Phụng Vụ - Mục Vụ
Nhà tương lai
Lm Vũđình Tường
06:06 14/05/2014
Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết Ngài gặp các môn đệ trên đường Emmaus Ngài nhắc lại các biến cố đã xảy ra tiên đoán về Ngài, nhờ thế các ông nhận biết Ngài. Những ngày sau Phục Sinh Giáo Hội theo truyền thống ấy, nhắc lại các biến cố tiên đoán trước cuộc tử nạn của Chúa giúp chúng ta học biết thêm về biến cố Phục Sinh. Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và các môn đệ diễn ra trong bầu khí thầy trò, thâm tình, cởi mở, chia sẻ nhưng lại gây ra cho các môn đệ mối lo khôn nguôi. Bởi vì các môn đệ dường như không hiểu điều Đức Kitô nói, không rõ việc Đức Kitô làm. Càng giải thích thì càng thấy mông lung, mù mờ. Con đường tương lai tươi sáng dường như đang bị mây mù bao phủ. Những ngày sắp tới sẽ là những tang thương buồn khổ đón chờ. Các môn đệ không hiểu việc Thầy rửa chân cho các ông, việc Thầy bẻ bánh, việc Thầy nói sẽ có một trong số các ông bán đứng Thầy và rồi việc tất cả các ông sẽ chối Thầy. Việc Thầy bị bắt, đóng đinh, chết trên thập tự và ba ngày sau sẽ sống lại. Toàn là những điều vượt quá trí tưởng, ngoài dự đoán của toàn thể nhân loại. Những điều Thầy chia sẻ, nói ra có ngụ í gì nghe không hiểu, suy không thấu, cố giải thích vẫn chưa thoả mãn. Những điều này chưa hiểu xong thì đến việc Thầy nói sẽ di xa một thời gian. Thầy đi việc riêng hoặc đi cầu nguyện một mình là điều thường xẩy ra nhưng đi một thời gian mà không mang theo bất cứ môn đệ nào là điều chưa từng xảy ra và là điều làm cho các ông bồn chồn, lo lắng, tự hỏi phải chăng mình làm điều gì sai khiến Thầy buồn lòng. Biết được những lo âu hiện rõ trên mặt của các môn đệ Đức Kitô khuyên nhủ các ông hãy yên tâm, đừng sợ, hãy đặt trọn niềm tin vào Thầy và vào Chúa Cha. Dù với những lời an ủi, vỗ về như thế các ông cảm thấy iên tâm hơn chút nhưng mối lo không dứt, nó lắng đọng trong tim và sẵn sàng xoè móng vuốt ra cào cấu tâm can các ông. Nín nhịn không nổi ông Thomas phải lên tiếng,
Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao biết được đường Jn 14,5
Ông Philip lại muốn biết thêm chút nửa thêm,
Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện 14,8
Sau khi nghe những câu trả lời của Đức Kitô các tông đồ vẫn âm âm, u u, ngu ngơ không rõ những điều Đức Kitô giải thích. Trong tâm các ông vẫn bất an, tương lai mù tối, bóng tối ngày mai rình rập, đợi chờ trong lo sợ không biết bất hạnh lúc nào xảy ra. Đức Kitô giải thích tiếp là Thầy đi trước để dọn chỗ và khi dọn chỗ xong Thầy sẽ trở lại đón đến chung sống với Thầy. Vì thế không phải lo sợ, không phải buồn sầu, không phải xao xuyến. Hãy đặt trọn niềm tin vào Thầy mọi sự sẽ xảy ra đúng chương trình của Thiên Chúa. Theo chương trình đó thì các ông cần hiểu và tin rằng vượt qua thập tự là sự sống lại, Phục Sinh vinh hiển của Đức Kitô, nhưng đó chỉ là bước đầu của cuộc sống trường sinh. Bước kế tiếp là lên trời ngự bên hữu Chúa Cha và liên kết trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta thường thắc mắc không hiểu cuộc sống trường sinh như thế nào. Ít ra chúng ta cũng có câu trả lời dù không đầy đủ nơi Đức Kitô nhưng cũng có thể mường tượng ra it nhiều cuộc sống trường sinh. Đức Kitô cho biết trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở 14,2. Trong nhà có nhiều chỗ ở cho biết nơi đó không còn phải lo lắng việc mua nhà, mua đất, không còn phải lo việc trả tiền thuê, ở trọ, không còn cảnh sống đơn độc, cô đơn một mình. Tình thương Đức Kitô thay đổi tất cả, bao trùm tất cả. Trong nhà Cha Thầy người ta sẽ sống cuộc sống cộng đoàn trong đó tình yêu Chúa làm cho tâm hồn ta no thoả. Bởi no thoả nên không còn đói khát chi. Bởi không còn đói khát nên không còn thèm muốn. Bởi không lo lắng nên không phải lo tồn kho, tích trữ. Bởi no thoả nên không không còn cạnh tranh trong cuộc sống. Tình yêu Chúa làm no thoả lòng người. Đó là cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, liên kết, tin tưởng và tin yêu trong cùng một Thiên Chúa yêu thương.
Khi chúng ta hoàn tất hành trình của người lữ hành dương thế chúng ta vững tin có được nơi chốn trên thiên quốc, nơi đó chúng ta sống hạnh phúc, yêu thương tràn đầy và kết hợp với người thân thương ra đi trước chúng ta.
Cuộc sống trường sinh, hạnh phúc có thể xa lạ với một số người nhưng những điều này không hề xa lạ với những người Do Thái. Họ vững tin vào cuộc sống mai sau. Họ tin là mọi sự tốt đẹp trần gian đều đến từ Thiên Chúa và chúng ngày đêm luôn quy về một hướng duy nhất đó là Thiên Chúa. Đó là điểm cuối trong cuộc hành trình dương thế của chúng. Đó cũng là đích điểm của nhân loại, ngày cùng của vũ trụ. Theo họ ngày này hoàn thành bốn điểm quan trọng trong đời đó là: chết, phán xét, và thiên đàng và hoả ngục.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao biết được đường Jn 14,5
Ông Philip lại muốn biết thêm chút nửa thêm,
Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện 14,8
Sau khi nghe những câu trả lời của Đức Kitô các tông đồ vẫn âm âm, u u, ngu ngơ không rõ những điều Đức Kitô giải thích. Trong tâm các ông vẫn bất an, tương lai mù tối, bóng tối ngày mai rình rập, đợi chờ trong lo sợ không biết bất hạnh lúc nào xảy ra. Đức Kitô giải thích tiếp là Thầy đi trước để dọn chỗ và khi dọn chỗ xong Thầy sẽ trở lại đón đến chung sống với Thầy. Vì thế không phải lo sợ, không phải buồn sầu, không phải xao xuyến. Hãy đặt trọn niềm tin vào Thầy mọi sự sẽ xảy ra đúng chương trình của Thiên Chúa. Theo chương trình đó thì các ông cần hiểu và tin rằng vượt qua thập tự là sự sống lại, Phục Sinh vinh hiển của Đức Kitô, nhưng đó chỉ là bước đầu của cuộc sống trường sinh. Bước kế tiếp là lên trời ngự bên hữu Chúa Cha và liên kết trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta thường thắc mắc không hiểu cuộc sống trường sinh như thế nào. Ít ra chúng ta cũng có câu trả lời dù không đầy đủ nơi Đức Kitô nhưng cũng có thể mường tượng ra it nhiều cuộc sống trường sinh. Đức Kitô cho biết trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở 14,2. Trong nhà có nhiều chỗ ở cho biết nơi đó không còn phải lo lắng việc mua nhà, mua đất, không còn phải lo việc trả tiền thuê, ở trọ, không còn cảnh sống đơn độc, cô đơn một mình. Tình thương Đức Kitô thay đổi tất cả, bao trùm tất cả. Trong nhà Cha Thầy người ta sẽ sống cuộc sống cộng đoàn trong đó tình yêu Chúa làm cho tâm hồn ta no thoả. Bởi no thoả nên không còn đói khát chi. Bởi không còn đói khát nên không còn thèm muốn. Bởi không lo lắng nên không phải lo tồn kho, tích trữ. Bởi no thoả nên không không còn cạnh tranh trong cuộc sống. Tình yêu Chúa làm no thoả lòng người. Đó là cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, liên kết, tin tưởng và tin yêu trong cùng một Thiên Chúa yêu thương.
Khi chúng ta hoàn tất hành trình của người lữ hành dương thế chúng ta vững tin có được nơi chốn trên thiên quốc, nơi đó chúng ta sống hạnh phúc, yêu thương tràn đầy và kết hợp với người thân thương ra đi trước chúng ta.
Cuộc sống trường sinh, hạnh phúc có thể xa lạ với một số người nhưng những điều này không hề xa lạ với những người Do Thái. Họ vững tin vào cuộc sống mai sau. Họ tin là mọi sự tốt đẹp trần gian đều đến từ Thiên Chúa và chúng ngày đêm luôn quy về một hướng duy nhất đó là Thiên Chúa. Đó là điểm cuối trong cuộc hành trình dương thế của chúng. Đó cũng là đích điểm của nhân loại, ngày cùng của vũ trụ. Theo họ ngày này hoàn thành bốn điểm quan trọng trong đời đó là: chết, phán xét, và thiên đàng và hoả ngục.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:20 14/05/2014
BIẾT BAY
Con chim nói: “Tôi biết bay”
Hoa sen nói: “Tôi cũng biết bay”.
Con chim khinh miệt không thèm nhìn hoa sen, nói:
- “Mày (nói) có sai không? Mày đã bị đóng chết trên mặt đất, làm thế nào mà bay được chứ?”
Hoa sen vui vẻ, sung sướng trả lời rất tự nhiên:
- “Anh sử dụng cánh để bay, còn tôi dùng quả tim để bay”.
(Hạnh Lâm Tử)
Suy tư:
Thiên Chúa ban cho mỗi người tài năng tri thức không giống nhau: có người thông thạo thiên văn địa lý, có người dạy học, có người làm họa sĩ, có người làm ruộng chân lấm tay bùn, có người buôn bán, có người làm linh mục, có người làm dì phước.v.v…
Ai cũng có tư cách và nhân phẩm của mình.
Ai cũng có khối óc để suy tư và quả tim để yêu thương.
Vậy thì, không có lý do gì mà ngăn cấm anh chị em thăng tiến, bay cao.
Cái đáng khinh miệt chính là khi chúng ta dùng tài năng và sự hiểu biết của mình để làm những điều bất chính, hoặc âm mưu làm tổn thương đến tha nhân.
Mỗi người đều có cách “bay” khác nhau để tìm chân lý, việc của người Ki-tô hữu nên làm là sống đúng tinh thần Phúc Âm trong cuộc sống của mình.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
---------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
N2T |
Con chim nói: “Tôi biết bay”
Hoa sen nói: “Tôi cũng biết bay”.
Con chim khinh miệt không thèm nhìn hoa sen, nói:
- “Mày (nói) có sai không? Mày đã bị đóng chết trên mặt đất, làm thế nào mà bay được chứ?”
Hoa sen vui vẻ, sung sướng trả lời rất tự nhiên:
- “Anh sử dụng cánh để bay, còn tôi dùng quả tim để bay”.
(Hạnh Lâm Tử)
Suy tư:
Thiên Chúa ban cho mỗi người tài năng tri thức không giống nhau: có người thông thạo thiên văn địa lý, có người dạy học, có người làm họa sĩ, có người làm ruộng chân lấm tay bùn, có người buôn bán, có người làm linh mục, có người làm dì phước.v.v…
Ai cũng có tư cách và nhân phẩm của mình.
Ai cũng có khối óc để suy tư và quả tim để yêu thương.
Vậy thì, không có lý do gì mà ngăn cấm anh chị em thăng tiến, bay cao.
Cái đáng khinh miệt chính là khi chúng ta dùng tài năng và sự hiểu biết của mình để làm những điều bất chính, hoặc âm mưu làm tổn thương đến tha nhân.
Mỗi người đều có cách “bay” khác nhau để tìm chân lý, việc của người Ki-tô hữu nên làm là sống đúng tinh thần Phúc Âm trong cuộc sống của mình.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
---------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:22 14/05/2014
N2T |
6. Đối với lòng nhân từ của Thiên Chúa thì không được tuyệt vọng.
(Thánh Dominicus)---------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài Giáo Lý của ĐTC Phanxicô về Ơn Sức Mạnh
Phaolô Phạm Xuân Khôi
10:24 14/05/2014
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 4 tháng 5 năm 2014 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Hôm nay ĐTC giải thích về Ơn Sức Mạnh.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Chúng ta đã suy niệm trong những bài giáo lý gần đây về ba ơn đầu tiên của Chúa Thánh Thần là các ơn khôn ngoan, thông hiểu và biết lo liệu. Hôm nay chúng ta suy niệm về việc Chúa làm: Ngài luôn luôn đến nâng đỡ chúng ta trong sự yếu đuối của chúng ta và Ngài làm điều ấy bằng một ơn đặc biệt: ơn sức mạnh.
1. Có một dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của ơn này. Một người gieo giống đi ra gieo hạt giống; tuy nhiên không phải tất cả hạt giống được gieo xuống đều sinh hoa quả. Những hạt rơi trên lối đi bị chim trởi ăn mất; những hạt rơi trên đất sỏi đá hay bụi gai sẽ mọc lên, nhưng mau bị mặt trời làm cho khô héo hoặc bị những cây gai làm cho chết ngạt. Chỉ những hạt rơi trên trên đất tốt mới có thể lớn lên và sinh hoa kết quả (x. Mc 4:3-9 / Mt 13:3-9 / Lc 8:4-8 ). Như chính Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng Chúa Cha là người gieo giống, Ngài gieo hạt giống Lời Ngài một cách dồi dào. Tuy nhiên, hạt giống thường đụng chạm với sự khô khan của tâm hồn chúng ta, và ngay cả khi được đón nhận, có thể vẫn không sinh hoa quả. Trái lại, với ơn sức mạnh, Chúa Thánh Thần vun xới thửa đất tâm hồn chúng ta, giải thoát nó khỏi tình trạng tê liệt, thiếu quả quyết và tất cả sợ hãi có thể ngăn chặn nó, để Lời Chúa được đưa ra thực hành một cách đích thực và vui vẻ. Ơn sức mạnh này là một ơn trợ giúp thực sự, nó ban cho chúng ta sức mạnh và cũng giải thoát chúng ta khỏi rất nhiều trở ngại.
2. Ngoài ra còn có một số những giây phút khó khăn và những tình trạng cực độ trong đó ơn sức mạnh được bày tỏ một cách phi thường, gương mẫu. Đó là trường hợp của những người phải đối đầu với những kinh nghiệm đặc biệt khắc nghiệt và đau thương, làm đảo lộn cuộc sống của họ và của những người thân yêu của họ. Hội Thánh rực rỡ với những chứng từ của rất nhiều anh chị em là những người đã không ngần ngại hiến đời mình, để vẫn trung thành với Chúa và Tin Mừng của Người. Thậm chí ngày nay cũng có rất nhiều Kitô hữu ở nhiều nơi trên thế giới đang tiếp tục cử hành và làm chứng cho đức tin của họ với niềm xác tín sâu xa và bình thản, cùng chịu đựng ngay cả khi họ biết rằng điều này có thể đưa đến một giá rất cao. Ngay cả chúng ta, tất cả chúng ta, chúng ta biết những người đã trải qua những tình cảnh khó khăn, rất nhiều đau thương. Nhưng chúng ta nghĩ đến những người nam nữ này là những người sống một cuộc sống khó khăn, vật lộn để thăng tiến gia đình, giáo dục con cái của họ: họ làm tất cả điều này chính vì có Thần Khí dũng cảm giúp họ. Có bao nhiêu người nam nữ - chúng ta không biết tên họ - đang làm vinh danh dân của chúng ta, vinh danh Hội Thánh của chúng ta, bởi vì họ mạnh mẽ: mạnh mẽ trong việc thăng tiến cuộc sống của họ, gia đình của họ, công việc của họ, đức tin của họ. Những anh chị em này là các vị thánh, thánh trong cuộc sống hàng ngày, các vị thánh được giữ kín giữa chúng ta: chính ơn sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ của những con người, của những người cha, người mẹ, những anh em, chị em và những công dân. Chúng ta có rất nhiều! Chúng ta cảm tạ Chúa vì những Kitô hữu này là những người có một sự thánh thiện kín đáo: Chúa Thánh Thần mà họ có trong lòng làm cho họ tiếp tục! Và thật tốt cho chúng ta để suy nghĩ về những người này: nếu họ làm được tất cả những điều ấy, nếu họ có thể làm được những điều đó, thì tại sao tôi lại không làm được? Và cũng tốt để xin Chúa ban cho chúng ta ơn sức mạnh.
Chúng ta đừng nên nghĩ rằng ơn sức mạnh chỉ cần thiết trong một số trường hoặc tình cảnh đặc biệt. Ơn này phải là một ghi nhận cơ bản về bản thể Kitô hữu của chúng ta, trong những hoàn cảnh thông thường của cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Như tôi đã nói, chúng ta phải mạnh mẽ trong tất cả mọi ngày của cuộc sống hàng ngày, chúng ta cần sức mạnh này, để thăng tiến cuộc sống của chúng ta, gia đình của chúng ta, đức tin của chúng ta. Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói một câu làm cho chúng ta cảm thấy dễ chịu, “tôi có thể làm tất cả mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Phil 4:13). Khi chúng ta phải đối đầu với cuộc sống hàng ngày, khi gặp khó khăn, hãy nhớ điều này: “Tôi có thể làm tất cả mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.” Chúa ban sức mạnh, luôn luôn, không sai trật. Chúa không thử thách chúng ta quá sức chịu đựng chúng ta. Người luôn luôn ở với chúng ta. “Tôi có thể làm tất cả mọi thứ trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.”
Các bạn thân mến, đôi khi chúng ta có thể bị cám dỗ để tính ươn lười hoặc tệ hơn nữa là sự lo âu bắt lấy chúng ta, đặc biệt là khi đối diện với những khó khăn và thử thách của cuộc sống. Trong những trường hợp ấy, đừng chán nản, mà hãy cầu khẩn Chúa Thánh Thần, bởi vì với ơn sức mạnh Ngài có thể nâng tâm hồn chúng ta lên và thông truyền sức sống mới và lòng nhiệt thành cho cuộc sống chúng ta và việc đi theo Chúa Giêsu của chúng ta.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Chúng ta đã suy niệm trong những bài giáo lý gần đây về ba ơn đầu tiên của Chúa Thánh Thần là các ơn khôn ngoan, thông hiểu và biết lo liệu. Hôm nay chúng ta suy niệm về việc Chúa làm: Ngài luôn luôn đến nâng đỡ chúng ta trong sự yếu đuối của chúng ta và Ngài làm điều ấy bằng một ơn đặc biệt: ơn sức mạnh.
1. Có một dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của ơn này. Một người gieo giống đi ra gieo hạt giống; tuy nhiên không phải tất cả hạt giống được gieo xuống đều sinh hoa quả. Những hạt rơi trên lối đi bị chim trởi ăn mất; những hạt rơi trên đất sỏi đá hay bụi gai sẽ mọc lên, nhưng mau bị mặt trời làm cho khô héo hoặc bị những cây gai làm cho chết ngạt. Chỉ những hạt rơi trên trên đất tốt mới có thể lớn lên và sinh hoa kết quả (x. Mc 4:3-9 / Mt 13:3-9 / Lc 8:4-8 ). Như chính Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng Chúa Cha là người gieo giống, Ngài gieo hạt giống Lời Ngài một cách dồi dào. Tuy nhiên, hạt giống thường đụng chạm với sự khô khan của tâm hồn chúng ta, và ngay cả khi được đón nhận, có thể vẫn không sinh hoa quả. Trái lại, với ơn sức mạnh, Chúa Thánh Thần vun xới thửa đất tâm hồn chúng ta, giải thoát nó khỏi tình trạng tê liệt, thiếu quả quyết và tất cả sợ hãi có thể ngăn chặn nó, để Lời Chúa được đưa ra thực hành một cách đích thực và vui vẻ. Ơn sức mạnh này là một ơn trợ giúp thực sự, nó ban cho chúng ta sức mạnh và cũng giải thoát chúng ta khỏi rất nhiều trở ngại.
