Phụng Vụ - Mục Vụ
Trên sân cỏ Euro 2008 (3)
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
09:18 20/06/2008
Trên sân cỏ Euro 2008 (3)
Những trận thi đấu Bóng đá Euro 2008 đang diễn ra trên sân cỏ bên Âu châu thu hút hấp dẫn hằng chục ngàn người đến xem nơi cầu trường, hàng trăm ngàn, hằng triệu người cùng theo dõi trực tiếp truyền hình hoặc tại tư gia hoặc tại nơi công cộng nơi có màn ảnh rộng lớn.
Những người đến tham dự tại sân vận động không chỉ đến xem, nghe thôi, nhưng còn theo dõi, như một cầu thủ thứ 12 cùng thi đấu trên sân cỏ, với độ hồi hộp của nhịp đập trái tim lên xuống: họ ca hát, hò hét cổ võ ủng hộ cho đội banh nhà!
Tiếng vỗ tay, tiếng kèn trống, lời ca hát nhảy múa như điên loạn của họ chào mừng ca ngợi đội nhà của mình mong củng cố cho tinh thần cầu thủ đội nhà lên cao.
Họ đi xem cùng tham dự ủng hộ với lòng vui mừng phấn khởi đầy niềm hy vọng. Điều này thể hiện rõ qua quần áo, mũ đội, khăn quàng, cờ xí biểu ngữ kéo mang theo, trống kèn, hình mầu cờ vẽ trên thân thể…
Họ cùng mừng vui hãnh diện khi đội nhà đá tung lưới thắng bàn. Và cũng cùng buồn rầu thất vọng đến độ khóc lóc kêu la, khi đội nhà thua cuộc…
Niềm vui mừng lòng hào hứng phấn khởi của khán gỉa ủng hộ có tương quan gì với đời sống đức tin không?
Ngành bộ môn thể thao nào cũng muốn giúp luyện tập thân thể cùng tinh thần cho dẻo dai cường tráng khoẻ mạnh. Điều này rất tốt hữu ích cho cuộc sống, nhất là giúp sống theo kỷ luật.
Bộ môn thể thao cũng thể hiện nếp sống văn hóa của con người nữa. Điều này giúp trí não con người phát triển suy nghĩ lành mạnh và làm cho đời sống thêm tốt đẹp lên.
Thể thao có khi trở thành một bộ môn truyền thồng, một dấu chỉ biểu tượng đặc thù của một dân tộc đất nước, một thời đại nào. Như nói đến Đô vật, người ta nghĩ ngay đến nước Nhật bản; đến Bóng đá người ta nghĩ ngay đến những nứơc ở Âu Châu ở Nam Mỹ châu, đến Trượt tuyết người ta nghĩ ngay đến những nước ở vùng Bắc Âu châu, đến nước Áo, nước Thụy sĩ, đến nước Canada; đến banh Bầu dục ( Baseball), đến Banh Rổ, người nghĩ ngay đến nước Hoa Kỳ….
Theo dòng thời gian bộ môn thể thao dần biến đổi không còn thuần túy chỉ là trò chơi giải trí tiêu khiển nữa, dù là lành mạnh. Nhưng còn là cơ hội dịp tốt cho thương mại buôn bán, cho niềm tự hào, vâng có khi còn pha chút tự ái niềm kiêu hãnh một hội đoàn, một dân tộc con người trong đó nữa!
Thể thao không phải là tôn giáo, dù có khi được hiểu, được nhìn là một thứ loại tôn giáo đã bị thế tục hóa. Nhưng có nhiều đội banh thi đấu lại có cung cách, ít là biểu lộ ra bên ngoài, cử chỉ của đức tin đạo giáo.
Đã có những cầu thủ đá banh, hay một bộ môn nào khác nữa, khi chạy ra sân cỏ thi đấu, họ làm Dấu Thánh Gía, cũng có những Huấn luyện viên ngồi ở băng ghế theo dõi điều khiển cầu thủ của mình, làm dấu Thánh gía khi tiếng còi khai mạc trận thi đấu bắt đầu. Họ hồi hộp tham dự thi đấu và muốn xin ơn trợ giúp cho niềm hy vọng của họ từ Trên Trời Cao đưọoc thành sự kết qủa tốt đẹp!
Rồi cũng có những cầu thủ chắp tay hướng mắt lên Trời cao khi đá tung lưới lọt khung thành thắng điểm. Họ muốn cầu xin cùng tạ ơn Trời Cao đã giúp họ có sức khoẻ cùng nhanh trí quyết định đá tung lưới thành công!
Nhất là có những cầu thủ khi đá trái banh phạt đền từ cự ly 11 mét, lẽ dĩ nhiên hội hộp, nhưng họ giữ thinh lặng tập trung tinh thần, chắp tay trước ngực ngước mắt lên trời cao. Họ muốn xin Trời cao trợ giúp cho họ đá lọt lưới!
Như thế, có thể nói được rằng trò chơi thể thao không chỉ gây gơị niềm vui hào hứng thi đua cùng niềm hy vọng, nhưng còn pha lẫn cả chút niềm tin nữa vào Đấng thiêng liêng trên trời cao. Điều này nói lên rõ giới hạn của con người: Những gì về khả năng sức khỏe thể lực cùng tài cán trí khôn suy nghĩ biến báo và cả sự may mắn đều do từ Trên Cao ban cho.
Còn khán gỉa người đi xem, cùng sống hồi hộp theo dõi trận thi đấu. Họ như bị lôi kéo thu hút mãnh liệt vào „thứ tôn giáo bị thế tục hóa“ của thể thao. Họ cùng với đội nhà có thể thắng cuộc và cũng có thể thua cuộc, vui mừng hy vọng và thất vọng buồn bã chen lẫn thay đổi lên xuống từng lúc từng quãng.
Nhưng đức tin vào Thiên Chúa không có việc thắng thua. Đức tin vào Thiên Chúa mang đến cho tâm hồn con người sự an bình cứu rỗi cùng niềm hy vọng vào đời sống, và bao giờ cũng là một: hôm qua cũng như hôm nay và ngày mai trên sân cỏ cuộc đời.
**********************
Trong thiên nhiên loài Tắc Kè, Kỳ Nhông có khả năng thay đổi mầu sắc xanh đỏ, tím vàng ở ngoài lớp da của chúng thích hợp tùy theo khu vực vùng đang sinh sống. Nó có khả năng biến đổi mầu sắc trong từng trường hợp để cho được an toàn. Thiên nhiên đã tạo sinh chúng ra như thế.
Khán gỉa ủng hộ đội banh nhà của mình thì không như vậy. Họ không sống thay đổi mầu sắc. Họ trung thành cùng vui cùng buồn ủng hộ đội banh nhà, biểu hiện qua mầu lá cờ, mầu hình khăn quàng cổ cùng quần áo họ mang mặc đeo trên mình, qua tiếng cười vui mừng hò hét cùng cả dòng nước mắt buồn sầu thất vọng.
Nếp sống lòng trung thành như thế là đức tính rất tốt trong tương quan sống tình liên đới giữa con người với nhau, bắt đầu từ trong cuộc sống vợ chồng ở gia đình của nhau.
Lòng trung thành là điều căn bản. Phải, đó là một nhân đức thánh thiêng, trong việc sống đức tin đạo giáo với Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu đã khẳng định: " Ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (Mt.10.32).
Mùa Bóng đá Euro 2008
Để giúp nhau đừng sợ
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
13:52 20/06/2008
ĐỂ GIÚP NHAU ĐỪNG SỢ!
Chúa nhật XII Thường niên A
Một trong những lời khuyên bảo của Chúa Kitô dành cho các môn đệ, trong thời gian ba năm rao giảng Tin Mừng lẫn sau khi từ cõi chết phục sinh, đó là “anh em đừng sợ !”. Bài Tin Mừng Chúa Nhật XII TN A một lần nữa cho ta nghe sứ điệp này. Hẳn không là vô cớ khi Chúa Kitô thường lặp đi lặp lại sứ điệp ấy: Đừng sợ ! Là con người, chúng ta khó tránh nhiều nổi sợ hãi, có nguyên nhân cũng nhiều mà vô cớ cũng không thiếu: sợ đói, sợ khát, sợ khổ, sợ thất bại, sợ thiên tai, sợ dịch bệnh, sợ gặp phải những điều xúi quẩy, không may… Phúc bất trùng lai mà họa vô đơn chí. Chính vì thế người ta thường hành xử kiểu khôn ngoan, tìm sự an toàn bằng cách không kiêng thì cũng dè. Những hình thức kiêng cử, úy kỵ trong dân gian là một minh chứng về nổi sợ hãi ít nhiều đã và đang hiển hiện. Là Kitô hữu, chúng ta có thoát ra ngoài cái vòng lẩn quẩn của sự bất an ấy không ? Là Kitô hữu, hy vọng rằng ít có ai để cho nhiều nổi sợ hãi “vu vơ” khiến mình dây vào những chuyện mê tín. Tuy nhiên thử hỏi có ai dám vổ ngực xưng mình không hề sợ hãi bất cứ điều gì. Có nhiều nổi sợ như sợ đói, sợ khổ, sợ chết…mang tính tự nhiên dễ chấp nhận với kiếp nhân sinh. Tuy nhiên có những nổi sợ thiếu chính đáng cần loại bỏ. Được gợi ý từ ba bài đọc Lời Chúa ngày Chúa Nhật XII TN A, xin được chia sẽ một vài nổi sợ mà ta phải biết nói “không”hay là“ đừng sợ !”.
1.Đừng sợ sống trong sự thật: Xét về bình diện hữu thể, thì chỉ có một “sự thật” duy nhất đúng nghĩa đó là Đấng “có sao, có vậy” ( Xh 3,14 ). Tất cả mọi sự hiện hữu khác khi chúng hiện hữu như chúng là, thì chúng chỉ tham gia hay thông phần vào “sự thật viên mãn” là chính Đấng sáng tạo. Xét về phưong diện luận lý hay tư duy thì sự thật là sự phù hợp giữa nhận thức với thực tại khách quan. Trên bình diện này thì nhận thức của “chiếc bình gốm” quả là có nhiều hạn chế về cả chính nó, đừng nói gì đến các chiếc bình khác hay đến người thợ gốm. Duy chỉ người thợ gốm mới hiểu rõ sản phẩm do mình làm nên.
Không sợ sai lầm khi khẳng định rằng duy chỉ có Thiên Chúa mới là sự thật viên mãn. Vì thế khi ở trong sự thật là ta đang ở trong Thiên Chúa, Đấng chăm sóc chúng ta từ đường đi nước bước đến cả số phận của từng sợi tóc trên đầu chúng ta (x.Mt 10,30 ). Xác tín được điều này thì lẽ nào ta lại sợ sống trong sự thật.
2.Đừng sợ đón nhận sự thật: Sự thật thì dễ mất lòng nhưng sự thật lại giải phóng chúng ta. Có nhiều khi ta biết sự thật nhưng không muốn đón nhận. Vì sự thật thường đòi hỏi ta phải thay đổi, thay đổi cái nhìn, thay đổi lối sống, đặc biệt khi sự thật lại đến từ những con người vai vế nhỏ hơn ta, chức vụ kém hơn ta. Hơn nữa, khi sự thật đòi hỏi ta phải từ bỏ một kiểu sống, một mối quan hệ hay một mối lợi nào đó. Có thể chần chừ, có thể lần lữa một thời gian, nhưng rồi sẽ có lúc ta phải trực diện với sự thật đó là lúc ta phải giả từ trần thế này.
Một trong những sự thật ta cần đón nhận đó là sự hiện hữu của tội và đầu mối của nó là thần dữ. Tội lỗi ở trong ta, ở giữa chúng ta. Thần dữ luôn rảo quanh ta như “sư tử rình mồi chờ cắn xé” ( 1P 5,8 ). Tuy nhiên Thánh Phaolô khẳng định: ở đâu tội lỗi càng lan tràn thì ở đó ân sủng càng chan chứa. Vì sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Đức Kitô ( x. Rm 5,15 ). Đón nhận sự thật này thì thái độ của Kitô hữu chúng ta là sẽ không bi quan yếm thế và cũng không chểnh mảng coi thường nhưng sẽ luôn cẩn trong trong niềm hy vọng.
3.Đừng sợ công bố sự thật: “ Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không só gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” ( Mt 10, 26-27 ). Khi nói lên một sự thật là ta đã mặc nhiên nhìn nhận đồng thời đón nhận sự thật ấy. Và khi đã can đảm nói lên sự thật thì ta cũng đã chấp nhận nhữung hệ quả kéo theo. Ngôn sứ Giêrêmia là một trong những ngôn sứ cảm nhận điều này. Dù được đặt cho biệt danh “ Lão tứ phía kinh hoàng”, Giêrêmia vẫn trung kiên nói lời Chúa dạy. Giêrêmia đã phải gánh bao truân chuyên khốn khó vì đã công bố sự thật. Số phận của Vị Ngôn sứ trên các ngôn sứ là Đức Kitô còn bi thảm gấp bội. “Để làm chứng cho sự thật” ( x.Ga 18,37 ), Đức Kitô đã phải gánh lấy án hình thập giá đau thương.
Cớ sao, đôi khi, đôi lần chúng ta ngại ngần nói lên sự thật ? Dĩ nhiên là phải loại bỏ việc “không được nói” những gì theo luật dạy như những sự việc mang tính bí mật an ninh quốc gia, như bí mật tòa cáo giải, bí mật chuyện lương tâm cá nhân…hay “được nói không” tức là từ chối nói sự thật khi gây phương hại đến đức ái… Tuy nhiên, cần thú nhận rằng vẫn có không ít trường hợp “nói không được”, tức là không dám nói sự thật vì những nguyên cớ thiếu trong sáng và thậm chí là mờ ám, đen tối. Chúa Kitô đã tự xưng Người chính là Sự Thật ( x.Ga 14,6 ). Và chúng ta đừng quên Người đã minh nhiên khẳng định: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thẩy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt 10,32-33 ).
Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta, ai ai cũng dẫy đầy lầm lỗi với kiếp người “đa thọ đa nhục”, càng sống lâu càng nhiều tội lỗi. Một trong những chiêu bài của thần dữ và những người xấu, những thế lực đen tối, để kìm giữ con người trong sự nô lệ, đó là gieo rắc nổi sợ hãi bằng nhiều hình thức. Một vài hình thức thông dụng chúng thường dùng đó là trấn áp, lên án, kết án, loại trừ… Nếu như chúng ta tích cực cộng tác với ơn Chúa dệt xây một môi sinh ắp đầy tình khoan dung, sự tha thứ, ắp đầy tình yêu thương đón nhận nhau, thì chắc chắn ta đã giúp cho tha nhân và cả chính bản thân mình, thêm can đảm ở trong sự thật, đón nhận sự thật và loan báo sự thật. Chính lúc này vương quốc Nước Trời đang trị đến, một vương quốc không hề có bóng dáng của sự sợ hãi.
Chúa nhật XII Thường niên A
Một trong những lời khuyên bảo của Chúa Kitô dành cho các môn đệ, trong thời gian ba năm rao giảng Tin Mừng lẫn sau khi từ cõi chết phục sinh, đó là “anh em đừng sợ !”. Bài Tin Mừng Chúa Nhật XII TN A một lần nữa cho ta nghe sứ điệp này. Hẳn không là vô cớ khi Chúa Kitô thường lặp đi lặp lại sứ điệp ấy: Đừng sợ ! Là con người, chúng ta khó tránh nhiều nổi sợ hãi, có nguyên nhân cũng nhiều mà vô cớ cũng không thiếu: sợ đói, sợ khát, sợ khổ, sợ thất bại, sợ thiên tai, sợ dịch bệnh, sợ gặp phải những điều xúi quẩy, không may… Phúc bất trùng lai mà họa vô đơn chí. Chính vì thế người ta thường hành xử kiểu khôn ngoan, tìm sự an toàn bằng cách không kiêng thì cũng dè. Những hình thức kiêng cử, úy kỵ trong dân gian là một minh chứng về nổi sợ hãi ít nhiều đã và đang hiển hiện. Là Kitô hữu, chúng ta có thoát ra ngoài cái vòng lẩn quẩn của sự bất an ấy không ? Là Kitô hữu, hy vọng rằng ít có ai để cho nhiều nổi sợ hãi “vu vơ” khiến mình dây vào những chuyện mê tín. Tuy nhiên thử hỏi có ai dám vổ ngực xưng mình không hề sợ hãi bất cứ điều gì. Có nhiều nổi sợ như sợ đói, sợ khổ, sợ chết…mang tính tự nhiên dễ chấp nhận với kiếp nhân sinh. Tuy nhiên có những nổi sợ thiếu chính đáng cần loại bỏ. Được gợi ý từ ba bài đọc Lời Chúa ngày Chúa Nhật XII TN A, xin được chia sẽ một vài nổi sợ mà ta phải biết nói “không”hay là“ đừng sợ !”.
1.Đừng sợ sống trong sự thật: Xét về bình diện hữu thể, thì chỉ có một “sự thật” duy nhất đúng nghĩa đó là Đấng “có sao, có vậy” ( Xh 3,14 ). Tất cả mọi sự hiện hữu khác khi chúng hiện hữu như chúng là, thì chúng chỉ tham gia hay thông phần vào “sự thật viên mãn” là chính Đấng sáng tạo. Xét về phưong diện luận lý hay tư duy thì sự thật là sự phù hợp giữa nhận thức với thực tại khách quan. Trên bình diện này thì nhận thức của “chiếc bình gốm” quả là có nhiều hạn chế về cả chính nó, đừng nói gì đến các chiếc bình khác hay đến người thợ gốm. Duy chỉ người thợ gốm mới hiểu rõ sản phẩm do mình làm nên.
Không sợ sai lầm khi khẳng định rằng duy chỉ có Thiên Chúa mới là sự thật viên mãn. Vì thế khi ở trong sự thật là ta đang ở trong Thiên Chúa, Đấng chăm sóc chúng ta từ đường đi nước bước đến cả số phận của từng sợi tóc trên đầu chúng ta (x.Mt 10,30 ). Xác tín được điều này thì lẽ nào ta lại sợ sống trong sự thật.
2.Đừng sợ đón nhận sự thật: Sự thật thì dễ mất lòng nhưng sự thật lại giải phóng chúng ta. Có nhiều khi ta biết sự thật nhưng không muốn đón nhận. Vì sự thật thường đòi hỏi ta phải thay đổi, thay đổi cái nhìn, thay đổi lối sống, đặc biệt khi sự thật lại đến từ những con người vai vế nhỏ hơn ta, chức vụ kém hơn ta. Hơn nữa, khi sự thật đòi hỏi ta phải từ bỏ một kiểu sống, một mối quan hệ hay một mối lợi nào đó. Có thể chần chừ, có thể lần lữa một thời gian, nhưng rồi sẽ có lúc ta phải trực diện với sự thật đó là lúc ta phải giả từ trần thế này.
Một trong những sự thật ta cần đón nhận đó là sự hiện hữu của tội và đầu mối của nó là thần dữ. Tội lỗi ở trong ta, ở giữa chúng ta. Thần dữ luôn rảo quanh ta như “sư tử rình mồi chờ cắn xé” ( 1P 5,8 ). Tuy nhiên Thánh Phaolô khẳng định: ở đâu tội lỗi càng lan tràn thì ở đó ân sủng càng chan chứa. Vì sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Đức Kitô ( x. Rm 5,15 ). Đón nhận sự thật này thì thái độ của Kitô hữu chúng ta là sẽ không bi quan yếm thế và cũng không chểnh mảng coi thường nhưng sẽ luôn cẩn trong trong niềm hy vọng.
3.Đừng sợ công bố sự thật: “ Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không só gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” ( Mt 10, 26-27 ). Khi nói lên một sự thật là ta đã mặc nhiên nhìn nhận đồng thời đón nhận sự thật ấy. Và khi đã can đảm nói lên sự thật thì ta cũng đã chấp nhận nhữung hệ quả kéo theo. Ngôn sứ Giêrêmia là một trong những ngôn sứ cảm nhận điều này. Dù được đặt cho biệt danh “ Lão tứ phía kinh hoàng”, Giêrêmia vẫn trung kiên nói lời Chúa dạy. Giêrêmia đã phải gánh bao truân chuyên khốn khó vì đã công bố sự thật. Số phận của Vị Ngôn sứ trên các ngôn sứ là Đức Kitô còn bi thảm gấp bội. “Để làm chứng cho sự thật” ( x.Ga 18,37 ), Đức Kitô đã phải gánh lấy án hình thập giá đau thương.
Cớ sao, đôi khi, đôi lần chúng ta ngại ngần nói lên sự thật ? Dĩ nhiên là phải loại bỏ việc “không được nói” những gì theo luật dạy như những sự việc mang tính bí mật an ninh quốc gia, như bí mật tòa cáo giải, bí mật chuyện lương tâm cá nhân…hay “được nói không” tức là từ chối nói sự thật khi gây phương hại đến đức ái… Tuy nhiên, cần thú nhận rằng vẫn có không ít trường hợp “nói không được”, tức là không dám nói sự thật vì những nguyên cớ thiếu trong sáng và thậm chí là mờ ám, đen tối. Chúa Kitô đã tự xưng Người chính là Sự Thật ( x.Ga 14,6 ). Và chúng ta đừng quên Người đã minh nhiên khẳng định: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thẩy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt 10,32-33 ).
Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta, ai ai cũng dẫy đầy lầm lỗi với kiếp người “đa thọ đa nhục”, càng sống lâu càng nhiều tội lỗi. Một trong những chiêu bài của thần dữ và những người xấu, những thế lực đen tối, để kìm giữ con người trong sự nô lệ, đó là gieo rắc nổi sợ hãi bằng nhiều hình thức. Một vài hình thức thông dụng chúng thường dùng đó là trấn áp, lên án, kết án, loại trừ… Nếu như chúng ta tích cực cộng tác với ơn Chúa dệt xây một môi sinh ắp đầy tình khoan dung, sự tha thứ, ắp đầy tình yêu thương đón nhận nhau, thì chắc chắn ta đã giúp cho tha nhân và cả chính bản thân mình, thêm can đảm ở trong sự thật, đón nhận sự thật và loan báo sự thật. Chính lúc này vương quốc Nước Trời đang trị đến, một vương quốc không hề có bóng dáng của sự sợ hãi.
Sợ hãi và Đừng sợ!
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
13:54 20/06/2008
Sợ hãi và Đừng sợ!
Sợ hãi dường như đã là thuộc tính của con người. Có biết bao điều phải sợ, sợ hãi trước thiên tai, dịch bệnh đối với mệnh trời. Đối với mệnh người, sợ hãi đói khát, thiếu ăn, thiếu mặc, sợ hãi thân này lỡ hư, sợ hãi những tai ương do mình và cũng có khi chẳng do mình gấy nên. Đối với người khác, sợ hãi bị phản bội, lừa dối, lòng ma dạ quỷ … Cuốc sống bao vây bằng sợ hãi mọi nơi mọi lúc.
Gốc rễ của sợ hãi.
Sợ hãi đến từ gốc rễ con người vốn yếu đuối: Yếu đuối về nhiều mặt: trước sức mạnh của thiên nhiên, trước sự dữ đến từ con người, đau khổ vì tha nhân. Hết cái sợ này đến cái sợ khác vây bọc con người. Con người đã trượt ngã thảm thương rơi vào trong tội. Không ai không là tội nhân, luôn thấy những yếu đuối, luôn thấy những bất hạnh ập đến bất cứ lúc nào, con người không thể tự thân ra khỏi những tội lỗi của mình, luôn bị rình rập trong sợ hãi. Con người vốn sợ hãi trước chính mình: “Tìm củi ba năm đốt trong một giờ”.
Sợ hãi do sợ mất những gì mình đang có: Con người vốn dĩ có quyền sở hữu nhưng cũng chính vì quyền sở hữu mà lại phát sinh ra nguyên nhân sợ hãi. Sợ mất danh dự, sợ mất chỗ đứng, vị thế, mất cửa nhà, ruộng vườn. Những cái sợ rất sợ trước những lần trắng tay, nhục nhã, ngậm đắng nuốt cay, sợ mất tất cả. Đó là những cái sợ rất sợ của con người.
Sợ những ước mong lại không đến. Con người vốn không chỉ sống ở qúa khứ, hiện tại mà con người còn hướng tới tương lai. Tương lai dù có được chuẫn bị kỹ lưỡng trong hiện tại song vẫn không chắc bảo đảm tương lai được thực hiện. Con người khó học nhất là bài học chữ ngờ. Không nờ, bất ngờ luôn là mối đe dọa ở tương lai trở thành hiện thực. Không có một bảo đảm chắc chắn ở tương lai nên con người đầy những sợ hãi.
Sợ người khác: Nỗi sợ hãi không thể không tránh khỏi, vì người khác luôn có người chống đối lại mình. Sợ hãi đến từ dư luận, chẳng biết đúng hay không đúng, nhưng luôn làm tổn thương đến chính người bị khủng bố. Sợ hãi trước sự ranh ma của con người, sợ ngay cả việc “làm ơn mắc oán”. Sợ hãi đến nỗi con người phát sợ trước tha nhân và đôi khi dẫn đến chỗ quá đáng “tha nhân chính là hỏa ngục”.
Sợ hãi trước thiên nhiên: Người tính không bằng trời tính, con người cám thấy mình bé nhỏ trước nhiều vấn đề thiên nhiên. Một thiên nhiên chống lại con người thương xuyên do chính con người khai thác tận diệt thiên nhiên. Con người đi trong sợ hãi nhưng vẫn phải sống trong môi trường thiên nhiên.
Giải quyết sợ hãi:
Có hai hướng giải quyết sợ hãi, hướng tiêu cực và tích cực.
Hướng tiêu cực còn gọi là phương cách đối phó.
Sợ hãi con người vốn yếu đuối: Con người đi tìm cho mình một liều thuốc mạnh như những siêu nhân, một siêu nhân giữa đời thường. Sợ tội thì tránh tội, muốn tránh tội thì phải bịt mắt, bịt tai, bịt miệng trước những điều xấu. Nhưng có một nguy cơ trước những cái bưng bít ấy dẫn đến bùng nổ “chết vì thiều hiểu biết”. Càng sợ tội, càng phòng tránh, con người càng bị bao vây, càng bị siết chặt trong vòng cám dỗ tội lỗi. Cho nên con người vốn cảm nghiệm sâu xa về yếu đuối của mình và luôn cảm thấy: “Chướng nại trong tôi thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau”. Con đường yếu đuối trở nên con đường không lối thoát nên cũng phát sinh một chiều hướng khác. Gạt bỏ tội lỗi, yếu đuối ra khỏi cuộc sống. Không có gì là tội lỗi, nếu không phạm luật dân sự. Loại trừ Thiên Chúa để con người sống dễ dàng hơn với nhau khi đồng thuận về bộ luật cho mọi người thực hiện. Một trào lưu mới phát sinh, tương đối hóa mọi sự, tương đối hóa lương tâm, tương đối hóa sự thiện, sự ác, như người việt vẫn quen nói “sống chung với lũ”. Không tránh khỏi thì tìm cách hòa hoãn với tội lỗi mà sống, “Thỏa hiệp để đổi lấy an bình”.
Sợ mất những gì đang có:
Không có thì không mất, người ta chỉ mất những gì mình đang có. Sống mà như chết, chết mà như đang sống. Cái thân ta là cái thân hư không, tô điểm, mặc vào sang trọng, nuôi thân béo phì, cũng chỉ là cái thân hư vô. “ Con người đến từ tay trắng trở về với tay trắng”. Chấp nhân lý thuyết này có nghĩa là chẳng cần phải nỗ lực làm gì, cuối cùng cũng thế thôi! Và sống trên cuộc đời này chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì cái ý nghĩa ấy cũng chỉ là hư không. Chẳng là gì nên làm chàng nghệ sĩ đến trong cuộc đời này để rong chơi, để ca hát, và để tiêu khiển cho đủ ba vạn sáu ngàn ngày và rồi rời quán trọ bỏ cuộc chơi. Nỗi sợ mất cũng mang đến một lối sống khác đó là bảo hiểm cho những cái có. Những rủi ro nhất vẫn có những bảo hiểm để khỏi phải lo sợ. Cuộc sống đã bảo hiểm mọi mặt nhưng vẫn một nỗi lo khác xuất hiện: Sợ mất việc, mất việc là mất tất cả. Sợ mất việc luôn là nỗi ám ảnh là xao xuyến nhất là trong những lúc khó khăn trong kinh tế. Con người không tránh được nững nỗi lo, tránh được điều này lại phát sinh cái sợ khác lo âu hơn.
Sơ tương lai không đến:
Không vọng, không tưởng thì không sợ. Bởi trong cái mà ta gọi là "tâm hồn tôi" người thường thì thấy có hai phần: tình cãm và lý trí. Nhưng với Tuệ nhãn của đức Phật thì thấy rất rõ cái mà ta gọi là “tâm của tôi” vốn chỉ là một sự liên kết giả tạo của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Ta biết rằng Ta Bị Sống chớ không phải Ta Sống. Có một cái gì đó mà ta chưa biết rõ, nó lôi ta "xềnh-xệt" như con trâu bị "xỏ mủi" phải đi theo thằng bé nắm dây vàm. Hàng ngày chúng ta vẫn ăn món nầy mà vọng tưởng món kia, làm việc nầy mà vọng tưởng việc khác. Rốt cuộc toàn bộ cuộc sống của ta chỉ là một chuổi "vọng động". Diệt vọng là con đường để thoát khỏi cảnh đau khổ, nhưng diệt vọng thế nào được nếu không chấp nhận diệt thân. Phật dạy: “Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có sanh, có diệt, thì cái đó là vọng, thuộc về “khách” không phải ông. Còn cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, thì cái đó là “chơn, thuộc về “chủ” chính là ông. Như thế chơn và vọng rất rõ ràng, ông còn chưa hiểu hay sao?”
Sợ tha nhân: Lối sống chọn phương thức hoài nghi về người khác, canh chừng người khác và đôi khi tránh người khác. Cái khó của con người là con người của xã hội, “Ghét của nào trời trao của ấy”. Nhân duyên luôn trái với sự thực ước muốn. Làm người giữa muôn người thật khó. Khó vì “Sống dài chê vắn, sống vắn chê dài” biết làm sao cho vừa lòng người? Sợ tha nhân là một mối sơ phải sống đương đầu bằng con đường: “Biết cũng chết không biết cũng chết chỉ biết sống là sống”. Con đường biết sống chẳng có mẫu số chung, mỗi người biết sống cho mình và cho người khác theo điều mình biệt. Thật khó với con người dầu muốn không sợ hãi vẫn phải run sợ trước con người.
Sơ thiên nhiên: Thiên nhiên chống lại con người, con người cũng đang chống lại thiên nhiên. Con người nỗ lực đi tìm hiểu thiên nhiên, hiểu về nó và sống với nó hài hòa. Nhưng con người dầu biết sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người mật thiết, vẫn không tránh khỏi sự khai thác triệt để thiên nhiên để con người hưởng thụ.
Tóm tắt con đường tiêu cực, tránh mọi cái cần tránh để tình hình không xấu thêm đi và giữ những gì cần phải giữ để không mất thêm những gì đang có. Con đường tiêu cực dẫn đến việc phòng thân và phòng thủ.
Con đường tích cực Kitô Giáo:
Đối với tội lỗi: Thiên Chúa giàu lòng thương xót đến con người tội lỗi và luôn lên án tội lỗi. Tôi lỗi căn nguyên của mọi sợ hãi, nếu con người tránh xa tội thì tránh được hầu hết những sợ hãi. Thế nhưng con người vẫn là một tội nhân và đỉnh cao của người tội nhân khỏi sợ hãi là: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan”. Thật tâm sống với Chúa, và thật lòng sám hối là con đường không còn lo sợ, bởi trong tình yêu không có sợ hãi. Nhận biết Tình yêu và sống trong tình yêu Thiên Chúa là một phương cách sống cho mọi người, con người nghèo đến đâu đi chăng nữa vẫn có đủ tình yêu để đáp lại tình yêu. Tình yêu khiến cho lựa chọn trở nên chủ động, thay vì giữ lề luật vì sợ tội thì việc giữ luật lại trở nên vì lòng yêu mến Thiên Chúa mà sống những điều Thiên Chúa muốn. Thái độ tiêu cực trở nên thái độ tích cực nhờ tình yêu đáp trả. Và cảm nghiệm cuối cùng của việc sống đáp trả trong tình yêu: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”.
Sợ Mất: Đừng sợ mất những gì mình đang có vì một lẽ là được Chúa Kitô.
“Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người”. Cái được và cái mất không còn quan trọng trên cuộc đời này, nếu chúng ta biết Chúa Kitô và sống với Người. Chúa không để những ai trông cậy vào Người phải tủi hổ, nhục nhã và đói kém.
Sợ tương lai: Nếu không còn vọng không còn tưởng thì không còn phát triển. Còn phát triển nên còn chấp nhận mạo hiểm, mạo hiểm để tìm hướng đường phát triển. Nếu con người đặt hy vọng vào thành bại thì hẳn sẽ có thất vọng và thành tựu. Chấp nhận nghĩa là biết rằng nó là điều tất yếu của cuộc sống nên thản nhiên mà sống, nỗ lực kiến tạo, vươn tới, đón nhận tất cả ngay cả thất vọng, và nhận thất bại là bài học thành công. Làm việc với tư cách của một con người và trông cậy vào Thiên Chúa như con người tùy thuộc vào Thiên Chúa: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa”.
Sợ tha nhân: Con đường đến với tha nhân là con đường của Đức ái: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được”. Nhận Lãnh Chúa Thánh Thần để được sai đến với anh chị em, thế nên người Kitô hữu sẽ mang hoa trái của Chúa Thánh Thần là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế”. Không còn sợ hãi mà là lòng mến yêu.
Sợ thiên nhiên: Thiên nhiên là người giúp việc cho con người, con người cần học cách để sử dụng thiên nhiên theo đúng cách của nó mà phục vụ cho phẩm giá con người được sống và sống dồi dào. Con người Kitô hữu chỉ có thể sống hài hòa với thiên nhiên nếu con người biết sống cùng với Chúa Giêsu, nghĩa là con người đi trong đường lối yêu thương của Thiên Chúa để thiên nhiên không còn phải: “rên siết và quằn quại như sắp sinh nở”.
Đừng sợ: Đó là lời mời gọi của Chua hôm nay, đi cùng với Chúa, sống là sống cho Ngài và chết cũng là chết cho Ngài nên chẳng còn gì sợ hãi.
Hãy can đảm lên!
Sợ hãi dường như đã là thuộc tính của con người. Có biết bao điều phải sợ, sợ hãi trước thiên tai, dịch bệnh đối với mệnh trời. Đối với mệnh người, sợ hãi đói khát, thiếu ăn, thiếu mặc, sợ hãi thân này lỡ hư, sợ hãi những tai ương do mình và cũng có khi chẳng do mình gấy nên. Đối với người khác, sợ hãi bị phản bội, lừa dối, lòng ma dạ quỷ … Cuốc sống bao vây bằng sợ hãi mọi nơi mọi lúc.
Gốc rễ của sợ hãi.
Sợ hãi đến từ gốc rễ con người vốn yếu đuối: Yếu đuối về nhiều mặt: trước sức mạnh của thiên nhiên, trước sự dữ đến từ con người, đau khổ vì tha nhân. Hết cái sợ này đến cái sợ khác vây bọc con người. Con người đã trượt ngã thảm thương rơi vào trong tội. Không ai không là tội nhân, luôn thấy những yếu đuối, luôn thấy những bất hạnh ập đến bất cứ lúc nào, con người không thể tự thân ra khỏi những tội lỗi của mình, luôn bị rình rập trong sợ hãi. Con người vốn sợ hãi trước chính mình: “Tìm củi ba năm đốt trong một giờ”.
Sợ hãi do sợ mất những gì mình đang có: Con người vốn dĩ có quyền sở hữu nhưng cũng chính vì quyền sở hữu mà lại phát sinh ra nguyên nhân sợ hãi. Sợ mất danh dự, sợ mất chỗ đứng, vị thế, mất cửa nhà, ruộng vườn. Những cái sợ rất sợ trước những lần trắng tay, nhục nhã, ngậm đắng nuốt cay, sợ mất tất cả. Đó là những cái sợ rất sợ của con người.
Sợ những ước mong lại không đến. Con người vốn không chỉ sống ở qúa khứ, hiện tại mà con người còn hướng tới tương lai. Tương lai dù có được chuẫn bị kỹ lưỡng trong hiện tại song vẫn không chắc bảo đảm tương lai được thực hiện. Con người khó học nhất là bài học chữ ngờ. Không nờ, bất ngờ luôn là mối đe dọa ở tương lai trở thành hiện thực. Không có một bảo đảm chắc chắn ở tương lai nên con người đầy những sợ hãi.
Sợ người khác: Nỗi sợ hãi không thể không tránh khỏi, vì người khác luôn có người chống đối lại mình. Sợ hãi đến từ dư luận, chẳng biết đúng hay không đúng, nhưng luôn làm tổn thương đến chính người bị khủng bố. Sợ hãi trước sự ranh ma của con người, sợ ngay cả việc “làm ơn mắc oán”. Sợ hãi đến nỗi con người phát sợ trước tha nhân và đôi khi dẫn đến chỗ quá đáng “tha nhân chính là hỏa ngục”.
Sợ hãi trước thiên nhiên: Người tính không bằng trời tính, con người cám thấy mình bé nhỏ trước nhiều vấn đề thiên nhiên. Một thiên nhiên chống lại con người thương xuyên do chính con người khai thác tận diệt thiên nhiên. Con người đi trong sợ hãi nhưng vẫn phải sống trong môi trường thiên nhiên.
Giải quyết sợ hãi:
Có hai hướng giải quyết sợ hãi, hướng tiêu cực và tích cực.
Hướng tiêu cực còn gọi là phương cách đối phó.
Sợ hãi con người vốn yếu đuối: Con người đi tìm cho mình một liều thuốc mạnh như những siêu nhân, một siêu nhân giữa đời thường. Sợ tội thì tránh tội, muốn tránh tội thì phải bịt mắt, bịt tai, bịt miệng trước những điều xấu. Nhưng có một nguy cơ trước những cái bưng bít ấy dẫn đến bùng nổ “chết vì thiều hiểu biết”. Càng sợ tội, càng phòng tránh, con người càng bị bao vây, càng bị siết chặt trong vòng cám dỗ tội lỗi. Cho nên con người vốn cảm nghiệm sâu xa về yếu đuối của mình và luôn cảm thấy: “Chướng nại trong tôi thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau”. Con đường yếu đuối trở nên con đường không lối thoát nên cũng phát sinh một chiều hướng khác. Gạt bỏ tội lỗi, yếu đuối ra khỏi cuộc sống. Không có gì là tội lỗi, nếu không phạm luật dân sự. Loại trừ Thiên Chúa để con người sống dễ dàng hơn với nhau khi đồng thuận về bộ luật cho mọi người thực hiện. Một trào lưu mới phát sinh, tương đối hóa mọi sự, tương đối hóa lương tâm, tương đối hóa sự thiện, sự ác, như người việt vẫn quen nói “sống chung với lũ”. Không tránh khỏi thì tìm cách hòa hoãn với tội lỗi mà sống, “Thỏa hiệp để đổi lấy an bình”.
Sợ mất những gì đang có:
Không có thì không mất, người ta chỉ mất những gì mình đang có. Sống mà như chết, chết mà như đang sống. Cái thân ta là cái thân hư không, tô điểm, mặc vào sang trọng, nuôi thân béo phì, cũng chỉ là cái thân hư vô. “ Con người đến từ tay trắng trở về với tay trắng”. Chấp nhân lý thuyết này có nghĩa là chẳng cần phải nỗ lực làm gì, cuối cùng cũng thế thôi! Và sống trên cuộc đời này chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì cái ý nghĩa ấy cũng chỉ là hư không. Chẳng là gì nên làm chàng nghệ sĩ đến trong cuộc đời này để rong chơi, để ca hát, và để tiêu khiển cho đủ ba vạn sáu ngàn ngày và rồi rời quán trọ bỏ cuộc chơi. Nỗi sợ mất cũng mang đến một lối sống khác đó là bảo hiểm cho những cái có. Những rủi ro nhất vẫn có những bảo hiểm để khỏi phải lo sợ. Cuộc sống đã bảo hiểm mọi mặt nhưng vẫn một nỗi lo khác xuất hiện: Sợ mất việc, mất việc là mất tất cả. Sợ mất việc luôn là nỗi ám ảnh là xao xuyến nhất là trong những lúc khó khăn trong kinh tế. Con người không tránh được nững nỗi lo, tránh được điều này lại phát sinh cái sợ khác lo âu hơn.
Sơ tương lai không đến:
Không vọng, không tưởng thì không sợ. Bởi trong cái mà ta gọi là "tâm hồn tôi" người thường thì thấy có hai phần: tình cãm và lý trí. Nhưng với Tuệ nhãn của đức Phật thì thấy rất rõ cái mà ta gọi là “tâm của tôi” vốn chỉ là một sự liên kết giả tạo của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Ta biết rằng Ta Bị Sống chớ không phải Ta Sống. Có một cái gì đó mà ta chưa biết rõ, nó lôi ta "xềnh-xệt" như con trâu bị "xỏ mủi" phải đi theo thằng bé nắm dây vàm. Hàng ngày chúng ta vẫn ăn món nầy mà vọng tưởng món kia, làm việc nầy mà vọng tưởng việc khác. Rốt cuộc toàn bộ cuộc sống của ta chỉ là một chuổi "vọng động". Diệt vọng là con đường để thoát khỏi cảnh đau khổ, nhưng diệt vọng thế nào được nếu không chấp nhận diệt thân. Phật dạy: “Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có sanh, có diệt, thì cái đó là vọng, thuộc về “khách” không phải ông. Còn cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, thì cái đó là “chơn, thuộc về “chủ” chính là ông. Như thế chơn và vọng rất rõ ràng, ông còn chưa hiểu hay sao?”
Sợ tha nhân: Lối sống chọn phương thức hoài nghi về người khác, canh chừng người khác và đôi khi tránh người khác. Cái khó của con người là con người của xã hội, “Ghét của nào trời trao của ấy”. Nhân duyên luôn trái với sự thực ước muốn. Làm người giữa muôn người thật khó. Khó vì “Sống dài chê vắn, sống vắn chê dài” biết làm sao cho vừa lòng người? Sợ tha nhân là một mối sơ phải sống đương đầu bằng con đường: “Biết cũng chết không biết cũng chết chỉ biết sống là sống”. Con đường biết sống chẳng có mẫu số chung, mỗi người biết sống cho mình và cho người khác theo điều mình biệt. Thật khó với con người dầu muốn không sợ hãi vẫn phải run sợ trước con người.
Sơ thiên nhiên: Thiên nhiên chống lại con người, con người cũng đang chống lại thiên nhiên. Con người nỗ lực đi tìm hiểu thiên nhiên, hiểu về nó và sống với nó hài hòa. Nhưng con người dầu biết sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người mật thiết, vẫn không tránh khỏi sự khai thác triệt để thiên nhiên để con người hưởng thụ.
Tóm tắt con đường tiêu cực, tránh mọi cái cần tránh để tình hình không xấu thêm đi và giữ những gì cần phải giữ để không mất thêm những gì đang có. Con đường tiêu cực dẫn đến việc phòng thân và phòng thủ.
Con đường tích cực Kitô Giáo:
Đối với tội lỗi: Thiên Chúa giàu lòng thương xót đến con người tội lỗi và luôn lên án tội lỗi. Tôi lỗi căn nguyên của mọi sợ hãi, nếu con người tránh xa tội thì tránh được hầu hết những sợ hãi. Thế nhưng con người vẫn là một tội nhân và đỉnh cao của người tội nhân khỏi sợ hãi là: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan”. Thật tâm sống với Chúa, và thật lòng sám hối là con đường không còn lo sợ, bởi trong tình yêu không có sợ hãi. Nhận biết Tình yêu và sống trong tình yêu Thiên Chúa là một phương cách sống cho mọi người, con người nghèo đến đâu đi chăng nữa vẫn có đủ tình yêu để đáp lại tình yêu. Tình yêu khiến cho lựa chọn trở nên chủ động, thay vì giữ lề luật vì sợ tội thì việc giữ luật lại trở nên vì lòng yêu mến Thiên Chúa mà sống những điều Thiên Chúa muốn. Thái độ tiêu cực trở nên thái độ tích cực nhờ tình yêu đáp trả. Và cảm nghiệm cuối cùng của việc sống đáp trả trong tình yêu: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”.
Sợ Mất: Đừng sợ mất những gì mình đang có vì một lẽ là được Chúa Kitô.
“Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người”. Cái được và cái mất không còn quan trọng trên cuộc đời này, nếu chúng ta biết Chúa Kitô và sống với Người. Chúa không để những ai trông cậy vào Người phải tủi hổ, nhục nhã và đói kém.
Sợ tương lai: Nếu không còn vọng không còn tưởng thì không còn phát triển. Còn phát triển nên còn chấp nhận mạo hiểm, mạo hiểm để tìm hướng đường phát triển. Nếu con người đặt hy vọng vào thành bại thì hẳn sẽ có thất vọng và thành tựu. Chấp nhận nghĩa là biết rằng nó là điều tất yếu của cuộc sống nên thản nhiên mà sống, nỗ lực kiến tạo, vươn tới, đón nhận tất cả ngay cả thất vọng, và nhận thất bại là bài học thành công. Làm việc với tư cách của một con người và trông cậy vào Thiên Chúa như con người tùy thuộc vào Thiên Chúa: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa”.
Sợ tha nhân: Con đường đến với tha nhân là con đường của Đức ái: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được”. Nhận Lãnh Chúa Thánh Thần để được sai đến với anh chị em, thế nên người Kitô hữu sẽ mang hoa trái của Chúa Thánh Thần là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế”. Không còn sợ hãi mà là lòng mến yêu.
Sợ thiên nhiên: Thiên nhiên là người giúp việc cho con người, con người cần học cách để sử dụng thiên nhiên theo đúng cách của nó mà phục vụ cho phẩm giá con người được sống và sống dồi dào. Con người Kitô hữu chỉ có thể sống hài hòa với thiên nhiên nếu con người biết sống cùng với Chúa Giêsu, nghĩa là con người đi trong đường lối yêu thương của Thiên Chúa để thiên nhiên không còn phải: “rên siết và quằn quại như sắp sinh nở”.
