đang đập dưới đống đổ nát. “
“Lạy Chúa, nhờ quyền năng của Chúa, xin khơi dậy trong chúng con niềm hy vọng bảo vệ sự sống của những trẻ em và phụ nữ của chúng con. Lạy Thiên Chúa nhân từ, xin ban phúc lành cho mảnh đất Ukraine đang đau khổ của chúng con bằng nền hòa bình công chính của Ngài!”
Trước hậu quả của cuộc tấn công hỏa tiễn của quân xâm lược vào Kyiv, ngày 9 tháng 7 được tuyên bố là Ngày Quốc tang của Ukraine. Chỉ tính riêng ở Thủ đô Kyiv đã có 33 người thiệt mạng và 117 người bị thương.
Source:UGCC
Vatican cấm Thánh lễ Latinh truyền thống theo phong tục đối với người hành hương ở Tây Ban Nha
Đặng Tự Do
01:44 10/07/2024
Vatican đã cấm cử hành Thánh lễ Latinh truyền thống tại Đền thờ Đức Mẹ Covadonga, một nghi thức thường diễn ra khi kết thúc cuộc hành hương Đức Mẹ hàng năm ở Tây Ban Nha.
Những người tổ chức cuộc hành hương lần thứ tư đã công bố lệnh cấm trong một bài đăng ngày 6 tháng 7 trên X: “Tại Tổng Giáo phận Oviedo, họ đã thông báo cho chúng tôi rằng họ đã nhận được chỉ thị từ Bộ Phụng tự nói rằng Thánh lễ truyền thống không được phép tổ chức ở Covadonga.”
Cuộc hành hương sẽ diễn ra từ ngày 27 đến 29 tháng 7, bắt đầu từ Oviedo. Đức Mẹ Kitô giáo giải thích trên trang web của mình rằng cuộc hành hương “được tổ chức bởi một nhóm giáo dân trung thành Công Giáo tận tâm cử hành Thánh lễ theo hình thức ngoại thường của nghi lễ Rôma”, còn được gọi là Thánh lễ Latinh truyền thống hoặc Thánh lễ Tridentinô.
“Mục đích của cuộc hành hương là thánh hóa linh hồn nhờ những ân sủng Chúa cầu xin, qua sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh, bằng việc cầu nguyện, hy sinh và hãm mình trong ba ngày. Trong những ngày hành hương này, chúng tôi đặc biệt ca ngợi Chúa, quê hương của chúng tôi và Đức Thánh Cha”, trang web viết.
Các nhà tổ chức lưu ý rằng cuộc hành hương khoảng 97 km “độc lập với bất kỳ viện, cộng đồng hoặc tổ chức tôn giáo nào”.
Theo Tổng Giáo phận Oviedo, việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria tại nơi mà ngày nay là đền thờ ở Covadonga bắt nguồn từ “nhiều năm trước trận chiến Covadonga”, trong đó các Kitô hữu do Vua Don Pelayo lãnh đạo đã đánh bại quân đội Hồi giáo xâm lược vào thế kỷ thứ tám sau Chúa Giáng Sinh.
“Hiện tại Covadonga đón hơn một triệu du khách trong suốt cả năm từ năm châu lục”, tổng giáo phận Tây Ban Nha cho biết trên trang web của mình về ngôi đền.
Do bị cấm dâng Thánh lễ Latinh Truyền thống tại vương cung thánh đường khi kết thúc cuộc hành hương, ban tổ chức cho biết trong thông báo của họ rằng năm nay Thánh lễ vào ngày thứ ba sẽ được cử hành tại trại hành hương vào buổi sáng trước khi kết thúc chặng cuối cùng. của cuộc hành hương. Thánh lễ này sẽ được tổ chức dưới hình thức ngoại thường.
“Hoàn cảnh này không phải là một lý do để buồn bã nhưng nên khuyến khích chúng ta kiên trì trong tình yêu và lòng sùng kính mà chúng ta tuyên xưng cho Hy tế Thánh Thể trong Giáo hội Mẹ Thánh”
Thay vì Thánh lễ, “khi đến Covadonga, việc hát Te Deum sẽ diễn ra trước khi Thánh Thể được trưng bày một cách long trọng và việc thánh hiến cho Đức Trinh Nữ sẽ diễn ra để kết thúc cuộc hành hương”, những người tổ chức cuộc hành hương Đức Mẹ Kitô giáo cho biết.
Source:Catholic News AgencyVatican prohibits customary Traditional Latin Mass for pilgrims in Spain
Những người tổ chức cuộc hành hương lần thứ tư đã công bố lệnh cấm trong một bài đăng ngày 6 tháng 7 trên X: “Tại Tổng Giáo phận Oviedo, họ đã thông báo cho chúng tôi rằng họ đã nhận được chỉ thị từ Bộ Phụng tự nói rằng Thánh lễ truyền thống không được phép tổ chức ở Covadonga.”
Cuộc hành hương sẽ diễn ra từ ngày 27 đến 29 tháng 7, bắt đầu từ Oviedo. Đức Mẹ Kitô giáo giải thích trên trang web của mình rằng cuộc hành hương “được tổ chức bởi một nhóm giáo dân trung thành Công Giáo tận tâm cử hành Thánh lễ theo hình thức ngoại thường của nghi lễ Rôma”, còn được gọi là Thánh lễ Latinh truyền thống hoặc Thánh lễ Tridentinô.
“Mục đích của cuộc hành hương là thánh hóa linh hồn nhờ những ân sủng Chúa cầu xin, qua sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh, bằng việc cầu nguyện, hy sinh và hãm mình trong ba ngày. Trong những ngày hành hương này, chúng tôi đặc biệt ca ngợi Chúa, quê hương của chúng tôi và Đức Thánh Cha”, trang web viết.
Các nhà tổ chức lưu ý rằng cuộc hành hương khoảng 97 km “độc lập với bất kỳ viện, cộng đồng hoặc tổ chức tôn giáo nào”.
Theo Tổng Giáo phận Oviedo, việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria tại nơi mà ngày nay là đền thờ ở Covadonga bắt nguồn từ “nhiều năm trước trận chiến Covadonga”, trong đó các Kitô hữu do Vua Don Pelayo lãnh đạo đã đánh bại quân đội Hồi giáo xâm lược vào thế kỷ thứ tám sau Chúa Giáng Sinh.
“Hiện tại Covadonga đón hơn một triệu du khách trong suốt cả năm từ năm châu lục”, tổng giáo phận Tây Ban Nha cho biết trên trang web của mình về ngôi đền.
Do bị cấm dâng Thánh lễ Latinh Truyền thống tại vương cung thánh đường khi kết thúc cuộc hành hương, ban tổ chức cho biết trong thông báo của họ rằng năm nay Thánh lễ vào ngày thứ ba sẽ được cử hành tại trại hành hương vào buổi sáng trước khi kết thúc chặng cuối cùng. của cuộc hành hương. Thánh lễ này sẽ được tổ chức dưới hình thức ngoại thường.
“Hoàn cảnh này không phải là một lý do để buồn bã nhưng nên khuyến khích chúng ta kiên trì trong tình yêu và lòng sùng kính mà chúng ta tuyên xưng cho Hy tế Thánh Thể trong Giáo hội Mẹ Thánh”
Thay vì Thánh lễ, “khi đến Covadonga, việc hát Te Deum sẽ diễn ra trước khi Thánh Thể được trưng bày một cách long trọng và việc thánh hiến cho Đức Trinh Nữ sẽ diễn ra để kết thúc cuộc hành hương”, những người tổ chức cuộc hành hương Đức Mẹ Kitô giáo cho biết.
Source:Catholic News Agency
Vẻ đẹp khách quan của Thánh lễ Latinh truyền thống có tác dụng truyền giáo
J.B. Đặng Minh An dịch
02:10 10/07/2024
Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của tổng giáo phận San Francisco, có bài viết nhan đề “Objective Beauty of the Traditional Latin Mass Evangelizes”, nghĩa là “Vẻ đẹp khách quan của Thánh lễ Latinh truyền thống có tác dụng truyền giáo”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Khi Nhà thờ Đức Bà Paris bùng cháy vào ngày 15 tháng 4 năm 2019, cả thế giới cùng nhau thương tiếc sự mất mát của vẻ đẹp thiêng liêng, cổ kính, vĩ đại đã lay động trái tim và tâm hồn thậm chí vượt ra ngoài cả những người Công Giáo tôn thờ ở đó và những người Công Giáo trên toàn thế giới.
Khi đó tôi có ấn tượng rất mạnh với hiện tượng đó, và tôi phần nào có ấn tượng bởi một hiện tượng tương tự đang xảy ra hiện nay do có tin đồn rằng Rôma có kế hoạch đặt ra những hạn chế hơn nữa đối với việc cử hành Thánh lễ Công Giáo theo Sách lễ Rôma năm 1962 (thường được gọi là “ Thánh lễ Latinh” hay “Thánh lễ Latinh truyền thống”).
Vào ngày 3 tháng 7, hơn 40 cá nhân nổi tiếng của Anh đã ký một lá thư gửi Đức Thánh Cha Phanxicô, yêu cầu ngài duy trì quyền tham dự Thánh lễ bằng tiếng Latinh. Những người ký tên này bao gồm cả người Công Giáo và người không Công Giáo, người có đức tin cũng như người không có đức tin.
Giống như những người ký tên thỉnh nguyện năm 1971 nhằm bảo tồn Thánh lễ Latinh ở Anh, họ nhấn mạnh, ngoài những mối quan tâm về mặt tâm linh, còn mối quan tâm đối với di sản văn hóa của thế giới nếu Thánh lễ Latinh trở nên khó trải nghiệm hơn. Trong bản kiến nghị của riêng mình, những người ký tên đã trích dẫn ngôn ngữ của bản kiến nghị 'Agatha Christie' năm 1971 để khẳng định rằng “'nghi thức được đề cập, trong văn bản Latinh tuyệt vời của nó, cũng đã truyền cảm hứng cho những thành tựu vô giá... của các nhà thơ, triết gia, nhạc sĩ, kiến trúc sư, họa sĩ và các nhà điêu khắc ở mọi quốc gia và thời đại. Vì vậy, nó thuộc về nền văn hóa phổ quát.”
Đối với mối quan tâm này, các bên ký kết hiện tại bổ sung thêm tiếng nói của riêng mình: “Phụng vụ truyền thống là một 'thánh đường' của văn bản và cử chỉ, phát triển như những tòa nhà đáng kính đã làm trong nhiều thế kỷ. Không phải ai cũng đánh giá cao giá trị của nó và điều đó không sao cả; nhưng phá hủy nó có vẻ là một hành động không cần thiết và thiếu tế nhị trong một thế giới mà lịch sử có thể dễ dàng bị lãng quên.”
Họ nhấn mạnh: “Lời kêu gọi này, giống như lời kêu gọi trước đó, là 'hoàn toàn đại kết và phi chính trị'.... Chúng tôi cầu xin Tòa thánh xem xét lại bất kỳ hạn chế nào nữa đối với việc tiếp cận di sản văn hóa và tinh thần tráng lệ này.”
Việc một trong những người ký tên là nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng Bianca Jagger nhấn mạnh bản chất phi chính trị và phi ý thức hệ của yêu cầu. Chắc chắn “sự cứng nhắc” không thể giải thích được tình yêu tuôn trào phi thường và đa dạng như vậy đối với hình thức phụng vụ này.
Tôi lo ngại rằng ấn tượng sai lệch về những người yêu thích Thánh lễ Latinh đã hình thành do một số kẻ cực đoan trên internet. Như lời thỉnh cầu này và những lời thỉnh cầu trước đó chứng minh, Thánh lễ Latinh có một sức hấp dẫn toàn diện một cách kỳ lạ.
Hầu hết những người tham dự Thánh lễ Latinh cũng tham dự Novus Ordo (thường được gọi là Thánh lễ của Vatican II). Họ biết rằng trở thành người Công Giáo có nghĩa là chúng ta phải ở trong thuyền của Thánh Phêrô, cho dù biển cả có giông bão đến đâu. Họ không chống báng Thánh lễ mới nhưng biện hộ cho hình thức thánh lễ mà họ yêu thích, nó nuôi dưỡng và truyền cảm hứng cho họ - thực sự, đến mức họ chiếm một tỷ lệ hữu hình trong số những người tiếp tục trở thành người sáng tạo nghệ thuật và vẻ đẹp mới mà thế giới chia sẻ và ăn mừng. Đây là lý do tại sao Thánh lễ Latinh đã thu hút được sự ủng hộ của những người không có đức tin, những người hiểu được vai trò quan trọng của nó trong việc tạo dựng nền văn minh phương Tây.
Những người ký tên vào bản kiến nghị gần đây nhất bao gồm nhiều nhạc sĩ cổ điển vĩ đại - ca sĩ, nghệ sĩ piano, nghệ sĩ cello, nhạc trưởng và tất nhiên bao gồm cả Ngài James MacMillan, người dẫn đầu nỗ lực thỉnh nguyện này. MacMillan là nhà soạn nhạc cổ điển Công Giáo nổi tiếng nhất và được biểu diễn nhiều nhất trong thời đại chúng ta. Stabat Mater của ông được Vatican ủy quyền và biểu diễn tại Nhà nguyện Sistina.
Các nghệ sĩ quan trọng khác bao gồm tiểu thuyết gia, nhà biên kịch và đạo diễn phim nổi tiếng Julian Fellowes, người đã giành được Giải Oscar, Giải Emmy và Giải Tony. Fellowes có lẽ được biết đến nhiều nhất với vai trò là tác giả của loạt phim truyền hình dài tập Downton Abbey. Một người ký tên khác, Andrew Lloyd-Webber, có lẽ là người sáng tạo thành công nhất các vở nhạc kịch trong thời đại chúng ta (bao gồm Cats, Evita, Joseph and the Amazing Technicolor Dream Coat và vở kịch Passion hiện đại Jesus Christ Superstar).
Những người ký tên thỉnh nguyện “Agatha Christie” còn bao gồm các nghệ sĩ và nhân vật văn học nổi tiếng, như nhà thơ Robert Lowell, Robert Graves, David Jones và nhà thơ đoạt giải của Anh Cecil Day-Lewis; các tiểu thuyết gia như Graham Greene, Nancy Mitford, Djuna Barnes và Julian Green, cũng như nhà văn truyện ngắn nổi tiếng nhất người Á Căn Đình Jorge Luis Borges, người có tác phẩm văn học đã khai sinh ra phong trào “chủ nghĩa hiện thực ma thuật” vào cuối thế kỷ 20 ở người Tây Ban Nha các nhà văn ở Mỹ Châu. Và hơn thế nữa, những người ký kết bao gồm cả các Giám mục Anh giáo Robert Cecil Mortimer của Exeter và John Moorman của Ripon.
Có một kiến nghị tương tự vào năm 1966, do Christine Campo, dịch giả của Marcel Proust tổ chức (một ví dụ khác về một người Công Giáo bị dán nhãn là lạc hậu, nhưng là người hiểu giá trị của Thánh lễ Latinh trong việc bảo tồn nền văn minh ngay cả theo nghĩa thế tục), và gửi tới Giáo hoàng Phaolô Đệ Lục, yêu cầu rằng Thánh lễ Latinh ít nhất phải được duy trì trong các cộng đồng tu viện. Nó thu thập chữ ký của 37 nhà văn và nghệ sĩ, trong đó có hai người đoạt giải Nobel. Trong số những người ký tên có WH Auden, Evelyn Waugh, Jacques Maritain, tiểu thuyết gia người Pháp đoạt giải Nobel Francois Mauriac, nhà soạn nhạc Benjamin Britten và Gertrud von Le Fort, tác giả cuốn Đối thoại cổ điển của người Carmelites Công Giáo, tác phẩm sau này trở thành nền tảng của một vở opera của Francis Poulenc.
Công đồng Vatican II dạy chúng ta đọc các dấu chỉ thời đại. Một tấm biển hiện đang nhìn chằm chằm vào chúng ta bằng chữ cái lớn là: Vẻ đẹp truyền giáo.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà chúng ta cần tận dụng sức mạnh của cái đẹp để chạm đến tâm trí, trái tim và tâm hồn, vì vẻ đẹp có phẩm chất của một trải nghiệm thực tế không thể tránh khỏi, một trải nghiệm không thể tranh cãi. Câu châm ngôn văn hóa hiện nay, “Bạn có sự thật của bạn và tôi có sự thật của tôi” dẫn đến việc từ chối thừa nhận thực tế vật lý và sinh học rõ ràng, trong khi vẻ đẹp phá vỡ quá trình nhận thức và chạm thẳng vào tâm hồn. Vẻ đẹp thánh thiêng nâng chúng ta ra khỏi thế giới thời gian và cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về những gì vượt thời gian, về những gì cuối cùng tồn tại, về mục tiêu và ngôi nhà cuối cùng của chúng ta là: thực tại của Thiên Chúa.
Lấy ví dụ của nhà làm phim Martin Scorsese. Bất chấp tất cả những lời chỉ trích về những mô tả gây tranh cãi của ông về các chủ đề tôn giáo, và thậm chí cả về chính Chúa của chúng ta, Scorsese là một nghệ sĩ hiện đại có trí tưởng tượng được hình thành bởi sự tương phản giữa những gì Thánh lễ Latinh truyền tải và văn hóa cứng rắn của đường phố New York. Như một hồ sơ trên tờ The New York Times năm 2016 đã nêu:
“Bên trong nhà thờ cũ, người ta thấy rõ rằng Scorsese chưa bao giờ quên theo đúng nghĩa đen - không phải sự huy hoàng của nhà thờ, cũng như sự hiện diện của đau khổ và cái chết, tội lỗi và sự cứu chuộc ở gần đó. Cha sở chỉ ra các chi tiết của cuộc trùng tu: các vị thánh được sơn lại theo màu nguyên thủy, đồ đạc trên bàn thờ bằng đá cẩm thạch và đồng thau được khôi phục lại như cũ trước nỗ lực hiện đại hóa vào năm 1970. Scorsese, người rời khu phố vào năm 1965, không cần người hướng dẫn. Anh ta biết từng centimet của nơi này. “Hãy tưởng tượng một cậu bé 8 tuổi đứng ngay đây trong chiếc áo choàng trắng, đọc kinh cầu nguyện bằng tiếng Latinh,” anh trầm ngâm thành tiếng. 'Chính là tôi.' … Tôi yêu cầu anh ta rút ra mối liên hệ giữa bộ phim năm 2016 của anh ta 'Sự im lặng' và những gì anh ta đang nhìn thấy trong nhà thờ cổ. Anh gõ nhẹ vào trán mình bằng hai ngón tay. 'Kết nối là nó chưa bao giờ bị gián đoạn. Nó liên tục. Tôi không bao giờ rời. Trong tâm trí tôi, tôi ở đây mỗi ngày.'
Trong một thời đại đầy lo âu và phi lý, vẻ đẹp là một nguồn lực hầu như chưa được khai thác để tiếp cận mọi người, đặc biệt là giới trẻ, với sứ điệp hy vọng của Tin Mừng. Còn rất nhiều việc phải làm nhưng việc tôn vinh và khuyến khích ơn gọi đặc biệt của các nghệ sĩ là một phần quan trọng của công việc lao động này.
Trong một thời đại phi Kitô giáo ngày càng trở nên khắc nghiệt đối với bất kỳ ý thức tôn giáo truyền thống nào, Giáo hội cần phải hoạt động trên mọi phương diện. Thánh lễ Latinh truyền thống và vẻ đẹp mà nó truyền cảm hứng là một trong những trụ cột đó. Việc ngay cả những người không tin cũng có thể cảm thấy bị thu hút bởi chính Thánh lễ Latinh Truyền thống đã chứng minh điểm này.
Tại sao lại ngăn chặn những phương tiện thành công trong số những phương tiện khác để kết nối với những linh hồn xa cách Chúa Kitô và đưa họ vào cuộc gặp gỡ yêu thương và cứu rỗi với Người trong sự hiệp thông với Hiền thê của Người, là Giáo hội?
Tôi tin tưởng và cầu nguyện rằng lời kêu gọi này của các nghệ sĩ và các nhân vật nổi tiếng khác của Vương Quốc Anh sẽ được nghe và nhìn thấy đúng như bản chất của nó: rằng, thay vì phân chia thế giới dưới danh nghĩa thuần khiết về ý thức hệ, nó là một cơ hội để mang lại cho thế giới cùng nhau vì cái đẹp - một con đường cuối cùng và chắc chắn sẽ dẫn đến Vẻ đẹp luôn cổ xưa, Vẻ đẹp luôn mới.
Source:National Catholic RegisterObjective Beauty of the Traditional Latin Mass Evangelizes
Khi Nhà thờ Đức Bà Paris bùng cháy vào ngày 15 tháng 4 năm 2019, cả thế giới cùng nhau thương tiếc sự mất mát của vẻ đẹp thiêng liêng, cổ kính, vĩ đại đã lay động trái tim và tâm hồn thậm chí vượt ra ngoài cả những người Công Giáo tôn thờ ở đó và những người Công Giáo trên toàn thế giới.
Khi đó tôi có ấn tượng rất mạnh với hiện tượng đó, và tôi phần nào có ấn tượng bởi một hiện tượng tương tự đang xảy ra hiện nay do có tin đồn rằng Rôma có kế hoạch đặt ra những hạn chế hơn nữa đối với việc cử hành Thánh lễ Công Giáo theo Sách lễ Rôma năm 1962 (thường được gọi là “ Thánh lễ Latinh” hay “Thánh lễ Latinh truyền thống”).
Vào ngày 3 tháng 7, hơn 40 cá nhân nổi tiếng của Anh đã ký một lá thư gửi Đức Thánh Cha Phanxicô, yêu cầu ngài duy trì quyền tham dự Thánh lễ bằng tiếng Latinh. Những người ký tên này bao gồm cả người Công Giáo và người không Công Giáo, người có đức tin cũng như người không có đức tin.
Giống như những người ký tên thỉnh nguyện năm 1971 nhằm bảo tồn Thánh lễ Latinh ở Anh, họ nhấn mạnh, ngoài những mối quan tâm về mặt tâm linh, còn mối quan tâm đối với di sản văn hóa của thế giới nếu Thánh lễ Latinh trở nên khó trải nghiệm hơn. Trong bản kiến nghị của riêng mình, những người ký tên đã trích dẫn ngôn ngữ của bản kiến nghị 'Agatha Christie' năm 1971 để khẳng định rằng “'nghi thức được đề cập, trong văn bản Latinh tuyệt vời của nó, cũng đã truyền cảm hứng cho những thành tựu vô giá... của các nhà thơ, triết gia, nhạc sĩ, kiến trúc sư, họa sĩ và các nhà điêu khắc ở mọi quốc gia và thời đại. Vì vậy, nó thuộc về nền văn hóa phổ quát.”
Đối với mối quan tâm này, các bên ký kết hiện tại bổ sung thêm tiếng nói của riêng mình: “Phụng vụ truyền thống là một 'thánh đường' của văn bản và cử chỉ, phát triển như những tòa nhà đáng kính đã làm trong nhiều thế kỷ. Không phải ai cũng đánh giá cao giá trị của nó và điều đó không sao cả; nhưng phá hủy nó có vẻ là một hành động không cần thiết và thiếu tế nhị trong một thế giới mà lịch sử có thể dễ dàng bị lãng quên.”
Họ nhấn mạnh: “Lời kêu gọi này, giống như lời kêu gọi trước đó, là 'hoàn toàn đại kết và phi chính trị'.... Chúng tôi cầu xin Tòa thánh xem xét lại bất kỳ hạn chế nào nữa đối với việc tiếp cận di sản văn hóa và tinh thần tráng lệ này.”
Việc một trong những người ký tên là nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng Bianca Jagger nhấn mạnh bản chất phi chính trị và phi ý thức hệ của yêu cầu. Chắc chắn “sự cứng nhắc” không thể giải thích được tình yêu tuôn trào phi thường và đa dạng như vậy đối với hình thức phụng vụ này.
Tôi lo ngại rằng ấn tượng sai lệch về những người yêu thích Thánh lễ Latinh đã hình thành do một số kẻ cực đoan trên internet. Như lời thỉnh cầu này và những lời thỉnh cầu trước đó chứng minh, Thánh lễ Latinh có một sức hấp dẫn toàn diện một cách kỳ lạ.
Hầu hết những người tham dự Thánh lễ Latinh cũng tham dự Novus Ordo (thường được gọi là Thánh lễ của Vatican II). Họ biết rằng trở thành người Công Giáo có nghĩa là chúng ta phải ở trong thuyền của Thánh Phêrô, cho dù biển cả có giông bão đến đâu. Họ không chống báng Thánh lễ mới nhưng biện hộ cho hình thức thánh lễ mà họ yêu thích, nó nuôi dưỡng và truyền cảm hứng cho họ - thực sự, đến mức họ chiếm một tỷ lệ hữu hình trong số những người tiếp tục trở thành người sáng tạo nghệ thuật và vẻ đẹp mới mà thế giới chia sẻ và ăn mừng. Đây là lý do tại sao Thánh lễ Latinh đã thu hút được sự ủng hộ của những người không có đức tin, những người hiểu được vai trò quan trọng của nó trong việc tạo dựng nền văn minh phương Tây.
Những người ký tên vào bản kiến nghị gần đây nhất bao gồm nhiều nhạc sĩ cổ điển vĩ đại - ca sĩ, nghệ sĩ piano, nghệ sĩ cello, nhạc trưởng và tất nhiên bao gồm cả Ngài James MacMillan, người dẫn đầu nỗ lực thỉnh nguyện này. MacMillan là nhà soạn nhạc cổ điển Công Giáo nổi tiếng nhất và được biểu diễn nhiều nhất trong thời đại chúng ta. Stabat Mater của ông được Vatican ủy quyền và biểu diễn tại Nhà nguyện Sistina.
Các nghệ sĩ quan trọng khác bao gồm tiểu thuyết gia, nhà biên kịch và đạo diễn phim nổi tiếng Julian Fellowes, người đã giành được Giải Oscar, Giải Emmy và Giải Tony. Fellowes có lẽ được biết đến nhiều nhất với vai trò là tác giả của loạt phim truyền hình dài tập Downton Abbey. Một người ký tên khác, Andrew Lloyd-Webber, có lẽ là người sáng tạo thành công nhất các vở nhạc kịch trong thời đại chúng ta (bao gồm Cats, Evita, Joseph and the Amazing Technicolor Dream Coat và vở kịch Passion hiện đại Jesus Christ Superstar).
Những người ký tên thỉnh nguyện “Agatha Christie” còn bao gồm các nghệ sĩ và nhân vật văn học nổi tiếng, như nhà thơ Robert Lowell, Robert Graves, David Jones và nhà thơ đoạt giải của Anh Cecil Day-Lewis; các tiểu thuyết gia như Graham Greene, Nancy Mitford, Djuna Barnes và Julian Green, cũng như nhà văn truyện ngắn nổi tiếng nhất người Á Căn Đình Jorge Luis Borges, người có tác phẩm văn học đã khai sinh ra phong trào “chủ nghĩa hiện thực ma thuật” vào cuối thế kỷ 20 ở người Tây Ban Nha các nhà văn ở Mỹ Châu. Và hơn thế nữa, những người ký kết bao gồm cả các Giám mục Anh giáo Robert Cecil Mortimer của Exeter và John Moorman của Ripon.
Có một kiến nghị tương tự vào năm 1966, do Christine Campo, dịch giả của Marcel Proust tổ chức (một ví dụ khác về một người Công Giáo bị dán nhãn là lạc hậu, nhưng là người hiểu giá trị của Thánh lễ Latinh trong việc bảo tồn nền văn minh ngay cả theo nghĩa thế tục), và gửi tới Giáo hoàng Phaolô Đệ Lục, yêu cầu rằng Thánh lễ Latinh ít nhất phải được duy trì trong các cộng đồng tu viện. Nó thu thập chữ ký của 37 nhà văn và nghệ sĩ, trong đó có hai người đoạt giải Nobel. Trong số những người ký tên có WH Auden, Evelyn Waugh, Jacques Maritain, tiểu thuyết gia người Pháp đoạt giải Nobel Francois Mauriac, nhà soạn nhạc Benjamin Britten và Gertrud von Le Fort, tác giả cuốn Đối thoại cổ điển của người Carmelites Công Giáo, tác phẩm sau này trở thành nền tảng của một vở opera của Francis Poulenc.
Công đồng Vatican II dạy chúng ta đọc các dấu chỉ thời đại. Một tấm biển hiện đang nhìn chằm chằm vào chúng ta bằng chữ cái lớn là: Vẻ đẹp truyền giáo.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà chúng ta cần tận dụng sức mạnh của cái đẹp để chạm đến tâm trí, trái tim và tâm hồn, vì vẻ đẹp có phẩm chất của một trải nghiệm thực tế không thể tránh khỏi, một trải nghiệm không thể tranh cãi. Câu châm ngôn văn hóa hiện nay, “Bạn có sự thật của bạn và tôi có sự thật của tôi” dẫn đến việc từ chối thừa nhận thực tế vật lý và sinh học rõ ràng, trong khi vẻ đẹp phá vỡ quá trình nhận thức và chạm thẳng vào tâm hồn. Vẻ đẹp thánh thiêng nâng chúng ta ra khỏi thế giới thời gian và cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về những gì vượt thời gian, về những gì cuối cùng tồn tại, về mục tiêu và ngôi nhà cuối cùng của chúng ta là: thực tại của Thiên Chúa.