2. Ngoài ra còn có một số những giây phút khó khăn và những tình trạng cực độ trong đó ơn sức mạnh được bày tỏ một cách phi thường, gương mẫu. Đó là trường hợp của những người phải đối đầu với những kinh nghiệm đặc biệt khắc nghiệt và đau thương, làm đảo lộn cuộc sống của họ và của những người thân yêu của họ. Hội Thánh rực rỡ với những chứng từ của rất nhiều anh chị em là những người đã không ngần ngại hiến đời mình, để vẫn trung thành với Chúa và Tin Mừng của Người. Thậm chí ngày nay cũng có rất nhiều Kitô hữu ở nhiều nơi trên thế giới đang tiếp tục cử hành và làm chứng cho đức tin của họ với niềm xác tín sâu xa và bình thản, cùng chịu đựng ngay cả khi họ biết rằng điều này có thể đưa đến một giá rất cao. Ngay cả chúng ta, tất cả chúng ta, chúng ta biết những người đã trải qua những tình cảnh khó khăn, rất nhiều đau thương. Nhưng chúng ta nghĩ đến những người nam nữ này là những người sống một cuộc sống khó khăn, vật lộn để thăng tiến gia đình, giáo dục con cái của họ: họ làm tất cả điều này chính vì có Thần Khí dũng cảm giúp họ. Có bao nhiêu người nam nữ - chúng ta không biết tên họ - đang làm vinh danh dân của chúng ta, vinh danh Hội Thánh của chúng ta, bởi vì họ mạnh mẽ: mạnh mẽ trong việc thăng tiến cuộc sống của họ, gia đình của họ, công việc của họ, đức tin của họ. Những anh chị em này là các vị thánh, thánh trong cuộc sống hàng ngày, các vị thánh được giữ kín giữa chúng ta: chính ơn sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ của những con người, của những người cha, người mẹ, những anh em, chị em và những công dân. Chúng ta có rất nhiều! Chúng ta cảm tạ Chúa vì những Kitô hữu này là những người có một sự thánh thiện kín đáo: Chúa Thánh Thần mà họ có trong lòng làm cho họ tiếp tục! Và thật tốt cho chúng ta để suy nghĩ về những người này: nếu họ làm được tất cả những điều ấy, nếu họ có thể làm được những điều đó, thì tại sao tôi lại không làm được? Và cũng tốt để xin Chúa ban cho chúng ta ơn sức mạnh.
Chúng ta đừng nên nghĩ rằng ơn sức mạnh chỉ cần thiết trong một số trường hoặc tình cảnh đặc biệt. Ơn này phải là một ghi nhận cơ bản về bản thể Kitô hữu của chúng ta, trong những hoàn cảnh thông thường của cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Như tôi đã nói, chúng ta phải mạnh mẽ trong tất cả mọi ngày của cuộc sống hàng ngày, chúng ta cần sức mạnh này, để thăng tiến cuộc sống của chúng ta, gia đình của chúng ta, đức tin của chúng ta. Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói một câu làm cho chúng ta cảm thấy dễ chịu, “tôi có thể làm tất cả mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Phil 4:13). Khi chúng ta phải đối đầu với cuộc sống hàng ngày, khi gặp khó khăn, hãy nhớ điều này: “Tôi có thể làm tất cả mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.” Chúa ban sức mạnh, luôn luôn, không sai trật. Chúa không thử thách chúng ta quá sức chịu đựng chúng ta. Người luôn luôn ở với chúng ta. “Tôi có thể làm tất cả mọi thứ trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.”
Các bạn thân mến, đôi khi chúng ta có thể bị cám dỗ để tính ươn lười hoặc tệ hơn nữa là sự lo âu bắt lấy chúng ta, đặc biệt là khi đối diện với những khó khăn và thử thách của cuộc sống. Trong những trường hợp ấy, đừng chán nản, mà hãy cầu khẩn Chúa Thánh Thần, bởi vì với ơn sức mạnh Ngài có thể nâng tâm hồn chúng ta lên và thông truyền sức sống mới và lòng nhiệt thành cho cuộc sống chúng ta và việc đi theo Chúa Giêsu của chúng ta.
Nam Phi kỷ niệm 20 năm chấm dứt chế độ kỳ thị chủng tộc
Linh Tiến Khải
11:15 14/05/2014
Phỏng vấn Đức Hồng Y Wilfrid Fox Napier, Tổng Giám Mục Durban
Cách đây 20 năm ngày 27 tháng 4 năm 1994 nhân dân Nam Phi đã hân hoan tham dự cuộc bầu cử tự do dân chủ đầu tiên trong lịch sử của mình, chấm dứt chế độ kỳ thị phân biệt chủng tộc bất công và hổ nhục kéo dài nửa thế kỷ. Ông Nelson Mandla, người tù của các chính quyền kỳ thị chủng tộc, đã được bầu làm tổng thống dân cử đầu tiên của một Nam Phi mới.
Cộng hòa Nam Phi rộng gần 1 triệu 220 ngàn cây số vuông, có hơn 50 triệu dân, bao gồm nhiều nhóm chủng tộc khác nhau. Người da đen Bantu chiếm 73% và chia thành 9 nhóm: Zulu 23%, Xhosa 18%, Sotho 16%, Tswana 7%, Tsonga 4%, Swazi 2,5%, Venda 2%, Ndebele 1,5% và Pedi 1%. Người da trắng chiếm 13% tổng số dân và chia thành ba nhóm: Boeri hay Afrikaner 6,5%, Anglosasson 5,5%, nhóm thứ ba gồm những người gốc Bồ Đào Nha, Đức và Italia chiếm 1%. Nhóm gốc Á châu chiếm 3% tổng số dân và bao gồm hai nhóm: Ấn Độ 2,5% và Tàu 0,5%. Nhóm lai giống chiếm 9% tổng số dân. Người Boscimani và Ottentotti chiếm 0,1%.
Trên bình diện tôn giáo 35% người dân Nam Phi theo Tin lành. Số tín hữu Công Giáo được 10%, tín hữu Anh giáo 10%. Tín hữu Methodist, Luther và các Giáo Hội Kitô khác chiếm 30%. Hồi giáo chiếm 1,5%, Ấn giáo chiếm 1,2%, Do thái 0,3%, Phật giáo và đạo thờ vật linh 12%, người vô thần hay vô ngộ chiếm 14,8%. Về ngôn ngữ người dân Nam Phi nói 11 thứ tiếng khác nhau.
Trên bình diện nhân chủng Nam Phi, nhất là vùng Transvaal, chắc hẳn là chiếc nôi của nhân loại, vì các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết của người Australopitechi, Homo habilis, Homo erectus, và Homo sapiens.
Cách đây 10.000 năm Nam Phi có hai nhóm dân du mục là người Boscimani và Khoikhoi hay Ottentotti sinh sống về nghề săn bắn và hái trái. Tiếp đến giữa thế kỷ thứ III-V có thêm các nhóm Bantu.
Năm 1487 một nhà thám hiểm Bồ Đào Nha vượt ”Mũi hy vọng” mở đường biển sang Ấn Độ. Nhưng chính các thương gia Hòa Lan đã thành lập cứ điểm thương mại sau này là thành phố Cap. Và cũng từ đó phong trào thuộc địa gồm người của vài nước Âu châu bắt đầu, rồi trở thành một cộng đoàn tự trị phát triển một nền văn hóa và một thứ tiếng nói riêng là Afrikaans. Họ cũng được gọi là người Boeri trong tiếng Hòa Lan có nghĩa là ”nông dân”.
Vào thế kỷ XVIII người Anh chiếm thành phố Cap. Vào giữa thế kỷ XIX người Boeri bị người Anh áp bức đi cư về mạn bắc và thành lập các cộng hòa Boeri nhỏ. Cuối thế kỷ XIX và trong thế kỷ XX đã xảy ra một loạt các trận đụng độ đẫm máu giữa người Boeri được chủng tộc Zulu hộ thuẫn và người Anh được hai nhóm Xhosa và Swasi yểm trợ. Phe Anh chiến thắng, và năm 1902 họ hiệp nhất mọi miền Nam Phi, rồi năm 1910 trở thành Liên Hiệp Nam Phi.
Sau Đệ Nhi Thế Chiến đảng Quốc Gia thắng cử lên cầm quyền và bắt đầu thi hành chế độ Apartheid kỳ thị phân biệt chủng tộc, cấm người da đen không được theo học các trường dành cho người da trắng, cũng như lui tới tất cả mọi nơi dành cho các sinh hoat của người da trắng. Chính quyền da trắng kỳ thị Nam Phi thành lập các vùng gọi là Bantustan, để cô lập hóa người da đen. Các vùng này chiếm 13% tổng số diện tích Nam Phi. Những người da đen tiếp tục sống trong các vùng của người da trắng, khoảng 50% tất cả, từ từ mất các quyền dân sự. Chính sách Apartheid kỳ thị này khiến cho Liên Hiệp Quốc năm 1973 đã phải tuyên bố nó là tội phạm chống lại nhân loại. Nhưng các nghị quyết cấm vận kinh tế từ năm 1962 chống lại Nam Phi đã không có kết qủa, vì luôn luôn bị Hoa Kỳ bỏ phiếu chống. Lý do vì Nam Phi cung cấp Uranium và nhiều quặng mỏ khác cho Hoa Kỳ. Chế độ kỳ thị chủng tộc kèo dài mãi cho đến năm 1991, khi chính phủ của tổng thống Frederik de Klerk bắt đầu chương trình cải tổ quốc gia, hủy bỏ chế độ kỳ thị, trả tự do cho ông Nelson Mandela thuộc đảng Quốc Đại, và mời ông tham gia trong chính quyền. Ngày 17 tháng 4 năm 1994 trong cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ đầu tiên ông Nelson Mandela đã được bầu làm tổng thống Nam Phi.
Tuy Nam Phi rất giầu tài nguyên nhưng đa số dân, đặc biệt người da đen, vẫn phải sống trong cảnh nghèo túng, không có điện nước, và cũng chưa được hưởng các săn sóc y tế giáo dục đúng mức phải có. Dân nghèo sống trong các vùng ngoại ô vẫn chưa là các công dân với mọi quyền của họ.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y Wilfrid Fox Napier, Tổng Giám Mục Durban, về biến cố đáng ghi nhớ này.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y nghĩ gì về biến cố kỷ niệm lịch sử này?
Đáp: Đó đã là một thời điểm đặc biệt đối với chúng tôi. ”Phi châu tốt đẹp hơn” đã là kiểu chuyển tiếp xảy ra tại Nam Phi. Cách thế duy nhất trong đó tôi có thể nghĩ tới chúng tôi đó là ”Phi châu tốt đẹp hơn”. Nam Phi là quốc gia duy nhất, nơi người ta chờ đợi sự thay đổi từ một chế độ sang một chế độ khác xảy ra trong vất vả mệt nhọc, nhưng lại là nơi việc chuyển tiếp xảy ra một cách nhẹ nhàng nhất. Và chúng tôi biết ơn Thiên Chúa, bởi vì tôi biết rằng có rất nhiều người dân thường đã cầu nguyện, cách riêng trong ngày thứ năm. Các phụ nữ đã chọn ngày thứ năm như ngày cầu nguyện cho hòa bình tại Nam Phi. Và tôi cho rằng chính nhờ các lời cầu nguyện ấy mà sự thay đổi đã xảy ra một cách êm thắm như vậy.
Hỏi: Ngày nay 20 năm sau các thay đổi ấy, đâu là các niềm hy vọng Đức Hồng Y có đối với các cuộc bầu cử tới đây?
Đáp: Tôi hy vọng rằng người dân, trong một cách thức nào đó, đã trưởng thành khá để biết rằng lá phiếu của họ là lá phiếu bầu kín. Nó qúy báu và tùy họ muốn bỏ phiếu cho ai thì bỏ. Họ không được để cho mình bị đe dọa bởi những người nói: ”Một cách nào đó thế nào chúng tôi sẽ biết qúy vị bỏ phiếu cho ai”. Hy vọng thứ hai của tôi là những người phải bỏ phiếu làm điều đó không phải vì những lý do truyền thống - ”Tôi đã luôn luôn bỏ phiếu cho đảng này” - nhưng phải tự hỏi ”Cái gì sẽ duy trì được công ích nhất và một cách hữu hiệu nhất?” Đây phải là tiêu chuẩn mà người đi bầu phải theo, khi họ bỏ phiều.
Hỏi: Đức Hồng Y đã về Roma để viếng mộ hai thánh Phêrô Phaolo và thăm Tòa Thánh cách đây ít ngày. Đức Hồng Y đem theo những gì trong các lời của Đức Thánh Cha, sau khi gặp gỡ ngài?
Đáp: Tôi nghĩ là chúng tôi phải sao chụp toàn văn bản và phân phát cho tất cả mọi người để tất cả mọi người đều biết những gì Đức Thánh Cha đã nói. Nhưng tôi nghĩ chúng tôi cũng phải thêm cái gì đó của chính mình: đâu đã là các kinh nghiệm của chúng tôi trong cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Phanxicô, được ngồi gần ngài, nói chuyện với ngài, trao đổi vài ý kiến với ngài và có cảm tưởng sâu đậm rằng Đức Giáo Hoàng không coi mình như là người ở ngoài hay ở bên trên các Giám Mục, nhưng là một trong các Giám Mục. Ý thức của ngài về tính cách giám mục đoàn là một thực tại sống động. Ngài đã gây kinh ngạc, khi nói với chúng tôi: “Chúng ta là anh em và tôi cần anh em biết điều này và điều này”, các vấn đề rất nghiêm trọng. Và đó đã là một khích lệ biết bao! Vì thế ngài là Giáo Hoàng, ngài có vấn đề này và biết rằng cả chúng tôi cũng có vấn đề đó và muốn chia sẻ nó với chúng tôi. Trong sự chia sẻ ngài rất cởi mở, bởi vì chúng tôi trả lời ngài về kiểu phải đương đầu với vấn đề như thế nào.
Hỏi: Xem ra Đức Thánh Cha Phanxicô chú ý tới mọi tình hình mà ngài tiếp cận. Trong diễn văn ngài đã đề cập tới biết bao nhiêu vấn đề: ngài đã nói tới nạn gian tham hối lộ, tới trẻ mồ côi vì bệnh liệt kháng AIDS vv... có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?
Đáp: Vâng, đúng vậy. Đức Thánh Cha đã đề cập tới tất cả các vấn đề đó. Tôi có cảm tưởng - bởi vì tôi đã đọc và lắng nghe diễn văn - tôi có cảm tưởng ngài đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề trong mọi trường hợp. ”Đây là chính xác nơi chúng ta đang đứng”, ngài biết nó là chuyện gì. Tôi biết rằng ngài sẽ cầu nguyện cho chúng tôi, sẽ giúp chúng tôi, và nếu chúng tôi có cần một lời khuyên, thì ngài sẽ cho chúng tôi một lời khuyên...
Hỏi: Đức Hồng Y đã nhắc tới Ngày cầu nguyện cho hòa bình Nam Phi trước các cuộc bầu cử hồi năm 1994. Năm nay có xảy ra điều tương tự như cách đây 20 năm không thưa Đức Hồng Y?
Đáp: Có. Chúa Nhật 27 tháng 4 vừa qua là Ngày cầu nguyện cho Nam Phi, để tái trao ban sức mạnh cho điều đã xảy ra cách đây 20 năm, khi chúng tôi đang ở trong cuộc khủng hoảng và khám phá ra rằng cách thế duy nhất giúp ra khỏi cuộc khủng hoảng đó đối với chúng tôi đó là Thiên Chúa, bằng mọi cách và phải có Người hiện diện giữa chúng tôi. Ngày cầu nguyện hồi đó đã là ngày 27 tháng 4, ngày kỷ niệm sự thay đổi. Tôi chắc chắn rằng chúng tôi cũng sống cùng điều đó. Và tôi tin rằng Thiên Chúa lắng nghe các lời cầu ấy, bởi vì Ngài biết là chúng đến từ con tim, từ những người nói: ”Chúng ta hãy cầu nguyện, bởi vì chúng ta cần có Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta”, chứ không phải để được một phép lạ. Chúng tôi cần có Thiên Chúa trong cuộc sống chúng tôi. (RG 29-4-2014)
Cách đây 20 năm ngày 27 tháng 4 năm 1994 nhân dân Nam Phi đã hân hoan tham dự cuộc bầu cử tự do dân chủ đầu tiên trong lịch sử của mình, chấm dứt chế độ kỳ thị phân biệt chủng tộc bất công và hổ nhục kéo dài nửa thế kỷ. Ông Nelson Mandla, người tù của các chính quyền kỳ thị chủng tộc, đã được bầu làm tổng thống dân cử đầu tiên của một Nam Phi mới.
Cộng hòa Nam Phi rộng gần 1 triệu 220 ngàn cây số vuông, có hơn 50 triệu dân, bao gồm nhiều nhóm chủng tộc khác nhau. Người da đen Bantu chiếm 73% và chia thành 9 nhóm: Zulu 23%, Xhosa 18%, Sotho 16%, Tswana 7%, Tsonga 4%, Swazi 2,5%, Venda 2%, Ndebele 1,5% và Pedi 1%. Người da trắng chiếm 13% tổng số dân và chia thành ba nhóm: Boeri hay Afrikaner 6,5%, Anglosasson 5,5%, nhóm thứ ba gồm những người gốc Bồ Đào Nha, Đức và Italia chiếm 1%. Nhóm gốc Á châu chiếm 3% tổng số dân và bao gồm hai nhóm: Ấn Độ 2,5% và Tàu 0,5%. Nhóm lai giống chiếm 9% tổng số dân. Người Boscimani và Ottentotti chiếm 0,1%.
Trên bình diện tôn giáo 35% người dân Nam Phi theo Tin lành. Số tín hữu Công Giáo được 10%, tín hữu Anh giáo 10%. Tín hữu Methodist, Luther và các Giáo Hội Kitô khác chiếm 30%. Hồi giáo chiếm 1,5%, Ấn giáo chiếm 1,2%, Do thái 0,3%, Phật giáo và đạo thờ vật linh 12%, người vô thần hay vô ngộ chiếm 14,8%. Về ngôn ngữ người dân Nam Phi nói 11 thứ tiếng khác nhau.
Trên bình diện nhân chủng Nam Phi, nhất là vùng Transvaal, chắc hẳn là chiếc nôi của nhân loại, vì các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết của người Australopitechi, Homo habilis, Homo erectus, và Homo sapiens.
Cách đây 10.000 năm Nam Phi có hai nhóm dân du mục là người Boscimani và Khoikhoi hay Ottentotti sinh sống về nghề săn bắn và hái trái. Tiếp đến giữa thế kỷ thứ III-V có thêm các nhóm Bantu.
Năm 1487 một nhà thám hiểm Bồ Đào Nha vượt ”Mũi hy vọng” mở đường biển sang Ấn Độ. Nhưng chính các thương gia Hòa Lan đã thành lập cứ điểm thương mại sau này là thành phố Cap. Và cũng từ đó phong trào thuộc địa gồm người của vài nước Âu châu bắt đầu, rồi trở thành một cộng đoàn tự trị phát triển một nền văn hóa và một thứ tiếng nói riêng là Afrikaans. Họ cũng được gọi là người Boeri trong tiếng Hòa Lan có nghĩa là ”nông dân”.
Vào thế kỷ XVIII người Anh chiếm thành phố Cap. Vào giữa thế kỷ XIX người Boeri bị người Anh áp bức đi cư về mạn bắc và thành lập các cộng hòa Boeri nhỏ. Cuối thế kỷ XIX và trong thế kỷ XX đã xảy ra một loạt các trận đụng độ đẫm máu giữa người Boeri được chủng tộc Zulu hộ thuẫn và người Anh được hai nhóm Xhosa và Swasi yểm trợ. Phe Anh chiến thắng, và năm 1902 họ hiệp nhất mọi miền Nam Phi, rồi năm 1910 trở thành Liên Hiệp Nam Phi.
Sau Đệ Nhi Thế Chiến đảng Quốc Gia thắng cử lên cầm quyền và bắt đầu thi hành chế độ Apartheid kỳ thị phân biệt chủng tộc, cấm người da đen không được theo học các trường dành cho người da trắng, cũng như lui tới tất cả mọi nơi dành cho các sinh hoat của người da trắng. Chính quyền da trắng kỳ thị Nam Phi thành lập các vùng gọi là Bantustan, để cô lập hóa người da đen. Các vùng này chiếm 13% tổng số diện tích Nam Phi. Những người da đen tiếp tục sống trong các vùng của người da trắng, khoảng 50% tất cả, từ từ mất các quyền dân sự. Chính sách Apartheid kỳ thị này khiến cho Liên Hiệp Quốc năm 1973 đã phải tuyên bố nó là tội phạm chống lại nhân loại. Nhưng các nghị quyết cấm vận kinh tế từ năm 1962 chống lại Nam Phi đã không có kết qủa, vì luôn luôn bị Hoa Kỳ bỏ phiếu chống. Lý do vì Nam Phi cung cấp Uranium và nhiều quặng mỏ khác cho Hoa Kỳ. Chế độ kỳ thị chủng tộc kèo dài mãi cho đến năm 1991, khi chính phủ của tổng thống Frederik de Klerk bắt đầu chương trình cải tổ quốc gia, hủy bỏ chế độ kỳ thị, trả tự do cho ông Nelson Mandela thuộc đảng Quốc Đại, và mời ông tham gia trong chính quyền. Ngày 17 tháng 4 năm 1994 trong cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ đầu tiên ông Nelson Mandela đã được bầu làm tổng thống Nam Phi.