Đừng sợ: Đó là lời mời gọi của Chua hôm nay, đi cùng với Chúa, sống là sống cho Ngài và chết cũng là chết cho Ngài nên chẳng còn gì sợ hãi.
Hãy can đảm lên!
Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục
LM Nguyễn Vinh Gioang
13:58 20/06/2008
Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục (40)
401. Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng sợ
Trong đời mình, Chúa Giêsu có rất nhiều kẻ nghịch. Trước hết là ma quỷ. Tiếp đó, là những kẻ độc ác, như vua Erode. Rồi đến những hạng kiêu căng, cố chấp như những người biệt phái, luật sĩ, ký lục.
Chúa Giêsu biết trước những kẻ nghịch của Ngài hiện nay và sau nầy, thế nào cũng đối xử tàn nhẫn với những ai theo Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Ngài đừng sợ vì những kẻ nghịc nầy chỉ có thể làm hại được phần xác mà thôi, chứ không thể nào làm hại phần hồn được.
Chúa Giêsu cũng động viên lòng tin cậy của các môn đệ. Ngài khuyên họ tin vào sự quan phòng của Chúa Cha trên trời hằng lo lắng cho từng sợi tóc của con cái Ngài.
Chúa Giêsu chỉ nhấn mạnh về một cái sợ đích thực, là sợ Chúa. Lý do là vì chỉ có Chúa là Đấng có thể phạt cả xác lẫn hồn chúng ta bằng cách ném cả xác lẫn hồn chúng ta xuống hỏa ngục.
402. Điểm nổi bật nhất của Nhóm Mười Hai Tông Đồ là sự sợ hãi
Mặc dầu được sống tam cùng với Chúa Giêsu: cùng ở, cùng ăn, cùng làm với Ngài, mặc dầu được thấy biết bao nhiêu phép lạ Thầy mình làm trước mắt, nhưng các tông đồ sợ thì vẫn sợ: sợ không có gì ăn, sợ bão táp làm cho thuyền chìm, sợ quân dữ đến bắt Thầy nên đã bỏ chạy hết, sợ đến nỗi chối Thầy, sợ bị liên lụy nên không dám đi theo Thầy lên tận Núi Sọ.
Vì thế, chúng ta có thể gọi Nhóm Mười Hai nầy là “Nhóm Sợ.”
Sau nầy, Nhóm Mười Hai nầy được gọi là “Nhóm Không Sợ”. Lý do thế nào thì Sách tông Đồ Công Vụ đã nói rõ rồi.
403. Tuy tính tình nhút nhát, tiên tri Giêrêmia vẫn quyết không sợ
Bản tính Giêrêmia thì hiền lành, nhút nhát, ưa sống thinh lặng một mình. Nhưng khi được Chúa giao cho sứ mạng đi cảnh cáo Dân Chúa tội lỗi, Giêrêmia liền gồng mình lên, tin tưởng vào Chúa và ra đi thi hành sứ mạng.
Thế là nhà tiên tri Giêrêmia bị người ta chế nhạo, thóa mạ, bắt bớ. Cả những người bạn thân tín nhất của ông cũng quay ra chống đối ông.
Dầu vậy, ông vẫn vững tâm tin vào Chúa và làm trọn phận sự Chúa giao cho đến chết.
404. Lời đầu tiên Đức Mẹ Fatima phán: “Các con đừng sợ!”
Không ai mà không biết hoặc không nghe nói về sự lạ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima vào đầu thế kỷ thứ hai mươi nầy.
Khi hiện ra tại Fatima lần đầu tiên, Đức Mẹ phán ngay: “Các con đừng sợ!”
Chúng ta hãy nghe tóm lược câu chuyện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima lần đầu tiên như sau.
Ba em nhỏ tên là Luxia, Phanxicô và Giaxinta đang chăn đoàn chiên trên đồi, liền cùng nhau đọc kinh Truyền Tin khi nghe chuông đánh.
Đọc kinh xong, ba em định chơi một trò chơi thì thấy trời có chớp lóe. Ba em sợ, nên lùa chiên chạy xuống chân đồi. Trời vẫn chớp sáng nên các em tìm cách chạy thật nhanh.
Khi xuống lưng chừng đồi, ba em kinh hãi vì thấy rõ có một bà rất xinh đẹp đang đứng trên ngọn cây sồi gần đó, chỉ cách xa chỗ ba em đứng chừng một thước rưỡi.
Bà đẹp nói với ba em những lời an ủi như sau:
“Các con đừng sợ. Ta không làm gì hại các con đâu…”
Lời đầu tiên của Đức Mẹ hiện ra tại Fatima là lời lặp lại của Chúa Giêsu đã từng nói: “Các con đừng sợ!”.
Và Giáo Hội cũng luôn luôn lặp lại với con cái mình ở khắp nơi, trong mọi hoàn cảnh và trong mọi thời đại, nhất là trong thời đại bây giờ: “Các con đừng sợ!”
405. Một gương bình tĩnh, không hốt hoảng sịơ sệt
Ông George Washington Carver có được một số tiền bốn vạn mỹ kim. Ông đã rất cực khổ, tìm đủ mọi cách để dành dụm, mới được một số tiền lớn như vậy.
Ngày kia, khi đang dạy học, ông được người ta báo cho biết ông đã mất hết số tiền đó vì ngân hàng ông gởi tiền, nay đã vỡ nợ, không có gì để trả lại cho khách.
Nghe vậy, ông George Washington Carver vẫn thản nhiên và bình tĩnh dạy học như thường, không chút gì sợ sệt hoảng hốt. Ông chỉ trả lời vắn gọn với người đưa tin: “Phải! Tôi cũng nghe nói như vậy!”
406. Chúa Giêsu với sự quan phòng của Đức Chúa Cha
Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào Đức Chúa Cha quan phòng.
Sự quan phòng của Đức Chúa Cha vẫn không miễn cho Chúa Giêsu những cơn thử thách rất nặng nề, đến đổi Ngài khiếp sợ trong Vườn Dầu, và trên Cây Thánh Giá, cảm thấy như bị Đức Chúa Cha ruồng bỏ, Ngài phải than lên câu của Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Nhưng Chúa Giêsu vẫn một lòng trung thành trong những cơn thử thách, vì thế, Ngài vẫn vui lòng vâng lời cho đến chết, và hết lòng tín thác hiếu thảo vào Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.”
Những ai theo Chúa Giêsu, đều sẵn sàng vượt qua đêm tối của cuộc đời, trong đó, sự dữ, sự ác ý, sự bất hạnh thường xảy đến và tìm cách nhận chìm họ, nhưng họ vẫn luôn vững tiến trên những con đường mầu nhiệm của Chúa quan phòng, luôn tin tưởng vào Tình Yêu vô bờ vô bến của Chúa mà họ đã hoàn toàn phó thác. Miệng họ luôn lặp đi lặp lại lời của Dân Chúa đang lê bước trong sa mạc với lòng tin tưởng vào Chúa: “Vì tình Chúa yêu ta không bờ không bến! Vì tình Chúa yêu ta bền vững muôn đời!”
407. Vài ví dụ về sự Chúa quan phòng trong Thánh Kinh Cựu Ước
Giuse bị anh em bắt đem đi bán. Nhờ thế, Giuse mới được qua Ai cập, được làm tể tướng để cứu dòng dõi Giacóp của Chúa khỏi bị tiêu diệt.
Khi Dân Chúa thoát ra khỏi Ai Cập, Chúa cho Biển Đỏ rẽ ra để họ vượt qua.
Khi Dân Chúa gặp bóng tối, Chúa cho cột lửa soi sáng dẫn đàng.
Khi Dân Chúa không có gì ăn, Chúa ban manna nuôi sống họ.
Khi Dân Chúa không có gì uống, Chúa ban cho họ có nước uống giữa sa mạc khô cằn.
408. Mọi sự đều do thánh ý Chúa quan phòng sắp đặt
Sau khi dựng nên mọi loài, Chúa tiếp tục dựng nên mãi.
Nếu không có sự can thiệp nầy của Chúa, mọi loài đều bị tan biến. Đây chính là việc Chúa quan phòng, mà thần học gọi là một công cuộc tạo dựng kéo dài.
Chúa quan phòng mọi sự. Chúng ta đừng bao giờ cho rằng điều nầy điều kia xảy đến cho mình là do ma quỷ, hoặc do người nầy người khác có ác ý, hoặc do người nọ người kia sắp đặt, nhưng chúng ta hãy luôn tin rằng tất cả mọi sự xảy đến, đều do Chúa là căn nguyên.
Gương thánh Gióp: khi mất hết của cải, mất hết con cái, thánh Gióp nói: ‘Giavê đã cho. Giavê đã lấy lại. Đáng chúc tụng thay Danh Giavê!”
Thánh Gióp nói Chúa đã ban cho ông, giờ đây Chúa lấy đi. Thánh Gióp không nói Chúa ban cho ông, nhưng giờ đây, ma quỷ lấy đi.
Mọi sự xảy đến, đều do thánh ý Chúa quan phòng sắp đặt, chứ không theo như ý của ai hoặc của ma quỷ muốn xảy ra.
409. Chúa quan phòng kỳ lạ cho con lạc đà
Con lạc đà có một cục bướu trên lưng: đây là nơi con lạc đà chất chứa đồ ăn để nó có thể đi qua sa mạc Sahara lâu ngày.
Sa mạc là nơi đầy cát nóng bỏng ban ngày, nơi không có cây, nơi không có nước. Thế mà lạc đà cứ chậm rãi đi cả tháng trời, trong khi đó, trên lưng, nó phải chở nhiều người và nhiều hàng hoá rất nặng.
Sức lực lạ lùng của lạc đà là do tiêu thụ những thức ăn và nước uống nơi mấy cục bướu trên lưng của nó mà nó đã dự trữ.
Thật Chúa quan phòng kỳ lạ cho con lạc đà, cũng như Chúa quan phòng kỳ lạ cho tất cả mọi loài Chúa đã dựng nên.
410. Vị tông đồ phải đúc hình ảnh Chúa Giêsu trong mình trước
Đức Thánh Giáo Hoàng Piô X nói:
- “Để canh tân mọi sự trong Chúa Giêsu bằng việc tông đồ, cần phải có ơn Chúa.”
Vị tông đồ chỉ có thể lãnh nhận ơn Chúa nếu ngài liên kết mật thiết với Chúa Giêsu.
Chỉ khi nào chúng ta đúc thành hình ảnh Chúa Giêsu trong mình trước, chúng ta mới có thể đúc thành hình ảnh ấy trong các gia đình và xã hội cách dễ dàng.
Vậy tất cả các vị tông đồ đều phải có lòng đạo đức chân chính. (x. Hồn Tông Đồ).
401. Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng sợ
Trong đời mình, Chúa Giêsu có rất nhiều kẻ nghịch. Trước hết là ma quỷ. Tiếp đó, là những kẻ độc ác, như vua Erode. Rồi đến những hạng kiêu căng, cố chấp như những người biệt phái, luật sĩ, ký lục.
Chúa Giêsu biết trước những kẻ nghịch của Ngài hiện nay và sau nầy, thế nào cũng đối xử tàn nhẫn với những ai theo Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Ngài đừng sợ vì những kẻ nghịc nầy chỉ có thể làm hại được phần xác mà thôi, chứ không thể nào làm hại phần hồn được.
Chúa Giêsu cũng động viên lòng tin cậy của các môn đệ. Ngài khuyên họ tin vào sự quan phòng của Chúa Cha trên trời hằng lo lắng cho từng sợi tóc của con cái Ngài.
Chúa Giêsu chỉ nhấn mạnh về một cái sợ đích thực, là sợ Chúa. Lý do là vì chỉ có Chúa là Đấng có thể phạt cả xác lẫn hồn chúng ta bằng cách ném cả xác lẫn hồn chúng ta xuống hỏa ngục.
402. Điểm nổi bật nhất của Nhóm Mười Hai Tông Đồ là sự sợ hãi
Mặc dầu được sống tam cùng với Chúa Giêsu: cùng ở, cùng ăn, cùng làm với Ngài, mặc dầu được thấy biết bao nhiêu phép lạ Thầy mình làm trước mắt, nhưng các tông đồ sợ thì vẫn sợ: sợ không có gì ăn, sợ bão táp làm cho thuyền chìm, sợ quân dữ đến bắt Thầy nên đã bỏ chạy hết, sợ đến nỗi chối Thầy, sợ bị liên lụy nên không dám đi theo Thầy lên tận Núi Sọ.
Vì thế, chúng ta có thể gọi Nhóm Mười Hai nầy là “Nhóm Sợ.”
Sau nầy, Nhóm Mười Hai nầy được gọi là “Nhóm Không Sợ”. Lý do thế nào thì Sách tông Đồ Công Vụ đã nói rõ rồi.
403. Tuy tính tình nhút nhát, tiên tri Giêrêmia vẫn quyết không sợ
Bản tính Giêrêmia thì hiền lành, nhút nhát, ưa sống thinh lặng một mình. Nhưng khi được Chúa giao cho sứ mạng đi cảnh cáo Dân Chúa tội lỗi, Giêrêmia liền gồng mình lên, tin tưởng vào Chúa và ra đi thi hành sứ mạng.
Thế là nhà tiên tri Giêrêmia bị người ta chế nhạo, thóa mạ, bắt bớ. Cả những người bạn thân tín nhất của ông cũng quay ra chống đối ông.
Dầu vậy, ông vẫn vững tâm tin vào Chúa và làm trọn phận sự Chúa giao cho đến chết.
404. Lời đầu tiên Đức Mẹ Fatima phán: “Các con đừng sợ!”
Không ai mà không biết hoặc không nghe nói về sự lạ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima vào đầu thế kỷ thứ hai mươi nầy.
Khi hiện ra tại Fatima lần đầu tiên, Đức Mẹ phán ngay: “Các con đừng sợ!”
Chúng ta hãy nghe tóm lược câu chuyện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima lần đầu tiên như sau.
Ba em nhỏ tên là Luxia, Phanxicô và Giaxinta đang chăn đoàn chiên trên đồi, liền cùng nhau đọc kinh Truyền Tin khi nghe chuông đánh.
Đọc kinh xong, ba em định chơi một trò chơi thì thấy trời có chớp lóe. Ba em sợ, nên lùa chiên chạy xuống chân đồi. Trời vẫn chớp sáng nên các em tìm cách chạy thật nhanh.
Khi xuống lưng chừng đồi, ba em kinh hãi vì thấy rõ có một bà rất xinh đẹp đang đứng trên ngọn cây sồi gần đó, chỉ cách xa chỗ ba em đứng chừng một thước rưỡi.
Bà đẹp nói với ba em những lời an ủi như sau:
“Các con đừng sợ. Ta không làm gì hại các con đâu…”
Lời đầu tiên của Đức Mẹ hiện ra tại Fatima là lời lặp lại của Chúa Giêsu đã từng nói: “Các con đừng sợ!”.
Và Giáo Hội cũng luôn luôn lặp lại với con cái mình ở khắp nơi, trong mọi hoàn cảnh và trong mọi thời đại, nhất là trong thời đại bây giờ: “Các con đừng sợ!”
405. Một gương bình tĩnh, không hốt hoảng sịơ sệt
Ông George Washington Carver có được một số tiền bốn vạn mỹ kim. Ông đã rất cực khổ, tìm đủ mọi cách để dành dụm, mới được một số tiền lớn như vậy.
Ngày kia, khi đang dạy học, ông được người ta báo cho biết ông đã mất hết số tiền đó vì ngân hàng ông gởi tiền, nay đã vỡ nợ, không có gì để trả lại cho khách.
Nghe vậy, ông George Washington Carver vẫn thản nhiên và bình tĩnh dạy học như thường, không chút gì sợ sệt hoảng hốt. Ông chỉ trả lời vắn gọn với người đưa tin: “Phải! Tôi cũng nghe nói như vậy!”
406. Chúa Giêsu với sự quan phòng của Đức Chúa Cha
Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào Đức Chúa Cha quan phòng.
Sự quan phòng của Đức Chúa Cha vẫn không miễn cho Chúa Giêsu những cơn thử thách rất nặng nề, đến đổi Ngài khiếp sợ trong Vườn Dầu, và trên Cây Thánh Giá, cảm thấy như bị Đức Chúa Cha ruồng bỏ, Ngài phải than lên câu của Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Nhưng Chúa Giêsu vẫn một lòng trung thành trong những cơn thử thách, vì thế, Ngài vẫn vui lòng vâng lời cho đến chết, và hết lòng tín thác hiếu thảo vào Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.”
Những ai theo Chúa Giêsu, đều sẵn sàng vượt qua đêm tối của cuộc đời, trong đó, sự dữ, sự ác ý, sự bất hạnh thường xảy đến và tìm cách nhận chìm họ, nhưng họ vẫn luôn vững tiến trên những con đường mầu nhiệm của Chúa quan phòng, luôn tin tưởng vào Tình Yêu vô bờ vô bến của Chúa mà họ đã hoàn toàn phó thác. Miệng họ luôn lặp đi lặp lại lời của Dân Chúa đang lê bước trong sa mạc với lòng tin tưởng vào Chúa: “Vì tình Chúa yêu ta không bờ không bến! Vì tình Chúa yêu ta bền vững muôn đời!”
407. Vài ví dụ về sự Chúa quan phòng trong Thánh Kinh Cựu Ước
Giuse bị anh em bắt đem đi bán. Nhờ thế, Giuse mới được qua Ai cập, được làm tể tướng để cứu dòng dõi Giacóp của Chúa khỏi bị tiêu diệt.
Khi Dân Chúa thoát ra khỏi Ai Cập, Chúa cho Biển Đỏ rẽ ra để họ vượt qua.
Khi Dân Chúa gặp bóng tối, Chúa cho cột lửa soi sáng dẫn đàng.
Khi Dân Chúa không có gì ăn, Chúa ban manna nuôi sống họ.
Khi Dân Chúa không có gì uống, Chúa ban cho họ có nước uống giữa sa mạc khô cằn.
408. Mọi sự đều do thánh ý Chúa quan phòng sắp đặt
Sau khi dựng nên mọi loài, Chúa tiếp tục dựng nên mãi.
Nếu không có sự can thiệp nầy của Chúa, mọi loài đều bị tan biến. Đây chính là việc Chúa quan phòng, mà thần học gọi là một công cuộc tạo dựng kéo dài.
Chúa quan phòng mọi sự. Chúng ta đừng bao giờ cho rằng điều nầy điều kia xảy đến cho mình là do ma quỷ, hoặc do người nầy người khác có ác ý, hoặc do người nọ người kia sắp đặt, nhưng chúng ta hãy luôn tin rằng tất cả mọi sự xảy đến, đều do Chúa là căn nguyên.
Gương thánh Gióp: khi mất hết của cải, mất hết con cái, thánh Gióp nói: ‘Giavê đã cho. Giavê đã lấy lại. Đáng chúc tụng thay Danh Giavê!”
Thánh Gióp nói Chúa đã ban cho ông, giờ đây Chúa lấy đi. Thánh Gióp không nói Chúa ban cho ông, nhưng giờ đây, ma quỷ lấy đi.
Mọi sự xảy đến, đều do thánh ý Chúa quan phòng sắp đặt, chứ không theo như ý của ai hoặc của ma quỷ muốn xảy ra.
409. Chúa quan phòng kỳ lạ cho con lạc đà
Con lạc đà có một cục bướu trên lưng: đây là nơi con lạc đà chất chứa đồ ăn để nó có thể đi qua sa mạc Sahara lâu ngày.
Sa mạc là nơi đầy cát nóng bỏng ban ngày, nơi không có cây, nơi không có nước. Thế mà lạc đà cứ chậm rãi đi cả tháng trời, trong khi đó, trên lưng, nó phải chở nhiều người và nhiều hàng hoá rất nặng.
Sức lực lạ lùng của lạc đà là do tiêu thụ những thức ăn và nước uống nơi mấy cục bướu trên lưng của nó mà nó đã dự trữ.
Thật Chúa quan phòng kỳ lạ cho con lạc đà, cũng như Chúa quan phòng kỳ lạ cho tất cả mọi loài Chúa đã dựng nên.
410. Vị tông đồ phải đúc hình ảnh Chúa Giêsu trong mình trước
Đức Thánh Giáo Hoàng Piô X nói:
- “Để canh tân mọi sự trong Chúa Giêsu bằng việc tông đồ, cần phải có ơn Chúa.”
Vị tông đồ chỉ có thể lãnh nhận ơn Chúa nếu ngài liên kết mật thiết với Chúa Giêsu.
Chỉ khi nào chúng ta đúc thành hình ảnh Chúa Giêsu trong mình trước, chúng ta mới có thể đúc thành hình ảnh ấy trong các gia đình và xã hội cách dễ dàng.
Vậy tất cả các vị tông đồ đều phải có lòng đạo đức chân chính. (x. Hồn Tông Đồ).
Hãy tin vào sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi
LM Inhaxiô Trần Ngà
14:17 20/06/2008
Hãy tin vào sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi
(Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 12 thường niên)
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào, phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Matthêu 10, 29-31)
Một người mù dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ dài bắc ngang một con sông rộng. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh quơ tay vớ được sàn cầu và cố sức bám chặt vào đó. Thế là người anh đong đưa, lắc lư giữa chừng. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức.
Hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân. Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bịch xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.
Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay những mõm đá lởm chởm giữa dòng sông và tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá; người thân sẽ mất công tìm kiếm mà chẳng thấy xác anh đâu… Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.
Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: “Đừng sợ! Vì đây là mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà.”
Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.
Cuối cùng kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.
Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ cao ngang đầu gối, cách chỗ anh đu đưa chừng hơn một mét. Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng đã chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình.
Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên.
Có người đang khoẻ thì sợ những chứng bệnh nan y có thể xảy đến trong tương lai; người đang có việc làm hẳn hoi thì sợ có ngày mất việc và đói khát; người đang còn trẻ thì sợ khi già yếu không ai phụng dưỡng chăm sóc; người đang yên ổn sống trong tiện nghi thì sợ mai đây khi thất cơ lỡ vận, không còn được thoải mái như hiện giờ.…
Thế là con người tự tạo ra vô vàn nỗi sợ rồi để cho chúng đe doạ và khủng bố đời mình.
Nỗi sợ bom còn giết nhiều người hơn cả chính trái bom.
Ngày 30 tháng 8 năm 2005, ngay tại thủ đô Baghdad, giữa lúc có cả triệu người Hồi giáo I-rắc thuộc hệ phái Shiite trên đường hành hương, đang chen chúc nhau băng qua cây cầu Al A’ema bắc qua sông Tigris để tiến về ngôi đền Al-Kadhimiya, bỗng có ai đó la hoảng lên rằng: “có người sắp đánh bom tự sát!”.
Thế là cả triệu người hành hương hoảng loạn xô lấn chà đạp nhau nhằm thoát ra khỏi cây cầu, khiến thành cầu gảy đổ làm cho rất nhiều người rơi xuống sông hàng loạt và chết đuối chồng chất trong dòng nước lạnh ngắt; một số khác bị chết ngạt do đám đông đè lên. Con số tử vong lên đến cả 1.000 người. Một tổn thất nhân mạng lớn lao khủng khiếp chỉ vì nỗi sợ bom! Nỗi sợ bom đã sát hại nhiều nhân mạng hơn cả những trái bom có sức công phá lớn nhất!
Chính vì nỗi sợ gây nên nhiều bất hạnh cho con người như thế, nên qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su ba lần nhắn nhủ chúng ta đừng sợ vì có sự quan phòng che chở của Thiên Chúa; nếu chúng ta có ngã, có rơi thì cũng chỉ ngã, chỉ rơi trong bàn tay êm ái của Người.
"Anh em đừng sợ người đời…” (Matthêu 10, 26)
"Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.(Matthêu 10, 28)
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt 10, 29-31)
Thế nhưng, như người mù ngu xuẩn kia, chúng ta không dám tin vào lời Chúa dạy, chúng ta vẫn cứ sợ, cứ lo và cứ để cho những nỗi sợ hãi đó đe doạ, khủng bố chúng ta suốt đời.
Lạy Chúa, xin cho con tin rằng Chúa là Đấng quyền năng hằng che chở gìn giữ chúng con và giúp chúng con vượt qua tất cả phong ba bão táp trên đường đời.
Xin cho con tin rằng dù chúng con có vấp ngã và rơi xuống, thì có bàn tay Chúa đỡ lấy chúng con. Và mai đây, khi phải từ giã đời nầy, chúng con sẽ không phải rơi vào cõi hư vô tăm tối nhưng là rơi vào lòng bàn tay nhân ái của Chúa mà thôi.
(Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 12 thường niên)
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào, phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Matthêu 10, 29-31)
Một người mù dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ dài bắc ngang một con sông rộng. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh quơ tay vớ được sàn cầu và cố sức bám chặt vào đó. Thế là người anh đong đưa, lắc lư giữa chừng. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức.
Hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân. Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bịch xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.
Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay những mõm đá lởm chởm giữa dòng sông và tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá; người thân sẽ mất công tìm kiếm mà chẳng thấy xác anh đâu… Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.
Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: “Đừng sợ! Vì đây là mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà.”
Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.
Cuối cùng kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.
Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ cao ngang đầu gối, cách chỗ anh đu đưa chừng hơn một mét. Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng đã chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình.
Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên.
Có người đang khoẻ thì sợ những chứng bệnh nan y có thể xảy đến trong tương lai; người đang có việc làm hẳn hoi thì sợ có ngày mất việc và đói khát; người đang còn trẻ thì sợ khi già yếu không ai phụng dưỡng chăm sóc; người đang yên ổn sống trong tiện nghi thì sợ mai đây khi thất cơ lỡ vận, không còn được thoải mái như hiện giờ.…
Thế là con người tự tạo ra vô vàn nỗi sợ rồi để cho chúng đe doạ và khủng bố đời mình.
Nỗi sợ bom còn giết nhiều người hơn cả chính trái bom.
Ngày 30 tháng 8 năm 2005, ngay tại thủ đô Baghdad, giữa lúc có cả triệu người Hồi giáo I-rắc thuộc hệ phái Shiite trên đường hành hương, đang chen chúc nhau băng qua cây cầu Al A’ema bắc qua sông Tigris để tiến về ngôi đền Al-Kadhimiya, bỗng có ai đó la hoảng lên rằng: “có người sắp đánh bom tự sát!”.
Thế là cả triệu người hành hương hoảng loạn xô lấn chà đạp nhau nhằm thoát ra khỏi cây cầu, khiến thành cầu gảy đổ làm cho rất nhiều người rơi xuống sông hàng loạt và chết đuối chồng chất trong dòng nước lạnh ngắt; một số khác bị chết ngạt do đám đông đè lên. Con số tử vong lên đến cả 1.000 người. Một tổn thất nhân mạng lớn lao khủng khiếp chỉ vì nỗi sợ bom! Nỗi sợ bom đã sát hại nhiều nhân mạng hơn cả những trái bom có sức công phá lớn nhất!
Chính vì nỗi sợ gây nên nhiều bất hạnh cho con người như thế, nên qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su ba lần nhắn nhủ chúng ta đừng sợ vì có sự quan phòng che chở của Thiên Chúa; nếu chúng ta có ngã, có rơi thì cũng chỉ ngã, chỉ rơi trong bàn tay êm ái của Người.
"Anh em đừng sợ người đời…” (Matthêu 10, 26)
"Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.(Matthêu 10, 28)
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt 10, 29-31)
Thế nhưng, như người mù ngu xuẩn kia, chúng ta không dám tin vào lời Chúa dạy, chúng ta vẫn cứ sợ, cứ lo và cứ để cho những nỗi sợ hãi đó đe doạ, khủng bố chúng ta suốt đời.
Lạy Chúa, xin cho con tin rằng Chúa là Đấng quyền năng hằng che chở gìn giữ chúng con và giúp chúng con vượt qua tất cả phong ba bão táp trên đường đời.
Xin cho con tin rằng dù chúng con có vấp ngã và rơi xuống, thì có bàn tay Chúa đỡ lấy chúng con. Và mai đây, khi phải từ giã đời nầy, chúng con sẽ không phải rơi vào cõi hư vô tăm tối nhưng là rơi vào lòng bàn tay nhân ái của Chúa mà thôi.
Đừng sợ
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
14:40 20/06/2008
Chúa nhật 12 A
“ĐỪNG SỢ”
Trên đời này có rất nhiều cái sợ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết.Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và con người dù muốn dù không vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấy rõ điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu cho thấy con đường theo Chúa là gian khổ,là vất vả, nhưng vượt thắng khó khăn thử thách thì mới đạt được vinh quang. " Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo ". Con đường theo Chúa là con đường chông gai, thử thách, khó khăn. Lướt thắng những nghịch cảnh, những khó khăn thử thách, con người mới tới được vinh quang nhờ niềm tin và hy vọng “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ( Ga 14, 18 ). Trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh với các môn đệ ba điểm.
- Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy.
- Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
- Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh. hồn. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ
Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo hội. Hai mươi thế kỷ sau, Đức Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Đức Gioan Phaolô II không ngừng lặp lại với cả Giáo Hội và cả thế giới rằng “Đừng sợ!”.
Sống trong thời nhiễu nhương, có nhiều biến động tại Ba Lan và Đông Âu; cuộc đời nếm trải bao nhiêu thăng trầm dâu bể để có thể sống, học hành, rồi làm chủng sinh, linh mục, giám mục, hồng y và giáo hoàng; Đức Gioan Phaolô II trải nghiệm qua những thách thức của nghịch cảnh, của khổ đau. Lập lại lời Chúa Giêsu, Ngài muốn nói lên tinh thần bất khuất, hiên ngang để trung thành với giáo lý Chúa Kitô, bảo vệ kỷ cương của Giáo Hội.
Đức Bênêđictô XVI tiếp nối đường hướng Đức Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi giáo hoàng, ngài đã thắp lên lời hy vọng: “Hãy tiến lên phía trước”. Lý do để “tiến lên” là bởi có Chúa ở cùng. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”.
Nội dung lời phát biểu của hai nhà lãnh đạo lớn của Giáo Hội chính là lời của đức tin và là lời của hy vọng.
Tin yêu và hy vọng sẽ lướt thắng mọi sợ hãi. Chúa Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên “đừng sợ”:
a) Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
"Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục"; "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy".
Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, luôn tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình. Người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.
Đức tin giúp con người nhận ra rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Chúa Giêsu khuyên: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Nhưng than ôi, biết bao người lại sẵn sàng chấp nhận bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ dại ngờ nhất.
b) Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa
Con người - nhất là người Kitô hữu - là "con cái Thiên Chúa" (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên "giống như Ngài" (St 1,26), "theo hình ảnh của Ngài" (1,26.27), được "thông phần bản tính Thiên Chúa" (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). "Hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng", thế mà "không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa". Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, con người quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: "anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ", đến nỗi "tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi"!
Tình yêu giải phóng con người khỏi sợ hãi. Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1Ga 4,18). Tình yêu giúp chúng ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của chúng ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm.
Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà biết bao người dám chấp nhận tất cả cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che. Chúa Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng. Con người quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); và “Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi” (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài. Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.
Trước nguy hiểm và thử thách, ai mà không sợ hãi. Chỉ có tin yêu và hy vọng mới giúp chúng ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12). Gian truân vẫn có thể xảy ra nhưng niềm hy vọng sẽ giúp chúng ta trung thành với Thiên Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22); “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17); “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). (NCK).
Trong cuộc sống mỗi ngày, khi con người tự bày tỏ bằng sự hiện diện bằng lời nói, hành động của mình là họ tự trao mình cho sự nhận xét của kẻ khác. Và vì sợ sự nhận xét, đôi khi cả những nhận xét bất công con người lại đánh mất sự hồn nhiên của loài chim sẻ. Chúng ta không thua loài chim sẻ, khi tin rằng "không có con nào rớt xuống đất ngoài ý của Cha trên Trời ". Và khi thấy rằng: dù mất tất cả, ngay cả sự sống, chúng ta cũng không mất hết, vì còn một sự sống thực cao hơn, quý hơn. Lúc đó, niềm tin và hy vọng vào Chúa sẽ giúp chúng ta vượt thắng sự sợ hãi người khác; cho chúng ta tự do, vui tươi. Sợ hãi làm cho con người đóng kín. Nhưng đức tin và hy vọng sẽ đưa tới khai mở, dẫn con người đến sự hiệp thông với anh em. Đức tin và hy vọng sẽ đưa tới tình yêu và an bình, và chứng thực rằng: Chúng ta không thua loài chim sẻ. Tôi hỏi bầy chim: Làm sao vui vẻ ? Chúng hỏi lại tôi: sao vắng nụ cười. Hãy vào đời bằng đôi chân chim sẻ Vui tung tăng tin tưởng ở Tình Người.
“ĐỪNG SỢ”
Trên đời này có rất nhiều cái sợ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết.Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và con người dù muốn dù không vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấy rõ điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu cho thấy con đường theo Chúa là gian khổ,là vất vả, nhưng vượt thắng khó khăn thử thách thì mới đạt được vinh quang. " Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo ". Con đường theo Chúa là con đường chông gai, thử thách, khó khăn. Lướt thắng những nghịch cảnh, những khó khăn thử thách, con người mới tới được vinh quang nhờ niềm tin và hy vọng “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ( Ga 14, 18 ). Trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh với các môn đệ ba điểm.
- Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy.
- Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
- Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh. hồn. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ
Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo hội. Hai mươi thế kỷ sau, Đức Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Đức Gioan Phaolô II không ngừng lặp lại với cả Giáo Hội và cả thế giới rằng “Đừng sợ!”.
Sống trong thời nhiễu nhương, có nhiều biến động tại Ba Lan và Đông Âu; cuộc đời nếm trải bao nhiêu thăng trầm dâu bể để có thể sống, học hành, rồi làm chủng sinh, linh mục, giám mục, hồng y và giáo hoàng; Đức Gioan Phaolô II trải nghiệm qua những thách thức của nghịch cảnh, của khổ đau. Lập lại lời Chúa Giêsu, Ngài muốn nói lên tinh thần bất khuất, hiên ngang để trung thành với giáo lý Chúa Kitô, bảo vệ kỷ cương của Giáo Hội.
Đức Bênêđictô XVI tiếp nối đường hướng Đức Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi giáo hoàng, ngài đã thắp lên lời hy vọng: “Hãy tiến lên phía trước”. Lý do để “tiến lên” là bởi có Chúa ở cùng. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”.
Nội dung lời phát biểu của hai nhà lãnh đạo lớn của Giáo Hội chính là lời của đức tin và là lời của hy vọng.
Tin yêu và hy vọng sẽ lướt thắng mọi sợ hãi. Chúa Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên “đừng sợ”:
a) Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
"Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục"; "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy".
Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, luôn tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình. Người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.
Đức tin giúp con người nhận ra rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Chúa Giêsu khuyên: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Nhưng than ôi, biết bao người lại sẵn sàng chấp nhận bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ dại ngờ nhất.
b) Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa
Con người - nhất là người Kitô hữu - là "con cái Thiên Chúa" (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên "giống như Ngài" (St 1,26), "theo hình ảnh của Ngài" (1,26.27), được "thông phần bản tính Thiên Chúa" (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). "Hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng", thế mà "không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa". Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, con người quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: "anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ", đến nỗi "tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi"!
Tình yêu giải phóng con người khỏi sợ hãi. Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1Ga 4,18). Tình yêu giúp chúng ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của chúng ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm.
Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà biết bao người dám chấp nhận tất cả cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che. Chúa Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng. Con người quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); và “Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi” (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài. Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.
Trước nguy hiểm và thử thách, ai mà không sợ hãi. Chỉ có tin yêu và hy vọng mới giúp chúng ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12). Gian truân vẫn có thể xảy ra nhưng niềm hy vọng sẽ giúp chúng ta trung thành với Thiên Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22); “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17); “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). (NCK).
Trong cuộc sống mỗi ngày, khi con người tự bày tỏ bằng sự hiện diện bằng lời nói, hành động của mình là họ tự trao mình cho sự nhận xét của kẻ khác. Và vì sợ sự nhận xét, đôi khi cả những nhận xét bất công con người lại đánh mất sự hồn nhiên của loài chim sẻ. Chúng ta không thua loài chim sẻ, khi tin rằng "không có con nào rớt xuống đất ngoài ý của Cha trên Trời ". Và khi thấy rằng: dù mất tất cả, ngay cả sự sống, chúng ta cũng không mất hết, vì còn một sự sống thực cao hơn, quý hơn. Lúc đó, niềm tin và hy vọng vào Chúa sẽ giúp chúng ta vượt thắng sự sợ hãi người khác; cho chúng ta tự do, vui tươi. Sợ hãi làm cho con người đóng kín. Nhưng đức tin và hy vọng sẽ đưa tới khai mở, dẫn con người đến sự hiệp thông với anh em. Đức tin và hy vọng sẽ đưa tới tình yêu và an bình, và chứng thực rằng: Chúng ta không thua loài chim sẻ. Tôi hỏi bầy chim: Làm sao vui vẻ ? Chúng hỏi lại tôi: sao vắng nụ cười. Hãy vào đời bằng đôi chân chim sẻ Vui tung tăng tin tưởng ở Tình Người.
Cọng Tóc
Lm Vũđình Tường
18:32 20/06/2008
Có người thắc mắc sao tóc rụng hoài. Kẻ khác than tóc mọc nhanh quá không kịp cắt. Chúa phán ‘tóc trên đầu anh em được đếm cả rồi’. Đừng hiểu Chúa rảnh ngồi trên cao đếm tóc trên đầu thiên hạ, mặc kệ chết bệnh, đói khổ. Nên hiểu Chúa yêu thương con người lo cho miếng bánh, li nước, săn sóc bảo vệ toàn thể con người xác hồn.
Yêu cọng tóc
Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người không giống cách chúng ta yêu mến nhau. Khi mến, yêu ai, tình yêu ta dành cho lệ thuộc vào cách thức người đó đáp trả. Đáp trả khéo, thành công được yêu nhiều hơn. Chúa yêu ta ngay cả khi ta không đáp trả, chạy trốn hay phản bội tình yêu Ngài, Chúa vẫn yêu. Tình yêu Chúa không đổi thay khi ta thất bại, thành công trong cuộc sống.
Tình yêu con người dành cho nhau thường phiếm diện, bán phần. Chúa yêu con người toàn diện, toàn phần, không phải chỉ cung cách hay tài sắc mà yêu toàn thể con người chăm sóc xác hồn. Chúng ta yêu nhau trong mù quáng, không biết rõ con người thật đó ra sao. Kết thân, yêu mến hoặc là hợp tính, hợp nết; hoặc có lối sống tương tự; hoặc có lối suy nghĩ giống nhau; hoặc mến nhau vì tài sắc, chức tước, trí khôn hoặc tính hài hước. Nhiều trường hợp yêu do ý kiến người khác, do tuyên truyền, cái nhìn phiếm diện ngành truyền thông, thiên kiến tình cảm, si tình.
Than lầm đã yêu. Biết vậy không yêu thì tốt hơn. Lỡ rồi. Những câu nói trên là bằng chứng cho thấy tình yêu của ta bất toàn, nhận xét của ta không chính đáng, cái nhìn của ta không xác thực, cảm giác của ta không hoàn thiện và suy nghĩ của ta không chín chắn.
Chúa rất rõ con người Ngài yêu thích. Không bao giờ hối hận điều đã làm vì Ngài luôn nhìn thấy nhiều điều tốt đẹp trong ta. Trái lại ta thường thấy nhiều cái xấu của người. Chúa biết rõ cả hai, điều lành lẫn điều dữ. Chúa vẫn yêu. Tình yêu Chúa dành cho ta không ảnh hưởng bởi bất cứ ai, không lệ thuộc bởi bất cứ điều gì vì Chúa rất rõ việc Chúa làm, người Chúa yêu.
Chúa không yêu phiếm diện như con người yêu nhau. Chúa yêu con người toàn diện vì tất cả do Ngài dựng nên, ngoại trừ các điều xấu. Thực tế cho biết nếu Chúa không yêu ta, ta đã không có mặt trên đời. Như thế Chúa yêu ta trước khi ta được dựng nên. Nói rõ hơn Chúa dựng nên ta vì Chúa yêu ta. Chúa cứu chuộc ta vì Chúa yêu ta. Dù ta chấp nhận hay từ chối sự thật này Chúa vẫn yêu ta và tôn trọng quyền tự do chọn lựa của ta. Chấp nhận Chúa là Đấng tạo dựng hãy tôn thờ Ngài. Thờ phượng Chúa ta không thiệt thòi trái lại còn hưởng hương vị tình yêu Chúa nhiệm màu. Từ chối Chúa hiện hữu Chúa vẫn hiện hữu. Chối hay thờ ơ trong việc thờ phượng Chúa là việc làm vô ích, mất công. Đã không có lợi còn mang họa vào thân vì bơ vơ, không nơi nương tựa. Cậy vào của cải ư. Có ngày chúng tan biến. Tài trí ư có kẻ khác tài hơn. Giảo hoạt ư. Có kẻ giảo hoạt hơn.
Tình yêu bất diệt
Dù chúng ta đối xử thế nào, tốt, xấu, tệ bạc, biết ơn, vô ơn, từ chối Ngài hiện hữu Chúa vẫn tiếp tục yêu. Yêu ta dựng nên ta và tiếp tục yêu ngay cả khi ta phạm tội, chối bỏ Chúa. Chúa yêu ta, không yêu tội ta phạm. Vì yêu Chúa ban ơn tha tội, ban ơn giao hoà cùng Chúa và tha nhân. Ngài yêu ta trước khi ta xuất hiện trên đời vì thế Ngài không bỏ rơi. Những gì Chúa dựng nên Chúa bảo vệ. Bởi vì Chúa công thẳng nên Ngài không thể làm ngơ tội của ta. Bởi vì Ngài yêu nên không bỏ mặc sự chết thống trị vì thế Chúa làm một việc cả thể khiến ta không hiểu nổi. Ngài tự hiến chịu chết trên thập giá để ban ơn cứu độ. Sự công thẳng và tình yêu Chúa cần ghi khắc, học hỏi, thực hành trong cuộc sống. Tình yêu Chúa trong sáng hơn pha lê, như hừng đông. Sáng đến độ tội ta dù nhiều vẫn không làm vẩn đục tình yêu Chúa. Tình yêu vẫn sáng chói che lấp các lỗi lầm, nhơ nhớp, tẩy sạch tội ta phạm.
Vì yêu thương Ngài không bao giờ quên ta, dù một giây một phút. Trái lại chúng ta quên Ngài có khi hàng ngày, tuần, tháng hay nhiều năm. Chúa đối xử rất khác, dù ta quên Chúa vẫn luôn nhớ ta từng phút giây, muốn ở bên cạnh luôn. Vẫn muốn nghe lời ta thủ thỉ bên tai. Sức mạnh của lời cầu không nằm ở lời hay ý đẹp. Sức mạnh của lời cầu lệ thuộc vào tai người nghe.* Vì thế lời cầu không lệ thuộc vào lời nói nhưng lệ thuộc vào tai người nghe.Trọng tâm là chân thành phát xuất tự đáy lòng, tự con tim nồng nàn yêu mến.
Chúa yêu thương ta Ngài gởi chính Con một Ngài là Đức Kitô xuống ở với ta. Chúa còn sai thiên thần bản mệnh -Thiên Thần hộ thủ - đến ở cùng ta. Ban chính Thánh Thần của Ngài cho ta. Lập Giáo Hội trần thế để khuyến khích, hỗ trợ. Ban Lời Chúa là đèn soi hướng dẫn. Dùng chính Mình Máu Thánh Chúa làm của ăn nuôi linh hồn.
Đấng duy nhất
Không ai nuôi linh hồn ta, cùng lắm là lo cho thân xác, tâm lí và tình cảm. Chúa là Đấng duy nhất để tâm chăm sóc dậy dỗ cả xác lẫn hồn. Khối kẻ giết được thân xác. Không ai giết được linh hồn vì linh hồn ngoài khả năng con người. Không đủ khả năng giết; cũng không có khả năng nuôi nên làm ngơ, bỏ mặc hoặc ngay cả chối bỏ linh hồn tồn tại. Dù chối bỏ linh hồn vẫn sống, sống lây lất vì thiếu của ăn tâm linh. Kẻ chối bỏ tâm linh thường bám vào tâm lí. Tâm lí dựa vào khoa phân tâm học, kết quả nghiên cứu của trí óc. Xem thế con người luôn lệ thuộc hoặc chọn Chúa hoặc chọn trí óc. Kẻ chối Chúa nhận trí óc làm đấng cứu tinh. Kẻ tin Chúa vững tin Chúa là Đấng duy nhất lo cho linh hồn, cứu linh hồn. Ngoài Chúa ra không còn ai khác.
* tư tưởng trên lấy từ cuốn Grace for the moment của Max Lucado.
TÌM BÀI CŨ:
Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html
Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html
Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
Yêu cọng tóc
Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người không giống cách chúng ta yêu mến nhau. Khi mến, yêu ai, tình yêu ta dành cho lệ thuộc vào cách thức người đó đáp trả. Đáp trả khéo, thành công được yêu nhiều hơn. Chúa yêu ta ngay cả khi ta không đáp trả, chạy trốn hay phản bội tình yêu Ngài, Chúa vẫn yêu. Tình yêu Chúa không đổi thay khi ta thất bại, thành công trong cuộc sống.
Tình yêu con người dành cho nhau thường phiếm diện, bán phần. Chúa yêu con người toàn diện, toàn phần, không phải chỉ cung cách hay tài sắc mà yêu toàn thể con người chăm sóc xác hồn. Chúng ta yêu nhau trong mù quáng, không biết rõ con người thật đó ra sao. Kết thân, yêu mến hoặc là hợp tính, hợp nết; hoặc có lối sống tương tự; hoặc có lối suy nghĩ giống nhau; hoặc mến nhau vì tài sắc, chức tước, trí khôn hoặc tính hài hước. Nhiều trường hợp yêu do ý kiến người khác, do tuyên truyền, cái nhìn phiếm diện ngành truyền thông, thiên kiến tình cảm, si tình.
Than lầm đã yêu. Biết vậy không yêu thì tốt hơn. Lỡ rồi. Những câu nói trên là bằng chứng cho thấy tình yêu của ta bất toàn, nhận xét của ta không chính đáng, cái nhìn của ta không xác thực, cảm giác của ta không hoàn thiện và suy nghĩ của ta không chín chắn.
Chúa rất rõ con người Ngài yêu thích. Không bao giờ hối hận điều đã làm vì Ngài luôn nhìn thấy nhiều điều tốt đẹp trong ta. Trái lại ta thường thấy nhiều cái xấu của người. Chúa biết rõ cả hai, điều lành lẫn điều dữ. Chúa vẫn yêu. Tình yêu Chúa dành cho ta không ảnh hưởng bởi bất cứ ai, không lệ thuộc bởi bất cứ điều gì vì Chúa rất rõ việc Chúa làm, người Chúa yêu.