Lấy ví dụ của nhà làm phim Martin Scorsese. Bất chấp tất cả những lời chỉ trích về những mô tả gây tranh cãi của ông về các chủ đề tôn giáo, và thậm chí cả về chính Chúa của chúng ta, Scorsese là một nghệ sĩ hiện đại có trí tưởng tượng được hình thành bởi sự tương phản giữa những gì Thánh lễ Latinh truyền tải và văn hóa cứng rắn của đường phố New York. Như một hồ sơ trên tờ The New York Times năm 2016 đã nêu:
“Bên trong nhà thờ cũ, người ta thấy rõ rằng Scorsese chưa bao giờ quên theo đúng nghĩa đen - không phải sự huy hoàng của nhà thờ, cũng như sự hiện diện của đau khổ và cái chết, tội lỗi và sự cứu chuộc ở gần đó. Cha sở chỉ ra các chi tiết của cuộc trùng tu: các vị thánh được sơn lại theo màu nguyên thủy, đồ đạc trên bàn thờ bằng đá cẩm thạch và đồng thau được khôi phục lại như cũ trước nỗ lực hiện đại hóa vào năm 1970. Scorsese, người rời khu phố vào năm 1965, không cần người hướng dẫn. Anh ta biết từng centimet của nơi này. “Hãy tưởng tượng một cậu bé 8 tuổi đứng ngay đây trong chiếc áo choàng trắng, đọc kinh cầu nguyện bằng tiếng Latinh,” anh trầm ngâm thành tiếng. 'Chính là tôi.' … Tôi yêu cầu anh ta rút ra mối liên hệ giữa bộ phim năm 2016 của anh ta 'Sự im lặng' và những gì anh ta đang nhìn thấy trong nhà thờ cổ. Anh gõ nhẹ vào trán mình bằng hai ngón tay. 'Kết nối là nó chưa bao giờ bị gián đoạn. Nó liên tục. Tôi không bao giờ rời. Trong tâm trí tôi, tôi ở đây mỗi ngày.'
Trong một thời đại đầy lo âu và phi lý, vẻ đẹp là một nguồn lực hầu như chưa được khai thác để tiếp cận mọi người, đặc biệt là giới trẻ, với sứ điệp hy vọng của Tin Mừng. Còn rất nhiều việc phải làm nhưng việc tôn vinh và khuyến khích ơn gọi đặc biệt của các nghệ sĩ là một phần quan trọng của công việc lao động này.
Trong một thời đại phi Kitô giáo ngày càng trở nên khắc nghiệt đối với bất kỳ ý thức tôn giáo truyền thống nào, Giáo hội cần phải hoạt động trên mọi phương diện. Thánh lễ Latinh truyền thống và vẻ đẹp mà nó truyền cảm hứng là một trong những trụ cột đó. Việc ngay cả những người không tin cũng có thể cảm thấy bị thu hút bởi chính Thánh lễ Latinh Truyền thống đã chứng minh điểm này.
Tại sao lại ngăn chặn những phương tiện thành công trong số những phương tiện khác để kết nối với những linh hồn xa cách Chúa Kitô và đưa họ vào cuộc gặp gỡ yêu thương và cứu rỗi với Người trong sự hiệp thông với Hiền thê của Người, là Giáo hội?
Tôi tin tưởng và cầu nguyện rằng lời kêu gọi này của các nghệ sĩ và các nhân vật nổi tiếng khác của Vương Quốc Anh sẽ được nghe và nhìn thấy đúng như bản chất của nó: rằng, thay vì phân chia thế giới dưới danh nghĩa thuần khiết về ý thức hệ, nó là một cơ hội để mang lại cho thế giới cùng nhau vì cái đẹp - một con đường cuối cùng và chắc chắn sẽ dẫn đến Vẻ đẹp luôn cổ xưa, Vẻ đẹp luôn mới.
Source:National Catholic Register
Đức Hồng Y Müller lên án Tượng Đức Trinh Nữ Maria Sinh nở được trưng bày tại Nhà thờ Áo
Đặng Tự Do
02:34 10/07/2024
Đức Hồng Y Gerhard Ludwig Müller, nguyên nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã lên án một bức tượng gây tranh cãi được trưng bày trong nhà thờ Linz ở Áo mô tả Đức Trinh Nữ Maria hạ sinh và mô tả nó là một hình thức “quảng cáo cho ý thức hệ nữ quyền vi phạm nguyên tắc thẩm mỹ tự nhiên.”
Một người không rõ danh tính đã chặt đầu bức tượng vài ngày sau khi nó được trưng bày. Bức tượng mang danh hiệu “Vương miện”, có thể hiểu là ám chỉ đến lễ đăng quang của Đức Trinh Nữ Maria. Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng đề cập đến thời điểm trong khi sinh mà đầu của em bé có thể được nhìn thấy lần đầu tiên khi ló ra khỏi âm đạo người phụ nữ.
Hình ảnh trong nhà thờ Linz thể hiện rõ ràng chính xác sự kiện này: Đức Trinh Nữ Maria dang rộng hai chân và đỉnh đầu của Hài nhi Giêsu ở giữa. Để tránh gây tranh cãi trước một hình ảnh quá sức thông tục, nếu không muốn nói là quá sức khiêu dâm, cả truyền hình và các phương tiện truyền thông khác thường bỏ qua hình ảnh giữa hai chân, tuy nhiên toàn bộ bức tượng vẫn được hiển thị cho tất cả những ai đến thăm nhà thờ Linz.
Giáo phận Linz cho biết tác phẩm này là của Esther Strauss, một nhà điêu khắc, được biết rộng rãi như một nhà hoạt động nữ quyền cực đoan. Giáo phận đã tỏ ra hằn học với những ai phê bình họ rằng không thể mang một bức tượng khiêu dâm như thế đến nhà thờ, và dán nhãn cho những người phê bình là bảo thủ. Trong một cử chỉ thách thức, họ quyết định vẫn để bức tượng trong nhà thờ; cho đến khi có một người vì phẫn nộ trước hình ảnh thông tục này đã quyết định chặt đầu bức tượng.
Đến khi đó, Giáo phận Linz mới nói với trang web kath.net rằng “tác phẩm điêu khắc sẽ vẫn ở trong phòng nghệ thuật Mariendom cho đến khi cuộc triển lãm kết thúc theo kế hoạch vào ngày 16 tháng 7, nhưng sẽ không được trưng bày. “Cửa đóng, đèn tắt.”
Đức Hồng Y Müller nói với kath.net: “Một lời phê bình về việc thay đổi nghệ thuật Kitô từ một phương tiện sùng đạo thành một quảng cáo cho ý thức hệ nữ quyền vi phạm ý thức tự nhiên về thẩm mỹ không thể bị phản bác bằng cách cáo buộc rằng người chỉ trích mình là quá thận trọng, hoặc đang chạy theo một hình thức giả thần học như một biểu hiện của một thái độ cực kỳ bảo thủ.”
“Nếu một bức tranh miêu tả sự ra đời của Chúa Giêsu xúc phạm các tín hữu và gây chia rẽ trong Giáo hội giữa những người tự cho mình là cấp tiến và những người bị chỉ trích là bảo thủ, thì mục đích của nghệ thuật Kitô giáo và đặc biệt là nghệ thuật thánh, là thể hiện vẻ đẹp vô hạn của Thiên Chúa trong các công việc của con người, đã bị bỏ sót”, Đức Hồng Y giải thích.
Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng: “Một bức tranh trình bày mầu nhiệm mặc khải về biến cố Giáng Sinh thực sự của Thiên Chúa như một con người phải nhằm mục đích củng cố niềm tin của người xem vào sự nhập thể của Thiên Chúa và tập trung vào Chúa Kitô và tôn thờ Ngài là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ”
Source:National Catholic RegisterCardinal Müller Condemns Statue of Virgin Mary Giving Birth Displayed in Austrian Cathedral
Một người không rõ danh tính đã chặt đầu bức tượng vài ngày sau khi nó được trưng bày. Bức tượng mang danh hiệu “Vương miện”, có thể hiểu là ám chỉ đến lễ đăng quang của Đức Trinh Nữ Maria. Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng đề cập đến thời điểm trong khi sinh mà đầu của em bé có thể được nhìn thấy lần đầu tiên khi ló ra khỏi âm đạo người phụ nữ.
Hình ảnh trong nhà thờ Linz thể hiện rõ ràng chính xác sự kiện này: Đức Trinh Nữ Maria dang rộng hai chân và đỉnh đầu của Hài nhi Giêsu ở giữa. Để tránh gây tranh cãi trước một hình ảnh quá sức thông tục, nếu không muốn nói là quá sức khiêu dâm, cả truyền hình và các phương tiện truyền thông khác thường bỏ qua hình ảnh giữa hai chân, tuy nhiên toàn bộ bức tượng vẫn được hiển thị cho tất cả những ai đến thăm nhà thờ Linz.
Giáo phận Linz cho biết tác phẩm này là của Esther Strauss, một nhà điêu khắc, được biết rộng rãi như một nhà hoạt động nữ quyền cực đoan. Giáo phận đã tỏ ra hằn học với những ai phê bình họ rằng không thể mang một bức tượng khiêu dâm như thế đến nhà thờ, và dán nhãn cho những người phê bình là bảo thủ. Trong một cử chỉ thách thức, họ quyết định vẫn để bức tượng trong nhà thờ; cho đến khi có một người vì phẫn nộ trước hình ảnh thông tục này đã quyết định chặt đầu bức tượng.
Đến khi đó, Giáo phận Linz mới nói với trang web kath.net rằng “tác phẩm điêu khắc sẽ vẫn ở trong phòng nghệ thuật Mariendom cho đến khi cuộc triển lãm kết thúc theo kế hoạch vào ngày 16 tháng 7, nhưng sẽ không được trưng bày. “Cửa đóng, đèn tắt.”
Đức Hồng Y Müller nói với kath.net: “Một lời phê bình về việc thay đổi nghệ thuật Kitô từ một phương tiện sùng đạo thành một quảng cáo cho ý thức hệ nữ quyền vi phạm ý thức tự nhiên về thẩm mỹ không thể bị phản bác bằng cách cáo buộc rằng người chỉ trích mình là quá thận trọng, hoặc đang chạy theo một hình thức giả thần học như một biểu hiện của một thái độ cực kỳ bảo thủ.”
“Nếu một bức tranh miêu tả sự ra đời của Chúa Giêsu xúc phạm các tín hữu và gây chia rẽ trong Giáo hội giữa những người tự cho mình là cấp tiến và những người bị chỉ trích là bảo thủ, thì mục đích của nghệ thuật Kitô giáo và đặc biệt là nghệ thuật thánh, là thể hiện vẻ đẹp vô hạn của Thiên Chúa trong các công việc của con người, đã bị bỏ sót”, Đức Hồng Y giải thích.
Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng: “Một bức tranh trình bày mầu nhiệm mặc khải về biến cố Giáng Sinh thực sự của Thiên Chúa như một con người phải nhằm mục đích củng cố niềm tin của người xem vào sự nhập thể của Thiên Chúa và tập trung vào Chúa Kitô và tôn thờ Ngài là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ”
Source:National Catholic Register
Một khóa học Công Giáo cấp tốc về Chính trị Hoa Kỳ
Vũ Văn An
21:52 10/07/2024
Auguste Meyrat,trên The Catholic Thing, ngày 9 tháng 7, 2024, cho hay năm ngoái, Đức Giáo Hoàng Phanxicô phàn nàn rằng Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã trở nên quá chính trị. Ngài tuyên bố, thay vì rao giảng đức tin chân chính, một số giáo sĩ lại sử dụng thẩm quyền tâm linh của họ để nói với các giáo đoàn cách bỏ phiếu và thậm chí vũ khí hóa các bí tích để gây áp lực cho các chính trị gia áp dụng một số chính sách nhất định.
Phải chi điều đó đúng. Trên thực tế, hầu hết các linh mục ngày nay đều tránh né chính trị, để mặc hầu hết người Công Giáo tự mình quyết định các vấn đề công cộng. Điều này đã dẫn đến sự chia rẽ chính trị rộng rãi giữa những người Công Giáo ngày nay, dẫn đến nhiều cuộc đụng độ giữa những người cấp tiến và những người bảo thủ trong những năm gần đây.
Rất có thể, nhiều khác biệt chính trị trong số này có thể được hòa giải và tránh được nhiều vụ bê bối công khai nếu người Công Giáo được thông tin tốt hơn. Họ có thể tìm thấy điểm chung với anh chị em của mình trong Chúa Kitô, bỏ phiếu cho các chính sách và chính trị gia tuân theo giáo huấn của Giáo hội, đồng thời ủng hộ các sáng kiến cải thiện phúc lợi vật chất và tinh thần của tất cả người Mỹ.
Để đạt được mục tiêu này, Catholic Vote, một tổ chức chuyên giáo dục người Công Giáo về các vấn đề chính trị ngày nay, đã xuất bản cuốn For God, Country, and Sanity: How Catholics Can Save America [Vì Chúa, Đất nước và Sự tỉnh táo: Người Công Giáo có thể cứu nước Mỹ như thế nào], một tuyển tập các tiểu luận đề cập đến một số tranh cãi mà cử tri phải đối mặt trong cuộc bầu cử năm nay. Nó có nội dung dành cho mọi độc giả và hơn thế nữa, nó tương đối ngắn (180 trang). Nhìn chung, đây chính là loại sách mà người Công Giáo nên đọc nếu họ hy vọng cứu được đất nước trước khi nó rơi vào tình trạng suy tàn cuối cùng.
Trong phần giới thiệu, chủ tịch của Catholic Vote, Brian Burch, đưa ra các vấn đề: “Một số cuộc bầu cử là những bước ngoặt lớn. Năm 2024 là một trong số đó.” Điều này là do tội phạm, nghèo đói, lạm dụng ma túy, di cư bất hợp pháp, tự tử và lạm phát đã tăng vọt trong vài năm qua trong khi tỷ lệ sinh, việc đi nhà thờ và niềm tin vào thể chế đã giảm mạnh. Burch nói rõ rằng đây có thể là cơ hội cuối cùng để người Công Giáo Mỹ và các đồng minh của họ lên tiếng và bỏ phiếu cho sự thay đổi.
Tiếp theo là hai tiểu luận sâu sắc của các cựu chiến binh của tạp chí First Things, Rusty Reno và Matthew Schmitz, phân tích bối cảnh chính trị ngày nay.
Reno lập luận rằng cả hai đảng chính trị đều bị mắc kẹt trong thế kỷ 20, tán thành “sự đồng thuận về 'xã hội mở' và 'nền kinh tế mở'." Cách tiếp cận này có ý nghĩa khi đối đầu với những kẻ phân biệt chủng tộc và các chế độ độc tài cộng sản, nhưng giờ đây nó đang phá hoại chính những cấu trúc và ý tưởng đã giúp người Mỹ phát triển: “đất nước chúng ta phải chịu sự tan rã của các định chế đạo đức, xã hội và chính trị cũng như nền tảng kinh tế vững chắc cho sự thịnh vượng của tầng lớp trung lưu đã bị xói mòn.” Reno nói, các chính trị gia và cử tri của họ cuối cùng nên từ bỏ sự đồng thuận cũ và áp dụng một “chính trị liên đới” nhấn mạnh “sự ổn định, trật tự và cảm thức ‘quê hương’ của người dân Mỹ”.
Trong “Hôn nhân đồng tính đã thay đổi nước Mỹ như thế nào”, Matthew Schmitz giải thích hệ tư tưởng giới tính, sự không khoan dung tôn giáo, sự phân cực chính trị và sự cực đoan ngày nay là hậu quả trực tiếp của vụ Obergefell kiện Hodges hợp pháp hóa “hôn nhân” đồng tính vào năm 2015. Theo Schmitz, điều này là bởi vì “Hôn nhân đồng tính là chiến thắng vĩ đại đầu tiên của nền văn hóa triệt tiêu,” mang lại lợi thế liên tục cho các nhà hoạt động cánh tả sẵn sàng chơi bẩn. Những người phản đối hôn nhân đồng tính không hề thua cuộc cho bằng họ bị “bịt miệng, sa thải hoặc buộc phải rời khỏi các định chế quan trọng”.
Chín năm sau, những người triệt tiêu tương tự giờ đây đã tạo nên Cánh tả cấp tiến, sử dụng các chiến thuật tương tự để gây áp lực cho những người theo chủ nghĩa tự do ôn hòa phải bước vào các chủ trương ngày càng cực đoan.
Các tiểu luận khác trong tập đề cập đến các vấn đề cụ thể hơn: sự thức tỉnh, chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa môi trường, giáo dục, nhập cư, nhà nước thao túng bí mật (deep state) và phá thai. Mỗi người thực hiện công việc quan trọng là lập hồ sơ rõ ràng về quan điểm của Giáo hội trong những vấn đề này. Tóm lại, Giáo hội luôn đứng về phía sự sống, hạnh phúc đích thực và lợi ích chung – ngay cả khi lý luận của Giáo hội có nhiều sắc thái, đánh giá cao sự phức tạp của những chủ đề này.
Hai trình thuật bản thân nổi bật: “Bị FBI bắt giữ” của Mark Houck; và “Người Công Giáo trong FBI: Liên bang đã vũ khí hóa chống lại Giáo hội như thế nào” của Kyle Seraphin. Cả hai tiểu luận đều minh họa cách FBI và Bộ Tư Pháp được huy động để chống lại các đối thủ chính trị. Houck là một nhà hoạt động ủng hộ sự sống và là cha của 7 đứa con, ngôi nhà của ông đã bị đặc vụ FBI đột nhập vào lúc bình minh. Mặc dù hợp tác và không gây ra mối đe dọa nào cho bất cứ ai, các đặc vụ FBI đã thô bạo bắt giữ anh ta và đe dọa anh ta nhiều năm tù vì một cuộc cãi vã nhỏ giữa anh ta với một nhân viên phá thai nhiều năm trước đó. Mặc dù anh ta đã thắng kiện và hiện đang tranh cử vào Quốc hội, nhưng nhiều người khác hiện đang phải ngồi tù vì tội phản đối việc phá thai một cách ôn hòa.
Là cựu đặc vụ FBI, Seraphin mô tả cách cơ quan này bắt đầu giám sát, quấy rối và đe dọa những người Mỹ tuân thủ luật pháp. Trong thời gian làm đặc vụ, Seraphin lần đầu tiên phản đối việc sử dụng vắc xin ngừa Covid-19, với lý do ngoại lệ về tôn giáo, và sau đó đã chỉ điểm cho FBI nhắm mục tiêu vào các bậc phụ huynh tại các cuộc họp hội đồng nhà trường, các nhà hoạt động ủng hộ sự sống và “những người Công Giáo theo chủ nghĩa truyền thống cấp tiến”. Vì đã lên tiếng, anh ta đã bị đình chỉ vô thời hạn mà không được trả lương trong khi FBI tiếp tục các hoạt động này.
Hai tiểu luận kết thúc với những khuyến nghị về cách giúp đưa những người Công Giáo trung thành tham gia chính trị – ngoài việc chỉ bỏ phiếu đơn thuần. Trong “Tin tức giả: Cách điều hướng phương tiện truyền thông”, phóng viên Mary Margaret Olohan của Daily Signal đưa ra những cách để người Công Giáo đọc tin tức mà không rơi vào tình trạng tuyên truyền. Và trong tiểu luận cuối cùng, “Vì vậy, bạn muốn trở thành một nhà hoạt động Công Giáo,” Peter Wolfgang đưa ra hướng dẫn thực tế về cách thực sự đấu tranh cho cuộc chiến tốt đẹp – bao gồm việc đọc bình luận Công Giáo từ The Catholic Thing, Crisis Magazine, và First Things – ba ấn phẩm tôi tình cờ viết cho.
Mặc dù cuốn sách còn chưa toàn diện – tôi sẽ đánh giá cao những ý kiến đóng góp nhiều hơn về kinh tế và văn hóa – nhưng nó đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng.
Quan trọng hơn, mỗi cuộc tranh luận đều diễn ra từ quan điểm lấy đức tin làm trung tâm chứ không phải quan điểm đảng phái. Và điều này là như nó phải vậy. Một trong nhiều lợi ích của niềm tin Kitô giáo là khả năng vượt qua đảng phái và tìm kiếm những giải pháp tôn trọng phẩm giá và giá trị của tất cả mọi người. Điều này khó ở mọi thời đại, đặc biệt là thời đại hiện nay.
Như các tiểu luận của For God, Country, and Sanity cho thấy, điều đó vẫn có thể - thực sự cần thiết - đối với tất cả người Mỹ, đặc biệt là người Công Giáo, để thử.
Phải chi điều đó đúng. Trên thực tế, hầu hết các linh mục ngày nay đều tránh né chính trị, để mặc hầu hết người Công Giáo tự mình quyết định các vấn đề công cộng. Điều này đã dẫn đến sự chia rẽ chính trị rộng rãi giữa những người Công Giáo ngày nay, dẫn đến nhiều cuộc đụng độ giữa những người cấp tiến và những người bảo thủ trong những năm gần đây.
Rất có thể, nhiều khác biệt chính trị trong số này có thể được hòa giải và tránh được nhiều vụ bê bối công khai nếu người Công Giáo được thông tin tốt hơn. Họ có thể tìm thấy điểm chung với anh chị em của mình trong Chúa Kitô, bỏ phiếu cho các chính sách và chính trị gia tuân theo giáo huấn của Giáo hội, đồng thời ủng hộ các sáng kiến cải thiện phúc lợi vật chất và tinh thần của tất cả người Mỹ.
Để đạt được mục tiêu này, Catholic Vote, một tổ chức chuyên giáo dục người Công Giáo về các vấn đề chính trị ngày nay, đã xuất bản cuốn For God, Country, and Sanity: How Catholics Can Save America [Vì Chúa, Đất nước và Sự tỉnh táo: Người Công Giáo có thể cứu nước Mỹ như thế nào], một tuyển tập các tiểu luận đề cập đến một số tranh cãi mà cử tri phải đối mặt trong cuộc bầu cử năm nay. Nó có nội dung dành cho mọi độc giả và hơn thế nữa, nó tương đối ngắn (180 trang). Nhìn chung, đây chính là loại sách mà người Công Giáo nên đọc nếu họ hy vọng cứu được đất nước trước khi nó rơi vào tình trạng suy tàn cuối cùng.
Trong phần giới thiệu, chủ tịch của Catholic Vote, Brian Burch, đưa ra các vấn đề: “Một số cuộc bầu cử là những bước ngoặt lớn. Năm 2024 là một trong số đó.” Điều này là do tội phạm, nghèo đói, lạm dụng ma túy, di cư bất hợp pháp, tự tử và lạm phát đã tăng vọt trong vài năm qua trong khi tỷ lệ sinh, việc đi nhà thờ và niềm tin vào thể chế đã giảm mạnh. Burch nói rõ rằng đây có thể là cơ hội cuối cùng để người Công Giáo Mỹ và các đồng minh của họ lên tiếng và bỏ phiếu cho sự thay đổi.
Tiếp theo là hai tiểu luận sâu sắc của các cựu chiến binh của tạp chí First Things, Rusty Reno và Matthew Schmitz, phân tích bối cảnh chính trị ngày nay.
Reno lập luận rằng cả hai đảng chính trị đều bị mắc kẹt trong thế kỷ 20, tán thành “sự đồng thuận về 'xã hội mở' và 'nền kinh tế mở'." Cách tiếp cận này có ý nghĩa khi đối đầu với những kẻ phân biệt chủng tộc và các chế độ độc tài cộng sản, nhưng giờ đây nó đang phá hoại chính những cấu trúc và ý tưởng đã giúp người Mỹ phát triển: “đất nước chúng ta phải chịu sự tan rã của các định chế đạo đức, xã hội và chính trị cũng như nền tảng kinh tế vững chắc cho sự thịnh vượng của tầng lớp trung lưu đã bị xói mòn.” Reno nói, các chính trị gia và cử tri của họ cuối cùng nên từ bỏ sự đồng thuận cũ và áp dụng một “chính trị liên đới” nhấn mạnh “sự ổn định, trật tự và cảm thức ‘quê hương’ của người dân Mỹ”.
Trong “Hôn nhân đồng tính đã thay đổi nước Mỹ như thế nào”, Matthew Schmitz giải thích hệ tư tưởng giới tính, sự không khoan dung tôn giáo, sự phân cực chính trị và sự cực đoan ngày nay là hậu quả trực tiếp của vụ Obergefell kiện Hodges hợp pháp hóa “hôn nhân” đồng tính vào năm 2015. Theo Schmitz, điều này là bởi vì “Hôn nhân đồng tính là chiến thắng vĩ đại đầu tiên của nền văn hóa triệt tiêu,” mang lại lợi thế liên tục cho các nhà hoạt động cánh tả sẵn sàng chơi bẩn. Những người phản đối hôn nhân đồng tính không hề thua cuộc cho bằng họ bị “bịt miệng, sa thải hoặc buộc phải rời khỏi các định chế quan trọng”.
Chín năm sau, những người triệt tiêu tương tự giờ đây đã tạo nên Cánh tả cấp tiến, sử dụng các chiến thuật tương tự để gây áp lực cho những người theo chủ nghĩa tự do ôn hòa phải bước vào các chủ trương ngày càng cực đoan.
Các tiểu luận khác trong tập đề cập đến các vấn đề cụ thể hơn: sự thức tỉnh, chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa môi trường, giáo dục, nhập cư, nhà nước thao túng bí mật (deep state) và phá thai. Mỗi người thực hiện công việc quan trọng là lập hồ sơ rõ ràng về quan điểm của Giáo hội trong những vấn đề này. Tóm lại, Giáo hội luôn đứng về phía sự sống, hạnh phúc đích thực và lợi ích chung – ngay cả khi lý luận của Giáo hội có nhiều sắc thái, đánh giá cao sự phức tạp của những chủ đề này.
Hai trình thuật bản thân nổi bật: “Bị FBI bắt giữ” của Mark Houck; và “Người Công Giáo trong FBI: Liên bang đã vũ khí hóa chống lại Giáo hội như thế nào” của Kyle Seraphin. Cả hai tiểu luận đều minh họa cách FBI và Bộ Tư Pháp được huy động để chống lại các đối thủ chính trị. Houck là một nhà hoạt động ủng hộ sự sống và là cha của 7 đứa con, ngôi nhà của ông đã bị đặc vụ FBI đột nhập vào lúc bình minh. Mặc dù hợp tác và không gây ra mối đe dọa nào cho bất cứ ai, các đặc vụ FBI đã thô bạo bắt giữ anh ta và đe dọa anh ta nhiều năm tù vì một cuộc cãi vã nhỏ giữa anh ta với một nhân viên phá thai nhiều năm trước đó. Mặc dù anh ta đã thắng kiện và hiện đang tranh cử vào Quốc hội, nhưng nhiều người khác hiện đang phải ngồi tù vì tội phản đối việc phá thai một cách ôn hòa.
Là cựu đặc vụ FBI, Seraphin mô tả cách cơ quan này bắt đầu giám sát, quấy rối và đe dọa những người Mỹ tuân thủ luật pháp. Trong thời gian làm đặc vụ, Seraphin lần đầu tiên phản đối việc sử dụng vắc xin ngừa Covid-19, với lý do ngoại lệ về tôn giáo, và sau đó đã chỉ điểm cho FBI nhắm mục tiêu vào các bậc phụ huynh tại các cuộc họp hội đồng nhà trường, các nhà hoạt động ủng hộ sự sống và “những người Công Giáo theo chủ nghĩa truyền thống cấp tiến”. Vì đã lên tiếng, anh ta đã bị đình chỉ vô thời hạn mà không được trả lương trong khi FBI tiếp tục các hoạt động này.
Hai tiểu luận kết thúc với những khuyến nghị về cách giúp đưa những người Công Giáo trung thành tham gia chính trị – ngoài việc chỉ bỏ phiếu đơn thuần. Trong “Tin tức giả: Cách điều hướng phương tiện truyền thông”, phóng viên Mary Margaret Olohan của Daily Signal đưa ra những cách để người Công Giáo đọc tin tức mà không rơi vào tình trạng tuyên truyền. Và trong tiểu luận cuối cùng, “Vì vậy, bạn muốn trở thành một nhà hoạt động Công Giáo,” Peter Wolfgang đưa ra hướng dẫn thực tế về cách thực sự đấu tranh cho cuộc chiến tốt đẹp – bao gồm việc đọc bình luận Công Giáo từ The Catholic Thing, Crisis Magazine, và First Things – ba ấn phẩm tôi tình cờ viết cho.
Mặc dù cuốn sách còn chưa toàn diện – tôi sẽ đánh giá cao những ý kiến đóng góp nhiều hơn về kinh tế và văn hóa – nhưng nó đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng.
Quan trọng hơn, mỗi cuộc tranh luận đều diễn ra từ quan điểm lấy đức tin làm trung tâm chứ không phải quan điểm đảng phái. Và điều này là như nó phải vậy. Một trong nhiều lợi ích của niềm tin Kitô giáo là khả năng vượt qua đảng phái và tìm kiếm những giải pháp tôn trọng phẩm giá và giá trị của tất cả mọi người. Điều này khó ở mọi thời đại, đặc biệt là thời đại hiện nay.
Như các tiểu luận của For God, Country, and Sanity cho thấy, điều đó vẫn có thể - thực sự cần thiết - đối với tất cả người Mỹ, đặc biệt là người Công Giáo, để thử.