Tuy Nam Phi rất giầu tài nguyên nhưng đa số dân, đặc biệt người da đen, vẫn phải sống trong cảnh nghèo túng, không có điện nước, và cũng chưa được hưởng các săn sóc y tế giáo dục đúng mức phải có. Dân nghèo sống trong các vùng ngoại ô vẫn chưa là các công dân với mọi quyền của họ.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y Wilfrid Fox Napier, Tổng Giám Mục Durban, về biến cố đáng ghi nhớ này.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y nghĩ gì về biến cố kỷ niệm lịch sử này?
Đáp: Đó đã là một thời điểm đặc biệt đối với chúng tôi. ”Phi châu tốt đẹp hơn” đã là kiểu chuyển tiếp xảy ra tại Nam Phi. Cách thế duy nhất trong đó tôi có thể nghĩ tới chúng tôi đó là ”Phi châu tốt đẹp hơn”. Nam Phi là quốc gia duy nhất, nơi người ta chờ đợi sự thay đổi từ một chế độ sang một chế độ khác xảy ra trong vất vả mệt nhọc, nhưng lại là nơi việc chuyển tiếp xảy ra một cách nhẹ nhàng nhất. Và chúng tôi biết ơn Thiên Chúa, bởi vì tôi biết rằng có rất nhiều người dân thường đã cầu nguyện, cách riêng trong ngày thứ năm. Các phụ nữ đã chọn ngày thứ năm như ngày cầu nguyện cho hòa bình tại Nam Phi. Và tôi cho rằng chính nhờ các lời cầu nguyện ấy mà sự thay đổi đã xảy ra một cách êm thắm như vậy.
Hỏi: Ngày nay 20 năm sau các thay đổi ấy, đâu là các niềm hy vọng Đức Hồng Y có đối với các cuộc bầu cử tới đây?
Đáp: Tôi hy vọng rằng người dân, trong một cách thức nào đó, đã trưởng thành khá để biết rằng lá phiếu của họ là lá phiếu bầu kín. Nó qúy báu và tùy họ muốn bỏ phiếu cho ai thì bỏ. Họ không được để cho mình bị đe dọa bởi những người nói: ”Một cách nào đó thế nào chúng tôi sẽ biết qúy vị bỏ phiếu cho ai”. Hy vọng thứ hai của tôi là những người phải bỏ phiếu làm điều đó không phải vì những lý do truyền thống - ”Tôi đã luôn luôn bỏ phiếu cho đảng này” - nhưng phải tự hỏi ”Cái gì sẽ duy trì được công ích nhất và một cách hữu hiệu nhất?” Đây phải là tiêu chuẩn mà người đi bầu phải theo, khi họ bỏ phiều.
Hỏi: Đức Hồng Y đã về Roma để viếng mộ hai thánh Phêrô Phaolo và thăm Tòa Thánh cách đây ít ngày. Đức Hồng Y đem theo những gì trong các lời của Đức Thánh Cha, sau khi gặp gỡ ngài?
Đáp: Tôi nghĩ là chúng tôi phải sao chụp toàn văn bản và phân phát cho tất cả mọi người để tất cả mọi người đều biết những gì Đức Thánh Cha đã nói. Nhưng tôi nghĩ chúng tôi cũng phải thêm cái gì đó của chính mình: đâu đã là các kinh nghiệm của chúng tôi trong cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Phanxicô, được ngồi gần ngài, nói chuyện với ngài, trao đổi vài ý kiến với ngài và có cảm tưởng sâu đậm rằng Đức Giáo Hoàng không coi mình như là người ở ngoài hay ở bên trên các Giám Mục, nhưng là một trong các Giám Mục. Ý thức của ngài về tính cách giám mục đoàn là một thực tại sống động. Ngài đã gây kinh ngạc, khi nói với chúng tôi: “Chúng ta là anh em và tôi cần anh em biết điều này và điều này”, các vấn đề rất nghiêm trọng. Và đó đã là một khích lệ biết bao! Vì thế ngài là Giáo Hoàng, ngài có vấn đề này và biết rằng cả chúng tôi cũng có vấn đề đó và muốn chia sẻ nó với chúng tôi. Trong sự chia sẻ ngài rất cởi mở, bởi vì chúng tôi trả lời ngài về kiểu phải đương đầu với vấn đề như thế nào.
Hỏi: Xem ra Đức Thánh Cha Phanxicô chú ý tới mọi tình hình mà ngài tiếp cận. Trong diễn văn ngài đã đề cập tới biết bao nhiêu vấn đề: ngài đã nói tới nạn gian tham hối lộ, tới trẻ mồ côi vì bệnh liệt kháng AIDS vv... có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?
Đáp: Vâng, đúng vậy. Đức Thánh Cha đã đề cập tới tất cả các vấn đề đó. Tôi có cảm tưởng - bởi vì tôi đã đọc và lắng nghe diễn văn - tôi có cảm tưởng ngài đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề trong mọi trường hợp. ”Đây là chính xác nơi chúng ta đang đứng”, ngài biết nó là chuyện gì. Tôi biết rằng ngài sẽ cầu nguyện cho chúng tôi, sẽ giúp chúng tôi, và nếu chúng tôi có cần một lời khuyên, thì ngài sẽ cho chúng tôi một lời khuyên...
Hỏi: Đức Hồng Y đã nhắc tới Ngày cầu nguyện cho hòa bình Nam Phi trước các cuộc bầu cử hồi năm 1994. Năm nay có xảy ra điều tương tự như cách đây 20 năm không thưa Đức Hồng Y?
Đáp: Có. Chúa Nhật 27 tháng 4 vừa qua là Ngày cầu nguyện cho Nam Phi, để tái trao ban sức mạnh cho điều đã xảy ra cách đây 20 năm, khi chúng tôi đang ở trong cuộc khủng hoảng và khám phá ra rằng cách thế duy nhất giúp ra khỏi cuộc khủng hoảng đó đối với chúng tôi đó là Thiên Chúa, bằng mọi cách và phải có Người hiện diện giữa chúng tôi. Ngày cầu nguyện hồi đó đã là ngày 27 tháng 4, ngày kỷ niệm sự thay đổi. Tôi chắc chắn rằng chúng tôi cũng sống cùng điều đó. Và tôi tin rằng Thiên Chúa lắng nghe các lời cầu ấy, bởi vì Ngài biết là chúng đến từ con tim, từ những người nói: ”Chúng ta hãy cầu nguyện, bởi vì chúng ta cần có Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta”, chứ không phải để được một phép lạ. Chúng tôi cần có Thiên Chúa trong cuộc sống chúng tôi. (RG 29-4-2014)
Cuộc thăm viếng của Đức Phanxicô tại Đất Thánh sẽ là viên đá góc xây dựng hòa bình
Vũ Văn An
19:26 14/05/2014
Tin Zenit ngày 14 tháng 5 cho hay: trong một buổi ăn sáng với các đại sứ và nhà báo tại Rôma hôm thứ Ba vừa qua, đại sứ Do Thái bên cạnh Tòa Thánh, Zion Evrony, cho rằng cuộc viếng thăm xứ sở ông của Đức GH Phanxicô sẽ hết sức tích cực và sẽ thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đối thoại liên tôn và hòa bình trong vùng.
Vào Chúa Nhật, 25 tháng 5, Đức GH sẽ viếng thăm Israel. Đại sứ cho rằng: cuộc viếng thăm này sẽ là viên đá góc mới có tầm quan trọng lịch sử, không những cho các liên hệ giữa Israel và Tòa Thánh mà còn giữa Giáo Hội Công Giáo và dân tộc Do Thái nữa.
Buổi gặp gỡ trên được Mediatrends, một qũy của Tây Ban Nha nhằm cổ vũ Văn Hóa Xã Hội, tổ chức.
Được Zenit hỏi về ý nghĩa của việc Đức Giáo Hoàng, trong cuộc viếng thăm này, được tháp tùng bởi một Giáo Trưởng Hồi Giáo và một Giáo Sĩ Do Thái Giáo, Đại Sứ Evrony trả lời rằng đây là một điều rất tích cực. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng cử chỉ này rất quan trọng đối với việc cổ vũ cuộc đối thoại liên tôn, vốn là căn bản cho việc hiểu biết nhau vì hòa giải và hòa bình".
Ông cho biết thêm: “cuộc đối thoại liên tôn cũng có thể dành chỗ cho việc hiểu nhau về chính trị… Cuộc du hành của một vị giáo hoàng mà lại được sự tháp tùng của một vị lãnh đạo Hồi Giáo và một giáo sĩ Do Thái Giáo, nghĩa là gồm tới ba đại biểu của ba tôn giáo độc thần vĩ đại, chắc chắn sẽ gây một tác động nền tảng tại Đất Thánh”.
Trả lời câu hỏi của Đại Sứ Á Căn Đình bên cạnh Tòa Thánh là Ông Juan Pablo Cafiero về tác động của cuộc viếng thăm Israel bởi một vị giáo hoàng người Châu Mỹ La Tinh, Đại sứ Evrony nhắc mọi người nhớ rằng Đức Phanxicô “xuất thân từ một xứ sở nơi ngài từng viếng thăm một nguyện đường Do Thái trước khi làm giáo hoàng. Ngài đã tạo được nhiều liên hệ tốt đẹp với cộng đồng Do Thái tại Á Căn Đình, và từng tham dự một chương trình truyền hình với Giáo Sĩ Skorka”. Hơn nữa, “trải nghiệm bản thân của mỗi vị giáo hoàng đều gây ảnh hưởng tới mối liên hệ, tới phong thái và bản chất của cuộc thăm viếng”.
Trong các cuộc thăm viếng Israel của ba vị giáo hoàng Phaolô VI, Gioan Phaolô II và Bênêđíctô XVI, tất cả đều là người Âu Tây, Đại Sứ Evrony lưu ý đặc biệt tới Đức Gioan Phaolô II “người đã lớn lên trong một thành phố gần Krakow nơi vốn có một cộng đồng Do Thái quan trọng; ngài có bằng hữu người Do Thái và có dịp chứng kiến tận mắt các kinh hoàng của Nạn Diệt Chủng (Holocaust). Ngài lại có mặt tại một thành phố gần Auschwitz và điều này quan trọng đối với mối liên hệ của ngài với cộng đồng Do Thái, một liên hệ vốn đã bắt đầu từ Đức Gioan XXIII”.
Đại sứ cũng nhắc tới việc “Đức GH Phanxicô là nhân chứng của hai vụ tấn công tại Á Căn Đình, một vào tòa đại sứ Israel, và một vào Jewish Mutual, và lúc nào ngài cũng biểu lộ một cảm thức tương cảm và đồng hóa mình với các đau khổ của dân tộc Do Thái”. Ông nói thêm, trước khi làm giáo hoàng, Đức Phanxicô “đã đưa ra lời tuyên bố chống chủ nghĩa khủng bố, đã lên tiếng chống lại việc sử dụng bạo lực nhân danh tôn giáo và nhân danh Thiên Chúa, điều ngài luôn cho là không thể chấp nhận được”.
Đại sứ Do Thái cho biết Cha Jorge Bergoglio từng thăm Israel hồi tháng Mười năm 1973, khi còn là bề trên tỉnh Dòng Tên, và dịp đó, ngài thăm Galilê hai ngày rồi tới Giêrusalem. Tuy nhiên, cuộc tranh chấp Yom Kippur lúc ấy buộc ngài phải ở trong khách sạn, nên “ngài dành phần lớn thì giờ đọc Sách Thánh chứ ít có dịp thăm Israel”.
Trả lời câu hỏi của Đại Sứ Costa Rica bên cạnh Tòa Thánh là Ông Fernado Sanchez Campos về diễn trình hòa bình, Đại Sứ Evrony nhìn nhận rằng “vào lúc này, diễn trình hòa bình đã bị dừng lại” nhưng Đức Giáo Hoàng là nhà lãnh đạo tinh thần rất vĩ đại, một sứ giả của hòa bình, chắc chắn sẽ lấy “việc tranh đấu cho hòa bình” làm chủ đề chính cho các diễn văn và bài giảng của ngài.
Ông nói rằng “khi tới Israel, ngài chắc hẳn sẽ đàm đạo với các nhà lãnh đạo tôn giáo, với cộng đồng Kitô hữu, là cộng đồng có mấy ngàn thành viên, và các sứ điệp hòa bình của ngài sẽ có một tác dụng rất mạnh và rất chính yếu” vì ông cảm thấy rằng “các nhà lãnh đạo tôn giáo có thể giúp làm giảm sự hận thù vốn có giữa hai bên của cuộc tranh chấp và góp phần vào việc bắc cầu”.
Về đối thoại liên tôn, ông nói thêm “cuộc thăm viếng của Đức Giáo Hoàng sẽ đem lại những kết quả tích cực, 50 năm sau văn kiện Nostra Aetate, lúc chúng ta nghĩ tới các liên hệ với Tòa Thánh”. Và ông mô tả cuộc viếng thăm này là “cơ hội để tìm ra những cách thế mới để cải thiện mối liên hệ đối thoại”.
Chờ mong gì ở cuộc thăm viếng
RomeReports.com, ngày 14 tháng 5, cho rằng có rất nhiều chờ mong nơi cuộc viếng thăm Israel sắp tới của Đức Phanxicô. Ngài sẽ tới Jordan, Palestine và Israel trong ba ngày viếng thăm ngắn ngủi, từ Thứ Bẩy 24 tới Thứ Hai 26 tháng 5. Đây sẽ không phải là cuộc viếng thăm chính trị, nhưng có thể có nhiều hệ luận chính trị.
Một ngày sau khi gặp Thượng Phụ Đại Kết của Constantinople, Đức Giáo Hoàng sẽ viếng Bức Tường Than Khóc. Đại Sứ Do Thái Zion Evrony nói rằng “Bức Tường Phía Tây, hay Bức Tường Than Khóc, là bức tường duy nhất còn lại của Đền Thờ Do Thái. Đây là gốc rễ lịch sử của chúng tôi, đây là nơi thánh thiêng nhất của Do Thái Giáo”.
Đại Sứ cho biết: bất chấp các việc vẽ bậy bạ chống Kitô Giáo gần đây tại các Nơi Thánh ở Giêrusalem, ông cho biết các biến cố này chỉ lẻ tẻ và xứ sở ông trông mong được thấy Đức Giáo Hoàng tới thăm.
Ông nói: “Tại nhiều nơi ở Trung Đông, cộng đồng Kitô hữu vốn bị tấn công, chứ không hẳn ở Israel. Ở Israel, họ được hưởng tự do trọn vẹn và các quyền bình đẳng”.
Tuy nhiên, Đức Hồng Y Edwin O’Brien, người Mỹ, một nhân vật thuộc Hội Kỵ Sĩ Mồ Thánh, thì cho rằng tình hình ở đấy phức tạp hơn thế, nhất là đối với những người sống dọc West Bank, nơi các khu định cư của người Do Thái đang mồi lửa cho các căng thẳng giữa Israel và Palestine.
Ngài nói: “một số người thậm chí còn không được thăm gia đình của họ. Một số khác phải mất cả ngày mới được chấp thuận vượt tường tới nông trại của họ v.v…”
Hiện có vào khoảng 160,000 Kitô hữu sống tại Israel. Trong nhiều năm qua, nhiều người đã quyết định trốn khỏi cảnh bách hại trực tiếp hay gián tiếp tại Trung Đông, khiến các Kitô hữu ở đây càng trờ thành một nhóm thiểu số nhỏ hơn.
Đức HY O’Brien cho rằng “Đối với thế giới Kitô Giáo, chúng ta rất cần hiện diện ở đây để các định chế và các cơ sở của ta không trở thành các đồ trưng bày của viện bảo tàng”.
Hồi còn là tổng giám mục Buenos Aires, Đức GH Phanxicô đã có một lịch sử đối thoại liên tôn khá dài. Nay, hàng triệu người hy vọng rằng cuộc viếng thăm của ngài sẽ làm mới lại các cuộc thương thuyết hòa bình và ít nhất, cũng làm giảm căng thẳng trên cả hai bình diện chính trị và tôn giáo. Đại Sứ Evron hy vọng rằng “Cá nhà lãnh đạo tôn giáo đôi khi có sức giúp làm giảm căng thẳng giữa đôi bên của cuộc tranh chấp. Tôi tin chắc rằng khi ngài tới Israel, sứ điệp hòa bình của ngài sẽ có tác động”.
Vào Chúa Nhật, 25 tháng 5, Đức GH sẽ viếng thăm Israel. Đại sứ cho rằng: cuộc viếng thăm này sẽ là viên đá góc mới có tầm quan trọng lịch sử, không những cho các liên hệ giữa Israel và Tòa Thánh mà còn giữa Giáo Hội Công Giáo và dân tộc Do Thái nữa.
Buổi gặp gỡ trên được Mediatrends, một qũy của Tây Ban Nha nhằm cổ vũ Văn Hóa Xã Hội, tổ chức.
Được Zenit hỏi về ý nghĩa của việc Đức Giáo Hoàng, trong cuộc viếng thăm này, được tháp tùng bởi một Giáo Trưởng Hồi Giáo và một Giáo Sĩ Do Thái Giáo, Đại Sứ Evrony trả lời rằng đây là một điều rất tích cực. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng cử chỉ này rất quan trọng đối với việc cổ vũ cuộc đối thoại liên tôn, vốn là căn bản cho việc hiểu biết nhau vì hòa giải và hòa bình".
Ông cho biết thêm: “cuộc đối thoại liên tôn cũng có thể dành chỗ cho việc hiểu nhau về chính trị… Cuộc du hành của một vị giáo hoàng mà lại được sự tháp tùng của một vị lãnh đạo Hồi Giáo và một giáo sĩ Do Thái Giáo, nghĩa là gồm tới ba đại biểu của ba tôn giáo độc thần vĩ đại, chắc chắn sẽ gây một tác động nền tảng tại Đất Thánh”.
Trả lời câu hỏi của Đại Sứ Á Căn Đình bên cạnh Tòa Thánh là Ông Juan Pablo Cafiero về tác động của cuộc viếng thăm Israel bởi một vị giáo hoàng người Châu Mỹ La Tinh, Đại sứ Evrony nhắc mọi người nhớ rằng Đức Phanxicô “xuất thân từ một xứ sở nơi ngài từng viếng thăm một nguyện đường Do Thái trước khi làm giáo hoàng. Ngài đã tạo được nhiều liên hệ tốt đẹp với cộng đồng Do Thái tại Á Căn Đình, và từng tham dự một chương trình truyền hình với Giáo Sĩ Skorka”. Hơn nữa, “trải nghiệm bản thân của mỗi vị giáo hoàng đều gây ảnh hưởng tới mối liên hệ, tới phong thái và bản chất của cuộc thăm viếng”.
Trong các cuộc thăm viếng Israel của ba vị giáo hoàng Phaolô VI, Gioan Phaolô II và Bênêđíctô XVI, tất cả đều là người Âu Tây, Đại Sứ Evrony lưu ý đặc biệt tới Đức Gioan Phaolô II “người đã lớn lên trong một thành phố gần Krakow nơi vốn có một cộng đồng Do Thái quan trọng; ngài có bằng hữu người Do Thái và có dịp chứng kiến tận mắt các kinh hoàng của Nạn Diệt Chủng (Holocaust). Ngài lại có mặt tại một thành phố gần Auschwitz và điều này quan trọng đối với mối liên hệ của ngài với cộng đồng Do Thái, một liên hệ vốn đã bắt đầu từ Đức Gioan XXIII”.
Đại sứ cũng nhắc tới việc “Đức GH Phanxicô là nhân chứng của hai vụ tấn công tại Á Căn Đình, một vào tòa đại sứ Israel, và một vào Jewish Mutual, và lúc nào ngài cũng biểu lộ một cảm thức tương cảm và đồng hóa mình với các đau khổ của dân tộc Do Thái”. Ông nói thêm, trước khi làm giáo hoàng, Đức Phanxicô “đã đưa ra lời tuyên bố chống chủ nghĩa khủng bố, đã lên tiếng chống lại việc sử dụng bạo lực nhân danh tôn giáo và nhân danh Thiên Chúa, điều ngài luôn cho là không thể chấp nhận được”.
Đại sứ Do Thái cho biết Cha Jorge Bergoglio từng thăm Israel hồi tháng Mười năm 1973, khi còn là bề trên tỉnh Dòng Tên, và dịp đó, ngài thăm Galilê hai ngày rồi tới Giêrusalem. Tuy nhiên, cuộc tranh chấp Yom Kippur lúc ấy buộc ngài phải ở trong khách sạn, nên “ngài dành phần lớn thì giờ đọc Sách Thánh chứ ít có dịp thăm Israel”.