Chúa không yêu phiếm diện như con người yêu nhau. Chúa yêu con người toàn diện vì tất cả do Ngài dựng nên, ngoại trừ các điều xấu. Thực tế cho biết nếu Chúa không yêu ta, ta đã không có mặt trên đời. Như thế Chúa yêu ta trước khi ta được dựng nên. Nói rõ hơn Chúa dựng nên ta vì Chúa yêu ta. Chúa cứu chuộc ta vì Chúa yêu ta. Dù ta chấp nhận hay từ chối sự thật này Chúa vẫn yêu ta và tôn trọng quyền tự do chọn lựa của ta. Chấp nhận Chúa là Đấng tạo dựng hãy tôn thờ Ngài. Thờ phượng Chúa ta không thiệt thòi trái lại còn hưởng hương vị tình yêu Chúa nhiệm màu. Từ chối Chúa hiện hữu Chúa vẫn hiện hữu. Chối hay thờ ơ trong việc thờ phượng Chúa là việc làm vô ích, mất công. Đã không có lợi còn mang họa vào thân vì bơ vơ, không nơi nương tựa. Cậy vào của cải ư. Có ngày chúng tan biến. Tài trí ư có kẻ khác tài hơn. Giảo hoạt ư. Có kẻ giảo hoạt hơn.
Tình yêu bất diệt
Dù chúng ta đối xử thế nào, tốt, xấu, tệ bạc, biết ơn, vô ơn, từ chối Ngài hiện hữu Chúa vẫn tiếp tục yêu. Yêu ta dựng nên ta và tiếp tục yêu ngay cả khi ta phạm tội, chối bỏ Chúa. Chúa yêu ta, không yêu tội ta phạm. Vì yêu Chúa ban ơn tha tội, ban ơn giao hoà cùng Chúa và tha nhân. Ngài yêu ta trước khi ta xuất hiện trên đời vì thế Ngài không bỏ rơi. Những gì Chúa dựng nên Chúa bảo vệ. Bởi vì Chúa công thẳng nên Ngài không thể làm ngơ tội của ta. Bởi vì Ngài yêu nên không bỏ mặc sự chết thống trị vì thế Chúa làm một việc cả thể khiến ta không hiểu nổi. Ngài tự hiến chịu chết trên thập giá để ban ơn cứu độ. Sự công thẳng và tình yêu Chúa cần ghi khắc, học hỏi, thực hành trong cuộc sống. Tình yêu Chúa trong sáng hơn pha lê, như hừng đông. Sáng đến độ tội ta dù nhiều vẫn không làm vẩn đục tình yêu Chúa. Tình yêu vẫn sáng chói che lấp các lỗi lầm, nhơ nhớp, tẩy sạch tội ta phạm.
Vì yêu thương Ngài không bao giờ quên ta, dù một giây một phút. Trái lại chúng ta quên Ngài có khi hàng ngày, tuần, tháng hay nhiều năm. Chúa đối xử rất khác, dù ta quên Chúa vẫn luôn nhớ ta từng phút giây, muốn ở bên cạnh luôn. Vẫn muốn nghe lời ta thủ thỉ bên tai. Sức mạnh của lời cầu không nằm ở lời hay ý đẹp. Sức mạnh của lời cầu lệ thuộc vào tai người nghe.* Vì thế lời cầu không lệ thuộc vào lời nói nhưng lệ thuộc vào tai người nghe.Trọng tâm là chân thành phát xuất tự đáy lòng, tự con tim nồng nàn yêu mến.
Chúa yêu thương ta Ngài gởi chính Con một Ngài là Đức Kitô xuống ở với ta. Chúa còn sai thiên thần bản mệnh -Thiên Thần hộ thủ - đến ở cùng ta. Ban chính Thánh Thần của Ngài cho ta. Lập Giáo Hội trần thế để khuyến khích, hỗ trợ. Ban Lời Chúa là đèn soi hướng dẫn. Dùng chính Mình Máu Thánh Chúa làm của ăn nuôi linh hồn.
Đấng duy nhất
Không ai nuôi linh hồn ta, cùng lắm là lo cho thân xác, tâm lí và tình cảm. Chúa là Đấng duy nhất để tâm chăm sóc dậy dỗ cả xác lẫn hồn. Khối kẻ giết được thân xác. Không ai giết được linh hồn vì linh hồn ngoài khả năng con người. Không đủ khả năng giết; cũng không có khả năng nuôi nên làm ngơ, bỏ mặc hoặc ngay cả chối bỏ linh hồn tồn tại. Dù chối bỏ linh hồn vẫn sống, sống lây lất vì thiếu của ăn tâm linh. Kẻ chối bỏ tâm linh thường bám vào tâm lí. Tâm lí dựa vào khoa phân tâm học, kết quả nghiên cứu của trí óc. Xem thế con người luôn lệ thuộc hoặc chọn Chúa hoặc chọn trí óc. Kẻ chối Chúa nhận trí óc làm đấng cứu tinh. Kẻ tin Chúa vững tin Chúa là Đấng duy nhất lo cho linh hồn, cứu linh hồn. Ngoài Chúa ra không còn ai khác.
* tư tưởng trên lấy từ cuốn Grace for the moment của Max Lucado.
TÌM BÀI CŨ:
Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html
Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html
Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
Mỗi ngày một câu chuyện (dành cho trẻ em)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:22 20/06/2008
BỐ-LỖ-TƯ VÀ CON NHỆN
Ngày xửa ngày xưa, ở nước Tô Cách Lan xa xôi có một quốc vương rất là cơ trí dũng cảm và kiên cường, tên là La Bá Đặc Bố Lỗ Tư. Hồi ấy dưới thời đại của ông ta chiến sự loạn lạc, Bố Lỗ Tư dẫn đầu các chiến sĩ của ông ta chiến đấu cùng quân đội của Anh Cát Lan. Họ đánh trận này đến trận khác, đánh liên tiếp sáu trận, nhưng vì lực lượng hai bên chênh lệch khác nhau, cho nên ông ta thất bại luôn cả sáu trận. Bố Lỗ Tư bị địch quân bốn mặt bao vây truy giết, túng quá phải núp vào trong hang núi sâu rậm rạp.
Một ngày nọ trời mưa lớn, Bố Lỗ Tư nằm nghỉ trong căn nhà rách nát, nghe tiếng mưa rơi tí tách bên ngoài, trong đầu óc của ông ta nhiều lần nghĩ đến tình hình lúc mình lãnh đạo quân đội, mặc áo giáp cầm vũ khí dũng cảm giết địch quân, lại tiếp tục nghĩ đến hoàn cảnh mình liên tục thất bại, núp bên đông trốn bên tây, nên không nhịn được nên thốt ra lời than thở chán ngán.
Lúc ấy, ông ta vô tình nhìn lên nóc nhà có một con nhện chuẩn bị dệt màng nhện, con nhện nghiêm túc cẩn thận bò, toan tính đem sợi tơ nhỏ của mình từ cột xà ngang bên này dính qua cột xà ngang bên kia. Lần thứ nhất nó thất bại, nó lại bắt đầu làm lại lần thứ hai, lần thứ ba.... ... ..khi nó thất bại lần thứ sáu, thì Bố Lỗ Tư thương hại nói: “Thật tội nghiệp con nhện nhỏ, mày cũng nếm được mùi thất bại rồi.”
Nhưng, con nhện này không hề bỏ cuộc, nó càng thêm cẩn thận, càng thêm nghiêm túc triển khai thử lần thứ bảy. Lần này thì con nhện đã thành công, nó bền vững đem sợi tơ nhện của mình dính qua xà ngang khác. Bố Lỗ Tư kích động nhảy đứng lên, ông ta lớn tiếng nói: “Thành công rồi, nó đã thành công rồi, ta cũng phải thử lần thứ bảy, ta nhất định phải thắng, quân đội Tô Cách Lan nhất định phải thắng !”
Bố Lỗ Tư đi ra khỏi hang núi sâu, tổ chức lại một quân đội Tô Cách Lan dũng cảm, ngoan cường, ông ta lãnh đạo đội quân anh dũng này, trong lần thứ bảy này, khi cùng với quân đội Anh Cát Lan chiến đấu thì quân đội của ông ta đã đánh bại quân đội của Anh Cát Lan.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)
Góp ý:
Các em thân mến,
Ngạn ngữ có nói: “thất bại là mẹ thành công”, khi chúng ta gặp trắc trở thất bại thì phải xây dựng lòng tin, không nên nản lòng thối chí.
Nhà vua Bố Lỗ Tư là một điển hình cho chúng ta noi theo.
Có những em học hành yếu hơn chúng bạn, rồi mặc cảm vì thua thiệt, thế là bỏ cuộc; có những em lỡ bước sa vào đường xấu, rồi mặc cảm vì bạn bè xa lánh, thế là tiếp tục đi sâu vào con đường sa đọa; lại có những em gặp từ chuyện buồn này đến chuyện buồn khác, rồi tự ti mặc cảm, thế là xa lánh mọi người...
Tất cả những hoàn cảnh trên đều là do thiếu lòng tin nơi mình, và thiếu sự hướng dẫn của những người có trách nhiệm. Các em phải đứng lên khi bị sự thua kém dày vò trong tâm, các em phải lạc quan khi sự tự ti chất chứa trong lòng, phải luôn biết phấn đấu vươn lên trong mọi hoàn cảnh, bởi vì ma quỷ thích thú cám dỗ những người thất vọng và chán nản, nhưng Thiên Chúa thì luôn yêu mến và ban ơn cho những ai sa ngã mà lại cố gắng đứng lên...
Các em thực hành:
- Không tự ti mặc cảm vì thua bạn bè, nhưng cố gắng hơn nữa để vươn lên.
- Ngã té một lần thì đứng lên hai lần và đi tới.
- Mỗi lần thất bại là gia tăng thêm lời cầu nguyện.
N2T |
Ngày xửa ngày xưa, ở nước Tô Cách Lan xa xôi có một quốc vương rất là cơ trí dũng cảm và kiên cường, tên là La Bá Đặc Bố Lỗ Tư. Hồi ấy dưới thời đại của ông ta chiến sự loạn lạc, Bố Lỗ Tư dẫn đầu các chiến sĩ của ông ta chiến đấu cùng quân đội của Anh Cát Lan. Họ đánh trận này đến trận khác, đánh liên tiếp sáu trận, nhưng vì lực lượng hai bên chênh lệch khác nhau, cho nên ông ta thất bại luôn cả sáu trận. Bố Lỗ Tư bị địch quân bốn mặt bao vây truy giết, túng quá phải núp vào trong hang núi sâu rậm rạp.
Một ngày nọ trời mưa lớn, Bố Lỗ Tư nằm nghỉ trong căn nhà rách nát, nghe tiếng mưa rơi tí tách bên ngoài, trong đầu óc của ông ta nhiều lần nghĩ đến tình hình lúc mình lãnh đạo quân đội, mặc áo giáp cầm vũ khí dũng cảm giết địch quân, lại tiếp tục nghĩ đến hoàn cảnh mình liên tục thất bại, núp bên đông trốn bên tây, nên không nhịn được nên thốt ra lời than thở chán ngán.
Lúc ấy, ông ta vô tình nhìn lên nóc nhà có một con nhện chuẩn bị dệt màng nhện, con nhện nghiêm túc cẩn thận bò, toan tính đem sợi tơ nhỏ của mình từ cột xà ngang bên này dính qua cột xà ngang bên kia. Lần thứ nhất nó thất bại, nó lại bắt đầu làm lại lần thứ hai, lần thứ ba.... ... ..khi nó thất bại lần thứ sáu, thì Bố Lỗ Tư thương hại nói: “Thật tội nghiệp con nhện nhỏ, mày cũng nếm được mùi thất bại rồi.”
Nhưng, con nhện này không hề bỏ cuộc, nó càng thêm cẩn thận, càng thêm nghiêm túc triển khai thử lần thứ bảy. Lần này thì con nhện đã thành công, nó bền vững đem sợi tơ nhện của mình dính qua xà ngang khác. Bố Lỗ Tư kích động nhảy đứng lên, ông ta lớn tiếng nói: “Thành công rồi, nó đã thành công rồi, ta cũng phải thử lần thứ bảy, ta nhất định phải thắng, quân đội Tô Cách Lan nhất định phải thắng !”
Bố Lỗ Tư đi ra khỏi hang núi sâu, tổ chức lại một quân đội Tô Cách Lan dũng cảm, ngoan cường, ông ta lãnh đạo đội quân anh dũng này, trong lần thứ bảy này, khi cùng với quân đội Anh Cát Lan chiến đấu thì quân đội của ông ta đã đánh bại quân đội của Anh Cát Lan.
(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)
Góp ý:
Các em thân mến,
Ngạn ngữ có nói: “thất bại là mẹ thành công”, khi chúng ta gặp trắc trở thất bại thì phải xây dựng lòng tin, không nên nản lòng thối chí.
Nhà vua Bố Lỗ Tư là một điển hình cho chúng ta noi theo.
Có những em học hành yếu hơn chúng bạn, rồi mặc cảm vì thua thiệt, thế là bỏ cuộc; có những em lỡ bước sa vào đường xấu, rồi mặc cảm vì bạn bè xa lánh, thế là tiếp tục đi sâu vào con đường sa đọa; lại có những em gặp từ chuyện buồn này đến chuyện buồn khác, rồi tự ti mặc cảm, thế là xa lánh mọi người...
Tất cả những hoàn cảnh trên đều là do thiếu lòng tin nơi mình, và thiếu sự hướng dẫn của những người có trách nhiệm. Các em phải đứng lên khi bị sự thua kém dày vò trong tâm, các em phải lạc quan khi sự tự ti chất chứa trong lòng, phải luôn biết phấn đấu vươn lên trong mọi hoàn cảnh, bởi vì ma quỷ thích thú cám dỗ những người thất vọng và chán nản, nhưng Thiên Chúa thì luôn yêu mến và ban ơn cho những ai sa ngã mà lại cố gắng đứng lên...
Các em thực hành:
- Không tự ti mặc cảm vì thua bạn bè, nhưng cố gắng hơn nữa để vươn lên.
- Ngã té một lần thì đứng lên hai lần và đi tới.
- Mỗi lần thất bại là gia tăng thêm lời cầu nguyện.
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:23 20/06/2008
CHỦ NHẬT XII THƯỜNG NIÊN
Tin mừng: Mt 10, 26-33.
“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác.”
Bạn thân mến,
Chết thì ai cũng sợ, bởi vì con người ta thường tham sống sợ chết, đó là lẽ thường tình của con người, nhưng Chúa Giê-su lại dạy chúng ta đừng sợ những người chỉ có thể giết chết thân xác, mà không thể giết chết linh hồn chúng ta, câu nói này của Chúa Giê-su, bạn và tôi nên ghi khắc vào trong lòng để suy tư và cầu nguyện.
Những ai có thể giết chết thân xác chúng ta, đó là những người vô lương tâm coi đồng tiền mình bỏ ra lớn hơn mạng sống của người làm công; những người nắm quyền sinh sát trong tay dưới chế độ độc tài chỉ biết quyền hành chứ không biết đến nổi khốn khổ của người dân; những người có tiền bạc quyền uy coi mạng người như cỏ rác, và những người làm cha làm mẹ coi sự ích kỷ hưởng thụ xác thịt là trên hết, nên nhẫn tâm giết thai nhi con của mình khi còn trong bụng... Nhưng kẻ có thể giết được thân xác người khác này dứt khoát là không thể giết được linh hồn chúng ta, nhưng khi họ giết thân xác người khác thì chính linh hồn của họ đã bị giết chết...
Con người ta sống ở đời mạng sống là cao quý nhất, chết đi thì không còn gì nữa, và ai cũng muốn tuổi thọ của mình được kéo dài thêm, nhưng nếu vì ích kỷ ác độc hưởng thụ mà giết chết mạng sống của người khác, thì đó là một tội ác ghê rợn trời không dung đất không tha. Bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới có toàn quyền trên mạng sống, bởi vì chính Ngài là Đấng làm cho con người được sống.
Bạn thân mến,
Thân xác và linh hồn của chúng ta đều bởi Thiên Chúa tạo dựng, không những thế, Ngài còn ban cho chúng ta sự tự do tuyệt đối để chúng ta dùng tự do này để phục vụ tha nhân và yêu mến Thiên Chúa. Chính nhờ sự tự do này mà chúng ta thấy yêu quý mạng sống của mình hơn, yêu quý sức khỏe của mình hơn.
Đừng sợ kẻ có thể giết được thân xác nhưng không thể giết được linh hồn. Bạn và tôi hiểu rất rõ lời dạy này của Chúa Giê-su, do đó mà bạn và tôi hãy nỗ lực làm cho mọi người biết yêu mến sự sống, bảo vệ sự sống của tha nhân, nhất là của các thai nhi, bởi vì khi chúng ta bảo vệ sự sống của con người, là chúng ta đã góp phần vào việc chữa trị cơn bệnh hưởng thụ ích kỷ của linh hồn nơi những người chỉ biết mình mà không biết đến mạng sống của tha nhân.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
--------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
taibytw@hotmail.com jmtaiby@yahoo.com
Tin mừng: Mt 10, 26-33.
“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác.”
Bạn thân mến,
Chết thì ai cũng sợ, bởi vì con người ta thường tham sống sợ chết, đó là lẽ thường tình của con người, nhưng Chúa Giê-su lại dạy chúng ta đừng sợ những người chỉ có thể giết chết thân xác, mà không thể giết chết linh hồn chúng ta, câu nói này của Chúa Giê-su, bạn và tôi nên ghi khắc vào trong lòng để suy tư và cầu nguyện.
Những ai có thể giết chết thân xác chúng ta, đó là những người vô lương tâm coi đồng tiền mình bỏ ra lớn hơn mạng sống của người làm công; những người nắm quyền sinh sát trong tay dưới chế độ độc tài chỉ biết quyền hành chứ không biết đến nổi khốn khổ của người dân; những người có tiền bạc quyền uy coi mạng người như cỏ rác, và những người làm cha làm mẹ coi sự ích kỷ hưởng thụ xác thịt là trên hết, nên nhẫn tâm giết thai nhi con của mình khi còn trong bụng... Nhưng kẻ có thể giết được thân xác người khác này dứt khoát là không thể giết được linh hồn chúng ta, nhưng khi họ giết thân xác người khác thì chính linh hồn của họ đã bị giết chết...
Con người ta sống ở đời mạng sống là cao quý nhất, chết đi thì không còn gì nữa, và ai cũng muốn tuổi thọ của mình được kéo dài thêm, nhưng nếu vì ích kỷ ác độc hưởng thụ mà giết chết mạng sống của người khác, thì đó là một tội ác ghê rợn trời không dung đất không tha. Bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới có toàn quyền trên mạng sống, bởi vì chính Ngài là Đấng làm cho con người được sống.
Bạn thân mến,
Thân xác và linh hồn của chúng ta đều bởi Thiên Chúa tạo dựng, không những thế, Ngài còn ban cho chúng ta sự tự do tuyệt đối để chúng ta dùng tự do này để phục vụ tha nhân và yêu mến Thiên Chúa. Chính nhờ sự tự do này mà chúng ta thấy yêu quý mạng sống của mình hơn, yêu quý sức khỏe của mình hơn.
Đừng sợ kẻ có thể giết được thân xác nhưng không thể giết được linh hồn. Bạn và tôi hiểu rất rõ lời dạy này của Chúa Giê-su, do đó mà bạn và tôi hãy nỗ lực làm cho mọi người biết yêu mến sự sống, bảo vệ sự sống của tha nhân, nhất là của các thai nhi, bởi vì khi chúng ta bảo vệ sự sống của con người, là chúng ta đã góp phần vào việc chữa trị cơn bệnh hưởng thụ ích kỷ của linh hồn nơi những người chỉ biết mình mà không biết đến mạng sống của tha nhân.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
--------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
taibytw@hotmail.com jmtaiby@yahoo.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:25 20/06/2008
N2T |
25. Người không suy niệm thì không bực dọc chính mình, bởi vì họ không có cảm giác là mình không tốt, đó chính là không nhận ra được chính mình.
(Thánh Bernard)Hãy Mạnh Dạn Rao Giảng Tin Mừng
Phó tế: JB Nguyễn Văn Định
21:18 20/06/2008
GỢI Ý SUY NIỆM LỜI CHÚA
Chúa nhật 12 TN-A (22-06-08)
Lời Chúa hôm nay: ANH EM ĐỪNG SỢ
* Do not be afraid *
A-Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc sau: (Reflection&Share)
Bài đọc 1: Giê-rê-mi-a (20: 10-13). “Nhưng đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng...” (câu 11)
a/ Nếu Chúa ở bên cạnh và nâng đở che chở tôi trong mọi lúc vui buồn, thì những thiên tai hôm nay có làm cho tôi sợ sệt? Tại sao?
b/ Khi bạn sợ hãi, lo lắng là bạn cần trang bị những gì cho hiện tại?
Bài đọc 2: Rôma (5:12-15). “Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa.” (câu 15)
a/ Câu này ý nói: hậu quả ân huệ Thiên Chúa ban vượt quá sự sa ngã của Adam. Tôi đã làm gì cho gia đình với ơn Chúa đã lãnh nhận ?
b/ Đức Kitô là trưởng tử, đã đến giải phóng cho bạn và tôi những gì?
Tin Mừng: Mát-thêu: (10:26-33). “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.” (câu 27)
a/ Đã nghe Chúa nói qua nhiều cách. Tôi có sợ phải nói và sống Lời Chúa một cách công khai không? Tôi còn sợ những sự gì?
b/ Đang nhận sứ vụ Chúa trao trong Hội thánh hiện tại. Bạn đã can đảm làm những gì? Những gì đã cám dỗ bạn sống thiếu mạnh dạn?
B- Câu Kinh Thánh tôi chọn Sống tuần này: (The Best God’s Word)
ĐIÊU ANH EM NGHE RỈ TAI, THÌ HÃY LÊN MÁI NHÀ RAO GIẢNG
What you hear whispered, proclaim on the housetops
C- Ý Chúa nói gì với tôi: Mọi Tín hữu hãy mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Chúa lúc này, vì Lời Chúa đã được bung ra cho toàn thế giới, đến với muôn dân chứ không như ngày xưa Chúa còn tại thế.
Thái độ của bạn và tôi là sứ vụ bất khuất trước những đe dọa của người đời, và hoàn toàn tin vào sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa. Như Lời Đức Giêsu đã khuyến cáo như sau:
“Anh đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10,28)
Công đồng dạy: Giáo dân tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, ngôn sứ và là vua. Trong những Cộng đoàn của Giáo hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi nếu không có hoạt động đó, chính hoạt động tông đồ của các vị chủ chăn thường không thể đạt được đầy đủ kết quả. Cũng như giáo dân nam nữ đã giúp thánh Phaolô trong việc rao giảng Phúc âm,(Cv 18:18-26; Rom 16: 3) những người giáo dân có tinh thần tông đồ đích thực, cũng như đang trợ giup những anh em thiếu thốn, và nâng đỡ tinh thần các vị chủ chăn.
Họ cộng tác đắc lực vào việc rao truyền Lời Chúa nhất là bằng việc dạy giáo lý. Họ đem khả năng của mình làm cho việc coi sóc các hồn và cả việc quản trị tài sản của Giáo hội sinh hiệu quả hơn.( GD#10)
D- Bạn và tôi thực hành Lời Chúa (“ ̣̣̣̣So what am I doing” For Action)
1/ Đọc lại những gợi ý cảm nghiệm ở phần A để áp dụng thực hành.
2/ Tham gia, trợ giúp các lớp học hỏi, chia sẻ Lời Chúa tại Giáo xứ.
3/ Làm các việc bác ái giúp mọi nguời, không phân biệt tôn giáo.
E- Bạn và tôi cùng Cầu nguyện với Lời Chúa:/ ̣Pray and Practice.
Lạy Cha, Đức Kitô đã nói: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Xin cho con mạnh dạn rao giảng Lời Chúa bằng lời nói và việc làm, lúc tiện cũng như không thuận tiện để mọi người thấy Chúa đang hành động trong chúng con. Lời hay ý đẹp: ĐỂ BIẾT TÁC GIẢ KINH THÁNH, HÃY ĐỌC SÁCH CỦA NGÀI ̣̣-̣ To know the Author of the Bible, read His Book
Phó tế: JB. Nguyễn Định * johndvn@yahoo.com *
Cùng chuyển các Nhóm, Hội đoàn, Tu hội học hỏi, chia sẻ Lời Chúa toàn cầu
Chúa nhật 12 TN-A (22-06-08)
Lời Chúa hôm nay: ANH EM ĐỪNG SỢ
* Do not be afraid *
A-Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc sau: (Reflection&Share)
Bài đọc 1: Giê-rê-mi-a (20: 10-13). “Nhưng đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng...” (câu 11)
a/ Nếu Chúa ở bên cạnh và nâng đở che chở tôi trong mọi lúc vui buồn, thì những thiên tai hôm nay có làm cho tôi sợ sệt? Tại sao?
b/ Khi bạn sợ hãi, lo lắng là bạn cần trang bị những gì cho hiện tại?
Bài đọc 2: Rôma (5:12-15). “Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa.” (câu 15)
a/ Câu này ý nói: hậu quả ân huệ Thiên Chúa ban vượt quá sự sa ngã của Adam. Tôi đã làm gì cho gia đình với ơn Chúa đã lãnh nhận ?
b/ Đức Kitô là trưởng tử, đã đến giải phóng cho bạn và tôi những gì?
Tin Mừng: Mát-thêu: (10:26-33). “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.” (câu 27)
a/ Đã nghe Chúa nói qua nhiều cách. Tôi có sợ phải nói và sống Lời Chúa một cách công khai không? Tôi còn sợ những sự gì?
b/ Đang nhận sứ vụ Chúa trao trong Hội thánh hiện tại. Bạn đã can đảm làm những gì? Những gì đã cám dỗ bạn sống thiếu mạnh dạn?
B- Câu Kinh Thánh tôi chọn Sống tuần này: (The Best God’s Word)
ĐIÊU ANH EM NGHE RỈ TAI, THÌ HÃY LÊN MÁI NHÀ RAO GIẢNG
What you hear whispered, proclaim on the housetops
C- Ý Chúa nói gì với tôi: Mọi Tín hữu hãy mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Chúa lúc này, vì Lời Chúa đã được bung ra cho toàn thế giới, đến với muôn dân chứ không như ngày xưa Chúa còn tại thế.
Thái độ của bạn và tôi là sứ vụ bất khuất trước những đe dọa của người đời, và hoàn toàn tin vào sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa. Như Lời Đức Giêsu đã khuyến cáo như sau:
“Anh đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10,28)
Công đồng dạy: Giáo dân tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, ngôn sứ và là vua. Trong những Cộng đoàn của Giáo hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi nếu không có hoạt động đó, chính hoạt động tông đồ của các vị chủ chăn thường không thể đạt được đầy đủ kết quả. Cũng như giáo dân nam nữ đã giúp thánh Phaolô trong việc rao giảng Phúc âm,(Cv 18:18-26; Rom 16: 3) những người giáo dân có tinh thần tông đồ đích thực, cũng như đang trợ giup những anh em thiếu thốn, và nâng đỡ tinh thần các vị chủ chăn.
Họ cộng tác đắc lực vào việc rao truyền Lời Chúa nhất là bằng việc dạy giáo lý. Họ đem khả năng của mình làm cho việc coi sóc các hồn và cả việc quản trị tài sản của Giáo hội sinh hiệu quả hơn.( GD#10)
D- Bạn và tôi thực hành Lời Chúa (“ ̣̣̣̣So what am I doing” For Action)
1/ Đọc lại những gợi ý cảm nghiệm ở phần A để áp dụng thực hành.
2/ Tham gia, trợ giúp các lớp học hỏi, chia sẻ Lời Chúa tại Giáo xứ.
3/ Làm các việc bác ái giúp mọi nguời, không phân biệt tôn giáo.
E- Bạn và tôi cùng Cầu nguyện với Lời Chúa:/ ̣Pray and Practice.
Lạy Cha, Đức Kitô đã nói: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Xin cho con mạnh dạn rao giảng Lời Chúa bằng lời nói và việc làm, lúc tiện cũng như không thuận tiện để mọi người thấy Chúa đang hành động trong chúng con. Lời hay ý đẹp: ĐỂ BIẾT TÁC GIẢ KINH THÁNH, HÃY ĐỌC SÁCH CỦA NGÀI ̣̣-̣ To know the Author of the Bible, read His Book
Phó tế: JB. Nguyễn Định * johndvn@yahoo.com *
Cùng chuyển các Nhóm, Hội đoàn, Tu hội học hỏi, chia sẻ Lời Chúa toàn cầu
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Ngày Giới Trẻ Thế Giới và giới trẻ Úc (4)
Vũ Văn An
04:02 20/06/2008
Linh đạo của giới trẻ Úc lứa tuổi 13-29 (tiếp theo)
(2) Các ảnh hưởng đối với linh đạo
Mục tiêu này cho thấy các tác giả quan tâm tới việc người trẻ đã thủ đắc nền linh đạo này thay vì nền linh đạo kia ra sao và tại sao; từ đó, họ bắt buộc phải xem sét đến các ảnh hưởng xã hội và văn hóa đối với linh đạo. Lý thuyết của Bourdieu về thói quen thực hành (habitus), một lý thuyết nhằm giải thích các thực hành có tính xã hội của một cá nhân, là một trong các phương thức của việc tìm hiểu này. Thói quen thực hành là ‘một mớ các thiên hướng thúc đẩy một người nào đó hành động và phản ứng theo một cách thế nhất định nào đó’ (Thompson, 1990). Hay, như chính Bourdieu đã từng phát biểu: là ‘một hệ thống các thiên hướng bền vững, có thể chuyển chỗ (transposable) được, mà nếu tích nhập được các kinh nghiệm quá khứ, sẽ luôn luôn hành xử như một mạng chồng chéo [matrix] gồm đủ nhận thức, lượng giá và hành động ‘ (1966, trong Swartz, 1997). Theo lý thuyết này, linh đạo của một người nào đó (triết lý sống, các thực hành và thế giới quan) được thói quen thực hành của họ thông tri.
Nhưng các thiên hướng này do đâu mà có? Các thiên hướng (chung) vốn lập thành một thói quen thực hành được thành hình nhờ diễn trình xã hội hóa của cá nhân: tức việc tham dự vào các cộng đoàn, vào văn hóa, giáo dục (chính thức và không chính thức) cũng như sự dưỡng dục mà cá nhân ấy gặp được suốt trong cuộc sống của mình (Schirato & Yell, 1996). Nó cũng được giai cấp xã hội của họ làm trung gian.
Các nhóm xã hội rất quan trọng để ta hiểu được thói quen thực hành: tuy không chấp nhận thuyết định mệnh xã hội [social determinism] nhưng là những nhà xã hội học, các tác giả đặc biệt ý thức được rằng con người nhân bản quả là các hữu thể xã hội cao độ, ngay cả những lúc họ tư riêng nhất; họ giống những cái mấu cái đốt (nodes) trong một hệ thống hơn là những ‘máy vi tính’ biệt lập; luôn luôn hành động qua lại với người khác thực sự đang hiện diện hay chỉ có trong tưởng tượng; là những máy thu nhiều băng tần luôn luôn theo dõi hàng tá hay hàng trăm những dấu hiệu văn hóa khác nhau; phản ứng trước các thay đổi phức tạp theo khuôn mẫu điều đã nhận được hơn là với ‘các âm thanh’ đơn độc xâm nhập vào cõi im lặng (4). Do đó, họ rất chú ý và quan tâm đến các nhóm xã hội khác nhau mà mỗi cá nhân vốn là thành viên, và cách thế các nhóm này nâng đỡ hay thách thức nền linh đạo của họ.
Theo quan điểm của Bourdieu, điều quan trọng là người ta không bị tiền định phải hành động theo một cách thế nào đó chỉ vì họ thủ đắc được một thói quen thực hành đặc thù. Đúng hơn, việc nội nhập văn hóa (enculturation) này hướng dẫn tác phong và các phản ứng của họ tới các tài nguyên văn hóa khác nhau, nhưng nó không định buộc (determine) tác phong và các phản ứng đó. Do đó, các thực hành văn hóa mà cá nhân đảm nhiệm cũng đồng thời là sản phẩm của lựa chọn tự do (dù bị giới hạn bởi điều được thói quen kia cho là chấp nhận được).
Để đạt được mục tiêu này, các tác giả đã tìm cách thăm dò việc xã hội hóa và nội nhập văn hóa nơi người được phỏng vấn, theo một số chiều kích, song song với việc họ tiếp nhận các tài nguyên văn hóa khác nhau, để nhìn ra các loại liên hệ giữa linh đạo, xã hội hóa và văn hóa. Các tác giả cũng quan tâm tìm hiểu các ảnh hưởng khác đối với linh đạo, nhất là các giai đoạn trong cuộc sống của người trẻ và trung tâm thẩm quyền đối với linh đạo của họ. Một cách đặc thù, họ tìm cách thăm dò năm chiều kích có thể ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới linh đạo.
1. Các liên hệ gia đình và cộng đoàn
Gia đình hạch nhân rất quan trọng đối với hầu hết các người trả lời phỏng vấn. Nhưng còn đại gia đình thì sao? Gia đình ảnh hưởng ra sao tới nền linh đạo của người được phỏng vấn? Mặt khác, liệu người trả lời có mối liên kết mạnh nhẹ nào với các cộng đoàn khác như nhóm sắc tộc, băng đảng, giáo hội hay trường học không? Nền linh đạo của người trả lời có tiêu biểu đối với một cộng đoàn đặc thù mà họ có can dự với hay không?
2. Các hệ thống cùng trang lứa
Các hệ thống này mạnh như thế nào? Người trả lời có bị cô lập về phương diện xã hội hay không? Người trả lời có tham dự việc tìm hiểu và phát triển tâm linh với các bạn cùng trang cùng lứa không?
3. Văn hóa
Điều này bao gồm cả hậu cảnh văn hóa, hậu cảnh tôn giáo và giáo dục, vì tất cả những điều này đều góp phần thông tri nền linh đạo của người ta. Cũng có các tài nguyên văn hóa nhờ thế các cá nhân có thể tự do lựa chọn, chỉ bị giới hạn bởi điều thói quen thực hành của họ cho là chấp nhận được. Câu hỏi đặt ra là: ở đấy, có điều gì ăn có, liên quan tới người trẻ hay không? Văn hóa cung hiến được gì cho nền linh đạo qua các phương tiện truyền thông khác nhau như phim ảnh, sách vở, tạp chí, âm nhạc, liên mạng và trò chơi video? Trong các theo đuổi linh đạo, người trả lời đã sử dụng các phương tiện trên ra sao?
4. Giai cấp xã hội
Giai cấp thượng tầng? Giai cấp trung thượng tầng? Giai cấp hạ thượng tầng? Giai cấp lao động?
5. Các giai đoạn đời sống
Trong dòng đời, người trả lời đang ở khúc nào? Họ có còn đi học, lệ thuộc cha mẹ hay không? Họ đã rời gia đình chưa? Theo tuổi, nền linh đạo của họ đã hoàn toàn thành hình chưa?
(3) Các hậu quả của linh đạo
Trong mục tiêu này, các tác giả chú tâm tới các hậu quả của linh đạo người trẻ đối với hoạt động xã hội, nghĩa là, tác phong ý nghĩa có tính hỗ tương, liên chủ thể (không nhất thiết phải là các hậu quả thuộc những thứ khác như bản sắc, phúc lợi tâm lý hay bệnh lý học v.v…)
Nhiều điểm ấy đang được các chuyên viên trong các lãnh vực khác nghiên cứu. Cái nhìn của các tác giả thuộc lãnh vực xã hội học, nên họ tin rằng việc chú tâm tới các hậu quả xã hội có liên hệ đặc biệt khi chủ nghĩa cá nhân nơi người trẻ mỗi ngày mỗi gia tăng. Điều này có đúng không hay nó bắt rễ trong nền linh đạo của họ?
Hơn 10 năm qua, cả ở Úc lẫn quốc tế, người ta càng ngày càng chú ý nhiều hơn tới các ý tưởng của giới trẻ đối với xã hội dân sự và các tác phong công dân của họ (Janoski, 1998; Weidenfeld, 2003; Hartley, 2001). ‘Quan tâm công dân’ (civic-mindedness) là một hạn từ từng được sử dụng để mô tả khuynh hướng chung quan tâm đến ích chung, một khuynh hướng gồm cả tính có qua có lại, sự hợp tác và tin tưởng (Putman, 1995). Nó bao hàm cảm thức trách nhiệm đối với cộng đồng của mình (cả địa phương, quốc gia lẫn quốc tế) và một niềm tin cho rằng dù có các khác biệt cá thể, mọi người đều có điều gì đó để góp phần vào ích chung (Smart, Sanson, da Silva & Toumbourou, 2000). Đối với các nhà xã hội học, ‘quan tâm công dân’ biểu tượng cho một khía cạnh quan trọng của ‘tư bản xã hội’ theo nghĩa nó góp phần vào nền văn hóa tin tưởng và có qua có lại từng nâng đỡ các mối liên hệ và mạng lưới xã hội và làm dễ các hành động tập thể và các cam kết công dân (Winter, 2000). Trong nhiều nghiên cứu, người ta đã thấy rằng tinh thần tôn giáo được liên kết với một số thành quả lành mạnh và đáng ước ao do khá nhiều lãnh vực quan tâm bản thân và công cộng đem lại, trong đó, có sự can dự chính trị và công dân (Smith, 2003; Youniss, McLellan & Yates, 1997).
Sau khi khảo sát một cuộc nghiên cứu trước đây về tư cách và tác phong công dân, các tác giả đã gom các đặc điểm này vào bốn chiều kích tổng quát sau đây:
1. Kiến thức và cách đánh giá: hiểu các nhân quyền căn bản, các cơ cấu xã hội/chính gtrị, và các cơ chế để thay đổi xã hội, cộng với việc đánh giá được công lý xã hội, công bằng, tính đa văn hóa, cam kết với cộng đồng, đưa ra các ý tưởng hay kinh nghiệm mới và làm thiện nguyện.
2. Khả năng và kỹ năng bản thân: có một loạt các kỹ năng và khả năng bản thân: khả năng biết tự mình chọn lựa và quyết định, biết kiểm soát bản thân, biết biện luận một cách hữu hiệu cho quan điểm của mình mà không bôi lọ các quan điểm của người khác và biết làm việc theo nhóm. Các kỹ năng xã hội bao gồm: tài lãnh đạo, tài thông đạt, hợp tác, làm việc nhóm, thương thảo, giữ quân bình giữa tin tưởng và nghi ngờ.
3. Các thái độ xã hội (đối với người khác và xã hội nói chung): các thái độ và hành động chứng tỏ có khuynh hướng vì ích chung và ý muốn làm việc cho cộng đồng. Do đó, các tác giả tìm kiếm những điều như: thái độ săn sóc và kính trọng đối với người khác, yểm trợ các thẩm quyền hợp pháp, trong thế căng thẳng xây dựng, sẵn sàng để bất đồng (trong các vũ đài chính trị và công dân), đồng nhất và cam kết với lân bang hàng xóm, với cộng đồng rộng lớn hơn, với các nhóm và định chế tôn giáo hay công dân (trường học, quốc hội, hệ thống luật pháp). Các tác giả cũng tìm hiểu các dấu hiệu cho thấy khả năng và ý muốn sẵn sàng tham dự vào cách nói năng chung tỏ ra khoan dung đối với ý kiến của người khác, và bất đồng với chính ý kiến của mình.
4. Hành động xã hội (cá nhân hay tập thể): người trả lời có thể và thực sự có đem các thái độ mô tả trên ra thực hành hay không? Hành động của họ ra sao trong tương quan với gia đình hay bạn bè, người cùng trang lứa, và trong cộng đồng? Họ dấn thân đến mức độ nào vào việc thiện nguyện và phục vụ cộng đồng, các sinh hoạt công dân và chính trị trên phạm vi địa phương và miền? Các tác giả cũng khảo sát các sinh hoạt liên quan đến địa bàn quốc gia và quốc tế. Muốn được coi có trình độ cao về hoạt động xã hội, người trẻ cần chứng tỏ một can dự liên tục vào các sinh hoạt cộng đồng, trong đó có việc làm thiện nguyện trong một thời gian đáng kể. Những người thỉnh thoảng lắm mới đi lạc quyên cho các cơ quan từ thiện, chỉ một lần rồi thôi, có thể chỉ là do nhà trường bắt buộc, đương nhiên được xếp hạng thấp trên bậc thang hành động xã hội.
Các tác giả cho rằng một người nào đó rất có thể có mức độ cao ở một số các điểm trên nhưng lại có mức độ thấp ở một số điểm khác. Một người trẻ được xếp loại là thực sự có quan tâm công dân phải có mức độ cao ở tất cả bốn chiều kích trên. Để làm sáng tỏ các kết luận phân tích của họ, các tác giả này đã khai triển một hình loại học (typoloogy) để xếp loại các trường hợp thành những nhóm tổng quát. Họ được lượng giá theo điều được coi là mức độ hợp lý cho mỗi chiều kích đối với người thuộc lớp tuổi họ. Dù không một người trẻ nào rơi hoàn toàn khít vào một loại, các tác giả vẫn thấy hình loại học này có ích, tuy nó chỉ là một ‘công trình đang diễn tiến’. Cho đến nay, năm loại sau đây đã xuất hiện:
1. Khuynh hướng công dân cao: Những ai được xếp cao về cả bốn chiều kích và có thể được coi là lý tưởng đối với các công dân trẻ.
2. Khuynh hướng công dân trung bình: Những ai chứng tỏ mức độ cao trong hành động xã hội nhưng về ba chiều kích kia thì mức độ có thay đổi. Nếu những người này cho thấy mức độ cao ở ít nhất một trong ba chiều kích ấy, thì họ được xếp vào loại này.
3. Khuynh hướng công dân thấp: lãnh đạm, là những người có mức độ từ thấp đến trung bình về kiến thức công dân và các khả/kỹ năng bản thân và chứng tỏ được các thái độ xã hội công dân tối thiểu. Họ chỉ thực hiện một lượng nhỏ các hoạt động thiện nguyện hay hành động xã hội. Họ không chống đối các nhiệm vụ công dân nhưng coi chúng như không dính dáng gì tới mình. Họ là những người lãnh đạm hay thờ ơ đối với các cam kết công dân.
4. Khuynh hướng công dân thấp: tư lợi, là những người hiểu rõ cách vận hành của hệ thống chính trị và kinhh tế và có kỹ năng cao nhưng các thái độ xã hội công dân nơi họ không mạnh. Họ hầu như không thực hiện bất cứ dịch vụ cộng đồng nào ngoại trừ việc ấy mang lại lợi ích bản thân trực tiếp cho họ. Họ không nhìn ra chủ nghĩa vị tha hay không coi các hành động xã hội có dính dáng đến họ.
5. Khuynh hướng công dân thấp: chống đối xã hội, là những người bị xếp ở mức thấp về tất cả bốn chiều kích. Triết lý sống của họ ủng hộ các hành động chống lại xã hội, trong đó họ can dự hoặc vì tư lợi cá nhân hoặc trong tư cách thành viên của một nhóm phản văn hóa như băng đảng chẳng hạn. Trong phần kế tiếp, các tác giả sẽ trình bày các trường hợp điển hình của một số các người được họ phỏng vấn để lên xương thịt cho các khúc xuơng xẩu lý thuyết khô khan trên.
Ghi chú:
(4) xem Geertz (1973, tr. 79-82 ).
(2) Các ảnh hưởng đối với linh đạo
Mục tiêu này cho thấy các tác giả quan tâm tới việc người trẻ đã thủ đắc nền linh đạo này thay vì nền linh đạo kia ra sao và tại sao; từ đó, họ bắt buộc phải xem sét đến các ảnh hưởng xã hội và văn hóa đối với linh đạo. Lý thuyết của Bourdieu về thói quen thực hành (habitus), một lý thuyết nhằm giải thích các thực hành có tính xã hội của một cá nhân, là một trong các phương thức của việc tìm hiểu này. Thói quen thực hành là ‘một mớ các thiên hướng thúc đẩy một người nào đó hành động và phản ứng theo một cách thế nhất định nào đó’ (Thompson, 1990). Hay, như chính Bourdieu đã từng phát biểu: là ‘một hệ thống các thiên hướng bền vững, có thể chuyển chỗ (transposable) được, mà nếu tích nhập được các kinh nghiệm quá khứ, sẽ luôn luôn hành xử như một mạng chồng chéo [matrix] gồm đủ nhận thức, lượng giá và hành động ‘ (1966, trong Swartz, 1997). Theo lý thuyết này, linh đạo của một người nào đó (triết lý sống, các thực hành và thế giới quan) được thói quen thực hành của họ thông tri.
Nhưng các thiên hướng này do đâu mà có? Các thiên hướng (chung) vốn lập thành một thói quen thực hành được thành hình nhờ diễn trình xã hội hóa của cá nhân: tức việc tham dự vào các cộng đoàn, vào văn hóa, giáo dục (chính thức và không chính thức) cũng như sự dưỡng dục mà cá nhân ấy gặp được suốt trong cuộc sống của mình (Schirato & Yell, 1996). Nó cũng được giai cấp xã hội của họ làm trung gian.
Các nhóm xã hội rất quan trọng để ta hiểu được thói quen thực hành: tuy không chấp nhận thuyết định mệnh xã hội [social determinism] nhưng là những nhà xã hội học, các tác giả đặc biệt ý thức được rằng con người nhân bản quả là các hữu thể xã hội cao độ, ngay cả những lúc họ tư riêng nhất; họ giống những cái mấu cái đốt (nodes) trong một hệ thống hơn là những ‘máy vi tính’ biệt lập; luôn luôn hành động qua lại với người khác thực sự đang hiện diện hay chỉ có trong tưởng tượng; là những máy thu nhiều băng tần luôn luôn theo dõi hàng tá hay hàng trăm những dấu hiệu văn hóa khác nhau; phản ứng trước các thay đổi phức tạp theo khuôn mẫu điều đã nhận được hơn là với ‘các âm thanh’ đơn độc xâm nhập vào cõi im lặng (4). Do đó, họ rất chú ý và quan tâm đến các nhóm xã hội khác nhau mà mỗi cá nhân vốn là thành viên, và cách thế các nhóm này nâng đỡ hay thách thức nền linh đạo của họ.