Văn Hóa
Truyền thống Trí thức Công Giáo trong Thế kỷ Hai mươi, Phần Hai, Tín ngưỡng và Văn hóa: Chương mười một, J.R.R. Tolkien
Vũ Văn An
15:01 10/07/2024
Chương mười một (tiếp theo)
Cuốn sách hay nhất của thiên niên kỷ
Một nhà phê bình văn học trong tương lai — chẳng hạn hai nghìn năm nữa — bắt gặp tác phẩm của J. R. R. Tolkien và chỉ cần xác định niên đại của nó bằng bằng chứng nội bộ sẽ khó có thể thấy rằng nó cùng thời với những cuốn sách vĩ đại của Waugh hoặc Greene. Hơn nữa, nếu Sigrid Undset trình bày một bối cảnh sử thi trung cổ trong đó các yếu tố Công Giáo không thể nhầm lẫn, thì Tolkien sử dụng một số chất liệu anh hùng tương tự, nhưng theo phong cách tôn giáo ít rõ ràng hơn nhiều, để xây dựng nên những gì rất có thể là câu chuyện Công Giáo có ảnh hưởng và mạnh mẽ nhất được viết trong thế kỷ XX. Những độc giả nghi ngờ tính Công Giáo của câu chuyện thường được nhắc đến việc Tolkien trao đổi thư từ với Robert Murray, S.J., trong đó ông nhận xét rằng, “The Lord of the Rings [Chúa tể của những chiếc nhẫn] tất nhiên là một tác phẩm Công Giáo và tôn giáo căn bản; ban đầu là như vậy một cách vô thức, nhưng có ý thức trong quá trình sửa duyệt. Đó là lý do tại sao tôi đã không đưa vào, hoặc đã cắt bỏ, trên thực tế, tất cả các tham chiếu đến bất cứ thứ gì như 'tôn giáo', đến các giáo phái hoặc thực hành, trong thế giới tưởng tượng. Vì yếu tố tôn giáo được hấp thụ tan hòa vào câu chuyện và tính biểu tượng.” (52) Cũng trong bức thư đó, ông khen ngợi vị linh mục vì đã nhận thấy rằng Lady Galadriel được truyền cảm hứng từ những hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Nhưng sự kiện vấn đề được đặt ra hoàn toàn bắt nguồn từ sự kiện nguồn cảm hứng Công Giáo hoàn toàn không rõ ràng và tác phẩm được yêu thích rộng rãi đã vượt xa những khán giả Công Giáo đến mức nhiều người có lẽ hoàn toàn không biết cảm thức của chính tác giả về việc “yếu tố tôn giáo được hấp thụ tan hòa vào câu chuyện” ra sao.
Tuy nhiên, về sự lôi cuốn, không thể nghi ngờ gì. Kể từ khi xuất bản, Lord of the Rings [Chúa tể của những chiếc nhẫn] (LOTR) đã bán được hơn 150 triệu bản, được dựng thành một trong những loạt phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh và được bình chọn là cuốn sách có ảnh hưởng nhất thế kỷ XX trong một số cuộc thăm dò. Khách hàng của nhà bán sách trực tuyến Amazon đã chọn nó - với sự táo bạo vượt quá khả năng của họ - là cuốn sách hay nhất của thiên niên kỷ. Nếu chúng ta coi những lời của Tolkien về yếu tố tôn giáo của nó là đúng (như chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra bên dưới) và cũng lưu ý đến một sự kiện không thể phủ nhận rằng câu chuyện cũng được thông tri sâu sắc bởi các câu chuyện anh hùng của truyền thống trung cổ Bắc Âu, mà về nó Tolkien, trong tư cách một nhà ngữ học được đào tạo, vốn có kiến thức uyên thâm, thì một mầu nhiệm sẽ nảy sinh. Khác hoàn toàn với những gì chúng ta biết sau sự việc, làm thế nào mà một tác phẩm như vậy lại có sức hấp dẫn lớn như vậy ở Châu Âu, Châu Mỹ và trên toàn thế giới —một thế giới hiện đại, dù sao, phần lớn Tolkien vốn không ngưỡng mộ và thậm chí còn tìm cách phản đối, theo cách gián tiếp của mình? Câu trả lời duy nhất là sự hấp dẫn đối với một số yếu tố phổ quát của con người, cần được xem xét kỹ lưỡng hơn.
Tác phẩm của Tolkien xuất hiện từ một bối cảnh khác thường. Anh sinh ra ở Nam Phi với cha mẹ là người Anh, nhưng cha anh qua đời khi anh mới 4 tuổi. Mẹ anh trở về Anh và cùng với chị gái trở lại Công Giáo. Phần lớn gia đình xa lánh bà, nhưng bà quyết nuôi dạy con cái theo đạo Công Giáo. Một phần do những căng thẳng về tài chính và tình cảm, mẹ của Tolkien qua đời trong vòng vài năm, để lại hai cậu con trai của bà cho một người bạn của gia đình, Cha Francis Xavier Morgan, một linh mục thuộc dòng Oratorian, người đã từng làm việc dưới quyền của Đức Hồng Y Newman vĩ đại, nuôi nấng. Những ký ức xa lạ về châu Phi, tình yêu dành cho vùng nông thôn nước Anh ở ngoại ô Edgbaston và niềm đam mê sớm với việc tạo ra ngôn ngữ, tất cả đã cùng nhau hội tụ trong cuộc đời của Tolkien. Là một sinh viên xuất sắc, anh vào Oxford, nơi anh học ngôn ngữ, thêm tiếng Phạn, Gothic, tiếng Bulgary cổ, tiếng Litva, tiếng Nga, tiếng Anh cổ và trung cổ, tiếng Phần Lan, tiếng Bắc Âu cổ, tiếng Saxon cổ, tiếng Đức cổ và trung đại, tiếng Iceland, (53) và các ngôn ngữ kỳ lạ khác cùng với tiếng Latinh, Hy Lạp, Pháp, Đức, v.v. Nhưng giống như với người sẽ trở thành bạn của anh, C.S. Lewis, công việc học thuật của anh trở thành một lợi thế phụ trội trong các công trình sáng tạo của trí tưởng tượng liên quan tới các truyện nhân gian (saga) và truyện tình thơ mộng thời Trung cổ theo cách có thể nói với các độc giả đương thời.
Trước Tolkien và Lewis, đây có vẻ là một sự kết hợp khó xảy ra, nhưng nó đã chứng tỏ là một loại rượu bia mạnh. Làm sao như vậy được? Để bắt đầu, có một điều gì đó thời Trung cổ thuộc về một dạng sống đơn giản hơn và, đối với con mắt hiện đại, chân thực hơn. Tất nhiên, những người thời trung cổ cũng tinh vi và thông minh như những người hiện đại của họ trong các tầng lớp và ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, một số câu hỏi căn bản về sự hiện hữu của con người dường như xuất hiện ở dạng rõ ràng hơn trong hoàn cảnh của họ. Thật vậy, một số người đã chỉ trích Tolkien vì đã biến Trung Địa [Middle-earth]của ông thành một vương quốc kiểu Manikêô, trong đó mọi điều ác đều liên kết với Mordor và tất cả những điều tốt đẹp đều liên quan đến các hobbit của Quận Huyện [Shire] và các đồng minh của họ trong các trận chiến vĩ đại chống lại lực lượng của Sauron. Đây là một sai lầm, ngay cả khi chỉ xét về mặt sự kiện — vì những cám dỗ làm điều ác, không phải lúc nào cũng bị cưỡng lại, cũng xuất hiện giữa các nhân vật “tốt” trong Tolkien. Cuộc chiến giữa thiện và ác, như mọi khi, diễn ra trong trái tim mỗi con người. Nhưng các bên được xác định rõ hơn trong hầu hết các nền văn học hiện đại. Và lý do khiến nó hấp dẫn chúng ta có thể liên quan đến một nhận xét mà Christopher Dawson - người được Tolkien đọc và ngưỡng mộ - từng đưa ra: “Tại sao một nhà môi giới chứng khoán lại kém đẹp hơn một chiến binh Homer hay một tư tế Ai Cập? Bởi vì anh ta ít hòa nhập với cuộc sống, anh ta không phải là tất yếu, mà là ngẫu nhiên, gần như ký sinh?” (54) Theo thuật ngữ hiện đại, có một cuộc đấu tranh hiện sinh gay gắt đối với chiến binh hoặc tư tế hơn là đối với nhà điều hành tài chính, bất kể điều này có thể cần thiết ra sao trong nền kinh tế hiện đại.
Điều cũng có liên quan là sự thoải mái và giàu có, vốn là mục tiêu của hầu hết các hoạt động xã hội hiện đại, dù tự chúng vô hại, vẫn là một loại mặt nạ của những cuộc đấu tranh cuối cùng giữa thiện và ác, sự sống và sự chết, mà mỗi con người đều tham gia. Và chúng ta phải giải phóng bản thân khỏi sự theo đuổi độc quyền của cải vật chất trước khi có thể bước vào một thế giới rộng lớn hơn của ý nghĩa và sự thật nhân bản. Dường như đó là điều Tolkien muốn nói khi nhận xét về yếu tố tôn giáo được đưa vào các câu chuyện của ông. Lord of the Rings vừa là một câu chuyện phiêu lưu vừa là một cuộc hành hương. Cuộc hành trình của những người hobbit từ cuộc sống thoải mái ở Quận Huyện mục vụ của họ trải qua nhiều trận chiến, trong đó họ phải dấn thân vào việc bảo vệ quê hương và khôi phục Trung địa. Không có gì phải trốn tránh trách nhiệm này, ban đầu có thể lần ra dấu vết dễ dàng hơn một chút trong The Hobbit, tác phẩm mà Tolkien xuất bản năm 1937, một kiểu dạo đầu đơn giản hơn cho Chúa tể của những chiếc nhẫn.
Nhiều độc giả xem The Hobbit chỉ đơn thuần là một cuốn sách dành cho trẻ em, một câu chuyện thần tiên về một chủng tộc nhỏ gồm những hữu thể, giống như chính trẻ em, bị lôi cuốn vào một cuộc phiêu lưu điển hình liên quan đến việc giết chết một con rồng, Smaug, và giải phóng các dân tộc bị con rồng áp bức. Câu chuyện có thể được đọc theo cách đó: hàng triệu bậc cha mẹ đã đọc The Hobbit cho con cái họ trước khi đi ngủ, và lũ trẻ không gặp khó khăn gì khi theo dõi mạch truyện rõ ràng. Tolkien đánh giá sâu sắc truyện thần tiên, thứ mà ông không coi là một thể loại văn học kém cỏi hơn, mà đúng hơn, là một trong những thể loại văn học cho phép chúng ta thấy cảm thức kỳ diệu nguyên thủy mà con người thời kỳ đầu đã lưu giữ trong cách kể chuyện của chính họ. Trong một sự chiếm đoạt kỳ lạ cảm thức kỳ diệu đó, Tolkien có thể tái tạo cảm thức về sự vận hành siêu việt trong chính thế giới mà Christopher Dawson và nhiều người khác đã chỉ ra ở các dân tộc sơ khai. Và về mặt này, anh đã phục hồi một thứ có giá trị cho tất cả chúng ta. Không chỉ đơn thuần dành cho trẻ em. Vì vậy, có vẻ như không chỉ là thiết bị văn học ở Tolkien khi những hữu thể cổ xưa từ thuở sơ khai của thế giới lang bang đi vào những câu chuyện hoặc những người đàn ông biến hình thành động vật xuất hiện hoặc động vật nói chuyện hoặc cây cối tự bật gốc và đi lại để tham gia vào các cuộc đấu tranh vũ trụ lớn lao.
Trong bài giảng tuyệt vời của mình “Về truyện Thần tiên”, anh trả lời những người coi chúng là một thể loại văn học thấp kém hơn khi so sánh với tiểu thuyết “duy thực” hơn:
Có những mong muốn sâu sắc hơn: chẳng hạn như mong muốn được trò chuyện với những sinh vật sống khác. Mong muốn này, cổ xưa như Cuộc Sa Ngã, chủ yếu xây dựng trên việc nói chuyện của các loài thú và sinh vật trong các truyện thần tiên, và đặc biệt là sự hiểu biết kỳ diệu về cách nói thích hợp của chúng. Đây là gốc rễ, chứ không phải “sự nhầm lẫn” được gán cho tâm trí của những người đàn ông trong quá khứ không được ghi chép, một việc được cho là “vắng mặt của ý thức tách biệt chúng ta khỏi con thú”. Một cảm thức sống động về sự tách biệt đó rất cổ xưa; nhưng cũng là cảm thức thấy rằng đó là một sự chia cắt: một số phận kỳ lạ và một mặc cảm tội lỗi đè nặng lên chúng ta. Các tạo vật khác cũng giống như các cõi khác mà Con người đã cắt đứt các quan hệ với, và giờ đây chỉ nhìn thấy từ bên ngoài ở một khoảng cách xa, đang gây chiến với chúng, hoặc đang sống trong các điều khoản của một hiệp định đình chiến không thoải mái. (55)
Đó là một trong những bối cảnh lớn hơn trong đó những câu chuyện thần tiên truyền đạt điều gì đó cho chúng ta. Tuy nhiên, ngay cả ở mức độ trần tục hơn, Tolkien nói rằng chúng giúp giải cứu chúng ta khỏi một thế giới chật chội và “căn bệnh ngôn ngữ” chế nhạo việc viết theo trí tưởng tượng là không có thật. Căn bệnh đã thực sự đã giản lược cảm thức của chúng ta về thế giới thành một chủ nghĩa duy vật phẳng lặng, buồn tẻ và thực dụng: “Chính trong những câu chuyện thần tiên, lần đầu tiên tôi đã tiên đoán được sức mạnh của lời nói, và sự kỳ diệu của những thứ, chẳng hạn như đá, gỗ và sắt; cây và cỏ; ngôi nhà và đám cháy; bánh mì và rượu vang.” (56) Nhưng cả lời nói lẫn điều kỳ diệu đều đòi hỏi chúng ta phải trở nên “mê mẩn” một lần nữa để thấy—như Chesterton cũng thúc giục—điều kỳ diệu trong sự bình thường.
Tolkien nói: Không có công thức cơ học nào để tạo ra một thế giới mê hoặc. Nhà văn thành công phụ thuộc vào một “nghề thủ công của yêu tinh” nào đó mà anh ta không phải là chủ mà là đầy tớ, bởi vì tất cả các “sáng tạo phụ” thực sự đều là sự bắt chước Sáng thế và Đấng Tạo hóa và bắt nguồn từ chúng một cách thích đáng. Sức hấp dẫn lớn của anh đối với nhiều khán giả khác nhau rõ ràng bắt nguồn từ năng khiếu mê hoặc của anh khi kể những câu chuyện trong đó cuộc đấu tranh vượt thời gian của con người với thiện và ác đang diễn ra. Đó chắc chắn là những gì độc giả bắt gặp trong The Hobbit và trong The Lord of the Rings. Những người hobbit ở làng Hobbit [Hobbiton] đang sống một cuộc sống ấm cúng, thoải mái. Nhưng thế giới Thần tiên, giống như thế giới thực, không giúp chúng ta thoát khỏi những câu hỏi lớn về thiện và ác hay cuộc hành hương của cuộc sống trần thế mà mỗi người đều phải thực hiện. Cả hai thử thách đó đều đòi hỏi chúng ta phải học cách hy sinh bản thân vì một điều gì đó vĩ đại hơn chính mình—một sự thật mà mong muốn được an nhàn và nhiều triết lý hiện đại sẽ phủ nhận. Chủ nghĩa duy vật chắc hẳn sẽ nói rằng sự phong phú và đa dạng của mọi sự là tất cả những gì chúng ta có thể hy vọng trong cuộc sống và việc tận hưởng chúng càng nhiều càng tốt là mục tiêu duy nhất của mỗi cá nhân—có lẽ với điều kiện là chúng ta làm như vậy mà không gây hại cho người khác. Nhưng một câu chuyện giống như những câu chuyện mà Tolkien đã dựng lên đã bác bỏ sự hiểu biết ấy tận gốc rễ của nó và đưa ra sự thật rằng điều ngược lại mới xảy ra: chúng ta chỉ có thể tận hưởng một cách đúng đắn những điều tốt đẹp của sáng thế khi chúng ta không biến chúng thành mục tiêu, mà chỉ là sản phẩm của một hoạt động khác.
Mong muốn giàu có và thoải mái là điều mà Tolkien, trong The Hobbit, gọi là “căn bệnh của rồng”. Con rồng Smaug ngủ trên đống vàng bạc châu báu và những đồ vật quý giá khác mà nó cướp được từ các dân tộc xung quanh. Chúng không có ích gì thực sự đối với nó ngoài việc thỏa mãn lòng tham mù quáng của nó. Bằng một số dấu hiệu tinh tế nhưng không thể nhầm lẫn, câu chuyện cũng gợi ý rằng ngay cả sự thoải mái mà chúng ta nghĩ là một xung lực bình thường của con người, một thứ có thể yên nghỉ ở một nơi đáng yêu như Quận Huyện, cũng góp phần vào căn bệnh của rồng. Phương thuốc là phương thuốc mà truyền thống Kitô giáo luôn ủng hộ: “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm Nước của Người và sự công chính của Người, thì tất cả những thứ đó cũng sẽ thuộc về các ngươi” (Mt 6:33). Lệnh đó đặt mọi thứ vào đúng trật tự của chúng mà không phủ nhận, như một số tôn giáo thuần túy “tâm linh” có thể phủ nhận rằng các điều thiện tạo dựng là các điều thực sự.
Trong The Hobbit, Bilbo sẽ dần dần học được bài học này bằng cách trưởng thành hơn và mạo hiểm các điều thiện của chính mình và thậm chí cả mạng sống của mình để kẻ ác chính có thể bị đánh bại—và con người, người hobbit, người lùn, yêu tinh và những sinh vật khác chịu sự khủng bố của nó sẽ được giải thoát. Tuy nhiên, không giống như những nhân vật trung tâm trong các câu chuyện anh hùng, anh không làm điều này nhờ vào lòng dũng cảm và sức mạnh của mình—và trong Chúa tể của những chiếc nhẫn, cháu trai Frodo của anh cũng sẽ trải qua một trải nghiệm tương tự. Cả hai hobbit đều đặt mình vào tình thế nguy hiểm vì lợi ích, mặc dù điều đó đi ngược lại các đặc tính đáng kính của Quận Huyện, nơi mọi người đều biết rằng những cuộc phiêu lưu là "những điều không thoải mái". Những tạo vật yếu đuối như vậy chỉ thành công vì có các yếu tố “cơ hội” hoặc may mắn - thực sự là ơn Quan phòng - hiện diện. Trong câu chuyện, Tolkien dạy một cách tinh tế thông qua yếu tố này, chúng ta không phải là người hoàn toàn làm chủ số phận của chính mình. Không hề là một khía cạnh “Kitô giáo” xa lạ gắn liền với một câu chuyện anh hùng, sự hướng dẫn của ơn quan phòng là sự thể hiện thực tế điều mà bất cứ người biết suy tư nào cũng sẽ nhận ra là đúng với cuộc sống.
Như nhiều độc giả đã nhận thấy, chính vì Bilbo và sau này là Frodo và Sam Gamgee đã tha mạng cho tạo vật xảo quyệt nhưng đáng thương Gollum nên họ nhận được sự giúp đỡ vào những thời điểm quan trọng. Ở đây, người ta có thể lập luận rằng Tolkien đã giới thiệu một chủ đề Kitô giáo mà một số người có thể tranh cãi. Nhiều hành động của lòng cảm thương, lòng thương xót và lòng tốt được thực hiện mà không bao giờ được đáp lại. Và những kẻ gian ác, không biết ơn hay ăn năn, có thể tiếp tục tàn phá nếu chúng được tha. Nhưng cách xử lý chủ đề này của Tolkien rất khéo léo và thuyết phục vì “nghề thủ công yêu tinh” của anh không làm cho mối liên hệ trở nên minh nhiên hoặc trừu tượng. Và cuối cùng, có những trường hợp lòng cảm thương mang lại những hậu quả tốt ngoài ý muốn mà một “chủ nghĩa hiện thực” hạn hẹp không thể dự ứng được.
Nghề thủ công yêu tinh cũng xuất hiện theo cách hài hước Tolkien có thể để Bilbo được một nhóm người lùn tóm bắt như một “tên trộm”, người sẽ giúp chúng trong nỗ lực đánh bại Smaug. Trên thực tế, khả năng giúp đánh bại Smaug của anh này phụ thuộc vào việc anh ta "tình cờ" tìm thấy Chiếc nhẫn quyền lực mà Gollum từng nắm giữ, cho phép anh ta hành động mà không bị nhìn thấy. Rất khó có khả năng người hobbit tầm thường này sẽ sở hữu nguồn sức mạnh vô cùng quan trọng này, nhưng phù thủy Gandalf, một nhân vật thông thái và cổ xưa, đã giải thích điều đó rất lâu sau trong Chúa tể của những chiếc nhẫn cho Frodo mà không thực sự giải thích: “Có một thứ gì đó khác đang hoạt động, ngoài bất cứ thiết kế nào của Người chế tạo chiếc nhẫn. Tôi không thể diễn đạt rõ ràng hơn việc nói rằng Bilbo có định mệnh tìm ra Chiếc nhẫn, chứ không phải bởi người tạo ra nó. Trong trường hợp đó, bạn cũng có định mệnh có được nó. Và đó có thể là một suy nghĩ đáng khích lệ.” (57)
Sức mạnh này rất khác với sức mạnh được tìm kiếm thông qua máy móc kỹ nghệ (thứ mà Tolkien ghê tởm trong đời thực) mà một số sinh vật xấu xa ở Trung địa đã tạo ra. Anh nói, “Yêu tinh rất độc ác, dữ dằn và lòng dạ xấu xa. Chúng không tạo ra những thứ đẹp đẽ, nhưng... nhiều thứ khôn khéo” (58)—một sự ám chỉ rõ ràng đến những thế lực ma quỷ mà Tolkien đã thấy ngày càng lớn mạnh trên thế giới trong những năm trước, trong và sau Thế chiến thứ hai. Ngược lại, cuộc hành trình phụ thuộc vào sự hợp tác với các thế lực bí ẩn trong tự nhiên—trái đất, mặt trăng, ánh sáng, đá, chim chóc—và những gợi ý tế nhị trong các lời tiên tri cổ xưa.
Phần tử cuối cùng có thể có vẻ kỳ quặc, nhưng Tolkien, càng trở nên rõ ràng hơn sau khi anh qua đời, đã tạo ra cả một “thế giới thứ cấp” với thần thoại của riêng mình. Những bản văn chưa được xuất bản trước đó của anh về nguồn gốc của thế giới đó và những diễn biến bên trong nó đã xuất hiện dưới tựa đề History of Middle-earth [Lịch sử Trung địa] và làm đầy hàng tá tập sách. (59) Quan trọng nhất trong bối cảnh này là câu chuyện sáng tạo của anh, The Silmarillion, trong đó Đấng Tạo Hóa, Iluvatar, giống như Thiên Chúa trong Kinh thánh, phải đối phó với một thiên thần sa ngã, Melkor. Mô tả về thiên thần sa ngã lặp lại các chủ đề trong Kinh thánh nhưng chuyển chúng sang ngôn ngữ “âm nhạc” của sự sáng tạo vĩ đại của Iluvatar: “Nhưng khi chủ đề phát triển, Melkor nảy sinh ý tưởng đan xen những vấn đề do chính trí tưởng tượng của anh không phù hợp với chủ đề của Iluvatar; vì từ đó, anh tìm cách tăng thêm quyền lực và vinh quang của phần được giao cho mình. Nhưng Iluvatar nhận xét: “Và ngươi, Melkor, sẽ thấy rằng không có chủ đề nào có thể được thực hiện mà không có nguồn gốc sâu xa nhất của nó trong ta, cũng như bất cứ thứ âm nhạc nào có thể thay đổi được bất chấp ý muốn của ta. Vì kẻ mưu toan làm điều này phải chứng minh duy nhất công cụ của ta trong việc tạo ra những điều tuyệt vời hơn, mà bản thân họ không thể tưởng tượng được.” (60)
Tất cả điều này đều được thể hiện trong cả hai cuốn sách theo những cách không thể trình bày chi tiết ở đây. Nhưng các chi tiết được tăng cường theo cách độc đáo trong đó Tolkien, có lẽ là duy nhất trong số các tác giả hiện đại và phi hiện đại, có thể tạo ra cảm thức về một lãnh vực hiện hữu qua nhiều thời đại—“vực thẳm của thời gian”, như anh đôi khi gọi nó—trong đó câu chuyện chung về thiện và ác được diễn ra giữa nhiều câu chuyện cụ thể trong quá khứ và tiếp diễn trong tương lai. C. S. Lewis đã nói về khía cạnh này của “sự sáng tạo phụ” của bạn mình:
“Không hài lòng với việc tạo ra câu chuyện của riêng mình, anh tạo ra, với sự hoang phí gần như xấc xược, toàn bộ thế giới trong đó nó sẽ phải di chuyển, với thần học, thần thoại, địa lý, lịch sử, cổ sinh vật học, ngôn ngữ và trật tự của các sinh vật — một thế giới “đầy những tạo vật kỳ lạ không thể đếm được”. Nguyên những cái tên mà thôi là một bữa tiệc.... Bạn khó có thể đặt chân xuống bất cứ đâu... mà không khuấy bụi lịch sử. (61)
Sáng tạo phụ là sự bắt chước của Sáng tạo mà “chúng ta vẫn tạo ra theo quy luật mà chúng ta được tạo ra”, như Tolkien viết trong bài thơ “On Fairy Stories” [Về những câu chuyện thần tiên]. (62) Nhưng nó tránh được sự phạm thượng của người nghệ sĩ tự coi mình là người sáng tạo thuần túy, không phụ thuộc vào những gì Thiên Chúa đã cung cấp trước, cũng như nó bác bỏ chủ nghĩa duy vật buồn tẻ của thế giới hàng ngày ở phương Tây hiện đại.
Hoàn toàn ý thức được những người coi đây là chủ nghĩa thoát ly [escapism], Tolkien chấp nhận thuật ngữ này — và tôn vinh nó dưới một số hình thức:
Tại sao một người đàn ông nên bị khinh miệt nếu thấy mình đang ở trong tù, anh ta cố gắng ra ngoài và về nhà? Hoặc nếu, khi anh ta không thể làm như vậy, anh ta nghĩ và nói về những chủ đề khác ngoài những người cai ngục và những bức tường nhà tù? Thế giới bên ngoài không trở nên ít thực hơn bởi vì tù nhân không thể nhìn thấy nó. Khi sử dụng Lối thoát theo cách này, các nhà phê bình đã chọn sai từ ngữ, và hơn thế nữa, họ đang nhầm lẫn, không phải lúc nào cũng do lỗi chân thành, Cuộc vượt ngục của người tù với Cuộc Chạy trốn của kẻ đào ngũ. (63)
Hơn nữa, chính ngôn ngữ mà chúng ta hiện đang sử dụng phải được phục hồi để nắm bắt các chiều kích của thực tại đã mất ở đó, hiện chỉ bị làm ngơ do các giả định của chúng ta về thế giới.
Tolkien khá chuẩn bị để kết nối thế giới giả tưởng này, mà theo anh hiện hữu trong mọi nền văn hóa vì nó là một phần của bản chất con người, với câu chuyện của mọi câu chuyện trong Nhập Thể:
Nó có thể là một tia sáng xa xăm hoặc tiếng vọng của Tin Mừng trong thế giới thực... Các sách Tin Mừng chứa đựng một câu chuyện thần tiên, hoặc một câu chuyện thuộc loại lớn hơn bao hàm tất cả những gì cốt yếu của các truyện thần tiên. Chúng chứa đựng nhiều điều kỳ diệu—có tính nghệ thuật đặc biệt, đẹp đẽ và xúc động: “thần thoại” trong ý nghĩa hoàn hảo, tự lập của chúng;... và trong số những điều kỳ diệu là tai họa tốt lành (eucatastrophe) (*) vĩ đại nhất và đầy đủ nhất có thể hình dung được. Nhưng câu chuyện này đã đi vào Lịch sử và thế giới đệ nhất đẳng; mong muốn và khát vọng của sáng thế phụ đã được nâng lên thành sự hoàn thành của Sáng thế. Sự giáng sinh của Chúa Kitô là thảm họa tốt lành của lịch sử loài người. Sự Phục Sinh là thảm họa tốt lành của câu chuyện Nhập Thể. Câu chuyện này bắt đầu và kết thúc trong niềm vui. Nó nổi bật là “tính nhất quán bên trong của thực tại”. Không có câu chuyện nào được kể mà con người thích thấy là sự thật hơn, và không có câu chuyện nào được rất nhiều con người hoài nghi đã chấp nhận như là sự thật theo giá trị riêng của nó. Vì Nghệ thuật của nó có giọng điệu cực kỳ thuyết phục của Nghệ thuật Đệ nhất đẳng, tức là của Sáng Thế. Bác bỏ nó là dẫn đến buồn bã hoặc phẫn nộ.... Câu chuyện này là tối cao; và nó đúng sự thật. Nghệ thuật đã được kiểm chứng. Thiên Chúa là Chúa của các thiên thần và loài người—và của yêu tinh. Truyền thuyết và Lịch sử đã gặp nhau và hợp nhất. (64)
Tuy nhiên, ngay cả sau khi Chúa Kitô chiến thắng trên Thập giá, cái ác vẫn chưa bao giờ bị đánh bại trong cuộc sống này, và đó là lý do tại sao cuộc đấu tranh giữa thiện và ác vẫn tiếp diễn cho đến tận thế. Câu chuyện lặp lại với những nhân vật khác nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng nó là một câu chuyện bao giờ cũng là độc nhất và bao giờ cũng là phổ quát bởi những yếu tố vĩnh cửu cũng như tạm thời bên trong nó. Và một trong những chu kỳ lớn hơn của một cuộc đấu tranh như vậy tạo chất liệu cho Chúa tể những Chiếc nhẫn, diễn ra trong thế hệ hobbit tiếp theo, với cháu trai của Bilbo, Frodo, nay chiếm vị trí trung tâm trong bi kịch Trung Địa. Câu chuyện rất lớn - thường được xuất bản thành ba tập lớn: The Fellowship of the Ring [Hiệp hội Chiếc nhẫn], The Two Towers [Hai tòa tháp] và The Return of the King [Sự trở lại của nhà vua]. Mỗi cuốn chứa hàng chục cảnh và diễn biến đáng nhớ trong cốt truyện chung của một câu chuyện rất đơn giản: Frodo, với tư cách là “người mang nhẫn”, giờ đây, phải hành trình cùng với những người bạn đồng hành của mình (Gandalf, những người hobbit khác, yêu tinh, người lùn, đàn ông—trong hạng mục cuối cùng, đáng chú ý là Aragorn, vị vua thực sự của Trung Địa) từ Rivendell, quê hương của yêu tinh, đến Núi Doom, nơi anh ta sẽ phá hủy chiếc nhẫn bằng cách ném nó vào một kẽ hở rực lửa—do đó làm vô hiệu quyền lực của “Chúa tể Hắc ám” Sauron.