Trả lời câu hỏi của Đại Sứ Costa Rica bên cạnh Tòa Thánh là Ông Fernado Sanchez Campos về diễn trình hòa bình, Đại Sứ Evrony nhìn nhận rằng “vào lúc này, diễn trình hòa bình đã bị dừng lại” nhưng Đức Giáo Hoàng là nhà lãnh đạo tinh thần rất vĩ đại, một sứ giả của hòa bình, chắc chắn sẽ lấy “việc tranh đấu cho hòa bình” làm chủ đề chính cho các diễn văn và bài giảng của ngài.
Ông nói rằng “khi tới Israel, ngài chắc hẳn sẽ đàm đạo với các nhà lãnh đạo tôn giáo, với cộng đồng Kitô hữu, là cộng đồng có mấy ngàn thành viên, và các sứ điệp hòa bình của ngài sẽ có một tác dụng rất mạnh và rất chính yếu” vì ông cảm thấy rằng “các nhà lãnh đạo tôn giáo có thể giúp làm giảm sự hận thù vốn có giữa hai bên của cuộc tranh chấp và góp phần vào việc bắc cầu”.
Về đối thoại liên tôn, ông nói thêm “cuộc thăm viếng của Đức Giáo Hoàng sẽ đem lại những kết quả tích cực, 50 năm sau văn kiện Nostra Aetate, lúc chúng ta nghĩ tới các liên hệ với Tòa Thánh”. Và ông mô tả cuộc viếng thăm này là “cơ hội để tìm ra những cách thế mới để cải thiện mối liên hệ đối thoại”.
Chờ mong gì ở cuộc thăm viếng
RomeReports.com, ngày 14 tháng 5, cho rằng có rất nhiều chờ mong nơi cuộc viếng thăm Israel sắp tới của Đức Phanxicô. Ngài sẽ tới Jordan, Palestine và Israel trong ba ngày viếng thăm ngắn ngủi, từ Thứ Bẩy 24 tới Thứ Hai 26 tháng 5. Đây sẽ không phải là cuộc viếng thăm chính trị, nhưng có thể có nhiều hệ luận chính trị.
Một ngày sau khi gặp Thượng Phụ Đại Kết của Constantinople, Đức Giáo Hoàng sẽ viếng Bức Tường Than Khóc. Đại Sứ Do Thái Zion Evrony nói rằng “Bức Tường Phía Tây, hay Bức Tường Than Khóc, là bức tường duy nhất còn lại của Đền Thờ Do Thái. Đây là gốc rễ lịch sử của chúng tôi, đây là nơi thánh thiêng nhất của Do Thái Giáo”.
Đại Sứ cho biết: bất chấp các việc vẽ bậy bạ chống Kitô Giáo gần đây tại các Nơi Thánh ở Giêrusalem, ông cho biết các biến cố này chỉ lẻ tẻ và xứ sở ông trông mong được thấy Đức Giáo Hoàng tới thăm.
Ông nói: “Tại nhiều nơi ở Trung Đông, cộng đồng Kitô hữu vốn bị tấn công, chứ không hẳn ở Israel. Ở Israel, họ được hưởng tự do trọn vẹn và các quyền bình đẳng”.
Tuy nhiên, Đức Hồng Y Edwin O’Brien, người Mỹ, một nhân vật thuộc Hội Kỵ Sĩ Mồ Thánh, thì cho rằng tình hình ở đấy phức tạp hơn thế, nhất là đối với những người sống dọc West Bank, nơi các khu định cư của người Do Thái đang mồi lửa cho các căng thẳng giữa Israel và Palestine.
Ngài nói: “một số người thậm chí còn không được thăm gia đình của họ. Một số khác phải mất cả ngày mới được chấp thuận vượt tường tới nông trại của họ v.v…”
Hiện có vào khoảng 160,000 Kitô hữu sống tại Israel. Trong nhiều năm qua, nhiều người đã quyết định trốn khỏi cảnh bách hại trực tiếp hay gián tiếp tại Trung Đông, khiến các Kitô hữu ở đây càng trờ thành một nhóm thiểu số nhỏ hơn.
Đức HY O’Brien cho rằng “Đối với thế giới Kitô Giáo, chúng ta rất cần hiện diện ở đây để các định chế và các cơ sở của ta không trở thành các đồ trưng bày của viện bảo tàng”.
Hồi còn là tổng giám mục Buenos Aires, Đức GH Phanxicô đã có một lịch sử đối thoại liên tôn khá dài. Nay, hàng triệu người hy vọng rằng cuộc viếng thăm của ngài sẽ làm mới lại các cuộc thương thuyết hòa bình và ít nhất, cũng làm giảm căng thẳng trên cả hai bình diện chính trị và tôn giáo. Đại Sứ Evron hy vọng rằng “Cá nhà lãnh đạo tôn giáo đôi khi có sức giúp làm giảm căng thẳng giữa đôi bên của cuộc tranh chấp. Tôi tin chắc rằng khi ngài tới Israel, sứ điệp hòa bình của ngài sẽ có tác động”.
Top Stories
Cambodge - Mgr Figaredo: « Nos communautés sont petites mais elles attirent car elles débordent de vie »
Eglises d'Asie
07:06 14/05/2014
Le Secours catholique - Caritas France organise sa Campagne internationale annuelle du 12 au 28 mai 2014. Dans ce cadre, l’association a invité trois grands témoins, dont Mgr Enrique ('Kike') Figaredo. Jésuite espagnol, président de Caritas Cambodge, Mgr Figaredo est préfet apostolique de Battambang depuis 2000 (1). Il répond ici aux questions d’Eglises d’Asie.
Eglises d’Asie : Le 2 juillet 2000, vous étiez ordonné préfet apostolique de Battambang. Dans votre homélie, vous disiez alors : « Nous sommes appelés à marcher ensemble sur les routes si difficiles du Cambodge et à trouver les beautés du royaume de Dieu sur les chemins que nous empruntons chaque jour. » Près de quatorze plus tard, toujours responsable de la préfecture apostolique de Battambang, comment décrieriez-vous les beautés et les difficultés du Cambodge ?
Mgr Enrique Figaredo, SJ : La première des difficultés que je soulignerais est la pauvreté, voire l’extrême pauvreté dans laquelle vit une très, une trop grande part de la population cambodgienne. Cette pauvreté a des implications très concrètes sur l’espérance de vie des gens, sur leur santé, sur leur accès à l’éducation. Trop de personnes en sont réduites à tenter de survivre et ne jouissent d’aucune stabilité dans leurs conditions de vie.
La conséquence de cet état de fait est un mouvement migratoire aussi important que continu. Les gens, les jeunes en particulier, quittent notre région de Battambang, qui est une région principalement rurale, pour aller chercher à vivre dans les grandes villes, à Siem Réap, à Sihanoukville ou à Phnom Penh. Mais ils sont très nombreux également à émigrer, en Thaïlande notamment.
La difficulté est que nos communautés perdent ainsi leurs éléments les plus dynamiques et se vident de l’intérieur. Les amitiés que nous nouons demeurent certes, mais l’éloignement fait que nombreux sont ceux que nous perdons de vue. Et je ne dis rien des difficultés que ces personnes rencontrent dans leur nouveau lieu de vie, en ville, dans les bidonvilles plutôt !
Depuis l’an 2000, en quatorze ans, j’ai vu bien sûr des améliorations. La croissance économique du pays est réelle, mais les richesses ne sont pas réparties équitablement. La richesse produite se concentre entre quelques mains et l’homme de la rue n’en voit pas vraiment les fruits. La pauvreté reste endémique. Dans les communautés dont nous avons la charge, dans les établissements que nous animons, je vois bien que les jeunes progressent ; ils acquièrent une éducation, une formation, un métier ; la plupart arrivent à trouver un travail, mais ces progrès ne se diffusent que très lentement dans la société. Vous devez vous rappeler que nous formons qu’une communauté très petite et que nos moyens sont limités.
Les dernières élections législatives, dont les résultats sont contestés, ont été suivies de manifestations populaires importantes. Comment les interprétez-vous ?
Je ne peux parler que des jeunes qui sont autour de nous, catholiques ou non, ceux que nous côtoyons chaque jour. Ce qu’ils veulent avant tout, c’est que les choses changent. Ils souhaitent un gouvernement qui rende des comptes. Mais cela ne veut pas forcément dire qu’ils sont prêts à s’engager en politique. Je constate que les jeunes souhaitent avant tout améliorer leur vie quotidienne. Pour ceux que nous formons dans nos écoles et qui parviennent à finir leurs études, il existe des possibilités de s’en sortir. Ils trouvent à s’employer dans les grandes villes, dans les hôtels, les sociétés privées, les banques ou les ONG, mais ils ne sont pas la majorité. Tous ceux qui sortent du système scolaire public sans diplôme font face à de très grandes difficultés. Ils partent en grand nombre à l’étranger.
Quant aux manifestations elles-mêmes, les catholiques, les jeunes catholiques ont été nombreux à y participer, mais comme nous sommes très peu nombreux, cela ne se voit pas forcément. Ils y sont allés parce qu’ils sont à l’image du reste de la jeunesse cambodgienne ; ils ont soif de justice, ils en ont assez de la corruption et ils veulent que les droits de l’homme soient respectés.
Pour notre part, nous le clergé, nous avons essayé de les former pour qu’ils soient des acteurs de la non-violence. Ce dont ce pays a besoin, ce n’est pas d’un surcroît de violence mais que les choses changent réellement et de manière pacifique. Nous avons multiplié ces derniers mois les séminaires de formation autour de ces thèmes. Cela a été aussi l’occasion de contacts approfondis avec les bouddhistes, les moines notamment. L’Université bouddhiste de Battambang nous a ainsi contactés et nous avons pu y donner des conférences sur la doctrine sociale de l’Eglise. Cela a été l’occasion de belles discussions et de vraies rencontres.
Vous évoquez les jeunes qui partent pour les grandes villes ou l’étranger. Quelles sont les conséquences de ces départs sur votre travail missionnaire ?
Un des principaux axes de notre travail pastoral est de construire, d’édifier des communautés qui sont comme des familles. Le lien social a beaucoup souffert au Cambodge du fait de l’Histoire de ces dernières décennies et le développement économique actuel n’aide pas vraiment à le reconstruire. Que ce soit dans nos établissements d’enseignement, dans les centres pour handicapés, mentaux ou physiques, dans les maisons pour personnes âgées, nous veillons toujours à édifier la communauté, que les gens qui en sont membres se sentent solidaires et que cette solidarité vivante attire ceux qui sont à l’extérieur. Beaucoup de nos projets s’appuient sur une dimension agricole ; nous fournissons la terre et des familles peuvent s’y installer. Mais je dois dire que le développement agricole n’est pas une priorité du gouvernement.
Combien de catholiques comptez-vous dans la préfecture apostolique de Battambang ?
Quand je suis arrivé en 2000, les registres indiquaient 3 000 catholiques environ. Les catéchumènes sont nombreux au Cambodge et aujourd’hui près de 6 000 personnes sont inscrites sur les registres paroissiaux. Mais si toutes ces personnes ont reçu le baptême, cela ne veut pas dire qu’elles sont impliquées ou actives dans l’Eglise. Le nombre des communautés croît cependant. En 2000, nous comptions quinze paroisses ; elles sont au nombre de vingt-sept désormais. Les gens viennent très nombreux à la messe. Le plus souvent, ils ne sont pas baptisés mais ils sont attirés par la beauté de la liturgie, par l’atmosphère spirituelle, par l’ambiance festive aussi, les chants et les danses notamment. Nos visiteurs sont toujours frappés de la quantité de jeunes, d’enfants même, qui viennent aux offices. L’église est un centre de vie, les activités autour sont nombreuses et l’ensemble est plein de vie ! … et plein de non-catholiques ! Certains entrent en catéchuménat, mais pas tous.
Le Cambodge est un pays bouddhiste d’un point de vue culturel et religieux. Pourquoi ces jeunes fréquentent-ils une paroisse catholique ?
Nos communautés se caractérisent, je crois, par la vie. Elles débordent de vie et, pour ce qui est de la liturgie, les jeunes y trouvent une certaine forme de beauté. C’est la rencontre avec les autres, l’expérience d’un certain bonheur et de la joie, qui les amènent à connaître Jésus. Encore une fois, tous ne font pas cette expérience mais c’est le cas pour certains. Dans les campagnes, les distractions sont rares et la vie paroissiale, là où il y a une paroisse, offre une occupation de choix ! Ils savent aussi que nous attachons à une grande importance à la formation, à l’éducation et que nous enseignons des valeurs. Ils y sont sensibles. Ils sont bouddhistes par tradition et par leur culture mais il n’y a pas d’animosité dans la société envers le christianisme.
Comment est perçu le christianisme ?
Il est évident que les Cambodgiens perçoivent le christianisme comme une religion venue de l’étranger. L’Eglise catholique, les Eglises chrétiennes sont encore animées en grande partie par un personnel missionnaire. Mais le christianisme est accepté comme faisant partie du paysage.
Il ne faut toutefois pas cacher le fait que beaucoup viennent à l’église parce qu’ils imaginent, à tort ou à raison, qu’ils vont pouvoir y apprendre une langue étrangère ou que c’est le lieu où ils pourront recevoir une formation. Le problème est qu’une fois qu’ils ont obtenu une formation, en langue, en informatique, en d’autres domaines, ils partent pour trouver un travail et nous les perdons de vue le plus souvent. Un de nos défis est de garder un lien avec ceux qui partent en ville ou à l’étranger pour trouver un travail.
Le clergé est principalement un clergé missionnaire. Peut-on penser que votre successeur sera un prêtre khmer ?
Cela serait merveilleux et souhaitable, mais il est sans doute trop tôt pour penser qu’il en sera ainsi. Actuellement, deux de nos prêtres sont cambodgiens et en novembre un troisième devrait être ordonné pour Battambang. Ils ont tout à fait la capacité, un jour prochain, d’assumer la responsabilité de la préfecture apostolique. Mais si je devais rester réaliste, je dirais qu’il est plus probable que mon successeur soit un prêtre originaire d’Asie. A Battambang, il n’y a que deux prêtres non-Asiatiques : un prêtre de Colombie, le P. Pedro, et moi-même ; les neuf autres viennent d’Indonésie, des Philippines, de Corée, de Thaïlande et d’Inde. Cela crée une ambiance bien plus asiatique qu’européenne !
En août prochain sont organisées en Corée les Journées asiatiques de la jeunesse. En serez-vous ?
Non, pas personnellement. Mgr Olivier Schmitthaeusler, MEP, vicaire apostolique de Phnom Penh, est responsable de la jeunesse pour notre petite Eglise du Cambodge. Il ira, accompagné d’une délégation de trente jeunes, dont sept venus de mon diocèse. C’est un temps très important pour nous. Je vous ai dis que nos communautés étaient en grande partie formées de jeunes, mais bien évidemment ils se sentent plutôt seuls au sein d’un pays où les chrétiens sont un tout petit nombre (20 000 catholiques pour 15 millions d’habitants). Alors, être en contact avec une foule considérable de jeunes chrétiens, c’est une expérience unique, une expérience spirituelle. C’est faire l’expérience du corps mystique que représente le peuple de Dieu réuni en son Eglise. C’est très important et nous nous y préparons depuis des mois ! Et depuis que nous savons que le pape y sera lui aussi, c’est encore plus un événement…
Comment caractériseriez-vous vos relations avec les autorités ?
Localement, elles sont bonnes. Quant au gouvernement à Phnom Penh, notre position est que nous ne sommes ni pour lui ni contre lui, nous sommes pour que des changements aient lieu. Dans notre travail à travers la Caritas, dans nos contacts avec les autorités locales, nous poussons toujours à ce que les changements soient entrepris pour le bien des gens.
Quant à ce que sera l’avenir de ce pays, je n’en sais rien. Nous voyons que des personnes sont toujours plus corrompues mais nous pouvons aussi percevoir des signes de changement. Une génération nouvelle se profile à l’horizon. Ces futurs responsables ont été mieux formés, ils ont plus l’habitude du dialogue, ils ont été formés à l’étranger ou en contact avec l’étranger. Avec eux, on peut raisonnablement espérer que la situation pourra aller vers un mieux. Je veux me montrer optimiste, même s’il faut se garder de tout excès d’optimisme. Les pays voisins du Cambodge, le Vietnam, le Laos, la Thaïlande, au-delà de leurs différences, ne brillent pas par leur absence de corruption et leurs élites ne sont donc pas forcément un exemple pour les dirigeants cambodgiens. De plus, le « progrès » économique généré par les investissements étrangers, que ceux-ci viennent de Chine, de Taiwan, de Corée ou d’ailleurs, n’est pas nécessairement positif. En cheville avec les dirigeants cambodgiens, ces investisseurs accaparent les ressources naturelles du pays, exploitent sa main-d’œuvre mais, au final, très peu de richesses bénéficient vraiment à la population. C’est un vrai souci.
L’un des atouts de ce pays est l’extraordinaire jeunesse de sa population. Je vous ai dis combien étaient préoccupantes les inégalités et la faiblesse du système éducatif ; c’est vrai, mais il faut aussi considérer le dynamisme dont la jeunesse cambodgienne est porteuse. Dans nos églises, la majorité de l’assistance est formée de jeunes, des enfants, des adolescents et de jeunes adultes. Beaucoup ne sont pas baptisés mais ils peuvent être touchés par l’Evangile et le Christ. Ils me donnent beaucoup d’espoir lorsque je réfléchis à l’avenir de ce pays et de l’Eglise qui y chemine. Dieu seul le sait, mais, parmi eux se trouve sans doute mon successeur ou le successeur de mon successeur !
(1) Préfet apostolique de Battambang, l’une des trois circonscriptions de l’Eglise catholique au Cambodge, Mgr Figaredo est aussi le vice-président de la CELAC (Conférence 2piscopale du Laos et du Cambodge).
Né en Espagne le 21 septembre 1959, Mgr Enrique Figaredo Alvargonzales est entré dans la Compagnie de Jésus en 1979, avant d’être prêtre en 1992.
En 1985, durant ses études universitaires, il s’engage comme volontaire auprès du Service jésuite aux réfugiés (JRS) et travaillera aux cotés des réfugiés cambodgiens dans un camp en Thaïlande. Ses études terminées (diplômé d’économie, de théologie et de philosophie), Mgr Figaredo se rend au Cambodge afin d’aider les personnes mutilées par les mines anti-personnel. En 1991, il participe à la création de Banteay Prieb (‘la maison de la colombe’), centre d’accueil et de formation pour les enfants victimes de la guerre.
Mgr Figaredo est très impliqué sur les questions liées à l’éducation, à la formation des populations défavorisées et des jeunes enfants handicapés mentaux. Il tient un blog (ici).
(Source: Eglises d'Asie, le 14 mai 2014)
Eglises d’Asie : Le 2 juillet 2000, vous étiez ordonné préfet apostolique de Battambang. Dans votre homélie, vous disiez alors : « Nous sommes appelés à marcher ensemble sur les routes si difficiles du Cambodge et à trouver les beautés du royaume de Dieu sur les chemins que nous empruntons chaque jour. » Près de quatorze plus tard, toujours responsable de la préfecture apostolique de Battambang, comment décrieriez-vous les beautés et les difficultés du Cambodge ?
Mgr Enrique Figaredo, SJ : La première des difficultés que je soulignerais est la pauvreté, voire l’extrême pauvreté dans laquelle vit une très, une trop grande part de la population cambodgienne. Cette pauvreté a des implications très concrètes sur l’espérance de vie des gens, sur leur santé, sur leur accès à l’éducation. Trop de personnes en sont réduites à tenter de survivre et ne jouissent d’aucune stabilité dans leurs conditions de vie.
La conséquence de cet état de fait est un mouvement migratoire aussi important que continu. Les gens, les jeunes en particulier, quittent notre région de Battambang, qui est une région principalement rurale, pour aller chercher à vivre dans les grandes villes, à Siem Réap, à Sihanoukville ou à Phnom Penh. Mais ils sont très nombreux également à émigrer, en Thaïlande notamment.
La difficulté est que nos communautés perdent ainsi leurs éléments les plus dynamiques et se vident de l’intérieur. Les amitiés que nous nouons demeurent certes, mais l’éloignement fait que nombreux sont ceux que nous perdons de vue. Et je ne dis rien des difficultés que ces personnes rencontrent dans leur nouveau lieu de vie, en ville, dans les bidonvilles plutôt !
Depuis l’an 2000, en quatorze ans, j’ai vu bien sûr des améliorations. La croissance économique du pays est réelle, mais les richesses ne sont pas réparties équitablement. La richesse produite se concentre entre quelques mains et l’homme de la rue n’en voit pas vraiment les fruits. La pauvreté reste endémique. Dans les communautés dont nous avons la charge, dans les établissements que nous animons, je vois bien que les jeunes progressent ; ils acquièrent une éducation, une formation, un métier ; la plupart arrivent à trouver un travail, mais ces progrès ne se diffusent que très lentement dans la société. Vous devez vous rappeler que nous formons qu’une communauté très petite et que nos moyens sont limités.