Theo quan điểm của Bourdieu, điều quan trọng là người ta không bị tiền định phải hành động theo một cách thế nào đó chỉ vì họ thủ đắc được một thói quen thực hành đặc thù. Đúng hơn, việc nội nhập văn hóa (enculturation) này hướng dẫn tác phong và các phản ứng của họ tới các tài nguyên văn hóa khác nhau, nhưng nó không định buộc (determine) tác phong và các phản ứng đó. Do đó, các thực hành văn hóa mà cá nhân đảm nhiệm cũng đồng thời là sản phẩm của lựa chọn tự do (dù bị giới hạn bởi điều được thói quen kia cho là chấp nhận được).
Để đạt được mục tiêu này, các tác giả đã tìm cách thăm dò việc xã hội hóa và nội nhập văn hóa nơi người được phỏng vấn, theo một số chiều kích, song song với việc họ tiếp nhận các tài nguyên văn hóa khác nhau, để nhìn ra các loại liên hệ giữa linh đạo, xã hội hóa và văn hóa. Các tác giả cũng quan tâm tìm hiểu các ảnh hưởng khác đối với linh đạo, nhất là các giai đoạn trong cuộc sống của người trẻ và trung tâm thẩm quyền đối với linh đạo của họ. Một cách đặc thù, họ tìm cách thăm dò năm chiều kích có thể ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới linh đạo.
1. Các liên hệ gia đình và cộng đoàn
Gia đình hạch nhân rất quan trọng đối với hầu hết các người trả lời phỏng vấn. Nhưng còn đại gia đình thì sao? Gia đình ảnh hưởng ra sao tới nền linh đạo của người được phỏng vấn? Mặt khác, liệu người trả lời có mối liên kết mạnh nhẹ nào với các cộng đoàn khác như nhóm sắc tộc, băng đảng, giáo hội hay trường học không? Nền linh đạo của người trả lời có tiêu biểu đối với một cộng đoàn đặc thù mà họ có can dự với hay không?
2. Các hệ thống cùng trang lứa
Các hệ thống này mạnh như thế nào? Người trả lời có bị cô lập về phương diện xã hội hay không? Người trả lời có tham dự việc tìm hiểu và phát triển tâm linh với các bạn cùng trang cùng lứa không?
3. Văn hóa
Điều này bao gồm cả hậu cảnh văn hóa, hậu cảnh tôn giáo và giáo dục, vì tất cả những điều này đều góp phần thông tri nền linh đạo của người ta. Cũng có các tài nguyên văn hóa nhờ thế các cá nhân có thể tự do lựa chọn, chỉ bị giới hạn bởi điều thói quen thực hành của họ cho là chấp nhận được. Câu hỏi đặt ra là: ở đấy, có điều gì ăn có, liên quan tới người trẻ hay không? Văn hóa cung hiến được gì cho nền linh đạo qua các phương tiện truyền thông khác nhau như phim ảnh, sách vở, tạp chí, âm nhạc, liên mạng và trò chơi video? Trong các theo đuổi linh đạo, người trả lời đã sử dụng các phương tiện trên ra sao?
4. Giai cấp xã hội
Giai cấp thượng tầng? Giai cấp trung thượng tầng? Giai cấp hạ thượng tầng? Giai cấp lao động?
5. Các giai đoạn đời sống
Trong dòng đời, người trả lời đang ở khúc nào? Họ có còn đi học, lệ thuộc cha mẹ hay không? Họ đã rời gia đình chưa? Theo tuổi, nền linh đạo của họ đã hoàn toàn thành hình chưa?
(3) Các hậu quả của linh đạo
Trong mục tiêu này, các tác giả chú tâm tới các hậu quả của linh đạo người trẻ đối với hoạt động xã hội, nghĩa là, tác phong ý nghĩa có tính hỗ tương, liên chủ thể (không nhất thiết phải là các hậu quả thuộc những thứ khác như bản sắc, phúc lợi tâm lý hay bệnh lý học v.v…)
Nhiều điểm ấy đang được các chuyên viên trong các lãnh vực khác nghiên cứu. Cái nhìn của các tác giả thuộc lãnh vực xã hội học, nên họ tin rằng việc chú tâm tới các hậu quả xã hội có liên hệ đặc biệt khi chủ nghĩa cá nhân nơi người trẻ mỗi ngày mỗi gia tăng. Điều này có đúng không hay nó bắt rễ trong nền linh đạo của họ?
Hơn 10 năm qua, cả ở Úc lẫn quốc tế, người ta càng ngày càng chú ý nhiều hơn tới các ý tưởng của giới trẻ đối với xã hội dân sự và các tác phong công dân của họ (Janoski, 1998; Weidenfeld, 2003; Hartley, 2001). ‘Quan tâm công dân’ (civic-mindedness) là một hạn từ từng được sử dụng để mô tả khuynh hướng chung quan tâm đến ích chung, một khuynh hướng gồm cả tính có qua có lại, sự hợp tác và tin tưởng (Putman, 1995). Nó bao hàm cảm thức trách nhiệm đối với cộng đồng của mình (cả địa phương, quốc gia lẫn quốc tế) và một niềm tin cho rằng dù có các khác biệt cá thể, mọi người đều có điều gì đó để góp phần vào ích chung (Smart, Sanson, da Silva & Toumbourou, 2000). Đối với các nhà xã hội học, ‘quan tâm công dân’ biểu tượng cho một khía cạnh quan trọng của ‘tư bản xã hội’ theo nghĩa nó góp phần vào nền văn hóa tin tưởng và có qua có lại từng nâng đỡ các mối liên hệ và mạng lưới xã hội và làm dễ các hành động tập thể và các cam kết công dân (Winter, 2000). Trong nhiều nghiên cứu, người ta đã thấy rằng tinh thần tôn giáo được liên kết với một số thành quả lành mạnh và đáng ước ao do khá nhiều lãnh vực quan tâm bản thân và công cộng đem lại, trong đó, có sự can dự chính trị và công dân (Smith, 2003; Youniss, McLellan & Yates, 1997).
Sau khi khảo sát một cuộc nghiên cứu trước đây về tư cách và tác phong công dân, các tác giả đã gom các đặc điểm này vào bốn chiều kích tổng quát sau đây:
1. Kiến thức và cách đánh giá: hiểu các nhân quyền căn bản, các cơ cấu xã hội/chính gtrị, và các cơ chế để thay đổi xã hội, cộng với việc đánh giá được công lý xã hội, công bằng, tính đa văn hóa, cam kết với cộng đồng, đưa ra các ý tưởng hay kinh nghiệm mới và làm thiện nguyện.
2. Khả năng và kỹ năng bản thân: có một loạt các kỹ năng và khả năng bản thân: khả năng biết tự mình chọn lựa và quyết định, biết kiểm soát bản thân, biết biện luận một cách hữu hiệu cho quan điểm của mình mà không bôi lọ các quan điểm của người khác và biết làm việc theo nhóm. Các kỹ năng xã hội bao gồm: tài lãnh đạo, tài thông đạt, hợp tác, làm việc nhóm, thương thảo, giữ quân bình giữa tin tưởng và nghi ngờ.
3. Các thái độ xã hội (đối với người khác và xã hội nói chung): các thái độ và hành động chứng tỏ có khuynh hướng vì ích chung và ý muốn làm việc cho cộng đồng. Do đó, các tác giả tìm kiếm những điều như: thái độ săn sóc và kính trọng đối với người khác, yểm trợ các thẩm quyền hợp pháp, trong thế căng thẳng xây dựng, sẵn sàng để bất đồng (trong các vũ đài chính trị và công dân), đồng nhất và cam kết với lân bang hàng xóm, với cộng đồng rộng lớn hơn, với các nhóm và định chế tôn giáo hay công dân (trường học, quốc hội, hệ thống luật pháp). Các tác giả cũng tìm hiểu các dấu hiệu cho thấy khả năng và ý muốn sẵn sàng tham dự vào cách nói năng chung tỏ ra khoan dung đối với ý kiến của người khác, và bất đồng với chính ý kiến của mình.
4. Hành động xã hội (cá nhân hay tập thể): người trả lời có thể và thực sự có đem các thái độ mô tả trên ra thực hành hay không? Hành động của họ ra sao trong tương quan với gia đình hay bạn bè, người cùng trang lứa, và trong cộng đồng? Họ dấn thân đến mức độ nào vào việc thiện nguyện và phục vụ cộng đồng, các sinh hoạt công dân và chính trị trên phạm vi địa phương và miền? Các tác giả cũng khảo sát các sinh hoạt liên quan đến địa bàn quốc gia và quốc tế. Muốn được coi có trình độ cao về hoạt động xã hội, người trẻ cần chứng tỏ một can dự liên tục vào các sinh hoạt cộng đồng, trong đó có việc làm thiện nguyện trong một thời gian đáng kể. Những người thỉnh thoảng lắm mới đi lạc quyên cho các cơ quan từ thiện, chỉ một lần rồi thôi, có thể chỉ là do nhà trường bắt buộc, đương nhiên được xếp hạng thấp trên bậc thang hành động xã hội.
Các tác giả cho rằng một người nào đó rất có thể có mức độ cao ở một số các điểm trên nhưng lại có mức độ thấp ở một số điểm khác. Một người trẻ được xếp loại là thực sự có quan tâm công dân phải có mức độ cao ở tất cả bốn chiều kích trên. Để làm sáng tỏ các kết luận phân tích của họ, các tác giả này đã khai triển một hình loại học (typoloogy) để xếp loại các trường hợp thành những nhóm tổng quát. Họ được lượng giá theo điều được coi là mức độ hợp lý cho mỗi chiều kích đối với người thuộc lớp tuổi họ. Dù không một người trẻ nào rơi hoàn toàn khít vào một loại, các tác giả vẫn thấy hình loại học này có ích, tuy nó chỉ là một ‘công trình đang diễn tiến’. Cho đến nay, năm loại sau đây đã xuất hiện:
1. Khuynh hướng công dân cao: Những ai được xếp cao về cả bốn chiều kích và có thể được coi là lý tưởng đối với các công dân trẻ.
2. Khuynh hướng công dân trung bình: Những ai chứng tỏ mức độ cao trong hành động xã hội nhưng về ba chiều kích kia thì mức độ có thay đổi. Nếu những người này cho thấy mức độ cao ở ít nhất một trong ba chiều kích ấy, thì họ được xếp vào loại này.
3. Khuynh hướng công dân thấp: lãnh đạm, là những người có mức độ từ thấp đến trung bình về kiến thức công dân và các khả/kỹ năng bản thân và chứng tỏ được các thái độ xã hội công dân tối thiểu. Họ chỉ thực hiện một lượng nhỏ các hoạt động thiện nguyện hay hành động xã hội. Họ không chống đối các nhiệm vụ công dân nhưng coi chúng như không dính dáng gì tới mình. Họ là những người lãnh đạm hay thờ ơ đối với các cam kết công dân.
4. Khuynh hướng công dân thấp: tư lợi, là những người hiểu rõ cách vận hành của hệ thống chính trị và kinhh tế và có kỹ năng cao nhưng các thái độ xã hội công dân nơi họ không mạnh. Họ hầu như không thực hiện bất cứ dịch vụ cộng đồng nào ngoại trừ việc ấy mang lại lợi ích bản thân trực tiếp cho họ. Họ không nhìn ra chủ nghĩa vị tha hay không coi các hành động xã hội có dính dáng đến họ.
5. Khuynh hướng công dân thấp: chống đối xã hội, là những người bị xếp ở mức thấp về tất cả bốn chiều kích. Triết lý sống của họ ủng hộ các hành động chống lại xã hội, trong đó họ can dự hoặc vì tư lợi cá nhân hoặc trong tư cách thành viên của một nhóm phản văn hóa như băng đảng chẳng hạn. Trong phần kế tiếp, các tác giả sẽ trình bày các trường hợp điển hình của một số các người được họ phỏng vấn để lên xương thịt cho các khúc xuơng xẩu lý thuyết khô khan trên.
Ghi chú:
(4) xem Geertz (1973, tr. 79-82 ).
Hiểu biết thêm về Đức tin của Đức Cố Hồng Y Thuận qua khía cạnh Gia Đình
Anthony Lê
09:28 20/06/2008
Hiểu biết thêm về Đức tin của Đức Cố Hồng Y Thuận qua khía cạnh Gia Đình
Em gái của Đức Cố Hồng Y chia sẽ tại Đại Hội Thánh Thể Thế Giới
QUEBEC CITY (Zenit.org).- Rất nhiều người đã đọc về đức tin của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận có nơi Phép Thánh Thể qua những bài viết tự truyện của ngài. Thế nhưng lần này tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế, các tham dự viên lại biết được một khía cạnh khác về ngài.
Bà Elizabeth Nguyễn Thị Thu Hồng, em gái của Đức Cố Hồng Y, chính là một trong những thuyết trình viên tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49, vốn đang diễn ra tại thành phố Quebec ở Canada mãi cho đến hết ngày Chủ Nhật tuần này.
Bà đã dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp những bài viết của Anh mình và những lá thư mà Đức Cố Hồng Y đã viết cho gia đình trong suốt 13 năm tù đày tại Việt Nam. Ngài bị bắt vào ngày 15 tháng 8 năm 1975, 9 trong 13 năm tù, ngài hoàn toàn bị biệt giam.
Bà Elizabeth nói:
"Qua những bài viết của anh tôi, cụ thể nhất là qua những lá thư mà anh tôi viết từ trong ngục tù, một điều rõ ràng nổi trội lên đó là: cuộc đời của anh tôi được cắm rễ rất sâu vào sự kết hiệp tuyệt vời với Thiên Chúa hằng sống qua Phép Thánh Thể, và đó cũng chính là sức mạnh duy nhất của anh tôi. Đối với anh tôi, đó cũng chính là một lời nguyện hay nhất, và là cách tốt nhất để tạ ơn và ca tụng danh Thiên Chúa."
Em gái của Đức Cố Hồng Y quả quyết rằng:
"Chính đức tin không hề lay chuyển được vào Phép Thánh Thể mới luôn là động lực hướng dẫn trong cuộc đời của anh tôi, và đó mới chính là sức mạnh và của ăn trong cuộc hành trình dài nơi tù ngục. Anh tôi luôn kết thúc những lá thư bí mật đó gởi cho cha-mẹ của mình bằng những dòng chữ như: Mẹ và Cha kính yêu, đừng để cho con tim của Mẹ-Cha phải trĩu nặng đi vì nuổi buồn. Mỗi ngày con sống hiệp kết với cả Giáo Hội hoàn vũ và với sự Hy Tế của Chúa Kitô. Mẹ-Cha hãy cầu nguyện cho con để con có được sự can đảm và sức mạnh để mãi tín trung với Giáo Hội và Phúc Âm, và để con thực thi ý định của Thiên Chúa."
Lòng Sốt Mến
Bà Elizabeth cho biết lời chứng thực của Anh trai Bà:
"Chỉ ra cho tất cả chúng ta rằng: Chúa Kitô đã hiến sự hy tế của Ngài với lòng nhiệt thành sốt mến cao độ, và Ngài đã vâng phục Chúa Cha ngay trong chính giờ phút chịu nạn và bị đóng đinh, và thậm chí cho tới độ phải chết đi một cách nhục nhã trên cây thập giá, để mang lại cho Chúa Cha một nhân loại được cứu rỗi và một tạo vật được thanh tẩy.
Trong tù ngục, với Phép Thánh Thể đang ngự giữa, những tù nhân Kitô Giáo và không phải Kitô Giáo đã từ từ nhận biết được ơn huệ để hiểu rằng mỗi một giờ phút hiện tại nơi cuộc sống của họ trong những điều kiện dã man nhất, họ vẫn có thể hiệp kết với sự hy tế cao cả của Chúa Giêsu, và tự nâng họ lên như là một hành động của việc long trọng tôn kính dành cho Thiên Chúa là Cha. Mỗi ngày cùng với họ, Đức cố Hồng Y Thuận luôn tự nhắc nhở chính mình và khuyến khích mọi người cầu nguyện rằng: Lạy Chúa, hãy cho chúng con có thể dâng hiến lên sự hy tế nơi Phép Thánh Thể với tình yêu, để chúng con chấp nhận mang lấy thánh giá, và để được đóng đinh vào đó nhằm tuyên xưng về danh Chúa, và để phục vụ cho tất cả anh-chị-em của chúng con."
Và Bà Elizabeth kết luận rằng:
"Tôi muốn kết thúc những dòng suy niệm này với những ý nghĩ dịu dàng được thâu lại trong ngày lễ Kinh Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 năm 1976 ở tù ngục Phú Khánh, trong thời gian mà anh trai tôi bị biệt giam, đó là: 'Con vui mừng ở đây, trong xà liêm này, nơi mà những ngọn nấm trắng đang mọc lên trên tấm chiếu ngủ của con, bởi vì Ngài cũng có mặt ở đây với con, bởi vì Ngài muốn con sống ở đây với Ngài. Trong cuộc đời con đã nói rất nhiều rồi. Giờ đây con không nói nữa. Đến lượt Ngài hãy nói chuyện với con, hỡi Chúa Giêsu, con đang lắng nghe Ngài nói đây.'
Cứ mỗi lần tôi đọc những lời này, tôi không thể nào có thể tưởng tượng được anh trai của tôi, đang ngồi trong ổ ngục tù đen tối, phải diện đối với sự trống vắng hoàn toàn, thế nhưng lại nhẹ nhàng mĩm cười như là anh ấy vẫn thường như vậy, thậm chí trong suốt những ngày cuối đời của anh, anh đã nắm giữ thật chặt và đầy yêu thương túi áo của anh là nơi mà Thiên Chúa của nước thiêng đàng đang ngự trị.
Nguyện cho người cựu tù nhân này - người đã cảm nghiệm được sự hài hòa, tình yêu, và cuộc sống của nước thiêng đàng đến mức độ trọn vẹn nhất nơi sự hiu quạnh của ổ ngục tù, tiếp tục hướng dẫn tất cả chúng ta để chúng ta có thể trở nên giống với các môn đệ của làng Emmau xưa kia- những người lớn tiếng thốt lên rằng, 'Lạy Thiên Chúa, xin hãy ở lại với chúng con và dưỡng nuôi chúng con bằng chính mình Ngài.'"
Em gái của Đức Cố Hồng Y chia sẽ tại Đại Hội Thánh Thể Thế Giới
Bà Elizabeth Nguyễn Thị Thu Hồng |
Bà Elizabeth Nguyễn Thị Thu Hồng, em gái của Đức Cố Hồng Y, chính là một trong những thuyết trình viên tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49, vốn đang diễn ra tại thành phố Quebec ở Canada mãi cho đến hết ngày Chủ Nhật tuần này.
Bà đã dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp những bài viết của Anh mình và những lá thư mà Đức Cố Hồng Y đã viết cho gia đình trong suốt 13 năm tù đày tại Việt Nam. Ngài bị bắt vào ngày 15 tháng 8 năm 1975, 9 trong 13 năm tù, ngài hoàn toàn bị biệt giam.
Bà Elizabeth nói:
"Qua những bài viết của anh tôi, cụ thể nhất là qua những lá thư mà anh tôi viết từ trong ngục tù, một điều rõ ràng nổi trội lên đó là: cuộc đời của anh tôi được cắm rễ rất sâu vào sự kết hiệp tuyệt vời với Thiên Chúa hằng sống qua Phép Thánh Thể, và đó cũng chính là sức mạnh duy nhất của anh tôi. Đối với anh tôi, đó cũng chính là một lời nguyện hay nhất, và là cách tốt nhất để tạ ơn và ca tụng danh Thiên Chúa."
Em gái của Đức Cố Hồng Y quả quyết rằng:
"Chính đức tin không hề lay chuyển được vào Phép Thánh Thể mới luôn là động lực hướng dẫn trong cuộc đời của anh tôi, và đó mới chính là sức mạnh và của ăn trong cuộc hành trình dài nơi tù ngục. Anh tôi luôn kết thúc những lá thư bí mật đó gởi cho cha-mẹ của mình bằng những dòng chữ như: Mẹ và Cha kính yêu, đừng để cho con tim của Mẹ-Cha phải trĩu nặng đi vì nuổi buồn. Mỗi ngày con sống hiệp kết với cả Giáo Hội hoàn vũ và với sự Hy Tế của Chúa Kitô. Mẹ-Cha hãy cầu nguyện cho con để con có được sự can đảm và sức mạnh để mãi tín trung với Giáo Hội và Phúc Âm, và để con thực thi ý định của Thiên Chúa."
Lòng Sốt Mến
Bà Elizabeth cho biết lời chứng thực của Anh trai Bà:
"Chỉ ra cho tất cả chúng ta rằng: Chúa Kitô đã hiến sự hy tế của Ngài với lòng nhiệt thành sốt mến cao độ, và Ngài đã vâng phục Chúa Cha ngay trong chính giờ phút chịu nạn và bị đóng đinh, và thậm chí cho tới độ phải chết đi một cách nhục nhã trên cây thập giá, để mang lại cho Chúa Cha một nhân loại được cứu rỗi và một tạo vật được thanh tẩy.
Trong tù ngục, với Phép Thánh Thể đang ngự giữa, những tù nhân Kitô Giáo và không phải Kitô Giáo đã từ từ nhận biết được ơn huệ để hiểu rằng mỗi một giờ phút hiện tại nơi cuộc sống của họ trong những điều kiện dã man nhất, họ vẫn có thể hiệp kết với sự hy tế cao cả của Chúa Giêsu, và tự nâng họ lên như là một hành động của việc long trọng tôn kính dành cho Thiên Chúa là Cha. Mỗi ngày cùng với họ, Đức cố Hồng Y Thuận luôn tự nhắc nhở chính mình và khuyến khích mọi người cầu nguyện rằng: Lạy Chúa, hãy cho chúng con có thể dâng hiến lên sự hy tế nơi Phép Thánh Thể với tình yêu, để chúng con chấp nhận mang lấy thánh giá, và để được đóng đinh vào đó nhằm tuyên xưng về danh Chúa, và để phục vụ cho tất cả anh-chị-em của chúng con."
Và Bà Elizabeth kết luận rằng:
"Tôi muốn kết thúc những dòng suy niệm này với những ý nghĩ dịu dàng được thâu lại trong ngày lễ Kinh Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 năm 1976 ở tù ngục Phú Khánh, trong thời gian mà anh trai tôi bị biệt giam, đó là: 'Con vui mừng ở đây, trong xà liêm này, nơi mà những ngọn nấm trắng đang mọc lên trên tấm chiếu ngủ của con, bởi vì Ngài cũng có mặt ở đây với con, bởi vì Ngài muốn con sống ở đây với Ngài. Trong cuộc đời con đã nói rất nhiều rồi. Giờ đây con không nói nữa. Đến lượt Ngài hãy nói chuyện với con, hỡi Chúa Giêsu, con đang lắng nghe Ngài nói đây.'
Cứ mỗi lần tôi đọc những lời này, tôi không thể nào có thể tưởng tượng được anh trai của tôi, đang ngồi trong ổ ngục tù đen tối, phải diện đối với sự trống vắng hoàn toàn, thế nhưng lại nhẹ nhàng mĩm cười như là anh ấy vẫn thường như vậy, thậm chí trong suốt những ngày cuối đời của anh, anh đã nắm giữ thật chặt và đầy yêu thương túi áo của anh là nơi mà Thiên Chúa của nước thiêng đàng đang ngự trị.
Nguyện cho người cựu tù nhân này - người đã cảm nghiệm được sự hài hòa, tình yêu, và cuộc sống của nước thiêng đàng đến mức độ trọn vẹn nhất nơi sự hiu quạnh của ổ ngục tù, tiếp tục hướng dẫn tất cả chúng ta để chúng ta có thể trở nên giống với các môn đệ của làng Emmau xưa kia- những người lớn tiếng thốt lên rằng, 'Lạy Thiên Chúa, xin hãy ở lại với chúng con và dưỡng nuôi chúng con bằng chính mình Ngài.'"
Tính Luân Lý của các Hành Vi Con Người và Lương Tâm
Phaolô Phạm Xuân Khôi
15:48 20/06/2008
Tính Luân Lý của các Hành Vi Con Người và Lương Tâm
Ngày nay người ta tìm đủ mọi cách để biện minh cho các hành vi trái luân lý của mình. Thay vì nhận trách nhiệm, thì họ đổ lỗi cho xã hội, cho di truyền, cho hoàn cảnh và cho giáo dục. Thay vì làm chủ các hành vi của mình thì họ đòi buộc người khác không những phải chấp nhận những hành vi vô luân của mình mà còn tìm cách hợp thức hóa chúng qua luật pháp và giáo dục. Mục đích là đưa mọi người, nhất là các thế hệ tương lai đến tình trạng tương đối về luân lý. Xã hội thế tục càng hợp thức hoá những điều vô luân thì chúng ta, những người Công Giáo càng phải triệt để bảo vệ luân lý và giúp con cái chúng ta đào luyện một lương tâm ngay thẳng theo giáo huấn của Đức Kitô và luật tự nhiên. Để góp phần vào việc giúp đào luyện lương tâm, chúng tôi xin tóm tắt những điều trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo để những ai không có thì giờ đọc Sách Giáo Lý có thể có một cái nhìn tổng quát về Giáo Huấn của Hội Thánh về tính luân lý của các hành vi của mình và làm thế nào để thực sự sống theo lương tâm.
I. Tính Luân Lý của các Hành Vi Con Người
1. Tự Do và Trách Nhiệm
Tự do là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí để chọn làm hay không làm điều gì, nhờ đó con người có thể làm những việc có ý thức và chịu trách nhiệm về việc mình làm. Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Tự do còn bao hàm khả năng lựa chọn giữa thiện và ác. Vì có tự do, nên con người có công hay có tội. Con người chỉ có tự do đích thực khi làm điều thiện. Khi chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên nô lệ tội lỗi. Có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình theo mức độ chủ ý. Lỗi và trách nhiệm về một hành động có thể được giảm bớt hay xóa bỏ vì thiếu hiểu biết, sơ suất, áp lực, sợ hãi, thói quen, tâm thần bất ổn, hoặc các yếu tố tâm lý hay xã hội. Con người phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi trực tiếp chủ ý của mình. Quyền sử dụng tự do, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo, là một đòi hỏi không thể tách rời khỏi phẩm giá con người. Luật dân sự phải công nhận và bảo vệ quyền này, trong giới hạn công ích và trật tự công cộng (X. GLCG 1731-1738). Tự do làm cho con người thành một chủ thể luân lý. Khi hành động có chủ ý, con người được coi là cha của các hành vi của mình. Các hành vi được tự do lựa chọn theo phán đoán lương tâm, đều có tính luân lý: có thể là tốt hay xấu (X. GLCG 1749).
2. Nguồn gốc của luân lý (X. GLCG 1750-1754)
Luân lý tính của các hành vi con người tùy thuộc vào:
• đối tượng được chọn lựa;
• mục đích nhắm tới hay ý hướng;
• các hoàn cảnh của hành động.
Ðối tượng, ý hướng và các hoàn cảnh tạo nên yếu tố cấu thành luân lý tính của các hành vi con người. Ðối tượng được lựa chọn xác định luân lý tính của hành vi ý chí, tùy theo sự nhận biết và phán đoán của lý trí. Ý hướng phát xuất từ ý chí tự do và xác định mục đích của hành động, nên là một yếu tố căn bản để đánh giá luân lý tính của hành động. Ý hướng có thể định hướng toàn bộ cuộc sống chúng ta đến một cùng đích. Cứu cánh không biện minh cho phương tiện. Một ý hướng tốt không thể làm cho một hành vi xấu thành tốt. Ngược lại, một việc tốt có thể trở thành xấu vì làm với ý xấu. Các hoàn cảnh, kể cả những hậu quả, là những yếu tố phụ của một hành vi luân lý. Chúng không thể làm cho một hành vi tự nó là xấu, trở nên tốt hay đúng, nhưng có thể góp phần gia tăng hay giảm bớt tính chất tốt hay xấu về mặt luân lý của những hành vi con người.
3. Hành vi tốt và hành vi xấu (X. GLCG 1575-1562)
Một hành vi tốt về mặt luân lý đòi hỏi đối tượng, mục đích và các hoàn cảnh đều phải tốt. Đối tượng được lựa chọn có thể làm cho toàn bộ hành động trở nên xấu. Có những hành vi luôn luôn là sai, vì ngay khi chọn lựa, ý chí đã lệch lạc; đó là một điều xấu luân lý. Không được phép làm điều xấu để đạt một kết quả tốt. Chưa cần xét đến hoàn cảnh và ý hướng, có những hành vi tự bản chất luôn là bất chính nghiêm trọng do đối tượng.
II. Tính Luân Lý của Những Đam Mê
Đam mê hay cảm xúc mà một người cảm nghiệm có thể giúp người ấy chuẩn bị và góp phần vào việc đi tìm hạnh phúc (X. GLCG 1762).
1. Các đam mê (1763-1766)
Đam mê hay cảm xúc là những tình cảm hay xúc động cảm giác làm cho chúng ta có khuynh hướng làm hay không làm điều chúng ta cảm thấy là tốt hay xấu. Các đam mê là thành phần tự nhiên của sinh hoạt tâm lý con người. Chúng nối kết đời sống cảm giác và đời sống tinh thần. Ðức Kitô gọi tâm hồn là nguồn phát xuất các đam mê. Có nhiều thứ đam mê. Trong số các đam mê có yêu, ghét, ước muốn, lo sợ, buồn phiền, và nóng giận. Yêu là đam mê căn bản, là muốn điều tốt cho người khác. Tất cả những đam mê khác đều bắt nguồn từ rung động nguyên thủy này của tâm hồn hướng về điều thiện hảo. Ðam mê xấu khi tình yêu xấu, đam mê tốt khi tình yêu tốt.
2. Ðam mê và đời sống luân lý (X. GLCG 1767-1775)
Tự bản chất, đam mê không tốt không xấu. Ðam mê mang giá trị luân lý tùy mức độ liên hệ thật sự với lý trí và ý chí. Muốn đạt tới mức hoàn hảo luân lý, con người cần phải dùng lý trí điều khiển các đam mê. Về phương diện luân lý, đam mê tốt nếu góp phần vào một việc làm tốt, và xấu nếu ngược lại. Ý chí ngay thẳng hướng các cảm xúc về điều lành và hạnh phúc thật, ý chí xấu không chống nổi các đam mê hỗn loạn và làm cho chúng trở nên dữ dội hơn. Các cảm xúc và tình cảm có thể được đón nhận trong các nhân đức, hoặc bị băng hoại trong các thói xấu. Trong đời sống Kitô hữu, Chúa Thánh Thần thực hiện công trình của Ngài bằng cách huy động mọi sự nơi con người, kể cả những đau khổ, sợ hãi và buồn phiền, như trong cơn hấp hối và cuộc khổ nạn của Ðức Kitô. Trong Ngài, những tình cảm của chúng ta được kiện toàn nhờ đức ái và hạnh phúc đích thực. Con người đạt tới mức hoàn thiện luân lý bằng cách vươn tới điều thiện hảo, không chỉ với ý chí, mà còn với cả tâm hồn.
III. Lương Tâm
Tận đáy lòng, con người khám phá ra một lề luật mà chính họ không đặt ra, nhưng phải tuân theo, đó là tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi họ làm lành lánh dữ. Tiếng nói ấy vang lên đúng lúc trong tâm hồn. Đó thật là một lề luật Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người (X. GLCG 1776). Tuy nhiên lương tâm có thể bị lầm lạc nếu không được huấn luyện, và có thể bị ra chai đá và không còn hiệu quả khi một người cố tình chà đạp kương tâm của mình cách thường xuyên.
1. Phán quyết của lương tâm (X. GLCG 1777-1782)
Phán quyết của lương tâm là phán quyết của lý trí, nhờ đó ta biết một hành vi cụ thể là tốt hay xấu. Lương tâm hiện diện trong lòng ta và ra lệnh đúng lúc cho ta làm lành lánh dữ. Lương tâm phán đoán các lựa chọn cụ thể bằng cách tán thành lựa chọn tốt, tố giác lựa chọn xấu. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể cảm nhận được Thiên Chúa đang nói với mình. Nhờ phán quyết của lương tâm, con người ý thức và nhận ra những quy định của luật Thiên Chúa. Mỗi người phải quay về với nội tâm, để có thể nghe được và tuân theo tiếng lương tâm. Phẩm giá của nhân vị bao gồm và đòi buộc con người phải có lương tâm ngay thẳng. Lương tâm gồm ba điều:
• Nhận biết các nguyên tắc luân lý;
• Áp dụng vào việc cân nhắc thực tiễn các lý do và lợi ích trong những hoàn cảnh cụ thể;
• Phán quyết về các hành vi cụ thể sắp làm hay đã làm.
Nhờ phán quyết khôn ngoan của lương tâm, chúng ta nhận ra điều lành đã được lý trí đưa ra. Người khôn ngoan sẽ chọn phán quyết này. Với lương tâm, ta chịu trách nhiệm về những việc đã làm. Lời kết án của lương tâm có thể dẫn ta đến hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi xác định lỗi lầm đã phạm, lương tâm nhắc nhở ta phải xin ơn tha thứ, làm việc lành và luôn trau dồi nhân đức nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Con người có quyền hành động theo lương tâm và trong tự do, để tự mình có những quyết định luân lý. Không được cưỡng bức ai hành động trái với lương tâm của họ, hay ngăn cản họ hành động theo lương tâm, nhất là trong lãnh vực tôn giáo.
2. Rèn luyện lương tâm (X. GLCG 1783 -1785)
Lương tâm phải được rèn luyện từ nhỏ và phán đoán luân lý phải được soi sáng. Một lương tâm được rèn luyện tốt sẽ phán đoán ngay thẳng và chân thật. Việc giáo dục lương tâm rất cần thiết cho những người chịu các ảnh hưởng tiêu cực và bị tội lỗi cám dỗ làm theo ý riêng và bỏ những giáo huấn chính thức của Thiên Chúa và Hội Thánh. Giáo dục lương tâm là nhiệm vụ phải theo đuổi suốt đời. Giáo dục lương tâm bảo đảm tự do và tạo bình an trong tâm hồn. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện lương tâm. Phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập Giá Ðức Kitô, nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, và được giáo huấn chính thức của Hội Thánh hướng dẫn
3. Chọn lựa theo lương tâm (1786-1790)
Khi phải đứng trước một chọn lựa, lương tâm có thể phán đoán đúng, hợp với lý trí và luật Thiên Chúa, hoặc phán đoán sai. Ðôi khi gặp những hoàn cảnh không phán đoán chắc chắn được, ta phải luôn luôn tìm kiếm điều công chính và thiện hảo, cũng như nhận định đâu là thánh ý trong lề luật Thiên Chúa. Muốn vậy, ta phải cố gắng giải thích đúng đắn kinh nghiệm của mình và các dấu chỉ thời đại, dựa vào đức khôn ngoan, lời khuyên bảo của những người hiểu biết cũng như sự trợ lực của Chúa Thánh Thần và ân sủng của Người. Một vài quy tắc có thể áp dụng trong mọi trường hợp:
• Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt một kết quả tốt;.
• Luật Vàng: "Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình thì các con hãy làm cho người";
• Ðức ái Kitô giáo luôn luôn đòi chúng ta tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ.
4. Phán đoán sai lầm (X. GLCG 1790-1802)
Chúng ta phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm. Chủ ý làm ngược lại với phán đoán ấy là tự kết án mình. Nhưng lương tâm có thể thiếu hiểu biết nên phán đoán sai về các hành vi sẽ làm hay đã làm. Sự thiếu hiểu biết và sai lầm đó không phải lúc nào cũng vô tội. Nếu vì cố tình không chịu rèn luyện lương tâm thì chúng ta vẫn có lỗi. Lời Thiên Chúa phải là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta. Phải lãnh nhận Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện, và đem ra thực hành. Ðó là phương thế để rèn luyện lương tâm.
IV. Kết Luận
Vì tự do của con người có giới hạn và có thể lầm lạc, nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm về những hành động của họ, nên họ cần phải làm theo tiếng nói của lương tâm. Tự do không có nghĩa là muốn nói gì hay làm gì thì làm. Mặt khác, những điều kiện về kinh tế và xã hội, chính trị và văn hóa cần thiết để thực thi tự do cách chính đáng, lắm khi bị phủ nhận và vi phạm. Khi xa lìa luật luân lý, con người làm thương tổn sự tự do của chính mình, làm nô lệ cho tính ích kỷ, cắt đứt tình huynh đệ với đồng loại và nổi loạn chống lại ý Chúa (X. GLCG 1740). Muốn cho hành động phù hợp với luân lý, con người cần một lương tâm ngay thẳng được hướng dẫn bời Luật Tự Nhiên và các giáo huấn của Tin Mừng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về việc đào luyên lương tâm của mình. Tuy nhiên sống theo lương tâm không phải là dễ nếu không có ân sủng của Chúa. Nhờ tác động của ân sủng, Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta trong việc đào luyện lương tâm và dẫn chúng ta đến sự tự do thiêng liêng để chúng ta trở thành những người tự nguyện cộng tác vào công trình của Người trong Hội Thánh và thế giới (X. GLCG 1742-1748).
Ngày nay người ta tìm đủ mọi cách để biện minh cho các hành vi trái luân lý của mình. Thay vì nhận trách nhiệm, thì họ đổ lỗi cho xã hội, cho di truyền, cho hoàn cảnh và cho giáo dục. Thay vì làm chủ các hành vi của mình thì họ đòi buộc người khác không những phải chấp nhận những hành vi vô luân của mình mà còn tìm cách hợp thức hóa chúng qua luật pháp và giáo dục. Mục đích là đưa mọi người, nhất là các thế hệ tương lai đến tình trạng tương đối về luân lý. Xã hội thế tục càng hợp thức hoá những điều vô luân thì chúng ta, những người Công Giáo càng phải triệt để bảo vệ luân lý và giúp con cái chúng ta đào luyện một lương tâm ngay thẳng theo giáo huấn của Đức Kitô và luật tự nhiên. Để góp phần vào việc giúp đào luyện lương tâm, chúng tôi xin tóm tắt những điều trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo để những ai không có thì giờ đọc Sách Giáo Lý có thể có một cái nhìn tổng quát về Giáo Huấn của Hội Thánh về tính luân lý của các hành vi của mình và làm thế nào để thực sự sống theo lương tâm.
I. Tính Luân Lý của các Hành Vi Con Người
1. Tự Do và Trách Nhiệm
Tự do là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí để chọn làm hay không làm điều gì, nhờ đó con người có thể làm những việc có ý thức và chịu trách nhiệm về việc mình làm. Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Tự do còn bao hàm khả năng lựa chọn giữa thiện và ác. Vì có tự do, nên con người có công hay có tội. Con người chỉ có tự do đích thực khi làm điều thiện. Khi chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên nô lệ tội lỗi. Có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình theo mức độ chủ ý. Lỗi và trách nhiệm về một hành động có thể được giảm bớt hay xóa bỏ vì thiếu hiểu biết, sơ suất, áp lực, sợ hãi, thói quen, tâm thần bất ổn, hoặc các yếu tố tâm lý hay xã hội. Con người phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi trực tiếp chủ ý của mình. Quyền sử dụng tự do, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo, là một đòi hỏi không thể tách rời khỏi phẩm giá con người. Luật dân sự phải công nhận và bảo vệ quyền này, trong giới hạn công ích và trật tự công cộng (X. GLCG 1731-1738). Tự do làm cho con người thành một chủ thể luân lý. Khi hành động có chủ ý, con người được coi là cha của các hành vi của mình. Các hành vi được tự do lựa chọn theo phán đoán lương tâm, đều có tính luân lý: có thể là tốt hay xấu (X. GLCG 1749).
2. Nguồn gốc của luân lý (X. GLCG 1750-1754)
Luân lý tính của các hành vi con người tùy thuộc vào:
• đối tượng được chọn lựa;
• mục đích nhắm tới hay ý hướng;
• các hoàn cảnh của hành động.
Ðối tượng, ý hướng và các hoàn cảnh tạo nên yếu tố cấu thành luân lý tính của các hành vi con người. Ðối tượng được lựa chọn xác định luân lý tính của hành vi ý chí, tùy theo sự nhận biết và phán đoán của lý trí. Ý hướng phát xuất từ ý chí tự do và xác định mục đích của hành động, nên là một yếu tố căn bản để đánh giá luân lý tính của hành động. Ý hướng có thể định hướng toàn bộ cuộc sống chúng ta đến một cùng đích. Cứu cánh không biện minh cho phương tiện. Một ý hướng tốt không thể làm cho một hành vi xấu thành tốt. Ngược lại, một việc tốt có thể trở thành xấu vì làm với ý xấu. Các hoàn cảnh, kể cả những hậu quả, là những yếu tố phụ của một hành vi luân lý. Chúng không thể làm cho một hành vi tự nó là xấu, trở nên tốt hay đúng, nhưng có thể góp phần gia tăng hay giảm bớt tính chất tốt hay xấu về mặt luân lý của những hành vi con người.
3. Hành vi tốt và hành vi xấu (X. GLCG 1575-1562)
Một hành vi tốt về mặt luân lý đòi hỏi đối tượng, mục đích và các hoàn cảnh đều phải tốt. Đối tượng được lựa chọn có thể làm cho toàn bộ hành động trở nên xấu. Có những hành vi luôn luôn là sai, vì ngay khi chọn lựa, ý chí đã lệch lạc; đó là một điều xấu luân lý. Không được phép làm điều xấu để đạt một kết quả tốt. Chưa cần xét đến hoàn cảnh và ý hướng, có những hành vi tự bản chất luôn là bất chính nghiêm trọng do đối tượng.
II. Tính Luân Lý của Những Đam Mê
Đam mê hay cảm xúc mà một người cảm nghiệm có thể giúp người ấy chuẩn bị và góp phần vào việc đi tìm hạnh phúc (X. GLCG 1762).
1. Các đam mê (1763-1766)
Đam mê hay cảm xúc là những tình cảm hay xúc động cảm giác làm cho chúng ta có khuynh hướng làm hay không làm điều chúng ta cảm thấy là tốt hay xấu. Các đam mê là thành phần tự nhiên của sinh hoạt tâm lý con người. Chúng nối kết đời sống cảm giác và đời sống tinh thần. Ðức Kitô gọi tâm hồn là nguồn phát xuất các đam mê. Có nhiều thứ đam mê. Trong số các đam mê có yêu, ghét, ước muốn, lo sợ, buồn phiền, và nóng giận. Yêu là đam mê căn bản, là muốn điều tốt cho người khác. Tất cả những đam mê khác đều bắt nguồn từ rung động nguyên thủy này của tâm hồn hướng về điều thiện hảo. Ðam mê xấu khi tình yêu xấu, đam mê tốt khi tình yêu tốt.
2. Ðam mê và đời sống luân lý (X. GLCG 1767-1775)
Tự bản chất, đam mê không tốt không xấu. Ðam mê mang giá trị luân lý tùy mức độ liên hệ thật sự với lý trí và ý chí. Muốn đạt tới mức hoàn hảo luân lý, con người cần phải dùng lý trí điều khiển các đam mê. Về phương diện luân lý, đam mê tốt nếu góp phần vào một việc làm tốt, và xấu nếu ngược lại. Ý chí ngay thẳng hướng các cảm xúc về điều lành và hạnh phúc thật, ý chí xấu không chống nổi các đam mê hỗn loạn và làm cho chúng trở nên dữ dội hơn. Các cảm xúc và tình cảm có thể được đón nhận trong các nhân đức, hoặc bị băng hoại trong các thói xấu. Trong đời sống Kitô hữu, Chúa Thánh Thần thực hiện công trình của Ngài bằng cách huy động mọi sự nơi con người, kể cả những đau khổ, sợ hãi và buồn phiền, như trong cơn hấp hối và cuộc khổ nạn của Ðức Kitô. Trong Ngài, những tình cảm của chúng ta được kiện toàn nhờ đức ái và hạnh phúc đích thực. Con người đạt tới mức hoàn thiện luân lý bằng cách vươn tới điều thiện hảo, không chỉ với ý chí, mà còn với cả tâm hồn.
III. Lương Tâm
Tận đáy lòng, con người khám phá ra một lề luật mà chính họ không đặt ra, nhưng phải tuân theo, đó là tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi họ làm lành lánh dữ. Tiếng nói ấy vang lên đúng lúc trong tâm hồn. Đó thật là một lề luật Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người (X. GLCG 1776). Tuy nhiên lương tâm có thể bị lầm lạc nếu không được huấn luyện, và có thể bị ra chai đá và không còn hiệu quả khi một người cố tình chà đạp kương tâm của mình cách thường xuyên.
1. Phán quyết của lương tâm (X. GLCG 1777-1782)
Phán quyết của lương tâm là phán quyết của lý trí, nhờ đó ta biết một hành vi cụ thể là tốt hay xấu. Lương tâm hiện diện trong lòng ta và ra lệnh đúng lúc cho ta làm lành lánh dữ. Lương tâm phán đoán các lựa chọn cụ thể bằng cách tán thành lựa chọn tốt, tố giác lựa chọn xấu. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể cảm nhận được Thiên Chúa đang nói với mình. Nhờ phán quyết của lương tâm, con người ý thức và nhận ra những quy định của luật Thiên Chúa. Mỗi người phải quay về với nội tâm, để có thể nghe được và tuân theo tiếng lương tâm. Phẩm giá của nhân vị bao gồm và đòi buộc con người phải có lương tâm ngay thẳng. Lương tâm gồm ba điều:
• Nhận biết các nguyên tắc luân lý;
• Áp dụng vào việc cân nhắc thực tiễn các lý do và lợi ích trong những hoàn cảnh cụ thể;
• Phán quyết về các hành vi cụ thể sắp làm hay đã làm.
Nhờ phán quyết khôn ngoan của lương tâm, chúng ta nhận ra điều lành đã được lý trí đưa ra. Người khôn ngoan sẽ chọn phán quyết này. Với lương tâm, ta chịu trách nhiệm về những việc đã làm. Lời kết án của lương tâm có thể dẫn ta đến hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi xác định lỗi lầm đã phạm, lương tâm nhắc nhở ta phải xin ơn tha thứ, làm việc lành và luôn trau dồi nhân đức nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Con người có quyền hành động theo lương tâm và trong tự do, để tự mình có những quyết định luân lý. Không được cưỡng bức ai hành động trái với lương tâm của họ, hay ngăn cản họ hành động theo lương tâm, nhất là trong lãnh vực tôn giáo.