Độc giả bị mê hoặc bởi câu chuyện cảm thấy đây là một cuộc hành trình dài, gần như vô tận, nhưng toàn bộ câu chuyện về cơ bản chỉ diễn ra trong ba tháng, bắt đầu với việc rời hiệp hội khỏi Rivendell vào ngày 25 tháng 12 và kết thúc với việc phá hủy sau cùng chiếc nhẫn vào ngày 25 tháng 3. Tất nhiên, những ngày này theo truyền thống là Giáng sinh và Lễ Truyền tin (trong thời Trung cổ, cũng là ngày đóng đinh). Vì vậy, bằng cách giới thiệu ngày tháng một cách tinh tế, Tolkien đã bí mật ghi câu chuyện của mình vào lịch sử thánh thiêng của Kinh thánh. Nhưng đây không phải là một câu chuyện ngụ ngôn đơn giản—một hình thức có sự tương ứng một đối một giữa các sự thật Kitô giáo và những con người hoặc biến cố. Tolkien đang viết một loại “sáng thế phụ” lớn hơn nhiều, một loại mô phỏng thế giới phức tạp của chính Đấng Tạo hóa bằng cách dẫn nhập cảm thức về một quá khứ trải dài trở lại chính những lớp sương mù không thể xuyên thủng và một hiện tại phong phú với các biến cố tăng nhanh trong toàn bộ câu chuyện Sáng thế-Sa ngã-Cứu chuộc. Tất cả được thực hiện một cách mạnh mẽ đến mức những độc giả “hiểu” Lord of the Rings thấy mình thường xuyên đọc lại hoặc suy nghĩ lại cách họ hiểu câu chuyện.
Bất chấp tuyên bố gần như đúng của Tolkien rằng cuốn sách không phải là một câu chuyện ngụ ngôn, nó có một số mối liên hệ cụ thể với các vấn đề trong cuộc sống đương thời, đặc biệt là sự hối tiếc sâu sắc và sự bác bỏ nền văn minh kỹ nghệ cơ giới hóa hiện thời. Những sinh vật xấu xa ở Trung Địa là những kẻ tạo ra những cỗ máy mạnh mẽ—chính vì ma thuật hắc ám của chúng tìm quyền lực đối với người khác và sự thống trị có chủ ý. Chủ nghĩa duy kỹ nghệ, dù ở dạng tốt đẹp có thể dung thứ được hay dưới hình thức cực kỳ xảo quyệt, đòi hỏi một cách đối xử nào đó của chính thiên nhiên—sự sáng thế, nhìn từ một góc độ khác—như vật chất và năng lực đơn thuần cần được tái định hướng cho các mục đích tạo vật. Tất nhiên, mọi việc làm của con người đều tái lên khuôn thiên nhiên đến một mức nào đó cho mục đích của con người, nhưng trong Mordor của Tolkien, toàn bộ hệ tư tưởng coi thường trái đất dường như được tập hợp lại: không có sinh vật sống, không có cảnh quan thiên nhiên nào dường như có bất cứ giá trị nào — hoặc bất cứ sự khôn ngoan nào để dạy chúng ta ngoại trừ tính hữu ích của nó cho các mục đích lấy cảm hứng từ rồng của chúng ta. Tất nhiên, chủ nghĩa bảo vệ môi trường của Công Giáo ban đầu được ngụ ý trong cách trình bày này, nhưng cũng có mối liên hệ sâu sắc với học thuyết xã hội của Công Giáo, trong đó việc cai trị người khác là vì lợi ích của họ, không phải vì lợi ích của người cai trị. Và tất cả quyền lực, và do đó, quyền cai trị, đều phát xuất từ Thiên Chúa và phải chịu trách nhiệm trước mong muốn của Người đối với Trung Địa.
Nhưng đẹp đẽ như sự thật bao trùm này được trình bày trong Lord of the Rings, không có chương trình “trở về đất liền” hay phản hiện đại đơn giản nào xuất hiện trong câu chuyện. Đó là bởi vì câu chuyện liên quan đến sự tái hiện sâu sắc của trật tự được tạo ra từ sau sự xuất hiện của Trung Địa. Tolkien đã từng mô tả lịch sử loài người là “một 'thất bại lâu dài'—mặc dù nó chứa đựng một số điển hình hoặc thoáng nhìn về chiến thắng cuối cùng”, (65) và điều đó cũng mô tả chính xác cách thế của thế giới phụ tạo của anh. Cuộc chiến chống lại cái ác phải được tiến hành lặp đi lặp lại, với những chiến thắng và thất bại từng phần khác nhau, cho đến khi một số biến đổi diễn ra mà không thể thể hiện được trong chính Trung địa. Theo cách riêng của mình, Trung Địa phải chờ đợi Sự trở lại của Nhà vua, người không chỉ là Aragorn hay một số người cai trị công bằng khác, mà là một thế lực có thể giải quyết vấn đề gốc rễ: Iluvatar, Cha của Tất cả.
Dĩ nhiên, những sự thật như thế đã được bày tỏ nhiều lần trong suốt lịch sử Kinh Thánh, từ phần Kinh Thánh tiếng Hípri đến nền thần học hiện đại. Nhưng chúng thường chỉ xuất hiện dưới dạng ý tưởng, mặc dù các câu chuyện trong Cựu ước phản ảnh điều gì đó về lịch sử của những chiến thắng và thất bại từng phần mà Tolkien trình bày. Điều đáng chú ý nhất về Lord of the Rings là cách mà nó có thể thể hiện sự nhạy cảm của một chiến binh — sự cần thiết của một sự cứng rắn khi đối mặt với những thách thức tự nhiên và siêu nhiên — với cảm giác nhẹ nhàng, sâu sắc đầy mê hoặc đối với thiên nhiên và chúng sinh. Đồng thời, nó có thể kết hợp cả hai theo cách mà hai nhân vật của nó, giống như Chúa Kitô, vượt qua cái chết để đạt được những vinh quang vĩ đại. Gandalf Xám chết khi chiến đấu với một con rồng tại Cầu Khazaddûm và được phục sinh sau đó với sức mạnh thậm chí còn lớn hơn, bây giờ là Gandalf Trắng, vì sự hy sinh bản thân của ông. Con người Aragorn mạo hiểm đi qua Con đường của Người chết với hy vọng đến được đó kịp thời chiến thắng Mordor và trở thành một vị vua thực thụ. Những linh hồn “đã chết” xuất hiện cùng anh giúp lật ngược thế cờ thành thắng lợi. Nét đặc trưng trong đạo Công Giáo của Tolkien là cái chết và sự sống - cả hai phần của sự sáng thế - hợp tác trong việc giải quyết câu chuyện.
Tolkien không đưa ra nhiều bình luận về Giáo hội, nhưng một số bình luận quan trọng nhất của anh là trong Công đồng Vatican II. Giống như Evelyn Waugh và những người theo chủ nghĩa truyền thống khác, anh không thích những thay đổi này lắm, mặc dù anh bày tỏ sự ủng hộ đối với “những sự phát triển hoàn toàn mang tính 'đại kết'”. Nhưng trong cùng một bức thư, anh cảnh cáo con trai mình là Michael chống lại:
cuộc tìm kiếm “Thệ phản” trở ngược lại “sự đơn giản” và tính trực tiếp, tất nhiên, mặc dù nó chứa đựng một số động cơ tốt hoặc ít nhất là dễ hiểu, vẫn sai lầm và thực sự vô ích. Bởi vì “Kitô giáo nguyên thủy” hiện nay và bất chấp mọi “nghiên cứu” sẽ mãi mãi vẫn chưa được biết đến rộng rãi; bởi vì “tính nguyên thủy” không bảo đảm giá trị, và phần lớn chỉ phản ảnh sự thiếu hiểu biết. Lạm dụng nghiêm trọng là một yếu tố trong hành vi “phụng vụ” của Kitô giáo ngay từ đầu cũng như bây giờ. (Sự nghiêm khắc của Thánh Phaolô đối với hành vi Thánh Thể là đủ để cho thấy điều này!) Còn hơn thế nữa bởi vì “Giáo Hội của tôi” không được Chúa chúng ta dự định là tĩnh tụ hoặc ở lại trong thời thơ ấu vĩnh viễn; mà là một cơ thể sống động (giống như một thân cây) phát triển và thay đổi ở bên ngoài do sự tương tác giữa lịch sử và sự sống thần thiêng được thừa kế của nó — những hoàn cảnh đặc thù của thế giới mà nó được đặt vào. Không có sự giống nhau giữa “hạt cải” và cây trưởng thành. Đối với những người sống trong thời kỳ phát triển phân nhánh của nó, Cây là sự vật, vì lịch sử của một sinh vật sống là một phần cuộc sống của nó, và lịch sử của một vật thần thiêng là thánh thiêng. (66)
Quan điểm này rõ ràng có một số điểm tương đồng với các ý niệm “phát triển” của Newman, mà Tolkien có thể đã hấp thụ trong những năm đầu làm việc với Cha Morgan của Dòng Oratorian. Nhưng nó không giải quyết được nhiều câu hỏi về các bước đúng và sai trong lịch sử hoặc chỉ ra cách phân biệt chúng. Tuy nhiên, vẫn có một “khoa diễn giải liên tục” ở Tolkien, và, cũng bối rối như nhiều người vào thập niên 1960 bởi những biến động cả về thế tục lẫn tôn giáo, anh khuyên việc rước lễ—hàng ngày, nếu có thể—là cách chắc chắn duy nhất để giải quyết tình huống.
Có lẽ tiếng vang Kitô giáo sâu sắc nhất xuất hiện trong Lord of the Rings khi Frodo, người mang chiếc nhẫn và Sam, người bạn đồng hành trung thành của anh, gần Núi Doom, nơi họ hy vọng sẽ phá hủy chiếc nhẫn. Một đoạn văn được trích dẫn nhiều gói gọn một trong những chân lý nền tảng của toàn bộ Trung Địa. Khi Frodo và Sam đang nghỉ ngơi buổi tối gần kết thúc cuộc đấu tranh lâu dài của họ để đánh bại cái ác, Sam trầm ngâm: “Ở đó, nhìn trộm giữa đám mây bao phủ phía trên ngọn lửa tối cao trên núi, Sam thấy một ngôi sao trắng lấp lánh một lúc. Vẻ đẹp của nó đánh động trái tim anh, khi anh nhìn lên từ vùng đất bị bỏ hoang, và hy vọng đã quay trở lại với anh. Vì giống như một tia sáng, rõ ràng và lạnh lẽo, ý nghĩ xuyên thấu anh rằng cuối cùng Bóng tối chỉ là một thứ nhỏ bé và thoáng qua: có ánh sáng và vẻ đẹp cao cả vĩnh viễn nằm ngoài tầm với của nó.” (67) Loại hiểu biết sâu sắc này mạnh mẽ chính bởi vì nó xẩy ra ở phía bên kia của nhiều chết chóc và đau khổ, nghĩa là, nó là một viễn kiến hòa bình từng đối đầu với điều tồi tệ nhất mà thế giới từng cung ứng.
Nhưng những người hobbit của Tolkien sẽ không thành công trong nhiệm vụ, hơn bất cứ tạo vật nào khác của anh, vì công lao của chính họ. Sam dũng cảm cõng Frodo lên núi khi sức lực của người mang nhẫn đã suy yếu và anh không thể leo xa hơn. Nhưng có một bất ngờ lớn chờ đợi vào giây phút cuối cùng: Frodo sau ngần ấy thời gian không thể chia tay chiếc nhẫn. Ý chí của chính anh, giống như ý chí của tất cả các tạo vật ở Trung địa sa ngã không có khả năng tự giải thoát. Và chính Gollum - người đột ngột xuất hiện vào giây phút cuối cùng này - Gollum được cả Bilbo và Frodo tha mạng trong các tập trước mặc dù có nhiều tội ác, là người phạm tội cuối cùng. Anh ta cắn đứt ngón tay của Frodo và chiếc nhẫn cùng với nó: “'Quý giá, quý giá, quý giá!' Gollum kêu lên. 'Lòng thành kính của tôi! Hỡi Báu vật của tôi!’ Và với điều đó, ngay cả khi ngước mắt lên để hả hê với chiến thắng của mình, anh ta đã bước quá xa, ngã nhào, dao động một lúc trên bờ vực, và rồi anh ta ngã xuống với một tiếng thét chói tai. Từ vực thẳm vang lên tiếng than khóc cuối cùng của anh ta là Precious, và anh ấy đã ra đi.” (68)
Một người sáng tác kém hơn sẽ kết thúc câu chuyện ở đó, nhiệm vụ đã hoàn thành. Nhưng Tolkien tiếp tục viết thêm hai trăm trang nữa, ghi lại toàn bộ tác động của nó đối với vương quốc Aragorn, Quận Huyện, và chu kỳ tiến và lùi lớn hơn trong cuộc đấu tranh giữa thiện và ác. Và đối với Frodo và Sam. Người trước, sau mọi trải nghiệm của anh, phải mãi mãi đi đến Grey Lands. Người sau trở về Quận Huyện, nơi, sau khi chữa khỏi căn bệnh rồng đã xâm chiếm khi anh vắng mặt, anh kết hôn, lập gia đình và sống hạnh phúc—không phải mãi mãi, mà là trong hòa bình tạm thời dành cho anh và toàn bộ Quận Huyện nhờ trận chiến thành công chống lại việc nhập thể của cái ác gần đây nhất. Điều này thỏa mãn cảm thức của chúng ta rằng cái thiện phải chiến thắng trong một câu chuyện giả tưởng, nhưng nó cũng để toàn bộ câu chuyện nằm vững chắc trong điều được Tolkien thường gọi là "vực thẳm của thời gian", khoảng thời gian dài trước và sau cuộc sống trần thế của bất cứ tạo vật tử sinh nào mang lại cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về thể vĩnh cửu.
Trong nhiều thập niên, các độc giả đã bị mê hoặc bởi sức mạnh của Tolkien về vấn đề này. Một nhà phê bình sắc sảo không kém C. S. Lewis đã nói trong một bức thư gửi Tolkien sau khi đọc sản phẩm cuối cùng:
Tôi nghĩ nó vượt trội ở hai điểm: hoàn toàn là một sáng tạo phụ—Bombadil, Barrow Wights, Elves, Ents—như thể từ nguồn tài nguyên vô tận và công trình xây dựng. Cũng ở trong trọng lực. Không sự lãng mạn nào có thể đẩy lùi cáo buộc “chủ nghĩa thoát ly” một cách tự tin như vậy. Nếu có sai lầm, nó sai lầm chính theo hướng ngược lại: mọi hy vọng chiến thắng đều bị trì hoãn và sự chồng chất tàn nhẫn của tỷ lệ đánh cuộc chống lại các anh hùng gần như quá đau đớn. Và đoạn kết dài sau thảm họa tốt lành, cho dù bạn cố ý hay không, có tác dụng nhắc nhở chúng ta rằng chiến thắng cũng tạm bợ như xung đột... và vì vậy để lại một ấn tượng cuối cùng về sự sầu muộn sâu xa. Nó sẽ được xếp hạng, cùng với Aeneid, như một trong những cuốn sách mà tôi gọi là “tôn giáo phụ một cách trực tiếp tức” của mình. (69)
Việc Tolkien và Lewis đã gây ảnh hưởng sâu sắc như vậy là một dấu hiệu của sức sống văn hóa Kitô giáo liên tục nào đó, cũng như các thành viên khác trong nhóm văn học Oxford, Inklings, của họ. Như một nhà báo đã lập luận: “The Inklings, một câu lạc bộ uống rượu ở Oxford những năm 1930, là một lực lượng hùng mạnh hơn cả Bloomsbury Group, Algonquin lấy bối cảnh ở New York, bối cảnh ở Paris của Hemingway hay nhóm các nhà văn W. H. Auden/Christopher Isherwood của những năm 1930.” (70) Tất nhiên, những điều như vậy rất khó đánh giá với độ chính xác cao, nhưng việc một tuyên bố như vậy là hoàn toàn hợp lý đã nói lên rất nhiều điều về tiềm năng Kitô Giáo làm say mê thế giới trở lại trong thế kỷ hai mươi mốt.
__________________________________________________________________________________________________________________________________
(*) Eucatastrophe là sự thay đổi đột ngột của các sự kiện trong một câu chuyện nhằm đảm bảo rằng nhân vật chính không gặp phải một sự diệt vong khủng khiếp, sắp xảy ra, rất hợp lý và có thể xảy ra. Nhà văn J. R. R. Tolkien đã tạo ra từ này bằng cách thêm tiền tố Hy Lạp eu, có nghĩa là tốt, vào catastrophe [thảm họa], hạn từ được sử dụng theo truyền thống trong phê bình văn học lấy cảm hứng từ cổ điển để chỉ việc "làm sáng tỏ" hoặc kết thúc cốt truyện của một bộ phim truyền hình. Đối với Tolkien, thuật ngữ này dường như có một ý nghĩa chủ đề vượt xa ý nghĩa từ nguyên theo nghĩa đen của nó về mặt hình thức.Theo định nghĩa của ông như được nêu trong bài tiểu luận "Về những câu chuyện cổ tích" năm 1947, eucatastrophe là một phần căn bản trong quan niệm của ông về thần thoại học. Mặc dù Tolkien quan tâm đến thần thoại, nhưng nó được kết nối với Tin Mừng; Tolkien gọi Sự nhập thể của Chúa Kitô là eucatastrophe của "lịch sử nhân loại" và Sự phục sinh là eucatastrophe của Nhập thể. (Wikipedia).
Cuốn sách hay nhất của thiên niên kỷ
Một nhà phê bình văn học trong tương lai — chẳng hạn hai nghìn năm nữa — bắt gặp tác phẩm của J. R. R. Tolkien và chỉ cần xác định niên đại của nó bằng bằng chứng nội bộ sẽ khó có thể thấy rằng nó cùng thời với những cuốn sách vĩ đại của Waugh hoặc Greene. Hơn nữa, nếu Sigrid Undset trình bày một bối cảnh sử thi trung cổ trong đó các yếu tố Công Giáo không thể nhầm lẫn, thì Tolkien sử dụng một số chất liệu anh hùng tương tự, nhưng theo phong cách tôn giáo ít rõ ràng hơn nhiều, để xây dựng nên những gì rất có thể là câu chuyện Công Giáo có ảnh hưởng và mạnh mẽ nhất được viết trong thế kỷ XX. Những độc giả nghi ngờ tính Công Giáo của câu chuyện thường được nhắc đến việc Tolkien trao đổi thư từ với Robert Murray, S.J., trong đó ông nhận xét rằng, “The Lord of the Rings [Chúa tể của những chiếc nhẫn] tất nhiên là một tác phẩm Công Giáo và tôn giáo căn bản; ban đầu là như vậy một cách vô thức, nhưng có ý thức trong quá trình sửa duyệt. Đó là lý do tại sao tôi đã không đưa vào, hoặc đã cắt bỏ, trên thực tế, tất cả các tham chiếu đến bất cứ thứ gì như 'tôn giáo', đến các giáo phái hoặc thực hành, trong thế giới tưởng tượng. Vì yếu tố tôn giáo được hấp thụ tan hòa vào câu chuyện và tính biểu tượng.” (52) Cũng trong bức thư đó, ông khen ngợi vị linh mục vì đã nhận thấy rằng Lady Galadriel được truyền cảm hứng từ những hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Nhưng sự kiện vấn đề được đặt ra hoàn toàn bắt nguồn từ sự kiện nguồn cảm hứng Công Giáo hoàn toàn không rõ ràng và tác phẩm được yêu thích rộng rãi đã vượt xa những khán giả Công Giáo đến mức nhiều người có lẽ hoàn toàn không biết cảm thức của chính tác giả về việc “yếu tố tôn giáo được hấp thụ tan hòa vào câu chuyện” ra sao.
Tuy nhiên, về sự lôi cuốn, không thể nghi ngờ gì. Kể từ khi xuất bản, Lord of the Rings [Chúa tể của những chiếc nhẫn] (LOTR) đã bán được hơn 150 triệu bản, được dựng thành một trong những loạt phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh và được bình chọn là cuốn sách có ảnh hưởng nhất thế kỷ XX trong một số cuộc thăm dò. Khách hàng của nhà bán sách trực tuyến Amazon đã chọn nó - với sự táo bạo vượt quá khả năng của họ - là cuốn sách hay nhất của thiên niên kỷ. Nếu chúng ta coi những lời của Tolkien về yếu tố tôn giáo của nó là đúng (như chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra bên dưới) và cũng lưu ý đến một sự kiện không thể phủ nhận rằng câu chuyện cũng được thông tri sâu sắc bởi các câu chuyện anh hùng của truyền thống trung cổ Bắc Âu, mà về nó Tolkien, trong tư cách một nhà ngữ học được đào tạo, vốn có kiến thức uyên thâm, thì một mầu nhiệm sẽ nảy sinh. Khác hoàn toàn với những gì chúng ta biết sau sự việc, làm thế nào mà một tác phẩm như vậy lại có sức hấp dẫn lớn như vậy ở Châu Âu, Châu Mỹ và trên toàn thế giới —một thế giới hiện đại, dù sao, phần lớn Tolkien vốn không ngưỡng mộ và thậm chí còn tìm cách phản đối, theo cách gián tiếp của mình? Câu trả lời duy nhất là sự hấp dẫn đối với một số yếu tố phổ quát của con người, cần được xem xét kỹ lưỡng hơn.
Tác phẩm của Tolkien xuất hiện từ một bối cảnh khác thường. Anh sinh ra ở Nam Phi với cha mẹ là người Anh, nhưng cha anh qua đời khi anh mới 4 tuổi. Mẹ anh trở về Anh và cùng với chị gái trở lại Công Giáo. Phần lớn gia đình xa lánh bà, nhưng bà quyết nuôi dạy con cái theo đạo Công Giáo. Một phần do những căng thẳng về tài chính và tình cảm, mẹ của Tolkien qua đời trong vòng vài năm, để lại hai cậu con trai của bà cho một người bạn của gia đình, Cha Francis Xavier Morgan, một linh mục thuộc dòng Oratorian, người đã từng làm việc dưới quyền của Đức Hồng Y Newman vĩ đại, nuôi nấng. Những ký ức xa lạ về châu Phi, tình yêu dành cho vùng nông thôn nước Anh ở ngoại ô Edgbaston và niềm đam mê sớm với việc tạo ra ngôn ngữ, tất cả đã cùng nhau hội tụ trong cuộc đời của Tolkien. Là một sinh viên xuất sắc, anh vào Oxford, nơi anh học ngôn ngữ, thêm tiếng Phạn, Gothic, tiếng Bulgary cổ, tiếng Litva, tiếng Nga, tiếng Anh cổ và trung cổ, tiếng Phần Lan, tiếng Bắc Âu cổ, tiếng Saxon cổ, tiếng Đức cổ và trung đại, tiếng Iceland, (53) và các ngôn ngữ kỳ lạ khác cùng với tiếng Latinh, Hy Lạp, Pháp, Đức, v.v. Nhưng giống như với người sẽ trở thành bạn của anh, C.S. Lewis, công việc học thuật của anh trở thành một lợi thế phụ trội trong các công trình sáng tạo của trí tưởng tượng liên quan tới các truyện nhân gian (saga) và truyện tình thơ mộng thời Trung cổ theo cách có thể nói với các độc giả đương thời.
Trước Tolkien và Lewis, đây có vẻ là một sự kết hợp khó xảy ra, nhưng nó đã chứng tỏ là một loại rượu bia mạnh. Làm sao như vậy được? Để bắt đầu, có một điều gì đó thời Trung cổ thuộc về một dạng sống đơn giản hơn và, đối với con mắt hiện đại, chân thực hơn. Tất nhiên, những người thời trung cổ cũng tinh vi và thông minh như những người hiện đại của họ trong các tầng lớp và ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, một số câu hỏi căn bản về sự hiện hữu của con người dường như xuất hiện ở dạng rõ ràng hơn trong hoàn cảnh của họ. Thật vậy, một số người đã chỉ trích Tolkien vì đã biến Trung Địa [Middle-earth]của ông thành một vương quốc kiểu Manikêô, trong đó mọi điều ác đều liên kết với Mordor và tất cả những điều tốt đẹp đều liên quan đến các hobbit của Quận Huyện [Shire] và các đồng minh của họ trong các trận chiến vĩ đại chống lại lực lượng của Sauron. Đây là một sai lầm, ngay cả khi chỉ xét về mặt sự kiện — vì những cám dỗ làm điều ác, không phải lúc nào cũng bị cưỡng lại, cũng xuất hiện giữa các nhân vật “tốt” trong Tolkien. Cuộc chiến giữa thiện và ác, như mọi khi, diễn ra trong trái tim mỗi con người. Nhưng các bên được xác định rõ hơn trong hầu hết các nền văn học hiện đại. Và lý do khiến nó hấp dẫn chúng ta có thể liên quan đến một nhận xét mà Christopher Dawson - người được Tolkien đọc và ngưỡng mộ - từng đưa ra: “Tại sao một nhà môi giới chứng khoán lại kém đẹp hơn một chiến binh Homer hay một tư tế Ai Cập? Bởi vì anh ta ít hòa nhập với cuộc sống, anh ta không phải là tất yếu, mà là ngẫu nhiên, gần như ký sinh?” (54) Theo thuật ngữ hiện đại, có một cuộc đấu tranh hiện sinh gay gắt đối với chiến binh hoặc tư tế hơn là đối với nhà điều hành tài chính, bất kể điều này có thể cần thiết ra sao trong nền kinh tế hiện đại.
Điều cũng có liên quan là sự thoải mái và giàu có, vốn là mục tiêu của hầu hết các hoạt động xã hội hiện đại, dù tự chúng vô hại, vẫn là một loại mặt nạ của những cuộc đấu tranh cuối cùng giữa thiện và ác, sự sống và sự chết, mà mỗi con người đều tham gia. Và chúng ta phải giải phóng bản thân khỏi sự theo đuổi độc quyền của cải vật chất trước khi có thể bước vào một thế giới rộng lớn hơn của ý nghĩa và sự thật nhân bản. Dường như đó là điều Tolkien muốn nói khi nhận xét về yếu tố tôn giáo được đưa vào các câu chuyện của ông. Lord of the Rings vừa là một câu chuyện phiêu lưu vừa là một cuộc hành hương. Cuộc hành trình của những người hobbit từ cuộc sống thoải mái ở Quận Huyện mục vụ của họ trải qua nhiều trận chiến, trong đó họ phải dấn thân vào việc bảo vệ quê hương và khôi phục Trung địa. Không có gì phải trốn tránh trách nhiệm này, ban đầu có thể lần ra dấu vết dễ dàng hơn một chút trong The Hobbit, tác phẩm mà Tolkien xuất bản năm 1937, một kiểu dạo đầu đơn giản hơn cho Chúa tể của những chiếc nhẫn.
Nhiều độc giả xem The Hobbit chỉ đơn thuần là một cuốn sách dành cho trẻ em, một câu chuyện thần tiên về một chủng tộc nhỏ gồm những hữu thể, giống như chính trẻ em, bị lôi cuốn vào một cuộc phiêu lưu điển hình liên quan đến việc giết chết một con rồng, Smaug, và giải phóng các dân tộc bị con rồng áp bức. Câu chuyện có thể được đọc theo cách đó: hàng triệu bậc cha mẹ đã đọc The Hobbit cho con cái họ trước khi đi ngủ, và lũ trẻ không gặp khó khăn gì khi theo dõi mạch truyện rõ ràng. Tolkien đánh giá sâu sắc truyện thần tiên, thứ mà ông không coi là một thể loại văn học kém cỏi hơn, mà đúng hơn, là một trong những thể loại văn học cho phép chúng ta thấy cảm thức kỳ diệu nguyên thủy mà con người thời kỳ đầu đã lưu giữ trong cách kể chuyện của chính họ. Trong một sự chiếm đoạt kỳ lạ cảm thức kỳ diệu đó, Tolkien có thể tái tạo cảm thức về sự vận hành siêu việt trong chính thế giới mà Christopher Dawson và nhiều người khác đã chỉ ra ở các dân tộc sơ khai. Và về mặt này, anh đã phục hồi một thứ có giá trị cho tất cả chúng ta. Không chỉ đơn thuần dành cho trẻ em. Vì vậy, có vẻ như không chỉ là thiết bị văn học ở Tolkien khi những hữu thể cổ xưa từ thuở sơ khai của thế giới lang bang đi vào những câu chuyện hoặc những người đàn ông biến hình thành động vật xuất hiện hoặc động vật nói chuyện hoặc cây cối tự bật gốc và đi lại để tham gia vào các cuộc đấu tranh vũ trụ lớn lao.
Trong bài giảng tuyệt vời của mình “Về truyện Thần tiên”, anh trả lời những người coi chúng là một thể loại văn học thấp kém hơn khi so sánh với tiểu thuyết “duy thực” hơn:
Có những mong muốn sâu sắc hơn: chẳng hạn như mong muốn được trò chuyện với những sinh vật sống khác. Mong muốn này, cổ xưa như Cuộc Sa Ngã, chủ yếu xây dựng trên việc nói chuyện của các loài thú và sinh vật trong các truyện thần tiên, và đặc biệt là sự hiểu biết kỳ diệu về cách nói thích hợp của chúng. Đây là gốc rễ, chứ không phải “sự nhầm lẫn” được gán cho tâm trí của những người đàn ông trong quá khứ không được ghi chép, một việc được cho là “vắng mặt của ý thức tách biệt chúng ta khỏi con thú”. Một cảm thức sống động về sự tách biệt đó rất cổ xưa; nhưng cũng là cảm thức thấy rằng đó là một sự chia cắt: một số phận kỳ lạ và một mặc cảm tội lỗi đè nặng lên chúng ta. Các tạo vật khác cũng giống như các cõi khác mà Con người đã cắt đứt các quan hệ với, và giờ đây chỉ nhìn thấy từ bên ngoài ở một khoảng cách xa, đang gây chiến với chúng, hoặc đang sống trong các điều khoản của một hiệp định đình chiến không thoải mái. (55)
Đó là một trong những bối cảnh lớn hơn trong đó những câu chuyện thần tiên truyền đạt điều gì đó cho chúng ta. Tuy nhiên, ngay cả ở mức độ trần tục hơn, Tolkien nói rằng chúng giúp giải cứu chúng ta khỏi một thế giới chật chội và “căn bệnh ngôn ngữ” chế nhạo việc viết theo trí tưởng tượng là không có thật. Căn bệnh đã thực sự đã giản lược cảm thức của chúng ta về thế giới thành một chủ nghĩa duy vật phẳng lặng, buồn tẻ và thực dụng: “Chính trong những câu chuyện thần tiên, lần đầu tiên tôi đã tiên đoán được sức mạnh của lời nói, và sự kỳ diệu của những thứ, chẳng hạn như đá, gỗ và sắt; cây và cỏ; ngôi nhà và đám cháy; bánh mì và rượu vang.” (56) Nhưng cả lời nói lẫn điều kỳ diệu đều đòi hỏi chúng ta phải trở nên “mê mẩn” một lần nữa để thấy—như Chesterton cũng thúc giục—điều kỳ diệu trong sự bình thường.
Tolkien nói: Không có công thức cơ học nào để tạo ra một thế giới mê hoặc. Nhà văn thành công phụ thuộc vào một “nghề thủ công của yêu tinh” nào đó mà anh ta không phải là chủ mà là đầy tớ, bởi vì tất cả các “sáng tạo phụ” thực sự đều là sự bắt chước Sáng thế và Đấng Tạo hóa và bắt nguồn từ chúng một cách thích đáng. Sức hấp dẫn lớn của anh đối với nhiều khán giả khác nhau rõ ràng bắt nguồn từ năng khiếu mê hoặc của anh khi kể những câu chuyện trong đó cuộc đấu tranh vượt thời gian của con người với thiện và ác đang diễn ra. Đó chắc chắn là những gì độc giả bắt gặp trong The Hobbit và trong The Lord of the Rings. Những người hobbit ở làng Hobbit [Hobbiton] đang sống một cuộc sống ấm cúng, thoải mái. Nhưng thế giới Thần tiên, giống như thế giới thực, không giúp chúng ta thoát khỏi những câu hỏi lớn về thiện và ác hay cuộc hành hương của cuộc sống trần thế mà mỗi người đều phải thực hiện. Cả hai thử thách đó đều đòi hỏi chúng ta phải học cách hy sinh bản thân vì một điều gì đó vĩ đại hơn chính mình—một sự thật mà mong muốn được an nhàn và nhiều triết lý hiện đại sẽ phủ nhận. Chủ nghĩa duy vật chắc hẳn sẽ nói rằng sự phong phú và đa dạng của mọi sự là tất cả những gì chúng ta có thể hy vọng trong cuộc sống và việc tận hưởng chúng càng nhiều càng tốt là mục tiêu duy nhất của mỗi cá nhân—có lẽ với điều kiện là chúng ta làm như vậy mà không gây hại cho người khác. Nhưng một câu chuyện giống như những câu chuyện mà Tolkien đã dựng lên đã bác bỏ sự hiểu biết ấy tận gốc rễ của nó và đưa ra sự thật rằng điều ngược lại mới xảy ra: chúng ta chỉ có thể tận hưởng một cách đúng đắn những điều tốt đẹp của sáng thế khi chúng ta không biến chúng thành mục tiêu, mà chỉ là sản phẩm của một hoạt động khác.
Mong muốn giàu có và thoải mái là điều mà Tolkien, trong The Hobbit, gọi là “căn bệnh của rồng”. Con rồng Smaug ngủ trên đống vàng bạc châu báu và những đồ vật quý giá khác mà nó cướp được từ các dân tộc xung quanh. Chúng không có ích gì thực sự đối với nó ngoài việc thỏa mãn lòng tham mù quáng của nó. Bằng một số dấu hiệu tinh tế nhưng không thể nhầm lẫn, câu chuyện cũng gợi ý rằng ngay cả sự thoải mái mà chúng ta nghĩ là một xung lực bình thường của con người, một thứ có thể yên nghỉ ở một nơi đáng yêu như Quận Huyện, cũng góp phần vào căn bệnh của rồng. Phương thuốc là phương thuốc mà truyền thống Kitô giáo luôn ủng hộ: “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm Nước của Người và sự công chính của Người, thì tất cả những thứ đó cũng sẽ thuộc về các ngươi” (Mt 6:33). Lệnh đó đặt mọi thứ vào đúng trật tự của chúng mà không phủ nhận, như một số tôn giáo thuần túy “tâm linh” có thể phủ nhận rằng các điều thiện tạo dựng là các điều thực sự.
Trong The Hobbit, Bilbo sẽ dần dần học được bài học này bằng cách trưởng thành hơn và mạo hiểm các điều thiện của chính mình và thậm chí cả mạng sống của mình để kẻ ác chính có thể bị đánh bại—và con người, người hobbit, người lùn, yêu tinh và những sinh vật khác chịu sự khủng bố của nó sẽ được giải thoát. Tuy nhiên, không giống như những nhân vật trung tâm trong các câu chuyện anh hùng, anh không làm điều này nhờ vào lòng dũng cảm và sức mạnh của mình—và trong Chúa tể của những chiếc nhẫn, cháu trai Frodo của anh cũng sẽ trải qua một trải nghiệm tương tự. Cả hai hobbit đều đặt mình vào tình thế nguy hiểm vì lợi ích, mặc dù điều đó đi ngược lại các đặc tính đáng kính của Quận Huyện, nơi mọi người đều biết rằng những cuộc phiêu lưu là "những điều không thoải mái". Những tạo vật yếu đuối như vậy chỉ thành công vì có các yếu tố “cơ hội” hoặc may mắn - thực sự là ơn Quan phòng - hiện diện. Trong câu chuyện, Tolkien dạy một cách tinh tế thông qua yếu tố này, chúng ta không phải là người hoàn toàn làm chủ số phận của chính mình. Không hề là một khía cạnh “Kitô giáo” xa lạ gắn liền với một câu chuyện anh hùng, sự hướng dẫn của ơn quan phòng là sự thể hiện thực tế điều mà bất cứ người biết suy tư nào cũng sẽ nhận ra là đúng với cuộc sống.
Như nhiều độc giả đã nhận thấy, chính vì Bilbo và sau này là Frodo và Sam Gamgee đã tha mạng cho tạo vật xảo quyệt nhưng đáng thương Gollum nên họ nhận được sự giúp đỡ vào những thời điểm quan trọng. Ở đây, người ta có thể lập luận rằng Tolkien đã giới thiệu một chủ đề Kitô giáo mà một số người có thể tranh cãi. Nhiều hành động của lòng cảm thương, lòng thương xót và lòng tốt được thực hiện mà không bao giờ được đáp lại. Và những kẻ gian ác, không biết ơn hay ăn năn, có thể tiếp tục tàn phá nếu chúng được tha. Nhưng cách xử lý chủ đề này của Tolkien rất khéo léo và thuyết phục vì “nghề thủ công yêu tinh” của anh không làm cho mối liên hệ trở nên minh nhiên hoặc trừu tượng. Và cuối cùng, có những trường hợp lòng cảm thương mang lại những hậu quả tốt ngoài ý muốn mà một “chủ nghĩa hiện thực” hạn hẹp không thể dự ứng được.
Nghề thủ công yêu tinh cũng xuất hiện theo cách hài hước Tolkien có thể để Bilbo được một nhóm người lùn tóm bắt như một “tên trộm”, người sẽ giúp chúng trong nỗ lực đánh bại Smaug. Trên thực tế, khả năng giúp đánh bại Smaug của anh này phụ thuộc vào việc anh ta "tình cờ" tìm thấy Chiếc nhẫn quyền lực mà Gollum từng nắm giữ, cho phép anh ta hành động mà không bị nhìn thấy. Rất khó có khả năng người hobbit tầm thường này sẽ sở hữu nguồn sức mạnh vô cùng quan trọng này, nhưng phù thủy Gandalf, một nhân vật thông thái và cổ xưa, đã giải thích điều đó rất lâu sau trong Chúa tể của những chiếc nhẫn cho Frodo mà không thực sự giải thích: “Có một thứ gì đó khác đang hoạt động, ngoài bất cứ thiết kế nào của Người chế tạo chiếc nhẫn. Tôi không thể diễn đạt rõ ràng hơn việc nói rằng Bilbo có định mệnh tìm ra Chiếc nhẫn, chứ không phải bởi người tạo ra nó. Trong trường hợp đó, bạn cũng có định mệnh có được nó. Và đó có thể là một suy nghĩ đáng khích lệ.” (57)
Sức mạnh này rất khác với sức mạnh được tìm kiếm thông qua máy móc kỹ nghệ (thứ mà Tolkien ghê tởm trong đời thực) mà một số sinh vật xấu xa ở Trung địa đã tạo ra. Anh nói, “Yêu tinh rất độc ác, dữ dằn và lòng dạ xấu xa. Chúng không tạo ra những thứ đẹp đẽ, nhưng... nhiều thứ khôn khéo” (58)—một sự ám chỉ rõ ràng đến những thế lực ma quỷ mà Tolkien đã thấy ngày càng lớn mạnh trên thế giới trong những năm trước, trong và sau Thế chiến thứ hai. Ngược lại, cuộc hành trình phụ thuộc vào sự hợp tác với các thế lực bí ẩn trong tự nhiên—trái đất, mặt trăng, ánh sáng, đá, chim chóc—và những gợi ý tế nhị trong các lời tiên tri cổ xưa.
Phần tử cuối cùng có thể có vẻ kỳ quặc, nhưng Tolkien, càng trở nên rõ ràng hơn sau khi anh qua đời, đã tạo ra cả một “thế giới thứ cấp” với thần thoại của riêng mình. Những bản văn chưa được xuất bản trước đó của anh về nguồn gốc của thế giới đó và những diễn biến bên trong nó đã xuất hiện dưới tựa đề History of Middle-earth [Lịch sử Trung địa] và làm đầy hàng tá tập sách. (59) Quan trọng nhất trong bối cảnh này là câu chuyện sáng tạo của anh, The Silmarillion, trong đó Đấng Tạo Hóa, Iluvatar, giống như Thiên Chúa trong Kinh thánh, phải đối phó với một thiên thần sa ngã, Melkor. Mô tả về thiên thần sa ngã lặp lại các chủ đề trong Kinh thánh nhưng chuyển chúng sang ngôn ngữ “âm nhạc” của sự sáng tạo vĩ đại của Iluvatar: “Nhưng khi chủ đề phát triển, Melkor nảy sinh ý tưởng đan xen những vấn đề do chính trí tưởng tượng của anh không phù hợp với chủ đề của Iluvatar; vì từ đó, anh tìm cách tăng thêm quyền lực và vinh quang của phần được giao cho mình. Nhưng Iluvatar nhận xét: “Và ngươi, Melkor, sẽ thấy rằng không có chủ đề nào có thể được thực hiện mà không có nguồn gốc sâu xa nhất của nó trong ta, cũng như bất cứ thứ âm nhạc nào có thể thay đổi được bất chấp ý muốn của ta. Vì kẻ mưu toan làm điều này phải chứng minh duy nhất công cụ của ta trong việc tạo ra những điều tuyệt vời hơn, mà bản thân họ không thể tưởng tượng được.” (60)
Tất cả điều này đều được thể hiện trong cả hai cuốn sách theo những cách không thể trình bày chi tiết ở đây. Nhưng các chi tiết được tăng cường theo cách độc đáo trong đó Tolkien, có lẽ là duy nhất trong số các tác giả hiện đại và phi hiện đại, có thể tạo ra cảm thức về một lãnh vực hiện hữu qua nhiều thời đại—“vực thẳm của thời gian”, như anh đôi khi gọi nó—trong đó câu chuyện chung về thiện và ác được diễn ra giữa nhiều câu chuyện cụ thể trong quá khứ và tiếp diễn trong tương lai. C. S. Lewis đã nói về khía cạnh này của “sự sáng tạo phụ” của bạn mình:
“Không hài lòng với việc tạo ra câu chuyện của riêng mình, anh tạo ra, với sự hoang phí gần như xấc xược, toàn bộ thế giới trong đó nó sẽ phải di chuyển, với thần học, thần thoại, địa lý, lịch sử, cổ sinh vật học, ngôn ngữ và trật tự của các sinh vật — một thế giới “đầy những tạo vật kỳ lạ không thể đếm được”. Nguyên những cái tên mà thôi là một bữa tiệc.... Bạn khó có thể đặt chân xuống bất cứ đâu... mà không khuấy bụi lịch sử. (61)
Sáng tạo phụ là sự bắt chước của Sáng tạo mà “chúng ta vẫn tạo ra theo quy luật mà chúng ta được tạo ra”, như Tolkien viết trong bài thơ “On Fairy Stories” [Về những câu chuyện thần tiên]. (62) Nhưng nó tránh được sự phạm thượng của người nghệ sĩ tự coi mình là người sáng tạo thuần túy, không phụ thuộc vào những gì Thiên Chúa đã cung cấp trước, cũng như nó bác bỏ chủ nghĩa duy vật buồn tẻ của thế giới hàng ngày ở phương Tây hiện đại.
Hoàn toàn ý thức được những người coi đây là chủ nghĩa thoát ly [escapism], Tolkien chấp nhận thuật ngữ này — và tôn vinh nó dưới một số hình thức:
Tại sao một người đàn ông nên bị khinh miệt nếu thấy mình đang ở trong tù, anh ta cố gắng ra ngoài và về nhà? Hoặc nếu, khi anh ta không thể làm như vậy, anh ta nghĩ và nói về những chủ đề khác ngoài những người cai ngục và những bức tường nhà tù? Thế giới bên ngoài không trở nên ít thực hơn bởi vì tù nhân không thể nhìn thấy nó. Khi sử dụng Lối thoát theo cách này, các nhà phê bình đã chọn sai từ ngữ, và hơn thế nữa, họ đang nhầm lẫn, không phải lúc nào cũng do lỗi chân thành, Cuộc vượt ngục của người tù với Cuộc Chạy trốn của kẻ đào ngũ. (63)
Hơn nữa, chính ngôn ngữ mà chúng ta hiện đang sử dụng phải được phục hồi để nắm bắt các chiều kích của thực tại đã mất ở đó, hiện chỉ bị làm ngơ do các giả định của chúng ta về thế giới.
Tolkien khá chuẩn bị để kết nối thế giới giả tưởng này, mà theo anh hiện hữu trong mọi nền văn hóa vì nó là một phần của bản chất con người, với câu chuyện của mọi câu chuyện trong Nhập Thể:
Nó có thể là một tia sáng xa xăm hoặc tiếng vọng của Tin Mừng trong thế giới thực... Các sách Tin Mừng chứa đựng một câu chuyện thần tiên, hoặc một câu chuyện thuộc loại lớn hơn bao hàm tất cả những gì cốt yếu của các truyện thần tiên. Chúng chứa đựng nhiều điều kỳ diệu—có tính nghệ thuật đặc biệt, đẹp đẽ và xúc động: “thần thoại” trong ý nghĩa hoàn hảo, tự lập của chúng;... và trong số những điều kỳ diệu là tai họa tốt lành (eucatastrophe) (*) vĩ đại nhất và đầy đủ nhất có thể hình dung được. Nhưng câu chuyện này đã đi vào Lịch sử và thế giới đệ nhất đẳng; mong muốn và khát vọng của sáng thế phụ đã được nâng lên thành sự hoàn thành của Sáng thế. Sự giáng sinh của Chúa Kitô là thảm họa tốt lành của lịch sử loài người. Sự Phục Sinh là thảm họa tốt lành của câu chuyện Nhập Thể. Câu chuyện này bắt đầu và kết thúc trong niềm vui. Nó nổi bật là “tính nhất quán bên trong của thực tại”. Không có câu chuyện nào được kể mà con người thích thấy là sự thật hơn, và không có câu chuyện nào được rất nhiều con người hoài nghi đã chấp nhận như là sự thật theo giá trị riêng của nó. Vì Nghệ thuật của nó có giọng điệu cực kỳ thuyết phục của Nghệ thuật Đệ nhất đẳng, tức là của Sáng Thế. Bác bỏ nó là dẫn đến buồn bã hoặc phẫn nộ.... Câu chuyện này là tối cao; và nó đúng sự thật. Nghệ thuật đã được kiểm chứng. Thiên Chúa là Chúa của các thiên thần và loài người—và của yêu tinh. Truyền thuyết và Lịch sử đã gặp nhau và hợp nhất. (64)
Tuy nhiên, ngay cả sau khi Chúa Kitô chiến thắng trên Thập giá, cái ác vẫn chưa bao giờ bị đánh bại trong cuộc sống này, và đó là lý do tại sao cuộc đấu tranh giữa thiện và ác vẫn tiếp diễn cho đến tận thế. Câu chuyện lặp lại với những nhân vật khác nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng nó là một câu chuyện bao giờ cũng là độc nhất và bao giờ cũng là phổ quát bởi những yếu tố vĩnh cửu cũng như tạm thời bên trong nó. Và một trong những chu kỳ lớn hơn của một cuộc đấu tranh như vậy tạo chất liệu cho Chúa tể những Chiếc nhẫn, diễn ra trong thế hệ hobbit tiếp theo, với cháu trai của Bilbo, Frodo, nay chiếm vị trí trung tâm trong bi kịch Trung Địa. Câu chuyện rất lớn - thường được xuất bản thành ba tập lớn: The Fellowship of the Ring [Hiệp hội Chiếc nhẫn], The Two Towers [Hai tòa tháp] và The Return of the King [Sự trở lại của nhà vua]. Mỗi cuốn chứa hàng chục cảnh và diễn biến đáng nhớ trong cốt truyện chung của một câu chuyện rất đơn giản: Frodo, với tư cách là “người mang nhẫn”, giờ đây, phải hành trình cùng với những người bạn đồng hành của mình (Gandalf, những người hobbit khác, yêu tinh, người lùn, đàn ông—trong hạng mục cuối cùng, đáng chú ý là Aragorn, vị vua thực sự của Trung Địa) từ Rivendell, quê hương của yêu tinh, đến Núi Doom, nơi anh ta sẽ phá hủy chiếc nhẫn bằng cách ném nó vào một kẽ hở rực lửa—do đó làm vô hiệu quyền lực của “Chúa tể Hắc ám” Sauron.
Độc giả bị mê hoặc bởi câu chuyện cảm thấy đây là một cuộc hành trình dài, gần như vô tận, nhưng toàn bộ câu chuyện về cơ bản chỉ diễn ra trong ba tháng, bắt đầu với việc rời hiệp hội khỏi Rivendell vào ngày 25 tháng 12 và kết thúc với việc phá hủy sau cùng chiếc nhẫn vào ngày 25 tháng 3. Tất nhiên, những ngày này theo truyền thống là Giáng sinh và Lễ Truyền tin (trong thời Trung cổ, cũng là ngày đóng đinh). Vì vậy, bằng cách giới thiệu ngày tháng một cách tinh tế, Tolkien đã bí mật ghi câu chuyện của mình vào lịch sử thánh thiêng của Kinh thánh. Nhưng đây không phải là một câu chuyện ngụ ngôn đơn giản—một hình thức có sự tương ứng một đối một giữa các sự thật Kitô giáo và những con người hoặc biến cố. Tolkien đang viết một loại “sáng thế phụ” lớn hơn nhiều, một loại mô phỏng thế giới phức tạp của chính Đấng Tạo hóa bằng cách dẫn nhập cảm thức về một quá khứ trải dài trở lại chính những lớp sương mù không thể xuyên thủng và một hiện tại phong phú với các biến cố tăng nhanh trong toàn bộ câu chuyện Sáng thế-Sa ngã-Cứu chuộc. Tất cả được thực hiện một cách mạnh mẽ đến mức những độc giả “hiểu” Lord of the Rings thấy mình thường xuyên đọc lại hoặc suy nghĩ lại cách họ hiểu câu chuyện.
Bất chấp tuyên bố gần như đúng của Tolkien rằng cuốn sách không phải là một câu chuyện ngụ ngôn, nó có một số mối liên hệ cụ thể với các vấn đề trong cuộc sống đương thời, đặc biệt là sự hối tiếc sâu sắc và sự bác bỏ nền văn minh kỹ nghệ cơ giới hóa hiện thời. Những sinh vật xấu xa ở Trung Địa là những kẻ tạo ra những cỗ máy mạnh mẽ—chính vì ma thuật hắc ám của chúng tìm quyền lực đối với người khác và sự thống trị có chủ ý. Chủ nghĩa duy kỹ nghệ, dù ở dạng tốt đẹp có thể dung thứ được hay dưới hình thức cực kỳ xảo quyệt, đòi hỏi một cách đối xử nào đó của chính thiên nhiên—sự sáng thế, nhìn từ một góc độ khác—như vật chất và năng lực đơn thuần cần được tái định hướng cho các mục đích tạo vật. Tất nhiên, mọi việc làm của con người đều tái lên khuôn thiên nhiên đến một mức nào đó cho mục đích của con người, nhưng trong Mordor của Tolkien, toàn bộ hệ tư tưởng coi thường trái đất dường như được tập hợp lại: không có sinh vật sống, không có cảnh quan thiên nhiên nào dường như có bất cứ giá trị nào — hoặc bất cứ sự khôn ngoan nào để dạy chúng ta ngoại trừ tính hữu ích của nó cho các mục đích lấy cảm hứng từ rồng của chúng ta. Tất nhiên, chủ nghĩa bảo vệ môi trường của Công Giáo ban đầu được ngụ ý trong cách trình bày này, nhưng cũng có mối liên hệ sâu sắc với học thuyết xã hội của Công Giáo, trong đó việc cai trị người khác là vì lợi ích của họ, không phải vì lợi ích của người cai trị. Và tất cả quyền lực, và do đó, quyền cai trị, đều phát xuất từ Thiên Chúa và phải chịu trách nhiệm trước mong muốn của Người đối với Trung Địa.
Nhưng đẹp đẽ như sự thật bao trùm này được trình bày trong Lord of the Rings, không có chương trình “trở về đất liền” hay phản hiện đại đơn giản nào xuất hiện trong câu chuyện. Đó là bởi vì câu chuyện liên quan đến sự tái hiện sâu sắc của trật tự được tạo ra từ sau sự xuất hiện của Trung Địa. Tolkien đã từng mô tả lịch sử loài người là “một 'thất bại lâu dài'—mặc dù nó chứa đựng một số điển hình hoặc thoáng nhìn về chiến thắng cuối cùng”, (65) và điều đó cũng mô tả chính xác cách thế của thế giới phụ tạo của anh. Cuộc chiến chống lại cái ác phải được tiến hành lặp đi lặp lại, với những chiến thắng và thất bại từng phần khác nhau, cho đến khi một số biến đổi diễn ra mà không thể thể hiện được trong chính Trung địa. Theo cách riêng của mình, Trung Địa phải chờ đợi Sự trở lại của Nhà vua, người không chỉ là Aragorn hay một số người cai trị công bằng khác, mà là một thế lực có thể giải quyết vấn đề gốc rễ: Iluvatar, Cha của Tất cả.
Dĩ nhiên, những sự thật như thế đã được bày tỏ nhiều lần trong suốt lịch sử Kinh Thánh, từ phần Kinh Thánh tiếng Hípri đến nền thần học hiện đại. Nhưng chúng thường chỉ xuất hiện dưới dạng ý tưởng, mặc dù các câu chuyện trong Cựu ước phản ảnh điều gì đó về lịch sử của những chiến thắng và thất bại từng phần mà Tolkien trình bày. Điều đáng chú ý nhất về Lord of the Rings là cách mà nó có thể thể hiện sự nhạy cảm của một chiến binh — sự cần thiết của một sự cứng rắn khi đối mặt với những thách thức tự nhiên và siêu nhiên — với cảm giác nhẹ nhàng, sâu sắc đầy mê hoặc đối với thiên nhiên và chúng sinh. Đồng thời, nó có thể kết hợp cả hai theo cách mà hai nhân vật của nó, giống như Chúa Kitô, vượt qua cái chết để đạt được những vinh quang vĩ đại. Gandalf Xám chết khi chiến đấu với một con rồng tại Cầu Khazaddûm và được phục sinh sau đó với sức mạnh thậm chí còn lớn hơn, bây giờ là Gandalf Trắng, vì sự hy sinh bản thân của ông. Con người Aragorn mạo hiểm đi qua Con đường của Người chết với hy vọng đến được đó kịp thời chiến thắng Mordor và trở thành một vị vua thực thụ. Những linh hồn “đã chết” xuất hiện cùng anh giúp lật ngược thế cờ thành thắng lợi. Nét đặc trưng trong đạo Công Giáo của Tolkien là cái chết và sự sống - cả hai phần của sự sáng thế - hợp tác trong việc giải quyết câu chuyện.
Tolkien không đưa ra nhiều bình luận về Giáo hội, nhưng một số bình luận quan trọng nhất của anh là trong Công đồng Vatican II. Giống như Evelyn Waugh và những người theo chủ nghĩa truyền thống khác, anh không thích những thay đổi này lắm, mặc dù anh bày tỏ sự ủng hộ đối với “những sự phát triển hoàn toàn mang tính 'đại kết'”. Nhưng trong cùng một bức thư, anh cảnh cáo con trai mình là Michael chống lại:
cuộc tìm kiếm “Thệ phản” trở ngược lại “sự đơn giản” và tính trực tiếp, tất nhiên, mặc dù nó chứa đựng một số động cơ tốt hoặc ít nhất là dễ hiểu, vẫn sai lầm và thực sự vô ích. Bởi vì “Kitô giáo nguyên thủy” hiện nay và bất chấp mọi “nghiên cứu” sẽ mãi mãi vẫn chưa được biết đến rộng rãi; bởi vì “tính nguyên thủy” không bảo đảm giá trị, và phần lớn chỉ phản ảnh sự thiếu hiểu biết. Lạm dụng nghiêm trọng là một yếu tố trong hành vi “phụng vụ” của Kitô giáo ngay từ đầu cũng như bây giờ. (Sự nghiêm khắc của Thánh Phaolô đối với hành vi Thánh Thể là đủ để cho thấy điều này!) Còn hơn thế nữa bởi vì “Giáo Hội của tôi” không được Chúa chúng ta dự định là tĩnh tụ hoặc ở lại trong thời thơ ấu vĩnh viễn; mà là một cơ thể sống động (giống như một thân cây) phát triển và thay đổi ở bên ngoài do sự tương tác giữa lịch sử và sự sống thần thiêng được thừa kế của nó — những hoàn cảnh đặc thù của thế giới mà nó được đặt vào. Không có sự giống nhau giữa “hạt cải” và cây trưởng thành. Đối với những người sống trong thời kỳ phát triển phân nhánh của nó, Cây là sự vật, vì lịch sử của một sinh vật sống là một phần cuộc sống của nó, và lịch sử của một vật thần thiêng là thánh thiêng. (66)
Quan điểm này rõ ràng có một số điểm tương đồng với các ý niệm “phát triển” của Newman, mà Tolkien có thể đã hấp thụ trong những năm đầu làm việc với Cha Morgan của Dòng Oratorian. Nhưng nó không giải quyết được nhiều câu hỏi về các bước đúng và sai trong lịch sử hoặc chỉ ra cách phân biệt chúng. Tuy nhiên, vẫn có một “khoa diễn giải liên tục” ở Tolkien, và, cũng bối rối như nhiều người vào thập niên 1960 bởi những biến động cả về thế tục lẫn tôn giáo, anh khuyên việc rước lễ—hàng ngày, nếu có thể—là cách chắc chắn duy nhất để giải quyết tình huống.
Có lẽ tiếng vang Kitô giáo sâu sắc nhất xuất hiện trong Lord of the Rings khi Frodo, người mang chiếc nhẫn và Sam, người bạn đồng hành trung thành của anh, gần Núi Doom, nơi họ hy vọng sẽ phá hủy chiếc nhẫn. Một đoạn văn được trích dẫn nhiều gói gọn một trong những chân lý nền tảng của toàn bộ Trung Địa. Khi Frodo và Sam đang nghỉ ngơi buổi tối gần kết thúc cuộc đấu tranh lâu dài của họ để đánh bại cái ác, Sam trầm ngâm: “Ở đó, nhìn trộm giữa đám mây bao phủ phía trên ngọn lửa tối cao trên núi, Sam thấy một ngôi sao trắng lấp lánh một lúc. Vẻ đẹp của nó đánh động trái tim anh, khi anh nhìn lên từ vùng đất bị bỏ hoang, và hy vọng đã quay trở lại với anh. Vì giống như một tia sáng, rõ ràng và lạnh lẽo, ý nghĩ xuyên thấu anh rằng cuối cùng Bóng tối chỉ là một thứ nhỏ bé và thoáng qua: có ánh sáng và vẻ đẹp cao cả vĩnh viễn nằm ngoài tầm với của nó.” (67) Loại hiểu biết sâu sắc này mạnh mẽ chính bởi vì nó xẩy ra ở phía bên kia của nhiều chết chóc và đau khổ, nghĩa là, nó là một viễn kiến hòa bình từng đối đầu với điều tồi tệ nhất mà thế giới từng cung ứng.
Nhưng những người hobbit của Tolkien sẽ không thành công trong nhiệm vụ, hơn bất cứ tạo vật nào khác của anh, vì công lao của chính họ. Sam dũng cảm cõng Frodo lên núi khi sức lực của người mang nhẫn đã suy yếu và anh không thể leo xa hơn. Nhưng có một bất ngờ lớn chờ đợi vào giây phút cuối cùng: Frodo sau ngần ấy thời gian không thể chia tay chiếc nhẫn. Ý chí của chính anh, giống như ý chí của tất cả các tạo vật ở Trung địa sa ngã không có khả năng tự giải thoát. Và chính Gollum - người đột ngột xuất hiện vào giây phút cuối cùng này - Gollum được cả Bilbo và Frodo tha mạng trong các tập trước mặc dù có nhiều tội ác, là người phạm tội cuối cùng. Anh ta cắn đứt ngón tay của Frodo và chiếc nhẫn cùng với nó: “'Quý giá, quý giá, quý giá!' Gollum kêu lên. 'Lòng thành kính của tôi! Hỡi Báu vật của tôi!’ Và với điều đó, ngay cả khi ngước mắt lên để hả hê với chiến thắng của mình, anh ta đã bước quá xa, ngã nhào, dao động một lúc trên bờ vực, và rồi anh ta ngã xuống với một tiếng thét chói tai. Từ vực thẳm vang lên tiếng than khóc cuối cùng của anh ta là Precious, và anh ấy đã ra đi.” (68)
Một người sáng tác kém hơn sẽ kết thúc câu chuyện ở đó, nhiệm vụ đã hoàn thành. Nhưng Tolkien tiếp tục viết thêm hai trăm trang nữa, ghi lại toàn bộ tác động của nó đối với vương quốc Aragorn, Quận Huyện, và chu kỳ tiến và lùi lớn hơn trong cuộc đấu tranh giữa thiện và ác. Và đối với Frodo và Sam. Người trước, sau mọi trải nghiệm của anh, phải mãi mãi đi đến Grey Lands. Người sau trở về Quận Huyện, nơi, sau khi chữa khỏi căn bệnh rồng đã xâm chiếm khi anh vắng mặt, anh kết hôn, lập gia đình và sống hạnh phúc—không phải mãi mãi, mà là trong hòa bình tạm thời dành cho anh và toàn bộ Quận Huyện nhờ trận chiến thành công chống lại việc nhập thể của cái ác gần đây nhất. Điều này thỏa mãn cảm thức của chúng ta rằng cái thiện phải chiến thắng trong một câu chuyện giả tưởng, nhưng nó cũng để toàn bộ câu chuyện nằm vững chắc trong điều được Tolkien thường gọi là "vực thẳm của thời gian", khoảng thời gian dài trước và sau cuộc sống trần thế của bất cứ tạo vật tử sinh nào mang lại cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về thể vĩnh cửu.
Trong nhiều thập niên, các độc giả đã bị mê hoặc bởi sức mạnh của Tolkien về vấn đề này. Một nhà phê bình sắc sảo không kém C. S. Lewis đã nói trong một bức thư gửi Tolkien sau khi đọc sản phẩm cuối cùng:
Tôi nghĩ nó vượt trội ở hai điểm: hoàn toàn là một sáng tạo phụ—Bombadil, Barrow Wights, Elves, Ents—như thể từ nguồn tài nguyên vô tận và công trình xây dựng. Cũng ở trong trọng lực. Không sự lãng mạn nào có thể đẩy lùi cáo buộc “chủ nghĩa thoát ly” một cách tự tin như vậy. Nếu có sai lầm, nó sai lầm chính theo hướng ngược lại: mọi hy vọng chiến thắng đều bị trì hoãn và sự chồng chất tàn nhẫn của tỷ lệ đánh cuộc chống lại các anh hùng gần như quá đau đớn. Và đoạn kết dài sau thảm họa tốt lành, cho dù bạn cố ý hay không, có tác dụng nhắc nhở chúng ta rằng chiến thắng cũng tạm bợ như xung đột... và vì vậy để lại một ấn tượng cuối cùng về sự sầu muộn sâu xa. Nó sẽ được xếp hạng, cùng với Aeneid, như một trong những cuốn sách mà tôi gọi là “tôn giáo phụ một cách trực tiếp tức” của mình. (69)
Việc Tolkien và Lewis đã gây ảnh hưởng sâu sắc như vậy là một dấu hiệu của sức sống văn hóa Kitô giáo liên tục nào đó, cũng như các thành viên khác trong nhóm văn học Oxford, Inklings, của họ. Như một nhà báo đã lập luận: “The Inklings, một câu lạc bộ uống rượu ở Oxford những năm 1930, là một lực lượng hùng mạnh hơn cả Bloomsbury Group, Algonquin lấy bối cảnh ở New York, bối cảnh ở Paris của Hemingway hay nhóm các nhà văn W. H. Auden/Christopher Isherwood của những năm 1930.” (70) Tất nhiên, những điều như vậy rất khó đánh giá với độ chính xác cao, nhưng việc một tuyên bố như vậy là hoàn toàn hợp lý đã nói lên rất nhiều điều về tiềm năng Kitô Giáo làm say mê thế giới trở lại trong thế kỷ hai mươi mốt.
__________________________________________________________________________________________________________________________________
(*) Eucatastrophe là sự thay đổi đột ngột của các sự kiện trong một câu chuyện nhằm đảm bảo rằng nhân vật chính không gặp phải một sự diệt vong khủng khiếp, sắp xảy ra, rất hợp lý và có thể xảy ra. Nhà văn J. R. R. Tolkien đã tạo ra từ này bằng cách thêm tiền tố Hy Lạp eu, có nghĩa là tốt, vào catastrophe [thảm họa], hạn từ được sử dụng theo truyền thống trong phê bình văn học lấy cảm hứng từ cổ điển để chỉ việc "làm sáng tỏ" hoặc kết thúc cốt truyện của một bộ phim truyền hình. Đối với Tolkien, thuật ngữ này dường như có một ý nghĩa chủ đề vượt xa ý nghĩa từ nguyên theo nghĩa đen của nó về mặt hình thức.Theo định nghĩa của ông như được nêu trong bài tiểu luận "Về những câu chuyện cổ tích" năm 1947, eucatastrophe là một phần căn bản trong quan niệm của ông về thần thoại học. Mặc dù Tolkien quan tâm đến thần thoại, nhưng nó được kết nối với Tin Mừng; Tolkien gọi Sự nhập thể của Chúa Kitô là eucatastrophe của "lịch sử nhân loại" và Sự phục sinh là eucatastrophe của Nhập thể. (Wikipedia).
VietCatholic TV
Khoáng đại NATO: Ukraine dồn dập tin vui, nhận 12 vũ khí tiên tiến nhất. Tai họa TQ nếu Putin thắng
VietCatholic Media
03:08 10/07/2024
1. Mỹ ám thị các tin tức tích cực về các hệ thống Patriot cho Ukraine
Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “US Teases 'Positive' Patriot Systems News for Ukraine”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Hoa Kỳ đã đưa ra những tin tức “tích cực” cho Ukraine về việc chuyển giao hệ thống phòng không Patriot.
“Sẽ có tin tức mới về phòng không. Người Ukraine đã yêu cầu NATO cung cấp 7 hệ thống Patriot vào tháng Tư. Và chúng tôi sẽ có phản hồi rất tích cực về vấn đề đó trong vài ngày tới”, Đại sứ Mỹ tại NATO Julianne Smith cho biết trong cuộc thảo luận trực tuyến về Chính sách đối ngoại, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ đưa tin hôm Thứ Ba, 09 Tháng Bẩy.
Ukraine hiện đang sở hữu ít nhất hai hệ thống phòng thủ hỏa tiễn Patriot, một hệ thống do Mỹ tài trợ và một hệ thống khác do Đức và Hòa Lan cùng gửi đến quốc gia bị chiến tranh tàn phá này.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy nói rằng Ukraine cần “tối thiểu” thêm “bảy hệ thống phòng không 'Patriots' hoặc tương tự” để bảo vệ đất nước mình khỏi các cuộc tấn công của Nga trong cuộc xâm lược toàn diện do nhà độc tài Vladimir Putin phát động vào tháng 2 năm 2022.
Putin “phải được kéo xuống trái đất và bầu trời của chúng tôi phải trở nên an toàn trở lại… Và điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự lựa chọn của bạn… lựa chọn liệu chúng ta có thực sự là đồng minh hay không”, nhà lãnh đạo Ukraine nói vào tháng 4 trong bài phát biểu trước Hội đồng NATO-Ukraine.
Smith cho biết “đây sẽ là một tuần quan trọng” ở Washington, đề cập đến hội nghị thượng đỉnh NATO, được tổ chức từ thứ Ba đến ngày 11 tháng 7.
Đại sứ Hoa Kỳ tại liên minh quân sự NATO cho biết đang theo dõi “những thông báo cụ thể sẽ được đưa ra đối với Ukraine, đối với các đồng minh NATO, tin tức về sản xuất quốc phòng, về tính bền vững và an ninh mạng”.
“Chúng tôi sẽ có một cam kết tài chính, theo đó cả Ukraine và Mạc Tư Khoa sẽ hiểu rất rõ ràng rằng chúng tôi, những đối tác xuyên Đại Tây Dương, sẽ không lùi bước. Như bạn đã biết, Putin đã dự đoán rằng tất cả chúng ta sẽ quay lưng lại. Chúng tôi không bị phân tâm. Chúng tôi tập trung vào vấn đề Ukraine và sẽ đi theo con đường đã chọn, vì vậy hãy chú ý theo dõi các thông báo về cam kết tài chính”, Smith nói thêm.
Bình luận của Smith được đưa ra khi Nga tiến hành một trong những cuộc tấn công nguy hiểm nhất trong năm, quân đội xâm lược Nga tung một loạt hỏa tiễn tấn công các mục tiêu trên khắp đất nước, bao gồm cả Bệnh viện Nhi Okhmatdyt ở Kyiv. Ít nhất 38 người thiệt mạng và 190 người bị thương trên toàn quốc.
Nga phủ nhận việc tấn công vào bệnh viện nhi đồng, hôm thứ Hai nói rằng các mảnh vỡ từ hỏa tiễn phòng không Ukraine đã rơi trúng cơ sở này. Ukraine cho biết người Nga đã sử dụng hỏa tiễn hành trình Kh-101 để tấn công địa điểm này. Cơ quan An ninh Ukraine cho biết họ đã tìm thấy mảnh vỡ của vũ khí.
Cơ quan An ninh Nhà nước Ukraine cho biết trên Telegram: “Kết luận của các chuyên gia là rõ ràng - đó là một cuộc tấn công trực tiếp”.
Nhà phân tích quân sự Nga Ian Matveev đã đánh giá trên X,, tại sao lực lượng phòng không của Kyiv không thể “đối phó với đợt pháo kích lớn của hỏa tiễn hành trình” hôm thứ Hai.
“Nếu chúng ta nhớ lại các cuộc tấn công trong quá khứ, hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa đã tấn công Kyiv theo từng đợt. Có lẽ lần này, quân đội Nga đã có thể đoán trước và phóng tất cả hỏa tiễn cùng một lúc trong một khoảng thời gian ngắn. Chỉ trong phạm vi từ 2 đến 3 phút, nghĩa là, các cuộc tấn công tập trung của 5 hay 6 hỏa tiễn chỉ trong vài chục giây”, ông nói.
Matveev tiếp tục: “Nhưng hệ thống phòng không Ukraine hóa ra không đủ mạnh để vượt qua tình trạng quá tải như vậy vào lúc này”.
“Trong mọi trường hợp, nguyên nhân sâu xa đều rõ ràng, đó là việc thiếu các hệ thống hiện đại như Patriot. Để phòng thủ toàn diện và theo lớp, Ukraine cần thêm ít nhất 10 tổ hợp hoàn chỉnh, mỗi tổ hợp có 8 bệ phóng”, ông nói thêm. “Sau đó, có thể bắn hạ một phần đáng kể hỏa tiễn khi tiếp cận Kyiv và sẽ không thể tạo ra tình trạng quá tải”.
2. Ngũ Giác Đài cho biết cuộc tấn công cho thấy Ukraine cần tăng cường phòng không
Trong cuộc họp báo tại Washington hôm Thứ Ba, 09 Tháng Bẩy, phát ngôn nhân Ngũ Giác Đài, Thiếu Tướng Pat Ryder, cho biết, cuộc tấn công hàng loạt của Nga vào các thành phố của Ukraine nêu bật sự cần thiết phải tiếp tục hỗ trợ Kyiv, đặc biệt là các hệ thống phòng không. Tướng Ryder đưa ra lập trường trên ngay trước hội nghị thượng đỉnh NATO ở Washington DC.
Nga đã tiến hành cuộc tấn công hỏa tiễn nhằm vào Kyiv, Dnipro, Kryvyi Rih và Povkrovsk vào sáng 8 Tháng Bẩy, khiến ít nhất 38 người thiệt mạng và hơn 170 người bị thương.
Bộ Quốc phòng nhấn mạnh rằng vụ tấn công xảy ra một ngày trước hội nghị thượng đỉnh NATO ở Washington, DC kéo dài từ 9 đến 11 Tháng Bẩy, như một thách thức của Nga không chỉ đối với NATO mà còn là đối với lương tâm thế giới.
Ryder cho biết Ukraine “đã nắm bắt được cơ hội” bằng cách xây dựng một hệ thống phòng thủ viện trợ tích hợp “bao gồm các hệ thống, radar, bệ phóng khác nhau và hơn thế nữa” và cũng đã nhận được các hệ thống phòng không từ một số đối tác.
Ryder nói: “Thật không may, số lượng hỏa lực mà Nga sử dụng để chống lại Ukraine đã làm căng thẳng hệ thống này”.
Cuộc tấn công ngày 8 tháng 7 là một lời nhắc nhở về lý do tại sao Mỹ “vẫn cam kết hợp tác với các đồng minh và đối tác để giúp Ukraine có được khả năng phòng không cần thiết để bảo vệ công dân và chủ quyền của mình”, Tướng Ryder nói thêm.
Viện trợ phải được cung cấp cho Ukraine một cách nhanh chóng, nhưng “cũng phải có một kế hoạch dài hạn để giúp Ukraine tự vệ trong tương lai”.
Kyiv đã nhiều lần kêu gọi tăng cường phòng không trong những tháng gần đây sau khi phải đối mặt với các cuộc tấn công ngày càng dữ dội từ trên không của Nga, giáng đòn nặng nề vào cơ sở hạ tầng năng lượng của đất nước.
Phát ngôn nhân của lực lượng không quân Ukraine, Đại Tá Yurii Ihnat cho biết lực lượng Nga đã cải tiến hỏa tiễn đạn đạo và hành trình, khiến chúng khó bị bắn hạ hơn.
Các hỏa tiễn hành trình đã di chuyển ở độ cao cực thấp trong các cuộc tấn công gần đây. Một số mục tiêu trên không đã bị bắn hạ ở độ cao 50 mét, điều này “cũng có thể dẫn đến hậu quả khủng khiếp trên mặt đất”.
3. NATO cần hướng tới Thái Bình Dương vì thực tế hiện tại, Tổng Thư Ký Jens Stoltenberg nói
Tờ Politico có trụ sở ở Washington DC cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “NATO needs to look toward Pacific because of current realities, Jens Stoltenberg says”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thúy Nga.
Hôm Thứ Hai, 08 Tháng Bẩy, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg cho biết sự hiện diện của Úc, Nhật Bản, Tân Tây Lan và Nam Hàn tại hội nghị thượng đỉnh NATO tuần này cho thấy thế giới đang trở nên phức tạp hơn.
Phát biểu với các phóng viên báo chí, ông nói: “Cuộc chiến ở Ukraine chứng tỏ Nga, Trung Quốc, Bắc Hàn và Iran liên kết chặt chẽ với nhau như thế nào. Trung Quốc là tác nhân chính gây ra cuộc xâm lược của Nga chống lại Ukraine.”
Đề cập đến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Putin, Stoltenberg nói thêm: “Tất cả họ đều muốn NATO, Mỹ thất bại ở Ukraine, và nếu Putin thắng ở Ukraine, điều đó không chỉ khuyến khích Putin mà còn khuyến khích Chủ tịch Tập”. Như Thủ tướng Nhật Bản đã nói: “Những gì xảy ra ở Ukraine hôm nay có thể xảy ra ở Á Châu vào ngày mai”.
NATO, ra đời năm 1949 như một câu trả lời của phương Tây trước sự thống trị của Liên Xô ở Đông Âu, sẽ kỷ niệm 75 năm thành lập bằng hội nghị thượng đỉnh ở Washington từ thứ Ba đến thứ Năm.
Liên minh hiện có 32 thành viên, có thêm Phần Lan và Thụy Điển kể từ khi bắt đầu cuộc chiến Nga-Ukraine. Ukraine vẫn chưa được NATO chính thức mời và không rõ khi nào điều đó có thể xảy ra.
Dù vậy, Stoltenberg nói rằng việc hỗ trợ Ukraine trong cuộc chiến chống lại Nga vẫn là ưu tiên hàng đầu.
“Chúng tôi đang đưa ra những quyết định quan trọng”, ông Stoltenberg nói về hội nghị thượng đỉnh, “về việc tăng cường hỗ trợ cho Ukraine và NATO sẽ đảm nhận việc cung cấp và điều phối hỗ trợ an ninh cho Ukraine”.
Stoltenberg cho biết ông không hề bối rối trước chuyến thăm gần đây của Thủ tướng Hung Gia Lợi Victor Orbán tới Mạc Tư Khoa, nơi Orbán gặp Putin về cái mà ông gọi là “sứ mệnh hòa bình”. Hung Gia Lợi, trước đây là một phần của khối Xô Viết trong Chiến tranh Lạnh, đã trở thành một quốc gia NATO từ năm 1999.
“ Điều quan trọng đối với tôi là tất cả các đồng minh đều đồng ý rằng chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa cho Ukraine,” Stoltenberg nói, đồng thời cho biết liên minh không quan tâm đến một nền hòa bình cho phép các lực lượng Nga tiếp tục xâm lược lãnh thổ Ukraine.
Đây sẽ là hội nghị thượng đỉnh cuối cùng như vậy dưới sự lãnh đạo của Stoltenberg, cựu thủ tướng Na Uy. Người sẽ kế nhiệm ông vào Tháng Mười là cựu Thủ tướng Hòa Lan Mark Rutte.
Stoltenberg từ chối trả lời các câu hỏi từ người dẫn chương trình Robert Costa về khả năng tranh cử của Tổng thống Joe Biden hay bất kỳ điều gì khác liên quan đến cuộc bầu cử Mỹ năm 2024.
“Tôi nghĩ điều quan trọng là NATO phải tránh xa những cuộc thảo luận nội bộ kiểu đó. Tất nhiên, chúng quan trọng đối với Hoa Kỳ, nhưng NATO không nên tham gia vào đó”, ông nói.
4. Đồng minh NATO điều động chiến đấu cơ giữa cuộc tấn công nguy hiểm nhất năm 2024 của Nga
Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “NATO Ally Scrambles Fighter Jets Amid Russia's Deadliest Attack of 2024”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Hôm Thứ Hai, 08 Tháng Bẩy, Ba Lan đã điều động chiến đấu cơ để bảo vệ không phận khi Nga tiến hành cuộc tấn công nguy hiểm nhất trong năm nhằm vào Ukraine, bắn một loạt hỏa tiễn khắp đất nước.
Các máy bay phản lực này được phóng lên sau khi máy bay Nga “lại bắt đầu bắn hỏa tiễn vào Ukraine”, Không quân Ba Lan cho biết trong một tuyên bố trên X, trước đây gọi là Twitter.
Warsaw đã buộc phải điều động chiến đấu cơ của mình nhiều lần trong suốt cuộc chiến như một phần của các biện pháp bảo vệ không phận của mình trước các cuộc tấn công hỏa tiễn quy mô lớn của Nga vào Ukraine. Ba Lan cho biết hỏa tiễn Nga bắn vào miền Tây Ukraine đã bay vào không phận nước này nhiều lần. Mạc Tư Khoa cho biết các cuộc xâm nhập là vô tình.
Lực lượng không quân cho biết: “Tất cả các thủ tục cần thiết đã được bắt đầu để bảo đảm an toàn cho không phận Ba Lan”. “Ở phía đông nam đất nước, mức độ tiếng ồn có thể gia tăng liên quan đến hoạt động của hàng không quân sự Ba Lan và đồng minh trong khu vực của chúng tôi.”
“Bộ chỉ huy tác chiến của các lực lượng vũ trang theo dõi tình hình liên tục và sẵn sàng ứng phó ngay lập tức với các mối đe dọa”, thông báo nói thêm.
Các quan chức Ukraine hôm thứ Hai cho biết ít nhất 37 người đã thiệt mạng và 170 người khác bị thương trong các cuộc không kích của Nga trên toàn quốc.
Bộ trưởng Y tế Ukraine Viktor Lyashko cho biết Bệnh viện Nhi Okhmatdyt ở thủ đô Ukraine đã bị tấn công, làm hư hại các khoa chăm sóc đặc biệt, phẫu thuật và ung thư.
“Các thành phố khác nhau: Kyiv, Dnipro, Kryvyi Rih, Sloviansk, Kramatorsk. Hơn 40 hỏa tiễn các loại. Các tòa nhà dân cư, cơ sở hạ tầng và bệnh viện nhi đã bị hư hại”, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy nói về vụ tấn công.
Zelenskiy cho biết trong một tuyên bố trên các kênh truyền thông xã hội của mình rằng có thể có một số người bị mắc kẹt dưới đống đổ nát tại Bệnh viện Nhi Okhmatdyt.
Nhà lãnh đạo Ukraine viết: “Ngay bây giờ, mọi người đang giúp dọn dẹp đống đổ nát - các bác sĩ và người dân bình thường”.
“Nga không thể tuyên bố không biết hỏa tiễn của mình đang bay ở đâu và phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi tội ác của mình. Chống lại con người, chống lại trẻ em, chống lại loài người nói chung”, ông nói thêm.
Thị trưởng Kyiv Vitaliy Klitschko nói với Reuters rằng cuộc tấn công vào bệnh viện nhi là “một trong những cuộc tấn công tồi tệ nhất” vào thành phố kể từ khi Nga phát động cuộc tấn công toàn diện vào ngày 24 tháng 2 năm 2022.
Ủy ban Cấp cứu Quốc tế, gọi tắt là IRC, một tổ chức viện trợ nhân đạo quốc tế, đã lên án vụ tấn công trong một tuyên bố gửi qua email tới Newsweek.
Marko Isajlovic, điều phối viên y tế của IRC tại Ukraine, cho biết: “Không đứa trẻ nào phải lớn lên dưới sự đe dọa của các cuộc tấn công hỏa tiễn”. “Không đứa trẻ nào phải mạo hiểm thiệt mạng giữa đống đổ nát của bệnh viện vốn được coi là nơi trú ẩn an toàn để chữa lành và phục hồi. Các cơ sở y tế được bảo vệ theo luật pháp quốc tế và phải tránh xa nguy cơ bị tổn hại trong thời điểm xảy ra xung đột.”
Alla Nesolionova, nữ bác sĩ tại trung tâm tim mạch thuộc bệnh viện Okhmatdyt, có đồng nghiệp tử nạn nói với Kyiv Independent rằng:
“Tôi không hiểu sao con người lại có thể trở thành súc vật như vậy. Ngay cả súc vật cũng không làm những việc khốn nạn như thế này. Bọn Nga thậm chí không phải là súc vật”,
“Tôi không biết làm thế nào những tên phi công chó má này có thể phóng hỏa tiễn. Chúng nó biết mục tiêu. Chúng nó biết tọa độ.”
“Điều duy nhất tôi muốn là điều này sẽ trở lại với chúng tồi tệ hơn gấp triệu lần. Tôi muốn chúng cảm nhận được điều đó trên chính làn da của mình”, cô nói thêm.
Nga chưa bình luận về các cuộc tấn công, nhưng phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov nói với các phóng viên hôm thứ Hai rằng nhà độc tài Vladimir Putin “là người ủng hộ trung thành cho những nỗ lực chính trị và ngoại giao nhằm tìm ra giải pháp cho cuộc xung đột Ukraine”.
5. Mạc Tư Khoa sử dụng khinh khí cầu để đẩy lùi các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine
Tờ Kyiv Independent cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Moscow to use barrage balloons to repel Ukrainian drone attacks”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thúy Nga.
Chính phủ Nga có kế hoạch xây dựng một mạng lưới khinh khí cầu, được gọi là hệ thống bảo vệ “Rào cản”, nhằm đẩy lùi các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa tầm xa của Ukraine, thông tấn xã Interfax của Nga đưa tin hôm Thứ Hai, 08 Tháng Bẩy.
Lực lượng Ukraine thường xuyên tiến hành các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa và các hoạt động phá hoại trên lãnh thổ Nga, nhắm vào các căn cứ quân sự, nhà máy lọc dầu và cơ sở công nghiệp, lợi nhuận từ việc này sẽ thúc đẩy các nỗ lực chiến tranh của Mạc Tư Khoa.
Theo Interfax, công ty hàng không vũ trụ First Airship của Nga đã phát triển một nguyên mẫu khinh khí cầu và bắt đầu thử nghiệm nó.
Polina Albek, tổng giám đốc của First Airship, thông báo rằng công ty của bà đã nhận được đơn đặt hàng đầu tiên về khinh khí cầu.
Những quả bóng bay này được cho là có khả năng tạo ra một mạng lưới nhằm bảo vệ cơ sở hạ tầng năng lượng và các mục tiêu quan trọng khác ở sâu bên trong nước Nga khỏi các cuộc tấn công của Ukraine.
Những quả bóng bay sẽ được đặt trong nhà chứa máy bay. Từ đó, chúng sẽ bay lên nhanh chóng liên tiếp rồi thả tấm lưới cao 250 m để tạo thành công trình phòng thủ trên không.
Interfax đưa tin, mỗi khinh khí cầu có thể bay cao 300 mét so với mặt đất, mang tải trọng tối đa 30kg, đủ để mang theo một tấm lưới nhẹ.
Các khinh khí cầu cũng có thể được trang bị radar, thiết bị gây nhiễu điện tử và máy quay video, cung cấp tầm nhìn 360 độ và có phạm vi lên tới khoảng 11 km.
“Những khả năng này cho phép bao phủ đáng kể theo chiều dọc, tạo ra một rào cản hiệu quả chống lại các máy bay điều khiển từ xa bay thấp đe dọa các địa điểm nhạy cảm. Máy bay điều khiển từ xa không thể nhìn thấy lưới mắt lưới, nó quá mỏng đối với chúng”, Albek khẳng định.
Albek nói thêm rằng khinh khí cầu có thể được gắn một “súng chân không” để đánh chặn máy bay điều khiển từ xa, bắn một tấm lưới “siêu nhẹ và cực mạnh” vào chúng.
Nga đã sử dụng khinh khí cầu trong cuộc chiến ở Ukraine.
Không quân Ukraine năm ngoái báo cáo rằng quân đội Nga đã sử dụng khinh khí cầu phản chiếu trên bầu trời Kyiv để gây nhầm lẫn cho lực lượng phòng không trước khi tiến hành các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa thực sự.
Khinh khí cầu cũng được sử dụng rộng rãi trong Thế chiến thứ nhất và thứ hai.
6. Hòa Lan gửi chiến đấu cơ F-16 tới Ukraine 'không chậm trễ'
Tờ Kyiv Post cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Netherlands to Send F-16 Fighter Jets to Ukraine 'Without Delay'“. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thu Trinh.
Ngoại trưởng Caspar Veldkamp tuyên bố Hòa Lan sẽ gửi chiến đấu cơ F-16 tới Ukraine “không chậm trễ”.
Trong chuyến công du quốc tế đầu tiên kể từ khi nhậm chức vào tuần trước, Veldkamp xác nhận rằng Hòa Lan sẵn sàng điều động các máy bay phản lực này sau khi giấy phép xuất khẩu được phê duyệt vào tuần trước.
Veldkamp cho biết trong cuộc họp báo ở Kyiv: “Với việc phê duyệt những chiếc F-16 đầu tiên, chúng sẽ được giao ngay lập tức”.
Vì lý do an ninh, chi tiết chuyến thăm được giữ bí mật cho đến Chúa Nhật. Trong khi Veldkamp không nêu rõ ngày giao hàng, Hòa Lan đã cam kết gửi 24 chiếc F-16.
Veldkamp đại diện cho một liên minh cầm quyền mới trong đó Đảng cực hữu vì Tự do, gọi tắt là PVV, do Geert Wilders lãnh đạo là đảng chiếm được nhiều ghế nhất trong Quốc Hội. Sau nhiều tháng đàm phán, chính phủ mới và Wilders đã tái khẳng định sự ủng hộ của họ đối với Ukraine.
Ukraine đã yêu cầu F-16 ngay sau cuộc xâm lược của Nga vào tháng 2 năm 2022. Các phi công và phi hành đoàn Ukraine đã được huấn luyện trên những chiếc máy bay phản lực này ở các nước NATO trước khi các chiến đấu cơ đến Ukraine.
Một số quốc gia NATO đã cam kết gửi F-16, loại máy bay nổi tiếng về độ chính xác, tốc độ và tầm bắn.
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã đề cập trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng 5 rằng Kyiv cần khoảng 130 máy bay phản lực để đạt được sự ngang bằng về không quân với Nga, nhưng các nước phương Tây cam kết gửi ít hơn 100 chiếc.
Nga cảnh báo sẽ tấn công vào bất kỳ thiết bị quân sự nào của phương Tây, bao gồm cả F-16, được gửi tới Ukraine. Tuần trước, Nga tuyên bố đã tấn công ba căn cứ không quân của Ukraine trong ba ngày, làm dấy lên lo ngại về khả năng của Kyiv trong việc bảo vệ các phi trường của mình trước khi các máy bay phản lực đến.
7. Thủ tướng Donald Tusk cho biết Ba Lan để ngỏ ý tưởng bắn hạ hỏa tiễn Nga hướng tới lãnh thổ NATO khi vẫn còn trên đất Ukraine
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã đến thăm Thủ tướng Ba Lan, Donald Tusk, tại Warsaw trước hội nghị thượng đỉnh NATO ở Washington vào ngày Thứ Ba, 09 Tháng Bẩy.
Phát biểu với các phóng viên, Thủ tướng Tusk cho biết Ba Lan để ngỏ ý tưởng bắn hạ hỏa tiễn Nga đang hướng tới lãnh thổ NATO khi chúng vẫn còn trên đất Ukraine.
Ông nói: “Chúng tôi cần sự hợp tác rõ ràng trong NATO ở đây, bởi vì những hành động như vậy đòi hỏi trách nhiệm chung của NATO… chúng tôi cởi mở với điều đó, logic cho thấy rằng đây chắc chắn sẽ là một hành động hiệu quả hơn”.
Bình luận của ông được đưa ra khi ông Zelenskiy thề rằng Ukraine sẽ trả đũa sau khi các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga đã làm thiệt mạng ít nhất 37 người trên khắp đất nước ông và làm hư hại một bệnh viện nhi khoa ở Kyiv.
Tổng thống Ukraine kêu gọi các đồng minh của Kyiv đưa ra phản ứng cứng rắn trước vụ tấn công hôm thứ Hai trong cuộc họp báo bắt đầu bằng một phút mặc niệm dành cho các nạn nhân.
Zelenskiy nói:
Tôi cũng muốn nghe từ các đối tác của chúng tôi về khả năng phục hồi tốt hơn và phản ứng mạnh mẽ hơn trước đòn mà Nga một lần nữa giáng xuống người dân, đất đai của chúng tôi, con cái của chúng tôi.
Chúng tôi sẽ trả đũa những người này, chắc chắn chúng tôi sẽ đưa ra phản ứng mạnh mẽ từ phía chúng tôi đối với Nga.
Zelenskiy cho biết Kyiv muốn có thể sử dụng vũ khí do các đối tác cung cấp để tấn công các địa điểm ở Nga nơi các cuộc tấn công được phát động.
Ông nói: “Tôi nghĩ, chúng tôi thực sự mong muốn nhận được quyết định như vậy từ các đối tác của mình”. “Nếu không họ lại phải chứng kiến các cuộc tấn công được lặp đi lặp lại.”
Zelenskiy cho biết Ukraine đang chờ đợi những bước đi cụ thể từ các đối tác phương Tây để tăng cường phòng không và bảo vệ ngành năng lượng.
8. Đức công bố gói viện trợ quân sự mới, trong đó có hệ thống phòng không Patriot
Berlin đã công bố gói viện trợ quân sự mới cho Ukraine, bao gồm hệ thống phòng không Patriot cùng các phụ tùng thay thế và hỏa tiễn bổ sung, Bộ Quốc phòng nước này thông báo hôm 8 Tháng Bẩy.
Đại sứ Đức tại Kyiv, Martin Jaeger, cho biết hệ thống phòng không Patriot trong gói hàng này đã được chuyển giao cho Ukraine trước đó.
Đây là hệ thống Patriot thứ ba được Berlin cam kết với Kyiv.
Vào ngày 8 tháng 7, có thông báo rằng gói hàng này sẽ bao gồm thêm đạn cho xe tăng Leopard 1, 9.000 viên đạn cho súng phòng không Gepard, 55.000 viên đạn 155ly từ kho nội địa của Đức, cũng như 58.000 viên đạn 40ly.
Đức cũng sẽ cung cấp cho Ukraine hai radar giám sát trên không TRML-4D, 30 máy bay điều khiển từ xa trinh sát Vector, 200 thiết bị gây nhiễu máy bay điều khiển từ xa di động, 10 tàu mặt nước điều khiển từ xa, 4 xe tăng rà phá bom mìn Wisent 1 và một xe thiết giáp Bergepanzer 2.
Berlin cũng sẽ cung cấp cho Lực lượng vũ trang Ukraine lựu đạn khói, nhiều loại súng trường, súng máy, thiết bị đầu cuối SatCom, kính nhìn đêm và xe bán tải.
Đức cho biết vào tháng 5 rằng họ có kế hoạch tăng viện trợ quân sự cho Ukraine thêm 3,8 tỷ euro hay 4,13 tỷ Mỹ Kim vào năm 2024.
Chính phủ Đức đã công bố gói quân sự trước đó cho Ukraine vào tháng 6. Nó bao gồm ba bệ phóng hỏa tiễn HIMARS cùng nhiều thiết bị khác.
Ban đầu là một đối tác do dự, Berlin đã trở thành nhà tài trợ quân sự lớn thứ hai cho Ukraine sau Mỹ, mặc dù Thủ tướng Đức Olaf Scholz vẫn miễn cưỡng cung cấp một số năng lực quan trọng, cụ thể là hỏa tiễn tầm xa Taurus.
9. Italy cáo buộc Nga phạm tội ác chiến tranh sau vụ tấn công bệnh viện nhi đồng
Ý cáo buộc Nga phạm tội ác chiến tranh trong vụ tấn công hỏa tiễn nhằm vào thủ đô Ukraine và làm hư hại một bệnh viện nhi.
Ngoại trưởng Ý Antonio Tajani hôm thứ Hai kêu gọi quốc tế lên án Nga.
“Tôi bị sốc trước những hình ảnh về vụ đánh bom ở Kyiv, đặc biệt là vụ đánh bom một bệnh viện nhi khoa. Toàn bộ cộng đồng quốc tế phải lên án những tội ác chiến tranh”, Tajani nói và nhấn mạnh rằng: “Chính phủ Ý sẽ tiếp tục bảo vệ chủ quyền của Ukraine và người dân Ukraine”.
10. SBU đứng sau cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa vào kho dầu Krasnodar Krai của Nga
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Hai, 08 Tháng Bẩy, Phát ngôn nhân Cục Tình Báo Quân Đội Ukraine, Đại Úy Andriy Yusov, cho biết Tổng cục Tình báo Ukraine, gọi tắt là HUR, đứng sau các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa đã được báo cáo ở vùng Krasnodar Krai của Nga trong đêm 6 Tháng Bẩy, gây ra hỏa hoạn lớn tại hai kho chứa dầu.
Hãng tin RIA Novosti do nhà nước Nga kiểm soát tuyên bố rằng các mảnh vỡ của máy bay điều khiển từ xa bị bắn rơi đã gây ra hỏa hoạn tại một bể chứa nhiên liệu ở làng Pavlov, cũng như một vụ cháy khác tại một kho dầu ở cộng đồng Leningrad.
Đại Úy Yusov cho biết HUR đã đứng sau vụ tấn công vào “Lukoil-Yugnefteprodukt” của Nga.
Ông cho biết: “Cho đến hôm Chúa Nhật, người Nga vẫn chưa thể dập tắt đám cháy lớn cả ngày, bắt đầu do cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa vào kho dầu gần cộng đồng Pavlov ở Krasnodar Krai”. “Một đám cháy lớn ở hai bể chứa sản phẩm dầu mỏ đã bắt đầu sau hai vụ nổ.”
Ông cho biết, máy bay điều khiển từ xa của SBU cũng gây ra một loạt vụ nổ trên lãnh thổ kho dầu “Rosneft-Kubanneftepodukt” ở cộng đồng Leningrad, làm hư hại ít nhất 3 bể chứa nhiên liệu.
Suốt đêm, nhiều cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa đã được báo cáo tại các cộng đồng Eisk, Leningrad và Pavlov của Krasnodar Krai.
Một tháp di động cũng được cho là đã bị hư hại ở làng Eisk do một máy bay điều khiển từ xa khác bị bắn rơi.
Trong những tháng gần đây, các lực lượng Ukraine đã tiến hành một loạt cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa nhằm gây thiệt hại cho ngành công nghiệp dầu mỏ của Nga, lợi nhuận thu được từ việc này đã thúc đẩy các nỗ lực chiến tranh của Mạc Tư Khoa.
Trước đó vào ngày 7 Tháng Bẩy, một nguồn tin thực thi pháp luật cũng nói với Kyiv Independent rằng các máy bay điều khiển từ xa của Ukraine do SBU vận hành đã tấn công một kho đạn dược lớn ở làng Sergeevka thuộc tỉnh Voronezh.
Nguồn tin cho biết: “Trên diện tích 9 km2, đối phương đã cất giữ hỏa tiễn đất đối đất và đất đối không, đạn pháo cho xe tăng và pháo binh cũng như hộp đạn cho súng cầm tay”.
11. Nga cải tiến hỏa tiễn hành trình và đạn đạo để khó bị bắn hạ hơn
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Ba, 09 Tháng Bẩy, Phát ngôn nhân của lực lượng không quân Ukraine, Đại Tá Yurii Ihnat, cho biết các lực lượng Nga đã cải tiến hỏa tiễn đạn đạo và hành trình, khiến chúng trở nên khó bị phát hiện và bắn hạ hơn.
Nga đã tiến hành cuộc tấn công hỏa tiễn hàng loạt vào Kyiv và các thành phố khác trên khắp Ukraine vào sáng 8 Tháng Bẩy, khiến ít nhất 37 dân thường thiệt mạng và 170 người khác bị thương.
Cơ quan Dịch vụ Khẩn cấp Nhà nước đưa tin, cuộc tấn công trên không nhằm vào Kyiv, Dnipro, Kryvyi Rih, Sloviansk, Pokrovsk và Kramatorsk, làm hư hại “50 địa điểm dân sự, bao gồm các tòa nhà dân cư, một trung tâm thương mại và hai cơ sở y tế”.
Theo Đại Tá Ihnat, quân đội Nga còn trang bị thêm radar và bẫy nhiệt cho hỏa tiễn của mình.
Các hỏa tiễn hành trình đã di chuyển ở độ cao cực thấp trong các cuộc tấn công gần đây. Ông cho biết, một số mục tiêu trên không đã bị bắn hạ ở độ cao 50 mét, điều này “cũng có thể dẫn đến hậu quả khủng khiếp trên mặt đất cho dù hỏa tiễn đã bị bắn hạ”.
Ông cho biết thêm, Nga đã phóng 44 hỏa tiễn các loại vào các thành phố của Ukraine trong ngày qua.
Không quân trước đó đưa tin lực lượng Ukraine đã bắn rơi 30 trong số 38 hỏa tiễn phóng vào Ukraine vào sáng 8 Tháng Bẩy.
Đại Tá Ihnat nói: “Lực lượng phòng không đôi khi bị áp đảo trước số lượng các hỏa tiễn vượt quá giới hạn của vũ khí và thiết bị sẵn có để bắn hạ chúng”.
Tan tành tuyến hoả xa Nga mới làm, phi trường rực lửa. Zelenskiy: ATACMS vào Nga, Putin thua chắc
VietCatholic Media
15:20 10/07/2024
1. NATO sẽ công bố bộ chỉ huy quân sự mới để huấn luyện quân đội Ukraine, bổ nhiệm đại diện NATO ở Kyiv
Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Jake Sullivan cho biết trong những ngày tới, liên minh NATO sẽ công bố bộ chỉ huy quân sự mới ở Đức để huấn luyện và trang bị cho quân đội Ukraine, cũng như bổ nhiệm một đại diện cao cấp mới của NATO tại Kyiv. Ông cho biết như trên trong Hội nghị thượng đỉnh NATO ở Washington.
Phác thảo các biện pháp mà Mỹ và các đồng minh NATO sẽ thực hiện để hỗ trợ thêm cho Ukraine, Sullivan nêu chi tiết ngắn gọn về “các biện pháp mới mạnh mẽ”, bao gồm các kế hoạch chưa được công bố trước đây để một vị tướng ba sao lãnh đạo một bộ chỉ huy quân sự mới của Đức nhằm “đào tạo, trang bị và phát triển lực lượng, và các chương trình đào tạo nâng cao dành cho quân đội Ukraine.”
Sullivan cũng thông báo rằng Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg sẽ bổ nhiệm một đại diện cao cấp mới của NATO tại Kyiv để “làm sâu sắc thêm mối quan hệ thể chế của Ukraine với liên minh và đóng vai trò là đầu mối cho sự tham gia của NATO với các quan chức cao cấp của Ukraine”.
Trong nhận xét của mình, Sullivan đề cập đến những hỗ trợ phòng không dự kiến dành cho Ukraine cũng như thỏa thuận cung cấp cho Ukraine viện trợ quân sự trị giá 40 tỷ euro hay 43 tỷ Mỹ Kim vào năm tới.
Sau nhận xét của Sullivan, Tổng thống Mỹ Joe Biden tuyên bố rằng Mỹ và các đồng minh NATO sẽ chuyển giao “hàng chục” hệ thống phòng không trong những tháng tới cho Ukraine, bao gồm ít nhất 4 khẩu đội Patriot.
2. Zelenskiy kêu gọi Mỹ dỡ bỏ hạn chế tấn công sâu vào lãnh thổ Nga. Ukraine nhận được ít nhất 4 khẩu đội Patriot.
Mỹ nên cho phép lực lượng Ukraine sử dụng vũ khí của Mỹ để thực hiện các cuộc tấn công nhằm vào các mục tiêu quân sự ở Nga và xâm lược Crimea, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy nói trong bài phát biểu tại Viện Ronald Reagan ở Washington, DC hôm 9 Tháng Bẩy.
Zelenskiy đã đưa ra những nhận xét bên lề Hội nghị thượng đỉnh NATO ở Washington, một hội nghị kéo dài ba ngày kỷ niệm 75 năm thành lập Liên minh và tập trung chủ yếu vào cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine.
“Hãy tưởng tượng chúng ta có thể đạt được bao nhiêu khi mọi hạn chế được dỡ bỏ,” Zelenskiy nói.
Chính sách của Mỹ hiện ngăn cản quân đội Ukraine sử dụng ATACMS và các loại vũ khí tầm xa khác của Mỹ để tấn công các mục tiêu nằm sâu trong lãnh thổ Nga.
Khi Nga phát động cuộc tấn công tăng cường nhằm vào tỉnh Kharkiv vào tháng 5, Mỹ đã tạm thời cấp cho Ukraine quyền sử dụng vũ khí của Mỹ để tấn công các mục tiêu của Nga gần biên giới trong khu vực.
Zelenskiy ca ngợi quyết định này trong bài phát biểu của mình, nói rằng nó cho phép lực lượng Ukraine đẩy lùi cuộc tấn công của Nga và bảo vệ tốt hơn các thành phố ở Kharkiv khỏi các cuộc tấn công không ngừng nghỉ.
Ông nói: “Tương tự như vậy, bây giờ chúng tôi có thể bảo vệ các thành phố của mình khỏi bom dẫn đường của Nga nếu lãnh đạo Mỹ tiến thêm một bước và cho phép chúng tôi tiêu diệt máy bay quân sự Nga tại căn cứ của họ”.
Tổng thống cho biết một quyết định như vậy sẽ tạo ra “kết quả ngay lập tức”.
Zelenskiy nói tiếp rằng các cuộc tấn công tầm xa bằng vũ khí của Mỹ có thể thúc đẩy cuộc phản công của Ukraine tại các vùng lãnh thổ bị Nga tạm chiếm.
Ông nói: “Và chúng tôi có thể hạn chế đáng kể các hành động của Nga ở miền nam Ukraine và đẩy kẻ xâm lược ra khỏi đó nếu lãnh đạo Mỹ hỗ trợ chúng tôi với khả năng tấn công sâu cần thiết nhằm vào quân đội và hậu cần của Nga ở Crimea của Ukraine”.
Bài phát biểu được đưa ra một ngày sau khi Nga tiến hành cuộc tấn công hỏa tiễn hàng loạt vào ngày 8 Tháng Bẩy khiến hơn 200 dân thường thiệt mạng và nhắm vào một bệnh viện nhi.
Phát ngôn nhân Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ John Kirby cho biết Hoa Kỳ chưa thay đổi chính sách đối với các cuộc tấn công của Ukraine ở Nga sau vụ tấn công.
Phát biểu nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Liên Minh Bắc Đại Tây Dương, gọi tắt là NATO, Tổng thống Mỹ Joe Biden tuyên bố rằng Mỹ và các đồng minh NATO sẽ chuyển giao “hàng chục” hệ thống phòng không trong những tháng tới cho Ukraine, bao gồm ít nhất 4 khẩu đội Patriot.
3. Các đồng minh của Mỹ, NATO sẽ cung cấp 'hàng chục' hệ thống phòng không trong những tháng tới, trong đó có 4 chiếc Patriot
Mỹ và ít nhất 9 đồng minh NATO khác đã đồng ý gửi “hàng chục” hệ thống phòng không trong những tháng tới đến Ukraine, bao gồm ít nhất 4 khẩu đội Patriot. Tổng thống Joe Biden đã cho biết như trên khi phát biểu khai mạc phiên khoáng đại của Liên Minh Bắc Đại Tây Dương, gọi tắt là NATO, hôm Thứ Ba, 09 Tháng Bẩy, tại Washington DC.
“Hôm nay tôi thông báo về khoản tài trợ lịch sử thiết bị phòng không cho Ukraine”, ông Tổng thống Biden nói. “Mỹ sẽ bảo đảm rằng khi chúng tôi xuất khẩu các hệ thống phòng không đánh chặn quan trọng, Ukraine sẽ được dành ưu tiên trên hết”.
Thông báo này được đưa ra khi bắt đầu hội nghị thượng đỉnh NATO ở Washington, với cuộc chiến ở Ukraine dự kiến sẽ chi phối quá trình diễn ra hội nghị thượng đỉnh.
Tổng thống Joe Biden đã có một bài phát biểu rất hùng hồn trái ngược hẳn với những ngập ngừng, quên trước quên sau trong cuộc tranh luận với cựu Tổng thống Trump.
Ông cho biết Mỹ, Đức và Rumani sẽ “nhanh chóng” cung cấp thêm cho Ukraine các khẩu đội Patriot, trong khi Hòa Lan sẽ cung cấp phụ tùng để vận hành một khẩu đội Patriot khác.
Ý cũng sẽ cung cấp thêm hệ thống phòng không SAMP-T.
Ông nói: “Năm hệ thống phòng không chiến lược này sẽ giúp bảo vệ các thành phố, dân thường và binh lính Ukraine và chúng tôi đang phối hợp chặt chẽ với chính phủ Ukraine để những hệ thống này có thể được sử dụng nhanh chóng”.
Trong những tháng tới, Canada, Na Uy, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh cũng sẽ góp phần cung cấp thêm “hàng chục” hệ thống phòng không chiến thuật cho Ukraine, bao gồm NASAMS, HAWK, IRIS T-SLM, IRIS T-SLS và Hệ thống Gepard, theo thỏa thuận.
Tổng thống Biden nói thêm rằng Ukraine cũng chuẩn bị nhận thêm “hàng trăm” hỏa tiễn đánh chặn trong năm tới.
Không có mốc thời gian rõ ràng nào được đưa ra về việc Ukraine có thể mong đợi nhận được các hệ thống phòng không trong thời gian bao lâu. Thỏa thuận lưu ý rằng sẽ có một thông báo bổ sung “trong năm nay về các hệ thống phòng không chiến lược dành cho Ukraine”.
Đầu tháng này, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken cho biết Ukraine dự kiến sẽ nhận được “thêm tin tức” về phòng không tại hội nghị thượng đỉnh.
Ukraine đã nhất quyết yêu cầu một tuyên bố của liên minh về phòng không và công bố bổ sung 10 hệ thống Patriot vào cuối năm nay, trong khi Kyiv nói rằng rất cần ít nhất bảy hệ thống Patriot để bảo vệ bầu trời của đất nước.
Thông báo về các hệ thống phòng không bổ sung được đưa ra một ngày sau khi Nga thực hiện một trong những cuộc tấn công nguy hiểm nhất nhằm vào thành phố Kyiv, khiến 33 dân thường thiệt mạng và hơn 100 người bị thương.
Các tòa nhà dân cư và cơ sở y tế bị hư hại, trong đó một hỏa tiễn của Nga đã bắn trúng Ohkmatdyt, trung tâm y tế trẻ em lớn nhất đất nước.
Sau thông báo, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy khen ngợi nỗ lực do Mỹ dẫn đầu trong việc cung cấp thêm các hệ thống phòng không.
“Đây là một bước quan trọng khác sau quyết định của Mỹ ưu tiên cung cấp hỏa tiễn phòng không cho Ukraine”, ông Zelenskiy viết trên mạng xã hội. “Tôi biết ơn Tổng thống Biden vì sự lãnh đạo của ông và tất cả các nước đối tác vì cam kết cung cấp cho chúng tôi khả năng phòng không nhanh nhất có thể.”
4. Ukraine tấn công căn cứ không quân, kho dầu và cơ sở năng lượng ở 3 tỉnh miền Nam nước Nga
Các kênh Telegram của Nga cáo buộc các cơ quan tình báo Ukraine đã thực hiện một cuộc tấn công nhằm vào một phi trường quân sự, một trạm biến áp năng lượng và một kho dầu của Nga ở ba khu vực khác nhau trong đêm 9 rạng sáng Thứ Tư, 10 Tháng Bẩy
Những tiếng nổ lớn đã được ghi nhận ở phi trường quân sự Akhtubinsk ở Astrakhan, một trạm biến áp 500 kV ở Rostov và một kho dầu ở Kalach-na-Donu ở tỉnh Volgograd.
Các cuộc tấn công nhằm vào phi trường Akhtubinsk vào tháng trước được tường trình đã làm hư hại hai chiến đấu cơ Su-57 tiên tiến của Nga.
Căn cứ không quân này nằm cách biên giới Ukraine khoảng 450 km về phía đông và cách biên giới Nga với Kazakhstan khoảng 30 km về phía tây.
Các kênh Telegram của Nga đưa tin về vụ nổ tại phi trường Akhtubinsk cho biết một hệ thống phòng không Pantsir đã bị đánh trúng, cùng với một kho chứa hỏa tiễn gây ra các vụ nổ mạnh tại phi trường.
Nếu các chi tiết này được xác nhận, vụ tấn công vào phi trường Akhtubinsk sẽ là một cuộc tấn công rất thành công.
Sáng Thứ Tư, 10 Tháng Bẩy, Vasily Golubev, Thống đốc khu vực Rostov của Nga, cho biết các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Ukraine đã gây ra hỏa hoạn tại hai trạm biến áp và một kho dầu ở tỉnh Rostov.
5. Hội nghị thượng đỉnh NATO
Sinh nhật lần thứ 75 thường là dịp để vui mừng và ăn mừng, nhưng NATO đang đánh dấu cột mốc quan trọng này tại hội nghị thượng đỉnh kéo dài ba ngày ở Washington từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 7 khá thầm lặng.
Có thể hiểu Ukraine đứng đầu chương trình nghị sự, với cuộc tấn công bằng hỏa tiễn hàng loạt của Nga vào ngày 8 tháng 7 nhằm vào các bệnh viện, làm thiệt mạng hàng chục người và làm bị thương hàng trăm người, làm tăng thêm cảm giác cấp bách của Kyiv trong việc bảo đảm những gì họ cần để bảo vệ người dân và chống lại cuộc xâm lược toàn diện của Nga..
Một thông cáo chung sẽ được công bố vào ngày 11 tháng 7, sau cuộc họp của Hội đồng NATO-Ukraine, sẽ xác nhận những gì đã được thống nhất.
Tướng Mick Ryan, thành viên phụ trợ tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, nói với Kyiv Independent: “Tôi nghĩ kết quả lớn sẽ là một sự rõ ràng nào đó trên con đường Ukraine gia nhập NATO”.
“Các kết quả quan trọng khác hy vọng sẽ bao gồm việc xác nhận sự hỗ trợ liên tục của NATO dành cho Ukraine, cam kết bảo đảm cung cấp đạn dược và cam kết đào tạo lực lượng Ukraine, có thể vẫn ở bên ngoài Ukraine.”
Mặc dù có một số điểm sáng, nhưng một số hạng mục quan trọng – cụ thể là tư cách thành viên NATO – vẫn còn rất xa.
6. Du kích Ukraine nói rằng họ đã phá hoại tuyến hỏa xa ở tỉnh Rostov của Nga
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Tư, 10 Tháng Bẩy, Phát ngôn nhân Cục Tình Báo Quân Đội Ukraine, Đại Úy Andriy Yusov, cho biết nhóm du kích quân Atesh đã phá hoại tuyến hỏa xa quan trọng giữa Rostov-on-Don của Nga và thành phố Mariupol bị tạm chiếm của Ukraine được quân đội Nga sử dụng, vào ngày 9 tháng 7.
Nga bắt đầu xây dựng các tuyến hỏa xa mới nối Nga với Crimea và các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm khác ở phía đông nam Ukraine.
Điều này được thiết kế để giảm sự phụ thuộc của quân đội Nga vào Cầu Kerch và bến phà – nối phía đông Crimea với Krasnodar Krai của Nga – vốn tỏ ra dễ bị tổn thương trước các cuộc tấn công của Ukraine.
Petro Andriushchenko, cố vấn của thị trưởng lưu vong Mariupol, cho biết vào giữa tháng 6 rằng tuyến hỏa xa giữa Rostov-on-Don và thành phố Ukraine bị tạm chiếm gần như đã hoàn thành.
“Đây là một trong những tuyến hỏa xa chính trong khu vực, nối Nga với tỉnh Donetsk của Ukraine. Nó được sử dụng tích cực để vận chuyển thiết bị quân sự và nhân sự ra mặt trận”, Atesh nói trên Telegram.
Cuối tuần qua, những người ủng hộ Atesh tuyên bố rằng họ đã phá hoại thành công một tuyến hỏa xa gần thành phố Yekaterinburg của Nga, ngăn chặn các đoàn tàu được sử dụng để vận chuyển đạn dược của Bắc Hàn.
7. 'Hãy thắt dây an toàn' - Budapest thông báo về các cuộc họp bất ngờ của Viktor Orbán, cho biết ' tăng cường sứ mệnh hòa bình '
Tờ Kyiv Post cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “'Fasten Your Seat Belts' - Budapest Announces Unexpected Meetings, Says 'Peace Mission Intensifies'“. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thúy Nga.
Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orban đã bóng gió về những “cuộc gặp bất ngờ” sắp tới, tương tự như chuyến thăm gần đây của ông với Vladimir Putin ở Mạc Tư Khoa và Volodymyr Zelenskiy ở Kyiv trong một cuộc phỏng vấn được công bố hôm Thứ Hai, 08 Tháng Bẩy.
“Tuần tới, tôi sẽ có những cuộc gặp bất ngờ không kém,” Orban nói trong cuộc phỏng vấn, đồng thời nói thêm rằng cuộc gặp bất ngờ đầu tiên sẽ diễn ra vào sáng ngày 8 tháng 7.
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh, Phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Trung Quốc Mao Ninh, cho biết Thủ tướng Hung Gia Lợi, hay còn gọi là Hungary, đã đến Bắc Kinh vào buổi sáng cùng ngày.
Sau nhận xét của Orban, Bộ trưởng Ngoại giao Hung Gia Lợi Peter Szijjarto đã đưa ra tuyên bố khuyên “các chính trị gia ủng hộ chiến tranh Âu Châu” nên “thắt dây an toàn” trong tuần tới.
Szijjarto nói với các phóng viên báo chí: “Sứ mệnh hòa bình vẫn tiếp tục và thậm chí còn được tăng cường hơn nữa”.
Trong một bài đăng trước đó, Szijjarto đã đề cập rằng “Chính phủ Hung Gia Lợi đang làm việc” và bảo đảm rằng sáu tháng tới sẽ “tập trung vào sứ mệnh gìn giữ hòa bình”.
Chuyến thăm Mạc Tư Khoa của Orban vào ngày 5 tháng 7 diễn ra chỉ vài ngày sau cuộc gặp với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy ở Kyiv. Khi đến Nga, Orban nhấn mạnh rằng “sứ mệnh hòa bình vẫn tiếp tục”, gọi Mạc Tư Khoa là “điểm dừng chân thứ hai”.
Trong cuộc gặp, Putin nói với Orban rằng ông sẵn sàng bỏ qua một số “dị biệt” nhất định trong các đề xuất hòa bình để giải quyết cuộc chiến ở Ukraine.
Tuy nhiên, tại cuộc họp báo, Putin nhắc lại rằng Nga sẵn sàng đàm phán dựa trên các điều khoản trước đó.
Các điều khoản, được nhà lãnh đạo Điện Cẩm Linh đề cập trước đó, ngụ ý rằng không thể có sự thỏa hiệp về lãnh thổ với Kyiv và Ukraine phải nhượng lại toàn bộ lãnh thổ ở bốn khu vực “trong biên giới hành chính tồn tại vào thời điểm họ gia nhập Ukraine”.
Điều kiện tiếp theo của ông là Ukraine phải đồng ý trở thành một quốc gia trung lập, không liên kết và phi hạt nhân, đồng thời phi quân sự hóa và chấp nhận “phi Quốc Xã hóa” trong khuôn khổ các thỏa thuận Istanbul năm 2022 đã bị hủy bỏ.
Orban thừa nhận quan điểm của Nga và Ukraine vẫn còn cách xa nhau.
Bộ Ngoại giao Ukraine chỉ trích chuyến thăm Mạc Tư Khoa của Orban, nói rằng chuyến thăm này được thực hiện “mà không có sự đồng ý hoặc phối hợp” với Ukraine và nhắc nhở nguyên tắc “không được thảo luận về Ukraine mà không có Ukraine”.
8. Zelenskiy cho rằng 'sứ mệnh hòa bình' toàn cầu của Orbán là vô vọng
Tờ Politico có trụ sở ở Washington DC cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Zelenskyy rubbishes Orbán’s global ‘peace mission’”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Hôm Thứ Hai, 08 Tháng Bẩy, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy nói rằng Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orbán không thể làm trung gian giữa Nga và Ukraine để chấm dứt xung đột giữa hai nước.
Orbán đã đến thăm Zelenskiy và Putin vào tuần trước với mục đích đã nêu là mang lại hòa bình giữa hai nước, vốn đang rơi vào cuộc xung đột vũ trang tàn khốc kể từ khi Nga xâm chiếm Ukraine vào tháng 2 năm 2022.
“Orbán có thể làm người hòa giải được không? Không có sự hòa giải nào giữa Nga và Ukraine”, ông Zelenskiy nói trong cuộc họp báo chung với Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk ở Warsaw. Ông nói thêm rằng ngay cả khi Putin gặp lãnh đạo các nước khác, điều đó không có nghĩa là ông ta muốn chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.
“Bạn cần phải có một nền kinh tế có ảnh hưởng đến Nga và Putin phụ thuộc vào điều đó. Hoặc bạn có một đội quân rất hùng mạnh mà Putin lo sợ, mạnh hơn quân đội Nga”, Zelenskiy nói.
“ Trên thế giới có nhiều nước như vậy không? Không nhiều. Tôi nghĩ Mỹ là một quốc gia như vậy, Trung Quốc và Liên Hiệp Âu Châu. Không chỉ một quốc gia, mà là toàn bộ Liên minh Âu Châu. Đây thực sự là những lực lượng có thể thực thi một nhiệm vụ hòa giải”, Zelenskiy nói thêm
Sau cuộc gặp với Putin và Zelenskiy, Orbán đã gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào hôm thứ Hai tại Bắc Kinh, chuyến đi mà ông mô tả là chặng thứ ba của “sứ mệnh hòa bình”.
Zelenskiy cho biết cuộc đàm phán của Orbán với Putin, khiến nhiều nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu phản ứng dữ dội, đã không được phối hợp với Kyiv.
Thủ tướng Ý, Giorgia Meloni, cũng đưa ra một nhận định tương tự. Cô nói rằng cái gọi là sứ mệnh hòa bình của Viktor Orbán chỉ là trò vô ích. “Tòa Thánh cũng đã làm những gì Viktor Orbán đang làm, nhưng không có kết quả. Cố nhiên, giữa cuộc chiến tàn bạo này, mọi cố gắng đều đáng để thử. Tuy nhiên, Hung Gia Lợi chỉ là một nước nghèo ở Âu Châu, ảnh hưởng không có bao nhiêu. Chuyến viếng thăm của Viktor Orbán có thể chỉ mang lại phản tác dụng.” Cuộc tấn công hỏa tiễn lớn chưa từng có của Nga vào Ukraine xem ra chứng minh nhận định của nữ Thủ tướng Ý là đúng.
9. Viktor Orbán nói rằng Putin không kỳ vọng nhiều vào lệnh ngừng bắn trước các cuộc đàm phán hòa bình nghiêm chỉnh
Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orban cho biết Putin đã nói với ông rằng ông không có kỳ vọng tích cực về việc ban hành một thỏa thuận ngừng bắn trước khi các cuộc đàm phán hòa bình nghiêm chỉnh bắt đầu.
Orban chuyển tiếp các bình luận trong một cuộc phỏng vấn xuất bản ngày 7 tháng 7 với tổng biên tập của tờ báo Thụy Sĩ Die Weltwoche.
“Putin nói rằng ông ấy không có kỳ vọng tích cực về lệnh ngừng bắn như vậy. Zelenskiy cũng nói rằng ông ấy không có kỳ vọng tích cực vì người Nga sẽ sử dụng nó để chống lại Ukraine, và Putin thì cho rằng người Ukraine sẽ sử dụng lệnh tạm dừng này để chống lại Nga,” Orban nói.
Orban đã đến thăm Putin ở Mạc Tư Khoa vào ngày 5 tháng 7, chỉ vài ngày sau khi gặp Tổng thống Volodymyr Zelenskiy ở Kyiv.
Chuyến đi của ông diễn ra ngay sau khi Hung Gia Lợi giành được chức chủ tịch luân phiên của Hội đồng Liên minh Âu Châu.
Nhiều quan chức Âu Châu bày tỏ sự tức giận trước chuyến thăm Mạc Tư Khoa của Orban, và Chủ tịch Hội đồng Liên minh Âu Châu Charles Michel nói rằng Hung Gia Lợi “không có quyền can dự với Nga thay mặt cho Liên Hiệp Âu Châu”.
Bộ Ngoại giao Ukraine lặp lại quan điểm này, nói rằng “quyết định thực hiện chuyến đi này là do phía Hung Gia Lợi đưa ra mà không có sự đồng ý hay phối hợp từ Ukraine”.
Cuộc họp ở Mạc Tư Khoa đã không được chia sẻ với các đồng minh phương Tây cho đến ngay trước chuyến thăm. Trong cùng một cuộc phỏng vấn, Orban cho biết sẽ có thêm nhiều “cuộc gặp gỡ bất ngờ”.
Hung Gia Lợi vẫn là đồng minh thân cận nhất của Nga trong Liên Hiệp Âu Châu và đã nhiều lần phản đối việc Ukraine gia nhập NATO và Liên Hiệp Âu Châu, phản đối các lệnh trừng phạt đối với Nga và ngăn chặn ráo riết các nỗ lực viện trợ của phương Tây cho Ukraine.
10. Những lời kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức chỉ khiến Nga tấn công tàn bạo hơn
Cố vấn tổng thống Ukraine, Mykhailo Podolyak, nói rằng những lời kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức trong cuộc chiến ở Ukraine sẽ chỉ khiến Mạc Tư Khoa thực hiện các cuộc tấn công tiếp theo.
Podolyak nói:
“Theo đúng nghĩa đen, song song với vụ cố tình tấn công trẻ em ở thủ đô Ukraine, các nhà lãnh đạo Hung Gia Lợi và Trung Quốc một lần nữa yêu cầu ‘ngừng bắn ngay lập tức’. Yêu cầu này không hướng vào Nga. Nó chỉ hướng tới phương Tây và Ukraine.”
“Và mục đích của nó là tạo ra một cảm giác sai lầm: kẻ gây hấn có quyền giết người, vì hắn nói đến ‘hòa bình’, và nạn nhân không nên tự vệ và do đó phải ngừng phản kháng ngay lập tức.”
Bình luận của ông được đưa ra vào ngày Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orbán có chuyến đi bất ngờ tới Bắc Kinh để gặp chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình.
“Cộng đồng quốc tế nên tạo điều kiện để nối lại đối thoại và đàm phán trực tiếp giữa hai bên và cung cấp hỗ trợ”, ông Tập nói với Orban, theo truyền thông nhà nước Trung Quốc.
Ông nói thêm: “Việc tìm kiếm một giải pháp chính trị thông qua lệnh ngừng bắn sớm là vì lợi ích của tất cả các bên”.
Trung Quốc, nước có quan hệ chặt chẽ với Nga, đã thúc đẩy kế hoạch hòa bình 6 điểm mà nước này ban hành với Brazil vào tháng 5, đề xuất một hội nghị hòa bình quốc tế “vào thời điểm thích hợp” và kêu gọi sự tham gia bình đẳng của cả Ukraine và Nga.
Trong chuyến thăm Kyiv tuần trước, Orbán cho biết ông đã yêu cầu Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy xem xét lệnh ngừng bắn nhanh chóng để có thể đẩy nhanh các cuộc đàm phán hòa bình.
Cả Zelenskiy và Vladimir Putin đều bác bỏ lời kêu gọi ngừng bắn của Orbán, trong đó nhà lãnh đạo Ukraine nói rằng đất nước của ông “về mặt nguyên tắc không thể tin tưởng Putin”
11. Huấn luyện viên quân sự Bắc Hàn tới Nga vài tuần sau khi ký thỏa thuận hợp tác
Truyền thông nhà nước Bắc Hàn ngày 9 Tháng Bẩy đưa tin, phái đoàn huấn luyện viên quân sự Bắc Hàn do nhà lãnh đạo học viện quân sự danh tiếng ở Bình Nhưỡng dẫn đầu đã bắt đầu chuyến công du tới Nga.
Putin đã đến thăm Bình Nhưỡng trong hai ngày 18 và 19 Tháng Sáu, nơi ông ký thỏa thuận hợp tác với nhà lãnh đạo Bắc Hàn Kim Chính Ân.
Hai nhà lãnh đạo đã tiến hành các cuộc đàm phán kéo dài nhiều giờ trước khi ký hiệp ước, trong đó cam kết cung cấp viện trợ cho nhau nếu một trong hai bên bị tấn công.
Theo Reuters, chuyến thăm của các huấn luyện viên quân sự Bắc Hàn đánh dấu cuộc trao đổi quân sự đầu tiên giữa Mạc Tư Khoa và Bình Nhưỡng kể từ khi thỏa thuận được ký kết. Bình Nhưỡng từ lâu đã cung cấp cho Mạc Tư Khoa vũ khí để sử dụng chống lại Ukraine.
Truyền thông nhà nước Bắc Hàn cho biết phái đoàn huấn luyện quân sự Bắc Hàn do hiệu trưởng Đại học quân sự Kim Nhật Thành, là Tướng Kim Kiêm Triết (Kim Geum Chol) dẫn đầu, mà không cung cấp thêm thông tin gì về chuyến thăm.
Tổng thống Nam Hàn Doãn Tích Duyệt ngày 8 Tháng Sáu cho biết hợp tác quân sự ngày càng tăng giữa Nga và Bắc Hàn đặt ra “mối đe dọa rõ ràng và thách thức nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh trên Bán đảo Triều Tiên và ở Âu Châu”.
12. Máy bay F-16 tại Hội nghị thượng đỉnh NATO
Theo những người quen thuộc với vấn đề này, một tuyên bố về chiến đấu cơ F-16 sẽ thông báo rằng chúng sẽ có mặt trên chiến trường “vào mùa hè này”.
Ukraine từ lâu đã chuẩn bị tiếp nhận hàng chục máy bay này, khi sự gia tăng gần đây của các cuộc tấn công của Nga vào các phi trường có thể là một nỗ lực nhằm làm gián đoạn việc đến và triển khai của chúng.
Mặc dù các chuyên gia quốc phòng không kỳ vọng F-16 sẽ trở thành nhân tố thay đổi cục diện cuộc chiến, nhưng các máy bay phản lực này có thể tăng cường khả năng phòng không của Ukraine, giúp ngăn chặn các cuộc tấn công như vụ tấn công hàng loạt bằng hỏa tiễn tàn khốc hôm 8 Tháng Bẩy.
Chúng cũng sẽ thách thức “sự thống trị hoàn toàn” của Nga trên bầu trời Hắc Hải, Tư lệnh Hải quân Oleksii Neizhpapa nói với Reuters trong một cuộc phỏng vấn công bố ngày 5 Tháng Bẩy.
13. Tư cách thành viên NATO của Ukraine tại Hội nghị thượng đỉnh NATO
Không thể tránh khỏi thực tế là Ukraine vẫn còn lâu mới gia nhập NATO.
Một năm sau nỗ lực phối hợp nhưng thất bại của Tổng thống Volodymyr Zelenskiy để nhận được lời mời tham gia hội nghị thượng đỉnh năm ngoái, Kyiv đã điều chỉnh hoàn toàn những kỳ vọng của mình vào thời điểm này.
Oleksandr Merezhko, nghị sĩ Ukraine và chủ tịch chính sách đối ngoại của quốc hội, nói với Kyiv Independent: “Tất nhiên là chúng tôi muốn nhận được lời mời gia nhập NATO”.
“Nhưng chúng tôi hiểu rằng hiện tại điều đó khó có thể thực hiện được.”
Theo điều lệ của NATO, tất cả 32 quốc gia thành viên hiện nay phải đồng ý thì Ukraine mới có thể gia nhập NATO. Người ta hiểu rằng Viktor Orbán sẽ chiến đấu tới giọt máu cuối cùng để điều đó không xảy ra.
Thay vào đó, tài liệu cuối cùng sẽ đề cập đến “tư cách thành viên không thể thay đổi của Ukraine trong NATO”, nguồn tin chính phủ Ukraine nói với Kyiv Independent, một cụm từ đáng chú ý là thiếu bất kỳ loại mốc thời gian nào.
Nguồn tin cho biết, trong khi một số đồng minh ủng hộ việc Ukraine gia nhập, bao gồm cả Pháp và Anh, thì vẫn có những người không đồng tình. Có ý kiến lo ngại rằng lý do là để giữ tư cách thành viên của Ukraine làm con bài mặc cả trong đàm phán với Nga.
Câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ là liệu điều khoản “thành viên không thể đảo ngược” có gắn liền với bất kỳ cam kết nào từ phía Ukraine hay không, trong số đó có nhu cầu của Kyiv về việc thực hiện những cải cách đang diễn ra.
Nico Lange, Thành viên cao cấp tại Trung tâm Phân tích Chính sách Âu Châu (CEPA), nói với Kyiv Independent rằng việc Ukraine không phải là thành viên NATO “chính xác là vùng xám mà Vladimir Putin cố gắng khai thác”.
Ông nói thêm: “Tôi e rằng điều này sẽ được Mạc Tư Khoa nhìn nhận rất tích cực, nó sẽ được coi là một thành công theo quan điểm của Điện Cẩm Linh”.
Nhưng ở Kyiv, với kỳ vọng đã giảm kể từ năm ngoái, nó vẫn được nhìn nhận theo hướng tích cực, dù có phần cam chịu.
Merezhko nói: “Tuy nhiên, chúng tôi muốn thấy trong tài liệu cuối cùng của hội nghị thượng đỉnh, một dấu hiệu cho thấy quá trình gia nhập NATO là không thể đảo ngược, rằng việc Ukraine gia nhập NATO chỉ còn là vấn đề thời gian”.
“Rằng chúng tôi không thảo luận nữa về việc Ukraine có trở thành thành viên NATO chính thức hay không mà chúng tôi chỉ thảo luận khi nào điều đó sẽ xảy ra.”
14. Phòng không của Ukraine tại Hội nghị thượng đỉnh NATO
Khi cuộc tấn công của Nga vào ngày 8 tháng 7 một lần nữa giáng xuống đất nước, Ukraine vẫn đang rất cần thêm các hệ thống phòng không, đặc biệt là Patriot do Mỹ sản xuất.
Đầu tháng này, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken cho biết Ukraine dự kiến sẽ nhận được “thêm tin tức” về phòng không tại hội nghị thượng đỉnh.
Phía Ukraine đang kiên quyết yêu cầu tuyên bố thành lập liên minh phòng không và công bố bổ sung 10 hệ thống Patriot vào cuối năm nay. Con số vẫn chưa được quyết định, vì Ukraine trước đó đã nói rằng họ rất cần ít nhất 7 hệ thống Patriot để bảo vệ bầu trời nước này.
Với số lượng hệ thống Patriot hiện có hạn chế và sự miễn cưỡng của một số quốc gia trong việc bán hệ thống của họ, Ukraine đã phải vật lộn để có được chúng với số lượng cần thiết để bảo vệ đầy đủ cho quốc gia lớn nhất ở Âu Châu.
Mặc dù nguồn gốc của những chiếc Patriot bổ sung vẫn chưa được xác nhận, nhưng nó có thể liên quan đến quyết định của Israel hồi đầu năm nay về việc loại bỏ tối đa 8 chiếc Patriot mà họ sở hữu vì họ có Iron Dome được cho là hiệu quả hơn.
Một vấn đề vẫn đang được thảo luận nhưng chưa có quyết định cuối cùng, đó là hệ thống phòng không tích hợp cho phép Rumani và Ba Lan bắn hạ hỏa tiễn Nga ở phía Tây Ukraine.
Chuyến tông du dài nhất của một vị Giáo Hoàng. Giới văn hóa Anh gởi thư cho ĐTC về Thánh Lễ Latinh
VietCatholic Media
15:44 10/07/2024
1. Công bố chương trình viếng thăm dài nhất của Đức Thánh Cha Phanxicô
Hôm mùng 05 tháng Bảy vừa qua, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố chương trình chuyến viếng thăm dài nhất của Đức Thánh Cha Phanxicô, trong mười một ngày, từ mùng 02 đến ngày 13 tháng Chín tới đây, tại bốn quốc gia: Indonesia, Papua New Guinea, Đông Timor và Singapore, di chuyển 44 giờ đồng hồ, vượt qua gần 33.000 cây số bằng máy bay.
Trong chương trình, tổng cộng Đức Thánh Cha sẽ có 42 hoạt động với 16 diễn văn và bài giảng, trong đó có cả một cuộc viếng thăm tại Đền thờ Hồi giáo Istiqlal, sáng ngày 05 tháng Chín tại thủ đô của Indonesia, được coi là lớn nhất Đông Nam Á.
Sau 13 giờ bay từ Roma, Đức Thánh Cha sẽ đến thủ đô Jakarta ngày 04 tháng Chín, như chặng đầu tiên của chuyến viếng thăm. Hai ngày sau đó, nghĩa là mùng 06 tháng Chín, Đức Thánh Cha sẽ bay đến Port Moresby, thủ đô Papua New Guinea, rồi ngài dành một ngày để viếng thăm thành phố Vanimo, bên bờ biển, ở miền tây của New Guinea, giáp giới với Indonesia.
Tiếp đó, ngày 09 tháng Chín, Đức Thánh Cha sẽ đến thăm Đông Timor và dừng lại tại thủ đô Dili trong hai ngày, trước đi đến Singapore, như chặng cuối cùng.
Đức Thánh Cha đã 87 tuổi, nên chương trình viếng thăm của ngài cũng được thích ứng, dự kiến có những giờ nghỉ dài.
Tại mỗi nước, Đức Thánh Cha đều có cuộc gặp gỡ với chính quyền, các đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn, hàng giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh, giáo lý viên; các tu sĩ Dòng Tên, gặp gỡ liên tôn, giới trẻ và tùy theo địa phương và hoàn cảnh, Đức Thánh Cha cũng gặp các tổ chức bác ái, người khuyết tật, v.v.
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ là vị Giáo hoàng thứ ba viếng thăm Indonesia, sau cuộc viếng thăm của Đức Phaolô VI, năm 1970 và Đức Gioan Phaolô II, năm 1989. Trong số 270 triệu dân Indonesia, đa số là tín hữu Hồi giáo, có 24 triệu là tín hữu Kitô, trong số này có 7 triệu tín hữu Công Giáo.
Trong số bốn nước được Đức Thánh Cha viếng thăm, Đông Timor là nước có tỷ lệ Công Giáo cao nhất: trong số một triệu 300.000 dân cư tại đây, 96% là tín hữu Công Giáo. Nước này vốn là thuộc địa của Bồ Đào Nha, nên ngày nay ngôn ngữ chính thức tại đây là tiếng Bồ.
Còn Tổng giáo phận Singapore có 395.000 tín hữu Công Giáo, với các nền văn hóa và chủng tộc khác nhau. Phần lớn các thánh lễ bằng tiếng Anh, nhưng cũng có tiếng quan thoại, Tamil và các ngôn ngữ khác ở miền Đông nam Á và Âu châu cho các cộng đoàn tín hữu nhập cư. Đức Hồng Y William Ngô Thành Tài (Goh Seng Chye), Tổng giám mục sở tại, hy vọng cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha sẽ giúp các tín hữu tại Singapore chuẩn bị tinh thần cho cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Nhân cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tổng giáo phận tại đây đã mở một trang mạng, với những kinh nguyên, các tài liệu và các thông tin khác về chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha vào tháng Chín. Trang mạng cũng trình bày ba chủ đề là: “Hiệp nhất, hy vọng và thánh giá”, do Đức Hồng Y chọn lựa cho cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại đây.
2. Ủy ban Công lý và Hòa bình Thánh Địa: Cuộc chiến ở Gaza không phải là “Chiến tranh chính nghĩa”
“Là những người Công Giáo ở Thánh địa, những người chia sẻ tầm nhìn của Đức Thánh Cha Phanxicô về một thế giới hòa bình, chúng tôi rất phẫn nộ khi các nhà hoạt động chính trị ở Israel và nước ngoài đang vận động lý thuyết về “chiến tranh chính đáng” để duy trì và hợp pháp hóa cuộc chiến đang diễn ra ở Gaza,” Ủy ban Công lý và Hòa bình của Thánh địa cho biết như trên trong một tài liệu được xuất bản nhằm chỉ ra việc lạm dụng một thuật ngữ được sử dụng trong giáo lý Công Giáo. Thuật ngữ đó là “chiến tranh chính nghĩa”, một khái niệm được phát triển từ thời cổ đại trước Thiên chúa giáo, mà “theo sự báo động của chúng tôi với tư cách là các Kitô hữu, đang ngày càng được vũ khí hóa để biện minh cho bạo lực đang diễn ra ở Gaza”.
Tài liệu của Ủy ban Công lý và Hòa bình Thánh Địa nhắc lại những điều kiện không thể thiếu giúp có thể xác định xem một cuộc chiến tranh có phải là “chính nghĩa” hay không theo quan điểm của giáo lý Công Giáo, được tìm thấy trong đoạn 2309 của Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo.
Theo giáo huấn Công Giáo, phải xem xét cẩn thận các điều kiện tỉ mỉ để bảo vệ hợp pháp bằng sức mạnh quân sự. Một quyết định như thế rất nghiêm trọng, nên phải hội đủ các điều kiện nghiêm ngặt của tính hợp pháp về luân lý. Cùng một trật, đòi phải có:
Thiệt hại do kẻ xâm lược gây ra cho quốc gia hoặc cho cộng đồng các quốc gia có tính lâu dài, nghiêm trọng và chắc chắn;
Tất cả các phương thế khác để chấm dứt tình trạng này rõ ràng là bất khả hoặc vô hiệu;
Phải hội đủ các điều kiện quan trọng để thành công;
Việc sử dụng vũ khí không kéo theo những tai hại và hỗn loạn nghiêm trọng hơn tai hại ta đang cố loại trừ. Khả năng tàn phá của các phương tiện chiến tranh hiện đại là áp lực nghiêm trọng nhất phải được thẩm định trong điều kiện nầy.
Sau “các cuộc tấn công kinh hoàng vào ngày 7 tháng 10 nhằm vào các cơ sở quân sự, khu dân cư và lễ hội âm nhạc ở miền nam Israel của Hamas và các chiến binh khác cũng như cuộc chiến thảm khốc do Israel tiến hành,” tài liệu của Ủy ban Công lý và Hòa bình Thánh Địa cho biết. “Các nhà lãnh đạo Công Giáo, bắt đầu từ Đức Thánh Cha Phanxicô, đã liên tục kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức và thả con tin. Các nhà thần học luân lý Công Giáo trên khắp thế giới cũng đã chỉ ra rằng các cuộc tấn công của Hamas vào ngày 7 tháng 10 cũng như cuộc chiến tàn khốc của Israel để đáp trả đều không thỏa mãn các tiêu chuẩn về “chiến tranh chính nghĩa” theo học thuyết Công Giáo.
Source:Fides
3. Các nhà hoạt động văn hóa của Vương quốc Anh kêu gọi Vatican giữ Thánh lễ Latinh Truyền thống trong lá thư 'Agatha Christie' mới
Trong một lá thư gửi cho tờ Times of Luân Đôn, xuất bản ngày 3 tháng 7, hơn 40 người ký tên, Công Giáo và không Công Giáo – bao gồm cả nhà sáng tạo “Downton Abbey” Julian Fellowes, nhà hoạt động nhân quyền Bianca Jagger và ca sĩ opera Kiri Te Kanawa – những người ký tên đã than thở về “những báo cáo đáng lo ngại” từ Rôma rằng Thánh lễ Latinh sẽ bị trục xuất khỏi hầu hết các nhà thờ Công Giáo.”
Bức thư, cũng có chữ ký của nhà soạn nhạc Andrew Lloyd Webber, nhà sử học Tom Holland và Công chúa Michael xứ Kent, một thành viên của hoàng gia Anh, viết: “Chúng tôi cầu xin Tòa thánh xem xét lại bất kỳ hạn chế nào nữa đối với việc tiếp cận di sản văn hóa và tinh thần tráng lệ này”.
Bức thư rõ ràng lặp lại lời kêu gọi của các nghệ sĩ và nhà văn được tờ Times of Luân Đôn xuất bản vào tháng 7 năm 1971. Những người ký tên trong bức thư trước đó, bao gồm nhà văn bí ẩn Agatha Christie, tiểu thuyết gia Graham Greene và nghệ sĩ violin Yehudi Menuhin, bày tỏ sự lo lắng trước những báo cáo về “một kế hoạch” xóa bỏ Thánh lễ trước Công đồng Vatican II.
Lời kêu gọi đó đã đến tai Giáo hoàng Phaolô Đệ Lục, người được cho là đã thốt lên “Ôi, Agatha Christie!” khi ngài đọc danh sách những người ký tên. Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục đã ký một văn bản cho phép các giám mục Anh và xứ Wales cấp phép cho các Thánh lễ Latinh truyền thống được cử hành trong những dịp đặc biệt, ngày nay được gọi là “ân xá Agatha Christie”.
Bức thư mới trích dẫn lập luận trong lời kêu gọi năm 1971 rằng Thánh lễ Latinh truyền thống thuộc về “văn hóa phổ quát”, bởi vì nó đã “truyền cảm hứng cho một loạt thành tựu vô giá trong nghệ thuật - không chỉ các tác phẩm thần bí, mà cả các tác phẩm của các nhà thơ, triết gia, nhạc sĩ, kiến trúc sư, họa sĩ và nhà điêu khắc ở mọi quốc gia và mọi thời đại”.
Bức thư ngày 3 tháng 7 mô tả những tin đồn về việc Vatican tiếp tục đàn áp Thánh lễ Latinh truyền thống – được phát sóng lần đầu tiên vào tháng 6 bởi trang web Rorate Caeli – là “đau đớn và khó hiểu”, đặc biệt đối với “số lượng ngày càng tăng những người Công Giáo trẻ có đức tin được nuôi dưỡng bởi hình thức Phụng Vụ này”.
Rorate Caeli báo cáo rằng “một nỗ lực đang được đưa ra để thực hiện, càng sớm càng tốt, một tài liệu của Vatican với giải pháp nghiêm ngặt, triệt để và cuối cùng cấm Thánh lễ Latinh truyền thống”.
Một số quan chức giáo triều nói với The Pillar rằng họ hiểu rằng một dự thảo như vậy đã tồn tại và nếu được Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban hành, nó sẽ hạn chế hơn nữa việc cử hành hình thức phụng vụ cũ ngoài quy định của tự sắc Traditionis 2021.
Vào thời điểm ban hành Traditionis custodes, Đức Phanxicô nói rằng ngài “rất buồn vì việc sử dụng Sách lễ Rôma năm 1962 như một công cụ thường được đặc trưng bởi sự bác bỏ không chỉ cuộc cải cách phụng vụ, mà cả chính Công Đồng Vatican II, tuyên bố, với lý do vô căn cứ và những khẳng định không bền vững, rằng Công Đồng đã phản bội Truyền thống và 'Giáo hội chân chính.'“
Một quan chức Vatican nói với The Pillar rằng một số người đề xuất các biện pháp mới nhằm hạn chế việc cử hành Thánh lễ Latinh Truyền thống không nhằm mục đích đàn áp hoàn toàn và toàn diện, là điều mà họ gọi là “thực tế không thể thực hiện được”, mà là một kiểu “cách ly” nhằm buộc những người Công Giáo truyền thống phải dè dặt, với mọi thứ đi kèm với hình thức Phụng Vụ đó.
Quan chức này nói: “Việc đưa họ ra khỏi đời sống giáo phận, đẩy họ vào các nhóm nhỏ xung quanh những tổ chức như Huynh đoàn Linh mục Thánh Phêrô và thậm chí cả Huynh Đoàn Thánh Piô X sẽ đưa họ ra khỏi tầm với của các giám mục địa phương”.
Ông nói: “Đối với những người theo đuổi Tự Sắc Traditionis Custodes tối đa, đó sẽ là một sự giải thoát đáng hoan nghênh. Và đối với những giám mục đang cố gắng đẩy lùi Tự Sắc Traditionis Custodes bằng cách tạo không gian cho các cộng đồng có tư tưởng truyền thống thì toàn bộ vấn đề sẽ nằm ngoài tầm tay của họ”.
Những người ký tên vào bức thư mới lập luận rằng phụng vụ truyền thống phải được bảo tồn vì ý nghĩa văn hóa và lịch sử của nó, gọi nó là “một 'thánh đường' của văn bản và cử chỉ, phát triển như những tòa nhà đáng kính đó đã làm trong nhiều thế kỷ”.
“ Không phải ai cũng đánh giá cao giá trị của nó và điều đó không sao cả; nhưng việc phá hủy nó dường như là một hành động không cần thiết và thiếu tế nhị trong một thế giới mà lịch sử có thể dễ dàng bị lãng quên”, bức thư viết.
“Khả năng khuyến khích sự im lặng và chiêm niệm của nghi thức cũ là một kho báu không dễ gì tái tạo được, và khi mất đi thì không thể xây dựng lại được.”
Bức thư tự mô tả là “hoàn toàn đại kết và phi chính trị,” giống như lời kêu gọi năm 1971, và lưu ý rằng những người ký tên trong đó cũng bao gồm “những người Công Giáo và không Công Giáo, những người có đức tin và những người không có đức tin”.
Trong một bài xã luận đi kèm với bức thư, cũng được đăng trên The Times, người ký tên James MacMillan đã mô tả những hạn chế đối với Hình thức Ngoại thường được đưa ra vào năm 2021 là “một đòn giáng mạnh vào những người Công Giáo Thế hệ Z, những người đã tìm thấy ngôi nhà tinh thần của họ trong phụng vụ cũ”.
Nhà soạn nhạc Công Giáo người Tô Cách Lan đã viết: “Việc có những quan chức Vatican chiều theo chủ nghĩa độc tài nhỏ mọn, phàm tục này chống lại những người đồng tôn giáo của họ là điều gây sốc đối với khán giả không theo đạo Công Giáo”.
“May mắn thay, các nghệ sĩ sáng tạo và các nhân vật của công chúng khác một lần nữa lại đứng ra bảo vệ quyền tự do tôn giáo thông qua một lá thư gửi cho The Times.”
Những người ký tên khác vào bức thư bao gồm các nghệ sĩ cello Steven Isserlis và Julian Lloyd Webber, nhạc trưởng Jane Glover, các giọng nữ cao Sophie Bevan và Felicity Lott, và các nghệ sĩ piano Imogen Cooper, Stephen Hough, András Schiff và Mitsuko Uchida.
Bức thư cũng có chữ ký của các thành viên Hạ viện, thượng viện của Quốc hội Anh, bao gồm cả nhà vận động nhân quyền David Alton và nhà soạn nhạc Michael Berkeley.
Nhà thiết kế nội thất Nina Campbell và nhà thiết kế thời trang Paul Smith cũng nằm trong số những người ký kết, cũng như diễn viên Susan Hampshire, các tác giả Antonia Fraser và AN Wilson.
Bức thư còn có chữ ký của Fraser Nelson, biên tập viên tạp chí Spectator của Anh và Charles Moore, cựu biên tập viên tờ báo The Telegraph.
Source:Pillar Catholic