Les dernières élections législatives, dont les résultats sont contestés, ont été suivies de manifestations populaires importantes. Comment les interprétez-vous ?
Je ne peux parler que des jeunes qui sont autour de nous, catholiques ou non, ceux que nous côtoyons chaque jour. Ce qu’ils veulent avant tout, c’est que les choses changent. Ils souhaitent un gouvernement qui rende des comptes. Mais cela ne veut pas forcément dire qu’ils sont prêts à s’engager en politique. Je constate que les jeunes souhaitent avant tout améliorer leur vie quotidienne. Pour ceux que nous formons dans nos écoles et qui parviennent à finir leurs études, il existe des possibilités de s’en sortir. Ils trouvent à s’employer dans les grandes villes, dans les hôtels, les sociétés privées, les banques ou les ONG, mais ils ne sont pas la majorité. Tous ceux qui sortent du système scolaire public sans diplôme font face à de très grandes difficultés. Ils partent en grand nombre à l’étranger.
Quant aux manifestations elles-mêmes, les catholiques, les jeunes catholiques ont été nombreux à y participer, mais comme nous sommes très peu nombreux, cela ne se voit pas forcément. Ils y sont allés parce qu’ils sont à l’image du reste de la jeunesse cambodgienne ; ils ont soif de justice, ils en ont assez de la corruption et ils veulent que les droits de l’homme soient respectés.
Pour notre part, nous le clergé, nous avons essayé de les former pour qu’ils soient des acteurs de la non-violence. Ce dont ce pays a besoin, ce n’est pas d’un surcroît de violence mais que les choses changent réellement et de manière pacifique. Nous avons multiplié ces derniers mois les séminaires de formation autour de ces thèmes. Cela a été aussi l’occasion de contacts approfondis avec les bouddhistes, les moines notamment. L’Université bouddhiste de Battambang nous a ainsi contactés et nous avons pu y donner des conférences sur la doctrine sociale de l’Eglise. Cela a été l’occasion de belles discussions et de vraies rencontres.
Vous évoquez les jeunes qui partent pour les grandes villes ou l’étranger. Quelles sont les conséquences de ces départs sur votre travail missionnaire ?
Un des principaux axes de notre travail pastoral est de construire, d’édifier des communautés qui sont comme des familles. Le lien social a beaucoup souffert au Cambodge du fait de l’Histoire de ces dernières décennies et le développement économique actuel n’aide pas vraiment à le reconstruire. Que ce soit dans nos établissements d’enseignement, dans les centres pour handicapés, mentaux ou physiques, dans les maisons pour personnes âgées, nous veillons toujours à édifier la communauté, que les gens qui en sont membres se sentent solidaires et que cette solidarité vivante attire ceux qui sont à l’extérieur. Beaucoup de nos projets s’appuient sur une dimension agricole ; nous fournissons la terre et des familles peuvent s’y installer. Mais je dois dire que le développement agricole n’est pas une priorité du gouvernement.
Combien de catholiques comptez-vous dans la préfecture apostolique de Battambang ?
Quand je suis arrivé en 2000, les registres indiquaient 3 000 catholiques environ. Les catéchumènes sont nombreux au Cambodge et aujourd’hui près de 6 000 personnes sont inscrites sur les registres paroissiaux. Mais si toutes ces personnes ont reçu le baptême, cela ne veut pas dire qu’elles sont impliquées ou actives dans l’Eglise. Le nombre des communautés croît cependant. En 2000, nous comptions quinze paroisses ; elles sont au nombre de vingt-sept désormais. Les gens viennent très nombreux à la messe. Le plus souvent, ils ne sont pas baptisés mais ils sont attirés par la beauté de la liturgie, par l’atmosphère spirituelle, par l’ambiance festive aussi, les chants et les danses notamment. Nos visiteurs sont toujours frappés de la quantité de jeunes, d’enfants même, qui viennent aux offices. L’église est un centre de vie, les activités autour sont nombreuses et l’ensemble est plein de vie ! … et plein de non-catholiques ! Certains entrent en catéchuménat, mais pas tous.
Le Cambodge est un pays bouddhiste d’un point de vue culturel et religieux. Pourquoi ces jeunes fréquentent-ils une paroisse catholique ?
Nos communautés se caractérisent, je crois, par la vie. Elles débordent de vie et, pour ce qui est de la liturgie, les jeunes y trouvent une certaine forme de beauté. C’est la rencontre avec les autres, l’expérience d’un certain bonheur et de la joie, qui les amènent à connaître Jésus. Encore une fois, tous ne font pas cette expérience mais c’est le cas pour certains. Dans les campagnes, les distractions sont rares et la vie paroissiale, là où il y a une paroisse, offre une occupation de choix ! Ils savent aussi que nous attachons à une grande importance à la formation, à l’éducation et que nous enseignons des valeurs. Ils y sont sensibles. Ils sont bouddhistes par tradition et par leur culture mais il n’y a pas d’animosité dans la société envers le christianisme.
Comment est perçu le christianisme ?
Il est évident que les Cambodgiens perçoivent le christianisme comme une religion venue de l’étranger. L’Eglise catholique, les Eglises chrétiennes sont encore animées en grande partie par un personnel missionnaire. Mais le christianisme est accepté comme faisant partie du paysage.
Il ne faut toutefois pas cacher le fait que beaucoup viennent à l’église parce qu’ils imaginent, à tort ou à raison, qu’ils vont pouvoir y apprendre une langue étrangère ou que c’est le lieu où ils pourront recevoir une formation. Le problème est qu’une fois qu’ils ont obtenu une formation, en langue, en informatique, en d’autres domaines, ils partent pour trouver un travail et nous les perdons de vue le plus souvent. Un de nos défis est de garder un lien avec ceux qui partent en ville ou à l’étranger pour trouver un travail.
Le clergé est principalement un clergé missionnaire. Peut-on penser que votre successeur sera un prêtre khmer ?
Cela serait merveilleux et souhaitable, mais il est sans doute trop tôt pour penser qu’il en sera ainsi. Actuellement, deux de nos prêtres sont cambodgiens et en novembre un troisième devrait être ordonné pour Battambang. Ils ont tout à fait la capacité, un jour prochain, d’assumer la responsabilité de la préfecture apostolique. Mais si je devais rester réaliste, je dirais qu’il est plus probable que mon successeur soit un prêtre originaire d’Asie. A Battambang, il n’y a que deux prêtres non-Asiatiques : un prêtre de Colombie, le P. Pedro, et moi-même ; les neuf autres viennent d’Indonésie, des Philippines, de Corée, de Thaïlande et d’Inde. Cela crée une ambiance bien plus asiatique qu’européenne !
En août prochain sont organisées en Corée les Journées asiatiques de la jeunesse. En serez-vous ?
Non, pas personnellement. Mgr Olivier Schmitthaeusler, MEP, vicaire apostolique de Phnom Penh, est responsable de la jeunesse pour notre petite Eglise du Cambodge. Il ira, accompagné d’une délégation de trente jeunes, dont sept venus de mon diocèse. C’est un temps très important pour nous. Je vous ai dis que nos communautés étaient en grande partie formées de jeunes, mais bien évidemment ils se sentent plutôt seuls au sein d’un pays où les chrétiens sont un tout petit nombre (20 000 catholiques pour 15 millions d’habitants). Alors, être en contact avec une foule considérable de jeunes chrétiens, c’est une expérience unique, une expérience spirituelle. C’est faire l’expérience du corps mystique que représente le peuple de Dieu réuni en son Eglise. C’est très important et nous nous y préparons depuis des mois ! Et depuis que nous savons que le pape y sera lui aussi, c’est encore plus un événement…
Comment caractériseriez-vous vos relations avec les autorités ?
Localement, elles sont bonnes. Quant au gouvernement à Phnom Penh, notre position est que nous ne sommes ni pour lui ni contre lui, nous sommes pour que des changements aient lieu. Dans notre travail à travers la Caritas, dans nos contacts avec les autorités locales, nous poussons toujours à ce que les changements soient entrepris pour le bien des gens.
Quant à ce que sera l’avenir de ce pays, je n’en sais rien. Nous voyons que des personnes sont toujours plus corrompues mais nous pouvons aussi percevoir des signes de changement. Une génération nouvelle se profile à l’horizon. Ces futurs responsables ont été mieux formés, ils ont plus l’habitude du dialogue, ils ont été formés à l’étranger ou en contact avec l’étranger. Avec eux, on peut raisonnablement espérer que la situation pourra aller vers un mieux. Je veux me montrer optimiste, même s’il faut se garder de tout excès d’optimisme. Les pays voisins du Cambodge, le Vietnam, le Laos, la Thaïlande, au-delà de leurs différences, ne brillent pas par leur absence de corruption et leurs élites ne sont donc pas forcément un exemple pour les dirigeants cambodgiens. De plus, le « progrès » économique généré par les investissements étrangers, que ceux-ci viennent de Chine, de Taiwan, de Corée ou d’ailleurs, n’est pas nécessairement positif. En cheville avec les dirigeants cambodgiens, ces investisseurs accaparent les ressources naturelles du pays, exploitent sa main-d’œuvre mais, au final, très peu de richesses bénéficient vraiment à la population. C’est un vrai souci.
L’un des atouts de ce pays est l’extraordinaire jeunesse de sa population. Je vous ai dis combien étaient préoccupantes les inégalités et la faiblesse du système éducatif ; c’est vrai, mais il faut aussi considérer le dynamisme dont la jeunesse cambodgienne est porteuse. Dans nos églises, la majorité de l’assistance est formée de jeunes, des enfants, des adolescents et de jeunes adultes. Beaucoup ne sont pas baptisés mais ils peuvent être touchés par l’Evangile et le Christ. Ils me donnent beaucoup d’espoir lorsque je réfléchis à l’avenir de ce pays et de l’Eglise qui y chemine. Dieu seul le sait, mais, parmi eux se trouve sans doute mon successeur ou le successeur de mon successeur !
(1) Préfet apostolique de Battambang, l’une des trois circonscriptions de l’Eglise catholique au Cambodge, Mgr Figaredo est aussi le vice-président de la CELAC (Conférence 2piscopale du Laos et du Cambodge).
Né en Espagne le 21 septembre 1959, Mgr Enrique Figaredo Alvargonzales est entré dans la Compagnie de Jésus en 1979, avant d’être prêtre en 1992.
En 1985, durant ses études universitaires, il s’engage comme volontaire auprès du Service jésuite aux réfugiés (JRS) et travaillera aux cotés des réfugiés cambodgiens dans un camp en Thaïlande. Ses études terminées (diplômé d’économie, de théologie et de philosophie), Mgr Figaredo se rend au Cambodge afin d’aider les personnes mutilées par les mines anti-personnel. En 1991, il participe à la création de Banteay Prieb (‘la maison de la colombe’), centre d’accueil et de formation pour les enfants victimes de la guerre.
Mgr Figaredo est très impliqué sur les questions liées à l’éducation, à la formation des populations défavorisées et des jeunes enfants handicapés mentaux. Il tient un blog (ici).
(Source: Eglises d'Asie, le 14 mai 2014)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Nhóm dự tu Nghệ An hội ngộ và tĩnh tâm ngày cầu cho Ơn Thiên Triệu
G.B Nguyễn Năng
17:45 14/05/2014
NGHỆ AN - Làm sao giới trẻ có thể nhận biết tiếng Chúa gọi? Làm sao để tiếng gọi của Chúa không bị bóp nghẹt bởi những tiếng gọi xung quanh? Làm sao để xác định đúng, chọn lựa đúng, và can đảm bước đi trên những chọn lựa đó? Từ những thao thức này, nhân ngày quốc tế cầu nguyện cho ơn gọi, 11.05.2014, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, tại giáo xứ Thuận Nghĩa, Ban mục vụ ơn gọi giáo phận Vinh đã long trọng tổ chức chương trình tĩnh tâm lần thứ I cho hơn 140 em dự tu sắp thi vào Đại chủng viện.
Hình ảnh
Vào lúc 8 giờ, ngày gặp gỡ tĩnh tâm được bắt đầu bằng lời phát biểu khai mạc cha Đặc trách ơn gọi Antôn Nguyễn Văn Đính. Hiện diện với ngài có cha giảng phòng G.B Nguyễn Kim Đồng Giám đốc TCV Xã Đoài, quý cha trong Ban mục vụ ơn gọi giáo phận cùng với hơn 140 anh em dự tu thực tập tại các giáo xứ thuộc khu vực Nghệ An.
“Đến và ở lại với Người”
Trong bầu khí tĩnh lặng của ngày tĩnh tâm, các anh em dự tu được cha giảng phòng dẫn đưa đến với những đáp giải riêng tư, tự chất vấn trước ánh sáng của lời Chúa: Các anh tìm gì thế? (Ga1,38), tìm tiền bạc, phương tiện, danh vọng... hay tìm chính Đức Kitô? Mỗi người được mời gọi "đến mà xem" và "ở lại với Người"(Ga1,39). Lời mời gọi đẩy bí ẩn những luôn hấp dẫn, làm cho mỗi người khao khát muốn tìm kiếm Chúa hơn. Muốn không thất vọng chán chường hay vỡ mộng nuối tiếc, mỗi người được mời gọi hãy lột bỏ con người cũ của mình, lột bỏ những thành kiến, những bản tính thấp hèn của tham sân si để ở lại một cách trọn vẹn và toàn tâm toàn ý với Người. Lúc này, mỗi người đã biết tự hỏi: Tôi có tìm kiếm Chúa hay không? Tôi có theo vết chân Người không? Và tôi có ở lại với Người không? Để rồi tự tìm ra tiếng gọi đích thực của đời mình.
Theo hướng dẫn của cha giảng phòng, mỗi người bước đến chỗ riêng tư nơi chỉ có Đức Kitô thầm thì với họ. Nơi đây, họ được mời gọi trút bỏ mọi gánh nặng của âu lo, của những toan tính thường nhật để đến với Chúa và lắng nghe tiếng Người. Đồng thời, họ nói lên những tâm tư sâu lắng, những thao thức, những khát vọng, để rồi chính Chúa hướng dẫn cuộc đời họ. Và từ đó, mỗi người đưa ra những chọn lựa theo Thánh ý của Chúa. Cũng trong bầu khí đó, anh em dự tu được biến đổi trong bí tích Hòa giải qua quý cha thuộc Ban mục vụ ơn gọi giáo phận.
Hội thảo và thánh lễ
Từ 13 giờ 30 – 15 giờ, các em được quý cha hướng dẫn thảo luận về chủ đề: "Động lực ơn gọi". Các em được mời gọi khám phá lại chọn lựa của mình, đâu là động lực chính yếu mà mỗi người muốn theo đuổi. Từ đó, đưa ra những cân nhắc cho riêng mình, gạt bỏ những tư tưởng đời thường không phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, mỗi người được thúc bách đi sâu vào tận cùng của cõi lòng mình để tìm kiếm tiếng gọi của Chúa. Các em đã có một buổi thảo luận sôi nổi, mỗi người được bộc bạch, được sẻ chia những tâm tư của mình và thấu hiểu hơn, xác định rõ ràng hơn cho con đường theo đuổi ơn gọi.
Thật ý nghĩa biết bao, ngày tĩnh tâm được bế mạc bằng thánh lễ Chúa Chiên Lành lúc 15 giờ, thánh lễ cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu. Cha Giuse Hoàng Đức Nhân đã chủ tế thánh lễ, đồng tế với ngài có Cha quản hạt Thuận Nghĩa Antôn Trần Văn Đính, Cha Giám đốc Tiền chủng viện Xã Đoài G.B Nguyễn Kim Đồng. Hiệp dâng cùng quý cha có140 em dự tu, 60 em thuộc lớp mần ơn gọi giáo xứ Thuận Nghĩa và đông đảo cộng đoàn giáo xứ Thuận Nghĩa.
Chia sẻ trong thánh lễ, Cha Giám đốc Tiền Chủng viện đã gợi mở cho cộng đoàn thấy Đức Kitô là Người Mục Tử Nhân Lành, là Đấng chăn chiên đầy yêu thương, Đấng đến cho chiên được sống và sống dồi dào, và sẽ dẫn đưa đoàn chiên đến với đồng cỏ xanh tươi là Nước Trường Sinh. Qua đây, ngài cũng mời gọi anh em dự tụ hãy can đảm bước theo Đức Kitô trước nhiều thách đố của chủ nghĩa thế tục, đồng thời nỗ lực kiên vững trước những yếu hèn của kiếp người để đến với Đức Kitô trong sự dấn thân trọn vẹn, và trở thành người mục tử nhân lành như lòng Chúa ước mong.
Chương trình tĩnh tâm khép lại lúc 16 giờ, anh em dự tu lên đường trong niềm hân hoan của một ngày sống trọn vẹn trong cánh tay của Chúa Chiên Lành, bước đi vì niềm vui tìm lại được chính mình trong bí tích Hòa giải và sẵn sàng dấn thân cho lý tưởng phục vụ cao đẹp.
Hình ảnh
Vào lúc 8 giờ, ngày gặp gỡ tĩnh tâm được bắt đầu bằng lời phát biểu khai mạc cha Đặc trách ơn gọi Antôn Nguyễn Văn Đính. Hiện diện với ngài có cha giảng phòng G.B Nguyễn Kim Đồng Giám đốc TCV Xã Đoài, quý cha trong Ban mục vụ ơn gọi giáo phận cùng với hơn 140 anh em dự tu thực tập tại các giáo xứ thuộc khu vực Nghệ An.
“Đến và ở lại với Người”
Trong bầu khí tĩnh lặng của ngày tĩnh tâm, các anh em dự tu được cha giảng phòng dẫn đưa đến với những đáp giải riêng tư, tự chất vấn trước ánh sáng của lời Chúa: Các anh tìm gì thế? (Ga1,38), tìm tiền bạc, phương tiện, danh vọng... hay tìm chính Đức Kitô? Mỗi người được mời gọi "đến mà xem" và "ở lại với Người"(Ga1,39). Lời mời gọi đẩy bí ẩn những luôn hấp dẫn, làm cho mỗi người khao khát muốn tìm kiếm Chúa hơn. Muốn không thất vọng chán chường hay vỡ mộng nuối tiếc, mỗi người được mời gọi hãy lột bỏ con người cũ của mình, lột bỏ những thành kiến, những bản tính thấp hèn của tham sân si để ở lại một cách trọn vẹn và toàn tâm toàn ý với Người. Lúc này, mỗi người đã biết tự hỏi: Tôi có tìm kiếm Chúa hay không? Tôi có theo vết chân Người không? Và tôi có ở lại với Người không? Để rồi tự tìm ra tiếng gọi đích thực của đời mình.
Theo hướng dẫn của cha giảng phòng, mỗi người bước đến chỗ riêng tư nơi chỉ có Đức Kitô thầm thì với họ. Nơi đây, họ được mời gọi trút bỏ mọi gánh nặng của âu lo, của những toan tính thường nhật để đến với Chúa và lắng nghe tiếng Người. Đồng thời, họ nói lên những tâm tư sâu lắng, những thao thức, những khát vọng, để rồi chính Chúa hướng dẫn cuộc đời họ. Và từ đó, mỗi người đưa ra những chọn lựa theo Thánh ý của Chúa. Cũng trong bầu khí đó, anh em dự tu được biến đổi trong bí tích Hòa giải qua quý cha thuộc Ban mục vụ ơn gọi giáo phận.
Hội thảo và thánh lễ
Từ 13 giờ 30 – 15 giờ, các em được quý cha hướng dẫn thảo luận về chủ đề: "Động lực ơn gọi". Các em được mời gọi khám phá lại chọn lựa của mình, đâu là động lực chính yếu mà mỗi người muốn theo đuổi. Từ đó, đưa ra những cân nhắc cho riêng mình, gạt bỏ những tư tưởng đời thường không phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, mỗi người được thúc bách đi sâu vào tận cùng của cõi lòng mình để tìm kiếm tiếng gọi của Chúa. Các em đã có một buổi thảo luận sôi nổi, mỗi người được bộc bạch, được sẻ chia những tâm tư của mình và thấu hiểu hơn, xác định rõ ràng hơn cho con đường theo đuổi ơn gọi.
Thật ý nghĩa biết bao, ngày tĩnh tâm được bế mạc bằng thánh lễ Chúa Chiên Lành lúc 15 giờ, thánh lễ cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu. Cha Giuse Hoàng Đức Nhân đã chủ tế thánh lễ, đồng tế với ngài có Cha quản hạt Thuận Nghĩa Antôn Trần Văn Đính, Cha Giám đốc Tiền chủng viện Xã Đoài G.B Nguyễn Kim Đồng. Hiệp dâng cùng quý cha có140 em dự tu, 60 em thuộc lớp mần ơn gọi giáo xứ Thuận Nghĩa và đông đảo cộng đoàn giáo xứ Thuận Nghĩa.