2. Rèn luyện lương tâm (X. GLCG 1783 -1785)
Lương tâm phải được rèn luyện từ nhỏ và phán đoán luân lý phải được soi sáng. Một lương tâm được rèn luyện tốt sẽ phán đoán ngay thẳng và chân thật. Việc giáo dục lương tâm rất cần thiết cho những người chịu các ảnh hưởng tiêu cực và bị tội lỗi cám dỗ làm theo ý riêng và bỏ những giáo huấn chính thức của Thiên Chúa và Hội Thánh. Giáo dục lương tâm là nhiệm vụ phải theo đuổi suốt đời. Giáo dục lương tâm bảo đảm tự do và tạo bình an trong tâm hồn. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện lương tâm. Phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập Giá Ðức Kitô, nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, và được giáo huấn chính thức của Hội Thánh hướng dẫn
3. Chọn lựa theo lương tâm (1786-1790)
Khi phải đứng trước một chọn lựa, lương tâm có thể phán đoán đúng, hợp với lý trí và luật Thiên Chúa, hoặc phán đoán sai. Ðôi khi gặp những hoàn cảnh không phán đoán chắc chắn được, ta phải luôn luôn tìm kiếm điều công chính và thiện hảo, cũng như nhận định đâu là thánh ý trong lề luật Thiên Chúa. Muốn vậy, ta phải cố gắng giải thích đúng đắn kinh nghiệm của mình và các dấu chỉ thời đại, dựa vào đức khôn ngoan, lời khuyên bảo của những người hiểu biết cũng như sự trợ lực của Chúa Thánh Thần và ân sủng của Người. Một vài quy tắc có thể áp dụng trong mọi trường hợp:
• Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt một kết quả tốt;.
• Luật Vàng: "Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình thì các con hãy làm cho người";
• Ðức ái Kitô giáo luôn luôn đòi chúng ta tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ.
4. Phán đoán sai lầm (X. GLCG 1790-1802)
Chúng ta phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm. Chủ ý làm ngược lại với phán đoán ấy là tự kết án mình. Nhưng lương tâm có thể thiếu hiểu biết nên phán đoán sai về các hành vi sẽ làm hay đã làm. Sự thiếu hiểu biết và sai lầm đó không phải lúc nào cũng vô tội. Nếu vì cố tình không chịu rèn luyện lương tâm thì chúng ta vẫn có lỗi. Lời Thiên Chúa phải là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta. Phải lãnh nhận Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện, và đem ra thực hành. Ðó là phương thế để rèn luyện lương tâm.
IV. Kết Luận
Vì tự do của con người có giới hạn và có thể lầm lạc, nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm về những hành động của họ, nên họ cần phải làm theo tiếng nói của lương tâm. Tự do không có nghĩa là muốn nói gì hay làm gì thì làm. Mặt khác, những điều kiện về kinh tế và xã hội, chính trị và văn hóa cần thiết để thực thi tự do cách chính đáng, lắm khi bị phủ nhận và vi phạm. Khi xa lìa luật luân lý, con người làm thương tổn sự tự do của chính mình, làm nô lệ cho tính ích kỷ, cắt đứt tình huynh đệ với đồng loại và nổi loạn chống lại ý Chúa (X. GLCG 1740). Muốn cho hành động phù hợp với luân lý, con người cần một lương tâm ngay thẳng được hướng dẫn bời Luật Tự Nhiên và các giáo huấn của Tin Mừng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về việc đào luyên lương tâm của mình. Tuy nhiên sống theo lương tâm không phải là dễ nếu không có ân sủng của Chúa. Nhờ tác động của ân sủng, Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta trong việc đào luyện lương tâm và dẫn chúng ta đến sự tự do thiêng liêng để chúng ta trở thành những người tự nguyện cộng tác vào công trình của Người trong Hội Thánh và thế giới (X. GLCG 1742-1748).
Hiền muội Đức Hồng Y Thuận và Phép Thánh Thể (1)
Vũ Văn An
23:38 20/06/2008
Hiền muội Đức Hồng Y Thuận và Phép Thánh Thể
Quebec City, 19 tháng Sáu, 2008 (Zenit.org).- Sau đây là bài tham luận cô Elizabeth Nguyễn Thị Thu Hồng, em gái út của Đức Hồng Y quá cố Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đọc hôm nay tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49 kéo dài đến tận Chúa Nhật này tại Quebec.
Thánh Thể, Sự Sống Chúa Kitô trong cuộc sống ta
Kính thưa các Đức Hồng Y,
Kính thưa các Đức Cha,
Kính thưa các cha, các sư huynh, các nữ tu, và các bạn thên mến,
Con cảm thấy hết sức đặc ân và vinh dự được Đức Hồng Y Ouellet mời hiện diện tại đây trong Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49 này, và được dịp chia sẻ với qúy ngài và qúy bạn sứ điệp tin và sùng kính Phép Thánh Thể cũng như các biến đổi lạ lùng do Phép Thánh Thể đem đến trong những ngày đen tối nơi nhà tù của người anh quá cố của con là Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Để lượng giá và hiểu rõ hơn niềm tin và cam kết sâu sắc của ngài đối với Bí Tích Cực Thánh này, con xin bắt đầu vắn tắt phác thảo một vài cột mốc quan trọng trong cuộc đời của ngài. Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được thụ phong linh mục năm 1953, và thụ phong giám mục năm 1967, lúc 39 tuổi. Chín năm sau, ngay trước khi chế độ cộng sản chiếm Nam Việt Nam vào năm 1975, Đức Thánh Cha Phaolô VI cử ngài làm Phó Tổng Giám Mục Sài Gòn, mà gần vào khoảng thời gian ấy đã được đặt tên lại là Thành Phố Hồ Chí Minh. Việc cử nhiệm mới của Phanxicô đã bị tân chính phủ bác bỏ và vào ngày 15 tháng Tám năm 1975, đúng ngày Lễ Đức Mẹ Mông Triệu, ngài bị bắt và phải sống suốt 13 năm sau đó trong tù, trong đó, hết 9 năm bị biệt giam.
Được trang bị một đức tin vững mạnh và luôn kết hiệp với Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể, ngài biến những năm tù đầy này thành một cuộc hành trình tiến về sự thánh thiện. Ngài đã đem sứ điệp của Chúa Kitô vào đêm đen cuộc sống trong tù. Lúc 61 tuổi, được thả tự do, trước tiên ngài được cử nhiệm làm Phó Chủ Tịch năm 1994, rồi Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hoà Bình năm 1998. Sua đó, ngài được chẩn đoán mắc hình thức ung thư dạ dầy rất hiếm và đã đến thời kỳ cuối cùng, nhưng một lần nữa, cũng như nhiều dịp khác trước đây, và cho đến tận cùng, ngài đã chịu đựng và chấp nhận cơn bệnh của mình trong sự hiệp nhất với Chúa Giêsu trên Thánh Giá vì Sự Hiệp Nhất của Giáo Hội.
Ngày 16 tháng Chín năm 2007, nhân kỷ niệm năm thứ năm ngày ngài qua đời, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chính thức mở hồ sơ phong á thánh cho ngài.
Phép Thánh Thể, Sự Sống Cho Thế Gian
Qua các trước tác của ngài, và nhất là qua các thư từ viết từ nhà tù của ngài, một sự kiện rõ ràng đã xuất hiện: cuộc sống của Phanxicô Xaviê đã bắt rễ rất vững chãi trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa Hằng Sống qua Phép Thánh Thể, nguồn sức mạnh duy nhất của ngài. Đối với ngài, đó cũng là lời cầu nguyện đẹp đẽ nhất, và là cách thế tốt nhất để cám tạ và ca tụng Vinh Quang Thiên Chúa.
Mạ chúng con thường nhắc chúng con nhớ lại lúc người chị cả của người qua đời vì bệnh lao phổi ở thành phố Huế, Việt Nam. Thời ấy, bệnh lao phổi được coi là bệnh hết sức nguy hiểm và là bệnh hay lây, lúc ấy không có thuốc chữa, vì thế khó mà kiếm được cậu giúp lễ để giúp cha xứ ban Mình Thánh cho bà bác con. Thế là Phanxicô tình nguyện tháp tùng vị linh mục già yếu trong các lần ngài đi thăm bà bác con, chân đất, mỗi ngày sau khi đi học về, cho đến ngày bà bác con qua đời. Được hỏi về việc ấy, anh con giải thích lòng sùng kính sâu xa của anh cho bà bác con, bằng cách trích câu của Thánh Gioan: “Nếu các con không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các con sẽ không có Sự Sống trong các con”.
Niềm tin không lay chuyển vào Phép Thánh Thể ấy luôn là sức mạnh chỉ đường trong cuộc sống của ngài, là sức lực và là của dưỡng nuôi cho cuộc hành trình dài trong lao tù của ngài. [Đúng như cha mẹ con từng sợ trước đây, Phanxicô cuối cùng đã mắc chứng bệnh và phải sống một thời gian dài trong bệnh viện vì các chứng nhiễm trùng. Nhiều thử nghiệm liên tiếp đã tái xác nhận bệnh lao nặng, cần phải giải phẫu phổi mà nếu thành công cũng sẽ khiến ngài vĩnh viễn mất năng lực. Tuy nhiênm như một phép lạ, anh con đã sống thoát, và bình phục hoàn toàn].
Trong một cuộc phỏng vấn của truyền thông sau khi được thả tự do, người ta hỏi sức mạnh bí mật nào đã giữ ngài sống sót và lành lặn. Câu trả lời của ngài luôn là: “Phép Thánh Thể”. Ngài giải thích lúc bị bắt, ngài phải rời nhà ngay tức khắc, đi tay không. Hôm sau, ngài được phép viết thư cho giáo hữu để xin một vài vật dụng cá nhân. Ngài viết: “Xin gửi cho tôi một chút rượu nho để trị bệnh đau bao tử”. Giáo hữu hiểu ngay lập tức. Mấy hôm sau, các vệ binh trao cho ngài một chiếc lọ nhỏ đề gửi cho ngài với hàng chữ “Thuốc đau bao tử”. Ngài cũng nhận được một hộp nhỏ nữa chứa những miếng nhỏ Mình Thánh.
Với ba giọt rượu nho và một giọt nước trên lòng bàn tay, ngài đã cử hành Thánh Lễ. “Mỗi lần cử hành Thánh Lễ, tôi có dịp được dang đôi tay và đóng đinh mình vào thánh giá với Chúa Giêsu, được uống chén đắng với Người” (Chứng Nhân Hy Vọng). Và đó là những Thánh Lễ đẹp nhất đời ngài.
Trong Chứng Nhân Hy Vọng, ngài tiếp tục cho hay: “trong trại cải tạo, chúng tôi được chia thành nhóm, mỗi nhóm 50 tù nhân. Chúng tôi ngủ trên một chiếc giường chung, và ai cũng được hưởng một khoảng 50 cm. Chúng tôi ráng sắp xếp để chung quanh tôi luôn có người Công Giáo. Lúc 9 giờ 30 tối, chúng tôi phải tắt hết đèn. Chính đó là lúc tôi cúi mình trên giường để cử hành thuộc lòng Thánh Lễ, rồi phân phối Mình Thánh bằng cách luồn tay dưới chiếc màn muỗi. Chúng tôi còn dùng giấy bạc lấy từ bao thuốc lá chế ra những chiếc hộp nhỏ để giữ Mình Thánh và đưa cho nhiều người khác. Chúa Giêsu Thánh Thể luôn hiện diện trong túi áo sơ-mi của tôi”.
Ngài luôn kết thúc các lá thư vụng trộm gửi cho cha mẹ con bằng những lời này: “Ba má thân yêu, ba má đừng quá đau lòng. Mỗi ngày con đều được kết hợp với Giáo Hội Hoàn Vũ và lễ hy sinh của Chúa Giêsu. Ba má hãy cầu nguyện để con có can đảm và sức mạnh luôn trung thành với Giáo Hội và Phúc Âm, và với ý Chúa”.
(còn tiếp)
Quebec City, 19 tháng Sáu, 2008 (Zenit.org).- Sau đây là bài tham luận cô Elizabeth Nguyễn Thị Thu Hồng, em gái út của Đức Hồng Y quá cố Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đọc hôm nay tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49 kéo dài đến tận Chúa Nhật này tại Quebec.
Thánh Thể, Sự Sống Chúa Kitô trong cuộc sống ta
Kính thưa các Đức Hồng Y,
Kính thưa các Đức Cha,
Kính thưa các cha, các sư huynh, các nữ tu, và các bạn thên mến,
Con cảm thấy hết sức đặc ân và vinh dự được Đức Hồng Y Ouellet mời hiện diện tại đây trong Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49 này, và được dịp chia sẻ với qúy ngài và qúy bạn sứ điệp tin và sùng kính Phép Thánh Thể cũng như các biến đổi lạ lùng do Phép Thánh Thể đem đến trong những ngày đen tối nơi nhà tù của người anh quá cố của con là Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Để lượng giá và hiểu rõ hơn niềm tin và cam kết sâu sắc của ngài đối với Bí Tích Cực Thánh này, con xin bắt đầu vắn tắt phác thảo một vài cột mốc quan trọng trong cuộc đời của ngài. Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được thụ phong linh mục năm 1953, và thụ phong giám mục năm 1967, lúc 39 tuổi. Chín năm sau, ngay trước khi chế độ cộng sản chiếm Nam Việt Nam vào năm 1975, Đức Thánh Cha Phaolô VI cử ngài làm Phó Tổng Giám Mục Sài Gòn, mà gần vào khoảng thời gian ấy đã được đặt tên lại là Thành Phố Hồ Chí Minh. Việc cử nhiệm mới của Phanxicô đã bị tân chính phủ bác bỏ và vào ngày 15 tháng Tám năm 1975, đúng ngày Lễ Đức Mẹ Mông Triệu, ngài bị bắt và phải sống suốt 13 năm sau đó trong tù, trong đó, hết 9 năm bị biệt giam.
Được trang bị một đức tin vững mạnh và luôn kết hiệp với Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể, ngài biến những năm tù đầy này thành một cuộc hành trình tiến về sự thánh thiện. Ngài đã đem sứ điệp của Chúa Kitô vào đêm đen cuộc sống trong tù. Lúc 61 tuổi, được thả tự do, trước tiên ngài được cử nhiệm làm Phó Chủ Tịch năm 1994, rồi Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hoà Bình năm 1998. Sua đó, ngài được chẩn đoán mắc hình thức ung thư dạ dầy rất hiếm và đã đến thời kỳ cuối cùng, nhưng một lần nữa, cũng như nhiều dịp khác trước đây, và cho đến tận cùng, ngài đã chịu đựng và chấp nhận cơn bệnh của mình trong sự hiệp nhất với Chúa Giêsu trên Thánh Giá vì Sự Hiệp Nhất của Giáo Hội.
Ngày 16 tháng Chín năm 2007, nhân kỷ niệm năm thứ năm ngày ngài qua đời, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chính thức mở hồ sơ phong á thánh cho ngài.
Phép Thánh Thể, Sự Sống Cho Thế Gian
Qua các trước tác của ngài, và nhất là qua các thư từ viết từ nhà tù của ngài, một sự kiện rõ ràng đã xuất hiện: cuộc sống của Phanxicô Xaviê đã bắt rễ rất vững chãi trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa Hằng Sống qua Phép Thánh Thể, nguồn sức mạnh duy nhất của ngài. Đối với ngài, đó cũng là lời cầu nguyện đẹp đẽ nhất, và là cách thế tốt nhất để cám tạ và ca tụng Vinh Quang Thiên Chúa.
Mạ chúng con thường nhắc chúng con nhớ lại lúc người chị cả của người qua đời vì bệnh lao phổi ở thành phố Huế, Việt Nam. Thời ấy, bệnh lao phổi được coi là bệnh hết sức nguy hiểm và là bệnh hay lây, lúc ấy không có thuốc chữa, vì thế khó mà kiếm được cậu giúp lễ để giúp cha xứ ban Mình Thánh cho bà bác con. Thế là Phanxicô tình nguyện tháp tùng vị linh mục già yếu trong các lần ngài đi thăm bà bác con, chân đất, mỗi ngày sau khi đi học về, cho đến ngày bà bác con qua đời. Được hỏi về việc ấy, anh con giải thích lòng sùng kính sâu xa của anh cho bà bác con, bằng cách trích câu của Thánh Gioan: “Nếu các con không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các con sẽ không có Sự Sống trong các con”.
Niềm tin không lay chuyển vào Phép Thánh Thể ấy luôn là sức mạnh chỉ đường trong cuộc sống của ngài, là sức lực và là của dưỡng nuôi cho cuộc hành trình dài trong lao tù của ngài. [Đúng như cha mẹ con từng sợ trước đây, Phanxicô cuối cùng đã mắc chứng bệnh và phải sống một thời gian dài trong bệnh viện vì các chứng nhiễm trùng. Nhiều thử nghiệm liên tiếp đã tái xác nhận bệnh lao nặng, cần phải giải phẫu phổi mà nếu thành công cũng sẽ khiến ngài vĩnh viễn mất năng lực. Tuy nhiênm như một phép lạ, anh con đã sống thoát, và bình phục hoàn toàn].
Trong một cuộc phỏng vấn của truyền thông sau khi được thả tự do, người ta hỏi sức mạnh bí mật nào đã giữ ngài sống sót và lành lặn. Câu trả lời của ngài luôn là: “Phép Thánh Thể”. Ngài giải thích lúc bị bắt, ngài phải rời nhà ngay tức khắc, đi tay không. Hôm sau, ngài được phép viết thư cho giáo hữu để xin một vài vật dụng cá nhân. Ngài viết: “Xin gửi cho tôi một chút rượu nho để trị bệnh đau bao tử”. Giáo hữu hiểu ngay lập tức. Mấy hôm sau, các vệ binh trao cho ngài một chiếc lọ nhỏ đề gửi cho ngài với hàng chữ “Thuốc đau bao tử”. Ngài cũng nhận được một hộp nhỏ nữa chứa những miếng nhỏ Mình Thánh.
Với ba giọt rượu nho và một giọt nước trên lòng bàn tay, ngài đã cử hành Thánh Lễ. “Mỗi lần cử hành Thánh Lễ, tôi có dịp được dang đôi tay và đóng đinh mình vào thánh giá với Chúa Giêsu, được uống chén đắng với Người” (Chứng Nhân Hy Vọng). Và đó là những Thánh Lễ đẹp nhất đời ngài.
Trong Chứng Nhân Hy Vọng, ngài tiếp tục cho hay: “trong trại cải tạo, chúng tôi được chia thành nhóm, mỗi nhóm 50 tù nhân. Chúng tôi ngủ trên một chiếc giường chung, và ai cũng được hưởng một khoảng 50 cm. Chúng tôi ráng sắp xếp để chung quanh tôi luôn có người Công Giáo. Lúc 9 giờ 30 tối, chúng tôi phải tắt hết đèn. Chính đó là lúc tôi cúi mình trên giường để cử hành thuộc lòng Thánh Lễ, rồi phân phối Mình Thánh bằng cách luồn tay dưới chiếc màn muỗi. Chúng tôi còn dùng giấy bạc lấy từ bao thuốc lá chế ra những chiếc hộp nhỏ để giữ Mình Thánh và đưa cho nhiều người khác. Chúa Giêsu Thánh Thể luôn hiện diện trong túi áo sơ-mi của tôi”.
Ngài luôn kết thúc các lá thư vụng trộm gửi cho cha mẹ con bằng những lời này: “Ba má thân yêu, ba má đừng quá đau lòng. Mỗi ngày con đều được kết hợp với Giáo Hội Hoàn Vũ và lễ hy sinh của Chúa Giêsu. Ba má hãy cầu nguyện để con có can đảm và sức mạnh luôn trung thành với Giáo Hội và Phúc Âm, và với ý Chúa”.
(còn tiếp)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hành Hương Mẹ La Vang Hoa Thịnh Đốn
Bùi Hữu Thư
06:34 20/06/2008
Hành Hương Mẹ La Vang Hoa Thịnh Đốn
Hoa Thịnh Đốn: ngày 20/6/2008 – Ngay từ ngày thứ ba 17 tháng 6 đã có nhiều cá nhân và phái đoàn đến vùng thủ đô để chuẩn bị tham gia Hành Hương Mẹ La Vang 2008. Một bữa tiệc tối thứ ba đã được tổ chức tại Nhà Hàng Phú Ký bên Virginia để tiếp đãi các cha, thầy sơ, và đại biểu. Ngày thứ tư 18/6/2008, con số các tham dự viên đến đông hơn, Ban Tổ Chức đã chia nhau đi đón mọi người từ phi trường và đưa về giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Arlington và các tư gia để tạm trú. Một số nhỏ đã vào được Đại Học Xá của Trinity University để nhận phòng qua Security Office. Buổi tối hôm ấy giáo xứ CTTĐ đã tiếp đãi Ban Chấp Hành Liên Đoàn, gồm cha Chủ Tịch Nguyễn Thanh Liêm, các cha Chủ Tịch Miền, các sơ và cha Giám Đốc Vietcatholic Trên Công Nghị.
Các anh em Liên Minh Thánh Tâm và một số thiện nguyện viên đã trang hoàng mặt tiền Vương Cung Thánh Đường bằng các lá cờ ngũ hành có thánh giá ở giữa. Các biểu ngữ cũng được treo và hệ thống âm thanh để rước kiệu cũng đã được anh Đinh Minh Tiến trang trí. Âm thanh bên trong nhà thờ cũng được anh Nguyễn Mạnh Hùng Karaoke lo liệu. Cỗ kiệu Đức Mẹ sơn son thếp vàng được Đức Ông Phạm Xuân Thắng cho sửa sang và ông chủ tịch giáo xứ Thánh Tử Đạo Richmond đã đích thân chở lên từ thứ ba. Xe van và xe truck của giáo xứ được tận dụng để chở kiệu, sách kỷ yếu, các túi hành hương, mũ Ave Maria và cờ Đức Mẹ lên Vương Cung Thánh Đường. Các thiện nguyện viên rất vất vả di chuyển tất cả các vật dụng nói trên từ Virginia lên DC.
Ngày thứ năm 19/6/08, ngay từ 1 giờ chiều các phái đoàn đã đặt phòng tại Trinity University đã đến nhận phòng. Các em Thanh Sinh Công giáo xứ Các Thánh Tử Đaọ Việt Nam Arlington đã lo việc này cùng với ban giám đốc Đại Học, và việc này được tiếp tục thực hiện cho đến 10 giờ tối. Sau đó các chìa khoá phải trả về Security Office nên lúc 11 giờ đêm có hai gia đình không được nhận phòng. Tất cả 100 phòng đôi tại đây đã được sử dụng hết.
Việc ghi danh tại Crypt Chucrh bắt đầu lúc 3 giờ chiều với sự giúp đỡ của các thiện nguyện viên. Cha chủ tịch Liên Đoàn đã long trong tuyên bố khai mạc cuộc hành hương Mẹ La Vang 2008 trong thánh lễ lúc 5 giờ chiều. Cha Trưởng ban tổ chức Nguyễn Đức Vượng đã chào mừng các phái đoàn đến từ khắp nơi trên đất Mỹ: Virginia, Texas, Maryland, Georgia, Washington, Ohio, North Carolina, Arkansas, Pennsylvania, California, New Jersey, Massachusetts, Utah, Tennessee, New Hampshire, và Florida.
Ban tổ chức và Cha Holcomb giám đốc hành hương Vương Cung Thánh Đường đã chỉ ước tính có chừng 500 người tham dự thánh lễ khai mạc, do đó đã quyết định rời thánh lễ này xuống Crypt church. Nhưng số người tham dự lên đến 1,200 người và có một số người không có chỗ ngồi phải đứng. Cha chủ tế là cha chủ tịch Nguyễn Thanh Liêm, cha giảng thuyết là cha giáo Nguyễn Khắc Hy. Đồng tế có khoảng 50 linh mục, 4 thầy phó tế. Ngồi phiá dưới có khoảng 25 các nam nữ tu sĩ. Ca đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Thánh Tâm cùng ban nhạc gồm có nhiều nhạc công tí hon đã hát và trình tấu thật hay phiá sau cung thánh, dưới sự điều khiển của ca trưởng Phạm Xuân Hãn.
Thánh lễ chấm dứt lúc 7 giờ chiều, mọi người kéo xuống Cafeteria của Vương Cung Thánh Đường ăn tối rồi trở lại trên nhà thờ trên để tham dự cuộc hội thảo về Mục Vụ Gia Đình với sự trình bầy của hai cha Nguyễn Thanh Châu và Hồ Mậu. Thầy Phó tế Nguyễn Hòa Phú là điều hợp viên, và chủ tọa đoàn là quý cha và quý sơ. Buổi hội thảo chấm dứt lúc 9 giờ tối để chuyển sang giờ chầu Thánh Thể, rước kiệu Thánh Thể và kiệu Các Thánh Tử Đạo chung quanh bùng binh trước Vương Cung Thánh Đường. Đoàn kiệu được trao cho nến để thắp lên khi ra khỏi cửa. Dưới ánh nến lung linh trong màn đêm, mọi người lần hạt Mân Côi dưới sự điều khiển của các sơ MTG và các em Thiếu Nhi. Cuộc rước kiệu gợi lại hình ảnh của những cuộc rước nến vĩ đại tại Fatima hay Lộ Đức. Khi trở lại nhà thờ, chầu Thánh thể được tiếp tục với việc ban phép lành. Một số các cha giải tội cho các hối nhân ngay trong nhà thờ Sau đó Thiếu Nhi Thánh Thể đã trình diễn vở kịch Thánh Tôma Thiện thật xuất sắc cùng với sự tham gia của ban phụng vũ. Mọi người được hôn kính xương các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Các cha được mời chụp hình chung với ban kịch thánh và phụng vũ trước khi ra về lúc 10 giờ 30.
Tạ ơn Thiên Chúa đã chúc lành cho cuộc hành hương với số người tham dự đông đảo và một thời tiết thật đẹp. Đặc biệt là đã cho mọi người một ngày đẹp trời không nóng không mưa. Hai tuần trước tại thủ đô sức nóng lên tới 97 độ F và tuần vừa qua, nhiều cơn giông bão làm đổ cây xập nhà, chết người và làm cho hàng trăm ngàn gia đình không có điện trên 24 giờ.
Mọi người trông đợi hai ngày kế tiếp là thứ sáu và thứ bẩy.
Cha Nguyễn Thanh Châu ghi danh sớm với ban giám đốc tại Kerby Hall |
Bác Sĩ Cảnh ghi danh nhận phòng với Thanh Sinh Công |
Thầy Đức ghi danh tại Crypt Church và nhận kỷ yếu |
Thầy Phú và anh Kiếm đang khiêng các thùng kỷ yếu |
Ca Đoàn và Ban Nhạc TNTT Thánh Tâm |
Cha chủ tế và các thầy phó tế |
Cha Vượng chào mừng |
Các nhạc công tí hon |
Cha Nguyễn Khắc Hy giảng thuyết |
Giáo dân trong Crypt church |
Ban phụng vũ Thiếu Nhi |
Phát sách kỷ yếu, túi và nón Ave Maria |
Hội thảo với cha Nguyễn Thanh Châu, Hồ Mậu và chủ tọa đoàn |
Phụng Vũ Thiếu Nhi |
Rước đèn cầy |
Ba Ngự Lâm Pháo Thủ LMTT |
Hiệp Sĩ Đoàn dàn chào |
Kịch Thánh Tôma Thiện |
Ban Kịch và Ban Vũ chụp hình chung với các cha |
Sinh viên Huế đối mặt với phòng trọ khi hè về
Nguyễn Đông
14:59 20/06/2008
HUẾ - Nhiệt độ tăng, đến các giảng đường vấn đề phòng trọ bỗng được các sinh viên bàn luận sôi nổi.
Khổ càng thêm khổ.
Giá cả tăng vọt, không ít sinh viên đã nghĩ đến việc dọn về sống chung để giảm tiền thuê phòng. Cứ thế, phòng thêm người và cả vật dụng cá nhân cũng thêm theo. Đã chật nay càng thêm chật, hầu hết các phòng dành cho sinh viên thuê đều khoảng 6-10 m2, thế mà bao nhiêu đồ đạc đều bị bó gọn trong số không gian ít ỏi đó. "Bây chừ muốn mua thêm đồ tụi mình cũng phải tính xem có đủ chỗ để mới dám mua"- Huệ, Đại học Ngoại ngữ Huế kể. Còn với cái lắc đầu ngao ngán khi cầm chìa khoá mở phòng trọ - Châu. ĐH nghệ thuật tâm sự: "Nhiệt độ tăng mọi thứ đều như bốc hơi, đi học từ trường về mồ hôi nhẽ nhại lại phải đối mặt với phòng trọ nóng như "lò nung" ". Điều đáng nói ở đây là các phòng trọ phần lớn lợp bằng mái tôn nên độ hấp nhiệt cao, lại khó thoát nhiệt vì xây khép kín nên nhiệt độ giữa trong phòng và ngoài trời không chênh lệch nhau là mấy. Sương Lớp tin k31 Đại học Khoa học Huế phàn nàn: " Phòng của mình nóng quá không mần răng chịu được". Còn Nga, trọ tại số 13 Trần Quang Khải than: "Phòng tụi mình không có cửa thông gió, ban ngày cũng phải bật điện nên không khác nào cái lò vi sóng".
Nhiều bạn sinh viên may mắn thuê được những phòng có lớp xốp lót trần nên phần nào "thoát" được cái nóng. Phương, quê Quảng Ninh đã không ngớt kể về căn phòng của mình với bạn bè trong tiếng cười.
Cảnh sống giữa thành phố đông đúc chật chội quả thực đã quá lạ lẫm với những sinh viên ban đầu xa nhà. "ráng chịu vậy mong sao cho mau qua mùa hè"- một bạn sinh viên thở dài.
Giải pháp tạm bợ
Để chống lại cái nóng các sinh viên đã không ngừng tìm tòi những giải pháp. Đức Hùng lớp Báo chí k31 trường ĐH Khoa học Huế thấy tương đối ổn với việc nhúng giẻ ướt rồi lau lên nền nhà. Hùng giải thích:" lau như thế nền nhà sẽ hút bớt khí nóng từ trên trần xuống". Vất vả hơn với phòng trọ mái tôn Công Mạo –ĐH Khoa học kể: "cứ 23 giờ tụi mình lại múc nước té lên trên mái, nhờ thế mới có thể ngủ qua đêm được." Có vẻ hiện đại hơn Minh Hiển - Quảng Trị lại hạ nhiệt bằng cách xả nước ra các thau rồi đem đặt dưới gầm giường. Hiển tâm đắc: " hơi nước từ dưới bốc lên nên ngủ nghỉ đỡ cực hơn."
Nhiều bạn lại dùng phương pháp kết hợp, đặt thau nước lên bàn rồi bật quạt cho hơi nước tạt vào … Nhưng với tất cả phương pháp tạm bợ đó cũng chỉ đỡ được phần nào, mùa hè mới chỉ có bắt đầu, liệu đó có phải những phương án lâu dài không? Nhiều bạn sinh viên đã không ngần ngại cầm số tiền dành dụm cả tháng trời đi mua một chiếc quạt mới toanh để " đầu tư lâu dài" cho "chiến dịch mùa hè".
Nguy cơ tăng tiền điện nước.
Để đáp ứng nhu cầu hạ nhiệt, hầu hết các sinh viên đều cho quạt máy hoạt động hết công suất, có khi cả ngày lẫn đêm quạt vẫn không ngừng quay. "Biết tiền điện, nước tăng nhưng không thể hoãn cái sự sung sướng ấy lại được"- Phúc lớp Y41 ĐH Y dược Huế nói. Trên khuôn mặt bần thần khi nghĩ đến khoản tiền điện nước sắp phải chi trả, Quỳnh - Đại học Ngoại Ngữ tâm sự: "Mình cũng lo, cuối tháng lại vài chục tiền điện, nước chứ chẳng chơi. Biết vậy nhưng làm thế nào được !"
Khổ càng thêm khổ.
Giá cả tăng vọt, không ít sinh viên đã nghĩ đến việc dọn về sống chung để giảm tiền thuê phòng. Cứ thế, phòng thêm người và cả vật dụng cá nhân cũng thêm theo. Đã chật nay càng thêm chật, hầu hết các phòng dành cho sinh viên thuê đều khoảng 6-10 m2, thế mà bao nhiêu đồ đạc đều bị bó gọn trong số không gian ít ỏi đó. "Bây chừ muốn mua thêm đồ tụi mình cũng phải tính xem có đủ chỗ để mới dám mua"- Huệ, Đại học Ngoại ngữ Huế kể. Còn với cái lắc đầu ngao ngán khi cầm chìa khoá mở phòng trọ - Châu. ĐH nghệ thuật tâm sự: "Nhiệt độ tăng mọi thứ đều như bốc hơi, đi học từ trường về mồ hôi nhẽ nhại lại phải đối mặt với phòng trọ nóng như "lò nung" ". Điều đáng nói ở đây là các phòng trọ phần lớn lợp bằng mái tôn nên độ hấp nhiệt cao, lại khó thoát nhiệt vì xây khép kín nên nhiệt độ giữa trong phòng và ngoài trời không chênh lệch nhau là mấy. Sương Lớp tin k31 Đại học Khoa học Huế phàn nàn: " Phòng của mình nóng quá không mần răng chịu được". Còn Nga, trọ tại số 13 Trần Quang Khải than: "Phòng tụi mình không có cửa thông gió, ban ngày cũng phải bật điện nên không khác nào cái lò vi sóng".
Nhiều bạn sinh viên may mắn thuê được những phòng có lớp xốp lót trần nên phần nào "thoát" được cái nóng. Phương, quê Quảng Ninh đã không ngớt kể về căn phòng của mình với bạn bè trong tiếng cười.
Cảnh sống giữa thành phố đông đúc chật chội quả thực đã quá lạ lẫm với những sinh viên ban đầu xa nhà. "ráng chịu vậy mong sao cho mau qua mùa hè"- một bạn sinh viên thở dài.
Giải pháp tạm bợ
Để chống lại cái nóng các sinh viên đã không ngừng tìm tòi những giải pháp. Đức Hùng lớp Báo chí k31 trường ĐH Khoa học Huế thấy tương đối ổn với việc nhúng giẻ ướt rồi lau lên nền nhà. Hùng giải thích:" lau như thế nền nhà sẽ hút bớt khí nóng từ trên trần xuống". Vất vả hơn với phòng trọ mái tôn Công Mạo –ĐH Khoa học kể: "cứ 23 giờ tụi mình lại múc nước té lên trên mái, nhờ thế mới có thể ngủ qua đêm được." Có vẻ hiện đại hơn Minh Hiển - Quảng Trị lại hạ nhiệt bằng cách xả nước ra các thau rồi đem đặt dưới gầm giường. Hiển tâm đắc: " hơi nước từ dưới bốc lên nên ngủ nghỉ đỡ cực hơn."
Nhiều bạn lại dùng phương pháp kết hợp, đặt thau nước lên bàn rồi bật quạt cho hơi nước tạt vào … Nhưng với tất cả phương pháp tạm bợ đó cũng chỉ đỡ được phần nào, mùa hè mới chỉ có bắt đầu, liệu đó có phải những phương án lâu dài không? Nhiều bạn sinh viên đã không ngần ngại cầm số tiền dành dụm cả tháng trời đi mua một chiếc quạt mới toanh để " đầu tư lâu dài" cho "chiến dịch mùa hè".
Nguy cơ tăng tiền điện nước.
Để đáp ứng nhu cầu hạ nhiệt, hầu hết các sinh viên đều cho quạt máy hoạt động hết công suất, có khi cả ngày lẫn đêm quạt vẫn không ngừng quay. "Biết tiền điện, nước tăng nhưng không thể hoãn cái sự sung sướng ấy lại được"- Phúc lớp Y41 ĐH Y dược Huế nói. Trên khuôn mặt bần thần khi nghĩ đến khoản tiền điện nước sắp phải chi trả, Quỳnh - Đại học Ngoại Ngữ tâm sự: "Mình cũng lo, cuối tháng lại vài chục tiền điện, nước chứ chẳng chơi. Biết vậy nhưng làm thế nào được !"
Lời chứng tại chỗ về “Sự Lạ La Vang” lúc 09 giờ 40 phút ngày 13/6/2008
LM Nguyễn Vinh Gioang
15:31 20/06/2008
Lời chứng tại chỗ về “Sự Lạ La Vang” lúc 09 giờ 40 phút ngày 13/6/2008
HUẾ - Tôi là linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang, thuộc Tổng Giáo Phận Huế, hiện đang làm quản xứ giáo xứ Diên Sanh, cách La Vang tám cây số về hướng Nam. Tôi đã từng coi sóc Thánh Địa La Vang từ năm 1975 đến năm 1995.
Tôi xin tường thuật “Sự Lạ La Vang” với tất cả sự thành thật của tôi trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Đức Mẹ Maria La Vang.
Lúc đó là 09 giờ 40 phút, sáng ngày 13 tháng 6 năm 2008, tại Thánh Địa La Vang, tôi đang ngồi ngay sau Linh Đài Đức Mẹ La Vang (sau Ba Cây Đa) để ghi tốc ký những gì Đức ông Pietro Parolin đang nói trong Thánh Lễ ở Linh Đài.
Trong khi đang cúi đầu ghi câu “gió mát hài hoà…”, tôi nghe xôn xao rộn ràng quanh tôi và trước mặt tôi. Tôi nghe từ phía Linh Đài có tiếng nói: “Ai thả bong bóng lên trời vậy?”
Tôi vội ngước mắt nhìn lên vì lúc đó tôi đang cúi đầu viết… Tôi sửng sốt vì thấy mọi người không còn nghe Đức ông Parolin giảng, mà ai ai cũng lấy tay che mắt để nhìn lên trời cao cho rõ.
Tôi nhìn các linh mục đồng tế: các ngài cũng đang nhìn lên trời cao.
Tôi nhìn các nam nữ tu sĩ đang có mặt ở bên hữu Linh Đài: họ cũng đang nhìn lên trời cao.
Tôi nhìn các thành viên trong Hội Hát đang đứng bên tả Linh Đài: họ cũng đang nhìn lên trời cao.
Nhìn xuống, tôi thấy toàn thể giáo dân hành hương cũng đang nhìn lên trời cao.
Tôi nghe rõ những tiếng rộn ràng vang lên khắp nơi trong Thánh Địa La Vang: nào là: “Sự lạ! Sự lạ!”, nào là “Lạy Mẹ, Lạy Mẹ!”, nào là “Đẹp quá! đẹp quá!”
Linh tính cho tôi biết rằng đang có một “sự lạ” xảy ra.
Nhìn lên trời cao, tôi thấy mặt trời đang được bao quanh bằng một vòng tròn quá lạ và quá đẹp. Tôi vội đưa ngay máy chụp hình hướng lên thẳng mặt trời và chụp bốn lần.
Tôi di chuyển đến gần những người đang nhìn lên mặt trời và chụp những bộ mặt sửng sốt và vui sướng của họ.
Nhìn lên Linh Đài, nơi đang cử hành Thánh Lễ, tôi cũng thấy Đức Giám Mục chủ tế và các Đức ông đang nhìn lên trời cao…
Trong vòng năm phút sau, mọi người được yêu cầu đừng xôn xao, và Thánh lễ được tiếp tục.
Vì chăm chú vào Thánh Lễ, tôi không để ý đến hiện tượng nầy chấm dứt thế nào.
Thánh Lễ xong, tôi vội tháp tùng Phái đoàn để ra gặp Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị.
Ngồi trong xe cùng với Đức Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Huế và Đức ông Vụ trưởng Bộ Truyền Giảng Phúc Âm cho các dân tộc, tôi cũng trao đổi với quý ngài về “sự lạ” nầy.
Sau khi về lại giáo xứ tại Diên Sanh, tôi gặp những người có đi La Vang trong ngày 13 nầy, và biết được ai ai cũng hân hoan vì Đức Mẹ đã cho họ chứng kiến một biến cố lạ tại La Vang.
Tôi điều tra kỹ để xem những ai không đi La Vang trong ngày hôm đó, hoặc lúc đó đang ở xa La Vang, chẳng hạn như ở Thừa Thiên Huế, ở những vùng tại Quảng Trị nhưng xa La Vang, trong lúc “sự lạ” xảy ra tại La Vang, thì được những câu trả lời giống nhau: họ không thấy sự gì lạ trên bầu trời dẫu lúc đó họ được những người thân ở La Vang gọi điện thoại di động đến để nói hãy ra xem bầu trời có dấu lạ, nhưng họ trả lời ngay la không thấy gì khác thường trên bầu trời lúc đó. Vi thế, tôi có thể kết luận rằng: “sự lạ” chỉ xảy ra trên bầu trời La Vang, và chỉ có những ai ở La Vang lúc đó mới thấy được “sự lạ” nầy.
Lòng tôi tự nhiên suy nghĩ rằng: ngày 13 là ngày nhắc nhở đến sự lạ mặt trời xảy ra tại Fatima. Thế là trí tôi liên tưởng ngay đến “sự lạ Fatima” và “sự lạ La Vang”: hai sự lạ nầy có điểm giống nhau vì hai sự lạ nầy đều có liên quan đến mặt trời.
Hiện nay, theo chủ quan của tôi, tôi nghĩ rằng tôi được Đức Mẹ La Vang cho tôi nghĩ đến một điều mà tôi cảm nghiệm đúng với lòng tôi mong ước….
Nhưng điều quan trọng nhất hiện nay của tôi, cũng như của tất cả mọi người con của Chúa và của Mẹ Maria La Vang, là lo ăn năn đền tội, lo cải thiện đời sống, chuyên cần chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể và đặt hết lòng tin tưởng vào tình yêu mẫu tử vô bờ vô bến của Đức Mẹ đối với tất cả mọi người nói chung, và đặc biệt nói riêng, đối với đồng bào Việt Nam yêu quý của chúng ta tại Quê Nhà cũng như đang sống ở Hải Ngoại, trên khắp năm châu bốn bể.
Diên Sanh, ngày 17 tháng 6 năm 2008
(một trong những người chứng kiến “Sự Lạ La Vang” tại chỗ, vào lúc 09 giờ 40 phút ngày thứ sáu, 13 tháng 6 năm 2006)
HUẾ - Tôi là linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang, thuộc Tổng Giáo Phận Huế, hiện đang làm quản xứ giáo xứ Diên Sanh, cách La Vang tám cây số về hướng Nam. Tôi đã từng coi sóc Thánh Địa La Vang từ năm 1975 đến năm 1995.
Tôi xin tường thuật “Sự Lạ La Vang” với tất cả sự thành thật của tôi trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Đức Mẹ Maria La Vang.
Lúc đó là 09 giờ 40 phút, sáng ngày 13 tháng 6 năm 2008, tại Thánh Địa La Vang, tôi đang ngồi ngay sau Linh Đài Đức Mẹ La Vang (sau Ba Cây Đa) để ghi tốc ký những gì Đức ông Pietro Parolin đang nói trong Thánh Lễ ở Linh Đài.
Trong khi đang cúi đầu ghi câu “gió mát hài hoà…”, tôi nghe xôn xao rộn ràng quanh tôi và trước mặt tôi. Tôi nghe từ phía Linh Đài có tiếng nói: “Ai thả bong bóng lên trời vậy?”
Tôi vội ngước mắt nhìn lên vì lúc đó tôi đang cúi đầu viết… Tôi sửng sốt vì thấy mọi người không còn nghe Đức ông Parolin giảng, mà ai ai cũng lấy tay che mắt để nhìn lên trời cao cho rõ.
Tôi nhìn các linh mục đồng tế: các ngài cũng đang nhìn lên trời cao.
Tôi nhìn các nam nữ tu sĩ đang có mặt ở bên hữu Linh Đài: họ cũng đang nhìn lên trời cao.
Tôi nhìn các thành viên trong Hội Hát đang đứng bên tả Linh Đài: họ cũng đang nhìn lên trời cao.
Nhìn xuống, tôi thấy toàn thể giáo dân hành hương cũng đang nhìn lên trời cao.
Tôi nghe rõ những tiếng rộn ràng vang lên khắp nơi trong Thánh Địa La Vang: nào là: “Sự lạ! Sự lạ!”, nào là “Lạy Mẹ, Lạy Mẹ!”, nào là “Đẹp quá! đẹp quá!”
Linh tính cho tôi biết rằng đang có một “sự lạ” xảy ra.
Nhìn lên trời cao, tôi thấy mặt trời đang được bao quanh bằng một vòng tròn quá lạ và quá đẹp. Tôi vội đưa ngay máy chụp hình hướng lên thẳng mặt trời và chụp bốn lần.
Tôi di chuyển đến gần những người đang nhìn lên mặt trời và chụp những bộ mặt sửng sốt và vui sướng của họ.
Nhìn lên Linh Đài, nơi đang cử hành Thánh Lễ, tôi cũng thấy Đức Giám Mục chủ tế và các Đức ông đang nhìn lên trời cao…
Trong vòng năm phút sau, mọi người được yêu cầu đừng xôn xao, và Thánh lễ được tiếp tục.
Vì chăm chú vào Thánh Lễ, tôi không để ý đến hiện tượng nầy chấm dứt thế nào.
Thánh Lễ xong, tôi vội tháp tùng Phái đoàn để ra gặp Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị.
Ngồi trong xe cùng với Đức Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Huế và Đức ông Vụ trưởng Bộ Truyền Giảng Phúc Âm cho các dân tộc, tôi cũng trao đổi với quý ngài về “sự lạ” nầy.
Sau khi về lại giáo xứ tại Diên Sanh, tôi gặp những người có đi La Vang trong ngày 13 nầy, và biết được ai ai cũng hân hoan vì Đức Mẹ đã cho họ chứng kiến một biến cố lạ tại La Vang.
Tôi điều tra kỹ để xem những ai không đi La Vang trong ngày hôm đó, hoặc lúc đó đang ở xa La Vang, chẳng hạn như ở Thừa Thiên Huế, ở những vùng tại Quảng Trị nhưng xa La Vang, trong lúc “sự lạ” xảy ra tại La Vang, thì được những câu trả lời giống nhau: họ không thấy sự gì lạ trên bầu trời dẫu lúc đó họ được những người thân ở La Vang gọi điện thoại di động đến để nói hãy ra xem bầu trời có dấu lạ, nhưng họ trả lời ngay la không thấy gì khác thường trên bầu trời lúc đó. Vi thế, tôi có thể kết luận rằng: “sự lạ” chỉ xảy ra trên bầu trời La Vang, và chỉ có những ai ở La Vang lúc đó mới thấy được “sự lạ” nầy.