Chia sẻ trong thánh lễ, Cha Giám đốc Tiền Chủng viện đã gợi mở cho cộng đoàn thấy Đức Kitô là Người Mục Tử Nhân Lành, là Đấng chăn chiên đầy yêu thương, Đấng đến cho chiên được sống và sống dồi dào, và sẽ dẫn đưa đoàn chiên đến với đồng cỏ xanh tươi là Nước Trường Sinh. Qua đây, ngài cũng mời gọi anh em dự tụ hãy can đảm bước theo Đức Kitô trước nhiều thách đố của chủ nghĩa thế tục, đồng thời nỗ lực kiên vững trước những yếu hèn của kiếp người để đến với Đức Kitô trong sự dấn thân trọn vẹn, và trở thành người mục tử nhân lành như lòng Chúa ước mong.
Chương trình tĩnh tâm khép lại lúc 16 giờ, anh em dự tu lên đường trong niềm hân hoan của một ngày sống trọn vẹn trong cánh tay của Chúa Chiên Lành, bước đi vì niềm vui tìm lại được chính mình trong bí tích Hòa giải và sẵn sàng dấn thân cho lý tưởng phục vụ cao đẹp.
Đồng hương Trà Vy Thái Bình mừng lễ bổn mạng tại Giáo Xứ Tân Việt Sàigòn
Vũ Đỗ Hoàng Tuấn
21:38 14/05/2014
ĐỒNG HƯƠNG TRÀ VY: YÊU THƯƠNG - GẮN KẾT - ĐỠ NÂNG
Thánh lễ mừng kính thánh Giuse lao động được những người con Trà Vy xa quê tổ chức tại giáo xứ Tân Việt (hạt Tân Sơn Nhì, giáo phận TP.HCM) vào sáng ngày 30.4.2014. Chủ tế là linh mục Giuse Nguyễn Văn Uy - hạt trưởng Hòa Thanh, chính xứ Lai Ổn (giáo phận Xuân Lộc). Cùng đồng tế có các linh mục Giuse Nguyễn Văn Phú - dòng Đaminh, linh mục Hilariô Maria Phạm Ngọc Chính và linh mục Barnaba Maria Dương Hùng Kiệt - dòng Đồng Công.
Xem Hình
Gần 400 thành viên đã về kính Thánh bổn mạng và gặp gỡ nhau trong tình đồng hương. Có sự hiện diện của đông đảo bà con đang sinh sống, làm việc và học tập tại TP.HCM, tỉnh Đồng Nai và vùng phụ cận. Một số người ở tỉnh Cần Thơ, Kiên Giang,… cũng về tham dự. Nét mặt ai cũng hân hoan vì tuy ở nhiều nơi, có nhiều hoàn cảnh nhưng đều có chung một quê hương, một thánh bổn mạng. Cộng đoàn cùng hiệp dâng thánh lễ, tưởng nhớ các linh hồn đã ly trần và cầu nguyện cho các thế hệ đồng hương luôn được ơn lành hồn xác.
Theo các cụ kể lại: Giáo xứ Trà Vy nằm bên tả ngạn sông Hồng, thuộc xã Vũ Công, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Hạt giống đức Tin đã được gieo vãi từ thời vua Gia Long (1802 - 1820) do các vị thừa sai dòng Đaminh đến rao giảng. Trong một thời gian ngắn có khoảng 200 người tin theo. Ngôi nhà nguyện 5 gian bằng gỗ và mái rạ đầu tiên được dựng lên làm nơi cầu nguyện của bà con giáo dân. Khi số giáo dân tăng, nhà nguyện được mở ra bảy gian. Năm 1833, vua Minh Mạng ra sắc chỉ cấm Đạo, nhà nguyện bị dỡ bỏ. Đến năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi, có cảm tình với Công Giáo. Nhờ đó, các sinh hoạt tôn giáo phát triển mạnh, số giáo dân tăng nhanh.
Năm 1847, vua Tự Đức lên ngôi, ra sắc chỉ cấm Đạo tàn khốc. Các tín hữu Trà Vy vẫn can đảm giữ vững đức Tin. 54 vị đã chịu tử Đạo. Trong đó, thầy giảng Giuse Nguyễn Duy Khang (sinh năm 1832, tử Đạo ngày 6.12.1861) được Giáo Hội tôn phong Hiển thánh cùng các Thánh tử Đạo Việt Nam ngày 19.6.1988. Ngoài ra, còn 14 chứng nhân tử Đạo (có 2 người nữ) đã được ghi tên tuổi trong lịch sử giáo xứ.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, Công Giáo không còn bị bách hại. Giáo họ Trà Vy thuộc xứ Cổ Việt khởi sắc trở lại với sinh hoạt tôn giáo khá phong phú, số giáo dân ngày càng gia tăng. Giáo họ chuẩn bị và xây dựng ngôi thánh đường mới bằng gỗ lim trong suốt 26 năm. Khánh thành vào năm 1895.
Năm 1888, Đức Giám Mục Tông tòa giáo phận Trung Wenceslao Onate Thuận, OP. tách họ Trà Vy với 700 giáo dân khỏi xứ Cổ Việt, để sát nhập vào giáo xứ Thân Thượng mới được thành lập. Đến năm 1937, Đức Giám Mục Tông tòa giáo phận Thái Bình Jean Casado Obispo Thuận, OP. ban sắc lệnh nâng họ Trà Vy lên giáo xứ. Đã có 15 linh mục được các Bề trên sai đến nối tiếp nhau chăm sóc bổn đạo nơi đây…
Ngày 28.10.1992, Đức Giám Mục Thái Bình Phaxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang bổ nhiệm linh mục Giuse Mai Trần Huynh về giáo xứ Trà Vy, tu sửa lại ngôi nhà chung đã xuống cấp. Ngài đã xây thánh đường mới, đài Đức Mẹ La Vang, nhà giáo lý, đài Thánh tử Đạo Giuse Nguyễn Duy Khang, quy tập hài cốt của 14 vị hiền phúc tử Đạo…
Hiện nay, xứ Trà Vy có khoảng 1.400 nhân danh. Giáo xứ tổ chức sinh hoạt hội Têrêsa, Legio Mariae, Nghĩa binh Thánh Thể, Gia trưởng, Hiền mẫu, Huynh đoàn giáo dân Đaminh, các ban Kèn, Trống, Trắc, Giới trẻ, Giáo lý viên… Hội đồng mục vụ và Huynh đoàn giáo dân Đaminh đã tích cực cộng tác với linh mục chính xứ, giúp đỡ bệnh nhân ở trại phong Vân Môn. Đào sâu đức Tin cho thế hệ tương lai, giáo xứ quan tâm đến việc học giáo lý, tổ chức sinh hoạt giới trẻ, đào tạo lễ sinh và vun trồng ơn gọi.
Năm ngoái, trong dịp thăm mục vụ giáo phận Thái Bình, Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli - Đại diện không thường trú của Tòa Thánh Vatican ở Việt Nam đã đến thăm giáo xứ Trà Vy và chủ tế thánh lễ cung hiến ngôi nhà thờ tước hiệu “Thánh Giuse công nhân” cùng với Đức Giám Mục giáo phận Thái Bình Phêrô Nguyễn Văn Đệ vào sáng ngày 25.5.2013.
Đồng hương đã có chín linh mục, một chủng sinh và 20 tu sĩ gốc Trà Vy. Nhiều người con giáo xứ Trà Vy đã di cư vào miền Nam nhưng vẫn không quên cội nguồn, vẫn yêu thương, gắn kết và nâng đỡ nhau. Hội đồng hương với những thành viên nhiệt tâm mời gọi các gia đình quy tụ lại trong ngày lễ kính thánh Giuse lao động, ngày mừng Thánh Tổ Giuse Giuse Nguyễn Duy Khang tử Đạo… Các bạn thanh niên vào Nam học tập cũng gắn kết và nâng đỡ trong Ban Giới trẻ không chỉ qua sinh hoạt, mà còn rủ nhau đến Đan viện Xitô (Vũng Tàu) tĩnh tâm trong mùa Vọng 2013.
Đầu năm 2014, với hai nhân sự được bổ sung thêm, Ban Phục vụ đồng hương nhiệm kỳ 2013 - 2017 có được 6 người. Ban Phục vụ có kế họach đi đến với bà con đồng hương nhiều hơn, đặc biệt là những dịp thăm người đau bệnh, viếng người qua đời. Mời gọi các bạn trẻ tham gia công việc chung, để tiếp nối tinh thần yêu thương, gắn kết và nâng đỡ mà đồng hương gầy dựng trong thời gian qua.
Có dịp linh mục chính xứ quê hương vào TP.HCM, bà con đồng hương Trà Vy ở miền Nam lại quy tụ để gặp gỡ. Các vị trong Hội đồng Mục vụ giáo xứ đi công tác miền Nam cũng ghé vào thăm hỏi nhau. Chính những buổi giao lưu ấy kết thêm tình thân giữa những người con Trà Vy với anh chị em xa xứ. Được thông báo những tin tức quê nhà, những phát triển cũng như tin buồn bị bão lũ. Chung niềm vui, chia sẻ nỗi lo là tinh thần của đồng hương Trà Vy ở miền Nam. Giáo xứ quê hương miền Bắc xây dựng cơ sở vật chất, đổ bêtông mái nhà thờ,… đều có sự đóng góp của nhiều gia đình phương xa.
VŨ ĐỖ HOÀNG TUẤN
Thánh lễ mừng kính thánh Giuse lao động được những người con Trà Vy xa quê tổ chức tại giáo xứ Tân Việt (hạt Tân Sơn Nhì, giáo phận TP.HCM) vào sáng ngày 30.4.2014. Chủ tế là linh mục Giuse Nguyễn Văn Uy - hạt trưởng Hòa Thanh, chính xứ Lai Ổn (giáo phận Xuân Lộc). Cùng đồng tế có các linh mục Giuse Nguyễn Văn Phú - dòng Đaminh, linh mục Hilariô Maria Phạm Ngọc Chính và linh mục Barnaba Maria Dương Hùng Kiệt - dòng Đồng Công.
Xem Hình
Gần 400 thành viên đã về kính Thánh bổn mạng và gặp gỡ nhau trong tình đồng hương. Có sự hiện diện của đông đảo bà con đang sinh sống, làm việc và học tập tại TP.HCM, tỉnh Đồng Nai và vùng phụ cận. Một số người ở tỉnh Cần Thơ, Kiên Giang,… cũng về tham dự. Nét mặt ai cũng hân hoan vì tuy ở nhiều nơi, có nhiều hoàn cảnh nhưng đều có chung một quê hương, một thánh bổn mạng. Cộng đoàn cùng hiệp dâng thánh lễ, tưởng nhớ các linh hồn đã ly trần và cầu nguyện cho các thế hệ đồng hương luôn được ơn lành hồn xác.
Theo các cụ kể lại: Giáo xứ Trà Vy nằm bên tả ngạn sông Hồng, thuộc xã Vũ Công, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Hạt giống đức Tin đã được gieo vãi từ thời vua Gia Long (1802 - 1820) do các vị thừa sai dòng Đaminh đến rao giảng. Trong một thời gian ngắn có khoảng 200 người tin theo. Ngôi nhà nguyện 5 gian bằng gỗ và mái rạ đầu tiên được dựng lên làm nơi cầu nguyện của bà con giáo dân. Khi số giáo dân tăng, nhà nguyện được mở ra bảy gian. Năm 1833, vua Minh Mạng ra sắc chỉ cấm Đạo, nhà nguyện bị dỡ bỏ. Đến năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi, có cảm tình với Công Giáo. Nhờ đó, các sinh hoạt tôn giáo phát triển mạnh, số giáo dân tăng nhanh.
Năm 1847, vua Tự Đức lên ngôi, ra sắc chỉ cấm Đạo tàn khốc. Các tín hữu Trà Vy vẫn can đảm giữ vững đức Tin. 54 vị đã chịu tử Đạo. Trong đó, thầy giảng Giuse Nguyễn Duy Khang (sinh năm 1832, tử Đạo ngày 6.12.1861) được Giáo Hội tôn phong Hiển thánh cùng các Thánh tử Đạo Việt Nam ngày 19.6.1988. Ngoài ra, còn 14 chứng nhân tử Đạo (có 2 người nữ) đã được ghi tên tuổi trong lịch sử giáo xứ.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, Công Giáo không còn bị bách hại. Giáo họ Trà Vy thuộc xứ Cổ Việt khởi sắc trở lại với sinh hoạt tôn giáo khá phong phú, số giáo dân ngày càng gia tăng. Giáo họ chuẩn bị và xây dựng ngôi thánh đường mới bằng gỗ lim trong suốt 26 năm. Khánh thành vào năm 1895.
Năm 1888, Đức Giám Mục Tông tòa giáo phận Trung Wenceslao Onate Thuận, OP. tách họ Trà Vy với 700 giáo dân khỏi xứ Cổ Việt, để sát nhập vào giáo xứ Thân Thượng mới được thành lập. Đến năm 1937, Đức Giám Mục Tông tòa giáo phận Thái Bình Jean Casado Obispo Thuận, OP. ban sắc lệnh nâng họ Trà Vy lên giáo xứ. Đã có 15 linh mục được các Bề trên sai đến nối tiếp nhau chăm sóc bổn đạo nơi đây…
Ngày 28.10.1992, Đức Giám Mục Thái Bình Phaxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang bổ nhiệm linh mục Giuse Mai Trần Huynh về giáo xứ Trà Vy, tu sửa lại ngôi nhà chung đã xuống cấp. Ngài đã xây thánh đường mới, đài Đức Mẹ La Vang, nhà giáo lý, đài Thánh tử Đạo Giuse Nguyễn Duy Khang, quy tập hài cốt của 14 vị hiền phúc tử Đạo…
Hiện nay, xứ Trà Vy có khoảng 1.400 nhân danh. Giáo xứ tổ chức sinh hoạt hội Têrêsa, Legio Mariae, Nghĩa binh Thánh Thể, Gia trưởng, Hiền mẫu, Huynh đoàn giáo dân Đaminh, các ban Kèn, Trống, Trắc, Giới trẻ, Giáo lý viên… Hội đồng mục vụ và Huynh đoàn giáo dân Đaminh đã tích cực cộng tác với linh mục chính xứ, giúp đỡ bệnh nhân ở trại phong Vân Môn. Đào sâu đức Tin cho thế hệ tương lai, giáo xứ quan tâm đến việc học giáo lý, tổ chức sinh hoạt giới trẻ, đào tạo lễ sinh và vun trồng ơn gọi.
Năm ngoái, trong dịp thăm mục vụ giáo phận Thái Bình, Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli - Đại diện không thường trú của Tòa Thánh Vatican ở Việt Nam đã đến thăm giáo xứ Trà Vy và chủ tế thánh lễ cung hiến ngôi nhà thờ tước hiệu “Thánh Giuse công nhân” cùng với Đức Giám Mục giáo phận Thái Bình Phêrô Nguyễn Văn Đệ vào sáng ngày 25.5.2013.
Đồng hương đã có chín linh mục, một chủng sinh và 20 tu sĩ gốc Trà Vy. Nhiều người con giáo xứ Trà Vy đã di cư vào miền Nam nhưng vẫn không quên cội nguồn, vẫn yêu thương, gắn kết và nâng đỡ nhau. Hội đồng hương với những thành viên nhiệt tâm mời gọi các gia đình quy tụ lại trong ngày lễ kính thánh Giuse lao động, ngày mừng Thánh Tổ Giuse Giuse Nguyễn Duy Khang tử Đạo… Các bạn thanh niên vào Nam học tập cũng gắn kết và nâng đỡ trong Ban Giới trẻ không chỉ qua sinh hoạt, mà còn rủ nhau đến Đan viện Xitô (Vũng Tàu) tĩnh tâm trong mùa Vọng 2013.
Đầu năm 2014, với hai nhân sự được bổ sung thêm, Ban Phục vụ đồng hương nhiệm kỳ 2013 - 2017 có được 6 người. Ban Phục vụ có kế họach đi đến với bà con đồng hương nhiều hơn, đặc biệt là những dịp thăm người đau bệnh, viếng người qua đời. Mời gọi các bạn trẻ tham gia công việc chung, để tiếp nối tinh thần yêu thương, gắn kết và nâng đỡ mà đồng hương gầy dựng trong thời gian qua.
Có dịp linh mục chính xứ quê hương vào TP.HCM, bà con đồng hương Trà Vy ở miền Nam lại quy tụ để gặp gỡ. Các vị trong Hội đồng Mục vụ giáo xứ đi công tác miền Nam cũng ghé vào thăm hỏi nhau. Chính những buổi giao lưu ấy kết thêm tình thân giữa những người con Trà Vy với anh chị em xa xứ. Được thông báo những tin tức quê nhà, những phát triển cũng như tin buồn bị bão lũ. Chung niềm vui, chia sẻ nỗi lo là tinh thần của đồng hương Trà Vy ở miền Nam. Giáo xứ quê hương miền Bắc xây dựng cơ sở vật chất, đổ bêtông mái nhà thờ,… đều có sự đóng góp của nhiều gia đình phương xa.
VŨ ĐỖ HOÀNG TUẤN
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Phỏng vấn ĐGM Nguyễn Thái Hợp về tình hình Biển Đông
Phạm Trần
14:41 14/05/2014
Cứu nước hay cứu đảng ?
Phạm Trần
14:43 14/05/2014
CỨU NƯỚC HAY CỨU ĐẢNG ?
Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã rất khôn ngoan và kiên quyết chống nhân dân đòi dân chủ, tự do nhưng lại hoang mang và lúng túng khi phải đối diện với hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.
Bằng chứng đã hiện ra trước mắt kể từ ngày 3/5 (2014) khi Bắc Kinh đem giàn khoan HD-981 và một lực lượng quân sự hùng hâu bảo vệ vào hoạt động công khai bên trong vùng “đặc quyền kinh tế” 200 hải lý (lối 370 cây số) của Việt Nam.
Khu vực đặt giàn khoan khổng lồ HD-981 nằm phía nam quần đào Hòang Sa nhưng chỉ cách đảo Lý Sơn, Tỉnh Qủang Ngãi khỏang 119 hải lý (lối 221 cây số), hay 80 hải lý (trên 148 cây số) bên trong lằn ranh ngòai cùng của vùng “đặc quyến kinh tế”. Gìan khoan do Trung Cộng chế tạo tốn lối 1 tỷ dollars, có khả năng hoạt động ở độ nước sâu 3000 mét và mũi khoan có khả năng đào sâu 10,000 mét.
Gìan khoan này được Bắc Kinh bảo vệ bởi gần 100 tầu chiến có hỏa tiễn và súng nặng, máy bay, tầu săn ngầm và hàng chục tầu đổ bộ, Hải giám, Hải cảnh, Ngư chính, Cứu hộ, Vận tải và tầu cá vỏ sắt
Sau hơn 2 tuần lễ, không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Cộng sẽ bỏ cuộc, mặc cho Việt Nam phản đối, chỉ trích hay dùng tầu “đâm nhau” hoặc xịt nước xua đuổi lẫn nhau trên Biển Đông.
Từ ngày 13/5 (2014) phía Cảnh sát biển Việt Nam báo cáo về đất liền “tình hình rất căng thẳng” trong khi Phát ngôn viên của Bộ Ngọai giao Trung Cộng Hoa Xuân Oánh thản nhiên bảo “Việt Nam sẽ thất bại” vì Trung Quốc tìm kiến dầu khí “trên biển của Trung Quốc” !
Phía Việt Nam cho biết cứ mỗi lần các tầu Cảnh sát biển của Việt Nam tìm cách tiến gần giàn khoan HD-981 thì các tầu Hải Giám và Hải Cảnh của Trung Cộng lại ngăn chặn hoặc bao vây tầu Việt Nam. Cảnh sát biển Việt Nam cũng báo cáo các tầu Trung Cộng đã nhiều lần chạy với tốc độ mạnh toan đâm vào tầu Việt Nam nhưng các tầu Việt Nam đã tránh được.
Các chuyên viên Quốc tế quan ngại về thái độ cứng rắn và hung hãn lần này của Trung Cộng trong vụ giàn khoan HD-981 vì Bắc Kinh biết Việt Nam không có khả năng quân sự đề đuổi giàn khoan và các tầu của Bắc Kinh ra khỏi khu vực.
Tuy nhiên lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam nói họ kiên quyết bám vị trí và nhất định xua đuổi giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế, nhưng không biết có thành công hay không.
VIỆT NAM ĐÃ LÀM GÌ ?
Về phía Trung Cộng thì tình hình tại chỗ cho thấy không có dấu hiệu nào Bắc Kinh sẽ bỏ cuộc. Họ nói gìan khoan HD-981 có thời khóa biểu hoạt động 100 ngày ở vùng biển của Việt Nam, kể từ 3/5/2014, nhưng không ai chắc Trung Cộng sẽ rút lui sau thời gian này.
Có nhiều lo ngại từ phiá Việt Nam sợ Bắc Kinh sẽ tiếp tục rời đi chỗ khác để tìm kiếm dầu trong phạm vi đường Lưỡi Bò (hay đường 9 đọan) mà Trung Cộng đã “tự chế ra” từ năm 2009 để chiếm biển của nước khác. Diện tích của đường Lưỡi Bò chiếm tới 2/3 của tổng số 3.5 triệu cây số vuông Biển Đông, bao gồm cả Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Vậy đảng và nhà nước CSVN đã làm gì để bảo vệ sự vẹn tòan lãnh thổ mà không bị đánh bẹp bởi quân Trung Cộng ở Biển Đông ?
Thứ nhất, về mặt ngọai giao, ngòai phản đối bằng văn bản, họp báo, họp tay đôi trung cấp và cuộc điện đàm duy nhất giữa Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngọai giao Phạm Bình Minh và Ngọai trường Trung Cộng Dương Khiết Trì, không có bất cứ hành động nào của cấp Tổng Bí thư giữa hai đảng. Thủ tướng Việt-Trung cũng không nói chuyện với nhau.
Thậm chí có tin “không chính thức” nói rằng Tổng Bí thư-Chủ tịch Nhà nước Trung Cộng Tập Cận Bình đã không thèm đáp lại đề nghị gặp nhau ở Bắc Kinh của Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng để thảo luận về vụ giàn khoan HD-981.
Nếu tin này có thật thì liên lạc Việt-Trung đã rẽ sang một hướng rất nghiêm trọng và ông Trọng đã không những bị họ Tập coi thường mà uy tín của ông Trọng cũng không còn với đảng và người dân trong nước.
Diễn đàn quốc tế duy nhất mà Việt Nam đã sử dụng để nói lên lập trường của mình và lên án hành động của Trung Cộng đã diễn ra ngày 11/5 tại thủ đô Nay Pyi Taw, Miến Điện, nước chủ nhà tổ chức Hội nghị ASEAN cấp cao kỳ thứ 24.
Tại đây, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã đọc bài diễn văn chỉ đích danh Trung Cộng đã “Từ ngày 01/5/2014 Trung Quốc đã ngang nhiên đưa giàn khoan nước sâu cùng hơn 80 tàu vũ trang, tàu quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và đã hạ đặt giàn khoan này tại vị trí nằm sâu trên 80 hải lý trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
Các tàu hộ tống bảo vệ giàn khoan của Trung Quốc đã rất hung hăng bắn vòi nước có cường độ mạnh và đâm húc thẳng vào các tàu công vụ, tàu dân sự của Việt Nam, gây hư hại nhiều tàu và làm nhiều người bị thương.”
Ông Dũng nói: “Đây là lần đầu tiên Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan vào hạ đặt tại địa điểm nằm sâu trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của một nước trong ASEAN, là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Luật pháp Quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và cũng là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Tuyên bố về Ứng xử của các Bên trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một Bên tham gia ký kết.
Hành động cực kỳ nguy hiểm này đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.”
Thủ tướng Dũng cáo buộc Trung Cộng “ không những không đáp ứng yêu cầu chính đáng của Việt Nam mà còn vu khống, đổ lỗi cho Việt Nam và tiếp tục dùng sức mạnh, gia tăng các hành động uy hiếp, xâm phạm ngày càng nguy hiểm và nghiêm trọng hơn.”
Tuy nhiên hy vọng ASEAN sẽ có phản ứng mạnh theo yêu cầu của Việt Nam đã thất bại
Tổ chức Hiệp hội các nước Đông Nam Á chưa bao giờ đòan kết khi phải đối phó với Trung Cộng vì quyền lợi của mỗi nước khác nhau.
Vì vậy trong lời Tuyên bố chung ngắn ngủi tại Miến Điện kỳ này khối 10 nước ASEAN đã không nêu tên Trung Cộng mà chỉ kêu gọi suông các bên hãy: “Tăng cường hợp tác bảo đảm thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), tuân thủ các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, đặc biệt kêu gọi tất cả các bên thực hiện kiềm chế và không sử dụng vũ lực, cũng như không tiến hành các hoạt động có thể làm gia tăng căng thẳng và sớm đạt được Bộ Quy tắc về Ứng xử ở Biển Đông (COC) như đã được thể hiện trong Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông.”
Ngay cả Tuyên bố của Chủ tịch (Miến Điện) Hội nghị Cấp cao ASEAN-24 cũng chỉ “bày tỏ quan ngại sâu sắc về các vụ việc đang diễn ra ở Biển Đông” nhưng không chỉ đích danh Trung Cộng là nước đã gây ra cuộc khủng hoảng ở Biển Đông từ ngày 03/05/2014.
Tuyên bố viết: " Chúng tôi khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Chúng tôi kêu gọi tất cả các bên tham gia Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) thực hiện đầy đủ và hiệu quả tuyên bố này nhằm tạo môi trường tin cậy và xây dựng lòng tin; thực hiện kiềm chế, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS). Chúng tôi nhấn mạnh sự cần thiết của việc sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Theo đó, chúng tôi ghi nhận tầm quan trọng của Tuyên bố của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN về tình hình hiện nay ở Biển Đông, đã được Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đưa ra ngày 10/05/2014".
Trong Tuyên bố ngày 10/05, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã “yêu cầu các bên liên quan, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, thực hiện kiềm chế và tránh có các hành động có thể làm phương hại đến hòa bình và ổn định ở khu vực; và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.”
Sự kiện ASEAN không công khai nêu tên Trung Cộng đã gây ra cuộc khủng hỏang mới tại Biển Đông bằng hành động đưa giàn khoan dầu khí HD-981 vào sâu bên trong vùng “đặc quyền kinh tế” 200 hải lý (370 cây số) của Việt Nam đã thể hiện chủ trương “trung lập” của ASEAN, nhưng lại đem lại “thắng lợi” cho Trung Cộng.
Ngay từ Hội nghị cấp cao ASEAN năm 2012 tại Nam Vang, Kampuchea, Trung Cộng đã áp lực thành công với Thủ tướng nước chủ nhà Hun Sen để ông này không đưa ra tuyên bố chung của Hội nghị về tình hình Biển Đông.
Lý do vì Bắc Kinh là nguồn tài trợ và đầu tư chính tại Kampuchea với 2.7 tỷ dollars năm 2012. Trong khi mậu dịch Lào-Trung Cộng cũng lên đến 1.728 tỷ dollars năm 2012 nên hai nước Cao Miên-Lào luôn luôn đứng về phiá Bắc Kinh mỗi khi cần bỏ phiếu trong tổ chức ASEAN.
Ngoài Phi Luật Tân, Mã Lai, Tân Gia Ba, Nam Dương, Brunei và Việt Nam, hai nước Thái Lan và Miến Điện cũng có những quen hệ kinh tế đặc biệt với Bắc Kinh nên khối ASEAN chưa bao giờ có thể đòan kết và thống nhất lập trường khi phải đương đấu với Trung Cộng trong vấn đề Biển Đông.
Vì vậy, Bắc Kinh luôn luôn lợi dụng ưu điểm viện trợ và mậu dịch để trì hòan việc thảo luận Bộ Quy Tắc Ứng Xử (COC,Code of Conduct) với ASEAN để không bị ràng buộc pháp lý.
Mục đích của COC là thay thế cho Tuyên bố về Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (DOC,Declaration of Conduct) mà Trung Quốc và khối ASEAN đã ký với nhau ở Nam Vang năm 2002. Văn kiện DOC “không có tính cách pháp lý” nên nước nào cũng có thể “ vi phạm” hay “không cần thi hành” mà không bị xử lý.
Đó là lý do tại sao Trung Cộng đã tự vẽ ra hình Luỡi Bò hay còn gọi là Đường 9 Đoạn nạp cho Liên Hiệp Quốc năm 2009 với tham vọng chiếm ¾ của diện tích 3.5 triệu cây số vuông của Biển Đông mà không bị ASEAN ngăn chặn.
Từ đó, Bắc Kinh đã thao túng và khuấy động làm mất ổn định thường xuyên ở Biển Đông bằng hành động “tự tuyên bố chủ quyền” trên phần biển cuả nước khác.
Bắc Kinh cũng tự cho mình có “quyền lợi cốt lõi” ở Biển Đông và tự coi vùng biển quan trọng này như “ao nhà” của mình. Từ năm 2005, các tầu Hải Giám của Bắc Kinh đã tấn công và ngăn chặn ngư dân các nước trong khu vực, đặc biệt từ Việt Nam đi đánh bắt ở hai vùng biển Hòang Sa và Trường Sa.
NGHE VÀ HÀNH ĐỘNG
Trong cuộc xung đột mới trực tiếp giữa Việt Nam và Trung Cộng về vụ giàn khoan HD-981, Việt Nam vẫn chưa dám đưa Bắc Kinh ra trước tòa án quốc tế và không dám tố cáo Trung Cộng ra trước Liên Hiệp Quốc dù Bắc Kinh đã vi phạm Luật Biển-Liện Hiệp Quốc năm 1982.
Nhiều giới trong nước, kể cả Tiến sỹ Trần Cộng Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ đã nhiều lần khuyên nhà nước nên kiện Trung Cộng ra tòa án Quốc tế như Phi Luật Tân đã làm, nhưng chính phủ Việt Nam không nghe.
Như vậy, bây giờ, sau khi Trung Cộng đã đặt giàn khoan HD-981 vào vùng biển kinh tế của Việt Nam thì liệu việc kiện Bắc Kinh ra Tòa án Công lý Quốc tế hay Tòa Trọng tài Luật biển Liên Hiệp Quốc có qúa trễ không ?
Không muộn. Đó là câu trà lời của nhiều chuyên viên, ngược lại còn là cơ hội tốt nhất cho Việt Nam vào lúc này vì bằng chứng giàn khoan HD-981 đã nằm chình ình ra đó.
Nhưng về phiá đảng và nhà nước Việt Nam thì có vẻ như vẫn “lừng khừng” vì lãnh đạo không có lập trường dứt khóat và chia rẽ trong vấn đề đối phó với giàn khoan HD-981 của Trung Cộng.
Lập trường “nhũn như con chi chi” của Chính phủ Việt Nam đã phản ảnh qua lời nói của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị cấp cao ASEAN ngày 11/5/2014 ở Miến Điện.
Ông nói: “Việt Nam cũng luôn chân thành mong muốn cùng với Trung Quốc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định của Khu vực và Thế giới.”
Ngay cả Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và Ban Chấp hành Trung ương đảng cũng chỉ “ theo dõi” và “nghe báo cáo”, trong khi họp Hội nghị Trung ương 9 từ ngày 08 đến 14/05/2014, về việc Trung Cộng đặt giàn khoan HD-981 trong vùng “đặc quyền kinh tế”, vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Tại sao một biến cố quan trọng và cực kỳ nguy hiểm xâm phạm trắng trợn lãnh thổ Việt Nam của Trung Cộng đã gây chấn động dư luận Âu-Á như thế mà không được thảo luận tại Hội nghị 9 ?
Trong diễn văn bế mạc ngày 14/05 (2014), chỉ thấy ông Trọng “nói bâng quơ” rằng: “Trước những diễn biến phức tạp, khó lường trên thế giới, trong khu vực, nhất là tình hình Biển Đông hiện nay, cần có sự quan tâm đặc biệt đối với việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Xác định rõ những thuận lợi, khó khăn, thách thức đang đặt ra và chủ trương, chính sách, biện pháp cần áp dụng để giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Nhận định, đánh giá thật sát, đúng về kết quả đấu tranh, đẩy lùi 4 nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo để có chính sách, biện pháp phù hợp, bảo đảm thực hiện thành công Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã được Hội nghị Trung ương 8 khoá XI ban hành gần đây.”
4 nguy cơ mà ông Trọng nói tới đã được đặt ra tại kỳ họp “giữa nhiệm kỳ” từ 20-25/1-1994 của Ban Chấp hành Trung ương khóa đảng VII thời ông Đỗ Mười. Đó là: “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.”
Vấn đề gọi là “nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” của 20 năm trước đã biến thành “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng. Các biến chứng của chữ “tự” là “tự bỏ sinh hoạt đảng”, “tự cho mình quyền không tin vào đảng và chủ nghĩa Cộng sản nữa”, “tự ý ra khỏi đảng” và “tự cho mình quyền không làm theo lệnh đảng, mệnh lệnh của cấp trên.” !
Cũng rất ngạc nhiên là trong diễn văn này, ông Trọng không nói đến giàn khoan HD-981 hay lên án Trung Cộng đã “ngồi” vào biển của Việt Nam. Ông chỉ nói như khách qua đường: “Đặc biệt là, tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường đoàn kết, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.”
Ông Nguyễn Phú Trọng là người lãnh đạo đảng cầm quyền mà chỉ “dám nói” xa xôi như thế trong khi giàn khoan HD-981 của Trung Cộng đã ngồi trong “nhà Việt Nam” thì giá trị lời nói của ông được mấy đồng “nhân tệ” của Trung Cộng” ?
Trong khi ấy thì Thông báo cuối Hội nghị Trung ương 9 cũng chỉ nói chuyện “cưỡi ngựa xem hoa” đến “vô duyên” và “hời hợt lãng nhách” của 200 Ủy viên như thế này: “Ban Chấp hành Trung ương theo dõi sát tình hình, nghe báo cáo của các cơ quan chức năng về việc thực hiện các chủ trương, giải pháp của ta phản đối, đấu tranh đòi phía Trung Quốc phải dừng việc đặt giàn khoan thăm dò dầu khí Hải Dương 981 trong vùng biển nước ta và khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hoà bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và những thoả thuận giữa lãnh đạo cấp cao Việt Nam - Trung Quốc; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tăng cường đoàn kết, nhất trí, đồng tâm hiệp lực cả nước một lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để hợp tác và phát triển; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Nhưng liệu khối 90 triệu người dân khốn khổ đang lo quân Trung Cộng tràn vào nhà như “cá nằm trên thớt” có thể nào mà “đoàn kết, nhất trí, đồng tâm hiệp lực” với một đảng đang “khúm núm” trước quân thù và lãnh đạo thì “nhát như cáy” không dám kiên quyết và dứt khóat với giặc bành trướng phương Bắc trong vụ gìan khoan HD-981 ?
Khốn nỗi, trong khi ông Trọng và Nhà nước CSVN cứ nhai đi nhai lại mấy chữ vô nghĩa khuyên mọi người hãy “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển bền vững đất nước” thì Bắc Kinh đã sử dụng “súng đạn” và “vũ khí kinh tế” để buộc Việt Nam phải đồng ý “gác tranh chấp để cùng khai thác” ngay trong vùng biển của Việt Nam!
Các lãnh đạo Việt Nam đã biết âm mưu của Trung Cộng từ lâu nhưng cứ cù cưa không dứt khoát “của anh, của tôi” mà lại chịu lép vế nhượng bộ vì đã lỡ “há miệng mắc quai” và “sập bẫy” Trung Cộng nhiều phen rồi.
Hai trong số này là thỏa hiệp bí mật Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990 giữa phái đòan Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trường (Thủ tướng) Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng họp với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Cộng Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Chuyện “cá cắn câu” của đảng CSVN trước đó nằm trong nội dung bức Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 nhìn nhận chủ quyền lãnh hải của Trung Cộng, bao gồm cả hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa.
Tiếp đến là các Hiệp định, Hiệp ước, Tuyên bố, Nguyên tắc này kia tứ năm 1999 đến năm 2013 giữa Việt Nam-Trung Cộng đã mở đường cho Bắc Kinh chiếm thêm đất, lấy thêm biển “rất hợp pháp” của Việt Nam.
Hãy nghe Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói với báo Giáo Dục hôm 13/05/2014: “Chúng ta đã tôn trọng, thực hiện đúng cam kết, nhưng Trung Quốc luôn nói một đằng làm một nẻo. Cái bi kịch lớn nhất của nước ta là lại phải ở bên cạnh một ông bạn nham hiểm và rất xấu tính. Ở các nước khác trên thế giới, trong đó hầu hết là các nước tư bản, họ sống với nhau rất êm đềm, hòa thuận. Tôi đi từ Pháp sang Đức, từ Pháp sang Bỉ, hay từ Anh sang các nước khác, không thấy có biên giới, không thấy hải quan. Cứ đi thẳng một lèo. Khi nhìn lên biển chỉ đường, thấy dòng chữ khác, mới hay mình đã sang nước khác rồi.
Ngay cả kẻ thù của chúng ta xưa như Pháp và Mỹ, mặc dù rất tàn bạo, nhưng họ không chiếm của ta một mét đất nào. Còn ta với Trung Quốc thì sao? Mang danh anh em “môi hở răng lạnh”, luôn nêu cao 16 chữ vàng, nhưng họ lấn của ta từng gốc cây ngọn cỏ. Họ nắn cả dòng chảy của sông suối để nước xói mòn sang phía ta. Đây là trò rất trẻ con và bẩn thỉu.
Ấy thế rồi cứ như tằm nhấm lá dâu, cả một vùng đất đai cương giới của ta nằm gọn trong túi họ. Xin đơn cử: Cửa Ải Nam quan, cột cây số không, nơi Nguyễn Trãi chia tay cha là Nguyễn Phi Khanh, giờ đã nằm sâu trong đất Trung Quốc đến hàng chục cây số.
Thác Bản Giốc vốn từ bao đời là danh thắng của chúng ta, giờ Trung Quốc đã chiếm một nửa rồi. Rồi Hoàng Sa là của chúng ta, Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép từ mấy chục năm nay.
Và bây giờ, Trung Quốc lại đưa giàn khoan khủng, được xem như lãnh thổ di động của Trung Quốc được tàu chiến bảo vệ lấn sâu vào thềm lục địa của ta, rồi ngang nhiên tấn công các tầu thuyền chức năng của ta, vu vạ ta gây hấn với họ. Đó là một hành động ngang ngược và bẩn thỉu nhất. Đúng là một kẻ “vừa ăn cướp vừa la làng”.
Nhà Thơ nổi tiếng Trần Đăng Khoa, có lẽ là người ít nói về chuyện “thế sự nhạy cảm” mà còn trăn trở, nhức nhối như thế thì tại sao cả Ban Chấp hành Trung ương đảng và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là những người “cầm cân nẩy mực” cho cả nước noi theo mà không dám “đụng đến chân lông” Tập Cận Bình trong vụ gian khoan HD-981 thì có còn ra “thể thống” gì nữa không ?
Hay là các ông bà sợ “cởi trói” cho dân để họ được quyền tự do biểu tình chống xâm lăng Trung Cộng khi nào họ muốn chứ không cần phải đợi có “đèn xanh” của đảng cho phép mới làm thì dân sẽ quay ra “lật nhào” các ông bà xuống hố ?
Nhưng nếu sợ rơi xuống hố và sợ mất quyền lợi của mỗi cá nhân mà phải giữ đảng bằng mọi giá, dù phải nô lệ Trung Cộng, thì Tổ quốc không còn là của người Cộng sản nữa. -/-
Phạm Trần
(05/014)
Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã rất khôn ngoan và kiên quyết chống nhân dân đòi dân chủ, tự do nhưng lại hoang mang và lúng túng khi phải đối diện với hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.
Bằng chứng đã hiện ra trước mắt kể từ ngày 3/5 (2014) khi Bắc Kinh đem giàn khoan HD-981 và một lực lượng quân sự hùng hâu bảo vệ vào hoạt động công khai bên trong vùng “đặc quyền kinh tế” 200 hải lý (lối 370 cây số) của Việt Nam.
Khu vực đặt giàn khoan khổng lồ HD-981 nằm phía nam quần đào Hòang Sa nhưng chỉ cách đảo Lý Sơn, Tỉnh Qủang Ngãi khỏang 119 hải lý (lối 221 cây số), hay 80 hải lý (trên 148 cây số) bên trong lằn ranh ngòai cùng của vùng “đặc quyến kinh tế”. Gìan khoan do Trung Cộng chế tạo tốn lối 1 tỷ dollars, có khả năng hoạt động ở độ nước sâu 3000 mét và mũi khoan có khả năng đào sâu 10,000 mét.
Gìan khoan này được Bắc Kinh bảo vệ bởi gần 100 tầu chiến có hỏa tiễn và súng nặng, máy bay, tầu săn ngầm và hàng chục tầu đổ bộ, Hải giám, Hải cảnh, Ngư chính, Cứu hộ, Vận tải và tầu cá vỏ sắt
Sau hơn 2 tuần lễ, không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Cộng sẽ bỏ cuộc, mặc cho Việt Nam phản đối, chỉ trích hay dùng tầu “đâm nhau” hoặc xịt nước xua đuổi lẫn nhau trên Biển Đông.
Từ ngày 13/5 (2014) phía Cảnh sát biển Việt Nam báo cáo về đất liền “tình hình rất căng thẳng” trong khi Phát ngôn viên của Bộ Ngọai giao Trung Cộng Hoa Xuân Oánh thản nhiên bảo “Việt Nam sẽ thất bại” vì Trung Quốc tìm kiến dầu khí “trên biển của Trung Quốc” !
Phía Việt Nam cho biết cứ mỗi lần các tầu Cảnh sát biển của Việt Nam tìm cách tiến gần giàn khoan HD-981 thì các tầu Hải Giám và Hải Cảnh của Trung Cộng lại ngăn chặn hoặc bao vây tầu Việt Nam. Cảnh sát biển Việt Nam cũng báo cáo các tầu Trung Cộng đã nhiều lần chạy với tốc độ mạnh toan đâm vào tầu Việt Nam nhưng các tầu Việt Nam đã tránh được.
Các chuyên viên Quốc tế quan ngại về thái độ cứng rắn và hung hãn lần này của Trung Cộng trong vụ giàn khoan HD-981 vì Bắc Kinh biết Việt Nam không có khả năng quân sự đề đuổi giàn khoan và các tầu của Bắc Kinh ra khỏi khu vực.
Tuy nhiên lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam nói họ kiên quyết bám vị trí và nhất định xua đuổi giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế, nhưng không biết có thành công hay không.
VIỆT NAM ĐÃ LÀM GÌ ?
Về phía Trung Cộng thì tình hình tại chỗ cho thấy không có dấu hiệu nào Bắc Kinh sẽ bỏ cuộc. Họ nói gìan khoan HD-981 có thời khóa biểu hoạt động 100 ngày ở vùng biển của Việt Nam, kể từ 3/5/2014, nhưng không ai chắc Trung Cộng sẽ rút lui sau thời gian này.
Có nhiều lo ngại từ phiá Việt Nam sợ Bắc Kinh sẽ tiếp tục rời đi chỗ khác để tìm kiếm dầu trong phạm vi đường Lưỡi Bò (hay đường 9 đọan) mà Trung Cộng đã “tự chế ra” từ năm 2009 để chiếm biển của nước khác. Diện tích của đường Lưỡi Bò chiếm tới 2/3 của tổng số 3.5 triệu cây số vuông Biển Đông, bao gồm cả Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Vậy đảng và nhà nước CSVN đã làm gì để bảo vệ sự vẹn tòan lãnh thổ mà không bị đánh bẹp bởi quân Trung Cộng ở Biển Đông ?
Thứ nhất, về mặt ngọai giao, ngòai phản đối bằng văn bản, họp báo, họp tay đôi trung cấp và cuộc điện đàm duy nhất giữa Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngọai giao Phạm Bình Minh và Ngọai trường Trung Cộng Dương Khiết Trì, không có bất cứ hành động nào của cấp Tổng Bí thư giữa hai đảng. Thủ tướng Việt-Trung cũng không nói chuyện với nhau.
Thậm chí có tin “không chính thức” nói rằng Tổng Bí thư-Chủ tịch Nhà nước Trung Cộng Tập Cận Bình đã không thèm đáp lại đề nghị gặp nhau ở Bắc Kinh của Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng để thảo luận về vụ giàn khoan HD-981.
Nếu tin này có thật thì liên lạc Việt-Trung đã rẽ sang một hướng rất nghiêm trọng và ông Trọng đã không những bị họ Tập coi thường mà uy tín của ông Trọng cũng không còn với đảng và người dân trong nước.
Diễn đàn quốc tế duy nhất mà Việt Nam đã sử dụng để nói lên lập trường của mình và lên án hành động của Trung Cộng đã diễn ra ngày 11/5 tại thủ đô Nay Pyi Taw, Miến Điện, nước chủ nhà tổ chức Hội nghị ASEAN cấp cao kỳ thứ 24.
Tại đây, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã đọc bài diễn văn chỉ đích danh Trung Cộng đã “Từ ngày 01/5/2014 Trung Quốc đã ngang nhiên đưa giàn khoan nước sâu cùng hơn 80 tàu vũ trang, tàu quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và đã hạ đặt giàn khoan này tại vị trí nằm sâu trên 80 hải lý trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
Các tàu hộ tống bảo vệ giàn khoan của Trung Quốc đã rất hung hăng bắn vòi nước có cường độ mạnh và đâm húc thẳng vào các tàu công vụ, tàu dân sự của Việt Nam, gây hư hại nhiều tàu và làm nhiều người bị thương.”
Ông Dũng nói: “Đây là lần đầu tiên Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan vào hạ đặt tại địa điểm nằm sâu trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của một nước trong ASEAN, là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Luật pháp Quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và cũng là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng Tuyên bố về Ứng xử của các Bên trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một Bên tham gia ký kết.
Hành động cực kỳ nguy hiểm này đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.”
Thủ tướng Dũng cáo buộc Trung Cộng “ không những không đáp ứng yêu cầu chính đáng của Việt Nam mà còn vu khống, đổ lỗi cho Việt Nam và tiếp tục dùng sức mạnh, gia tăng các hành động uy hiếp, xâm phạm ngày càng nguy hiểm và nghiêm trọng hơn.”
Tuy nhiên hy vọng ASEAN sẽ có phản ứng mạnh theo yêu cầu của Việt Nam đã thất bại
Tổ chức Hiệp hội các nước Đông Nam Á chưa bao giờ đòan kết khi phải đối phó với Trung Cộng vì quyền lợi của mỗi nước khác nhau.
Vì vậy trong lời Tuyên bố chung ngắn ngủi tại Miến Điện kỳ này khối 10 nước ASEAN đã không nêu tên Trung Cộng mà chỉ kêu gọi suông các bên hãy: “Tăng cường hợp tác bảo đảm thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), tuân thủ các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, đặc biệt kêu gọi tất cả các bên thực hiện kiềm chế và không sử dụng vũ lực, cũng như không tiến hành các hoạt động có thể làm gia tăng căng thẳng và sớm đạt được Bộ Quy tắc về Ứng xử ở Biển Đông (COC) như đã được thể hiện trong Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông.”
Ngay cả Tuyên bố của Chủ tịch (Miến Điện) Hội nghị Cấp cao ASEAN-24 cũng chỉ “bày tỏ quan ngại sâu sắc về các vụ việc đang diễn ra ở Biển Đông” nhưng không chỉ đích danh Trung Cộng là nước đã gây ra cuộc khủng hoảng ở Biển Đông từ ngày 03/05/2014.
Tuyên bố viết: " Chúng tôi khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Chúng tôi kêu gọi tất cả các bên tham gia Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) thực hiện đầy đủ và hiệu quả tuyên bố này nhằm tạo môi trường tin cậy và xây dựng lòng tin; thực hiện kiềm chế, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS). Chúng tôi nhấn mạnh sự cần thiết của việc sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Theo đó, chúng tôi ghi nhận tầm quan trọng của Tuyên bố của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN về tình hình hiện nay ở Biển Đông, đã được Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đưa ra ngày 10/05/2014".
Trong Tuyên bố ngày 10/05, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã “yêu cầu các bên liên quan, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, thực hiện kiềm chế và tránh có các hành động có thể làm phương hại đến hòa bình và ổn định ở khu vực; và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.”
Sự kiện ASEAN không công khai nêu tên Trung Cộng đã gây ra cuộc khủng hỏang mới tại Biển Đông bằng hành động đưa giàn khoan dầu khí HD-981 vào sâu bên trong vùng “đặc quyền kinh tế” 200 hải lý (370 cây số) của Việt Nam đã thể hiện chủ trương “trung lập” của ASEAN, nhưng lại đem lại “thắng lợi” cho Trung Cộng.
Ngay từ Hội nghị cấp cao ASEAN năm 2012 tại Nam Vang, Kampuchea, Trung Cộng đã áp lực thành công với Thủ tướng nước chủ nhà Hun Sen để ông này không đưa ra tuyên bố chung của Hội nghị về tình hình Biển Đông.
Lý do vì Bắc Kinh là nguồn tài trợ và đầu tư chính tại Kampuchea với 2.7 tỷ dollars năm 2012. Trong khi mậu dịch Lào-Trung Cộng cũng lên đến 1.728 tỷ dollars năm 2012 nên hai nước Cao Miên-Lào luôn luôn đứng về phiá Bắc Kinh mỗi khi cần bỏ phiếu trong tổ chức ASEAN.
Ngoài Phi Luật Tân, Mã Lai, Tân Gia Ba, Nam Dương, Brunei và Việt Nam, hai nước Thái Lan và Miến Điện cũng có những quen hệ kinh tế đặc biệt với Bắc Kinh nên khối ASEAN chưa bao giờ có thể đòan kết và thống nhất lập trường khi phải đương đấu với Trung Cộng trong vấn đề Biển Đông.
Vì vậy, Bắc Kinh luôn luôn lợi dụng ưu điểm viện trợ và mậu dịch để trì hòan việc thảo luận Bộ Quy Tắc Ứng Xử (COC,Code of Conduct) với ASEAN để không bị ràng buộc pháp lý.
Mục đích của COC là thay thế cho Tuyên bố về Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (DOC,Declaration of Conduct) mà Trung Quốc và khối ASEAN đã ký với nhau ở Nam Vang năm 2002. Văn kiện DOC “không có tính cách pháp lý” nên nước nào cũng có thể “ vi phạm” hay “không cần thi hành” mà không bị xử lý.
Đó là lý do tại sao Trung Cộng đã tự vẽ ra hình Luỡi Bò hay còn gọi là Đường 9 Đoạn nạp cho Liên Hiệp Quốc năm 2009 với tham vọng chiếm ¾ của diện tích 3.5 triệu cây số vuông của Biển Đông mà không bị ASEAN ngăn chặn.
Từ đó, Bắc Kinh đã thao túng và khuấy động làm mất ổn định thường xuyên ở Biển Đông bằng hành động “tự tuyên bố chủ quyền” trên phần biển cuả nước khác.
Bắc Kinh cũng tự cho mình có “quyền lợi cốt lõi” ở Biển Đông và tự coi vùng biển quan trọng này như “ao nhà” của mình. Từ năm 2005, các tầu Hải Giám của Bắc Kinh đã tấn công và ngăn chặn ngư dân các nước trong khu vực, đặc biệt từ Việt Nam đi đánh bắt ở hai vùng biển Hòang Sa và Trường Sa.
NGHE VÀ HÀNH ĐỘNG
Trong cuộc xung đột mới trực tiếp giữa Việt Nam và Trung Cộng về vụ giàn khoan HD-981, Việt Nam vẫn chưa dám đưa Bắc Kinh ra trước tòa án quốc tế và không dám tố cáo Trung Cộng ra trước Liên Hiệp Quốc dù Bắc Kinh đã vi phạm Luật Biển-Liện Hiệp Quốc năm 1982.
Nhiều giới trong nước, kể cả Tiến sỹ Trần Cộng Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ đã nhiều lần khuyên nhà nước nên kiện Trung Cộng ra tòa án Quốc tế như Phi Luật Tân đã làm, nhưng chính phủ Việt Nam không nghe.
Như vậy, bây giờ, sau khi Trung Cộng đã đặt giàn khoan HD-981 vào vùng biển kinh tế của Việt Nam thì liệu việc kiện Bắc Kinh ra Tòa án Công lý Quốc tế hay Tòa Trọng tài Luật biển Liên Hiệp Quốc có qúa trễ không ?
Không muộn. Đó là câu trà lời của nhiều chuyên viên, ngược lại còn là cơ hội tốt nhất cho Việt Nam vào lúc này vì bằng chứng giàn khoan HD-981 đã nằm chình ình ra đó.
Nhưng về phiá đảng và nhà nước Việt Nam thì có vẻ như vẫn “lừng khừng” vì lãnh đạo không có lập trường dứt khóat và chia rẽ trong vấn đề đối phó với giàn khoan HD-981 của Trung Cộng.
Lập trường “nhũn như con chi chi” của Chính phủ Việt Nam đã phản ảnh qua lời nói của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị cấp cao ASEAN ngày 11/5/2014 ở Miến Điện.
Ông nói: “Việt Nam cũng luôn chân thành mong muốn cùng với Trung Quốc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định của Khu vực và Thế giới.”
Ngay cả Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và Ban Chấp hành Trung ương đảng cũng chỉ “ theo dõi” và “nghe báo cáo”, trong khi họp Hội nghị Trung ương 9 từ ngày 08 đến 14/05/2014, về việc Trung Cộng đặt giàn khoan HD-981 trong vùng “đặc quyền kinh tế”, vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Tại sao một biến cố quan trọng và cực kỳ nguy hiểm xâm phạm trắng trợn lãnh thổ Việt Nam của Trung Cộng đã gây chấn động dư luận Âu-Á như thế mà không được thảo luận tại Hội nghị 9 ?
Trong diễn văn bế mạc ngày 14/05 (2014), chỉ thấy ông Trọng “nói bâng quơ” rằng: “Trước những diễn biến phức tạp, khó lường trên thế giới, trong khu vực, nhất là tình hình Biển Đông hiện nay, cần có sự quan tâm đặc biệt đối với việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Xác định rõ những thuận lợi, khó khăn, thách thức đang đặt ra và chủ trương, chính sách, biện pháp cần áp dụng để giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Nhận định, đánh giá thật sát, đúng về kết quả đấu tranh, đẩy lùi 4 nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo để có chính sách, biện pháp phù hợp, bảo đảm thực hiện thành công Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã được Hội nghị Trung ương 8 khoá XI ban hành gần đây.”
4 nguy cơ mà ông Trọng nói tới đã được đặt ra tại kỳ họp “giữa nhiệm kỳ” từ 20-25/1-1994 của Ban Chấp hành Trung ương khóa đảng VII thời ông Đỗ Mười. Đó là: “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.”
Vấn đề gọi là “nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” của 20 năm trước đã biến thành “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng. Các biến chứng của chữ “tự” là “tự bỏ sinh hoạt đảng”, “tự cho mình quyền không tin vào đảng và chủ nghĩa Cộng sản nữa”, “tự ý ra khỏi đảng” và “tự cho mình quyền không làm theo lệnh đảng, mệnh lệnh của cấp trên.” !
Cũng rất ngạc nhiên là trong diễn văn này, ông Trọng không nói đến giàn khoan HD-981 hay lên án Trung Cộng đã “ngồi” vào biển của Việt Nam. Ông chỉ nói như khách qua đường: “Đặc biệt là, tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường đoàn kết, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.”
Ông Nguyễn Phú Trọng là người lãnh đạo đảng cầm quyền mà chỉ “dám nói” xa xôi như thế trong khi giàn khoan HD-981 của Trung Cộng đã ngồi trong “nhà Việt Nam” thì giá trị lời nói của ông được mấy đồng “nhân tệ” của Trung Cộng” ?
Trong khi ấy thì Thông báo cuối Hội nghị Trung ương 9 cũng chỉ nói chuyện “cưỡi ngựa xem hoa” đến “vô duyên” và “hời hợt lãng nhách” của 200 Ủy viên như thế này: “Ban Chấp hành Trung ương theo dõi sát tình hình, nghe báo cáo của các cơ quan chức năng về việc thực hiện các chủ trương, giải pháp của ta phản đối, đấu tranh đòi phía Trung Quốc phải dừng việc đặt giàn khoan thăm dò dầu khí Hải Dương 981 trong vùng biển nước ta và khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hoà bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và những thoả thuận giữa lãnh đạo cấp cao Việt Nam - Trung Quốc; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tăng cường đoàn kết, nhất trí, đồng tâm hiệp lực cả nước một lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để hợp tác và phát triển; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Nhưng liệu khối 90 triệu người dân khốn khổ đang lo quân Trung Cộng tràn vào nhà như “cá nằm trên thớt” có thể nào mà “đoàn kết, nhất trí, đồng tâm hiệp lực” với một đảng đang “khúm núm” trước quân thù và lãnh đạo thì “nhát như cáy” không dám kiên quyết và dứt khóat với giặc bành trướng phương Bắc trong vụ gìan khoan HD-981 ?
Khốn nỗi, trong khi ông Trọng và Nhà nước CSVN cứ nhai đi nhai lại mấy chữ vô nghĩa khuyên mọi người hãy “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển bền vững đất nước” thì Bắc Kinh đã sử dụng “súng đạn” và “vũ khí kinh tế” để buộc Việt Nam phải đồng ý “gác tranh chấp để cùng khai thác” ngay trong vùng biển của Việt Nam!
Các lãnh đạo Việt Nam đã biết âm mưu của Trung Cộng từ lâu nhưng cứ cù cưa không dứt khoát “của anh, của tôi” mà lại chịu lép vế nhượng bộ vì đã lỡ “há miệng mắc quai” và “sập bẫy” Trung Cộng nhiều phen rồi.
Hai trong số này là thỏa hiệp bí mật Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990 giữa phái đòan Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trường (Thủ tướng) Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng họp với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Cộng Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Chuyện “cá cắn câu” của đảng CSVN trước đó nằm trong nội dung bức Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 nhìn nhận chủ quyền lãnh hải của Trung Cộng, bao gồm cả hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa.
Tiếp đến là các Hiệp định, Hiệp ước, Tuyên bố, Nguyên tắc này kia tứ năm 1999 đến năm 2013 giữa Việt Nam-Trung Cộng đã mở đường cho Bắc Kinh chiếm thêm đất, lấy thêm biển “rất hợp pháp” của Việt Nam.
Hãy nghe Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói với báo Giáo Dục hôm 13/05/2014: “Chúng ta đã tôn trọng, thực hiện đúng cam kết, nhưng Trung Quốc luôn nói một đằng làm một nẻo. Cái bi kịch lớn nhất của nước ta là lại phải ở bên cạnh một ông bạn nham hiểm và rất xấu tính. Ở các nước khác trên thế giới, trong đó hầu hết là các nước tư bản, họ sống với nhau rất êm đềm, hòa thuận. Tôi đi từ Pháp sang Đức, từ Pháp sang Bỉ, hay từ Anh sang các nước khác, không thấy có biên giới, không thấy hải quan. Cứ đi thẳng một lèo. Khi nhìn lên biển chỉ đường, thấy dòng chữ khác, mới hay mình đã sang nước khác rồi.
Ngay cả kẻ thù của chúng ta xưa như Pháp và Mỹ, mặc dù rất tàn bạo, nhưng họ không chiếm của ta một mét đất nào. Còn ta với Trung Quốc thì sao? Mang danh anh em “môi hở răng lạnh”, luôn nêu cao 16 chữ vàng, nhưng họ lấn của ta từng gốc cây ngọn cỏ. Họ nắn cả dòng chảy của sông suối để nước xói mòn sang phía ta. Đây là trò rất trẻ con và bẩn thỉu.
Ấy thế rồi cứ như tằm nhấm lá dâu, cả một vùng đất đai cương giới của ta nằm gọn trong túi họ. Xin đơn cử: Cửa Ải Nam quan, cột cây số không, nơi Nguyễn Trãi chia tay cha là Nguyễn Phi Khanh, giờ đã nằm sâu trong đất Trung Quốc đến hàng chục cây số.
Thác Bản Giốc vốn từ bao đời là danh thắng của chúng ta, giờ Trung Quốc đã chiếm một nửa rồi. Rồi Hoàng Sa là của chúng ta, Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép từ mấy chục năm nay.
Và bây giờ, Trung Quốc lại đưa giàn khoan khủng, được xem như lãnh thổ di động của Trung Quốc được tàu chiến bảo vệ lấn sâu vào thềm lục địa của ta, rồi ngang nhiên tấn công các tầu thuyền chức năng của ta, vu vạ ta gây hấn với họ. Đó là một hành động ngang ngược và bẩn thỉu nhất. Đúng là một kẻ “vừa ăn cướp vừa la làng”.
Nhà Thơ nổi tiếng Trần Đăng Khoa, có lẽ là người ít nói về chuyện “thế sự nhạy cảm” mà còn trăn trở, nhức nhối như thế thì tại sao cả Ban Chấp hành Trung ương đảng và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là những người “cầm cân nẩy mực” cho cả nước noi theo mà không dám “đụng đến chân lông” Tập Cận Bình trong vụ gian khoan HD-981 thì có còn ra “thể thống” gì nữa không ?
Hay là các ông bà sợ “cởi trói” cho dân để họ được quyền tự do biểu tình chống xâm lăng Trung Cộng khi nào họ muốn chứ không cần phải đợi có “đèn xanh” của đảng cho phép mới làm thì dân sẽ quay ra “lật nhào” các ông bà xuống hố ?
Nhưng nếu sợ rơi xuống hố và sợ mất quyền lợi của mỗi cá nhân mà phải giữ đảng bằng mọi giá, dù phải nô lệ Trung Cộng, thì Tổ quốc không còn là của người Cộng sản nữa. -/-
Phạm Trần
(05/014)