Lòng tôi tự nhiên suy nghĩ rằng: ngày 13 là ngày nhắc nhở đến sự lạ mặt trời xảy ra tại Fatima. Thế là trí tôi liên tưởng ngay đến “sự lạ Fatima” và “sự lạ La Vang”: hai sự lạ nầy có điểm giống nhau vì hai sự lạ nầy đều có liên quan đến mặt trời.
Hiện nay, theo chủ quan của tôi, tôi nghĩ rằng tôi được Đức Mẹ La Vang cho tôi nghĩ đến một điều mà tôi cảm nghiệm đúng với lòng tôi mong ước….
Nhưng điều quan trọng nhất hiện nay của tôi, cũng như của tất cả mọi người con của Chúa và của Mẹ Maria La Vang, là lo ăn năn đền tội, lo cải thiện đời sống, chuyên cần chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể và đặt hết lòng tin tưởng vào tình yêu mẫu tử vô bờ vô bến của Đức Mẹ đối với tất cả mọi người nói chung, và đặc biệt nói riêng, đối với đồng bào Việt Nam yêu quý của chúng ta tại Quê Nhà cũng như đang sống ở Hải Ngoại, trên khắp năm châu bốn bể.
Diên Sanh, ngày 17 tháng 6 năm 2008
(một trong những người chứng kiến “Sự Lạ La Vang” tại chỗ, vào lúc 09 giờ 40 phút ngày thứ sáu, 13 tháng 6 năm 2006)
Đại Hội Nhiệp Nhất IV: Huynh trưởng Giáo Lý Viên giáo phận Phan Thiết
Thanh Bình
16:28 20/06/2008
PHAN THIẾT - Như 3 năm gần đây, mỗi mùa hè lại là dịp để các Huynh Trưởng ( GLV) giáo phận Phan Thiết có điều kiện gặp gỡ, chia sẻ, huấn luyện và đặc biệt là bày tỏ tình hiệp nhất trong ơn gọi làm Huynh Trưởng với nhau, với Giáo Hội và với Chúa Giêsu Thánh Thể.
Mỗi năm 1 trong số 5 giáo hạt được chọn để đăng cai tổ chức đại hội. Năm nay, ngày 17/6/2008, hạt Phan Thiết đăng cai và giáo xứ Thanh Hải là nơi qui tụ khoảng 1.000 Huynh Trưởng ( GLV) đại diện cho 1.500 Huynh Trưởng ( GLV) thuộc Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể trong giáo phận.
Từ 8g sáng tại sân nhà thờ Thanh Hải, hầu hết các Huynh Trưởng thuộc các xứ đoàn đều có mặt. Trừ một vài xứ không thể có mặt vì những lí do riêng. Đúng 8g30 khai mạc thì đã có tới gần 1.000 Huynh Trưởng.
Sau khi tập trung ở tiền sảnh nhà thờ, cùng với các Huynh Trưổng, là Qúi Cha tuyên úy của phong trào làm nghi thức chào cờ. Cha FX. Nguyễn Quang Minh, Tổng Tuyên Uy Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể của Giáo Phận đã chào mừng, ban huấn từ và tuyên bố khai mạc ngày ĐẠI HỘI HIỆP NHẤT IV - HUYNH TRƯỞNG ( Giáo Lý Viên)- GIÁO PHẬN PHAN THIẾT (17.6.2008). với chủ đề: TRAU DỒI ĐỨC TIN KITÔ GIÁO.
Sau đó, các Huynh Trưởng sinh hoạt chung bằng các băng reo, bài hát, trò chơi thật vui nhộn, lành mạnh.
Thánh lễ được cử hành lúc 10g. Đức Ông J.B. Lê Xuân Hoa, Tổng Đại Diện giáo phận, thay mặt Đức Giám Mục chủ sự Thánh Lễ đồng tế cùng với 2 Cha Hạt Trưởng Phan Thiết và Hàm Thuận Nam. Cha Giám Đốc Chủng Viện thánh Nicolas giảng lễ, Cha Quản Lý Toà Giám Mục, Quí Cha xứ và các Cha Tổng Tuyên Uý và Tuyên Uy Phong Trào TNTT. Giáo phận.
Đức Giám Mục Giáo Phận bận công tác mục vu, nhưng Ngài vẫn luôn quan tâm tới Phong Trào TNTT, nên Ngài đã hỗ trợ 12.000.000$ cho ngày Đại Hội. Số còn lại, mỗi Huynh Trưởng đóng 20.000$. Các Cha Tuyên Uy cũng hỗ trợ một phần.
Xoay quanh chủ đề: TRAU DỒI ĐỨC TIN KITÔ GIÁO, qua Thánh Lễ, các sinh hoạt, giao lưu, ăn trưa, báo cáo, văn nghệ, Chầu Mình Thánh Chúa, ăn tối.. . , các Huynh Trưởng tái khám phá ra sự hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa trong thế giới, trong cuộc sống con người, trong lịch sử Giáo Hội và nhất là trong bí tích Thánh Thể bằng chính đức tin của mình.
Sau khi bầu lại các Huynh Trưởng mới trong Ban Nghiên Huấn Giáo Phận là nghi thức bế mạc lúc 18g30. Mọi người bùi ngùi, xúc động lúc chia tay, tạm biệt nhưng luôn vững tin có Thiên Chúa cùng đồng hành, có Giáo Hội nâng đỡ, có anh, có chị, có em cùng chia sẻ trong ơn gọi Huynh Trưởng ( GLV), nhờ đó công việc Giáo Dục Đức Tin cho các em Thiếu Nhi sẽ ngày càng tốt đẹp như lòng Chúa mong ước.
Mỗi năm 1 trong số 5 giáo hạt được chọn để đăng cai tổ chức đại hội. Năm nay, ngày 17/6/2008, hạt Phan Thiết đăng cai và giáo xứ Thanh Hải là nơi qui tụ khoảng 1.000 Huynh Trưởng ( GLV) đại diện cho 1.500 Huynh Trưởng ( GLV) thuộc Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể trong giáo phận.
Từ 8g sáng tại sân nhà thờ Thanh Hải, hầu hết các Huynh Trưởng thuộc các xứ đoàn đều có mặt. Trừ một vài xứ không thể có mặt vì những lí do riêng. Đúng 8g30 khai mạc thì đã có tới gần 1.000 Huynh Trưởng.
Sau khi tập trung ở tiền sảnh nhà thờ, cùng với các Huynh Trưổng, là Qúi Cha tuyên úy của phong trào làm nghi thức chào cờ. Cha FX. Nguyễn Quang Minh, Tổng Tuyên Uy Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể của Giáo Phận đã chào mừng, ban huấn từ và tuyên bố khai mạc ngày ĐẠI HỘI HIỆP NHẤT IV - HUYNH TRƯỞNG ( Giáo Lý Viên)- GIÁO PHẬN PHAN THIẾT (17.6.2008). với chủ đề: TRAU DỒI ĐỨC TIN KITÔ GIÁO.
Sau đó, các Huynh Trưởng sinh hoạt chung bằng các băng reo, bài hát, trò chơi thật vui nhộn, lành mạnh.
Thánh lễ được cử hành lúc 10g. Đức Ông J.B. Lê Xuân Hoa, Tổng Đại Diện giáo phận, thay mặt Đức Giám Mục chủ sự Thánh Lễ đồng tế cùng với 2 Cha Hạt Trưởng Phan Thiết và Hàm Thuận Nam. Cha Giám Đốc Chủng Viện thánh Nicolas giảng lễ, Cha Quản Lý Toà Giám Mục, Quí Cha xứ và các Cha Tổng Tuyên Uý và Tuyên Uy Phong Trào TNTT. Giáo phận.
Đức Giám Mục Giáo Phận bận công tác mục vu, nhưng Ngài vẫn luôn quan tâm tới Phong Trào TNTT, nên Ngài đã hỗ trợ 12.000.000$ cho ngày Đại Hội. Số còn lại, mỗi Huynh Trưởng đóng 20.000$. Các Cha Tuyên Uy cũng hỗ trợ một phần.
Xoay quanh chủ đề: TRAU DỒI ĐỨC TIN KITÔ GIÁO, qua Thánh Lễ, các sinh hoạt, giao lưu, ăn trưa, báo cáo, văn nghệ, Chầu Mình Thánh Chúa, ăn tối.. . , các Huynh Trưởng tái khám phá ra sự hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa trong thế giới, trong cuộc sống con người, trong lịch sử Giáo Hội và nhất là trong bí tích Thánh Thể bằng chính đức tin của mình.
Sau khi bầu lại các Huynh Trưởng mới trong Ban Nghiên Huấn Giáo Phận là nghi thức bế mạc lúc 18g30. Mọi người bùi ngùi, xúc động lúc chia tay, tạm biệt nhưng luôn vững tin có Thiên Chúa cùng đồng hành, có Giáo Hội nâng đỡ, có anh, có chị, có em cùng chia sẻ trong ơn gọi Huynh Trưởng ( GLV), nhờ đó công việc Giáo Dục Đức Tin cho các em Thiếu Nhi sẽ ngày càng tốt đẹp như lòng Chúa mong ước.
Khai mạc Đại Hội La Vang tại Thủ Đô Hoa Kỳ: ''Là người Công giáo Việt Nam, chúng ta có bổn phận làm vinh danh dân tộc Việt qua những giá trị văn hoá, đạo đức ...''
Lm Matthew Nguyễn Khắc Hy, S.S
17:20 20/06/2008
Bài giảng dịp lễ khai mạc Hành Hương La Vang tại Washington DC. Lễ kính các thánh tử vì đạo VN dựa theo Phúc Âm thánh Gioan 17:11-19
(do LM Lm Matthew Nguyễn Khắc Hy, S.S, Dòng Xuân Bích giảng thuyết)
Kính thưa quí linh mục, tu sĩ nam nữ, quí ông bà và anh chị em, hôm nay chúng ta họp nhau kí niệm 20 năm ngày Giáo Hội phong hiển thánh cho 117 anh hùng chết vì đức tin, là cha ông chúng ta. Gương sống và máu đào của các vị là hạt giống đức tin chúng ta đang thụ hưởng ngày nay.
Tôi xin được cùng với tất cả qúi ông bà và anh chị em nhìn lại vai trò là những kitô hữu Việt Nam trong bối cảnh mừng lễ các thánh tử vì đạo hôm nay.
Bài tin mừng hôm nay kể lại, khi Chúa Giêsu biết mình sắp lìa các môn đệ, Ngài lên tiếng cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.” (Jn 17:11).
Lời cầu nguyện bao hàm hai ý tưởng: (a) xin gìn giữ các môn đệ trong danh cha, (b) và cho họ nên một như chúng ta.
Danh cha là danh gì? Thưa: Danh Chúa là Thánh, như trong kinh Magnificat Đức Maria lặp lại lời của người Do Thái: Danh Yahweh là thánh (Lev. 11:44; 1 Peter 1: 16). “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lk 1:49; Matt. 6:9; Lk. 11:2).
Trong 1 Thes khẳng định: TC là nguồn mọi sự thánh thiện (I Thess. 4:8).
Với người Do thái, sự thánh thiện của TC thể hiện qua sự trung thành của Yahweh đối với dân Người. Nói cách khác, Trung thành là hiện thực hoá căn tính Danh Thánh của Thiên Chúa Yahweh (2 Tim 2:13).
Vì thế, khi Đức Yêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha: “Lạy cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con” đồng nghĩa với “xin gìn giữ chúng để chúng biết trung thành với lời chúng đã khấn hứa.”
Là kitô hữu, ta hứa trung thành với Thiên Chúa trong đức tin, với GH và tha nhân trong đức mến.
Cha ông chúng ta, những anh hùng chết vì đạo, đã trung thành với những gì họ khấn hứa khi chịu phép rửa tội: yêu TC hết linh hồn, trí khôn, sức lực và yêu tha nhân như chính mình. Họ hiểu lời Thầy Giêsu: trò không hơn thầy, tôi tớ không hơn chủ. Vì một khi thế gian ghét thầy Giêsu thế nào thì cũng đối xử với các môn đệ như vậy.
Nhưng họ cũng thấu hiểu lời thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta hôm nay trong thư gởi giáo đoàn Roma: ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khố, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm gíao? (Rm 8:35).
Vậy điều gì làm cho cha ông chúng ta “Thánh”? Đó là sự trung thành. Trung thành với đức tin đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội.
Với chúng ta ngày nay, một trong những thách thức lớn nhất là sự trung thành trong đời sống kitô hữu. Về phương diện đức tin, chúng ta dễ dàng bỏ Thiên Chúa để theo những quyến rũ tầm thường của xác thịt, vật chất. Những đòi hỏi của luân lí kitô giáo bị coi là gay gắt, hay TC qua GH không thông cảm với con người.
Về tương quan với tha nhân, nhất là trong hôn nhân, chung thủy trọn đời bị coi là điều không thể thực hiện được, hay nếu có, thì chỉ do cưỡng chế của Giáo hội hơn là sự tự nguyện của vợ hoặc chồng.
Lời Chúa Giêsu dạy: “sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân li”, hay cha ông ta khuyên bảo: “Thế gian một vợ một chồng, không như vua bếp 2 ông 1 bà” không còn là kim chỉ nam trong đời sống.
Ta thường dạy nhau: không có cuộc hôn nhân nào xấu, chỉ có con người xấu.
Gương sống chung thủy của Phạm Công - Cúc Hoa được thay thế bằng hình ảnh của những tài tử điện ảnh, nghệ thuật coi hôn nhân là một trò chơi hơn là một giao ước: “chuyện đời vợ vợ chồng chồng, thưong nhau cũng vội dứt lòng cũng mau.” Khủng hoảng chung thủy trong đời sống hôn nhân không chỉ là vấn nạn giữa hai người mà còn ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội qua số phận con cái.
Vì thể, kỉ niệm ngày cha ông anh hùng của chúng ta được phong thánh, không gì tốt hơn là bắt chước gương sống hi sinh của các Ngài, chấp nhận thực tế đời sống với con mắt đức tin, vì “thế gian được vợ mất chồng, đâu phải như rống mà được cả đôi.”
Khi người Việt bắt đầu coi thường chữ thủy chung là lúc chúng ta không còn là “môn đệ trong danh Cha” nữa.
Thứ hai, Chúa Giêsu cầu xin cùng Chúa cha: “xin cho họ nên một như chúng ta.” (Jn 17:11).
Chúa Giêsu biết đoàn kết không chỉ là dấu của yêu thương mà còn là căn bản tôn giáo. Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa Ba ngôi: Cha – Con- Thánh Thần. Thiên Chúa của sự hợp nhất của ba cá thể riêng biệt, của Một Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa của một cộng đoàn liên kết nhau bằng tình yêu.
Là người Việt Nam chúng ta nổi tiếng cần cù, chịu khó, thành công trong nhiều phương diện. Nhưng đoàn kết vẫn là quan tâm hàng đầu của những người có trách nhiệm.
Tổ chức Liên Đoàn Công Giáo là ước vọng của những người xa quê hương, bám víu và nương tựa vào nhau để sinh tồn. Trong thời kì đầu trên đất Mĩ, con số ít ỏi của những người xa quê hương, dù là du học sinh hay tị nạn thời bấy giờ, gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt tôn giáo, không phải vì bị kì thị hay không được chấp nhận trong GH điạ phương, nhưng trở ngại ngôn ngữ không làm cho người Việt lúc đó thấu hiếu và cảm nghiệm cách sâu xa và trọn vẹn chân lí của đức tin.
Nghĩa là, đức tin chưa thực sự được sống và hiểu biết cặn kẽ.
Với thao thức sống đức tin trọn vẹn, những người Việt bấy giờ đứng lại với nhau, rồi những cộng đoàn nhỏ bé tự phát, tự sinh hoạt để được tồn tại. Đoàn kết là súc mạnh, và đoàn kết lúc này cũng là yếu tố để sinh tồn trên đất khách.
Khi những sinh hoạt cộng đoàn bắt đầu thành hình và có tố chức, tạm gọi là vững chân, sự đoàn kết không còn là trọng tâm.
Tôi không nói đến chia rẽ, vì đó là một yếu tố tiêu cực và chúng ta thường không có, nhưng nhiều khi thiếu cộng tác, thiếu hỗ trợ, thiếu khuyến khích nhau làm cho sự đoàn kết nên một của cộng đoàn bị thoái hoá.
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết,” chúng ta nghe và hiểu rõ câu châm ngôn này của mọi dân, mọi nước. Nhưng tính cục bộ và hiếu thắng của nhiều người trong chúng ta khiến tiến trình đoàn kết gặp nhiều ngăn trở. Nhiều người hay mỉa mai rằng: ở đâu có ít người Việt, ở đó có sự đoàn kết. Ở đâu có đông người Việt, ở đó có chia rẽ, cấu xé nhau.
Thật ra, đây không chỉ là tật xấu của chúng ta, mà căn tính xấu của con người nói chung. Hiểu được đời sống con người, Chúa Giêsu cầu xin với Chúa Cha: “xin cho chúng nên một như chúng ta là Một.”
Ước mong đây là thời gian mà lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được thực hiện giữa cộng đoàn Công giáo Việt Nam hải ngoại chúng ta.
Thứ ba, Chúa Giêsu tiếp tục cầu xin: “Bây giờ con đến cùng cha….Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian…” Ngài cũng nói thêm: “con không xin cha cất chúng ra khỏi thế gian nhưng gìn giữ họ khỏi ác thần” (Jn 17:14-15).
Các thánh tử vì đạo, cha ông chúng ta, là những người được Chúa Giêsu nói đến trong lời nhắc nhở này. Vì họ tin vào những gì Chúa Giêsu dạy, nên Thế gian ghét họ, và vì ghét nên đã tìm cách giết chết họ.
Từ cuối thế kỉ 18 đến đầu thế kỉ 19, hàng trăm ngàn Kitô hữu bị giết chết. Ba đời vua Minh Mang, Thiệu Trị, Tự-Ðức đều nhắm triệt tiêu Đạo Gia Tô, bị coi là Tà Đạo, trên đất Việt Nam.
Nhưng, như Chúa Giêsu đã tiên báo: “họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.” Nghĩa là, chính TC đã vinh danh những người con Việt Nam anh hùng và ban cho họ triều thiên trên trời, như Ngài đã vinh danh người con là Đức Giêsu Kitô, khi Đức Giêsu vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Và vì vâng phục tuyệt đối nên Thiên Chúa ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu thì mọi loài trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ đều phải bái quỳ và tuyên xưng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa" (Phi 2:9-11).
20 năm trước, Thiên Chúa qua Giáo Hội đã tôn vinh những người con Việt anh hùng để toàn thể giáo hội hoàn vũ kính nhớ các Ngài hằng năm vào ngày 24/11, để khi nghe tên “Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo” mọi người đều tuyên xưng: “họ là những nhân chứng của Thiên Chúa.”
Nhắc đến thử thách đau khổ, Chúa Giêsu cũng nói thêm: “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian nhưng xin gìn giữ họ khỏi ác thần.”
Rõ ràng Chúa Giêsu không muốn biến chúng ta thành những siêu nhân, sống ngoài ranh giới của người người phàm, nhưng Ngài muốn mỗi người phải tự cố gắng sống xứng đáng với ơn gọi mình.
Không phải Thiên Chúa không biết chúng ta đang chiến đấu, nhưng có ích gì nếu con người không biết được sức mình khi không có cơ hội tôi luyện. “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai” (Nguyễn Công Trứ).
Đừng xin phép lạ chỉ vì phép lạ là điều kiện để ta tin, ngược lại hãy tin thì sẽ có phép lạ. Đừng xin cất đau khổ vì đau khổ là thước đo sự trung thành. Đừng xin chết vì có thể đó là lối giải thoát dễ dàng cho những người đang phải chiến đấu. Nhưng xin tăng thêm đức tin để ta thưa “Xin Vâng” như đức Maria, như Chúa Giêsu: “xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha.”
Nói cách khác, Chúa Giêsu xin Chúa Cha để chúng ta lại trong thế gian, nhưng Ngài cũng xin Chúa Cha gìn giữ chúng ta khỏi ác thần. Vì thế, hãy trang bị một đức tin vững mạnh để chiến đấu với mọi tình huống trong cuộc sống.
Sau cùng, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian” (Jn 17:18). Đây là trọng tâm của những gì chúng ta đang cử hành.
Chúa Giêsu được sai đến thế gian để rao giảng tin mừng. Để tin mừng được mọi người biết đến mọi nơi, mọi thời, Ngài chọn các môn đệ và sai họ đi.
Chúng ta là những môn đệ, được sai đi. Công đồng Vatican II dạy: Giáo hội tự bản chất là truyền giáo, Kitô hữu tự bản chất là truyền giáo.
Là những người Công giáo Việt Nam, chúng ta không chỉ rao giáng tin mừng Đức Kitô, mà còn có bổn phận làm vinh danh dân tộc Việt qua những giá trị văn hoá, đạo đức ta đang thừa hưởng.
Giáo hội Hoa Kì, nhiều lần và nhiều cách, đã khen tặng đức tin sống động của chúng ta trong những đóng góp xây dựng Giáo hội điạ phương. Xã hội Hoa Kì cũng nhận ra và kính nễ những thành công về nhiều phương diện của người Việt cần cù, hiếu học.
Nhưng không ít những xung đột, đôi khi gây bạo động và chia rẽ trầm trọng trong cộng đoàn Công giáo Việt Nam làm nhiều vị lãnh đạo điạ phương than phiền.
Những tội ác và tệ nạn băng đảng trong các cộng đoàn Việt Nam cũng làm cho người bản xứ nghi ngờ tính hiếu hoà của người Việt.
Nói cách khác, giá trị đức tin và văn hoá của 4 từ “Công Giáo Việt Nam” là vinh dự và trách nhiệm của mỗi người chúng ta.
Lúc này là lúc chúng ta phải nhìn lại vai trò Được Sai Đi của chúng ta để cha ông, những anh hùng chết vì đức tin, hài lòng vì gia sản các Ngài để lại đang đươc chúng ta trân trọng rao giảng làm vinh danh Thiên Chúa và rạng rỡ giống Tiên Rồng.
Xin Các thánh tử vì đạo tại Việt Nam, cùng với lời cầu bầu của Mẹ La Vang, ban cho chúng ta luôn biết Trung Thành với đức tin đã lãnh nhận để được thông phần vào Danh Cha là Thánh, được đoàn kết nên một như Chuá Cha và Chúa Con là Một, được ở lại trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, không bị sa tay của ác thần, được thánh hoá trong sự thật.
Có như thế, chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, sẽ là những nhân chứng được sai đi làm rạng danh Đức Kitô trong vai trò người công giáo, và vẻ vang dân tộc trong vai trò người Việt Nam. Amen.
(do LM Lm Matthew Nguyễn Khắc Hy, S.S, Dòng Xuân Bích giảng thuyết)
Kính thưa quí linh mục, tu sĩ nam nữ, quí ông bà và anh chị em, hôm nay chúng ta họp nhau kí niệm 20 năm ngày Giáo Hội phong hiển thánh cho 117 anh hùng chết vì đức tin, là cha ông chúng ta. Gương sống và máu đào của các vị là hạt giống đức tin chúng ta đang thụ hưởng ngày nay.
Đoàn con Mẹ từ xa tiến về |
Bài tin mừng hôm nay kể lại, khi Chúa Giêsu biết mình sắp lìa các môn đệ, Ngài lên tiếng cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.” (Jn 17:11).
Lời cầu nguyện bao hàm hai ý tưởng: (a) xin gìn giữ các môn đệ trong danh cha, (b) và cho họ nên một như chúng ta.
Danh cha là danh gì? Thưa: Danh Chúa là Thánh, như trong kinh Magnificat Đức Maria lặp lại lời của người Do Thái: Danh Yahweh là thánh (Lev. 11:44; 1 Peter 1: 16). “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lk 1:49; Matt. 6:9; Lk. 11:2).
Những nụ cười rạng rỡ hân hoan |
Với người Do thái, sự thánh thiện của TC thể hiện qua sự trung thành của Yahweh đối với dân Người. Nói cách khác, Trung thành là hiện thực hoá căn tính Danh Thánh của Thiên Chúa Yahweh (2 Tim 2:13).
Vì thế, khi Đức Yêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha: “Lạy cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con” đồng nghĩa với “xin gìn giữ chúng để chúng biết trung thành với lời chúng đã khấn hứa.”
Là kitô hữu, ta hứa trung thành với Thiên Chúa trong đức tin, với GH và tha nhân trong đức mến.
Cha ông chúng ta, những anh hùng chết vì đạo, đã trung thành với những gì họ khấn hứa khi chịu phép rửa tội: yêu TC hết linh hồn, trí khôn, sức lực và yêu tha nhân như chính mình. Họ hiểu lời Thầy Giêsu: trò không hơn thầy, tôi tớ không hơn chủ. Vì một khi thế gian ghét thầy Giêsu thế nào thì cũng đối xử với các môn đệ như vậy.
Nhưng họ cũng thấu hiểu lời thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta hôm nay trong thư gởi giáo đoàn Roma: ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khố, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm gíao? (Rm 8:35).
Lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam |
Với chúng ta ngày nay, một trong những thách thức lớn nhất là sự trung thành trong đời sống kitô hữu. Về phương diện đức tin, chúng ta dễ dàng bỏ Thiên Chúa để theo những quyến rũ tầm thường của xác thịt, vật chất. Những đòi hỏi của luân lí kitô giáo bị coi là gay gắt, hay TC qua GH không thông cảm với con người.
Về tương quan với tha nhân, nhất là trong hôn nhân, chung thủy trọn đời bị coi là điều không thể thực hiện được, hay nếu có, thì chỉ do cưỡng chế của Giáo hội hơn là sự tự nguyện của vợ hoặc chồng.
Lời Chúa Giêsu dạy: “sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân li”, hay cha ông ta khuyên bảo: “Thế gian một vợ một chồng, không như vua bếp 2 ông 1 bà” không còn là kim chỉ nam trong đời sống.
Ta thường dạy nhau: không có cuộc hôn nhân nào xấu, chỉ có con người xấu.
Gương sống chung thủy của Phạm Công - Cúc Hoa được thay thế bằng hình ảnh của những tài tử điện ảnh, nghệ thuật coi hôn nhân là một trò chơi hơn là một giao ước: “chuyện đời vợ vợ chồng chồng, thưong nhau cũng vội dứt lòng cũng mau.” Khủng hoảng chung thủy trong đời sống hôn nhân không chỉ là vấn nạn giữa hai người mà còn ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội qua số phận con cái.
Vì thể, kỉ niệm ngày cha ông anh hùng của chúng ta được phong thánh, không gì tốt hơn là bắt chước gương sống hi sinh của các Ngài, chấp nhận thực tế đời sống với con mắt đức tin, vì “thế gian được vợ mất chồng, đâu phải như rống mà được cả đôi.”
Khi người Việt bắt đầu coi thường chữ thủy chung là lúc chúng ta không còn là “môn đệ trong danh Cha” nữa.
Ca đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể |
Chúa Giêsu biết đoàn kết không chỉ là dấu của yêu thương mà còn là căn bản tôn giáo. Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa Ba ngôi: Cha – Con- Thánh Thần. Thiên Chúa của sự hợp nhất của ba cá thể riêng biệt, của Một Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa của một cộng đoàn liên kết nhau bằng tình yêu.
Là người Việt Nam chúng ta nổi tiếng cần cù, chịu khó, thành công trong nhiều phương diện. Nhưng đoàn kết vẫn là quan tâm hàng đầu của những người có trách nhiệm.
Tổ chức Liên Đoàn Công Giáo là ước vọng của những người xa quê hương, bám víu và nương tựa vào nhau để sinh tồn. Trong thời kì đầu trên đất Mĩ, con số ít ỏi của những người xa quê hương, dù là du học sinh hay tị nạn thời bấy giờ, gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt tôn giáo, không phải vì bị kì thị hay không được chấp nhận trong GH điạ phương, nhưng trở ngại ngôn ngữ không làm cho người Việt lúc đó thấu hiếu và cảm nghiệm cách sâu xa và trọn vẹn chân lí của đức tin.
Nghĩa là, đức tin chưa thực sự được sống và hiểu biết cặn kẽ.
Với thao thức sống đức tin trọn vẹn, những người Việt bấy giờ đứng lại với nhau, rồi những cộng đoàn nhỏ bé tự phát, tự sinh hoạt để được tồn tại. Đoàn kết là súc mạnh, và đoàn kết lúc này cũng là yếu tố để sinh tồn trên đất khách.
Khi những sinh hoạt cộng đoàn bắt đầu thành hình và có tố chức, tạm gọi là vững chân, sự đoàn kết không còn là trọng tâm.
Tôi không nói đến chia rẽ, vì đó là một yếu tố tiêu cực và chúng ta thường không có, nhưng nhiều khi thiếu cộng tác, thiếu hỗ trợ, thiếu khuyến khích nhau làm cho sự đoàn kết nên một của cộng đoàn bị thoái hoá.
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết,” chúng ta nghe và hiểu rõ câu châm ngôn này của mọi dân, mọi nước. Nhưng tính cục bộ và hiếu thắng của nhiều người trong chúng ta khiến tiến trình đoàn kết gặp nhiều ngăn trở. Nhiều người hay mỉa mai rằng: ở đâu có ít người Việt, ở đó có sự đoàn kết. Ở đâu có đông người Việt, ở đó có chia rẽ, cấu xé nhau.
Thật ra, đây không chỉ là tật xấu của chúng ta, mà căn tính xấu của con người nói chung. Hiểu được đời sống con người, Chúa Giêsu cầu xin với Chúa Cha: “xin cho chúng nên một như chúng ta là Một.”
Ước mong đây là thời gian mà lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được thực hiện giữa cộng đoàn Công giáo Việt Nam hải ngoại chúng ta.
Thứ ba, Chúa Giêsu tiếp tục cầu xin: “Bây giờ con đến cùng cha….Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian…” Ngài cũng nói thêm: “con không xin cha cất chúng ra khỏi thế gian nhưng gìn giữ họ khỏi ác thần” (Jn 17:14-15).
Cờ ngũ đại hành ngập trời |
Từ cuối thế kỉ 18 đến đầu thế kỉ 19, hàng trăm ngàn Kitô hữu bị giết chết. Ba đời vua Minh Mang, Thiệu Trị, Tự-Ðức đều nhắm triệt tiêu Đạo Gia Tô, bị coi là Tà Đạo, trên đất Việt Nam.
Nhưng, như Chúa Giêsu đã tiên báo: “họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.” Nghĩa là, chính TC đã vinh danh những người con Việt Nam anh hùng và ban cho họ triều thiên trên trời, như Ngài đã vinh danh người con là Đức Giêsu Kitô, khi Đức Giêsu vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Và vì vâng phục tuyệt đối nên Thiên Chúa ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu thì mọi loài trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ đều phải bái quỳ và tuyên xưng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa" (Phi 2:9-11).
20 năm trước, Thiên Chúa qua Giáo Hội đã tôn vinh những người con Việt anh hùng để toàn thể giáo hội hoàn vũ kính nhớ các Ngài hằng năm vào ngày 24/11, để khi nghe tên “Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo” mọi người đều tuyên xưng: “họ là những nhân chứng của Thiên Chúa.”
Nhắc đến thử thách đau khổ, Chúa Giêsu cũng nói thêm: “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian nhưng xin gìn giữ họ khỏi ác thần.”
Rõ ràng Chúa Giêsu không muốn biến chúng ta thành những siêu nhân, sống ngoài ranh giới của người người phàm, nhưng Ngài muốn mỗi người phải tự cố gắng sống xứng đáng với ơn gọi mình.
Không phải Thiên Chúa không biết chúng ta đang chiến đấu, nhưng có ích gì nếu con người không biết được sức mình khi không có cơ hội tôi luyện. “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai” (Nguyễn Công Trứ).
Đừng xin phép lạ chỉ vì phép lạ là điều kiện để ta tin, ngược lại hãy tin thì sẽ có phép lạ. Đừng xin cất đau khổ vì đau khổ là thước đo sự trung thành. Đừng xin chết vì có thể đó là lối giải thoát dễ dàng cho những người đang phải chiến đấu. Nhưng xin tăng thêm đức tin để ta thưa “Xin Vâng” như đức Maria, như Chúa Giêsu: “xin đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha.”
Nói cách khác, Chúa Giêsu xin Chúa Cha để chúng ta lại trong thế gian, nhưng Ngài cũng xin Chúa Cha gìn giữ chúng ta khỏi ác thần. Vì thế, hãy trang bị một đức tin vững mạnh để chiến đấu với mọi tình huống trong cuộc sống.
Gia đình nào cũng muốn bức hình lưu niệm với Mẹ La Vang |
Chúa Giêsu được sai đến thế gian để rao giảng tin mừng. Để tin mừng được mọi người biết đến mọi nơi, mọi thời, Ngài chọn các môn đệ và sai họ đi.
Chúng ta là những môn đệ, được sai đi. Công đồng Vatican II dạy: Giáo hội tự bản chất là truyền giáo, Kitô hữu tự bản chất là truyền giáo.
Là những người Công giáo Việt Nam, chúng ta không chỉ rao giáng tin mừng Đức Kitô, mà còn có bổn phận làm vinh danh dân tộc Việt qua những giá trị văn hoá, đạo đức ta đang thừa hưởng.
Giáo hội Hoa Kì, nhiều lần và nhiều cách, đã khen tặng đức tin sống động của chúng ta trong những đóng góp xây dựng Giáo hội điạ phương. Xã hội Hoa Kì cũng nhận ra và kính nễ những thành công về nhiều phương diện của người Việt cần cù, hiếu học.
Nhưng không ít những xung đột, đôi khi gây bạo động và chia rẽ trầm trọng trong cộng đoàn Công giáo Việt Nam làm nhiều vị lãnh đạo điạ phương than phiền.
Những tội ác và tệ nạn băng đảng trong các cộng đoàn Việt Nam cũng làm cho người bản xứ nghi ngờ tính hiếu hoà của người Việt.
Nói cách khác, giá trị đức tin và văn hoá của 4 từ “Công Giáo Việt Nam” là vinh dự và trách nhiệm của mỗi người chúng ta.
Lúc này là lúc chúng ta phải nhìn lại vai trò Được Sai Đi của chúng ta để cha ông, những anh hùng chết vì đức tin, hài lòng vì gia sản các Ngài để lại đang đươc chúng ta trân trọng rao giảng làm vinh danh Thiên Chúa và rạng rỡ giống Tiên Rồng.
Xin Các thánh tử vì đạo tại Việt Nam, cùng với lời cầu bầu của Mẹ La Vang, ban cho chúng ta luôn biết Trung Thành với đức tin đã lãnh nhận để được thông phần vào Danh Cha là Thánh, được đoàn kết nên một như Chuá Cha và Chúa Con là Một, được ở lại trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, không bị sa tay của ác thần, được thánh hoá trong sự thật.
Có như thế, chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, sẽ là những nhân chứng được sai đi làm rạng danh Đức Kitô trong vai trò người công giáo, và vẻ vang dân tộc trong vai trò người Việt Nam. Amen.
Hành Hương La Vang DC: Tóm tắt bài chia sẻ Mục Vụ Gia Đình
Phó tế Nguyễn Hòa Phú
17:31 20/06/2008
CHIA SẺ MỤC VỤ GIA ĐÌNH, CHIỀU THỨ NĂM NGÀY 19.6.2008
(LĐCGVNHK Hành Hương Mẹ La Vang 19/6/2008 - 21/6/2008 @ Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn)
• Điều Hợp: Phó tế Nguyễn Hòa Phú, Tổng Thư Ký Liên Đoàn
• Chủ Toạ: Các Linh mục & Giáo Dân Chủ Tịch 8 Miền Hoa Kỳ
• Thuyết Trình: Lm. Hồ Sĩ Mậu, SDD & Lm. Nguyễn Thanh Châu, CT Miền Đông Nam
• Tham Luận: Sr. Nguyễn Thúy Liễu, MTG Qui Nhơn
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
ĐỀ TÀI: GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI ĐỐI DIỆN VỚI NHỮNG THÁCH ĐỐ. GIẢI PHÁP.
1. CÁC THÁCH ĐỐ
Thách đố 1: Chủ nghĩa duy lý hiện sinh
Thách đố 2: Những vấn nạn đạo đức xã hội
Thách đố 3: Cấu trúc gia đình mới
Thách đố 4: Môi trường gia đình
Thách đố 5: Lòng trung thủy trong gia đình
Thách đố 6: Sự quan tâm tới con cái bị nới lỏng
Thách đố 7: Từ chính bản thân người trẻ
2. GIẢI PHÁP
a. Bước vào đời sống hôn nhân phải là một quyết định liên quan tới SỰ THẬT và SỰ THIỆN của con người và của xã hội.
b. Xây dựng trên hôn nhân và kiến tạo một môi trường có khả năng phát triển và nuôi dưỡng phẩm chất tình yêu và sự sống, làm gia tăng các giá trị nhân bản.
c. Nơi gia đình, sự sống mới được triển nở, gia đình mang tính thánh thiêng vì là nơi phát sinh văn hòa sự sống.
3. HỘI THẢO
Trở ngại lớn nhất đối với gia đình ngày nay theo bạn là gì? Và làm gì để vượt qua trở ngại đó?
Lm. Francis Xavier Hồ Sĩ Mậu, S.D.D.
MỤC VỤ GIA ĐÌNH
Đề Tài: Kinh nghiệm mục vụ gia đình trong khung cảnh Giáo xứ.
1. Những điểm son:
Nền tảng gia đình Việt Nam
Ý thức về sự quan trọng của gia đình
Cần mẫn, hy sinh cho con cái
Sự nghiệp/tài chánh
2. Những thách đố:
Công ăn việc làm/thiếu thời gian cho con cái và cho nhau
Ngôn ngữ bất đồng: Cha mẹ vs. con cái
Tâm lý: “Đóng cửa dạy nhau”
Hôn nhân dị giáo
Về Việt Nam lập gia đình
Internet
3. Nhu cầu:
Counselors/Tâm Lý
Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình
Các khóa tĩnh tâm vợ chồng
Lm. Giuse Nguyễn Thanh Châu
CHƯƠNG TRÌNH BUỔI THUYẾT TRÌNH
1. Lời Nguyện
2. Giới thiệu thuyết trình viên
3. Bài nói của cha Hồ Mậu (15-20’)
4. Chia sẻ cảm nghiệm – Cha Châu (5-7’)
5. Chia sẻ cảm nghiệm – Sơ Liễu (5-7’)
6. Đặt câu hỏi - Thầy Phú
7. Question – Answer (chung)
(LĐCGVNHK Hành Hương Mẹ La Vang 19/6/2008 - 21/6/2008 @ Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn)
• Điều Hợp: Phó tế Nguyễn Hòa Phú, Tổng Thư Ký Liên Đoàn
• Chủ Toạ: Các Linh mục & Giáo Dân Chủ Tịch 8 Miền Hoa Kỳ
• Thuyết Trình: Lm. Hồ Sĩ Mậu, SDD & Lm. Nguyễn Thanh Châu, CT Miền Đông Nam
• Tham Luận: Sr. Nguyễn Thúy Liễu, MTG Qui Nhơn
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
ĐỀ TÀI: GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI ĐỐI DIỆN VỚI NHỮNG THÁCH ĐỐ. GIẢI PHÁP.
1. CÁC THÁCH ĐỐ
Thách đố 1: Chủ nghĩa duy lý hiện sinh
Thách đố 2: Những vấn nạn đạo đức xã hội
Thách đố 3: Cấu trúc gia đình mới
Thách đố 4: Môi trường gia đình
Thách đố 5: Lòng trung thủy trong gia đình
Thách đố 6: Sự quan tâm tới con cái bị nới lỏng
Thách đố 7: Từ chính bản thân người trẻ
2. GIẢI PHÁP
a. Bước vào đời sống hôn nhân phải là một quyết định liên quan tới SỰ THẬT và SỰ THIỆN của con người và của xã hội.
b. Xây dựng trên hôn nhân và kiến tạo một môi trường có khả năng phát triển và nuôi dưỡng phẩm chất tình yêu và sự sống, làm gia tăng các giá trị nhân bản.
c. Nơi gia đình, sự sống mới được triển nở, gia đình mang tính thánh thiêng vì là nơi phát sinh văn hòa sự sống.
3. HỘI THẢO
Trở ngại lớn nhất đối với gia đình ngày nay theo bạn là gì? Và làm gì để vượt qua trở ngại đó?
Lm. Francis Xavier Hồ Sĩ Mậu, S.D.D.
MỤC VỤ GIA ĐÌNH
Đề Tài: Kinh nghiệm mục vụ gia đình trong khung cảnh Giáo xứ.
1. Những điểm son:
Nền tảng gia đình Việt Nam
Ý thức về sự quan trọng của gia đình
Cần mẫn, hy sinh cho con cái
Sự nghiệp/tài chánh
2. Những thách đố:
Công ăn việc làm/thiếu thời gian cho con cái và cho nhau
Ngôn ngữ bất đồng: Cha mẹ vs. con cái
Tâm lý: “Đóng cửa dạy nhau”
Hôn nhân dị giáo
Về Việt Nam lập gia đình
Internet
3. Nhu cầu:
Counselors/Tâm Lý
Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình
Các khóa tĩnh tâm vợ chồng
Lm. Giuse Nguyễn Thanh Châu
CHƯƠNG TRÌNH BUỔI THUYẾT TRÌNH
1. Lời Nguyện
2. Giới thiệu thuyết trình viên
3. Bài nói của cha Hồ Mậu (15-20’)
4. Chia sẻ cảm nghiệm – Cha Châu (5-7’)
5. Chia sẻ cảm nghiệm – Sơ Liễu (5-7’)
6. Đặt câu hỏi - Thầy Phú
7. Question – Answer (chung)
Hành hương La Vang DC: Hội thảo về Vai trò làm Nhân Chứng của Giáo Dân hôm nay
Bùi Hữu Thư
17:36 20/06/2008
HỘI THẢO VAI TRÒ GIÁO DÂN, CHIỀU THỨ SÁU NGÀY 20.6.2008
(LĐCGVNHK Hành Hương Mẹ La Vang 19/6/2008 - 21/6/2008 @ Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn)
Đề tài Hội thảo:
“Vai Trò Nhân Chứng cuả Giáo dân Ngày Nay” (do Lm. Matthew Nguyễn Khắc Hy)
“Văn Hóa Gia Đình Việt Nam và Nếp Sống Xứ Đạo bên Mỹ” (do Gs. Bùi Hữu Thư)
• Điều Hợp: Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, Cộng Đồng Giáo Dân Miền Đông Nam Hoa Kỳ
• Chủ Toạ: Lm. Nguyễn Thanh Liêm, Chủ Tịch Liên Đoàn; Lm. Nguyễn Đức Vượng, OP, Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ; Sr. Phạm Thị Hằng, OP, Liên Dòng Nữ; Phó tế Nguyễn Ánh, CĐ Phó Tế Vĩnh Viễn; Ông Lê Thanh Liêm, CĐ Giáo Dân.
• Thuyết Trình: Lm. Nguyễn Khắc Hy: “Vai Trò Nhân Chứng cuả Giáo dân Ngày Nay”; Gs. Bùi Hữu Thư: “Gia Đình Sống Đạo Tại Hoa Kỳ”
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
I. Những Giá Trị Truyền Thống Văn Hóa của Gia Đình Việt Nam
1. Tôn kính sự sống
2. Tôn trọng thiên nhiên
3. Tình nhân ái
4. Lòng hiếu khách
5. Lòng hiếu thảo
6. Lòng Sùng Ðạo
7. Sự thiêng liêng của hôn nhân và gia đình
8. Đức chịu đựng
9. Tinh Thần Cầu Tiến, Trọng Giáo Dục
II. Thế Nào Là Sống Đạo?
1. Quan niệm ngày xưa
2. Quan niệm ngày nay
3. Thế Nào Là Gia Đình Sống Đạo?
4. Có Nhiều Cách Sống Đạo?
III. Nếp Sống Đạo trên Đất Mỹ.
1. Không chú ý đến việc dậy dỗ con cái về đức tin.
2. Hôn nhân lỏng lẻo dễ tan vỡ
3. Các Vai Trò Phụ Nữ Việt Nam Trong Xã Hội Mỹ
4. Tình Yêu và Đức Khiết Tịnh
IV. Gia Đình phải làm gì để duy trì tập tục tốt và đức tin trên đất Mỹ?
1. Dạy Cho Con Cái Biết Các Giá Trị Tinh Thần Trong Thế Giới Hôm Nay:
2. Ảnh Hưởng của Bạn Bè
3. Con Cái Vị Thành Niên Cần Cha Mẹ
4. Phụ Huynh Hiểu Biết Gì Về Con Cái Của Mình?
5. Sống Hòa Hợp Với Con Cái
V. Cộng Đồng Giáo Xứ phải làm gì để cải tiến nếp sống xứ đạo bên Mỹ
Kết Luận.
(LĐCGVNHK Hành Hương Mẹ La Vang 19/6/2008 - 21/6/2008 @ Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn)
Đề tài Hội thảo:
“Vai Trò Nhân Chứng cuả Giáo dân Ngày Nay” (do Lm. Matthew Nguyễn Khắc Hy)
“Văn Hóa Gia Đình Việt Nam và Nếp Sống Xứ Đạo bên Mỹ” (do Gs. Bùi Hữu Thư)
• Điều Hợp: Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, Cộng Đồng Giáo Dân Miền Đông Nam Hoa Kỳ
• Chủ Toạ: Lm. Nguyễn Thanh Liêm, Chủ Tịch Liên Đoàn; Lm. Nguyễn Đức Vượng, OP, Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ; Sr. Phạm Thị Hằng, OP, Liên Dòng Nữ; Phó tế Nguyễn Ánh, CĐ Phó Tế Vĩnh Viễn; Ông Lê Thanh Liêm, CĐ Giáo Dân.
• Thuyết Trình: Lm. Nguyễn Khắc Hy: “Vai Trò Nhân Chứng cuả Giáo dân Ngày Nay”; Gs. Bùi Hữu Thư: “Gia Đình Sống Đạo Tại Hoa Kỳ”
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
Bàn ghi danh |
1. Tôn kính sự sống
2. Tôn trọng thiên nhiên
3. Tình nhân ái
4. Lòng hiếu khách
5. Lòng hiếu thảo
6. Lòng Sùng Ðạo
7. Sự thiêng liêng của hôn nhân và gia đình
8. Đức chịu đựng
9. Tinh Thần Cầu Tiến, Trọng Giáo Dục
II. Thế Nào Là Sống Đạo?
1. Quan niệm ngày xưa
2. Quan niệm ngày nay
3. Thế Nào Là Gia Đình Sống Đạo?
4. Có Nhiều Cách Sống Đạo?
III. Nếp Sống Đạo trên Đất Mỹ.
Hiệp sĩ Đoàn Việt Nam đón tiếp |
2. Hôn nhân lỏng lẻo dễ tan vỡ
3. Các Vai Trò Phụ Nữ Việt Nam Trong Xã Hội Mỹ
4. Tình Yêu và Đức Khiết Tịnh
IV. Gia Đình phải làm gì để duy trì tập tục tốt và đức tin trên đất Mỹ?
1. Dạy Cho Con Cái Biết Các Giá Trị Tinh Thần Trong Thế Giới Hôm Nay:
2. Ảnh Hưởng của Bạn Bè
3. Con Cái Vị Thành Niên Cần Cha Mẹ
4. Phụ Huynh Hiểu Biết Gì Về Con Cái Của Mình?
5. Sống Hòa Hợp Với Con Cái
V. Cộng Đồng Giáo Xứ phải làm gì để cải tiến nếp sống xứ đạo bên Mỹ
Kết Luận.
Chương trình Hành Hương Đức Mẹ La Vang tại Thủ Đô Washington DC, Thứ Sáu, 20/6/08
Ban Tổ Chức
17:47 20/06/2008
Chương trình Hành Hương Đức Mẹ La Vang tại Thủ Đô Washington DC, Thứ Sáu, 20/6/08
Buổi sáng:
10:00am-11:45pm Thuyết Trình & Hội Thảo theo nhóm
+ Người lớn: “Giáo Dục Kitô Giáo”
• Điều Hợp: Lm Trần Công Nghị, Giám Đốc VietCatholic
• Chủ Toạ: Lm. Nguyễn Thanh Liêm, Chủ Tịch Liên Đoàn; Lm. Nguyễn Đức Vượng, OP, Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ; Sr. Phạm Thị Hằng, OP, Liên Dòng Nữ Tu; Phó tế Nguyễn Ánh, CĐ Phó Tế Vĩnh Viễn; Ông Lê Thanh Liêm, CĐ Giáo Dân.
• Thuyết Trình: Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Sài Gòn
• Tham Luận: Lm. Nguyễn Khắc Hỷ, Giáo sư Đại Chủng viện
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
+ Thanh Niên: “Giới trẻ ngày nay và những thách đố của cuộc sống”
• Điều Hợp: Lm. Ðồng Minh Quang, Ban Giới Trẻ Liên Đoàn
• Nhận định và Chia sẻ: Lm. Nguyễn Hoài Chương, Nhóm Lửa Việt 117
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
+ Thiếu Nhi: Lm. Nguyễn Bá Thông & Phong Trào TNTT điều hợp
• Nhóm 13-17 tuổi: “Got Jesus in your life?” (Sr. Đức và qúy Nữ tu MTG-LA)
• Nhóm 7-12 tuổi: “Con còn bé lắm Chúa ơi!” (Chị Mai & Anh Dương, HT/TNTT)
12:00pm Thánh Lễ Kính Thánh Quan Thầy Liên Đoàn: Phêrô & Phaolô Tông Đồ
• Chủ tế: Lm. Nguyễn Anh Tuấn, Chủ Tịch Miền Tây Bắc
• Thuyết giảng: Lm. Đinh Ngọc Quế, Chủ Tịch Miền Tây Nam
• Phụ Trách Phụng Vụ và Thánh Nhạc: Giáo Xứ Mẹ Việt Nam, Maryland
Buổi chiều:
1:15pm Ăn Trưa, tự do
3:00pm-5:00pm: Thuyết Trình & Hội Thảo theo nhóm (Memorial Hall dưới hầm)
+ Hội Thảo Người Lớn: “Vai Trò Giáo Dân Hôm Nay”
• Điều Hợp: Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, Cộng Đồng Giáo Dân Miền Đông Nam Hoa Kỳ
• Chủ Toạ: Lm. Nguyễn Thanh Liêm, Chủ Tịch Liên Đoàn; Lm. Nguyễn Đức Vượng, OP, Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ; Sr. Phạm Thị Hằng, OP, Liên Dòng Nữ; Phó tế Nguyễn Ánh, CĐ Phó Tế Vĩnh Viễn; Ông Lê Thanh Liêm, CĐ Giáo Dân.
• Thuyết Trình: Lm. Nguyễn Khắc Hy: “Vai Trò Nhân Chứng cuả Giáo dân Ngày Nay”; Gs. Bùi Hữu Thư: “Gia Đình Sống Đạo Tại Hoa Kỳ”
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
+ Giới Trẻ: “Giới trẻ ngày nay và những thách đố của cuộc sống” (tiếp theo buổi sáng)
• Điều Hợp: Lm. Ðồng Minh Quang, Ban Giới Trẻ Liên Đoàn
• Nhận định và Chia sẻ: Lm. Nguyễn Hoài Chương, Nhóm Lửa Việt 117
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
+ Thiếu Nhi 13-17 tuổi: “The GIFT of Sexuality!” do Lm. Nguyễn Bá Thông & các Bạn
+ Ca Đoàn & Nhóm Thiếu Nhi Tổng dợt Văn nghệ
5:00pm Giải Lao, chuẩn bị Trình diễn
5:30pm-7:00pm Văn Nghệ & Thánh Nhạc
7:00pm Xe bus di chuyển đưa đến nhà hàng “Thần Tài”
8:00pm Dạ Tiệc Liên Đoàn
Buổi sáng:
10:00am-11:45pm Thuyết Trình & Hội Thảo theo nhóm
+ Người lớn: “Giáo Dục Kitô Giáo”
• Điều Hợp: Lm Trần Công Nghị, Giám Đốc VietCatholic
• Chủ Toạ: Lm. Nguyễn Thanh Liêm, Chủ Tịch Liên Đoàn; Lm. Nguyễn Đức Vượng, OP, Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ; Sr. Phạm Thị Hằng, OP, Liên Dòng Nữ Tu; Phó tế Nguyễn Ánh, CĐ Phó Tế Vĩnh Viễn; Ông Lê Thanh Liêm, CĐ Giáo Dân.
• Thuyết Trình: Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Sài Gòn
• Tham Luận: Lm. Nguyễn Khắc Hỷ, Giáo sư Đại Chủng viện
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
+ Thanh Niên: “Giới trẻ ngày nay và những thách đố của cuộc sống”
• Điều Hợp: Lm. Ðồng Minh Quang, Ban Giới Trẻ Liên Đoàn
• Nhận định và Chia sẻ: Lm. Nguyễn Hoài Chương, Nhóm Lửa Việt 117
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
+ Thiếu Nhi: Lm. Nguyễn Bá Thông & Phong Trào TNTT điều hợp
• Nhóm 13-17 tuổi: “Got Jesus in your life?” (Sr. Đức và qúy Nữ tu MTG-LA)
• Nhóm 7-12 tuổi: “Con còn bé lắm Chúa ơi!” (Chị Mai & Anh Dương, HT/TNTT)
12:00pm Thánh Lễ Kính Thánh Quan Thầy Liên Đoàn: Phêrô & Phaolô Tông Đồ
• Chủ tế: Lm. Nguyễn Anh Tuấn, Chủ Tịch Miền Tây Bắc
• Thuyết giảng: Lm. Đinh Ngọc Quế, Chủ Tịch Miền Tây Nam
• Phụ Trách Phụng Vụ và Thánh Nhạc: Giáo Xứ Mẹ Việt Nam, Maryland
Buổi chiều:
1:15pm Ăn Trưa, tự do
3:00pm-5:00pm: Thuyết Trình & Hội Thảo theo nhóm (Memorial Hall dưới hầm)
+ Hội Thảo Người Lớn: “Vai Trò Giáo Dân Hôm Nay”
• Điều Hợp: Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, Cộng Đồng Giáo Dân Miền Đông Nam Hoa Kỳ
• Chủ Toạ: Lm. Nguyễn Thanh Liêm, Chủ Tịch Liên Đoàn; Lm. Nguyễn Đức Vượng, OP, Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ; Sr. Phạm Thị Hằng, OP, Liên Dòng Nữ; Phó tế Nguyễn Ánh, CĐ Phó Tế Vĩnh Viễn; Ông Lê Thanh Liêm, CĐ Giáo Dân.
• Thuyết Trình: Lm. Nguyễn Khắc Hy: “Vai Trò Nhân Chứng cuả Giáo dân Ngày Nay”; Gs. Bùi Hữu Thư: “Gia Đình Sống Đạo Tại Hoa Kỳ”
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
+ Giới Trẻ: “Giới trẻ ngày nay và những thách đố của cuộc sống” (tiếp theo buổi sáng)
• Điều Hợp: Lm. Ðồng Minh Quang, Ban Giới Trẻ Liên Đoàn
• Nhận định và Chia sẻ: Lm. Nguyễn Hoài Chương, Nhóm Lửa Việt 117
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
+ Thiếu Nhi 13-17 tuổi: “The GIFT of Sexuality!” do Lm. Nguyễn Bá Thông & các Bạn
+ Ca Đoàn & Nhóm Thiếu Nhi Tổng dợt Văn nghệ
5:00pm Giải Lao, chuẩn bị Trình diễn
5:30pm-7:00pm Văn Nghệ & Thánh Nhạc
7:00pm Xe bus di chuyển đưa đến nhà hàng “Thần Tài”
8:00pm Dạ Tiệc Liên Đoàn
1.500 giáo dân có cuộc hội thảo ''Giáo dục Kitô giáo'' đầy khởi sắc với ĐHY Phạm Minh Mẫn
Duy Kiếm
18:39 20/06/2008
HỘI THẢO GIÁO DỤC KITÔ GIÁO TRONG GIA ĐÌNH, GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI HÔM NAY
SÁNG THỨ SÁU NGÀY 20.6.2008
(LĐCGVNHK Hành Hương Mẹ La Vang 19/6/2008 - 21/6/2008 @ Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn)
Đề tài Hội thảo: Giáo Dục Kitô Giáo Trong Gia Đình, Cộng Đồng Giáo Hội và Xã Hội
• Điều Hợp: Lm Trần Công Nghị, Giám Đốc VietCatholic
• Chủ Toạ: Lm. Nguyễn Thanh Liêm, Chủ Tịch Liên Đoàn; Lm. Nguyễn Đức Vượng, OP, Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ; Sr. Phạm Thị Hằng, OP, Liên Dòng Nữ Tu; Phó tế Nguyễn Ánh, CĐ Phó Tế Vĩnh Viễn; Ông Lê Thanh Liêm, CĐ Giáo Dân.
• Thuyết Trình: Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Sài Gòn
• Tham Luận: Lm. Nguyễn Khắc Hỷ, Giáo sư Đại Chủng viện
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
Chừng hơn 1.500 người đã tới tham dự buổi thuyết trình và hội thảo với ĐHY Phạm Minh Mẫn tại Nhà thờ hầm dưới Vương Cung Thánh Đường Quốc Gia Hoa Kỳ, nơi có Nhà nguyện Đức Mẹ La Vang ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Trước khi bắt đầu cuộc thuyết trình của ĐHY Phạm Minh Mẫn và cuộc thảo luận, LM Nguyễn Đức Vượng, trưởng ban tổ chức đã giới thiệu về thành phẫn chủ tọa đoàn và điều hợp viên.
Sau đó Cha Nghị giới thiệu ĐHY Tổng Giáo Phận Saigòn và cho biết Đức Hồng Y vừa từ Pháp đến Hoa Kỳ. Tại Pháp ĐHY cùng với 2 vị Tổng giám mục Huế và Hà Nội tham dự lễ mửng 350 năm thành lập Hội Thừa Sai Paris với mục đích truyền giáo cho Việt Nam. Cũng chính Hội Thừa Sai Balê đã lại mở cửa đón tiếp từng mấy trăm linh mục Việt Nam sang tu nghiệp tử 20 năm qua, vì sự cố này mà nhiều người cũng đã đặt câu hỏi tại sao trong chuyến Phái đoàn Tòa Thánh thăm Việt Nam các Tổng giám mục lại đi vắng hết. LM Nghị đã giải đáp cho thắc mắc nêu trên.
Sau đó Cha Nghị cũng xin phép được uyển chuyển trong tiến trình bài nói truyện hôm nay vì có những "điểm nóng" mà nhiều người quan tâm và muốn tìm hiểu. Do đó Ngài xin Đức Hồng Y trình bầy sơ qua về hiện tình và viễn tượng Giáo dục của Giáo hội Công giáo trong xã hội Việt Nam có tiến triển ra sao. Sau đi trình bầy về đề tài giáo dục Kitô giáo.
Cha cũng đề nghị là mỗi vị trong ban chủ tọa sẽ trả lời chia sẻ bằng kinh nghiệm cuộc sống qua những gì mà thính giả có thể đặt vấn nạn.
Cha Nghị đề nghị thính giả sau khi nghe ĐHY trình bầy sẽ viết xuống câu hỏi của mình và Cha sẽ chọn những câu hỏi có tính cách soi sáng cho lợi ích chung để hỏi Đức hồng y và Ban chủ tọa.
Trước hết Đức Hồng Y nói về tình hình giáo dục nói chung tại Việt Nam với những khó khăn và những tệ đoan mà xã hội và Giáo hội đang phải đương đầu.
Giáo hội đã chính thức xin chính quyền để mong muốn góp phần vào cong cuộc giáo dục con người nhất là giới trẻ hôm nay.
Nền giáo dục mà Giáo hội mong mỏi là giáo dục dữa trên nhân bản và dựa trên sứ điễp tình yêu của chính Thiên Chúa.
Đó cũng là nền văn minh sự sống và văn minh tình thương.
ĐHY cho biết bối cảnh tình trạng gia đình ở xã hội Việt Nam hiện nay, giới trẻ lập gia đình rồi thống kê cho biết có tới 50% ly dị chính chức, đó là chưa kể những cuộc ly dị không đăng kí...
Như vậy Giáo hội cần phải dấn thân mang sứ điệp yêu thương hòa giải đến với mọi người, nhất là những người cần đến.
ĐHY đại khái nói rằng, hiện trong xã hội có những áp lực đề nặng làm cho tiến tình "bao dung, tha thứ, cảm thông" của sứ điệp Kitô giáo bị mất mút giữa những đả kích, hận thù, tư kiến đôi khi làm phai mời và có khi tệ hại hơn còn bị cắt nghĩa nghịch chiều... Ngài đưa ra thí dụ về tại Việt Nam trước đây có nuôi gà công nghệ, nên chúng phải chen chúc chật chội, nên chúng chỉ biết có mổ nhau và đấm đá nhau thôi...
Do vậy giáo dục Kitô giáo là giáo dục của yêu thương, tha thứ và được vậy đôi khi phải như Chúa Giêsu cũng phải chịu đóng đanh vì lý tưởng và niềm tin của mình.
... (Chúng tôi sẽ có phát băng hình và audio về cuộc nói truyện này trong nay mai.)
Sau bài thuyết trình đến phần câu hỏi.
Có rất nhiều câu hỏi trong cuộc thảo luận, nhưng ở lại đây chúng tôi xin ghi lại một câu hỏi mà khi LM Trần Công Nghị đặt câu hỏi với Đức Hồng Y, cũng nói rằng nhiều người đang mong chờ và muốn tìm hiểu, đó là trong những tuần lễ vừa qua, với tư cách là hồng y là giáo chủ của một Giáo hội địa phương, nên bất cứ những gì mà ĐHY nói lên đều có những tác dụng rất lớn, và ngay đôi khi ý tưởng chính mujốn nói ra để mang lại sự hòa giải yêu thương, có khi là là cơ hội để gây thêm bất hòa và tranh chấp hận thù thêm. Vậy trước sự kiện vừa được nêu ra, xin Đức Hồng Y "giải mã" và cho biết tâm tình và ý tưởng của ĐHY ra sao.
ĐHY đã thẳng thắn trả lời... và được toàn thể giáo dân tham dự nồng nhiệt tán thưởng.
Tuy nhiên, khi trình bày lại lời ĐHY trả lời ra sao, chúng tôi xin khất qúi độc giả trong một vài ngày để hoàn thành phần trả lời nguyên văn của chính ĐHY, sợ rằng viết xuống ở đây "sai một li, đi một dặm" lại trở thành đề tài "nóng bóng" thì tất cả chúng ta đều không ai muốn.
Xin độc giả cố gắng đợi chờ khi xong phần ghi âm chúng tôi sẽ công khai cho mọi người được biết.
Tham luận về Giáo Dục Kitô Giáo
Đây là bài thuyết trình nguyên gốc của ĐHY đã viết trước, tuy nhiên trong cuộc Hội Thảo đã không trình bày theo bài viết sẵn mà là nói buông và theo những đề nghị của phối trí viên đề nghị. Tuy nhiên chúng tôi đăng toàn bộ bài viết của ĐHY để mọi người tham luận như sau
I. Định hướng giáo dục Kitô giáo
Thiên Chúa là Tình Yêu và tạo thành con người theo hình ảnh của Người là Tình Yêu. Do đó định hướng căn bản của giáo dục Kitô giáo trong gia đình, trong cộng đồng giáo hội và xã hội là tạo khả năng và thuận lợi cho con người thể hiện hình ảnh Thiên Chúa là Tình Yêu.
II. Sức mạnh đổi mới trong giáo dục Kitô giáo
Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, bí tích Thêm Sức, và khi cầu nguyện trong cuộc sống, người tín hữu không ngừng đón nhận Chúa Thánh Thần là nguồn lực tình yêu. Đó là sức mạnh dẫn dắt và thúc đẩy con người đổi mới lòng dạ và bản thân mình, là sức mạnh hỗ trợ mọi người quyết cùng nhau giúp cho thế hệ hậu sinh thể hiện căn tính của mình là tình yêu.
III. Thực hành giáo dục Kitô giáo
Giáo dục Kitô giáo là nền giáo dục của Chúa Giêsu Kitô và Hội Thánh Người đã thiết lập. Khi đồng hành với các môn đệ cốt cán ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã tỏ ra là Thầy dạy Chân Lý tròn đầy về Thiên Chúa, về con người, là một nhà giáo dục chân chính và mẫu mực.
Khi dạy "Kinh Lạy Cha", Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ thực hành giáo dục Kitô giáo. Lời Chúa dạy qua Kinh Lạy Cha cho chúng ta biết thế nào là một nền giáo dục nhân bản và đạo đức làm người trong trời đất và trong thiên hạ, trong gia đình và trong cộng đồng nhân loại.
IV. "Kinh Lạy Cha": chỉ nam thực hành giáo dục Kitô giáo
1. "Lạy Cha chúng con, Cha là Đấng ngự trên trời..." Lời kêu cầu cũng là lời tuyên tín: Cha là gốc của con người, là Đấng tạo thành con người theo hình ảnh của Cha là Tình Yêu, và mọi người là con một Cha, là anh em một nhà (Tứ hải giai huynh đệ). Lời tuyên tín trên mở ra ba ý nguyện và ba lời cầu.
2. Ba ý nguyện tạo ý thức cho mọi người bày tỏ với Cha trên trời quyết tâm thực hiện hành trình cuộc đời làm con trong gia đình, làm người trong xã hội, nhằm thể hiện hình ảnh của Cha là Tình Yêu.
2.1 "Nguyện danh Cha cả sáng..." Quyết tâm làm cho danh Cha là Tình Yêu toả sáng trong mọi gia đình và cộng đồng nhân loại, đòi hỏi mọi người phải quan tâm cùng thể hiện lòng yêu thương qua mọi thăng trầm của cuộc đời.
2.2 "Nguyện Nước Cha trị đến..." Cha đã thương gởi Ngôi Con Giêsu là hiện thân của Tình Yêu đến sống giữa loài người, để thiết lập Nước Cha là Nước Tình Yêu vô biên vô tận. Đạo làm con và làm người là góp phần xây dựng Nước Tình Yêu của Cha trên trời. Góp phần qua nỗ lực bước theo Đường Giêsu đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lặng nhục, đem hoà hợp vào nơi bất đồng và chia rẽ, đem chân lý vào nơi gian dối, đem đạo lý vào chốn áp bức bất công..., với niềm hy vọng cùng nhau xây dựng gia đình an bình, đất nước thịnh vượng.
2.3 "Nguyện ý Cha thể hiện ở mọi nơi và mọi thời..." Cha đã thương ban Chúa Thánh Thần là nguồn lực tình yêu tạo khả năng cho mọi người ở mọi nơi và mọi thời thi hành ý Cha là mến Cha và yêu thương nhau. Mến tin Cha có nghĩa là trong mọi tình huống trung thành tuân hành ý Cha là Đấng tạo thành và giàu lòng xót thương. Yêu thương nhau có nghĩa là hiếu thảo với ông bà cha mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục, chung thủy với nhau theo giao ước tình yêu, từ bi bao dung đối với mọi người là anh em một nhà.
3. Ba lời cầu tạo ý thức về những điều bản thân thiếu thốn, đồng thời cũng tạo tâm an tĩnh và khiêm tốn mở ra đón nhận những điều mình cần từ Cha là nguồn mạch mọi ơn lành trên trời dưới đất.
3.1 "Xin Cha ban lương thực hàng ngày..." Kỳ thực Cha đã trao cho con người nhiệm vụ quản lý vũ trụ vì sự sống và phẩm giá của gia đình nhân loại. Tình trạng nghèo đói trong thế giới hôm nay nhắc nhở giới hữu trách thực hiện việc quản lý không những bằng khối óc với những kiến thức khoa học kỹ thuật, song còn bằng cả con tim với đạo làm người trong trời đất. Đồng thời Cha cũng đã thương ban cho loài người: - Lời của Cha là Lời ban bình an, ban ánh sáng chân lý và khôn ngoan, - Lời của Cha nơi Chúa Giêsu Thánh Thể là Lời ban sức sống mới và sự hiệp nhất trong gia đình và xã hội. Tuân hành ý Chúa và thi hành Lời Người dạy là con đường dẫn cộng đồng nhân loại đi đến sự sống dồi dào.
3.2 "Xin Cha thương ban lòng từ bi bao dung tha thứ..." Đây là điều mà thực tế cuộc sống cho thấy con người thiếu nhất: nhiều đau thương, đổ vỡ, mất mát trong gia đình và xã hội bắt nguồn từ sự vắng bóng lòng từ bi bao dung. Để có khả năng sống từ bi bao dung, con người cần ý thức mở rộng tấm lòng đón nhận Đức Giêsu là Vua Tình Yêu, đón nhận Lời của Ngài là Lời yêu thương, đón nhận Thập giá của Ngài là Đường Tình Yêu bao dung từ bi tha thứ.
3.3 "Xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ…" Lời cầu nầy gây ý thức và nhắc nhở mọi người liên kết với nhau trong tình huynh đệ quảng đại tương thân tương trợ, chung sức giúp nhau vượt qua tình trạng nghèo đói và bệnh dịch, xoá dần những tiêu cực và tệ nạn xã hội phát sinh từ lòng tham sân si cũng như từ tình trạng bần cùng, khắc phục nguyên nhân gây tai nạn và hậu quả thiên tai xảy ra trong đất nước ngày nay (lá lành đùm lá rách).
Amen: Ước mong Cha thương ban ơn trợ giúp cho người người và nhà nhà nỗ lực sống như vậy.
V. Giáo dục còn là quan tâm giúp nhau phát huy đạo làm người trong xã hội
Nhiều bậc tiền nhân đã có nhiều nỗ lực phát huy đạo làm người, và đã xây dựng những nhân cách khá hoàn chỉnh, góp phần phát triển đất nước và con người, phát triển nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương trong thế giới hôm nay. Họ để lại cho hậu thế một kho tàng nghệ thuật đối nhân xử thế, nhiều bí quyết ứng xử đắc nhân tâm giúp họ thành đạt trong sự nghiệp (xem loại sách học làm người, như Đắc nhân tâm của Dale Carnegie...).
Kỳ thực, đây là những kinh nghiệm thực tiễn về những cách thể hiện lòng yêu thương và tôn trọng con người, về những cách thể hiện lòng từ bi bao dung đối với các đồng nghiệp, đối với mọi đối tượng mình phục vụ, nói khác đi là những cách thể hiện căn tính con người là tình yêu.
1. Trong gia đình, hãy chỉ bảo nhau; trong công sở, công ty, xí nghiệp, hãy quan tâm nhắc nhở nhau luyện thuật đối nhân xử thế, giúp nhau trở nên người đắc nhân tâm:
1.1 Trong mọi tình huống, nhất là trong bối cảnh xã hội chuyển biến, đổi thay, hãy mở rộng tầm nhìn, để có những suy nghĩ mới, những sáng kiến mới;
1.2 Hãy ứng xử thân thiện với mọi người, cả lúc bất đồng và tranh cãi;
1.3 Hãy mở đường cho người khác đi đến đồng cảm và đồng thuận;
1.4 Trong mọi việc, hãy tạo tương giao chân thành, lành mạnh và xây dựng với mọi người quanh cận;
1.5 Hãy khơi dậy sự hứng khởi cho các đồng sự thi hành trách nhiệm;
1.6 Hãy trở nên trợ lực cho các đồng sự hoàn thành nhiệm vụ;
1.7 Hãy tạo bầu khí hài hoà cho mọi người cảm thấy an lòng trong nhiệm vụ.
2. Các bạn trẻ đang giữ vai trò lãnh đạo và quản trị trong xã hội ngày nay, ngoài việc tiếp thu kiến thức khoa học và chuyên môn, hãy nhắc nhở và giúp nhau thực hành những bí quyết giúp bạn thành đạt trong sự nghiệp:
2.1 Hãy luôn khởi đầu bằng lời khích lệ chân thành;
2.2 Tưởng thưởng những thành quả, nhẹ nhàng lưu ý những sai sót;
2.3 Khi cần đề cập đến những khiếm khuyết của các cộng sự, trước tiên hãy nói về những giới hạn của bản thân;
2.4 Hãy đặt ra những câu hỏi mở đường cho các cộng sự tự nguyện đảm nhận trách nhiệm, tránh áp đặt và truyền lệnh suông;
2.5 Hãy tránh làm mất mặt các cộng sự;
2.6 Khi thấy có tiến bộ, hãy có lời khen chân thành;
2.7 Hãy tạo ra tiếng tốt thúc đẩy các cộng sự cố gắng sống tốt hơn;
2.8 Hãy khuyến khích mọi người đổi mới và tạo cho họ cảm giác sửa sai là điều dễ thực hiện;
2.9 Hãy tạo bầu khí phấn khởi khi các cộng sự hoàn thành nhiệm vụ.
Thay Lời Kết
+ Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn
Hồng Y Tổng Giám Mục
Tóm lược nội dung phần câu hỏi với LM Lm. Matthew Nguyễn Khắc Hy:
Giáo dục Kitô giáo đóng vai trò quan trọng trong lịch sử văn minh nhân loại, nhất là góp phần xây dựng văn hoá Âu Châu. Ngày nay tại Hoa Kỳ, giáo dục Kitô giáo, đặc biệt là giáo dục Công giáo, tiếp tục phát huy những ưu điếm cúa cơ hội tự do, dân chủ kết hợp với môi trường học hỏi kỹ thuật cao, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đem lại kết quả khả quan hơn.
Tuy nhiên, giáo dục Công giáo không chỉ thuần tuý là giáo dục nhân bản và khoa học. Vì thế, trước những thách thức hiện đại của chủ nghĩa tục hoá và tương đối hoá, thử thách tách biệt đức tin khỏi sinh hoạt xã hội, giáo dục Công giáo cần phải
(1) khẳng định lại căn tính Công giáo của mình
(2) là sứ giả truyền bá Tin mừng Kitô giáo,
(3) và trung thành với Giáo hội Công giáo.
SÁNG THỨ SÁU NGÀY 20.6.2008
(LĐCGVNHK Hành Hương Mẹ La Vang 19/6/2008 - 21/6/2008 @ Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn)
Đoàn Hiệp Sĩ Việt Nam đón chào |
• Điều Hợp: Lm Trần Công Nghị, Giám Đốc VietCatholic
• Chủ Toạ: Lm. Nguyễn Thanh Liêm, Chủ Tịch Liên Đoàn; Lm. Nguyễn Đức Vượng, OP, Cộng Đồng Giáo Sĩ & Nam Tu Sĩ; Sr. Phạm Thị Hằng, OP, Liên Dòng Nữ Tu; Phó tế Nguyễn Ánh, CĐ Phó Tế Vĩnh Viễn; Ông Lê Thanh Liêm, CĐ Giáo Dân.
• Thuyết Trình: Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Sài Gòn
• Tham Luận: Lm. Nguyễn Khắc Hỷ, Giáo sư Đại Chủng viện
• Ban Thư Ký: Cộng Đoàn Đồng Hành CLC
Chừng hơn 1.500 người đã tới tham dự buổi thuyết trình và hội thảo với ĐHY Phạm Minh Mẫn tại Nhà thờ hầm dưới Vương Cung Thánh Đường Quốc Gia Hoa Kỳ, nơi có Nhà nguyện Đức Mẹ La Vang ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Trước khi bắt đầu cuộc thuyết trình của ĐHY Phạm Minh Mẫn và cuộc thảo luận, LM Nguyễn Đức Vượng, trưởng ban tổ chức đã giới thiệu về thành phẫn chủ tọa đoàn và điều hợp viên.
Sau đó Cha Nghị giới thiệu ĐHY Tổng Giáo Phận Saigòn và cho biết Đức Hồng Y vừa từ Pháp đến Hoa Kỳ. Tại Pháp ĐHY cùng với 2 vị Tổng giám mục Huế và Hà Nội tham dự lễ mửng 350 năm thành lập Hội Thừa Sai Paris với mục đích truyền giáo cho Việt Nam. Cũng chính Hội Thừa Sai Balê đã lại mở cửa đón tiếp từng mấy trăm linh mục Việt Nam sang tu nghiệp tử 20 năm qua, vì sự cố này mà nhiều người cũng đã đặt câu hỏi tại sao trong chuyến Phái đoàn Tòa Thánh thăm Việt Nam các Tổng giám mục lại đi vắng hết. LM Nghị đã giải đáp cho thắc mắc nêu trên.
Từ muôn phương qui tụ về bên Mẹ bên Cha |
Cha cũng đề nghị là mỗi vị trong ban chủ tọa sẽ trả lời chia sẻ bằng kinh nghiệm cuộc sống qua những gì mà thính giả có thể đặt vấn nạn.
Cha Nghị đề nghị thính giả sau khi nghe ĐHY trình bầy sẽ viết xuống câu hỏi của mình và Cha sẽ chọn những câu hỏi có tính cách soi sáng cho lợi ích chung để hỏi Đức hồng y và Ban chủ tọa.
Trước hết Đức Hồng Y nói về tình hình giáo dục nói chung tại Việt Nam với những khó khăn và những tệ đoan mà xã hội và Giáo hội đang phải đương đầu.
Giáo hội đã chính thức xin chính quyền để mong muốn góp phần vào cong cuộc giáo dục con người nhất là giới trẻ hôm nay.
Nền giáo dục mà Giáo hội mong mỏi là giáo dục dữa trên nhân bản và dựa trên sứ điễp tình yêu của chính Thiên Chúa.
Đó cũng là nền văn minh sự sống và văn minh tình thương.
ĐHY cho biết bối cảnh tình trạng gia đình ở xã hội Việt Nam hiện nay, giới trẻ lập gia đình rồi thống kê cho biết có tới 50% ly dị chính chức, đó là chưa kể những cuộc ly dị không đăng kí...
Ai cũng vui mừng chào đón và muốn đứng bên cạnh ĐHY |
ĐHY đại khái nói rằng, hiện trong xã hội có những áp lực đề nặng làm cho tiến tình "bao dung, tha thứ, cảm thông" của sứ điệp Kitô giáo bị mất mút giữa những đả kích, hận thù, tư kiến đôi khi làm phai mời và có khi tệ hại hơn còn bị cắt nghĩa nghịch chiều... Ngài đưa ra thí dụ về tại Việt Nam trước đây có nuôi gà công nghệ, nên chúng phải chen chúc chật chội, nên chúng chỉ biết có mổ nhau và đấm đá nhau thôi...
Do vậy giáo dục Kitô giáo là giáo dục của yêu thương, tha thứ và được vậy đôi khi phải như Chúa Giêsu cũng phải chịu đóng đanh vì lý tưởng và niềm tin của mình.
... (Chúng tôi sẽ có phát băng hình và audio về cuộc nói truyện này trong nay mai.)
Sau bài thuyết trình đến phần câu hỏi.
Có rất nhiều câu hỏi trong cuộc thảo luận, nhưng ở lại đây chúng tôi xin ghi lại một câu hỏi mà khi LM Trần Công Nghị đặt câu hỏi với Đức Hồng Y, cũng nói rằng nhiều người đang mong chờ và muốn tìm hiểu, đó là trong những tuần lễ vừa qua, với tư cách là hồng y là giáo chủ của một Giáo hội địa phương, nên bất cứ những gì mà ĐHY nói lên đều có những tác dụng rất lớn, và ngay đôi khi ý tưởng chính mujốn nói ra để mang lại sự hòa giải yêu thương, có khi là là cơ hội để gây thêm bất hòa và tranh chấp hận thù thêm. Vậy trước sự kiện vừa được nêu ra, xin Đức Hồng Y "giải mã" và cho biết tâm tình và ý tưởng của ĐHY ra sao.
ĐHY đã thẳng thắn trả lời... và được toàn thể giáo dân tham dự nồng nhiệt tán thưởng.
Tuy nhiên, khi trình bày lại lời ĐHY trả lời ra sao, chúng tôi xin khất qúi độc giả trong một vài ngày để hoàn thành phần trả lời nguyên văn của chính ĐHY, sợ rằng viết xuống ở đây "sai một li, đi một dặm" lại trở thành đề tài "nóng bóng" thì tất cả chúng ta đều không ai muốn.
Xin độc giả cố gắng đợi chờ khi xong phần ghi âm chúng tôi sẽ công khai cho mọi người được biết.
Tham luận về Giáo Dục Kitô Giáo
Đây là bài thuyết trình nguyên gốc của ĐHY đã viết trước, tuy nhiên trong cuộc Hội Thảo đã không trình bày theo bài viết sẵn mà là nói buông và theo những đề nghị của phối trí viên đề nghị. Tuy nhiên chúng tôi đăng toàn bộ bài viết của ĐHY để mọi người tham luận như sau
I. Định hướng giáo dục Kitô giáo
Thiên Chúa là Tình Yêu và tạo thành con người theo hình ảnh của Người là Tình Yêu. Do đó định hướng căn bản của giáo dục Kitô giáo trong gia đình, trong cộng đồng giáo hội và xã hội là tạo khả năng và thuận lợi cho con người thể hiện hình ảnh Thiên Chúa là Tình Yêu.
II. Sức mạnh đổi mới trong giáo dục Kitô giáo
Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, bí tích Thêm Sức, và khi cầu nguyện trong cuộc sống, người tín hữu không ngừng đón nhận Chúa Thánh Thần là nguồn lực tình yêu. Đó là sức mạnh dẫn dắt và thúc đẩy con người đổi mới lòng dạ và bản thân mình, là sức mạnh hỗ trợ mọi người quyết cùng nhau giúp cho thế hệ hậu sinh thể hiện căn tính của mình là tình yêu.
III. Thực hành giáo dục Kitô giáo
Kỉ niệm với Mẹ La Vang DC |
Khi dạy "Kinh Lạy Cha", Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ thực hành giáo dục Kitô giáo. Lời Chúa dạy qua Kinh Lạy Cha cho chúng ta biết thế nào là một nền giáo dục nhân bản và đạo đức làm người trong trời đất và trong thiên hạ, trong gia đình và trong cộng đồng nhân loại.
IV. "Kinh Lạy Cha": chỉ nam thực hành giáo dục Kitô giáo
1. "Lạy Cha chúng con, Cha là Đấng ngự trên trời..." Lời kêu cầu cũng là lời tuyên tín: Cha là gốc của con người, là Đấng tạo thành con người theo hình ảnh của Cha là Tình Yêu, và mọi người là con một Cha, là anh em một nhà (Tứ hải giai huynh đệ). Lời tuyên tín trên mở ra ba ý nguyện và ba lời cầu.
2. Ba ý nguyện tạo ý thức cho mọi người bày tỏ với Cha trên trời quyết tâm thực hiện hành trình cuộc đời làm con trong gia đình, làm người trong xã hội, nhằm thể hiện hình ảnh của Cha là Tình Yêu.
2.1 "Nguyện danh Cha cả sáng..." Quyết tâm làm cho danh Cha là Tình Yêu toả sáng trong mọi gia đình và cộng đồng nhân loại, đòi hỏi mọi người phải quan tâm cùng thể hiện lòng yêu thương qua mọi thăng trầm của cuộc đời.
2.2 "Nguyện Nước Cha trị đến..." Cha đã thương gởi Ngôi Con Giêsu là hiện thân của Tình Yêu đến sống giữa loài người, để thiết lập Nước Cha là Nước Tình Yêu vô biên vô tận. Đạo làm con và làm người là góp phần xây dựng Nước Tình Yêu của Cha trên trời. Góp phần qua nỗ lực bước theo Đường Giêsu đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lặng nhục, đem hoà hợp vào nơi bất đồng và chia rẽ, đem chân lý vào nơi gian dối, đem đạo lý vào chốn áp bức bất công..., với niềm hy vọng cùng nhau xây dựng gia đình an bình, đất nước thịnh vượng.
2.3 "Nguyện ý Cha thể hiện ở mọi nơi và mọi thời..." Cha đã thương ban Chúa Thánh Thần là nguồn lực tình yêu tạo khả năng cho mọi người ở mọi nơi và mọi thời thi hành ý Cha là mến Cha và yêu thương nhau. Mến tin Cha có nghĩa là trong mọi tình huống trung thành tuân hành ý Cha là Đấng tạo thành và giàu lòng xót thương. Yêu thương nhau có nghĩa là hiếu thảo với ông bà cha mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục, chung thủy với nhau theo giao ước tình yêu, từ bi bao dung đối với mọi người là anh em một nhà.
3. Ba lời cầu tạo ý thức về những điều bản thân thiếu thốn, đồng thời cũng tạo tâm an tĩnh và khiêm tốn mở ra đón nhận những điều mình cần từ Cha là nguồn mạch mọi ơn lành trên trời dưới đất.
3.1 "Xin Cha ban lương thực hàng ngày..." Kỳ thực Cha đã trao cho con người nhiệm vụ quản lý vũ trụ vì sự sống và phẩm giá của gia đình nhân loại. Tình trạng nghèo đói trong thế giới hôm nay nhắc nhở giới hữu trách thực hiện việc quản lý không những bằng khối óc với những kiến thức khoa học kỹ thuật, song còn bằng cả con tim với đạo làm người trong trời đất. Đồng thời Cha cũng đã thương ban cho loài người: - Lời của Cha là Lời ban bình an, ban ánh sáng chân lý và khôn ngoan, - Lời của Cha nơi Chúa Giêsu Thánh Thể là Lời ban sức sống mới và sự hiệp nhất trong gia đình và xã hội. Tuân hành ý Chúa và thi hành Lời Người dạy là con đường dẫn cộng đồng nhân loại đi đến sự sống dồi dào.
3.2 "Xin Cha thương ban lòng từ bi bao dung tha thứ..." Đây là điều mà thực tế cuộc sống cho thấy con người thiếu nhất: nhiều đau thương, đổ vỡ, mất mát trong gia đình và xã hội bắt nguồn từ sự vắng bóng lòng từ bi bao dung. Để có khả năng sống từ bi bao dung, con người cần ý thức mở rộng tấm lòng đón nhận Đức Giêsu là Vua Tình Yêu, đón nhận Lời của Ngài là Lời yêu thương, đón nhận Thập giá của Ngài là Đường Tình Yêu bao dung từ bi tha thứ.
3.3 "Xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ…" Lời cầu nầy gây ý thức và nhắc nhở mọi người liên kết với nhau trong tình huynh đệ quảng đại tương thân tương trợ, chung sức giúp nhau vượt qua tình trạng nghèo đói và bệnh dịch, xoá dần những tiêu cực và tệ nạn xã hội phát sinh từ lòng tham sân si cũng như từ tình trạng bần cùng, khắc phục nguyên nhân gây tai nạn và hậu quả thiên tai xảy ra trong đất nước ngày nay (lá lành đùm lá rách).
Amen: Ước mong Cha thương ban ơn trợ giúp cho người người và nhà nhà nỗ lực sống như vậy.
V. Giáo dục còn là quan tâm giúp nhau phát huy đạo làm người trong xã hội
Nhiều bậc tiền nhân đã có nhiều nỗ lực phát huy đạo làm người, và đã xây dựng những nhân cách khá hoàn chỉnh, góp phần phát triển đất nước và con người, phát triển nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương trong thế giới hôm nay. Họ để lại cho hậu thế một kho tàng nghệ thuật đối nhân xử thế, nhiều bí quyết ứng xử đắc nhân tâm giúp họ thành đạt trong sự nghiệp (xem loại sách học làm người, như Đắc nhân tâm của Dale Carnegie...).
Kỳ thực, đây là những kinh nghiệm thực tiễn về những cách thể hiện lòng yêu thương và tôn trọng con người, về những cách thể hiện lòng từ bi bao dung đối với các đồng nghiệp, đối với mọi đối tượng mình phục vụ, nói khác đi là những cách thể hiện căn tính con người là tình yêu.
1. Trong gia đình, hãy chỉ bảo nhau; trong công sở, công ty, xí nghiệp, hãy quan tâm nhắc nhở nhau luyện thuật đối nhân xử thế, giúp nhau trở nên người đắc nhân tâm:
1.1 Trong mọi tình huống, nhất là trong bối cảnh xã hội chuyển biến, đổi thay, hãy mở rộng tầm nhìn, để có những suy nghĩ mới, những sáng kiến mới;
1.2 Hãy ứng xử thân thiện với mọi người, cả lúc bất đồng và tranh cãi;
1.3 Hãy mở đường cho người khác đi đến đồng cảm và đồng thuận;
1.4 Trong mọi việc, hãy tạo tương giao chân thành, lành mạnh và xây dựng với mọi người quanh cận;
1.5 Hãy khơi dậy sự hứng khởi cho các đồng sự thi hành trách nhiệm;
1.6 Hãy trở nên trợ lực cho các đồng sự hoàn thành nhiệm vụ;
1.7 Hãy tạo bầu khí hài hoà cho mọi người cảm thấy an lòng trong nhiệm vụ.
2. Các bạn trẻ đang giữ vai trò lãnh đạo và quản trị trong xã hội ngày nay, ngoài việc tiếp thu kiến thức khoa học và chuyên môn, hãy nhắc nhở và giúp nhau thực hành những bí quyết giúp bạn thành đạt trong sự nghiệp:
2.1 Hãy luôn khởi đầu bằng lời khích lệ chân thành;
2.2 Tưởng thưởng những thành quả, nhẹ nhàng lưu ý những sai sót;
2.3 Khi cần đề cập đến những khiếm khuyết của các cộng sự, trước tiên hãy nói về những giới hạn của bản thân;
2.4 Hãy đặt ra những câu hỏi mở đường cho các cộng sự tự nguyện đảm nhận trách nhiệm, tránh áp đặt và truyền lệnh suông;
2.5 Hãy tránh làm mất mặt các cộng sự;
2.6 Khi thấy có tiến bộ, hãy có lời khen chân thành;
2.7 Hãy tạo ra tiếng tốt thúc đẩy các cộng sự cố gắng sống tốt hơn;
2.8 Hãy khuyến khích mọi người đổi mới và tạo cho họ cảm giác sửa sai là điều dễ thực hiện;
2.9 Hãy tạo bầu khí phấn khởi khi các cộng sự hoàn thành nhiệm vụ.
Thay Lời Kết
+ Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn
Hồng Y Tổng Giám Mục
Tóm lược nội dung phần câu hỏi với LM Lm. Matthew Nguyễn Khắc Hy:
Giáo dục Kitô giáo đóng vai trò quan trọng trong lịch sử văn minh nhân loại, nhất là góp phần xây dựng văn hoá Âu Châu. Ngày nay tại Hoa Kỳ, giáo dục Kitô giáo, đặc biệt là giáo dục Công giáo, tiếp tục phát huy những ưu điếm cúa cơ hội tự do, dân chủ kết hợp với môi trường học hỏi kỹ thuật cao, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đem lại kết quả khả quan hơn.
Tuy nhiên, giáo dục Công giáo không chỉ thuần tuý là giáo dục nhân bản và khoa học. Vì thế, trước những thách thức hiện đại của chủ nghĩa tục hoá và tương đối hoá, thử thách tách biệt đức tin khỏi sinh hoạt xã hội, giáo dục Công giáo cần phải
(1) khẳng định lại căn tính Công giáo của mình
(2) là sứ giả truyền bá Tin mừng Kitô giáo,
(3) và trung thành với Giáo hội Công giáo.
Video rước ảnh Đức Mẹ La Mã Bến Tre tại Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn
Dòng Chúa Cứu Thế
19:10 20/06/2008
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Phủ Cam: Của Cesar trả lại cho Cesar, của Nhà Dòng trả lại cho Nhà Dòng!
Trương Minh Phương
14:54 20/06/2008
CỦA CESAR TRẢ LẠI CHO CESAR CỦA NHÀ DÒNG TRẢ LẠI CHO NHÀ DÒNG
HUẾ - Dòng Mến Thánh Giá Phủ Cam - Huế là một dòng nữ lâu đời ở Huế, đã tồn tại trên 200 năm (thành lập từ năm 1797). Hiện nay tọa lạc tại 152/8 Trần Phú, thành phố Huế. Khu đất của tu viện có trích lục địa bộ tổng diện tích là 7480m2 gồm 3 tờ trích lục.
Năm 1920, do nhu cầu nâng cao trình độ kiến thức và tri thức cho thiếu niên, những mầm non tương lai của xã hội, nhà dòng đã thành lập ngôi trường mang tên trường tiểu học Têrêxa. Đã đào tạo được nhiều tài năng cho đất nước qua nhiều thế hệ, về phương diện Giáo hội cũng như Xã hội.
Năm 1978, Ủy Ban Quân quản xã Thủy Phước nay là UBND phường Phước Vĩnh đứng ra mượn để làm nhà trẻ mẫu giáo. Sau đó, một số nữ tu là giáo viên vẫn được giữ lại làm cô giáo nhà trẻ, nhưng dần dần bị sa thải và nhà trẻ bị chiếm giữ.
Nữ tu Maria Bùi Thị Lành, bề trên Dòng Mến Thánh Giá Phủ Cam - Huế đã trên 15 năm nay nhiều lần gửi đơn đi khắp nơi từ trung ương đến địa phương để yêu cầu trả lại ngôi trường nói trên, hao tốn nhiều công sức và tiền của. Đích thân nữ tu Bùi Thị Lành nhiều lần ra tận Hà Nội, đi lại tốn kém, sức khỏe mỏi mòn. Từ một Bề trên dòng năng nổ, tích cực. Không những có uy tín lớn đối với giáo phận mà còn có uy tín đối với chính quyền, rất được nể trọng. Nay nữ tu Bùi Thị Lành đã 73 tuổi, thuộc hàng “cổ lai hy”, mái đầu đã bạc trắng, không còn đủ sức khỏe để gánh vác công việc nên đã xin nghỉ hưu. Tuy nhiên, với tài năng và kinh nghiệm cũng như lòng đạo đức nữ tu Lành vẫn phải đảm đương cố vấn của nhà dòng. Nhu cầu cấp thiết của nhà dòng là phải lấy lại bằng được mảnh đất chỉ độ chừng 600m2 để làm nhà hưu dưỡng cho các nữ tu già yếu sau bao năm tháng dấn thân phục vụ cho Giáo hội và Xã hội. Vấn đề căn bản của việc đòi lại mảnh đất không chỉ là mảnh đất này mà là chân lý, lẽ công bằng tất yếu mượn là phải trả.
Trong thời gian làm Bề Trên Dòng, nữ tu Bùi Thị Lành đã chịu nhiều áp lực từ phía chị em trong Hội Dòng. Đã nhiều lần chị em nữ tu có ý định tuyệt thực, làm reo để gây áp lực đối với chính quyền. Nhưng nữ tu Bùi Thị Lành là một người rất cương quyết và giàu nghị lực không muốn bạo động xảy ra mà chỉ muốn sự việc được giải quyết trong êm đẹp và ôn hòa nên đã khuyên bảo chị em hãy bình tĩnh chờ đợi. Và sự chờ đợi đó đã mòn mỏi trên 15 năm nay. Bây giờ sức đã cùng lực đã tận, nữ tu Maria Bùi Thị Lành chỉ mong ước trước lúc nhắm mắt xuôi tay, về với Chúa phải lấy lại bằng được ngôi trường để tròn trách nhiệm Bề Trên của mình. Nơi đó, biết bao công sức mồ hôi, nước mắt và cả máu của các nữ tu tiền nhân đã tạo dựng mà trách nhiệm của lớp hậu sinh kế thừa phải giữ gìn những di sản đó.
Kèm theo bài viết này là hình ảnh bên phía trái từ trên xuống::
1/Mảnh đất và ngôi trường bị chiếm dụng hiện đang là nhà trẻ mẫu giáo của phường Phước Vĩnh.
2/Cảnh ngổn ngang bừa bãi trong sân trường dọc theo tường nhà của dòng.
4/Nữ tu Maria Bùi Thị Lành với mái đầu bạc trắng hằng ngày vẫn miệt mài viết đơn gửi đi khắp nơi để đòi lại ngôi trường.
3/Các nữ tu già lão hằng ngày vẫn cầu nguyện làm sao nhà dòng lấy lại được mảnh đất để xây dựng nhà hưu dưỡng.
HUẾ - Dòng Mến Thánh Giá Phủ Cam - Huế là một dòng nữ lâu đời ở Huế, đã tồn tại trên 200 năm (thành lập từ năm 1797). Hiện nay tọa lạc tại 152/8 Trần Phú, thành phố Huế. Khu đất của tu viện có trích lục địa bộ tổng diện tích là 7480m2 gồm 3 tờ trích lục.
Năm 1920, do nhu cầu nâng cao trình độ kiến thức và tri thức cho thiếu niên, những mầm non tương lai của xã hội, nhà dòng đã thành lập ngôi trường mang tên trường tiểu học Têrêxa. Đã đào tạo được nhiều tài năng cho đất nước qua nhiều thế hệ, về phương diện Giáo hội cũng như Xã hội.
Năm 1978, Ủy Ban Quân quản xã Thủy Phước nay là UBND phường Phước Vĩnh đứng ra mượn để làm nhà trẻ mẫu giáo. Sau đó, một số nữ tu là giáo viên vẫn được giữ lại làm cô giáo nhà trẻ, nhưng dần dần bị sa thải và nhà trẻ bị chiếm giữ.
Nữ tu Maria Bùi Thị Lành, bề trên Dòng Mến Thánh Giá Phủ Cam - Huế đã trên 15 năm nay nhiều lần gửi đơn đi khắp nơi từ trung ương đến địa phương để yêu cầu trả lại ngôi trường nói trên, hao tốn nhiều công sức và tiền của. Đích thân nữ tu Bùi Thị Lành nhiều lần ra tận Hà Nội, đi lại tốn kém, sức khỏe mỏi mòn. Từ một Bề trên dòng năng nổ, tích cực. Không những có uy tín lớn đối với giáo phận mà còn có uy tín đối với chính quyền, rất được nể trọng. Nay nữ tu Bùi Thị Lành đã 73 tuổi, thuộc hàng “cổ lai hy”, mái đầu đã bạc trắng, không còn đủ sức khỏe để gánh vác công việc nên đã xin nghỉ hưu. Tuy nhiên, với tài năng và kinh nghiệm cũng như lòng đạo đức nữ tu Lành vẫn phải đảm đương cố vấn của nhà dòng. Nhu cầu cấp thiết của nhà dòng là phải lấy lại bằng được mảnh đất chỉ độ chừng 600m2 để làm nhà hưu dưỡng cho các nữ tu già yếu sau bao năm tháng dấn thân phục vụ cho Giáo hội và Xã hội. Vấn đề căn bản của việc đòi lại mảnh đất không chỉ là mảnh đất này mà là chân lý, lẽ công bằng tất yếu mượn là phải trả.
Trong thời gian làm Bề Trên Dòng, nữ tu Bùi Thị Lành đã chịu nhiều áp lực từ phía chị em trong Hội Dòng. Đã nhiều lần chị em nữ tu có ý định tuyệt thực, làm reo để gây áp lực đối với chính quyền. Nhưng nữ tu Bùi Thị Lành là một người rất cương quyết và giàu nghị lực không muốn bạo động xảy ra mà chỉ muốn sự việc được giải quyết trong êm đẹp và ôn hòa nên đã khuyên bảo chị em hãy bình tĩnh chờ đợi. Và sự chờ đợi đó đã mòn mỏi trên 15 năm nay. Bây giờ sức đã cùng lực đã tận, nữ tu Maria Bùi Thị Lành chỉ mong ước trước lúc nhắm mắt xuôi tay, về với Chúa phải lấy lại bằng được ngôi trường để tròn trách nhiệm Bề Trên của mình. Nơi đó, biết bao công sức mồ hôi, nước mắt và cả máu của các nữ tu tiền nhân đã tạo dựng mà trách nhiệm của lớp hậu sinh kế thừa phải giữ gìn những di sản đó.
Kèm theo bài viết này là hình ảnh bên phía trái từ trên xuống::
1/Mảnh đất và ngôi trường bị chiếm dụng hiện đang là nhà trẻ mẫu giáo của phường Phước Vĩnh.
2/Cảnh ngổn ngang bừa bãi trong sân trường dọc theo tường nhà của dòng.
4/Nữ tu Maria Bùi Thị Lành với mái đầu bạc trắng hằng ngày vẫn miệt mài viết đơn gửi đi khắp nơi để đòi lại ngôi trường.
3/Các nữ tu già lão hằng ngày vẫn cầu nguyện làm sao nhà dòng lấy lại được mảnh đất để xây dựng nhà hưu dưỡng.
Phỏng vấn LM Hạt Trưởng Quảng Trị về tình hình Thánh Địa La Vang đang đi đến đâu?
Đàm Nguyên
16:17 20/06/2008
HUẾ - Linh mục Emmanuel Nguyễn Vinh Gioang, hạt trưởng Giáo hạt Quảng Trị thuộc Tổng giáo phận Huế, nơi có Thánh địa Đức Mẹ La Vang, ngài cũng là một linh mục đã nhiều năm quản nhiệm Thánh địa này trong thời kỳ khó khăn nhất. Nay ngài đang coi sóc mục vụ tại giáo xứ Diên Sanh và một số địa sở tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ngài cũng đã có mặt trong các buổi gặp gỡ chính quyền để đối thoại vấn đề đất đai của La Vang, cũng chính ngài đồng hành với phái đoàn Toà Thánh trong những giờ khắc Phái đoàn Toà Thánh viếng thăm Thánh địa La Vang và gặp gỡ chính quyền tỉnh Quảng Trị hôm 13/6/2008.
Sau đây là bài phỏng vấn Cha Gioang sau sự kiện Phái đoàn Toà Thánh viếng thăm Thánh địa La Vang:
PV: Kính chào Cha,
Trước hết, con xin chúc mừng Cha đã cùng với Tổng giáo phận và Trung tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc tổ chức thành công sự kiện này đón chào phái đoàn Toà Thánh viếng thăm Thánh địa La Vang và Tổng Giáo phận Huế.
Xin Cha vui lòng cho biết một vài nhận định của Cha về quan hệ giữa nhà nước và Giáo hội sau chuyến viếng thăm lần này của Phái đoàn Toà Thánh tại Việt Nam?
Cha Gioang: Giáo Hội Công giáo luôn đứng trên mọi lập trường chính trị, trên mọi đảng phái, vì thế, nói chung, quan hệ nào giữa Nhà Nước và Giáo Hội cũng luôn luôn được cải thiện vì Giáo Hội tìm đủ mọi cách để đối thoại chân thành và cởi mở theo lập trường của Chúa Giêsu dạy: đừng làm tắt tim đèn còn leo lét, nhưng hãy khơi sáng lên.
Nói riêng, quan hệ hiện nay giữa Nhà Nước Cộng sản Việt Nam với Giáo Hội thế nào cũng được cải thiện đôi chút, và nếu cứ kiên trì tìm hiểu nhau, kính trọng nhau, thông cảm với nhau, thì sự cải thiện sẽ dần dần được mở rộng thêm.
PV: Về chuyến viếng thăm của phái đoàn Toà Thánh tại Thánh địa La Vang, Cha mong đợi và hy vọng điều gì cho Thánh địa La Vang?
Cha Gioang: Đây chỉ là một chuyến viếng thăm do Bộ Ngoại Giao Việt Nam mời, và Phái đoàn Toà Thánh được mời, cũng vào hạng thứ trưởng. Đó là nói về mặt ngoại giao giữa hai quốc gia: quốc gia Việt nam và quốc gia Vatican. Vì thế, về mặt ngoại giao, tôi nghĩ đây chỉ là bước đầu sơ bộ để tìm hiểu, để bày tỏ lập trường, và có thể có giải quyết một vài vấn đề giữa đôi bên.
Nhưng đối với Giáo Hội Việt nam và giáo dân Việt Nam thì lại khác. Việc một Phái Đoàn Toà Thánh đến Việt Nam luôn luôn là điều rất quan trọng đối với Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt đối với Thánh Địa La Vang vì việc đến Thánh Địa La Vang lần nầy là do yêu cầu của Phái Đoàn Toà Thánh, nhân danh Đức Giáo Hoàng đương kim. Và Phái Đoàn Toà Thánh đã đến La Vang một cách thoải mái và dễ dàng, đã được Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị trân trọng đón tiếp, điều nầy đã làm cho mọi người trong nước cũng như trên khắp thế giới biết đến Thánh Địa La Vang, và làm cho Thánh Địa La Vang được đặc biệt tôn trọng trước con mắt của mọi người. Vì thế, uy thế và uy tín của Thánh Địa La Vang hiện nay trở nên rất lớn.
PV: Cha có hy vọng Thánh địa La Vang sẽ sớm được trả lại cho Giáo hội như nhà nước đã hứa không, thưa Cha?
Cha Gioang: Việc Thánh Địa La Vang được trả lại cho Giáo Hội Việt Nam là điều chắc chắn và rõ ràng, chỉ chờ giải quyết xong những yếu tố liên hệ như định rõ ranh giới, giải tỏa một số hộ đã được cấp chủ quyền trên đất của Thánh Địa La Vang, đền bù một số hoa lợi, chẳng hạn có vài hộ làm ruộng, làm hồ nuôi cá trong đất của Thánh Địa La Vang, v.v…)
PV: Hiện nay việc giải toả đền bù một số hộ dân đang sinh sống trong khu vực Thánh địa đến đâu rồi thưa Cha? Giá cả leo thang, Thánh địa sẽ giải quyết việc này thế nào? Nhà nước có hỗ trợ gì không?
Cha Gioang: Cha Quản Nhiệm La Vang đã vài lần gặp các đại diện của các hộ đang ở trong khu vực Thánh Địa, đã thương lượng với họ, có đại diện của cấp Xã và cấp Huyện dự các buổi họp nầy. Vấn đề chắc sẽ được giải quyết từ từ, trong sự thoả đáng mà các phe liên hệ có thể chấp nhận được.
PV: Hiện nay còn những khó khăn hoặc ngăn trở nào khiến cho Giáo hội chưa chính thức nhận lại và sở hữu đất đai của Thánh địa?
Cha Gioang: Hiện nay, chỉ còn những khó khăn trong việc đền bù, giải toả mặt bằng mà thôi. Xong các việc nầy, Chính Quyền Quảng Trị sẽ chính thức công nhận Đất của Thánh Địa La Vang như Vị đại Diện của Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị đã nói ra trong hai dịp quan trọng, dịp gặp Phái đoàn Toà Tổng Giám Mục Huế ngày 19 tháng 4 năm 2008 tại Đông Hà và dịp gặp Phái đoàn Toà Thánh Vatican ngày 13 tháng 6 năm 2008 tại Đông Hà.
PV: Kính thưa Cha, con được biết, trong thánh lễ diễn ra tại Linh đài Đức Mẹ, có một hiện tượng mặt trời toả ánh hào quang đang lúc Đức Ông trưởng phái đoàn toà thánh phát biểu và trao tặng hào quang của Đức Giáo Hoàng gửi tặng Thánh địa. Xin Cha miêu tả và kể lại cụ thể “sự lạ” này được không?
Cha Gioang: Lúc đó là 09 giờ 40 phút, sáng ngày 13 tháng 6 năm 2008, tại Thánh Địa La Vang, tôi đang ngồi ngay sau Linh Đài Đức Mẹ La Vang, sau Ba Cây Đa, để ghi tốc ký những gì Đức ông Pietro Parolin đang nói trong Thánh Lễ ở Linh Đài. Trong khi đang cúi đầu ghi câu “gió mát hài hoà…”, tôi nghe xôn xao rộn ràng quanh tôi và trước mặt tôi.
Tôi vội ngước mắt nhìn lên vì lúc đó tôi đang cúi đầu viết… Tôi sửng sốt vì thấy mọi người không còn nghe Đức ông Parolin giảng, mà ai ai cũng lấy tay che mắt để nhìn lên trời cao cho rõ. Tôi nghe rõ những tiếng rộn ràng vang lên khắp nơi trong Thánh Địa La Vang: nào là: “Sự lạ! Sự lạ!”, nào là “Lạy Mẹ, Lạy Mẹ!”, nào là “Đẹp quá! đẹp quá!”
Linh tính cho tôi biết rằng đang có một “sự lạ” xảy ra.
Nhìn lên trời cao, tôi thấy mặt trời đang được bao quanh bằng một vòng tròn quá lạ và quá đẹp. Tôi vội đưa ngay máy chụp hình hướng lên thẳng mặt trời và chụp bốn lần.
Trong vòng năm phút sau, mọi người được yêu cầu đừng xôn xao, và Thánh lễ được tiếp tục.
Vì chăm chú vào Thánh Lễ, tôi không để ý đến hiện tượng nầy chấm dứt thế nào.
PV: Qua sự lạ này, nhiều người chứng kiến và đã tin, còn riêng cá nhân Cha, Cha có suy nghĩ gì về vấn đề này không? Cha cho đây là một điềm báo lành hay dữ? Cha hiểu điềm báo này thế nào dưới con mắt của một linh mục của Giáo Hội?
Cha Gioang: Thánh Lễ xong, tôi vội tháp tùng Phái đoàn để ra gặp Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị. Ngồi trong xe cùng với Đức Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Huế và Đức ông Vụ trưởng Bộ Truyền Giảng Phúc Âm cho các dân tộc, tôi cũng trao đổi với quý ngài về “sự lạ” nầy.
Sau khi về lại giáo xứ tại Diên Sanh, tôi gặp những người có đi La Vang trong ngày 13 nầy, và biết được ai ai cũng hân hoan vì Đức Mẹ đã cho họ chứng kiến một biến cố lạ tại La Vang.
Lòng tôi tự nhiên suy nghĩ rằng: ngày 13 là ngày nhắc nhở đến sự lạ mặt trời xảy ra tại Fatima. Thế là trí tôi liên tưởng ngay đến “sự lạ Fatima” và “sự lạ La Vang”: hai sự lạ nầy có điểm giống nhau vì hai sự lạ nầy đều có liên quan đến mặt trời. Và tôi thấy tầm quan trọng của sứ điệp Đức Mẹ muốn gởi đến cho chúng ta lúc nầy, cũng là sứ điệp mà Chúa Giêsu là Mặt Trời Công Chính đã đưa ra cho mọi người trong mọi thời đại: ăn năn đền tội, tin vào Tin Mừng, cải thiện đời sống, mến Chúa trên hết và yêu thương mọi người vì Chúa, hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa qua sự can thiệp đầy yêu thương của Đức Mẹ Maria.
PV: Cha có nghe dư luận người này người khác bàn tán và nhận định gì về sự lạ này không? Ai nói, ở đâu? họ nói thế nào?
Cha Gioang: Tôi điều tra kỹ để xem những ai không đi La Vang trong ngày hôm đó, hoặc lúc đó đang ở xa La Vang, chẳng hạn như ở Thừa Thiên Huế, hay ở những vùng tại Quảng Trị nhưng xa La Vang, trong lúc “sự lạ” xảy ra tại La Vang, thì được những câu trả lời giống nhau: họ không thấy sự gì lạ trên bầu trời dẫu lúc đó họ được những người thân ở La Vang gọi điện thoại di động đến để nói hãy ra xem bầu trời có dấu lạ, nhưng họ trả lời ngay là không thấy gì khác thường trên bầu trời lúc đó. Vi thế, tôi có thể kết luận rằng: “sự lạ” chỉ xảy ra trên bầu trời La Vang, và chỉ có những ai ở La Vang lúc đó mới thấy được “sự lạ” nầy.
Ai có mặt tại La Vang ngày 13/6/2008 cũng đều cho mình có diễm phúc được Đức Mẹ cho thấy một “sự lạ” có một không hai. Và họ đều nghĩ rằng đây là một dấu lạ chứng tỏ lòng yêu thương của Đức Mẹ dành cho con cái mình.
PV: Con xin chân thành cám ơn Cha nhiều. Kính chúc Cha sức khoẻ và nhiều ơn Chúa để tiếp tục làm rạng danh Chúa và Giáo Hội của Ngài tại La Vang, Việt Nam.
Sau đây là bài phỏng vấn Cha Gioang sau sự kiện Phái đoàn Toà Thánh viếng thăm Thánh địa La Vang:
PV: Kính chào Cha,
Trước hết, con xin chúc mừng Cha đã cùng với Tổng giáo phận và Trung tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc tổ chức thành công sự kiện này đón chào phái đoàn Toà Thánh viếng thăm Thánh địa La Vang và Tổng Giáo phận Huế.
Xin Cha vui lòng cho biết một vài nhận định của Cha về quan hệ giữa nhà nước và Giáo hội sau chuyến viếng thăm lần này của Phái đoàn Toà Thánh tại Việt Nam?
Cha Gioang: Giáo Hội Công giáo luôn đứng trên mọi lập trường chính trị, trên mọi đảng phái, vì thế, nói chung, quan hệ nào giữa Nhà Nước và Giáo Hội cũng luôn luôn được cải thiện vì Giáo Hội tìm đủ mọi cách để đối thoại chân thành và cởi mở theo lập trường của Chúa Giêsu dạy: đừng làm tắt tim đèn còn leo lét, nhưng hãy khơi sáng lên.
Nói riêng, quan hệ hiện nay giữa Nhà Nước Cộng sản Việt Nam với Giáo Hội thế nào cũng được cải thiện đôi chút, và nếu cứ kiên trì tìm hiểu nhau, kính trọng nhau, thông cảm với nhau, thì sự cải thiện sẽ dần dần được mở rộng thêm.
PV: Về chuyến viếng thăm của phái đoàn Toà Thánh tại Thánh địa La Vang, Cha mong đợi và hy vọng điều gì cho Thánh địa La Vang?
Cha Gioang: Đây chỉ là một chuyến viếng thăm do Bộ Ngoại Giao Việt Nam mời, và Phái đoàn Toà Thánh được mời, cũng vào hạng thứ trưởng. Đó là nói về mặt ngoại giao giữa hai quốc gia: quốc gia Việt nam và quốc gia Vatican. Vì thế, về mặt ngoại giao, tôi nghĩ đây chỉ là bước đầu sơ bộ để tìm hiểu, để bày tỏ lập trường, và có thể có giải quyết một vài vấn đề giữa đôi bên.
Đức ông Parolin và ĐC Hồng nhìn lên hiện tượng lạ |
PV: Cha có hy vọng Thánh địa La Vang sẽ sớm được trả lại cho Giáo hội như nhà nước đã hứa không, thưa Cha?
Cha Gioang: Việc Thánh Địa La Vang được trả lại cho Giáo Hội Việt Nam là điều chắc chắn và rõ ràng, chỉ chờ giải quyết xong những yếu tố liên hệ như định rõ ranh giới, giải tỏa một số hộ đã được cấp chủ quyền trên đất của Thánh Địa La Vang, đền bù một số hoa lợi, chẳng hạn có vài hộ làm ruộng, làm hồ nuôi cá trong đất của Thánh Địa La Vang, v.v…)
PV: Hiện nay việc giải toả đền bù một số hộ dân đang sinh sống trong khu vực Thánh địa đến đâu rồi thưa Cha? Giá cả leo thang, Thánh địa sẽ giải quyết việc này thế nào? Nhà nước có hỗ trợ gì không?
Cha Gioang: Cha Quản Nhiệm La Vang đã vài lần gặp các đại diện của các hộ đang ở trong khu vực Thánh Địa, đã thương lượng với họ, có đại diện của cấp Xã và cấp Huyện dự các buổi họp nầy. Vấn đề chắc sẽ được giải quyết từ từ, trong sự thoả đáng mà các phe liên hệ có thể chấp nhận được.
PV: Hiện nay còn những khó khăn hoặc ngăn trở nào khiến cho Giáo hội chưa chính thức nhận lại và sở hữu đất đai của Thánh địa?
Cha Gioang: Hiện nay, chỉ còn những khó khăn trong việc đền bù, giải toả mặt bằng mà thôi. Xong các việc nầy, Chính Quyền Quảng Trị sẽ chính thức công nhận Đất của Thánh Địa La Vang như Vị đại Diện của Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị đã nói ra trong hai dịp quan trọng, dịp gặp Phái đoàn Toà Tổng Giám Mục Huế ngày 19 tháng 4 năm 2008 tại Đông Hà và dịp gặp Phái đoàn Toà Thánh Vatican ngày 13 tháng 6 năm 2008 tại Đông Hà.
PV: Kính thưa Cha, con được biết, trong thánh lễ diễn ra tại Linh đài Đức Mẹ, có một hiện tượng mặt trời toả ánh hào quang đang lúc Đức Ông trưởng phái đoàn toà thánh phát biểu và trao tặng hào quang của Đức Giáo Hoàng gửi tặng Thánh địa. Xin Cha miêu tả và kể lại cụ thể “sự lạ” này được không?
Cha Gioang: Lúc đó là 09 giờ 40 phút, sáng ngày 13 tháng 6 năm 2008, tại Thánh Địa La Vang, tôi đang ngồi ngay sau Linh Đài Đức Mẹ La Vang, sau Ba Cây Đa, để ghi tốc ký những gì Đức ông Pietro Parolin đang nói trong Thánh Lễ ở Linh Đài. Trong khi đang cúi đầu ghi câu “gió mát hài hoà…”, tôi nghe xôn xao rộn ràng quanh tôi và trước mặt tôi.
Tôi vội ngước mắt nhìn lên vì lúc đó tôi đang cúi đầu viết… Tôi sửng sốt vì thấy mọi người không còn nghe Đức ông Parolin giảng, mà ai ai cũng lấy tay che mắt để nhìn lên trời cao cho rõ. Tôi nghe rõ những tiếng rộn ràng vang lên khắp nơi trong Thánh Địa La Vang: nào là: “Sự lạ! Sự lạ!”, nào là “Lạy Mẹ, Lạy Mẹ!”, nào là “Đẹp quá! đẹp quá!”
Linh tính cho tôi biết rằng đang có một “sự lạ” xảy ra.
Nhìn lên trời cao, tôi thấy mặt trời đang được bao quanh bằng một vòng tròn quá lạ và quá đẹp. Tôi vội đưa ngay máy chụp hình hướng lên thẳng mặt trời và chụp bốn lần.
Trong vòng năm phút sau, mọi người được yêu cầu đừng xôn xao, và Thánh lễ được tiếp tục.
Vì chăm chú vào Thánh Lễ, tôi không để ý đến hiện tượng nầy chấm dứt thế nào.
PV: Qua sự lạ này, nhiều người chứng kiến và đã tin, còn riêng cá nhân Cha, Cha có suy nghĩ gì về vấn đề này không? Cha cho đây là một điềm báo lành hay dữ? Cha hiểu điềm báo này thế nào dưới con mắt của một linh mục của Giáo Hội?
Cha Gioang: Thánh Lễ xong, tôi vội tháp tùng Phái đoàn để ra gặp Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị. Ngồi trong xe cùng với Đức Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Huế và Đức ông Vụ trưởng Bộ Truyền Giảng Phúc Âm cho các dân tộc, tôi cũng trao đổi với quý ngài về “sự lạ” nầy.
Sau khi về lại giáo xứ tại Diên Sanh, tôi gặp những người có đi La Vang trong ngày 13 nầy, và biết được ai ai cũng hân hoan vì Đức Mẹ đã cho họ chứng kiến một biến cố lạ tại La Vang.
Lòng tôi tự nhiên suy nghĩ rằng: ngày 13 là ngày nhắc nhở đến sự lạ mặt trời xảy ra tại Fatima. Thế là trí tôi liên tưởng ngay đến “sự lạ Fatima” và “sự lạ La Vang”: hai sự lạ nầy có điểm giống nhau vì hai sự lạ nầy đều có liên quan đến mặt trời. Và tôi thấy tầm quan trọng của sứ điệp Đức Mẹ muốn gởi đến cho chúng ta lúc nầy, cũng là sứ điệp mà Chúa Giêsu là Mặt Trời Công Chính đã đưa ra cho mọi người trong mọi thời đại: ăn năn đền tội, tin vào Tin Mừng, cải thiện đời sống, mến Chúa trên hết và yêu thương mọi người vì Chúa, hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa qua sự can thiệp đầy yêu thương của Đức Mẹ Maria.
PV: Cha có nghe dư luận người này người khác bàn tán và nhận định gì về sự lạ này không? Ai nói, ở đâu? họ nói thế nào?
Cha Gioang: Tôi điều tra kỹ để xem những ai không đi La Vang trong ngày hôm đó, hoặc lúc đó đang ở xa La Vang, chẳng hạn như ở Thừa Thiên Huế, hay ở những vùng tại Quảng Trị nhưng xa La Vang, trong lúc “sự lạ” xảy ra tại La Vang, thì được những câu trả lời giống nhau: họ không thấy sự gì lạ trên bầu trời dẫu lúc đó họ được những người thân ở La Vang gọi điện thoại di động đến để nói hãy ra xem bầu trời có dấu lạ, nhưng họ trả lời ngay là không thấy gì khác thường trên bầu trời lúc đó. Vi thế, tôi có thể kết luận rằng: “sự lạ” chỉ xảy ra trên bầu trời La Vang, và chỉ có những ai ở La Vang lúc đó mới thấy được “sự lạ” nầy.
Ai có mặt tại La Vang ngày 13/6/2008 cũng đều cho mình có diễm phúc được Đức Mẹ cho thấy một “sự lạ” có một không hai. Và họ đều nghĩ rằng đây là một dấu lạ chứng tỏ lòng yêu thương của Đức Mẹ dành cho con cái mình.
PV: Con xin chân thành cám ơn Cha nhiều. Kính chúc Cha sức khoẻ và nhiều ơn Chúa để tiếp tục làm rạng danh Chúa và Giáo Hội của Ngài tại La Vang, Việt Nam.
Tin Đáng Chú Ý
Vietnam Airlines 'giáng cấp' ngoại trưởng Bỉ để lấy chỗ cho quan chức Đảng Nhà Nước
BBC
15:27 20/06/2008
Vietnam Airlines 'giáng cấp' ngoại trưởng Bỉ để lấy chỗ cho quan chức Đảng Nhà Nước
Ngoại trưởng Bỉ trong chuyến bay từ Hà Nội và TPHCM bị hạ cấp từ ghế hạng thương gia xuống phổ thông để lấy chỗ cho quan chức Đảng của Việt Nam.
Bài tiếng Pháp trên báo L'Echo đã thu hút rất nhiều phản ứng của độc giả trước "sự cố ngoại giao" xảy ra do cách giải quyết của hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam.
Lý do là hãng hàng không đã lấy chỗ hạng thương gia để cho các Ủy viên Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam có chỗ bay vào Nam dự đám tang cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Sự việc xảy ra hôm thứ Sáu 13/06 khi Ngoại trưởng Karel De Gucht cùng phái đoàn Bỉ bay chuyến bay của Vietnam Airlines vào TP Hồ Chí Minh.
Vé hạng thương gia của ông cùng Đại sứ Hubert Cooreman và các quan chức Bỉ khác đã được đặt từ trước.
Bài báo còn viết rõ đây là các ghế đã "được trả tiền."
Đây là một sai lầm nghiêm trọng và ngớ ngẩn của phía Việt Nam
Ý kiến gửi đến báo L'Echo
Khi bị đẩy xuống hạng phổ thông, Ngoại trưởng Bỉ không muốn có phản ứng gì nhưng đại sứ Cooreman thì phản đối và "lấy lại" được chỗ cho mình và một quan chức cao cấp khác của Bộ Ngoại giao Bỉ trên hạng thương gia.
Một nhân viên tại Đại sứ quán Bỉ ở Hà Nội không muốn trả lời BBC về việc này mà chỉ đề nghị liên lạc lại với họ vào đầu tuần sau.
Phản ứng dư luận
Tờ báo ra ở thủ đô Bỉ, cũng là thủ đô Liên hiệp châu Âu trích lời một số thương nhân Bỉ đi cùng đoàn bình rằng dù Việt Nam "đã có nền kinh tế tự do hóa nhanh, nhưng đây vẫn là một chế độ cộng sản."
Cho đến 20/06, phần phản ứng của độc giả bài báo vẫn tiếp tục ghi nhận các ý kiến khác nhau về vụ ông Karel De Gucht bị đối xử ở Việt Nam.
Một ý kiến viết rằng đây là chuyện chỉ có thể xảy ra trong các chế độ độc tài, toàn trị.
Ý kiến của một người Bỉ đã sống tại Việt Nam 5 năm thì ca ngợi ông Karel De Gucht đã giúp nhiều cho các doanh nghiệp Bỉ, và nói đây là "một sai lầm nghiêm trọng và ngớ ngẩn (grosse bourde) của phía Việt Nam."
Cũng có ý kiến đại ý nói các nhà chính trị thì luôn được ưu tiên, nhưng vụ này cho thấy "có những người còn được ưu tiên hơn."
Đài truyền hình RTL và báo Le Soir cũng đưa tin về vụ ông Karel De Gucht bị "hạ cấp" trên hàng không Việt Nam.
Phản ứng độc giả:
Masupilamix
Thật là không hiểu các bác Vietnam Airlines nhà ta nghĩ sao khi lại làm như thế. Như thế thể hiện sự coi thường "khách hàng" mà đây lại là khách hàng có thể nói là không bình thường. Chuyện lấy lại chỗ ngồi xảy ra với một người dân thường còn không chấp nhận được chứ huống hồ gì với Đại Sứ nước bạn. Nếu các vị ủy viên TW đảng muốn đi sao Bộ quốc phòng không cử một chuyên cơ để đưa họ đi mà phải làm cái trò mèo ấy... thật cũng hết nói nổi....!!!
Anh Tú
Nếu những người tranh ghế hạng thương gia mà Bỉ đã mua nghĩ một chút về việc Vn đi xin và vay ODA, kêu gọi đầu tư khản cổ, đau họng, thì sẽ không làm như vậy. Việc này dẫn đến hậu quả nhãn tiền là không thể kêu gọi thương gia Bỉ đầu tư vào Việt Nam.
TN
Nếu Bill Clinton hay Bill Gates có đi mua Mc Donald's hay Starbucks thì cũng phải xếp hàng như những người khác thôi. Hành động nhỏ nhưng thể hiện văn hoá lớn.
BG, China
Đây là một vấn đề không thể chấp nhận được đối với Vietnam Airlines. Dù cho người đã đặt chỗ hạng thương gia là một công dân bình thường cũng không có một quyền lực nào có thể buộc người đó xuống hạng phổ thông. Huống hồ đây còn là Đại sứ nước ngoài. Thật không hiểu Vietnam Ailines suy nghĩ như nào để đưa đến quyết định này.
Joe, SG
Ta cứ quen hành xử như những VIP, không khác gì các VIP phương tây. Nhưng ta biết hay không biết rằng hàng triệu những người làm "chủ đất nước" cả kiếp làm người không mơ nổi được "sờ" cánh máy bay thì "economy" hay "business" có xá gì. Hãy tỉnh lại đi quí vị mà đừng có quá xa "giai cấp vô sản". Kính.
Jhon B, Brisbane
Người ta tranh nhau đi dự đám tang ông Kiệt mà lại chà đạp lên cái mà chính ông Kiệt đã rất quý trọng đó là kêu gọi đầu tư và giúp đỡ từ các nước phát triển, trong đó có Bỉ. Đây không phải là một sai lầm như một người Bỉ nhận định mà nó phản ánh hoàn toàn khách quan bản chất hành xử của CS đối với xung quanh. Thử hỏi dân đen còn bị CS đối xử ra sao nữa? Việt Nam trước đây khi mới mở cửa có câu "... mong muốn làm bạn với tất cả các nước...", sau khi mở cửa một thời gian thì câu này được nâng cấp thành "... sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước...". Và chẳng lẽ bây giờ thấy đủ lông đủ cánh thì tiến lên "... không cần làm bạn với các nước..."?
Axian
Nếu đây là sự thật thì cách cư xử như vật là quá tồi tệ, không thể chấp nhận được.
M2M
Hãng hàng không của các ông, các ông làm gì mà chẳng được. Đấy là vẫn còn chỗ bình dân, chứ thiếu chỗ, chắc các ông lãnh đạo sẽ đuổi cổ cả đến Ban Ki-moon ra khỏi máy bay.
Quốc Sĩ, Hà Nội
Chi tiết ông đại sứ phản đối và 'lấy lại' được chỗ cho mình... thật hay. Ông đại sứ ở với dân Vn lâu rồi nên chắc cũng đã có nhiều kinh nghiệm và khó mà bắt nạt được ông ta. 'Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma thì phải mặc áo giấy'.
Trần Thanh
Có gì đâu mà khó hiểu. Nếu để các ủy viên TW ngồi hạng phổ thông thì ban giám đốc Vietnam Airline đi về làm vườn hết sao.
Ngoại trưởng Bỉ trong chuyến bay từ Hà Nội và TPHCM bị hạ cấp từ ghế hạng thương gia xuống phổ thông để lấy chỗ cho quan chức Đảng của Việt Nam.
Bài tiếng Pháp trên báo L'Echo đã thu hút rất nhiều phản ứng của độc giả trước "sự cố ngoại giao" xảy ra do cách giải quyết của hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam.
Bộ trưởng Ngoại giao Bỉ Karel De Gucht |
Sự việc xảy ra hôm thứ Sáu 13/06 khi Ngoại trưởng Karel De Gucht cùng phái đoàn Bỉ bay chuyến bay của Vietnam Airlines vào TP Hồ Chí Minh.
Vé hạng thương gia của ông cùng Đại sứ Hubert Cooreman và các quan chức Bỉ khác đã được đặt từ trước.
Bài báo còn viết rõ đây là các ghế đã "được trả tiền."
Đây là một sai lầm nghiêm trọng và ngớ ngẩn của phía Việt Nam
Ý kiến gửi đến báo L'Echo
Khi bị đẩy xuống hạng phổ thông, Ngoại trưởng Bỉ không muốn có phản ứng gì nhưng đại sứ Cooreman thì phản đối và "lấy lại" được chỗ cho mình và một quan chức cao cấp khác của Bộ Ngoại giao Bỉ trên hạng thương gia.
Một nhân viên tại Đại sứ quán Bỉ ở Hà Nội không muốn trả lời BBC về việc này mà chỉ đề nghị liên lạc lại với họ vào đầu tuần sau.
Phản ứng dư luận
Tờ báo ra ở thủ đô Bỉ, cũng là thủ đô Liên hiệp châu Âu trích lời một số thương nhân Bỉ đi cùng đoàn bình rằng dù Việt Nam "đã có nền kinh tế tự do hóa nhanh, nhưng đây vẫn là một chế độ cộng sản."
Cho đến 20/06, phần phản ứng của độc giả bài báo vẫn tiếp tục ghi nhận các ý kiến khác nhau về vụ ông Karel De Gucht bị đối xử ở Việt Nam.
Một ý kiến viết rằng đây là chuyện chỉ có thể xảy ra trong các chế độ độc tài, toàn trị.
Ý kiến của một người Bỉ đã sống tại Việt Nam 5 năm thì ca ngợi ông Karel De Gucht đã giúp nhiều cho các doanh nghiệp Bỉ, và nói đây là "một sai lầm nghiêm trọng và ngớ ngẩn (grosse bourde) của phía Việt Nam."
Cũng có ý kiến đại ý nói các nhà chính trị thì luôn được ưu tiên, nhưng vụ này cho thấy "có những người còn được ưu tiên hơn."
Đài truyền hình RTL và báo Le Soir cũng đưa tin về vụ ông Karel De Gucht bị "hạ cấp" trên hàng không Việt Nam.
Phản ứng độc giả:
Masupilamix
Thật là không hiểu các bác Vietnam Airlines nhà ta nghĩ sao khi lại làm như thế. Như thế thể hiện sự coi thường "khách hàng" mà đây lại là khách hàng có thể nói là không bình thường. Chuyện lấy lại chỗ ngồi xảy ra với một người dân thường còn không chấp nhận được chứ huống hồ gì với Đại Sứ nước bạn. Nếu các vị ủy viên TW đảng muốn đi sao Bộ quốc phòng không cử một chuyên cơ để đưa họ đi mà phải làm cái trò mèo ấy... thật cũng hết nói nổi....!!!
Anh Tú
Nếu những người tranh ghế hạng thương gia mà Bỉ đã mua nghĩ một chút về việc Vn đi xin và vay ODA, kêu gọi đầu tư khản cổ, đau họng, thì sẽ không làm như vậy. Việc này dẫn đến hậu quả nhãn tiền là không thể kêu gọi thương gia Bỉ đầu tư vào Việt Nam.
TN
Nếu Bill Clinton hay Bill Gates có đi mua Mc Donald's hay Starbucks thì cũng phải xếp hàng như những người khác thôi. Hành động nhỏ nhưng thể hiện văn hoá lớn.
BG, China
Đây là một vấn đề không thể chấp nhận được đối với Vietnam Airlines. Dù cho người đã đặt chỗ hạng thương gia là một công dân bình thường cũng không có một quyền lực nào có thể buộc người đó xuống hạng phổ thông. Huống hồ đây còn là Đại sứ nước ngoài. Thật không hiểu Vietnam Ailines suy nghĩ như nào để đưa đến quyết định này.
Joe, SG
Ta cứ quen hành xử như những VIP, không khác gì các VIP phương tây. Nhưng ta biết hay không biết rằng hàng triệu những người làm "chủ đất nước" cả kiếp làm người không mơ nổi được "sờ" cánh máy bay thì "economy" hay "business" có xá gì. Hãy tỉnh lại đi quí vị mà đừng có quá xa "giai cấp vô sản". Kính.
Jhon B, Brisbane
Người ta tranh nhau đi dự đám tang ông Kiệt mà lại chà đạp lên cái mà chính ông Kiệt đã rất quý trọng đó là kêu gọi đầu tư và giúp đỡ từ các nước phát triển, trong đó có Bỉ. Đây không phải là một sai lầm như một người Bỉ nhận định mà nó phản ánh hoàn toàn khách quan bản chất hành xử của CS đối với xung quanh. Thử hỏi dân đen còn bị CS đối xử ra sao nữa? Việt Nam trước đây khi mới mở cửa có câu "... mong muốn làm bạn với tất cả các nước...", sau khi mở cửa một thời gian thì câu này được nâng cấp thành "... sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước...". Và chẳng lẽ bây giờ thấy đủ lông đủ cánh thì tiến lên "... không cần làm bạn với các nước..."?
Axian
Nếu đây là sự thật thì cách cư xử như vật là quá tồi tệ, không thể chấp nhận được.
M2M
Hãng hàng không của các ông, các ông làm gì mà chẳng được. Đấy là vẫn còn chỗ bình dân, chứ thiếu chỗ, chắc các ông lãnh đạo sẽ đuổi cổ cả đến Ban Ki-moon ra khỏi máy bay.
Quốc Sĩ, Hà Nội
Chi tiết ông đại sứ phản đối và 'lấy lại' được chỗ cho mình... thật hay. Ông đại sứ ở với dân Vn lâu rồi nên chắc cũng đã có nhiều kinh nghiệm và khó mà bắt nạt được ông ta. 'Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma thì phải mặc áo giấy'.
Trần Thanh
Có gì đâu mà khó hiểu. Nếu để các ủy viên TW ngồi hạng phổ thông thì ban giám đốc Vietnam Airline đi về làm vườn hết sao.
Văn Hóa
Về nghe,
lykhách
14:20 20/06/2008
về nghe,
Người về lại cõi thinh lặng lẽ
Buông thời gian chẳng tính nữa làm chi
Nghe trong lòng nhịp trái tim quạnh quẽ
Niềm mênh mang lời cả kiếp thầm thì
Bỏ bên tai nhân trần vọng động
Bỏ tà tâm thường dậy sóng xôn xao
Bỏ hơn thua chuyện biển thấp núi cao
Hồn phẳng lặng một bình nguyên thanh thản
Cỏ cây phơi yên lành trong ánh sáng
Uống nắng ban mai tỏa rạng thơm lành
Diễm kiều nào cũng biết rất mong manh
Đời cây lá chẳng mãi xanh thơm mãi
Muôn vạn vật trời ban cho trẻ lại
Riêng kiếp người trôi về hướng phôi phai
Xin lần hoa tươi một lần kết trái
Như lời tạ ơn Trời cho một hình hài
Và một trái tim chưa bao giờ giới hạn
Khi tình yêu mời gọi lối thiên đàng
Xin trọn lành trong trăm năm ngắn ngủi
Để chẳng bao giờ người lo sợ thời gian
Người tạ ơn Trời, cảm ơn người
Trời đã cho không, người cho biết buồn vui
Trộn trời đất trong ân tình vời vợi
Nghe yêu thương vẫn thánh thiện trên ngôi
Người về lại cõi tâm lặng lẽ
Nghe không gian nhè nhẹ không gian
Nghe thời gian chẳng sớm chẳng muộn màng
Chỉ vừa đủ cho bình an cõi thế
Lời tâm tư xin dâng như của lễ
Thầm thì trong một buổi non ngàn về
Nắng gọi gió nghìn xa trên cây kể
Chuyện, hình như con tim chợt lắng nghe.
Người về lại cõi thinh lặng lẽ
Buông thời gian chẳng tính nữa làm chi
Nghe trong lòng nhịp trái tim quạnh quẽ
Niềm mênh mang lời cả kiếp thầm thì
Bỏ bên tai nhân trần vọng động
Bỏ tà tâm thường dậy sóng xôn xao
Bỏ hơn thua chuyện biển thấp núi cao
Hồn phẳng lặng một bình nguyên thanh thản
Cỏ cây phơi yên lành trong ánh sáng
Uống nắng ban mai tỏa rạng thơm lành
Diễm kiều nào cũng biết rất mong manh
Đời cây lá chẳng mãi xanh thơm mãi
Muôn vạn vật trời ban cho trẻ lại
Riêng kiếp người trôi về hướng phôi phai
Xin lần hoa tươi một lần kết trái
Như lời tạ ơn Trời cho một hình hài
Và một trái tim chưa bao giờ giới hạn
Khi tình yêu mời gọi lối thiên đàng
Xin trọn lành trong trăm năm ngắn ngủi
Để chẳng bao giờ người lo sợ thời gian
Người tạ ơn Trời, cảm ơn người
Trời đã cho không, người cho biết buồn vui
Trộn trời đất trong ân tình vời vợi
Nghe yêu thương vẫn thánh thiện trên ngôi
Người về lại cõi tâm lặng lẽ
Nghe không gian nhè nhẹ không gian
Nghe thời gian chẳng sớm chẳng muộn màng
Chỉ vừa đủ cho bình an cõi thế
Lời tâm tư xin dâng như của lễ
Thầm thì trong một buổi non ngàn về
Nắng gọi gió nghìn xa trên cây kể
Chuyện, hình như con tim chợt lắng nghe.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Đời Hoa
Nguyễn T. Hoà
09:58 20/06/2008
ĐỜI HOA
Ảnh của Nguyễn T. Hoà.
Trăng tròn để mà khuyết;
Bèo hợp để chia tan;
Người gần để ly biệt
Hoa thu không nắng cũng phai màu,
Trên mặt người kia in nét đau.
(Trích thơ của Xuân Diệu)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền