Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
06:59 11/05/2020
20. Thánh Giá là đức hạnh và là sự báo đáp vì Thiên Chúa mà làm việc, là ân huệ lớn nhất trong các ân huệ, ân huệ này Thiên Chúa chỉ ban cho người mà Ngài yêu mến.
(Thánh nữ Terese of Avila)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
--------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:02 11/05/2020
16. GIỌT MƯA ĐÒI NỢ
Có một người vì trốn nợ mà bỏ đi và sợ người khác thấy nên đội lên hai cái nón lớn trên đầu. Dù trời tối mà vẫn còn bị chủ nợ nọ nhận ra, chủ nợ dùng ngón tay búng vào cái nón của ông ta và hỏi:
- “Ông hứa sẽ hoàn trả tiền cho tôi, tính sao đây?”
Người ấy buột miệng nói:
- “Ngày mai.”
Không lâu sau đó trời đổ mưa lớn, giọt mưa rơi trên nón kêu “bộp bộp”, người ấy nghĩ rằng lại có chủ nợ đến gõ trên nón đòi nợ nên trong bụng cuống quýt, liên tục nói:
- “Ngày mai, nhất định là ngày mai !”
(Tiếu lâm)
Suy tư 16:
Con người ta có bốn cái khổ, trong đó có một cái khổ là bị “nợ đòi”, cho nên có người vì sợ chủ đòi nợ mà tự tử, có người sợ nợ đòi nên bỏ xứ mà đi, có người sợ nợ đòi nên trở thành kẻ lang thang, con người ta thường sợ chủ nợ đến nhà nên tìm cách trốn tránh, đó là tâm lý chung của người mắc nợ.
Có những người tự hào là mình không mắc nợ ai, họ là những người nói dối, nhưng những người Ki-tô hữu thì không phải như thế, họ luôn cảm thấy mình mắc nợ với tha nhân, đó là nợ tình thương:
Nợ người nghèo một bát cơm, một tấm áo.
Nợ người đau khổ thất vọng một lời an ủi.
Nợ người già nua tuổi tác một cái dắt tay qua đường.
Nợ em bé một lời khích lệ vui tươi.
Nợ anh thanh niên, nợ chị thiếu nữ lời nói lịch sự thân tình.
Nợ người quá cố một lời cầu nguyện và hy sinh...
Những món nợ này cần phải trả ngay trong cuộc sống ở đời này, bằng không thì Thiên Chúa sẽ đòi nợ chúng ta trong ngày phán xét, đến lúc đó thì chạy trốn đi đâu chứ?
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một người vì trốn nợ mà bỏ đi và sợ người khác thấy nên đội lên hai cái nón lớn trên đầu. Dù trời tối mà vẫn còn bị chủ nợ nọ nhận ra, chủ nợ dùng ngón tay búng vào cái nón của ông ta và hỏi:
- “Ông hứa sẽ hoàn trả tiền cho tôi, tính sao đây?”
Người ấy buột miệng nói:
- “Ngày mai.”
Không lâu sau đó trời đổ mưa lớn, giọt mưa rơi trên nón kêu “bộp bộp”, người ấy nghĩ rằng lại có chủ nợ đến gõ trên nón đòi nợ nên trong bụng cuống quýt, liên tục nói:
- “Ngày mai, nhất định là ngày mai !”
(Tiếu lâm)
Suy tư 16:
Con người ta có bốn cái khổ, trong đó có một cái khổ là bị “nợ đòi”, cho nên có người vì sợ chủ đòi nợ mà tự tử, có người sợ nợ đòi nên bỏ xứ mà đi, có người sợ nợ đòi nên trở thành kẻ lang thang, con người ta thường sợ chủ nợ đến nhà nên tìm cách trốn tránh, đó là tâm lý chung của người mắc nợ.
Có những người tự hào là mình không mắc nợ ai, họ là những người nói dối, nhưng những người Ki-tô hữu thì không phải như thế, họ luôn cảm thấy mình mắc nợ với tha nhân, đó là nợ tình thương:
Nợ người nghèo một bát cơm, một tấm áo.
Nợ người đau khổ thất vọng một lời an ủi.
Nợ người già nua tuổi tác một cái dắt tay qua đường.
Nợ em bé một lời khích lệ vui tươi.
Nợ anh thanh niên, nợ chị thiếu nữ lời nói lịch sự thân tình.
Nợ người quá cố một lời cầu nguyện và hy sinh...
Những món nợ này cần phải trả ngay trong cuộc sống ở đời này, bằng không thì Thiên Chúa sẽ đòi nợ chúng ta trong ngày phán xét, đến lúc đó thì chạy trốn đi đâu chứ?
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:25 11/05/2020
21. Thánh Giá như một lá cờ lớn dẫn dắt các tông đồ truyền giáo và tuyên dương chân lý, dẫn đưa người thấy sự chết như quay về, hướng dẫn người tu luyện tinh thần bền chí gắng sức, dẫn dắt người đồng trinh giữ gìn trinh khiết.
(Thánh Gioan Kim Khẩu)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:27 11/05/2020
17. ĐẠI NHÂN HỒ ĐỒ
Có một người mắc bệnh nên mù mắt (bệnh thanh manh) bị dẫn đến pháp quan, anh ta nói với quan huyện:
- “Tôi là người mù.”
Quan huyện nói:
- “Nói mò, mày có hai con mắt, tròng trắng thật là trắng, xanh thật là xanh, sao lại giả bộ là mù hử?”
Người mù mắt nói:
- “Ngài đại nhân nhìn tôi kẻ tiểu nhân là người trắng trắng xanh xanh, kẻ tiểu nhân là tôi nhìn ngài đại nhân là người hồ hồ đồ đồ.”
(Tiếu lâm)
Suy tư 17:
Người ta bị mù mà nói là sáng là người hồ đồ không thể chối cải, nhưng người sáng mắt mà cái gì nhìn cũng không thấy thì đúng là tội nghiệp hơn cả người mù, đó là những người mang bệnh thành tích, bệnh vượt chỉ tiêu, bệnh báo cáo láo...
Ông quan huyện là người sáng mắt nhưng không biệt được người trước mặt mình là mù hay sáng mắt, đó là vì lòng của ông quan huyện đầy những kiêu căng và coi thường người khác, đó là triệu chứng của một người mang bệnh thành tích và tâm hồn không chân thật...
Người Ki-tô hữu cảm thấy mắc cở khi mang bệnh thành tích, bởi vì như thế thì người ta sẽ gọi mình là người mù trong tâm hồn, tức là bệnh nói dối: nói dối Thiên Chúa và nói dối mọi người để đạt thỏa mãn cái tham vọng ích kỷ của mình.
Người nhìn không rõ phải trái, không phân biệt được việc nên làm và không nên làm thì giống như người mù vậy, họ không những bị mà còn là người hồ đồ nữa.
Thật là tội nghiệp cho họ !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một người mắc bệnh nên mù mắt (bệnh thanh manh) bị dẫn đến pháp quan, anh ta nói với quan huyện:
- “Tôi là người mù.”
Quan huyện nói:
- “Nói mò, mày có hai con mắt, tròng trắng thật là trắng, xanh thật là xanh, sao lại giả bộ là mù hử?”
Người mù mắt nói:
- “Ngài đại nhân nhìn tôi kẻ tiểu nhân là người trắng trắng xanh xanh, kẻ tiểu nhân là tôi nhìn ngài đại nhân là người hồ hồ đồ đồ.”
(Tiếu lâm)
Suy tư 17:
Người ta bị mù mà nói là sáng là người hồ đồ không thể chối cải, nhưng người sáng mắt mà cái gì nhìn cũng không thấy thì đúng là tội nghiệp hơn cả người mù, đó là những người mang bệnh thành tích, bệnh vượt chỉ tiêu, bệnh báo cáo láo...
Ông quan huyện là người sáng mắt nhưng không biệt được người trước mặt mình là mù hay sáng mắt, đó là vì lòng của ông quan huyện đầy những kiêu căng và coi thường người khác, đó là triệu chứng của một người mang bệnh thành tích và tâm hồn không chân thật...
Người Ki-tô hữu cảm thấy mắc cở khi mang bệnh thành tích, bởi vì như thế thì người ta sẽ gọi mình là người mù trong tâm hồn, tức là bệnh nói dối: nói dối Thiên Chúa và nói dối mọi người để đạt thỏa mãn cái tham vọng ích kỷ của mình.
Người nhìn không rõ phải trái, không phân biệt được việc nên làm và không nên làm thì giống như người mù vậy, họ không những bị mà còn là người hồ đồ nữa.
Thật là tội nghiệp cho họ !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
-----
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Thánh lễ Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Phục sinh 10/5/2020 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
00:00 11/05/2020
Bài Ðọc I: Cv 6, 1-7
"Họ chọn bảy người đầy Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: "Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa".
Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài, và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna, và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó.
Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa
Xướng: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.
Xướng:Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.
Xướng: Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 4-9
"Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi đến cùng Chúa là tảng đá sống động, bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tôn vinh, chính anh em như những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Vì thế, có lời Thánh Kinh rằng: "Ðây Ta đặt tại Sion tảng đá góc tường, được tuyển chọn và quý giá, ai tin Người, sẽ không phải hổ thẹn". Vậy, vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những kẻ không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường, đá vấp ngã và đá chướng ngại cho những kẻ chống lại và không tin lời Chúa, và số phận của họ là thế. Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 6
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 1-12
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói "Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha"? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha".
Ðó là lời Chúa.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thánh lễ tại Santa Marta 11 tháng Năm: Đức Thánh Cha cầu nguyện cho những người mất công ăn việc làm
Đặng Tự Do
00:32 11/05/2020
Lúc 7 sáng thứ Hai 11 tháng Năm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại nhà nguyện Santa Marta để cầu nguyện cho những bệnh nhân nhiễm coronavirus, các nhân viên y tế, và những ai đang phải đau khổ vì trận dịch kinh hoàng này.
Trong thánh lễ, ngài cầu nguyện cách riêng cho những người thất nghiệp vì COVID-19. Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm 75 năm phát hiện thi hài Thánh Timôthêô trong hầm mộ của Nhà thờ Termoli, khi phục hồi nhà thờ này vào năm 1945.
Mở đầu thánh lễ Đức Thánh Cha nói:
Hôm nay, chúng ta tham gia cùng các tín hữu thành phố Termoli, trong ngày lễ tìm thấy thi hài Thánh Timôthêô. Trong những ngày này, nhiều người đã mất việc làm; nhiều người đã không được trợ cấp, đặc biệt là những làm việc bất hợp pháp. Chúng ta cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta, những người phải chịu đựng tình trạng thiếu công ăn việc làm đầy thử thách này.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã trình bày các suy tư của ngài về bài Tin mừng trong ngày trích từ Phúc Âm theo Thánh Gioan (Ga 14, 21-26), trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy.”
Phúc Âm: Ga 14, 21-26
“Ðấng Phù Trợ mà Cha sẽ sai đến, Người sẽ dạy các con mọi điều”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy”.
Ông Giuđa, không phải Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?” Chúa Giêsu trả lời: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Mở đầu bài giảng Đức Thánh Cha nói:
Những lời Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay là lời hứa gởi Thánh Thần đến sống cùng chúng ta. Chúa Cha và Chúa Con gửi Ngài đến để đồng hành cùng chúng ta trong cuộc sống. Chúa Thánh Thần là “Paraclito” – Đấng Bảo Trợ, bởi vì Ngài nâng đỡ chúng ta, giữ cho chúng ta đứng thẳng để không bị ngã. Trước đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay, Chúa đã hứa ban cho chúng ta sự hỗ trợ của Chúa Thánh Linh khi Ngài nói: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” (Ga 14:16).
Thánh Linh dạy chúng ta đi vào mầu nhiệm đức tin, giúp chúng ta hiểu được các mầu nhiệm, và giáo lý của Chúa Giêsu, cũng như phát triển đức tin của chúng ta mà không phạm sai lầm, bởi vì giáo lý phát triển theo sự hiểu biết nhưng luôn theo cùng một hướng. Thánh Thần giúp chúng ta hiểu thêm và nhiều hơn những gì Chúa Giêsu đã nói.
Tín lý không dừng lại nhưng phát triển. Thánh Linh ngăn cản không để cho đức tin bị dậm chân tại chỗ, và không phát triển trong chúng ta. Thánh Linh phát triển trong chúng ta một sự hiểu biết về những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Ngài nhắc nhở chúng ta về những gì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta, như ký ức, đánh thức chúng ta, làm cho chúng ta thức tỉnh trước những điều Chúa dạy, khiến chúng ta nhớ đến cuộc sống của chúng ta, khi chúng ta gặp gỡ Chúa và ngay cả khi chúng ta lìa xa Chúa.
Thánh Linh dẫn đưa chúng ta đến ký ức về ơn cứu rỗi, ký ức về hành trình của cuộc đời, hướng dẫn chúng ta nhận ra những gì chúng ta phải làm bây giờ, đâu là đường ngay nẻo chính, và đâu là những nẻo đường lầm lạc, sai trái.
Thánh Linh giúp chúng ta đưa ra các quyết định lớn nhỏ mỗi ngày. Ngài dạy chúng ta mọi thứ, giới thiệu cho chúng ta những mầu nhiệm, khiến chúng ta nhớ và khiến chúng ta có khả năng phân định. Chúa Thánh Thần là món quà của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16)
Để kết luận, Đức Thánh Cha xin Chúa giúp chúng ta trân quý món quà này mà chúng ta đã nhận được trong bí tích rửa tội và năng cầu khẩn cùng Chúa Thánh Thần giúp ta phân định trong các quyết định lớn nhỏ mỗi ngày.
Source:Vatican NewsIl Papa prega per i disoccupati. Lo Spirito fa crescere la comprensione della fede
Trong thánh lễ, ngài cầu nguyện cách riêng cho những người thất nghiệp vì COVID-19. Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm 75 năm phát hiện thi hài Thánh Timôthêô trong hầm mộ của Nhà thờ Termoli, khi phục hồi nhà thờ này vào năm 1945.
Mở đầu thánh lễ Đức Thánh Cha nói:
Hôm nay, chúng ta tham gia cùng các tín hữu thành phố Termoli, trong ngày lễ tìm thấy thi hài Thánh Timôthêô. Trong những ngày này, nhiều người đã mất việc làm; nhiều người đã không được trợ cấp, đặc biệt là những làm việc bất hợp pháp. Chúng ta cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta, những người phải chịu đựng tình trạng thiếu công ăn việc làm đầy thử thách này.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã trình bày các suy tư của ngài về bài Tin mừng trong ngày trích từ Phúc Âm theo Thánh Gioan (Ga 14, 21-26), trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy.”
Phúc Âm: Ga 14, 21-26
“Ðấng Phù Trợ mà Cha sẽ sai đến, Người sẽ dạy các con mọi điều”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy”.
Ông Giuđa, không phải Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?” Chúa Giêsu trả lời: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Mở đầu bài giảng Đức Thánh Cha nói:
Những lời Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay là lời hứa gởi Thánh Thần đến sống cùng chúng ta. Chúa Cha và Chúa Con gửi Ngài đến để đồng hành cùng chúng ta trong cuộc sống. Chúa Thánh Thần là “Paraclito” – Đấng Bảo Trợ, bởi vì Ngài nâng đỡ chúng ta, giữ cho chúng ta đứng thẳng để không bị ngã. Trước đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay, Chúa đã hứa ban cho chúng ta sự hỗ trợ của Chúa Thánh Linh khi Ngài nói: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” (Ga 14:16).
Thánh Linh dạy chúng ta đi vào mầu nhiệm đức tin, giúp chúng ta hiểu được các mầu nhiệm, và giáo lý của Chúa Giêsu, cũng như phát triển đức tin của chúng ta mà không phạm sai lầm, bởi vì giáo lý phát triển theo sự hiểu biết nhưng luôn theo cùng một hướng. Thánh Thần giúp chúng ta hiểu thêm và nhiều hơn những gì Chúa Giêsu đã nói.
Tín lý không dừng lại nhưng phát triển. Thánh Linh ngăn cản không để cho đức tin bị dậm chân tại chỗ, và không phát triển trong chúng ta. Thánh Linh phát triển trong chúng ta một sự hiểu biết về những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Ngài nhắc nhở chúng ta về những gì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta, như ký ức, đánh thức chúng ta, làm cho chúng ta thức tỉnh trước những điều Chúa dạy, khiến chúng ta nhớ đến cuộc sống của chúng ta, khi chúng ta gặp gỡ Chúa và ngay cả khi chúng ta lìa xa Chúa.
Thánh Linh dẫn đưa chúng ta đến ký ức về ơn cứu rỗi, ký ức về hành trình của cuộc đời, hướng dẫn chúng ta nhận ra những gì chúng ta phải làm bây giờ, đâu là đường ngay nẻo chính, và đâu là những nẻo đường lầm lạc, sai trái.
Thánh Linh giúp chúng ta đưa ra các quyết định lớn nhỏ mỗi ngày. Ngài dạy chúng ta mọi thứ, giới thiệu cho chúng ta những mầu nhiệm, khiến chúng ta nhớ và khiến chúng ta có khả năng phân định. Chúa Thánh Thần là món quà của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16)
Để kết luận, Đức Thánh Cha xin Chúa giúp chúng ta trân quý món quà này mà chúng ta đã nhận được trong bí tích rửa tội và năng cầu khẩn cùng Chúa Thánh Thần giúp ta phân định trong các quyết định lớn nhỏ mỗi ngày.
Source:Vatican News
Ủy Ban Thần Học Quốc Tế: Tính hỗ tương giữa Đức Tin Và Các Bí Tích, 6
Vũ Văn An
04:51 11/05/2020
c) Tính hỗ tương giữa Đức tin và các Bí tích
56. [Khái niệm bí tích]. Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng tạo dựng để thông truyền các hồng phúc của Người và là Đấng đã tạo dựng những con người nhân bản để kêu gọi họ theo từng cá nhân và cả cộng đồng hiệp thông với Người, đi vào mối tương quan với họ theo cách trung gian, qua sáng thế và lịch sử, qua các dấu hiệu, như chúng ta đã thấy. Trong số các dấu hiệu này, các bí tích Kitô giáo chiếm một vị trí rất nổi bật, vì chúng là những dấu hiệu mà Thiên Chúa đã liên kết việc thông truyền ơn thánh của Người với một cách chắc chắn và khách quan. Thực thế, các bí tích của Luật mới là những dấu hiệu hữu hiệu thông truyền ơn thánh [71]. Như chúng ta đã nói, điều này không có nghĩa là các bí tích là phương thế duy nhất nhờ đó Thiên Chúa thông truyền ơn thánh của Người [72]; nó có nghĩa: chúng giữ một vị trí ưu tuyển, có đặc tính chắc chắn và giáo hội. Lòng sùng kính và đạo đức bản thân có thể triển khai qua các thực hành khác nhau: chẳng hạn như các hình thức cầu nguyện khác nhau được liên kết với Sách Thánh, chẳng hạn như việc đọc hoặc suy ngẫm các mầu nhiệm của đời sống Chúa Kitô; chiêm niệm các công trình của Thiên Chúa trong sáng thế và lịch sử; và các á bí tích khác nhau (xem §40), v.v.
57. [Đức tin và các Bí tích trong Định nghĩa Bí tích của Vatican II]. Trong suốt lịch sử, đã có những định nghĩa khác nhau về bí tích. Vatican II mô tả nó như sau:
“Các Bí Tích có mục đích thánh hóa con người, xây dựng thân thể Chúa Kitô, và sau cùng là thờ phượng Thiên Chúa. Tuy nhiên, là những dấu chỉ, các Bí Tích còn giữ vai trò giáo huấn nữa. Không những các Bí Tích giả thiết phải có đức tin, mà còn dùng lời nói và sự vật để nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin đó. Do đó, được gọi là ‘các Bí Tích Ðức Tin’. Thực ra các Bí Tích ban ơn thánh, nhưng việc cử hành các Bí Tích còn là việc chuẩn bị các tín hữu đón nhận ơn thánh đó một cách hữu hiệu để thờ phượng Chúa đúng cách và để thực thi đức bác ái” [73].
Bản văn cô đọng trên nhấn mạnh một số khía cạnh căn bản của tính hỗ tương thiết yếu giữa đức tin và các bí tích, mà chúng ta sẽ tóm tắt. Đầu tiên, các bí tích có một mục đích sư phạm về đức tin của chúng ta: chúng minh họa cách thức lịch sử cứu rỗi đã diễn ra: “có tính bí tích”. Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập chúng để dạy chúng ta rằng Người tự thông truyền và thông truyền ơn cứu rỗi của Người cho chúng ta một cách cảm thấy và hữu hình, nghĩa là thích nghi với thân phận con người [74] (xem đặc biệt § § 20, 26).
Thứ hai, các bí tích giả thiết phải có đức tin theo hai nghĩa: như việc “truy cập” mầu nhiệm bí tích: nếu thiếu đức tin, bí tích chỉ xuất hiện như một biểu tượng bên ngoài hoặc một nghi thức trống rỗng, với nguy cơ sa vào một cử chỉ ma thuật; và như một điều kiện cần thiết để bí tích sản sinh về phương diện chủ quan các hồng phúc được nó chứa đựng một cách khách quan. Thứ ba, các bí tích biểu lộ đức tin của chủ thể và của Giáo hội. Việc cử hành các bí tích là một tuyên xưng đức tin sống. Các bí tích là những dấu hiệu nhờ đó đức tin mà nhờ thế con người được công chính hóa được tuyên xưng. Lời bí tích đòi hỏi sự đáp ứng đức tin của người tín hữu, người, nhờ nó, học hỏi và nhận ra mầu nhiệm được hiện thực hóa trong bí tích. Thứ tư, các bí tích nuôi dưỡng đức tin ở hai bình diện căn bản: chúng truyền đạt hồng phúc ơn thánh thần linh, tạo nên hoặc củng cố đời sống Kitô hữu của tín hữu; và chúng là những cử hành trong đó mầu nhiệm cứu rỗi được biểu tượng một cách hữu hiệu, giáo dục đức tin và nuôi dưỡng nó liên tục. Các bí tích, do đó, là các dấu hiệu của đức tin trong mọi khía cạnh của tính năng động trong việc hiện thực hóa chúng: trước, trong và sau khi cử hành. Do đó, vì các bí tích giả thiết phải có đức tin, nên điều hiển nhiên là người nhận các bí tích phải là một thành viên của Giáo hội. Chúng ta không thể quên rằng nhờ đức tin và các bí tích đức tin, chúng ta bước vào đối thoại, trong cuộc tiếp xúc quan yếu với Đấng Cứu chuộc, Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha. Chúa Kitô vinh hiển không chỉ đến với chúng ta trong nội tâm, nhưng trong sự cụ thể hóa hữu thể lịch sử của chúng ta, nâng cao các tình huống căn bản của cuộc hiện sinh của chúng ta lên hàng các tình huống bí tích của ơn cứu rỗi.
58. [Nối kết Đức tin và các bí tích]. Đức tin không được đảm bảo mãi mãi ở lúc hoán cải. Nó được vun xới qua việc thực hành đức ái, cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, đời sống cộng đoàn, huấn giáo, và ở một vị trí ưu việt, qua việc siêng năng lãnh nhận các bí tích. Trong lĩnh vực các mối tương quan, điều không minh nhiên và được phát biểu có nguy cơ bị pha loãng hoặc thậm chí biến mất. Chúa Kitô, hồng phúc, vốn là hồng phúc tuyệt vời của Thiên Chúa, không thể chỉ được lãnh nhận một cách vô hình hoặc riêng tư. Trái lại, người nào lãnh nhận nó được ban năng lực và được mời gọi đem nó nhập vào cuộc sống, lời nói, suy nghĩ và hành động của mình. Nhờ cách này, người ta mới có thể góp phần vào việc biến đổi tính bí tích nguyên thủy của Đấng Cứu Thế thành tính bí tích căn bản của Giáo Hội. Thật vậy, bảy thể hiện căn bản của Giáo hội (các bí tích) hiện thực hóa điều chúng muốn nói. Tuy nhiên, để việc lãnh nhận chúng có hiệu quả, cần phải có việc sẵn lòng của mỗi người lãnh nhận để thâm hậu hóa, để sống và làm chứng cho điều họ đã lãnh nhận.
59. Mối liên hệ nội tại giữa đức tin và các bí tích là điều hiển nhiên nếu chúng ta xem xét các khía cạnh thiết yếu khác. Trong số đó nổi bật là:
a) Việc cử hành bí tích: trong đó một hành động đặc thù hoặc một thực tại vật chất, vốn đã có ý nghĩa riêng, được liên hệ với lịch sử cứu rỗi và được xác định nhờ biến cố Chúa Kitô. Nhờ Lời, dấu hiệu trở thành sự hiện diện, ký ức và lời hứa ơn cứu rỗi trọn vẹn [75]. Do đó, chẳng hạn như nước tự nó vốn đã sở hữu đặc tính làm sạch. Tuy nhiên, chỉ cùng với việc cầu khẩn Chúa Ba Ngôi, nó mới tạo ra hiệu quả tái sinh để loại trừ tội lỗi.
b) Thuật ngữ “sacramentum” (bí tích) được sử dụng để dịch hạn từ Hy Lạp “mysterion (μυστήριον) (mầu nhiệm)”. Các mầu nhiệm được cử hành trong Giáo hội bắt nguồn từ mầu nhiệm đúng nghĩa, tức Chúa Kitô "giấu ẩn trong Thiên Chúa từ khởi đầu thời gian" (Eph 3: 9) và giờ đây được biết đến. Người là Đấng, qua việc nhập thể, khổ hình và phục sinh, muốn "kéo tất cả vào chính Người" (x. Ga 12,32), "để hòa giải họ với Thiên Chúa" (x. 2Cr 5: 19-21). Theo thư gửi tín hũu Êphêsô (3: 3-21 và 5: 21-33; xem Cl 1: 25-27; 2: 2-9), Giáo hội được bao gồm trong mầu nhiệm Chúa Kitô; là "thân thể" và "nàng dâu", Giáo Hội thuộc về "mầu nhiệm giấu ẩn", trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa [76]. Khái niệm “mystérion” của Tân ước có ý chỉ thực tại Thiên Chúa, Đấng tự truyền đạt chính Người cho con người trong Chúa Giêsu Kitô. Bao lâu còn là một thực tại vô tận, nó vẫn được giấu ẩn ngay trong chính biến cố mặc khải, bởi vì nó vượt quá mọi việc hiểu biết và lên khái niệm. Mặc dù lời dịch sang tiếng Latinh sacramentum nhấn mạnh đến sự mặc khải hơn là che giấu, nhưng khái niệm Latinh vẫn duy trì chiều kích có ý nhắc đến điều không thể nắm bắt được. Do đó, bất cứ ai cử hành phụng vụ của Giáo hội hoặc lãnh nhận bí tích đều được mời gọi, nhờ đức tin mà chính bản thân mình tin, vượt quá nội dung được tin để hướng tới mầu nhiệm mãi mãi lớn hơn.
c) Có một khía cạnh thứ hai cũng liên quan đến chính thuật ngữ mặc khải. Khởi đầu, sacramentum có nghĩa là "lời thề thánh thiêng", một lời thề, trái với "ius iurandum" (lời thề pháp lý), tạo ra một sợi dây trói buộc thánh thiêng. Đây là ý nghĩa trong đầu Tertullian khi ông gọi phép rửa là "bí tích" [77] và so sánh nó với lời cam kết của quân đội trong lời thề dưới cờ. Không thể cương quyết làm một điều gì đó mà không biết nội dung của nó là gì.
60. [Cần dạy Giáo lý]. Từ những gì đã được nói, chúng ta bắt đầu từ một căn bản kép. Đầu tiên, không thể có cử hành bí tích nếu không có đức tin. Thứ hai, đức tin bản thân là tham dự vào đức tin giáo hội, một đáp ứng đối với biến cố mặc khải có tính bí tích được Giáo hội chứng kiến và đề xuất, nhờ Chúa Thánh Thần. Do đó, vì việc lãnh nhận bí tích đồng thời là một hành vi có bản chất bản vị theo nghĩa hẹp và bản chất rõ ràng có tính giáo hội, nên việc dậy giáo lý thỏa đáng phải đi trước việc cử hành bí tích. Trong một việc dạy giáo lý như vậy, mầu nhiệm Vượt qua phải chiếm một vị trí vì tính trung tâm của nó trong đức tin Kitô giáo. Trong trường hợp bí tích rửa tội, giáo lý là một phần của việc được kết nhập vào Giáo hội, như đã được tri nhận trong việc phát triển thời kỳ dự tòng trong Giáo hội cổ đại. Từ một góc nhìn khác, hình thức rửa tội nguyên thủy bao gồm một việc tuyên xưng đức tin, dưới hình thức đối thoại, như Traditio apostolica (thánh truyền tông đồ) đã làm chứng [78]. Việc tuyên xưng đức tin và bản chất đối thoại giữa con người và Thiên Chúa của việc lãnh nhận các bí tích phải tiếp diễn qua việc dạy giáo lý khai tâm dẫn vào mầu nhiệm (mystagogical catechesis), diễn ra mỗi lần lãnh nhận các bí tích. Theo một cách nào đó, việc dạy giáo lý khai tâm để dẫn vào mầu nhiệm giả thiết phải bước vào sự hiện diện cánh chung diễn ra với các bí tích, tiến bộ một cách liên tục về kiến thức thông qua việc tham gia vào các mầu nhiệm được cử hành.
61. [Biểu lộ đức tin]. Các bí tích là một phần của nhiệm cục bí tích mà các tín hữu được khai tâm vào. Nhiệm cục này ngụ ý sự hiện diện của các khía cạnh hữu hình như một biểu hiện của ơn thánh vô hình. Mặc dù đức tin vào Thiên Chúa được mặc khải trong Chúa Kitô là một quà phúc ơn thánh, nhưng người lãnh nhận không chỉ là một đối tượng của quà phúc này. Đây là lý do tại sao Thánh Tôma Aquinô nói rõ rằng đức tin là một “virtus infusa vel supranaturalis” (một nhân đức được phú bẩm hay siêu nhiên). Như “nhân đức”, đức tin là một khả năng hành động được ơn thánh làm cho khả hữu, một khả năng, giống như mọi khả năng khác, có thể được hoàn thiện. Nói cách khác, mối tương quan của một tín hữu với Chúa Kitô càng sâu sắc, thì tính bí tích của đức tin này, lời cầu nguyện, lời tuyên xưng, sự đồng nhất của họ với Giáo hội và tình yêu của họ càng mãnh liệt. Thành thử, vì đức tin là một nhân đức, nó phải được biểu lộ ra bên ngoài, một cách hữu hình, theo một cách sống tương ứng với điều răn kép yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người lân cận, và trong mối tương quan với Giáo hội cầu nguyện.
62. Có thể có một đức tin chung chung, như sự thuận ý đối với mặc khải thần linh, mà không bao gồm trong chính nó niềm hy vọng vào Thiên Chúa và tình yêu Thiên Chúa vốn có trong đó. Sự phân biệt của kinh viện giữa “fides informis” (đức tin vô thể) và “fides (caritate) formata” (đức tin sinh thể nghĩa là được sinh động bởi thánh sủng [đức ái]) phản ảnh một đức tin chưa đạt đến mức độ chín mùi vốn thiết yếu đối với nó. Theo thư gửi người Do Thái, đức tin cần thiết cho ơn cứu rỗi: “không có đức tin thì không thể làm hài lòng [Thiên Chúa]” (Dt 11: 6); đây là một xác tín bắt nguồn từ cách hiểu đức tin của thời trung cổ [79]. Trong khi một mong muốn đơn thuần tin vào điều đúng sự thật (fides informis) không đặt nền tảng cho việc hiệp thông với Chúa Kitô, thì đức tin đầy yêu thương (fides caritate formata) tạo ra việc đâm rễ vào thực tại cứu rỗi và đầy phước lành của Thiên Chúa. Nói cách khác, một hình thức đức tin có thể được ban cho mà không được định hình từ bên trong bởi một tương quan bản thân với Chúa Kitô. Theo nghĩa đó, nó được coi là informis (vô thể): nó vô thể trong cấu hình của nó nhờ tình yêu của Chúa Kitô, như một đáp ứng đối với tình yêu đi trước của Người. Cũng có một loại đức tin được định hình bởi mối tương quan bản thân và đầy yêu thương với Chúa Kitô. Đó là lý do tại sao nó được gọi là caritate formata: được cấu hình bởi đức ái vốn cố hữu trong sự thật của mối tương quan mà đức tin muốn phát biểu.
63. Theo sự phân biệt trên, có thể xác định rằng đức tin yêu thương quả là khởi đầu của sự sống vĩnh cửu [80]. Hành vi đích thân tin (Actus credendi) và nhân đức tin (virtus fidei) là những hành vi, tự chúng, làm cho biến cố cứu rỗi hữu hiệu nơi tín hữu. Giờ đây, hành vi đức tin sẽ bất khả nếu không có việc khẳng quyết về thực tại vốn làm cho nó khả hữu. Tuy nhiên, dù là như vậy, việc lãnh nhận mọi bí tích không tiền giả thiết phải có một đức tin được lên sinh thể nhờ đức ái, như được đặc biệt nhấn mạnh trong bí tích giải tội. Theo ý kiến của Thánh Tôma Aquinô, cả phép rửa lẫn phép hôn phối đều không đòi cùng một mức đức tin được thấm nhuần tình yêu như Bí tích Thánh Thể. Sự lãnh nhận hữu hiệu Phép Thánh Thể tiền giả thiết phải có không những đức tin vào sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong các hình bí tích, mà còn cả ý chí muốn duy trì mối dây kết hợp với Chúa Kitô và với các chi thể của Người (xem §120).
64. Bởi vì tình yêu siêu nhiên (caritas) là một hiệu quả tức khắc của ơn thánh, nên sự hiện diện của fides caritate formata trên cơ sở các tiêu chuẩn của con người không thể được quả quyết. Do đó, không ai có thể biết chắc về một người khác, thậm chí về chính bản thân mình, liệu đức tin của mình có sở hữu được phẩm tính này hay không. Điều này chỉ có thể được suy đoán từ những manh mối hoặc hiệu quả mà thôi [81]. Do đó, không thể có vấn đề đưa ra phán đoán về việc một ai đó trình diện trước Thiên Chúa ra sao hoặc muốn xác nhận hoặc bác bỏ niềm tin như một hồng phúc siêu nhiên ban ơn thánh nơi một người khác. Tuy nhiên, vì việc lãnh nhận bí tích là một hành vi công khai của giáo hội, nên khía cạnh bên ngoài và hữu hình vẫn có tính quyết định: nghĩa là bày tỏ ý định, tuyên xưng đức tin và trung thành với lời hứa rửa tội trong cuộc sống.
Kỳ sau: d) Bản chất đối thoại của các Bí tích
56. [Khái niệm bí tích]. Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng tạo dựng để thông truyền các hồng phúc của Người và là Đấng đã tạo dựng những con người nhân bản để kêu gọi họ theo từng cá nhân và cả cộng đồng hiệp thông với Người, đi vào mối tương quan với họ theo cách trung gian, qua sáng thế và lịch sử, qua các dấu hiệu, như chúng ta đã thấy. Trong số các dấu hiệu này, các bí tích Kitô giáo chiếm một vị trí rất nổi bật, vì chúng là những dấu hiệu mà Thiên Chúa đã liên kết việc thông truyền ơn thánh của Người với một cách chắc chắn và khách quan. Thực thế, các bí tích của Luật mới là những dấu hiệu hữu hiệu thông truyền ơn thánh [71]. Như chúng ta đã nói, điều này không có nghĩa là các bí tích là phương thế duy nhất nhờ đó Thiên Chúa thông truyền ơn thánh của Người [72]; nó có nghĩa: chúng giữ một vị trí ưu tuyển, có đặc tính chắc chắn và giáo hội. Lòng sùng kính và đạo đức bản thân có thể triển khai qua các thực hành khác nhau: chẳng hạn như các hình thức cầu nguyện khác nhau được liên kết với Sách Thánh, chẳng hạn như việc đọc hoặc suy ngẫm các mầu nhiệm của đời sống Chúa Kitô; chiêm niệm các công trình của Thiên Chúa trong sáng thế và lịch sử; và các á bí tích khác nhau (xem §40), v.v.
57. [Đức tin và các Bí tích trong Định nghĩa Bí tích của Vatican II]. Trong suốt lịch sử, đã có những định nghĩa khác nhau về bí tích. Vatican II mô tả nó như sau:
“Các Bí Tích có mục đích thánh hóa con người, xây dựng thân thể Chúa Kitô, và sau cùng là thờ phượng Thiên Chúa. Tuy nhiên, là những dấu chỉ, các Bí Tích còn giữ vai trò giáo huấn nữa. Không những các Bí Tích giả thiết phải có đức tin, mà còn dùng lời nói và sự vật để nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin đó. Do đó, được gọi là ‘các Bí Tích Ðức Tin’. Thực ra các Bí Tích ban ơn thánh, nhưng việc cử hành các Bí Tích còn là việc chuẩn bị các tín hữu đón nhận ơn thánh đó một cách hữu hiệu để thờ phượng Chúa đúng cách và để thực thi đức bác ái” [73].
Bản văn cô đọng trên nhấn mạnh một số khía cạnh căn bản của tính hỗ tương thiết yếu giữa đức tin và các bí tích, mà chúng ta sẽ tóm tắt. Đầu tiên, các bí tích có một mục đích sư phạm về đức tin của chúng ta: chúng minh họa cách thức lịch sử cứu rỗi đã diễn ra: “có tính bí tích”. Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập chúng để dạy chúng ta rằng Người tự thông truyền và thông truyền ơn cứu rỗi của Người cho chúng ta một cách cảm thấy và hữu hình, nghĩa là thích nghi với thân phận con người [74] (xem đặc biệt § § 20, 26).
Thứ hai, các bí tích giả thiết phải có đức tin theo hai nghĩa: như việc “truy cập” mầu nhiệm bí tích: nếu thiếu đức tin, bí tích chỉ xuất hiện như một biểu tượng bên ngoài hoặc một nghi thức trống rỗng, với nguy cơ sa vào một cử chỉ ma thuật; và như một điều kiện cần thiết để bí tích sản sinh về phương diện chủ quan các hồng phúc được nó chứa đựng một cách khách quan. Thứ ba, các bí tích biểu lộ đức tin của chủ thể và của Giáo hội. Việc cử hành các bí tích là một tuyên xưng đức tin sống. Các bí tích là những dấu hiệu nhờ đó đức tin mà nhờ thế con người được công chính hóa được tuyên xưng. Lời bí tích đòi hỏi sự đáp ứng đức tin của người tín hữu, người, nhờ nó, học hỏi và nhận ra mầu nhiệm được hiện thực hóa trong bí tích. Thứ tư, các bí tích nuôi dưỡng đức tin ở hai bình diện căn bản: chúng truyền đạt hồng phúc ơn thánh thần linh, tạo nên hoặc củng cố đời sống Kitô hữu của tín hữu; và chúng là những cử hành trong đó mầu nhiệm cứu rỗi được biểu tượng một cách hữu hiệu, giáo dục đức tin và nuôi dưỡng nó liên tục. Các bí tích, do đó, là các dấu hiệu của đức tin trong mọi khía cạnh của tính năng động trong việc hiện thực hóa chúng: trước, trong và sau khi cử hành. Do đó, vì các bí tích giả thiết phải có đức tin, nên điều hiển nhiên là người nhận các bí tích phải là một thành viên của Giáo hội. Chúng ta không thể quên rằng nhờ đức tin và các bí tích đức tin, chúng ta bước vào đối thoại, trong cuộc tiếp xúc quan yếu với Đấng Cứu chuộc, Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha. Chúa Kitô vinh hiển không chỉ đến với chúng ta trong nội tâm, nhưng trong sự cụ thể hóa hữu thể lịch sử của chúng ta, nâng cao các tình huống căn bản của cuộc hiện sinh của chúng ta lên hàng các tình huống bí tích của ơn cứu rỗi.
58. [Nối kết Đức tin và các bí tích]. Đức tin không được đảm bảo mãi mãi ở lúc hoán cải. Nó được vun xới qua việc thực hành đức ái, cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, đời sống cộng đoàn, huấn giáo, và ở một vị trí ưu việt, qua việc siêng năng lãnh nhận các bí tích. Trong lĩnh vực các mối tương quan, điều không minh nhiên và được phát biểu có nguy cơ bị pha loãng hoặc thậm chí biến mất. Chúa Kitô, hồng phúc, vốn là hồng phúc tuyệt vời của Thiên Chúa, không thể chỉ được lãnh nhận một cách vô hình hoặc riêng tư. Trái lại, người nào lãnh nhận nó được ban năng lực và được mời gọi đem nó nhập vào cuộc sống, lời nói, suy nghĩ và hành động của mình. Nhờ cách này, người ta mới có thể góp phần vào việc biến đổi tính bí tích nguyên thủy của Đấng Cứu Thế thành tính bí tích căn bản của Giáo Hội. Thật vậy, bảy thể hiện căn bản của Giáo hội (các bí tích) hiện thực hóa điều chúng muốn nói. Tuy nhiên, để việc lãnh nhận chúng có hiệu quả, cần phải có việc sẵn lòng của mỗi người lãnh nhận để thâm hậu hóa, để sống và làm chứng cho điều họ đã lãnh nhận.
59. Mối liên hệ nội tại giữa đức tin và các bí tích là điều hiển nhiên nếu chúng ta xem xét các khía cạnh thiết yếu khác. Trong số đó nổi bật là:
a) Việc cử hành bí tích: trong đó một hành động đặc thù hoặc một thực tại vật chất, vốn đã có ý nghĩa riêng, được liên hệ với lịch sử cứu rỗi và được xác định nhờ biến cố Chúa Kitô. Nhờ Lời, dấu hiệu trở thành sự hiện diện, ký ức và lời hứa ơn cứu rỗi trọn vẹn [75]. Do đó, chẳng hạn như nước tự nó vốn đã sở hữu đặc tính làm sạch. Tuy nhiên, chỉ cùng với việc cầu khẩn Chúa Ba Ngôi, nó mới tạo ra hiệu quả tái sinh để loại trừ tội lỗi.
b) Thuật ngữ “sacramentum” (bí tích) được sử dụng để dịch hạn từ Hy Lạp “mysterion (μυστήριον) (mầu nhiệm)”. Các mầu nhiệm được cử hành trong Giáo hội bắt nguồn từ mầu nhiệm đúng nghĩa, tức Chúa Kitô "giấu ẩn trong Thiên Chúa từ khởi đầu thời gian" (Eph 3: 9) và giờ đây được biết đến. Người là Đấng, qua việc nhập thể, khổ hình và phục sinh, muốn "kéo tất cả vào chính Người" (x. Ga 12,32), "để hòa giải họ với Thiên Chúa" (x. 2Cr 5: 19-21). Theo thư gửi tín hũu Êphêsô (3: 3-21 và 5: 21-33; xem Cl 1: 25-27; 2: 2-9), Giáo hội được bao gồm trong mầu nhiệm Chúa Kitô; là "thân thể" và "nàng dâu", Giáo Hội thuộc về "mầu nhiệm giấu ẩn", trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa [76]. Khái niệm “mystérion” của Tân ước có ý chỉ thực tại Thiên Chúa, Đấng tự truyền đạt chính Người cho con người trong Chúa Giêsu Kitô. Bao lâu còn là một thực tại vô tận, nó vẫn được giấu ẩn ngay trong chính biến cố mặc khải, bởi vì nó vượt quá mọi việc hiểu biết và lên khái niệm. Mặc dù lời dịch sang tiếng Latinh sacramentum nhấn mạnh đến sự mặc khải hơn là che giấu, nhưng khái niệm Latinh vẫn duy trì chiều kích có ý nhắc đến điều không thể nắm bắt được. Do đó, bất cứ ai cử hành phụng vụ của Giáo hội hoặc lãnh nhận bí tích đều được mời gọi, nhờ đức tin mà chính bản thân mình tin, vượt quá nội dung được tin để hướng tới mầu nhiệm mãi mãi lớn hơn.
c) Có một khía cạnh thứ hai cũng liên quan đến chính thuật ngữ mặc khải. Khởi đầu, sacramentum có nghĩa là "lời thề thánh thiêng", một lời thề, trái với "ius iurandum" (lời thề pháp lý), tạo ra một sợi dây trói buộc thánh thiêng. Đây là ý nghĩa trong đầu Tertullian khi ông gọi phép rửa là "bí tích" [77] và so sánh nó với lời cam kết của quân đội trong lời thề dưới cờ. Không thể cương quyết làm một điều gì đó mà không biết nội dung của nó là gì.
60. [Cần dạy Giáo lý]. Từ những gì đã được nói, chúng ta bắt đầu từ một căn bản kép. Đầu tiên, không thể có cử hành bí tích nếu không có đức tin. Thứ hai, đức tin bản thân là tham dự vào đức tin giáo hội, một đáp ứng đối với biến cố mặc khải có tính bí tích được Giáo hội chứng kiến và đề xuất, nhờ Chúa Thánh Thần. Do đó, vì việc lãnh nhận bí tích đồng thời là một hành vi có bản chất bản vị theo nghĩa hẹp và bản chất rõ ràng có tính giáo hội, nên việc dậy giáo lý thỏa đáng phải đi trước việc cử hành bí tích. Trong một việc dạy giáo lý như vậy, mầu nhiệm Vượt qua phải chiếm một vị trí vì tính trung tâm của nó trong đức tin Kitô giáo. Trong trường hợp bí tích rửa tội, giáo lý là một phần của việc được kết nhập vào Giáo hội, như đã được tri nhận trong việc phát triển thời kỳ dự tòng trong Giáo hội cổ đại. Từ một góc nhìn khác, hình thức rửa tội nguyên thủy bao gồm một việc tuyên xưng đức tin, dưới hình thức đối thoại, như Traditio apostolica (thánh truyền tông đồ) đã làm chứng [78]. Việc tuyên xưng đức tin và bản chất đối thoại giữa con người và Thiên Chúa của việc lãnh nhận các bí tích phải tiếp diễn qua việc dạy giáo lý khai tâm dẫn vào mầu nhiệm (mystagogical catechesis), diễn ra mỗi lần lãnh nhận các bí tích. Theo một cách nào đó, việc dạy giáo lý khai tâm để dẫn vào mầu nhiệm giả thiết phải bước vào sự hiện diện cánh chung diễn ra với các bí tích, tiến bộ một cách liên tục về kiến thức thông qua việc tham gia vào các mầu nhiệm được cử hành.
61. [Biểu lộ đức tin]. Các bí tích là một phần của nhiệm cục bí tích mà các tín hữu được khai tâm vào. Nhiệm cục này ngụ ý sự hiện diện của các khía cạnh hữu hình như một biểu hiện của ơn thánh vô hình. Mặc dù đức tin vào Thiên Chúa được mặc khải trong Chúa Kitô là một quà phúc ơn thánh, nhưng người lãnh nhận không chỉ là một đối tượng của quà phúc này. Đây là lý do tại sao Thánh Tôma Aquinô nói rõ rằng đức tin là một “virtus infusa vel supranaturalis” (một nhân đức được phú bẩm hay siêu nhiên). Như “nhân đức”, đức tin là một khả năng hành động được ơn thánh làm cho khả hữu, một khả năng, giống như mọi khả năng khác, có thể được hoàn thiện. Nói cách khác, mối tương quan của một tín hữu với Chúa Kitô càng sâu sắc, thì tính bí tích của đức tin này, lời cầu nguyện, lời tuyên xưng, sự đồng nhất của họ với Giáo hội và tình yêu của họ càng mãnh liệt. Thành thử, vì đức tin là một nhân đức, nó phải được biểu lộ ra bên ngoài, một cách hữu hình, theo một cách sống tương ứng với điều răn kép yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người lân cận, và trong mối tương quan với Giáo hội cầu nguyện.
62. Có thể có một đức tin chung chung, như sự thuận ý đối với mặc khải thần linh, mà không bao gồm trong chính nó niềm hy vọng vào Thiên Chúa và tình yêu Thiên Chúa vốn có trong đó. Sự phân biệt của kinh viện giữa “fides informis” (đức tin vô thể) và “fides (caritate) formata” (đức tin sinh thể nghĩa là được sinh động bởi thánh sủng [đức ái]) phản ảnh một đức tin chưa đạt đến mức độ chín mùi vốn thiết yếu đối với nó. Theo thư gửi người Do Thái, đức tin cần thiết cho ơn cứu rỗi: “không có đức tin thì không thể làm hài lòng [Thiên Chúa]” (Dt 11: 6); đây là một xác tín bắt nguồn từ cách hiểu đức tin của thời trung cổ [79]. Trong khi một mong muốn đơn thuần tin vào điều đúng sự thật (fides informis) không đặt nền tảng cho việc hiệp thông với Chúa Kitô, thì đức tin đầy yêu thương (fides caritate formata) tạo ra việc đâm rễ vào thực tại cứu rỗi và đầy phước lành của Thiên Chúa. Nói cách khác, một hình thức đức tin có thể được ban cho mà không được định hình từ bên trong bởi một tương quan bản thân với Chúa Kitô. Theo nghĩa đó, nó được coi là informis (vô thể): nó vô thể trong cấu hình của nó nhờ tình yêu của Chúa Kitô, như một đáp ứng đối với tình yêu đi trước của Người. Cũng có một loại đức tin được định hình bởi mối tương quan bản thân và đầy yêu thương với Chúa Kitô. Đó là lý do tại sao nó được gọi là caritate formata: được cấu hình bởi đức ái vốn cố hữu trong sự thật của mối tương quan mà đức tin muốn phát biểu.
63. Theo sự phân biệt trên, có thể xác định rằng đức tin yêu thương quả là khởi đầu của sự sống vĩnh cửu [80]. Hành vi đích thân tin (Actus credendi) và nhân đức tin (virtus fidei) là những hành vi, tự chúng, làm cho biến cố cứu rỗi hữu hiệu nơi tín hữu. Giờ đây, hành vi đức tin sẽ bất khả nếu không có việc khẳng quyết về thực tại vốn làm cho nó khả hữu. Tuy nhiên, dù là như vậy, việc lãnh nhận mọi bí tích không tiền giả thiết phải có một đức tin được lên sinh thể nhờ đức ái, như được đặc biệt nhấn mạnh trong bí tích giải tội. Theo ý kiến của Thánh Tôma Aquinô, cả phép rửa lẫn phép hôn phối đều không đòi cùng một mức đức tin được thấm nhuần tình yêu như Bí tích Thánh Thể. Sự lãnh nhận hữu hiệu Phép Thánh Thể tiền giả thiết phải có không những đức tin vào sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong các hình bí tích, mà còn cả ý chí muốn duy trì mối dây kết hợp với Chúa Kitô và với các chi thể của Người (xem §120).
64. Bởi vì tình yêu siêu nhiên (caritas) là một hiệu quả tức khắc của ơn thánh, nên sự hiện diện của fides caritate formata trên cơ sở các tiêu chuẩn của con người không thể được quả quyết. Do đó, không ai có thể biết chắc về một người khác, thậm chí về chính bản thân mình, liệu đức tin của mình có sở hữu được phẩm tính này hay không. Điều này chỉ có thể được suy đoán từ những manh mối hoặc hiệu quả mà thôi [81]. Do đó, không thể có vấn đề đưa ra phán đoán về việc một ai đó trình diện trước Thiên Chúa ra sao hoặc muốn xác nhận hoặc bác bỏ niềm tin như một hồng phúc siêu nhiên ban ơn thánh nơi một người khác. Tuy nhiên, vì việc lãnh nhận bí tích là một hành vi công khai của giáo hội, nên khía cạnh bên ngoài và hữu hình vẫn có tính quyết định: nghĩa là bày tỏ ý định, tuyên xưng đức tin và trung thành với lời hứa rửa tội trong cuộc sống.
Kỳ sau: d) Bản chất đối thoại của các Bí tích
Năm xưa cây sồi làng Fatima..
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
09:53 11/05/2020
Quân Mauren đã chiếm thống trị vùng Santarem và năm 1147 người Công Giáo Portugal đã chiếm lại vùng này. Tên thành phố „Fatima“ ngày nay có lịch sử từ cuộc chiến nói trên. Theo lịch sử truyền lại, có tương truyền trong dân gian, Fatima là con gái của một vị hoàng tộc người Maure đến chiếm đóng vùng Santarem. Cô gái xinh đẹp được đặt tên Fatima là con gái thứ tư của Tiên tri Mahomed, người sáng lập đạo Hồi giáo.
Năm 1158 sau khi người Công Giáo chiếm lại Santarem, người phụ nữ xinh đẹp này bị bắt cóc và đem giao nộp cho Ông Hoàng xứ Ourem. Tình yêu nảy nở giữa hai người, họ lấy nhau và cô ta chịu rửa tội gia nhập đạo Công Giáo. Vì thế, tên Fatima sau này gia đình vị hoàng tộc đó đặt cho nơi này, nơi bà Fatima được an táng sau khi qua đời.
Tỉnh nhỏ Fatima trở nên thánh địa hành hương nổi tiếng khắp thế giới trong Hội Thánh Công gíao vì Đức Mẹ Maria năm 1917 đã hiện ra ở nơi đây.
Fatima trở thành trung tâm hành hương lòng sùng kính Đức Mẹ Maria của nước Portugal và của Gíao Hội Công Giáo hoàn cầu. Mùa hành hương diễn ra từ tháng 05. tới tháng 10. Hằng ngày trong thời gian này đều có buổi lần hạt mân côi vàoi buổi tối, rước kiệu Đức Mẹ Fatima với nến cháy sáng hát bài Ave Maria theo cung điệu của Fatima nước Portugal lúc 21.00 giờ rất lung linh huyền nhiệm.
1. Đức Mẹ Maria hiện ra ở Fatima
Ở khu rừng đồi làng Fatima trước khi Đức Mẹ hiện ra với ba em nhỏ chăn chiên cừu năm 1917 ở thôn Alijustrel, Thiên Thần năm 1916 đã hiện ra dạy cho các em biết cầu nguyện, cho các em rước lễ.
Đức Mẹ đã hiện ra với ba em Lucia 10 tuổi, Phanxico 9 tuổi và Jacinta 7 tuổi tất cả 6 lần vào các ngày 13. từ tháng Năm đến tháng Mười 1917. Riêng hiện ra lần thứ tư không vào ngày 13.08., nhưng vào ngày 19.08.1917, vì hôm 13.08. 1917 ba em em bị nhà cầm quyền Vila Nova de Ourem bắt giam trong ba ngày.
Khi hiện ra với ba em, theo lời ba em thuật lại „ Bà đã hiện ra nơi cây sồi“ ở Cova da Iria. Bây giờ nơi thánh địa đó một nhà nguyện được xây dựng năm 1919 bên cạnh có cây sồi to lớn rào kín chung quanh làm di tích kỷ niệm biến cố lịch sử năm xưa. Nơi ngôi nhà nguyện mái bằng nhỏ đơn sơ này chung quang không có tường vách, hằng ngày đều có Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ, có bức tượng Đức Mẹ Fatima. Từ sáng sớm tới chiều tối các đoàn hành hương các dân tộc có thể đến xin dâng lễ riêng cho đoàn mình nơi ngôi nhà nguyện lịch sử này.
2. Sứ điệp Đức Mẹ Fatima
Khi hiện ra Đức Mẹ nói với ba trẻ:“ Ta muốn các con tiếp tục lần chuỗi mân côi mỗi ngày cho những người tội lỗi. Hãy hy sinh cầu nguyện cho nhữnng người tội lỗi với lời nguyện: „Lạy Chúa, con xin dâng việc hy sinh này vì lòng mến Chúa cho kẻ có tội ăn năn trở lại, và để đền tạ những sự xúc phạm đến trái tim vẹn sạch Đức Mẹ“. Ta muốn các con dâng mình cho trái tim vẹn sạch của ta, và rước lễ đền tạ mỗi thứ bảy đầu tháng. Nếu các con nghe lời Ta, nước Nga sẽ trở lại, thế giới sẽ được hòa bình. Nếu không, nước Nga sẽ phổ biến các sai lầm trên toàn thế giới gây ra chiến tranh và bách hại Giáo hội, nhiều người tốt lành sẽ bị chết vì đạo, Đức Thánh Cha sẽ phải đau khổ nhiều, nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt, Nhưng sau cùng trái tim mẹ sẽ thắng.“.
3. Ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra
Đức Thánh Cha Phanxico đã hành hương sang Fatima dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima năm 2017. Ngài đã cùng toàn thể khách hành hương lần chuỗi mân côi, dâng thánh lễ Misa cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới.
Và dịp này ngài phong lên hàng Hiển Thánh cho hai trẻ Phanxico và Jacinta, mà ngảy xưa đã được chứng kiến nhìn xem cùng nghe tiếng nói của Đức Mẹ Maria, vào ngày 13. Tháng Năm 2017 dịp mừng kỷ niệm có một không hai này.
Thánh trẻ Phancico Marto sinh ngày 11.06.1908 ở Aljustrel, qua đời ngày 04.04.1919 ở Aljustrel Fatima. Trước hết thi hài em được an táng nơi nghĩa trang Fatima, và được cải táng đưa vào Vương cung Thánh Đường Fatima ngày 13.03.1952 cạnh bàn thờ Chúa Thánh Thần.
Thánh trẻ Jacinta Marto sinh ngày 11.03.1910, qua đời ngày 20.02.1920 ở bệnh viện Lissabon. Thi hài được an táng ở Vila Nova de Ourem cho đến ngày 12.09.1935. Sau đó được cải táng đưa về nghĩa trang Fatima, và lại được cải táng đưa vào Vương cung thánh đường Fatima cạnh bàn thờ Truyền tin.
Hai em đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị phong lên hàng Chân phước ngày 13. Tháng Năm 2000 ở Fatima, dịp ngài sang hành hương lần thứ ba kính viếng và tạ ơn Đức Mẹ Fatima đã cứu sống ngài thoát chết khi bị ám sát vào đúng ngày 13.05. 1981 ở Vatican.
Nữ tu Lucia, Lucia de Jesus dos Santos, sinh ngày 22.03.1907 ở Aljustrel Fatima, qua đời ngày 13. 02. 2005 ở Coimbra. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, năm 1948 Chị Lucia vào dòng kín Carmel ở Coimbra sống đời tu trì trong nhà Dòng kín cho tới khi qua đời.
Ngày 15.02.2005 ngày an táng Nữ tu Lucia toàn thể nước Portugal để tang là ngày quốc táng để vinh danh Chị nữ tu trong lịch sử nước Portugal vào năm 1917 đã được Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Và ngày 19.02.2006 thi hài Vị Nữ tu Lucia đưa cải táng đem về an táng trong Vương cung Thánh đường Fatima bên cạnh hai vị Thánh trẻ Jacinta và Phanxico.
Và tiến trình phong Thánh cho Nữ tu Lucia đang trong giai đoạn lập dự án theo như luật Giáo Hội ấn định.
4. Hành hương kính viếng Đức Mẹ Fatima
Suốt dọc thời gian từ hơn 100 năm nay, hàng triệu người trên khắp thế giới trong suốt cả năm kéo về thánh địa Fatima hành hương kính viếng Đức Mẹ, dâng thánh lễ, lần hạt đọc kinh cầu khấn.
Cung cách sống đạo hành hương bình dân thôi, nhưng thể hiện đức tin sống động vào Chúa qua việc sùng kính lòng yêu mến tôn kính Đức Mẹ là mẹ Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha Phanxico đã có tâm tình về ý nghĩa hành hương: ”Hành hương là một lòng đạo đức bình dân, là một hình thức chân thực loan báo Tin Mừng, luôn luôn cần được cổ võ và đề cao giá trị. Tại các đền thánh, tín hữu sống một linh đạo sâu xa, một lòng đạo đức từ bao thế kỷ đã nhào nặn đức tin với những lòng sùng mộ đơn sơ nhưng rất có ý nghĩa”.
”Trong thực tế, người hành hương mang trong mình lịch sử riêng, đức tin với những điểm sáng điểm tối của cuộc đời. Mỗi người mang trong con tim ước muốn đặc thù và một kinh nguyện riêng... Đền thánh thực sự là một môi trường ưu tiên để gặp gỡ Thiên Chúa và đụng chạm đến lòng thương xót của Chúa.”
Hằng tháng vào những ngày 12. và 13. là những ngày cao điểm mùa hành hương, nhất là từ tháng Năm tới tháng Mười.
Vào chiều tối ngày 12. hằng tháng vào lúc 21.00 giờ lần hạt kính Đức Mẹ bằng các ngôn ngữ được chọn, sau đó hàng trăm ngàn Gíao dân tay cầm nến cháy sáng cùng với đoàn kiệu có Vị Hồng Y, các Giám mục và hàng trăm Linh mục mặc phẩm phục trắng rước kiệu Đức Mẹ Fatima vòng sân công trường Fatima đến lễ đài cuối Vương cung thánh đường Fatima dâng thánh lễ mở đầu đêm canh thức hành hương tới khuy nửa đêm.
Sáng ngày 13. hằng tháng ngày hành hương kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra vào lúc 09.00 giờ lần hạt ở ngay ngôi nhà nguyện, nơi Đức Mẹ hiện ra năm 1917 bên cạnh cây sồi lịch sử, sau đó rước kiệu Đức Mẹ ra ngoài công trường như hồi đêm canh thức, dâng thánh lễ đại trào kính Đức Mẹ. Sau Thánh lễ có Chầu Thánh Thể, ban phép lành cho các bệnh nhân và rước kiệu từ giã Đức Mẹ kết thúc ngày hành hương vào khoảng 12.00 giờ trưa.
Hằng ngày tối nào cũng có lần hạt rồi rước kiệu Đức Mẹ với cây nến cháy sáng trên tay, theo con đường đường kiệu nhỏ ngắn thôi với khoảng vài trăm cho tới một ngàn người ở công trường Fatima, và kết thúc với phép lành xin Chúa nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ Fatima ban cho được ngủ bằng an.
Ngôi Vương cung thánh đường kính Đức Mẹ Fatima cũ Basilica Antiga, được xây năm 1928, tháp chuông cao 56 mét, trên nóc tháp có triều thiên vĩ đại bằng đồng nặng 07 tấn, Trong nhà thờ có mộ của hai Thánh trẻ Phanxicô, Jaxinta và Lucia.
Càng ngày càng trở nên nhỏ với số lượng khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn kéo đổ về. Vì thế một ngôi vương cung thánh đường kính Chúa ba ngôi -Igreja da Santissima Trindade- mới đã được xây cất thêm, và ngày 12.10. 2007 đã được thánh hiến khánh thành dưới thời Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI..
Ngôi thánh đường mới ở cuối quảng trường Fatima đối diện với Vương cung thánh đường cũ ở phía đàng cuối công trường. Ngôi thánh đường mới này có chu vi rộng 125 mét, có chỗ ngồi cho gần 9000 người trong lòng nhà thờ, cổng chính mang tên Chúa Giêsu với 64 mét vuông, chung quanh có 12 cửa ra vào với tên của 12 Thánh Tông Đồ.
Đây là ngôi thánh đường lớn thứ tư trên thế giới của Giáo Hội Công Giáo được xây cất vào thế kỷ thứ 21. Trong ngôi thánh đường này có nhiều nhà nguyện nhỏ khác nhau cho những nhóm hành hương muốn dâng lễ riêng.
Bên cạnh quảng trường Thánh địa Fatima có Bảo tàng viện trưng bày những di tích kỷ vật về Fatima, đặc biệt có triều thiên Đức Mẹ với viên đạn đã bắn làm bị thương Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo đệ nhị năm 1981. Triều thiên này vào những ngày 12. và 13. từ tháng 05. tới tháng 10. được đội lên tượng Đức Mẹ Fatima đem ra rước kiệu.
Khu chặng đàng Thánh gía nằm trong một khu rừng nhỏ. Cũng trong khu rừng này có địa điểm với bức tượng Thiên Thần hiện ra trao Mình Thánh Chúa cho ba trẻ.
Ở cuối chặng đàng Thánh Gía có nhà nguyện kính Thánh Etienne, do người tỵ nạn Công Giáo Hung gia Lợi dâng cúng năm 1964.
Ở ngoài bìa khu rừng đàng Thánh giá có hai ngôi nhà di tích lịch của gia đình ba trẻ ngày xưa đã sinh ra và lớn lên. Trong khu vườn phía sau có giếng nước, nơi đây Thiên Thần đã hiện ra với ba trẻ. Bn cạnh chung quanh giếng nước ngày xưa có tượng Thiên Thần và tượng ba trẻ bằng đá cẩm thạch mầu trắng.
Năm nay 2020 mùa đại dịch Corona truyền nhiễm lay lan nguy hiểm đe dọa sức khoẻ sự sống con người. Nên mọi hoạt động phải giới hạn ngưng đình trệ lại từ những ngày tháng qua trên toàn thế giới, nhất là ở Âu châu. Nên không có những cuộc hành hương rước kiệu tôn vinh Đức Mẹ Fatima như những năm vừa qua. Trung tâm thánh điạ Fatima trở nên vắng vẻ trong không khí u buồn ảm đạm, vì không có bóng những đoàn người nào đến hành hương cầu nguyện.
Mọi người trên khắp thế giới trong dòng nước mắt đau khổ chỉ còn biết hướng trái tim tâm hồn về thánh điạ Fatima lần chuỗi mân côi khẩn khoản xin Đức Mẹ phù hộ cùng Thiên Chúa, cùng Chúa Giêsu Kitô ra tay cứu giúp thế giới cho có được bằng an mạnh khoẻ, có hòa bình trở lại, mau thoát khỏi cơn đại dịch lây lan đe dọa sức khoẻ cùng đời sống con người về mọi phương diện.
5. Mầu trắng Fatima.
Thiên Thần hiện ra với ba trẻ dạy ba em cầu nguyện và cho các em rước lễ, Thiên Thần mặc áo mầu trắng.
Khi hiện ra với ba trẻ trên cây sồi ở Fatima Đức Mẹ mặc áo trắng.
Và trong sứ điệp thứ ba của Fatima mà Nữ tu Lucia viết lại như lời Đức Mẹ đã nói với chị đề cập đến „vị Giám mục mặc áo trắng“ bị ám sát.
Có lẽ vì thế những Thánh đường xây dựng ở khu thánh địa Fatima cũ cũng như mới tường vách đều bằng mầu đá thiên nhiên mầu trắng, bàn thờ nhà nguyện Đức Mẹ hiện ra cũng bằng đá cẩm thạch mầu trắng, cả những trạm bàn thờ của 14 chặng đường thập gía Chúa Giêsu cũng xây dựng bằng đá mầu trắng.
Và trưa ngày 13. hằng tháng, sau thánh lễ hành hương kết thúc ngày hành hương, tượng Đức Mẹ được khiêng rước từ lễ đài Vương cung thánh đường trở về nhà nguyện thánh địa, mọi người tay cầm khăn nhỏ mầu trắng giơ lên cao vẫy chào từ biệt khi kiệu Đức Mẹ đi ngang qua.
Thật là một quang cảnh đầy cảm động của lòng đạo đức bình dân thắm thiết tình mẹ con, và gợi lên làn không khí thi vị huyền nhiệm như một biển nước mầu trắng đang chuyển động hòa chung vào tiếng hát ca tụng chào biệt Đức Mẹ vang lên khắp cả bầu trời nắng buổi trưa giữa công trường rộng lớn.
Mầu trắng là mầu ánh sáng, chỉ về sự trong trắng và toàn vẹn. Khi một em bé nhận lãnh làn nước Bí Tích Rửa tội, tấm áo trắng được trao mặc cho em: chiếc áo trắng rửa tối. Và ngày sau cùng của đời sống người qua đời cũng được tẩm liệm mặc áo mầu trắng. Như thế có thể suy ra mầu trắng cho khởi đầu và cho sau cùng!
Và trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan nói đến cảnh đoàn người mặc áo trắng đứng trước Con Chiên Thiên Chúa trên trời ( Kh 7,9).
Mầu trắng là mầu biểu hiệu của Đức Mẹ Fatima, mẹ Chúa trời hiển vinh.
Nhớ về thánh điạ Đức Mẹ Fatima mùa đại dịch Corona, ngày 12. 13. Tháng Năm 2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sứ điệp từ Đền thánh Fatima: Mở rộng thiên đàng với Jaxinta
Đặng Tự Do
14:34 11/05/2020
Tháng năm này, Fatima thách thức bạn thực hiện một cuộc hành hương chủ yếu hơn: một nẻo đường nội tâm có thể đưa bạn đi xa ngay trong chính bản thân bạn, hướng về đền thánh sâu thẳm nhất ở trong bạn nơi Thiên Chúa hiện diện vì bạn. Làm bạn trở thành một người hành hương bằng trái tim là cố gắng sống nội tâm điều mà kinh nghiệm hành hương tạo ra và hoàn tất. Fatima đang mời gọi bạn, hàng ngày. Và xin bạn mỗi đêm hãy đặt một cây nến thắp sáng ở cửa sổ nhà bạn.
Bằng cách nhắc lại trình thuật của chị Lucia về cuộc hiện ra hồi tháng Năm, chúng ta hãy tìm hiểu xem Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người đến mức nào và đâu là cách được Người chọn để mặc khải chính Người. Hôm nay, bạn hãy cố gắng khao khát thiên đàng, với Phanxicô.
Tháng Năm này, Fatima mời gọi bạn trở thành một người hành hương bằng trái tim. Hôm nay, hãy mở rộng trái tim của bạn để khao khát thiên đàng cho tất cả mọi người, với Jaxinta.
“Lạy Chúa, con tin, con thờ lạy, con hy vọng, và con yêu mến Chúa. Con xin Chúa tha thứ cho những người không tin, không thờ lạy, không hy vọng và không yêu mến Chúa”.
Fatima vẫn đang thách thức bạn thực hành cuộc hành hương nội tâm vào tháng Năm này. Fatima mời gọi bạn tự biến mình thành một người hành hương bằng trái tim. Chỉ khi bạn bước đi trên con đường tâm hồn mình với tinh thần của một người hành hương, nghĩa là, nếu bạn âm thầm bắt đầu lắng nghe, bạn sẽ nghe trong nó điều khao khát nhất của con người: vĩnh cửu. Nếu không, trái tim bạn sẽ thế chấp bạn cho một thời cứ thế trôi đi nhưng bạn sẽ khó thoát khỏi cuộc sống giống như làm nô lệ cho nó. Bạn hãy tĩnh lặng rút vào tâm hồn mình.
Trong tĩnh lặng, hãy lắng nghe một lần nữa câu hỏi của ngày hôm qua: bạn có háo hức làm bạn cạn kiệt trong các hoạt động và lo lắng hàng ngày, như thể bạn cũng chỉ có giá trị y hệt như kết quả của các hoạt động và lo lắng của bạn không? Hay bạn đang nuôi dưỡng trong tâm hồn niềm khao khát một cuộc sống khác ngoài cuộc sống này? Và bạn có khao khát được gặp lại tất cả những người bạn yêu đã chết trước bạn không?
Bạn có giá trị hơn thế nhiều, vô cùng nhiều hơn tất cả những gì bạn có thể hoàn thành, đạt được hoặc chinh phục được.
Nhưng chỉ khi nào bạn làm cho bạn trở thành một người hành hương bằng trái tim, đi qua trái tim bạn một cách tự do quan yếu, một tự do cho phép bạn xác định được các giọng nói đang vang vọng bên trong nó, bạn mới có thể phát hiện ra một giọng nói thân mật hơn, thanh thản và nhẹ nhàng hơn, một giọng nói đang thì thầm nói với bạn rằng bạn đang sống trên trái đất nhưng số phận của bạn là thiên đàng.
Bạn có nghĩ về thiên đàng không? Bạn có khao khát thiên đàng không? Bạn có muốn thiên đàng không? Hoặc thậm chí bạn không đặt câu hỏi vì bạn tránh suy nghĩ về cái chết đến mức bạn không còn có thể nghĩ về những gì diễn ra tiếp theo sau đó nữa? Bạn hãy nhớ lại phần mở đầu của cuộc đối thoại giữa Đức Bà rực rỡ hơn Mặt Trời và các mục đồng bé nhỏ, như Chị Lucia đã kể lại trong Hồi Ký của chị:
Đức Mẹ đã nói với chúng tôi:
• Các con đừng sợ. Mẹ sẽ không làm hại các con.
•Mẹ từ đâu đến?
• Mẹ đến từ thiên đàng.
• Lucia hỏi: Con cũng sẽ lên thiên đàng chứ?
• Đúng, con sẽ lên.
• Và Jaxinta?
• Cả em đó cũng sẽ lên.
• Còn Phanxicô?
• Em ấy cũng sẽ lên đó, nhưng em ấy phải đọc nhiều chuỗi Mân côi»
Sau đó tôi nhớ hỏi về hai cô gái đã chết gần đây. Họ là bạn của tôi và thường đến nhà tôi để học dệt với chị cả của tôi.
- Maria das Neves có được lên thiên đàng?
- Có, cô ấy đang trên thiên đàng.
Tôi nghĩ rằng cô ấy khoảng 16 tuổi.
- Còn Amélia?
- Cô ấy sẽ ở luyện ngục cho đến ngày tận thế. »
Jaxinta rất đam mê thiên đường. Tuy nhiên, quan điểm về thiên đàng của cô được hình thành chủ yếu bởi thị kiến về địa ngục, trong lần xuất hiện vào tháng 7, đã gây ấn tượng mạnh mẽ với cô. Thị kiến không nhằm gây ra sự sợ hãi cho các mục đồng nhỏ, nhưng để thúc đẩy trong họ một cam kết mạnh mẽ cho sự cứu rỗi linh hồn những người khác. Hãy nghe những gì Lucia kể:
Thị kiến về địa ngục khiến lòng cô chứa đầy nỗi kinh hoàng đến độ cô sẵn sàng chấp nhận mọi hình thức đền tội, ngay cả sự chết cũng không là gì trong mắt cô, miễn là điều đó có thể ngăn các linh hồn khỏi rơi vào hỏa ngục. Jaxinta thường ngồi trầm ngâm trên mặt đất hoặc trên một tảng đá và thốt lên:
- Ôi, Địa ngục thật kinh khiếp! Thật tiếc cho những linh hồn xuống địa ngục!
Sau đó, rùng mình, cô ấy quỳ xuống với hai bàn tay chắp lại và đọc lại lời cầu nguyện mà Đức Mẹ đã dạy chúng tôi:
- Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn. Amen”
Để trấn an cô, tôi nói:
- Đừng sợ! Em sẽ đang lên thiên đàng.
- Vâng, em sẽ lên thiên đàng, cô trả lời bình thản, “nhưng em muốn tất cả mọi người đều được đến đó”.
Địa ngục, là khả năng, là rủi ro mà tự do của chúng ta có thể đưa đến, thậm chí chắc chắn sẽ xảy ra đối với người đang sống tách biệt, xa cách với Thiên Chúa. Jaxinta đã làm mọi thứ có thể để không ai bị rơi vào đó, cô say mê muốn mọi người lên thiên đàng. Cô là người liên kết mật thiết hơn với Chúa trong ý định mở rộng sự cứu rỗi cho mọi người. Cô ấy đã sống lòng thương xót của Chúa Kitô đối với những người tội lỗi và giống như Ngài, cô ấy muốn hiến mạng sống của mình để cứu họ. Lucia kể lại rằng khi Jaxinta bị ốm:
Đôi lúc, cô hôn và ôm lấy cây thánh giá, kêu lên:
- Ôi Chúa Giêsu của con! Con yêu mến Chúa, và con muốn chịu đựng rất nhiều vì tình yêu Chúa.
Niềm đam mê của Jaxinta về sự cứu rỗi của người khác chắc chắn cũng bị ảnh hưởng bởi các liên hệ đến luyện ngục, trong đó đông đảo những người đang chờ đợi sự trưởng thành trong tình yêu, giữa bàn tay thương xót của Chúa và sự phục sinh cuối cùng.
Jaxinta đã hiến thân hoàn toàn cho mối quan hệ giữa cuộc sống của chúng ta trong thời gian này và cuộc sống mà chúng ta được triệu tập để vượt ra ngoài cái chết. Và trên thiên đàng, cô vẫn đang thực hiện cùng một sứ mệnh của lòng thương xót mà cô đã hoàn thành trên trái đất.
Phúc âm của Thánh Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu giải thích mầu nhiệm của Jaxinta
“Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6:39)
“Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: ‘Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.’ Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: ‘Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?’ Đức Vua sẽ đáp lại rằng: ‘Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: ‘Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.’”
Nếu bạn sẵn sàng thực sự chấp nhận mình là người hành hương vào tháng Năm này, bạn sẽ thấy tận đáy lòng mình niềm khao khát thiên đàng, được ngắm nhìn thánh nhan Thiên Chúa mãi mãi. Bạn sẽ nhìn nhận sự chắc chắn này: nhà Cha là chân trời cuối cùng của cuộc hành hương của bạn trên trần gian và bạn sẽ hiểu tỷ lệ hợp tình hợp lý và ý nghĩa của những điều trần thế. Và thậm chí cái chết cũng sẽ cho bạn thấy một khuôn mặt khác, tươi sáng và yên bình hơn.
+”Lạy Chúa, Chúa sống trong tận cùng trái tim con
và Chúa kêu gọi con mở tháng Năm đóng kín này, trở thành một người hành hương bằng trái tim và gặp Chúa ở đó.
Con lặng lẽ chiêm ngưỡng cuộc sống và cái chết của em Phanxicô, người đã vượt qua thế gian này lòng khao khát thiên đàng để được ngắm nhìn thánh nhan Chúa và an ủi trái tim Chúa.
Sự tự do và chính trực quên mình nhờ đó em sống trên trái đất này thực đẹp đẽ xiết bao!
Và đẹp đẽ xiết bao là sự thân mật trong đó em đã lớn lên cùng Chúa hướng tới sự sống vĩnh cửu!
Và đẹp đẽ xiết bao là sự bình an, tin tưởng, tình người hoàn toàn nhất trong đó em đã chết!
Xin Chúa lắng nghe tiếng nói ngạc nhiên và sám hối của con, thầm khao khát cõi vĩnh hằng.
Xin Chúa tha thứ cho con vì con đã lừa dối chính con khi đặt trái tim con vào những kho báu trần gian
vì con đã giải thích sai các ưu tiên của cuộc sống, như cuộc khủng hoảng hiện nay đang phơi bày:
Con phục tùng phù du, không nhận ra giá trị vĩnh cửu.
Xin Chúa đốt lên trong trái tim con, giống như trong trái tim Thánh Phanxicô Marto, niềm khao khát thiên đàng
và ý chí khắc ghi nó trên trái đất, như người Samaritanô nhân lành trong dụ ngôn.
Con là một người hành hương bằng trái tim, giống như Phanxicô, con đang khao khát được ngắm nhìn thánh nhan Chúa trên thiên đàng.
Con muốn đi hành hương bằng trái tim vào trái tim Mẹ Chúa, cũng là Mẹ con, Đức Mẹ Mân côi Fatima.
Trong trái tim Mẹ, Chúa sẽ chờ đợi trái tim con và tháng Năm này, cách xa Nhà nguyện nhỏ,
Con tự làm cho con thành một người hành hương bằng trái tim: Con sẽ theo trái tim của con và trong trái tim vô nhiễm Mẹ, con sẽ lắng nghe nhịp đập xót thương của trái tim Chúa. Amen.
Thế Giới Mới sau cơn đại dịch Covid-19, Viễn kiến của ĐHY Charles Bo, Chủ tịch Liên Hội Đồng Giám mục Á châu.
Thanh Quảng sdb
18:12 11/05/2020
Thế Giới Mới sau cơn đại dịch Covid-19, Viễn kiến của ĐHY Charles Bo, Chủ tịch Liên Hội Đồng Giám mục Á châu.
Yangon, Myanmar, ngày 9 tháng 5 năm 2020 – Đức Hồng Y Charles Bo cho cơn đại dịch Covid-19 tung hoành trên khắp thế giới, hiện tạo thành một cơn bão khủng! Nó sẽ làm thay đổi cách sống, đường lối làm việc và cách thức mừng lễ hội...
Những tác động đang xảy ra ở đất nước Myanmar, xem ra chậm hơn so với không thời gian của nhiều nơi... Quốc gia này tới quốc gia khác, những âm hưởng tác động cũng khác nhau tùy thuộc vào địa lý, vào biên giới, vào vai trò và vị trí của các vị lãnh đạo, những quyết định của chính phủ và tùy thuộc vào các hệ thống y tế công cộng của mỗi nơi. Đây là thời gian thử nghiệm cho tất cả.
Trong mọi trường hợp, những nơi mà người dân không được thừa hưởng những đặc quyền nào về mặt xã hội, ngay cả đến nước để rửa tay cũng chưa có đủ nói chi tới việc làm và các thu nhập hàng ngày, thì họ phải đối diện với đói khát, và ưu tiên hàng đầu là làm sao cứu đói.
Tôi tha thiết kêu mời tất cả hãy đáp lại tiếng mời gọi của các vị lãnh đạo tối cao của các tôn giáo dành ngày 14/5 tới này là một ngày liên đới trong chay tịnh nguyện cầu và làm việc lành bác ái…
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, ngay cả châu Á, chúng ta đang sống trong những cách ly hạn chế. Trường học và các hãng xưởng tạm đóng, siêu thị và hàng quán phải xếp hàng giãn cách để được phục vụ, các dịch vụ du lịch bị đình chỉ...
Ấy vậy mà bất hạnh thay các cuộc chiến vẫn tiếp diễn… Các tướng lãnh chỉ huy quân sự và kháng chiến quân vẫn tin rằng vũ khí của họ còn tàn bạo hơn cái con vi khuẩn covid-19 này! Họ tiếp tục đánh đấm nhau, gây nên nhiều rủi ro nguy hiểm cho thường dân và làm cho cơn đại dịch càng dễ lây lan trong dân chúng tại các quốc gia ấy...
Nhiều người tự hỏi khi nào thì những đảo lộn này mới kết thúc để chúng ta có thể trở lại bình thường? Câu trả lời cho câu hỏi “khi nào điều này sẽ kết thúc?” Câu trả lời: Có lẽ không bao giờ cả! Nó sẽ không kết thúc, theo nghĩa là mọi thứ sẽ không bao giờ trở lại như cũ được nữa… Theo nhãn quan ấy thì những gì chúng ta đang có bây giờ sẽ vẫn còn được nguyên vẹn như vậy….
Vùng Á Châu của chúng ta đã trải qua nhiều đột biến, chiến tranh và khủng hoảng, tưởng như không bao giờ dứt… thêm vào đó sóng thần, các trận bão tàn khốc vẫn thường ấp tới! Chúng ta ý thức rằng mỗi một lần biến động, khủng hoảng làm chúng ta phải thay đổi, các quốc gia liên đới đều bị ảnh hưởng! Nó khiến thế giới của chúng ta sống thay đổi một cách sâu sắc về mọi mặt: chính trị lẫn những quan hệ quốc nội và quốc tế...
Hiện nay cơn đại dịch đang gây thảm họa trên 200 quốc gia, chắc chắn đang làm thay đổi thế giới. Nó giống như một cuộc chiến toàn cầu. Đại dịch Covid-19 này không thể khống chế được trong vòng vài tháng, hậu quả của nó sẽ theo chúng ta trong nhiều thập kỷ. Nó sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta nhìn và hiểu về cộng đồng, nó sẽ thay đổi cách chúng ta kết nối với nhau, cách chúng ta đi du lịch, cách chúng ta xây dựng các mối quan hệ của mình. Nếu các chính phủ không đáp ứng lại những thách thức đó, họ sẽ đánh mất lòng tin của dân chúng!
Trong bất cứ một cuộc khủng hoảng nào, chúng ta đều thấy vai trò của người lãnh đạo vô cùng quan yếu! Các chuyên gia cho rằng bổn phận chính yếu của một vị lãnh đạo tuyệt hảo trong cơn khủng hoảng là: đưa ra được những định hướng dẫn dắt đại chúng. Một nhà lãnh đạo giỏi sẽ đề ra những quyết định minh bạch, đáp ứng được những gì đang xảy ra hầu tạo cho dân chúng sự tin tưởng an tâm... Một nhà lãnh đạo giỏi sẽ thuyết phục được nhân tâm dân chúng, dám nhận trách nhiệm trước quốc dân... Các nhà lãnh đạo giỏi sẽ bảo toàn được sự đoàn kết, tránh được những phân hóa chủng tộc hoặc chia rẽ. Một nhà lãnh đạo giỏi biết để ý chăm sóc đặc biệt cho các nhóm thiểu số mỏng dòn... Một nhà lãnh đạo giỏi biết nối kết cộng đồng và kích hoạt mọi thành phần chống lại những hoang mang lo lắng!
Mọi người công dân đều có quyền biết được sự thật: những nguyên cơ diễn tiến của một vấn đề... Các quốc gia phải chia sẻ những thông tin một cách trung thực. Kinh nghiệm về những thông tin về cơn đại dịch này là một điển hình, nó làm mất niềm tin của thế giới... Trước cuộc khủng hoảng đại nạn như thế này, các nhà lãnh đạo thực sự phải lợi dụng mọi cơ hội của họ để xây dựng niềm tin cho đại chúng.
Xây dựng quốc gia không chỉ đơn giản là điều hành và ban hành các quyết định cho thủ đô và các thị thành của đất nước. Xây dựng quốc gia phải khởi đi từ việc lắng nghe và đồng hành với mọi người trên mọi lãnh vực của xã hội. Nó liên quan đến việc xây dựng toàn diện người về mọi mặt... Thế giới này luôn ắp đầy các vấn đề nghiêm trọng ngay cả trước khi vi khuẩn coronavirus được phát tán! Chẳng hạn như: Bất bình đẳng lan tràn trong và giữa nhiều quốc gia. Giầu nghèo chênh lệch và những người nghèo đang phải gánh chịu những bất công một cách không tương xứng, những khu ổ chuột, và những nhân công không có công ăn việc làm... Những người bị đẩy ra vòng ngoại vi xã hội! v.v…
Bây giờ chúng ta đang phải đối diện với một sự thay đổi thời đại, đó là sự sợ hãi, bài ngoại và phân biệt chủng tộc đang sống lại trong nhiều nhóm và nhiều phần đất khác nhau trên thế giới... Thuốc độc đưa tới chủ nghĩa duy dân tộc nằm ngay trong các tổ chức dân sự và thái độ hưởng thụ cá nhân.
Nhiều quyết định và thông lệ được thông qua trong thời kỳ khủng hoảng đại dịch sẽ trở thành vĩnh viễn. Điều đó một số chính phủ đã lợi dụng dịch bệnh để đưa các ưu tiên của họ vào và áp dụng chúng vào cuộc sống xã hội của đất nước họ quản trị! Cách thức bạn xử sự bây giờ, những gì bạn đang phải thực hành lúc này sẽ lưu lại với bạn mãi trong cuộc sống. Chắc chắc chúng sẽ ảnh hưởng tới cách sống của bạn trong gia đình, cách bạn đối xử hoặc xa gần với hàng xóm, cách bạn vui chơi và nghỉ ngơi… Những điều ấy cũng ảnh hưởng trên cách chúng ta nhìn đời và nhìn thế giới của chúng ta. Những cuộc trao đổi kinh doanh sẽ khác đi không bình thường như quá khứ... Cuộc sống của chúng ta sẽ không tiếp tục như những điều ấy chưa từng xảy ra bao giờ! Vấn đề thiết yếu cần đặt ra bây giờ là chúng ta muốn thế giới chúng ta ra sao khi cơn bão đại dịch này qua đi?
Sự thiếu vắng các kết nối xã hội làm cho chúng ta càng lãng quên đi những gắn bó với nhau! Tại sao chúng ta lại bị phân chia ra nhiều nhóm khác biệt trên thế giới? Tại sao có những xung đột của các nhóm thiểu số khác nhau tại Myanmar trong nhiều thập niên qua? Tại sao các sắc tộc tại Phi và nhiều nơi trong Á châu tranh chấp với nhau? Tại sao những cuộc chiến ở châu Á chúng ta có kéo dài triền miên lâu nhất trên thế giới như vậy?
Nhìn vào lịch sử của chúng ta cho đến bây giờ, chúng ta tự hỏi tại sao các nhóm thiểu không thể cùng chung sống để tạo thành sức mạnh? Tại sao hàng triệu người phải di cư ra nước ngoài, chỉ để có thể tự tồn tại sống còn? Để bây giờ, ở nước ngoài đó họ lại bị mất việc! và hàng ngàn ngàn người lại bị tống khứ về lại quê hương cũ của họ, về lại những thôn làng mà họ đã tuyệt vọng bỏ ra đi...
Làm sao chúng ta có thể tiến tới? Chúng ta có thể xây dựng một nền kinh tế hữu ích chung cho tất cả? Một nền kinh tế đặt con người lên hàng đầu? Chúng ta có thể có xây dựng một tình đoàn kết bền bỉ lâu dài không? Một thế giới vì lợi ích chung, đặt trên sự tôn trọng tự do nhân phẩm con người?
Chúng ta hãy cùng tiến bước vào ngôi nhà chung mà vui sống. Chúng ta đi vào bên trong, nhưng chúng ta cũng nhìn ra chung quanh. Đây là thời gian cần tới sự kiên nhẫn, cần nhiều tài năng, nghị lực và cần đến tâm trí thông suốt... Kiên nhẫn học được học trong cuộc sống bền bỉ. Đây là thời gian để tổ chức nếp sống chúng ta một cách khôn ngoan và sung mãn; một thời gian vận dụng sức tưởng tượng và trí thông minh của chúng ta để khám phá ra những phương cách mới, hầu chuẩn bị cho một thế giới mới. Đã đến lúc chúng ta ý thức và nhận chân ra các giá trị chúng ta cần phải phụ thuộc vào nhau và học hỏi nhau để cùng nhau làm việc và hợp tác, chia sẻ trách nhiệm và đánh giá cao tình đoàn kết. Trên hết, đây là thời gian để gạt bỏ hận thù và vũ khí sang một bên và cùng đối phương chung tay xây dựng một cộng đoàn nhân loại.
Không có gì đang triệt hại và gây ảnh hưởng đến toàn thế giới như cơn đại dịch Covid-19 hiện nay! Nhưng đừng vì thế mà buông xuôi, không làm gì hết! Đại dịch chính là thời gian giúp chúng ta nhìn vào nội tâm bên trong, nhưng nó cũng là thời gian giúp ta nhận thức về người khác, để khích lệ nhau, đoàn kết với nhau để nâng đỡ những người cô thế cô thân, dễ bị tổn thương. Đây là thời gian để cầu nguyện và suy tư về những gì đang xảy ra cho thế giới của chúng ta. Mong chờ một ngày tươi mát trở lại. Chờ đợi sự kết thúc của cơn đại dịch! Ước mong thời gian này qua đi một cách sáng tạo…
Trong các cuộc khảo sát toàn cầu, người dân Myanmar được liệt vào số những người dân quảng đại nhất của thế giới. Không phải vì họ cho đi nhiều cho bằng vì nhiều người Myanmar sẵn sàng chia sẻ cho người khác. Điều này hiển nhiên được nhận thấy trong các cuộc khủng hoảng hiện tại... Ngay cả khi chúng tôi bị vùi dập, lòng quảng đại sẻ chia của mọi người vẫn được biểu hiện. Những nhân viên y tế cứu trợ quốc tế đã bị trục xuất, nhưng các tổ chức phi chính phủ bản địa đã tình nguyện, sẵn sàng tự chia sẻ các nhu cầu cơ bản cho những người đang gặp hoạn nạn...
Trên khắp các miền Á châu, nhiều người đang bị thiệt hại về thể chất, về tình cảm, tài chính lẫn tinh thần... Với phản ánh của từng quốc gia trước cơn đại dịch, các cấp lãnh đạo Giáo hội, chẳng hạn như ở Myanmar đã đi tiên phong trong các công cuộc bác ái từ thiện… Chúng tôi tiếp tế, hỗ trợ những người không có của ăn áo mặc!... Đây là lúc thể hiện tình bác ái, lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa.
Trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào, một cám dỗ tự nhiên xảy đến cho mọi người là tự thủ, lo cho mình là đủ! Như Amartya Sen và nhiều vĩ nhân đã nói, “trong một xã hội nhiễu nhương, mới tìm ra được những người tốt lành!”
Ông Arundhati Roy cho hay: Covid-19 là một cổng thông tin trực tuyến, một cánh cửa, đây là một khoảnh khắc tan vỡ giữa thời đại cũ và mới, giữa một thế giới với một số ít được nhiều đặc quyền và nhiều người bị lãng quên, giữa một thế giới thay đổi nơi phẩm giá con người phải được công nhận. Bạn đã chuẩn bị để bước vào thế giới đó chưa!
+ Hồng Y Charles Maung Bo SDB
Chủ tịch Liên Hội đồng các Giám mục Á châu
Yangon, Myanmar, ngày 9 tháng 5 năm 2020 – Đức Hồng Y Charles Bo cho cơn đại dịch Covid-19 tung hoành trên khắp thế giới, hiện tạo thành một cơn bão khủng! Nó sẽ làm thay đổi cách sống, đường lối làm việc và cách thức mừng lễ hội...
Những tác động đang xảy ra ở đất nước Myanmar, xem ra chậm hơn so với không thời gian của nhiều nơi... Quốc gia này tới quốc gia khác, những âm hưởng tác động cũng khác nhau tùy thuộc vào địa lý, vào biên giới, vào vai trò và vị trí của các vị lãnh đạo, những quyết định của chính phủ và tùy thuộc vào các hệ thống y tế công cộng của mỗi nơi. Đây là thời gian thử nghiệm cho tất cả.
Trong mọi trường hợp, những nơi mà người dân không được thừa hưởng những đặc quyền nào về mặt xã hội, ngay cả đến nước để rửa tay cũng chưa có đủ nói chi tới việc làm và các thu nhập hàng ngày, thì họ phải đối diện với đói khát, và ưu tiên hàng đầu là làm sao cứu đói.
Tôi tha thiết kêu mời tất cả hãy đáp lại tiếng mời gọi của các vị lãnh đạo tối cao của các tôn giáo dành ngày 14/5 tới này là một ngày liên đới trong chay tịnh nguyện cầu và làm việc lành bác ái…
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, ngay cả châu Á, chúng ta đang sống trong những cách ly hạn chế. Trường học và các hãng xưởng tạm đóng, siêu thị và hàng quán phải xếp hàng giãn cách để được phục vụ, các dịch vụ du lịch bị đình chỉ...
Ấy vậy mà bất hạnh thay các cuộc chiến vẫn tiếp diễn… Các tướng lãnh chỉ huy quân sự và kháng chiến quân vẫn tin rằng vũ khí của họ còn tàn bạo hơn cái con vi khuẩn covid-19 này! Họ tiếp tục đánh đấm nhau, gây nên nhiều rủi ro nguy hiểm cho thường dân và làm cho cơn đại dịch càng dễ lây lan trong dân chúng tại các quốc gia ấy...
Nhiều người tự hỏi khi nào thì những đảo lộn này mới kết thúc để chúng ta có thể trở lại bình thường? Câu trả lời cho câu hỏi “khi nào điều này sẽ kết thúc?” Câu trả lời: Có lẽ không bao giờ cả! Nó sẽ không kết thúc, theo nghĩa là mọi thứ sẽ không bao giờ trở lại như cũ được nữa… Theo nhãn quan ấy thì những gì chúng ta đang có bây giờ sẽ vẫn còn được nguyên vẹn như vậy….
Vùng Á Châu của chúng ta đã trải qua nhiều đột biến, chiến tranh và khủng hoảng, tưởng như không bao giờ dứt… thêm vào đó sóng thần, các trận bão tàn khốc vẫn thường ấp tới! Chúng ta ý thức rằng mỗi một lần biến động, khủng hoảng làm chúng ta phải thay đổi, các quốc gia liên đới đều bị ảnh hưởng! Nó khiến thế giới của chúng ta sống thay đổi một cách sâu sắc về mọi mặt: chính trị lẫn những quan hệ quốc nội và quốc tế...
Hiện nay cơn đại dịch đang gây thảm họa trên 200 quốc gia, chắc chắn đang làm thay đổi thế giới. Nó giống như một cuộc chiến toàn cầu. Đại dịch Covid-19 này không thể khống chế được trong vòng vài tháng, hậu quả của nó sẽ theo chúng ta trong nhiều thập kỷ. Nó sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta nhìn và hiểu về cộng đồng, nó sẽ thay đổi cách chúng ta kết nối với nhau, cách chúng ta đi du lịch, cách chúng ta xây dựng các mối quan hệ của mình. Nếu các chính phủ không đáp ứng lại những thách thức đó, họ sẽ đánh mất lòng tin của dân chúng!
Trong bất cứ một cuộc khủng hoảng nào, chúng ta đều thấy vai trò của người lãnh đạo vô cùng quan yếu! Các chuyên gia cho rằng bổn phận chính yếu của một vị lãnh đạo tuyệt hảo trong cơn khủng hoảng là: đưa ra được những định hướng dẫn dắt đại chúng. Một nhà lãnh đạo giỏi sẽ đề ra những quyết định minh bạch, đáp ứng được những gì đang xảy ra hầu tạo cho dân chúng sự tin tưởng an tâm... Một nhà lãnh đạo giỏi sẽ thuyết phục được nhân tâm dân chúng, dám nhận trách nhiệm trước quốc dân... Các nhà lãnh đạo giỏi sẽ bảo toàn được sự đoàn kết, tránh được những phân hóa chủng tộc hoặc chia rẽ. Một nhà lãnh đạo giỏi biết để ý chăm sóc đặc biệt cho các nhóm thiểu số mỏng dòn... Một nhà lãnh đạo giỏi biết nối kết cộng đồng và kích hoạt mọi thành phần chống lại những hoang mang lo lắng!
Mọi người công dân đều có quyền biết được sự thật: những nguyên cơ diễn tiến của một vấn đề... Các quốc gia phải chia sẻ những thông tin một cách trung thực. Kinh nghiệm về những thông tin về cơn đại dịch này là một điển hình, nó làm mất niềm tin của thế giới... Trước cuộc khủng hoảng đại nạn như thế này, các nhà lãnh đạo thực sự phải lợi dụng mọi cơ hội của họ để xây dựng niềm tin cho đại chúng.
Xây dựng quốc gia không chỉ đơn giản là điều hành và ban hành các quyết định cho thủ đô và các thị thành của đất nước. Xây dựng quốc gia phải khởi đi từ việc lắng nghe và đồng hành với mọi người trên mọi lãnh vực của xã hội. Nó liên quan đến việc xây dựng toàn diện người về mọi mặt... Thế giới này luôn ắp đầy các vấn đề nghiêm trọng ngay cả trước khi vi khuẩn coronavirus được phát tán! Chẳng hạn như: Bất bình đẳng lan tràn trong và giữa nhiều quốc gia. Giầu nghèo chênh lệch và những người nghèo đang phải gánh chịu những bất công một cách không tương xứng, những khu ổ chuột, và những nhân công không có công ăn việc làm... Những người bị đẩy ra vòng ngoại vi xã hội! v.v…
Bây giờ chúng ta đang phải đối diện với một sự thay đổi thời đại, đó là sự sợ hãi, bài ngoại và phân biệt chủng tộc đang sống lại trong nhiều nhóm và nhiều phần đất khác nhau trên thế giới... Thuốc độc đưa tới chủ nghĩa duy dân tộc nằm ngay trong các tổ chức dân sự và thái độ hưởng thụ cá nhân.
Nhiều quyết định và thông lệ được thông qua trong thời kỳ khủng hoảng đại dịch sẽ trở thành vĩnh viễn. Điều đó một số chính phủ đã lợi dụng dịch bệnh để đưa các ưu tiên của họ vào và áp dụng chúng vào cuộc sống xã hội của đất nước họ quản trị! Cách thức bạn xử sự bây giờ, những gì bạn đang phải thực hành lúc này sẽ lưu lại với bạn mãi trong cuộc sống. Chắc chắc chúng sẽ ảnh hưởng tới cách sống của bạn trong gia đình, cách bạn đối xử hoặc xa gần với hàng xóm, cách bạn vui chơi và nghỉ ngơi… Những điều ấy cũng ảnh hưởng trên cách chúng ta nhìn đời và nhìn thế giới của chúng ta. Những cuộc trao đổi kinh doanh sẽ khác đi không bình thường như quá khứ... Cuộc sống của chúng ta sẽ không tiếp tục như những điều ấy chưa từng xảy ra bao giờ! Vấn đề thiết yếu cần đặt ra bây giờ là chúng ta muốn thế giới chúng ta ra sao khi cơn bão đại dịch này qua đi?
Sự thiếu vắng các kết nối xã hội làm cho chúng ta càng lãng quên đi những gắn bó với nhau! Tại sao chúng ta lại bị phân chia ra nhiều nhóm khác biệt trên thế giới? Tại sao có những xung đột của các nhóm thiểu số khác nhau tại Myanmar trong nhiều thập niên qua? Tại sao các sắc tộc tại Phi và nhiều nơi trong Á châu tranh chấp với nhau? Tại sao những cuộc chiến ở châu Á chúng ta có kéo dài triền miên lâu nhất trên thế giới như vậy?
Nhìn vào lịch sử của chúng ta cho đến bây giờ, chúng ta tự hỏi tại sao các nhóm thiểu không thể cùng chung sống để tạo thành sức mạnh? Tại sao hàng triệu người phải di cư ra nước ngoài, chỉ để có thể tự tồn tại sống còn? Để bây giờ, ở nước ngoài đó họ lại bị mất việc! và hàng ngàn ngàn người lại bị tống khứ về lại quê hương cũ của họ, về lại những thôn làng mà họ đã tuyệt vọng bỏ ra đi...
Làm sao chúng ta có thể tiến tới? Chúng ta có thể xây dựng một nền kinh tế hữu ích chung cho tất cả? Một nền kinh tế đặt con người lên hàng đầu? Chúng ta có thể có xây dựng một tình đoàn kết bền bỉ lâu dài không? Một thế giới vì lợi ích chung, đặt trên sự tôn trọng tự do nhân phẩm con người?
Chúng ta hãy cùng tiến bước vào ngôi nhà chung mà vui sống. Chúng ta đi vào bên trong, nhưng chúng ta cũng nhìn ra chung quanh. Đây là thời gian cần tới sự kiên nhẫn, cần nhiều tài năng, nghị lực và cần đến tâm trí thông suốt... Kiên nhẫn học được học trong cuộc sống bền bỉ. Đây là thời gian để tổ chức nếp sống chúng ta một cách khôn ngoan và sung mãn; một thời gian vận dụng sức tưởng tượng và trí thông minh của chúng ta để khám phá ra những phương cách mới, hầu chuẩn bị cho một thế giới mới. Đã đến lúc chúng ta ý thức và nhận chân ra các giá trị chúng ta cần phải phụ thuộc vào nhau và học hỏi nhau để cùng nhau làm việc và hợp tác, chia sẻ trách nhiệm và đánh giá cao tình đoàn kết. Trên hết, đây là thời gian để gạt bỏ hận thù và vũ khí sang một bên và cùng đối phương chung tay xây dựng một cộng đoàn nhân loại.
Không có gì đang triệt hại và gây ảnh hưởng đến toàn thế giới như cơn đại dịch Covid-19 hiện nay! Nhưng đừng vì thế mà buông xuôi, không làm gì hết! Đại dịch chính là thời gian giúp chúng ta nhìn vào nội tâm bên trong, nhưng nó cũng là thời gian giúp ta nhận thức về người khác, để khích lệ nhau, đoàn kết với nhau để nâng đỡ những người cô thế cô thân, dễ bị tổn thương. Đây là thời gian để cầu nguyện và suy tư về những gì đang xảy ra cho thế giới của chúng ta. Mong chờ một ngày tươi mát trở lại. Chờ đợi sự kết thúc của cơn đại dịch! Ước mong thời gian này qua đi một cách sáng tạo…
Trong các cuộc khảo sát toàn cầu, người dân Myanmar được liệt vào số những người dân quảng đại nhất của thế giới. Không phải vì họ cho đi nhiều cho bằng vì nhiều người Myanmar sẵn sàng chia sẻ cho người khác. Điều này hiển nhiên được nhận thấy trong các cuộc khủng hoảng hiện tại... Ngay cả khi chúng tôi bị vùi dập, lòng quảng đại sẻ chia của mọi người vẫn được biểu hiện. Những nhân viên y tế cứu trợ quốc tế đã bị trục xuất, nhưng các tổ chức phi chính phủ bản địa đã tình nguyện, sẵn sàng tự chia sẻ các nhu cầu cơ bản cho những người đang gặp hoạn nạn...
Trên khắp các miền Á châu, nhiều người đang bị thiệt hại về thể chất, về tình cảm, tài chính lẫn tinh thần... Với phản ánh của từng quốc gia trước cơn đại dịch, các cấp lãnh đạo Giáo hội, chẳng hạn như ở Myanmar đã đi tiên phong trong các công cuộc bác ái từ thiện… Chúng tôi tiếp tế, hỗ trợ những người không có của ăn áo mặc!... Đây là lúc thể hiện tình bác ái, lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa.
Trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào, một cám dỗ tự nhiên xảy đến cho mọi người là tự thủ, lo cho mình là đủ! Như Amartya Sen và nhiều vĩ nhân đã nói, “trong một xã hội nhiễu nhương, mới tìm ra được những người tốt lành!”
Ông Arundhati Roy cho hay: Covid-19 là một cổng thông tin trực tuyến, một cánh cửa, đây là một khoảnh khắc tan vỡ giữa thời đại cũ và mới, giữa một thế giới với một số ít được nhiều đặc quyền và nhiều người bị lãng quên, giữa một thế giới thay đổi nơi phẩm giá con người phải được công nhận. Bạn đã chuẩn bị để bước vào thế giới đó chưa!
+ Hồng Y Charles Maung Bo SDB
Chủ tịch Liên Hội đồng các Giám mục Á châu
Các Giám mục Phi tố cáo chính phủ đóng cửa Trung tâm Truyền thông Tư nhân lớn nhất của Phi
Thanh Quảng sdb
19:31 11/05/2020
Các Giám mục Phi tố cáo chính phủ đóng cửa Trung tâm Truyền thông Tư nhân lớn nhất của Phi
(Tin Vatican)
Trong một tuyên cáo được đưa ra vào thứ Tư tuần qua, Đức Tổng Giám Mục Socrates Villegas cảnh báo rằng nếu quyền tự do ngôn luận và bất đồng chính kiến bị kiềm tỏa, thì chính phủ độc tài sẽ tự thao tự tác!...
Đáp lại quyết định của chính phủ về việc đóng cửa Trung tâm truyền thông truyền hình ABS-CBN lớn nhất trong nước, Tổng Giám mục Lingayen-Dagupan và cựu chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Phi cho rằng ngoài vấn đề pháp lý, nó còn liên quan tới nhiều vấn đề đạo đức và tâm linh.
Hôm thứ ba, chính phủ Phi tuyên bố sẽ không gia hạn giấy phép 25 năm hoạt động cho hai hãng truyền hình và truyền thanh ABS-CBN.
Hai Công ty này được thành lập vào năm 1946, Hai công ty đã cung cấp cho đất nước nhiều kênh truyền hình và đài phát thanh khác nhau trong suốt 70 năm qua. Hai công ty cũng có tới 11.000 nhân viên làm việc cho các lãnh vực của công ty.
Chính phủ coi thường
Tổng thống Antonio Duterte đã nhiều lần bày tỏ thái độ coi thường đối với các mạng lưới truyền thông kể từ khi lên làm tổng thống vào năm 2016. Ông tuyên bố rằng ABS-CBN đã từ chối quảng cáo lập trường chính trị cho ông trong mùa chiến dịch vận động tranh cử. Ông cũng nhiều lần đe dọa sẽ đóng cửa Trung tâm vì đã phê bình các việc làm của chính phủ trước cuộc chinh phạt xì ke ma túy của chính phủ, đã dẫn tới việc bắn giết không nương tay của cảnh sát, cướp đi hàng ngàn sinh mạng.
Trong một bài phát biểu tại Hạ viện hôm thứ ba vừa qua, Nghị viên Arlene Brosas, một thành viên Quốc hội đã tố cáo hành động này là một "sự kìm kẹp trơ trẽn về tự do báo chí".
Đức Giám Mục Villegas nhắc lại mối quan tâm này, cho rằng chính phủ nên lắng nghe những lời phê bình và quan điểm đối lập để cải thiện việc điều hành đất nước…
Ngày truyền thông thế giới
Quyết định này được đưa ra vào đúng ngày Giáo hội chuẩn bị mừng Ngày Truyền thông Thế giới vào Chúa Nhật, 24/5 tới đây. Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành chủ đề cho lễ kỷ niệm năm nay vào tháng giêng: “Hãy truyền đạt lại cho con cháu lịch sử". Cuộc sống là lịch sử. Trong thông điệp đó, Đức Thánh Cha bày tỏ tầm quan trọng của việc tìm kiếm và khám phá ra những gì tốt đẹp trong mọi cảnh sống. Đức Thánh Cha cũng mời gọi tất cả những người làm việc trong lĩnh vực truyền thông đừng loan tin sai lạc làm thiệt hại cho người khác.
Về vấn đề này, Đức cha Villegas cũng kêu gọi ABS-CBN sử dụng thời điểm này để kiểm tra nghiêm túc về bản thân và nhiệm vụ của họ trong xã hội. Hãy luôn thận trọng khôn ngoan và thiện chí trong nhiệm vụ.
Và Đức cha kết luận: “Đừng sợ chỉ trích, hãy làm gì có ích cho mọi người và luôn tôn trọng sự thật!”
(Tin Vatican)
Trong một tuyên cáo được đưa ra vào thứ Tư tuần qua, Đức Tổng Giám Mục Socrates Villegas cảnh báo rằng nếu quyền tự do ngôn luận và bất đồng chính kiến bị kiềm tỏa, thì chính phủ độc tài sẽ tự thao tự tác!...
Đáp lại quyết định của chính phủ về việc đóng cửa Trung tâm truyền thông truyền hình ABS-CBN lớn nhất trong nước, Tổng Giám mục Lingayen-Dagupan và cựu chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Phi cho rằng ngoài vấn đề pháp lý, nó còn liên quan tới nhiều vấn đề đạo đức và tâm linh.
Hôm thứ ba, chính phủ Phi tuyên bố sẽ không gia hạn giấy phép 25 năm hoạt động cho hai hãng truyền hình và truyền thanh ABS-CBN.
Hai Công ty này được thành lập vào năm 1946, Hai công ty đã cung cấp cho đất nước nhiều kênh truyền hình và đài phát thanh khác nhau trong suốt 70 năm qua. Hai công ty cũng có tới 11.000 nhân viên làm việc cho các lãnh vực của công ty.
Chính phủ coi thường
Tổng thống Antonio Duterte đã nhiều lần bày tỏ thái độ coi thường đối với các mạng lưới truyền thông kể từ khi lên làm tổng thống vào năm 2016. Ông tuyên bố rằng ABS-CBN đã từ chối quảng cáo lập trường chính trị cho ông trong mùa chiến dịch vận động tranh cử. Ông cũng nhiều lần đe dọa sẽ đóng cửa Trung tâm vì đã phê bình các việc làm của chính phủ trước cuộc chinh phạt xì ke ma túy của chính phủ, đã dẫn tới việc bắn giết không nương tay của cảnh sát, cướp đi hàng ngàn sinh mạng.
Trong một bài phát biểu tại Hạ viện hôm thứ ba vừa qua, Nghị viên Arlene Brosas, một thành viên Quốc hội đã tố cáo hành động này là một "sự kìm kẹp trơ trẽn về tự do báo chí".
Đức Giám Mục Villegas nhắc lại mối quan tâm này, cho rằng chính phủ nên lắng nghe những lời phê bình và quan điểm đối lập để cải thiện việc điều hành đất nước…
Ngày truyền thông thế giới
Quyết định này được đưa ra vào đúng ngày Giáo hội chuẩn bị mừng Ngày Truyền thông Thế giới vào Chúa Nhật, 24/5 tới đây. Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành chủ đề cho lễ kỷ niệm năm nay vào tháng giêng: “Hãy truyền đạt lại cho con cháu lịch sử". Cuộc sống là lịch sử. Trong thông điệp đó, Đức Thánh Cha bày tỏ tầm quan trọng của việc tìm kiếm và khám phá ra những gì tốt đẹp trong mọi cảnh sống. Đức Thánh Cha cũng mời gọi tất cả những người làm việc trong lĩnh vực truyền thông đừng loan tin sai lạc làm thiệt hại cho người khác.
Về vấn đề này, Đức cha Villegas cũng kêu gọi ABS-CBN sử dụng thời điểm này để kiểm tra nghiêm túc về bản thân và nhiệm vụ của họ trong xã hội. Hãy luôn thận trọng khôn ngoan và thiện chí trong nhiệm vụ.
Và Đức cha kết luận: “Đừng sợ chỉ trích, hãy làm gì có ích cho mọi người và luôn tôn trọng sự thật!”
Tin Giáo Hội Việt Nam
Mừng 350 năm Dòng Mến Thánh Giá: Cuộc đời Đức Cha Pierre Lambert de la Motte
Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo MTG
12:17 11/05/2020
THÀNH LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
CUỘC ĐỜI ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT DE LA MOTTE
Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá thực hiện
Dòng Mến Thánh Giá là Dòng nữ đầu tiên mang bản sắc Á Đông, do Đức Cha Pierre Lambert de la Motte thành lập tại Đàng Ngoài năm 1670, tại Đàng Trong năm 1671, và tại Thái Lan năm 1672. Ngược dòng lịch sử của Giáo Hội Việt Nam từ những thời kỳ đầu, chúng ta có thể thấy rằng, Dòng Mến Thánh Giá được khai sinh và lớn lên cùng song hành với Giáo Hội. Khởi đi từ “một số phụ nữ đạo đức ở Đàng Ngoài, từ lâu đã tự nguyện khấn giữ đức khiết tịnh. [...] Chúa Quan Phòng đã dùng để đặt nền tảng cho đời sống tu trì tại Đàng Ngoài, và thành lập nên một Tu Hội đặc biệt, mang danh hiệu Dòng Nữ Mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”[1].
Mở đầu trang sử và là mốc điểm đánh dấu cho sự thành lập Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam là sự kiện hai nữ tu đầu tiên được tuyên khấn công khai vào ngày 19/02/1670 tại Phố Hiến, Đàng Ngoài, trước sự hiện diện của Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, vị Đại Diện Tông Tòa tiên khởi miền truyền giáo Đàng Trong, Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá. Từ thời điểm lịch sử ấy cho đến hôm nay, Dòng Mến Thánh Giá đã tròn 350 năm.
350 năm hiện diện và tồn tại trên quê hương đất Việt là một hành trình đầy thách đố của niềm tin, của hy sinh và dâng hiến, để người nữ tu Mến Thánh Giá có thể minh chứng tình yêu phi thường dành cho Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh.
350 năm đồng hành với Giáo Hội Việt Nam dưới bóng Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô. Dòng Mến Thánh Giá thật sự là quà tặng của Thiên Chúa ban cho Giáo Hội Việt Nam và là một trong ba nhân tố chính của Giáo Hội, bên cạnh Hàng Giáo Sĩ và Hội Thầy Giảng. Trong bài giảng Thánh Lễ Khai mạc Năm Thánh mừng 350 năm thành lập Dòng Mến Thánh Giá, Đức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, sau khi trưng dẫn sự phát triển của Dòng cùng những hoạt động tông đồ hữu hiệu của nữ tu Mến Thánh Giá trên toàn quốc, đã nhìn nhận: “Dòng Mến Thánh Giá quả là kiệt tác của Chúa Quan Phòng để các nữ tu hoạt động và đáp ứng thiết thực cho những nhu cầu mục vụ của thời đại. Đời sống chứng tá của các nữ tu để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lòng Giáo Hội Việt Nam và trong lòng từng người con của Đất Việt. [...] Không những thế, chị em Dòng Mến Thánh Giá còn có mặt trong mọi ngõ ngách, mọi môi trường, tận tụy phục vụ trong mọi lãnh vực [...].Thật vậy, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử và thời thế, chị em Mến Thánh Giá đã đồng hành với Hàng Giáo phẩm, đã cùng với mọi thành phần Dân Chúa xây dựng Nước Chúa và Giáo Hội khắp nơi, vượt qua bao cuồng phong bão táp, có khi phải trả bằng giá máu, các chị vẫn kiên trì bước theo ánh sáng soi đường của Chúa Thánh Linh, qua Đấng Sáng Lập và đặc sủng của Dòng. Không thể có một dòng lịch sử uy hùng như thế nếu không có sự hỗ trợ của Chúa!”[2]
Hôm nay nhìn lại Lịch Sử Dòng Mến Thánh Giá, chị em hân hoan trong niềm vui trọng đại mừng kỷ niệm 350 năm thành lập Dòng. Dù khiêm tốn đến mấy chị em cũng không thể che giấu được niềm tự hào về những bước chân sáng ngời của các thế hệ tiền nhân. Đây là cơ hội giúp người nữ tu Mến Thánh Giá canh tân chính mình và truyền bá gia sản tinh thần quý giá của Đức Cha Lambert đã để lại. Và đây cũng là dịp thuận lợi để chị em cất cao lời cảm tạ, ngợi khen Thiên Chúa Ba Ngôi đã thương quy tụ chị em dưới bóng Thánh Giá của Đấng Chịu-Đóng-Đinh; cùng tri ân Đấng Sáng Lập, biết ơn các Đấng Bản Quyền và ghi ơn các vị tiền bối, các ân nhân đã quảng đại nâng đỡ, vun trồng cho cây đại thụ Mến Thánh Giá ngày càng vững mạnh, nhằm phục vụ tốt và hữu hiệu hơn nữa trên cánh đồng truyền giáo của Mẹ Giáo Hội.
Để tìm hiểu Dòng Mến Thánh Giá, trước tiên chúng ta phải biết về Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, Vị Đại Diện Tông Tòa Tiên Khởi Đàng Trong, Giám Quản Tông Tòa Đàng Ngoài và là Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá. Qua cuộc đời với những kinh nghiệm thiêng liêng sâu sắc và sống hết mình vì sứ mạng của Đức Cha Lambert, chúng ta khám phá ra đặc sủng, linh đạo Mến Thánh Giá mà Đấng Sáng Lập đã sống và chuyển trao cho con cái của ngài.
CUỘC ĐỜI ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT DE LA MOTTE
Đức Cha Pierre Lambert de la Motte sinh ra và lớn lên trong thế kỷ XVII, thế kỷ mà một số sử gia gọi là “vĩ đại” hay còn được gọi là thế kỷ của tâm linh.[3] Thật vậy, nước Pháp thời kỳ này đã sản sinh nhiều vĩ nhân trong phạm vi văn học và triết học, đặc biệt, đã cống hiến cho Giáo Hội 27 vị Chân Phước và Hiển Thánh. Đức Cha Pierre Lambert là người con của Giáo Hội Pháp, chắc hẳn ngài đã đón nhận nhiều và cũng góp phần trong gia sản vĩ đại và thánh thiện ấy.
I. GIAI ĐOẠN TẠI PHÁP (1624-1660)
1. Gia đình
Pierre Lambert de la Motte chào đời ngày 28/01/1624 tại Lisieux, trong một gia đình quý tộc giàu sang[4], thuộc giới tư pháp, đã định cư lâu đời tại vùng Normandie, phía Tây Bắc nước Pháp. Song thân là ông Pierre Lambert de la Motte, từng là Tử Tước thành phố Évreux, và bà Catherine Heudey de Pommainville[5], ái nữ của một vị Cố Vấn Tòa Án ở Rouen. Tuy nhiên, Pierre Lambert sớm chịu cảnh tử biệt: cậu mất đi ba người em khi chưa được chín tuổi, mồ côi cha lúc hơn 11 tuổi, chịu tang bà nội khi 14 tuổi, và mồ côi mẹ vào tuổi 16[6]. Những biến cố đau thương này đã ảnh hưởng không nhỏ trong việc hình thành nên một cậu thanh niên trầm lắng, nhạy bén, và đặc biệt, trên những cảm nghiệm thiêng liêng sâu sắc sớm được hé mở và vun đắp trong tâm hồn cậu.
2. Giáo dục
Pierre Lambert được hưởng nền giáo dục chu đáo của một đứa trẻ thuộc giới quý tộc, dưới sự hướng dẫn tỉ mỉ của người cha và sự dạy dỗ của giáo sĩ Zacharie de Lisieux[7]. Ngoài những môn học tự nhiên, cậu còn được học giáo lý để chuẩn bị Rước Lễ lần đầu.
Khoảng năm 1634, Pierre Lambert theo học trung học tại Trường Collège du Mont ở thành phố Caen, do các tu sĩ Dòng Tên điều hành. Phương pháp giáo dục của Dòng Tên nhấn mạnh tầm quan trọng của ý chí và hành động sáng suốt trong ý thức trách nhiệm, đã góp phần cho Pierre Lambert hình thành một nhân cách mạnh mẽ, có khả năng đương đầu với nghịch cảnh và thử thách trong cuộc sống.
Sau giai đoạn trung học, Pierre Lambert theo học Luật tại đại học thành phố Caen như truyền thống lâu đời của dòng họ Lambert[8].
3. Sự nghiệp
Năm 1646, sau khi tốt nghiệp đại học Luật, ngài Pierre Lambert bắt đầu con đường sự nghiệp, làm thẩm phán tại Tòa Án Thuế Vụ thành phố Rouen lúc mới 22 tuổi[9]. Tại đây, vị thẩm phán trẻ hằng ngày đến nhà thờ các cha Dòng Tên để nguyện ngắm và đọc kinh nhật tụng trước khi tới tòa án làm việc. Khi đi ngang qua nhà thờ Chính Toà, ngài ghé vào để dâng cho Đức Mẹ những vụ xét xử phải thực hiện theo chức vụ của mình. Rồi sau ngày làm việc, ngài lại vào nhà thờ để tạ ơn Đức Mẹ về những vụ án ngài vừa xử kiện. Như thế, vị thẩm phán đã nối kết được lòng đạo đức vào công việc, ý hướng ngay lành vào các tranh luận của nghề nghiệp, đến độ chẳng bao lâu ngài nổi tiếng là một quan tòa rất có năng lực và liêm chính[10].
4. Hành trình ơn gọi linh mục và thừa sai
Ơn gọi linh mục và thừa sai nơi Pierre Lambert được Thiên Chúa Quan Phòng chuẩn bị chu đáo từ lâu. Thật thế, ngay từ lúc chín tuổi, một tiếng gọi huyền nhiệm đã vang lên trong tâm hồn Pierre Lambert. Từ đó, Thiên Chúa đã dùng những con người và những biến cố ngang qua cuộc đời ngài để làm sáng tỏ tiếng gọi đó.
Trước tiên, phải nói đến cha Julien Hayneuve, Dòng Tên, với đời sống khiêm nhường thẳm sâu, nguyện ngắm cao siêu[11], kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, ngài đã ảnh hưởng không nhỏ trên đời sống tâm linh của Pierre Lambert, qua việc gặp gỡ và trao đổi mỗi ngày.
Tiếp đến, người ảnh hưởng đến khúc ngoặt quan trọng của vị thẩm phán Lambert là ông Jean de Bernières de Louvigny, một giáo dân đạo đức, đã lập ra Ẩn Viện Caen. Cuối năm 1654, Thiên Chúa đã thúc đẩy ngài Pierre Lambert đến tĩnh tâm năm tháng tại Ẩn Viện[12] để tìm hướng đi cho cuộc đời mình. Qua sự hướng dẫn của ông Jean de Bernières, Pierre Lambert đã tiến xa trên đường thiêng liêng, yêu thích sự tự hủy.
Sau cuộc tĩnh tâm, Pierre Lambert quyết định ba việc quan trọng: Bỏ chức thẩm phán, theo ơn gọi linh mục và tham gia chương trình truyền giáo tại Canada[13]. Tuy nhiên, việc thứ ba không thành, vì Thiên Chúa đã chuẩn bị một chương trình khác cho ngài.
4.1. Chịu chức Linh Mục
Để chuẩn bị cho ngày lãnh nhận các chức thánh, Pierre Lambert bắt đầu cuộc tĩnh tâm 30 ngày[14]. Sau đó, ngài thực hiện cuộc hành hương khổ nhục, đi bộ từ Caen tới Rennes, khoảng 150 cây số.
Sau khi chịu các chức nhỏ, thầy Pierre Lambert chọn Chủng Viện Coutances của cha Jean Eudes, tĩnh tâm 40 ngày[15] để chuẩn bị tâm hồn cho ngày trọng đại sắp đến. Ngày 27/12/1655, thầy Pierre Lambert lãnh Chức Linh Mục tại nhà thờ Chánh Tòa Bayeux[16].
Ngày 08/02/1656, Tân Linh Mục dâng Thánh Lễ mở tay tại Chủng Viện Coutances. Chính ngài đã ghi lại cảm nghiệm thiêng liêng sau Thánh Lễ này: “Tình yêu mà Thiên Chúa đã khấng ban cho tôi hôm nay đang cháy bừng lên trong lòng khi tôi cử hành Thánh Lễ và sau Thánh Lễ, như muốn lôi kéo tôi đến với các dân tộc chưa hề biết Chúa hơn là đến với các dân tộc đã biết Ngài. Có lẽ tôi cần phải tìm kiếm bên kia bờ đại dương những người mù lòa đáng thương mà Thiên Chúa muốn kéo ra khỏi nơi tối tăm, nhờ công nghiệp Máu Thánh Chúa Kitô đã đổ ra cho mọi người”[17]. Linh cảm trên có ý nghĩa như thế nào trong cuộc đời của linh mục Pierre Lambert thì chưa được tỏ hiện ngay, nhưng phải chờ đợi thêm một thời gian nữa.
4.2. Hoạt động xã hội - mục vụ
Sau Thánh Lễ mở tay, cha Pierre Lambert bất ngờ nhận được lời đề nghị làm Giám Đốc Trung Tâm Xã Hội ở Rouen. Ngài lưỡng lự, nhưng sau hai lần hành hương cầu nguyện ở Đền Đức Bà Giải Cứu và làm tuần cửu nhật để xin ơn soi sáng, ngài nhận lời. Ngày 28/03/1656[18], ngài lên đường đến thành phố Rouen nhận nhiệm sở.
Tại Trung Tâm Xã Hội Rouen, vị Tân Giám Đốc dấn thân hết mình cho công việc bác ái mang tính chất vừa xã hội vừa mục vụ[19]: chăm sóc những người vô gia cư, người thất nghiệp và các thiếu niên đường phố hoặc mồ côi; quan tâm tới việc giáo dục các trẻ em: cho học văn hoá, nghề nghiệp, giáo lý, cầu nguyện và cho lãnh nhận các bí tích; xây nhà trú ẩn cho các thiếu nữ hoàn lương có chỗ nương thân, xây nhà tĩnh tâm cho những người muốn từ bỏ Tin Lành trở về với Giáo Hội Công Giáo[20].
Ngoài công việc ở Trung Tâm Xã Hội, cha Lambert còn chú tâm tới Hàng Giáo Sĩ bằng cách tổ chức những buổi giảng thuyết, huấn đức tại Cambremer. Ngài giúp tài chánh cho Chủng Viện Coutances[21] và thao thức tìm cách thành lập một chủng viện tại Rouen.
Mặc dù công việc hằng ngày của Trung Tâm Xã Hội chiếm rất nhiều thời gian, nhưng cha Pierre Lambert vẫn quan tâm đến đời sống tâm linh một cách đặc biệt. Ngài thường bớt giờ ngủ để dành bốn hoặc năm tiếng cho việc nguyện ngắm. Ngài cử hành Thánh Lễ như việc khởi đầu cho một ngày mới, và chầu Thánh Thể để kết thúc cuối ngày.
Khi có thể, vào những buổi tối, ngài học thần học với một linh mục khôn ngoan và thánh thiện người Ái Nhĩ Lan[22], đã từng là giáo sư ở Đại Học Sorbonne - Paris đến Rouen giúp ngài.
Để thăng tiến hơn nữa trong đời sống tâm linh, cha Pierre Lambert gia nhập các hội đoàn đạo đức, đặc biệt là Hiệp Hội Thánh Mẫu của Dòng Tên[23], và Dòng Ba Bé Mọn. Thời gian này, cha Lambert chọn cha Simon Hallé, tu sĩ Dòng Bé Mọn, làm linh hướng, và từng bước ngài đi sâu vào linh đạo khổ hạnh của Dòng này.
4.3. Ơn gọi thừa sai
Vào mùa hè năm 1657, cha Pierre Lambert đi Paris để tìm nguồn trợ cấp cho Trung Tâm Xã Hội. Tại đây, ngài có dịp tiếp xúc với Nhóm Bạn Hiền khi đến thăm bào đệ là chủng sinh Nicolas Lambert, một thành viên của Nhóm[24]. Từ đó, cha Lambert được biết về chương trình truyền giáo tại Việt Nam mà cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đã vận động ở Rôma và ở Pháp từ năm 1649 đến năm 1654, nhưng không thành.
Năm 1655, Đức Tân Giáo Hoàng Alexander VII[25] cho xem xét lại kế hoạch của cha Đắc Lộ. Kế hoạch này được sự cộng tác nhiệt thành của Nhóm Bạn Hiền, sự hậu thuẫn mạnh mẽ của bà công tước d'Aiguillon và sự hăng say của Hiệp Hội Thánh Thể. Tuy nhiên, công việc vẫn còn những vướng mắc chưa thể giải gỡ. Lúc này, có năm linh mục trong Nhóm Bạn Hiền sang Rôma để thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng xúc tiến chương trình truyền giáo của cha Đắc Lộ trước đây[26].
Về phần cha Pierre Lambert, sau lời khuyến khích của cha Simon Hallé, ngài ngỏ ý với ban tổ chức xin được gia nhập đoàn thừa sai đi truyền giáo ở Viễn Đông. Và khi tham dự Hội Nghị về Truyền Giáo, cha Lambert rất ngạc nhiên thấy tên của ngài được Hội Nghị nhắc tới ở vị trí thứ hai trong danh sách ba người được đề cử với Thánh Bộ vào chức vụ Đại Diện Tông Tòa ở Châu Á[27].
Sau đó, cha Pierre Lambert lên đường sang Rôma theo lời khuyên của cha Simon Hallé[28]. Ngài tới Rôma ngày 18/11/1657, gặp nhóm năm linh mục người Pháp, trong đó có cha Vincent de Meur và cha Franẹois Pallu[29], đang vận động cho chương trình truyền giáo trên. Tuy nhiên, các ngài gặp nhiều khó khăn trong việc vận động Tòa Thánh bổ nhiệm các Đại Diện Tông Tòa cho Đông Á. Với kinh nghiệm của một thẩm phán, cha Lambert đã nhìn thấy vấn đề, nên quyết định dâng tài sản của mình cho công cuộc truyền giáo, nhờ đó vướng mắc được tháo gỡ và chương trình tiến triển tốt đẹp[30].
Cuối năm 1657, chỉ còn cha Francois Pallu và cha Pierre Lambert ở lại Rôma. Các ngài soạn thảo dự án để thành lập một chủng viện chuyên lo việc truyền giáo hải ngoại. Trong thời gian làm việc với nhau tại Giáo Đô, các ngài đã trở thành đôi bạn thân và gắn bó với nhau suốt đời trong tinh thần liên đới trách nhiệm[31].
Năm 1658, cha Francois Pallu ở lại Rôma tiếp tục công việc, cha Pierre Lambert trở về Pháp. Ngài đi vòng qua Nancy để viếng mộ phần của thân phụ đã qua đời 23 năm trước, đây là lần thứ nhất và cũng là lần duy nhất. Thứ Bảy Tuần Thánh, ngày 20/04/1658, ngài về đến Paris. Liền sau đó, ngài bị những cơn đau cấp tính hành hạ suốt bốn, năm ngày, đến nỗi không ai khác có thể làm gì giúp đỡ ngài được. Qua cơn bệnh, ngài trở về Rouen tiếp tục công việc của Trung Tâm Xã Hội. Ngài còn tiến hành việc xây dựng một chủng viện cho Tổng Giáo Phận Rouen, và sau khi hoàn thành ngài trao chủng viện cho Dòng Thánh Jean Eudes điều hành[32].
5. Đại Diện Tông Tòa
Trong lúc cha Pierre Lambert bận rộn với muôn ngàn công việc tại vùng Normandie, thì ở Rôma, vào ngày 13/05/1658, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin kiến nghị bổ nhiệm hai Giám Mục Đại Diện Tông Tòa người Pháp. Kiến nghị được Đức Giáo Hoàng Alexander VII phê chuẩn ngày 08/06/1658. Ngày 29/07 cùng năm, qua đoản sắc Apostolatus Officium, Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm cha Pierre Lambert làm Giám Mục hiệu tòa Bérythe và cha Francois Pallu làm Giám Mục hiệu tòa Héliopolis[33]. Ngày 17/08/1658, Thánh Bộ chỉ định miền truyền giáo cho hai Tân Đại Diện Tông Toà: Đức Cha Pierre Lambert chịu trách nhiệm Địa Phận Đàng Trong, bốn tỉnh ở Trung Hoa và đảo Hải Nam; Đức Cha Francois Pallu cai quản Địa Phận Đàng Ngoài, năm tỉnh ở Trung Hoa và vương quốc Lào. Sự chỉ định này được Đức Giáo Hoàng Alexander VII phê chuẩn ngày 09/09/1659 qua đoản sắc Super Cathedram[34]. Thánh Bộ còn gửi cho các Vị Đại Diện Tông Tòa bản Huấn Thị năm 1659, được ký vào ngày 10/11/1659[35], trong đó xác định rõ sứ vụ của các thừa sai, công tác phải làm, lộ trình nên theo và cách thức cần giữ nơi truyền giáo...
Dù đã nhận được sắc chỉ bổ nhiệm của Tòa Thánh, Đức Cha Lambert vẫn còn miệt mài với công việc ở Trung tâm Xã Hội cho đến phút cuối. Ngày 02/06/1660, ngài rời Rouen đi Paris một cách kín đáo. Tại Paris, sau tám ngày tĩnh tâm, ngài được Đức Cha Lebouthiller, Tổng Giám Mục Giáo Phận Tours, truyền chức Giám Mục trong nhà nguyện của Dòng Đức Bà Đi Viếng vào ngày 11/06/1660.[36] Sau đó, Đức Tân Giám Mục Pierre Lambert tĩnh tâm ngắn ngày để chuẩn bị cho một sứ vụ mới.
II. GIAI ĐOẠN TẠI CHÂU Á (1660-1679)
1. Hành trình sang Châu Á
Ngày 18/06/1660, Đức Cha Pierre Lambert âm thầm rời Paris lên đường sang Châu Á, có cha Jacques de Bourges tháp tùng. Khi vừa tới Lyon, Đức Cha ngã bệnh nặng, phải nằm liệt 52 ngày liền. Nhưng rồi ngài đã lành bệnh đột ngột, khiến thầy thuốc điều trị coi đó như một phép lạ. Đức Cha tiếp tục lên đường. Khi tới Marseille, ngài nhận thêm cha Francois Deydier vào đoàn thừa sai, và lên tàu vượt biển Địa Trung Hải ngày 27/11/1660. Hành trình thật kín đáo, đến nỗi cả người em ruột của Đức Cha Lambert cũng chỉ được biết sau vài ngày.[37] Các ngài đi theo lộ trình mà Thánh Bộ đã đề nghị.
Sau khi vượt Địa Trung Hải, đoàn thừa sai bắt đầu con đường bộ xuyên qua các miền Hồi Giáo vùng Cận Đông đến Ispahan, kinh đô xứ Ba Tư; từ Surate đi bộ xuyên qua bán đảo Ấn Độ đến Masulipatan; từ Masulipatan, xuống tàu và đến Mergui, thuộc Thái Lan ngày 28/04/1662. Ngày 19/05, các ngài tới Tenasserim, và đến Ayutthaya, kinh đô Siam (Thái Lan) vào ngày 22/08/1662[38].
Cuộc hành trình đầy gian khổ và hiểm nguy kéo dài trên hai năm. Đó là một cơ hội để Đức Cha Pierre Lambert sống kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. [...] Phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn uống và chịu rét mướt [...], nhất là bị dày vò bởi mối bận tâm lo cho Hội Thánh” (2Cr 11, 26-28). Hơn nữa, đối với Đức Cha Lambert, đây là một cuộc hành hương đặc biệt, giúp ngài nhận thức được nhu cầu phải hoán cải không ngừng và vun trồng đời sống nội tâm cho hoàn hảo và thánh thiện hơn. Mỗi chặng dừng chân là một dịp ngài tĩnh tâm để lắng nghe Thánh Thần chỉ dạy.
Hành trình sang vùng truyền giáo của Đức Cha Pierre Lambert, từ lúc khởi hành cho đến lúc này, đã gặp biết bao sóng gió, nhưng điều nổi bật nhất là càng gặp thử thách, gian nan thì đức tin của ngài càng mạnh mẽ hơn. Từ đây, tình yêu ngài dành cho Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh được triển nở và đạt đến đỉnh cao, bởi vì ngài đã đón nhận thập giá đời thường với một tình yêu phi thường. Đức Cha Lambert không những đã sống triệt để tình yêu với Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh, mà còn ước ao cho có thật nhiều người hiểu biết và sống linh đạo này[39].
2. Đức Cha Pierre Lambert tại Châu Á
Ngay sau khi tới Ayutthaya, Đức Cha Lambert đã thực hiện một cuộc tĩnh tâm 40 ngày. Đây là dịp cho phép ngài trở về nguồn mạch thiêng liêng, lượng giá những gì đã khám phá được trong cuộc hành trình và xin ơn soi sáng cần thiết để tiếp tục sứ mạng[40].
2.1. Công việc khởi đầu tại Thái Lan
Để có thể thi hành sứ vụ cách hữu hiệu nhất, Đức Cha Lambert bắt đầu ngay vào việc học tiếng địa phương và tìm hiểu phong tục, văn hóa dân bản xứ. Khi được biết ở trại người Đàng Trong tại Ayutthaya có khoảng 40 người Công Giáo, Đức Cha Lambert rất vui mừng. Ngài và các đồng sự bắt đầu dạy giáo lý và ban các bí tích cho họ. Đức Cha đã cử hành Lễ Giáng Sinh đầu tiên ở trại của người Đàng Trong[41].
Đức Cha Lambert và các thừa sai Tông Tòa cố gắng thực hiện đúng tinh thần của một thừa sai, để có thể điều chỉnh lại cách sống buông thả của số đông thừa sai thuộc chế độ Bảo Trợ Bồ Đào Nha. Vì thế, các ngài gặp nhiều khó khăn ở Ayutthaya: những phản ứng không thân thiện từ các thừa sai thuộc chế độ Bảo Trợ, thái độ ác cảm của người Bồ Đào Nha tại Siam, cũng như sự chống đối của chính quyền Bồ Đào Nha với các thừa sai Tông Tòa[42].
Nhận thấy tính mạng của các thừa sai Tông Tòa bị đe doạ, người Đàng Trong đã đón đoàn thừa sai về trại của họ. Tại đây, họ bảo vệ các ngài, giúp làm một nhà thờ để cử hành phụng vụ và một căn nhà đơn sơ làm nơi cư trú cho các ngài. Đức Cha dâng nhà thờ này cho Thánh Giuse[43]. Và cũng từ trại Đàng Trong, các ngài đón nhận những tín hữu đầu tiên, mở đầu cho sứ vụ thừa sai của các ngài tại Châu Á.
2.2. Sang Trung Hoa bất thành
Đức Cha Pierre Lambert mong ước sớm đến được nhiệm sở của ngài ở Đàng Trong, nhưng đạo Công Giáo đang bị bách hại nơi đó nên ngài chưa thể đến được. Vì thế, ngày 12/07/1663, Đức Cha quyết định xuống tàu đi Trung Hoa cùng với cha Francois Deydier, nhưng tàu gặp bão ngoài khơi Campuchia nên các ngài phải trở về bằng đường bộ và đến Ayutthaya ngày 15/09/1663[44].
Ngày 14/10/1663, Đức Cha sai cha Jacques de Bourges lên đường về Châu Âu để tường trình cho Thánh Bộ tình hình cụ thể tại vùng truyền giáo Châu Á. Còn ngài và cha Francois Deydier tĩnh tâm 40 ngày để chuẩn bị cho sứ vụ của mình[45].
2.3. Công nghị Ayutthaya
Ngày 27/01/1664, Đức Cha Pierre Lambert rất vui mừng đón tiếp Đức Cha Francois Pallu cùng bốn linh mục thừa sai và một giáo dân đến Ayutthaya. Mặc dù rất nóng lòng trao đổi tin tức cho nhau, nhưng các ngài quyết định giữ thinh lặng ba ngày để tạ ơn Chúa Quan Phòng đã cho các ngài được đoàn tụ sau biết bao gian nan thử thách[46]. Tiếp đến, các ngài dâng Lễ Cầu Hồn cho Đức Cha Cotolendi, bốn linh mục và một giáo dân trong đoàn thừa sai đã từ trần trên đường sang Đông Á.
Sau khi trao đổi tin tức, Đức Cha Lambert đề nghị tổ chức một Công Nghị địa phương, gọi là Công Nghị Ayutthaya. Công Nghị khai mạc vào thứ sáu ngày 29/02/1664 và bế mạc khoảng cuối tháng năm[47]. Tham dự Công Nghị gồm tám người: hai Giám Mục, năm linh mục và một giáo dân. Trong Công Nghị, các ngài đã quyết định ba việc quan trọng: Lập Hội Tông Đồ, xây dựng một Chủng Viện, và soạn thảo Huấn Dụ gửi các thừa sai.
- Ngày 06/01/1665, hai Đức Cha Pierre Lambert và Francois Pallu cùng hai thừa sai là cha Francois Deydier và cha Louis Laneau đã tuyên khấn trong Hội Tông Đồ[48]. Tuy nhiên, Hội này không được Tòa Thánh phê chuẩn.
- Theo sát hướng dẫn của Thánh Bộ, các ngài đã hoạch định dự án xây một Chủng Viện chung cho miền Đông Á nhằm đào tạo các ứng sinh linh mục bản xứ tương lai, dự án này được Đức Cha Lambert thực hiện năm 1665.
- Huấn Dụ gửi các thừa sai là kết quả quan trọng nhất của Công Nghị Ayutthaya. Nhìn chung, Huấn Dụ lấy cảm hứng từ Huấn Thị năm 1659 của Thánh Bộ gửi cho các Đại Diện Tông Tòa; nội dung gồm ba mục chính: sự thánh hóa người tông đồ nhằm phần rỗi của các tín hữu, giảng đạo cho lương dân, và tổ chức giáo xứ. Huấn Dụ Ayutthaya được Tòa Thánh phê chuẩn năm 1669.
Sau khi khấn vào Hội Tông Đồ, ngày 20/01/1665, Đức Cha Francois Pallu tình nguyện trở về Châu Âu để tường trình cho Tòa Thánh và những vị hữu trách một số việc quan trọng tại vùng truyền giáo Viễn Đông. Sau đó, các thừa sai lần lượt được sai đến các vùng truyền giáo của các ngài. Còn Đức Cha Pierre Lambert và cha Louis Laneau ở lại Ayutthaya điều hành công việc.
2.4. Những tương quan khó khăn giữa Đức Cha Lambert với chế độ Bảo Trợ
Đức Cha Lambert gặp rất nhiều khó khăn với chế độ Bảo Trợ Bồ Đào Nha, như vụ việc đối với các thừa sai Dòng Đa Minh. Chúa Nhật ngày 02/05/1666, sau lễ Phục Sinh, cha Fragoso, đưa một ông giàu có, gốc Macao, đến xin chịu Phép Thêm Sức và cha sẽ là người đỡ đầu. Đây là điều trái với Giáo Luật, nhưng Đức Cha đã ban phép chuẩn để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra[49]. Sau đó, thừa sai Francois Deydier, tiến sĩ thần học, lưu ý là cha không có quyền đỡ đầu. Cha Fragoso không hài lòng, nên đã tìm cách chống lại bằng việc yêu cầu Đức Cha xuất trình sắc chỉ bổ nhiệm Giám Mục của ngài. Đức Cha từ chối, vì ngài cho rằng, cha Fragoso không có quyền trên Giám Mục.
Câu chuyện qua lại với những tình tiết khá gay go. Cuối cùng, với tư cách là ủy viên Tòa Án Tôn Giáo, cha Fragoso viết thông cáo ra vạ tuyệt thông Đức Cha Pierre Lambert và các thừa sai Pháp. Thông cáo này được niêm yết tại nhà thờ Thánh Phanxicô, Dòng Tên, vào thứ năm ngày 02/12/1666, và tại nhà thờ Dòng Đa Minh vào Chúa Nhật ngày 05/12/1666. Đức Cha không phản hồi, chỉ làm bản phúc trình gửi về Tòa Thánh và yêu cầu cha Fragoso cũng hãy làm như vậy.
Ngoài việc liên quan đến cha Fragoso nêu trên, ngày 01/11/1667, cha Valguarnera, Dòng Tên, còn làm một bản báo cáo gửi về Tòa Thánh tố cáo Đức Cha Pierre Lambert nhiều điều[50]. Khoảng giữa tháng 04/1669, Đức Cha Lambert và các thừa sai Pháp bị các tu sĩ Dòng Tên tại Ayutthaya gửi một tuyên cáo chống đối. Đức Cha quyết định không trả lời. Sau này khi đi kinh lý Đàng Ngoài và Đàng Trong, Đức Cha còn gặp những chống đối khác từ các thừa sai Dòng Tên tại địa phương.
Ngày 05/11/1670, Đức Cha Lambert nhận được sắc lệnh từ Tòa Tổng Giám Mục Goa yêu cầu phải xuất trình mọi giấy tờ mà Tòa Thánh chỉ định ngài trong nhiệm vụ Giám Mục, nếu không, Đức Cha sẽ bị vạ tuyệt thông và bị phạt 200 đồng bạc[51]. Để tránh những hậu quả tồi tệ có thể xảy ra, Đức Cha đã trình giấy tờ đầy đủ, nhưng họ cho rằng các giấy tờ này không hợp lệ vì chưa được thông qua triều đình Bồ Đào Nha.
2.5. Hiệp Hội Nam Nữ Tín Hữu Mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng Ta
Đức Cha Pierre Lambert sớm nhận ra vai trò chứng tá của người giáo dân trong mọi lãnh vực, nên đã viết ra bản luật “Hiệp Hội Nam Nữ Tín Hữu Mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng Ta”[52], có thể vào năm 1668 tại Thái Lan, và thành lập Hiệp hội này khoảng năm 1669 tại Đàng Ngoài. Mục đích chính yếu của Hiệp Hội là thôi thúc các tín hữu khắp nơi hướng tới tình yêu thực tiễn đối với Thánh Giá Con Thiên Chúa, qua việc hằng ngày suy gẫm sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, rồi thể hiện sự suy gẫm ấy ra bên ngoài bằng việc hãm mình hy sinh liên lỉ của họ[53].
Từ những yếu tố căn bản của Hiệp Hội trên, Đức Cha Lambert sẽ thành lập Dòng Nữ Mến Thánh Giá sau này.
3. Đức Cha Pierre Lambert với Giáo Hội Việt Nam
Theo sát chỉ dẫn của Thánh Bộ, Đức Cha Pierre Lambert lưu tâm đặc biệt đến việc thành lập Hàng Giáo Sĩ địa phương. Vì thế, tại Ayutthaya ngày 31/03/1668, Đức Cha truyền chức linh mục đầu tiên cho thầy Giuse Trang là người Đàng Trong cùng với thầy Francois Pérez, người Siam, gốc Bồ Đào Nha[54]. Vào tháng Sáu cùng năm, Đức cha truyền chức linh mục cho hai thầy giảng người Đàng Ngoài là Bênêđictô Hiền và Gioan Huệ. Khoảng tháng 01/1669, Đức Cha truyền chức linh mục cho thầy Luca Bền, người Đàng Trong tại Piply, Siam[55].
4. Đức Cha Pierre Lambert Kinh lý Đàng Ngoài
Mặc dù Địa Phận Đàng Ngoài không trực tiếp thuộc quyền Đức Cha Pierre Lambert, nhưng vì Đức Cha Francois Pallu phải trở về Châu Âu, nên ngài tìm đường sang Đàng Ngoài với tư cách là Giám Quản Tông Toà.
Ngày 16/07/1669, Đức Cha Pierre Lambert cùng hai cha Jacques de Bourges và Gabriel Bouchard lên tàu của ông Junet đi xứ Đàng Ngoài, các ngài đến cửa biển Đàng Ngoài vào ngày 30/08. Chuyến kinh lý mục vụ này kéo dài đến ngày 14/03/1670[56]. Tại Đàng Ngoài, các thừa sai Tông Tòa đã thực hiện được những việc quan trọng:
- Trước tiên, Đức Cha chỉ thị cho cha Francois Deydier triệu tập một cuộc họp công khai tại Kinh Đô[57] để công bố các sắc lệnh của Tòa Thánh về thẩm quyền của Đại Diện Tông Tòa cho các tín hữu, có sự hiện diện của các cha Dòng Tên.
- Tiếp đến, Đức Cha thành lập Hiệp Hội Nam Nữ Tín Hữu Mến Thánh Giá mà ngài đã soạn thảo quy luật từ tháng 08/1668, tại Ayutthaya[58].
- Sau đó, Đức Cha truyền chức linh mục cho bảy thầy giảng ưu tú đã được cha Tổng Đại Diện Francois Deydier tuyển chọn và đào tạo chu đáo[59].
- Ngày 14/02/1670, Đức Cha Lambert triệu tập Công Nghị tại Đàng Ngoài, còn gọi là Công Nghị Phố Hiến; thành viên tham dự gồm có Đức Cha, ba thừa sai Pháp và chín linh mục bản xứ[60]. Đây là một Công Nghị nhằm xác lập quyền bính của các Đại Diện Tông Tòa, được đúc kết trong một văn kiện gồm 34 điều khoản.
- Cuối cùng, ngày 19/02/1670, Đức Cha Lambert thành lập Dòng Nữ Mến Thánh Giá qua việc nhận lời khấn của hai nữ tu tiên khởi là Anê và Paula[61]. Ngay ngày hôm đó, Đức Cha vội vã lên tàu trở về Siam, nhưng vì không thuận gió nên mãi đến ngày 14/03, con tàu mới ra khơi được. Ngài về đến Ayutthaya khoảng trung tuần tháng 04/1670[62]. Được biết Đức Cha Lambert từ Đàng Ngoài trở về, Vua Siam là Phra-Narai rất vui mừng, nhưng ông cũng buồn phiền khi nghe tin Đức Cha lên cơn sốt nặng vào đầu năm sau đó. Vì quý mến Đức Cha, nên vua sai lương y tài giỏi nhất của hoàng gia đến chữa trị cho ngài[63]. Khi khỏi bệnh, Đức Cha nhận ra rằng, Chúa chưa muốn kéo ngài ra khỏi chốn lưu đày này[64].
5. Đức Cha Pierre Lambert kinh lý Đàng Trong lần I
Khoảng cuối tháng 02/1671, tại Ayutthaya, Đức Cha Lambert nhận được tin hai thừa sai Pháp đang hoạt động tại Đàng Trong từ trần: cha Antoine Hainques qua đời tháng 12/1670 và cha Pierre Brindeau ra đi tháng 01/1671[65]. Ngài đau buồn và lo lắng, còn giáo dân tại đó bàng hoàng và bất an. Vì thế, họ cử một đoàn người đại diện gồm cha Giuse Trang, cha Luca Bền với hai thầy giảng và vài giáo dân lên một con thuyền nhỏ sang cầu cứu Đức Cha Lambert. Phái đoàn đến Ayutthaya ngày 08/05/1671[66].
Lo lắng cho đoàn chiên không người chăn dắt, ngày 20/07/1671, Đức Cha quyết định sang Đàng Trong bằng chính con thuyền nhỏ ấy, cùng đi có bốn thừa sai Pháp. Qua nhiều gian nan, thoát được bão tố và cướp biển, cuối cùng con thuyền cũng cập bến vùng biển Nha Trang. Đức Cha Lambert vào làng Lâm Tuyền tối ngày 01/09/1671[67]. Ngài lưu lại Lâm Tuyền vài ngày để thăm viếng các giáo điểm trong vùng Khánh Hòa và Ninh Hoà, rồi ra Phú Yên. Tại đây, Đức Cha bị một ông quan địa phương đầu độc khiến cho ngài bị bệnh liệt giường và phải lưu lại một thời gian khá lâu[68]. Khi tạm bình phục, ngài tiếp tục hành trình tới Nước Mặn và cử hành lễ Các Thánh Nam Nữ tại đó rồi lên đường đến Quảng Ngãi. Trong thời gian ở An Chỉ, Đức Cha tạm trú tại nhà một quả phụ tên là Lucia Kỳ, ngài đi thăm một vài địa điểm và thành lập Dòng Mến Thánh Giá ở Đàng Trong vào trước Lễ Giáng Sinh năm 1671[69].
Ngày 19/01/1672, Đức Cha triệu tập Công Nghị Hội An trên một hòn đảo tên là Chiêm Bồng[70]. Tham dự Công Nghị gồm có các thừa sai của Đức Cha, hai linh mục người Đàng Trong và một số thầy giảng. Kết quả của Công Nghị là một văn kiện gồm 10 điều khoản nhắm tới việc tổ chức Giáo Hội địa phương theo ý Tòa Thánh và biệt lập khỏi quyền bảo trợ truyền giáo Bồ Đào Nha.
Sau Công Nghị, Đức Cha lưu lại Hội An khoảng một tháng rồi lên thuyền trở về Bình Định, Khánh Hoà. Ngài chỉ đến được Nước Mặn thăm các nhà thờ trong vùng mà không thể vào Ninh Hoà, Nha Trang vì thuyền gặp giông bão.
Sau khi bổ nhiệm nhân sự cho Đàng Trong, ngày 29/03/1672, Đức Cha quyết định trở về Ayutthaya, ngài còn mang theo 10 thiếu niên người Đàng Trong[71]. Không may, khi đoàn về tới Ayutthaya vào ngày 21/04/1672[72], thì gặp sứ thần Đàng Trong đang ở đó. Ông ta rất giận vì Đức Cha đã vào Đàng Trong cách lén lút, lại còn đưa về Siam 10 thần dân của ông. Để xoa dịu tình hình bất lợi trên, Đức Cha hứa với ông sẽ cho người sang Đàng Trong để trình bày với triều đình rõ ràng sự việc.
6. Tại Ayutthaya
Trước khi sang Đàng Trong, Đức Cha Pierre Lambert đã nhận được sắc lệnh Speculatores của Đức Giáo Hoàng Clêmentê IX[73]. Sắc lệnh yêu cầu tất cả các thừa sai, khi làm việc tại nơi nào đã được Tòa Thánh trao cho các Đại Diện Tông Toà, đều phải tuyên thệ vâng lời các ngài, thừa sai nào không vâng lời sẽ bị vạ tuyệt thông. Nên biết, từ năm 1669, Tòa Thánh đã đặt Siam dưới quyền cai quản của vị Đại Diện Tông Tòa người Pháp, nhưng các thừa sai Dòng Tên và Dòng Đa Minh đang hiện diện ở Ayutthaya đều từ chối vâng phục vì chưa thông qua triều đình Bồ Đào Nha. Dù luôn bị các thừa sai thuộc chế độ Bảo Trợ chống đối, Đức Cha Lambert vẫn kiên trì thực thi sứ vụ đã nhận từ Tòa Thánh.
Trong năm 1672, Đức Cha Pierre Lambert xây dựng một nhà thương và thành lập Dòng Mến Thánh Giá Thái Lan,[74] với bốn hay năm nữ tu đầu tiên là người gốc Đàng Trong.
Ngày 27/05/1673, Đức Cha Francois Pallu trở lại Ayutthaya lần thứ hai mang theo thư của Đức Giáo Hoàng Clêmentê IX và Vua Louis XIV gửi cho Vua Siam.[75] Nhà Vua đã long trọng tổ chức một buổi tiếp đón các Giám Mục người Pháp, cùng với việc tiếp nhận hai lá thư trên. Từ đây, mối giao hảo giữa Nhà Vua và các Giám Mục ngày càng thêm thân thiện và gần gũi.
7. Đức Cha Lambert kinh lý Đàng Trong lần II
Theo lời đã hứa với sứ thần Đàng Trong tại Ayutthaya, Đức Cha Pierre Lambert sai hai cha Bénigne Vachet và Guillaume Mahot mang thư và quà của ngài sang dâng cho Chúa Nguyễn tại Huế. Nhận được thư, Chúa Nguyễn rất hài lòng, mời Đức Cha Lambert sang Đàng Trong và còn cho phép ngài tự do giảng đạo.
Ngày 30/07/1675, Đức Cha Lambert và cha Mahot rời Ayutthaya lên con tàu của Chúa Nguyễn gửi tới, và các ngài đến Hội An ngày 06/09.[76] Một tuần sau, Đức Cha Pierre Lambert cùng với các cha thừa sai Bénigne Vachet, Jean de Courtaulin và Manuel Bổn đến triều đình Huế. Đức Cha lưu lại Huế một tháng, nhưng Chúa Nguyễn không tiếp đón các ngài được vì người con trai của ông vừa qua đời.
Sau một tháng ở Huế, Đức Cha trở lại Hội An. Tại đây, ngài tiếp đón giáo dân, ban các bí tích cho họ một cách công khai. Ngài làm việc ngày đêm, hầu như không có giờ nghỉ ngơi.
Vào giữa tháng 12, Đức Cha đến Quảng Ngãi và cho năm nữ tu đầu tiên Dòng Mến Thánh Giá Đàng Trong được tuyên khấn trong Thánh Lễ do ngài cử hành tại An Chỉ và Bàu Tây[77].
Trong chuyến viếng thăm lần này Đức Cha lại phải đương đầu với hai cha Dòng Tên là Joseph Candone và Barthélémy d'Acosta. Đức Cha sai cha Vachet đem sắc lệnh Speculatores đến cho hai cha tại Hội An[78], nhưng họ từ chối vâng phục. Vì vậy, theo chỉ thị của Tòa Thánh, hai cha này bị Đức Cha ra vạ tuyệt thông. Để phản kháng lại, cha Candone, với tư cách Tổng Đại Diện của vị tổng quản Tòa Giám Mục Malacca, gửi một thông cáo cho bổn đạo biết rằng, cha đã cách chức Đức Cha và tuyên bố Đức Cha bị dứt phép thông công, các Giám Mục Pháp không có quyền tài phán nào trên xứ này, và dứt phép thông công những ai lãnh nhận các bí tích do các thừa sai Pháp cử hành[79].
Để trấn an các bổn đạo, Đức Cha gửi một thư chung thông báo cho họ biết hai điều quan trọng: một là triều đình Huế ban phép cho Đức Cha được tự do đi lại làm nhiệm vụ tôn giáo và được gửi thừa sai vào vương quốc này bất cứ lúc nào; hai là vì vâng lời Tòa Thánh, ngài buộc phải ra vạ tuyệt thông cho những ai không tuân phục, theo như chính sắc lệnh Speculatores. Đức Cha còn gửi một sứ điệp kêu gọi sự hiệp nhất và phục quyền chủ chăn hợp pháp. Lá thư chung của Đức Cha Lambert mang lại kết quả bất ngờ: đại đa số các thầy giảng nộp cho Đức Cha chứng thư bổ nhiệm do các cha Dòng Tên cấp và xin ngài ban chứng thư mới[80].
Bên cạnh những việc không vâng phục Tòa Thánh và chống đối các thừa sai, những người theo chế độ Bảo Trợ Bồ Đào Nha còn tố cáo Đức Cha với triều đình Chúa Nguyễn ba tội rất nặng: Năm 1669,
Đức Cha đi Đàng Ngoài là nơi thù địch với Chúa Đàng Trong; năm 1671, ngài đến Đàng Trong cách lén lút như một gián điệp; khi ra đi, ngài còn bắt cóc một số thiếu niên đem sang Ayutthaya. Đây là những tội phải chịu hình phạt nặng nề nhất ở Đàng Trong. Hơn nữa, tại Hội An, ngày 27/12/1675, Đức Cha còn phải chứng kiến cảnh các giáo dân bị bách hại rất thương tâm[81], do cha Barthélémy d'Acosta đút lót để lính tráng làm việc này.
Vì những lời tố cáo và vì sự kiện trên, Đức Cha Lambert quyết định trở lại Huế. Ngày 16/01/1676, ngài được quan phò mã tiếp đón, rồi sau đó, được đàm đạo riêng với con trai cả của Chúa Nguyễn. Đức Cha không những tạo được uy tín với Chúa Nguyễn mà còn cả với các quan trong triều đình, nên ngài thoát được những nguy hiểm mà chính người Công Giáo thuộc chế độ Bảo Trợ Bồ Đào Nha định gây ra cho ngài.
Trong thời gian ở Huế, Đức Cha đã trừ quỷ cho một phụ nữ và chữa bệnh cho một em bé mới sinh được bốn tháng qua việc cầu nguyện[82]. Hai việc này đã tăng thêm uy tín cho Đức Cha đối với các tín hữu Công Giáo cũng như lương dân tại địa phương.
Trước khi rời Đàng Trong, ngày 21/03/1676[83], Đức Cha truyền chức linh mục cho thầy Louis Đoan. Một tháng sau, ngài lên thuyền ra khơi và về đến Ayutthaya ngày 12/05/1676, nơi đây bao công việc đang chờ đợi ngài, bao khó khăn ngài sẽ phải đối phó.
8. Những năm tháng cuối đời
Trước khi đi Đàng Trong lần thứ hai, Đức Cha Lambert đã lập chúc thư đề ngày 22/07/1675 để lại toàn bộ tài sản của ngài cho công cuộc truyền giáo[84].
Khi từ Đàng Trong trở về Siam, sức khoẻ của ngài yếu dần. Tuy nhiên, Đức Cha vẫn còn phải điều hành công việc của vùng truyền giáo được Tòa Thánh giao cho ngài và Đức Cha Francois Pallu cho đến cuối đời.
Dù rất bận rộn với bao công việc, nhưng cuối năm 1676, Đức Cha vẫn dành thời gian để thực hiện một cuộc tĩnh tâm 40 ngày tại Bangkok. Đây là cuộc tĩnh tâm dài cuối cùng của ngài trên dương thế. Ngày 18/07/1677, hai thầy giảng cuối cùng, gốc Đàng Ngoài, là Philipphê Trà và Đa Minh Hảo, được nhận Chức Thánh từ tay Đức Cha Lambert tại Ayutthaya[85].
Tổng cộng lại, Đức Cha Pierre Lambert đã truyền chức linh mục cho 15 thầy người Việt Nam: 11 thầy người Đàng Ngoài và 4 thầy người Đàng Trong.
9. Sự ra đi lành thánh
Chứng bệnh đường ruột và sạn thận làm cho Đức Cha Pierre Lambert rất đau đớn, khiến sức khỏe của ngài ngày càng xấu đi. Ngài cảm thấy cần được yên tĩnh để cầu nguyện và kết hợp mật thiết với Chúa Kitô Chịu-Đóng-Đinh. Trong cơn bệnh, ngài thường tự nhủ: “Can đảm lên, giờ gần đến, ta hãy chịu khổ vì Chúa muốn như vậy” và ngài không ngừng dâng lời tạ ơn: “Đến muôn đời con ca ngợi lòng từ bi Chúa”[86].
Vào những giờ phút cuối đời, Đức Cha luôn sống trong tâm tình cầu nguyện. Cha Claude Gayme kể lại: “Trước đó, lúc nửa đêm, ngài còn xin rước Mình Thánh Chúa và bảo tôi đọc cho nghe lời nguyện tuyên tín. Phải thú thật tôi vừa đọc vừa ứa lệ”[87]. Sự kiện này chứng tỏ ngài luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể và tuyệt đối trung thành với Giáo Hội cho đến hơi thở cuối cùng. Trong những cơn đau khủng khiếp lúc hấp hối, Đức Cha Lambert không ngớt kêu lên: “Lạy Chúa, xin gia tăng sự đau đớn, xin ban thêm sức chịu đựng cho con”[88].
Ngày 15/06/1679, khoảng bốn giờ sáng, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, Đại Diện Tông Tòa tiên khởi Địa Phận Tông Tòa Đàng Trong, Giám Quản Địa Phận Tông Tòa Đàng Ngoài, Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá, đã an nghỉ lành thánh trong Chúa tại Ayutthaya.
Để nhận định về cuộc đời và sự nghiệp của Đức Cha Pierre Lambert, không có gì chính xác và có giá trị bằng lời của những người cận kề với ngài trong cuộc sống và trong sứ vụ.
Sau đây là lời của Đức Cha Louis Laneau, một người sống gần gũi và làm việc với Đức Cha Lambert nhiều năm tại Ayutthaya: “Mặc dù thân xác bị dày vò, nhưng trong thâm sâu của tâm hồn, ngài vẫn hoàn toàn bình an thanh thản. Ngài phó linh hồn như một người tôi tớ đau khổ đích thực của Thiên Chúa, đúng như ngài đã sống trong suốt cuộc đời giữa muôn vàn thập giá và gian truân, không phải chỉ bên ngoài mà ngay trong tâm hồn... Chính Chúa Kitô để cho Đức Cha Pierre Lambert cảm nếm tột độ sức nặng của Thánh Giá Chúa mà ngài đã say mến suốt đời”[89].
Đức Cha Francois Pallu nhận định về người bạn đồng hành và đồng chí hướng của mình như sau: “Công trình mà Đức Giám Mục hiệu tòa Bérythe đã thực hiện, không ai khác có thể làm nổi. [...] Sau Thiên Chúa, chính nhờ Đức Cha Lambert, chúng ta có được những công trình hiện nay tại Siam, Đàng Ngoài và Đàng Trong, là những nơi ngài đã vượt qua vô vàn khó khăn và đương đầu với bao cơn bão tố... Thiên Chúa ban cho ngài một tinh thần vững mạnh, không bao giờ lùi bước hoặc mềm yếu khi biết mình có lý. Nhưng ngài cũng biết nhượng bộ đúng lúc và hy sinh một điều gì nếu cần để đạt cái chính yếu, ngài có nhiều sáng kiến tuyệt vời để giải quyết mọi vấn đề và thực hiện đến cùng điều đã dự tính”[90].
Sau này, cha Louis Louvet, thành viên Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris, đã nhận định: “Người ta có thể nói không quá đáng, Đức Cha Lambert là vị thánh, và có nhiều sự kiện ngoại thường do các thừa sai cùng sống với ngài chứng nhận, theo đó hình như Chúa đã ban cho ngài được ơn làm phép lạ. Đức Cha có một đức tin rất sống động và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa Quan Phòng. Dầu bận rộn muôn ngàn công việc, nhưng mỗi ngày ngài cầu nguyện nhiều giờ, và khi dâng Thánh Lễ, chỉ một ý nghĩ đến người ngoại giáo và kẻ tội lỗi, cũng đủ làm ngài rơi lệ. Đức Cha rất hy sinh hãm mình, đầy nhiệt tình và cương nghị vì lợi ích của Giáo Hội. Bất kỳ ngăn trở nào, vụ việc nào, nguy hiểm nào cũng không ngăn cản được ngài chu toàn nghĩa vụ”[91]. Tất cả là để Tôn Vinh Thiên Chúa và vì Ơn Cứu Độ cho con người.
(Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN số 116, Tháng 1 & 2, năm 2020)
__________
[01] Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá (Nhóm NCLĐMTG), “Luật Tu Hội Các Trinh Nữ và Phụ Nữ Đạo Đức” (Luật Tiên Khởi), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., 2017, I, 5-7, tr.27-28.
[02] Thánh Lễ Khai Mạc Năm Thánh Mừng 350 Năm Thành Lập Dòng Mến Thánh Giá, tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận Sài Gòn, ngày 05/08/2019.
[03] Cf. Daniel-Rops, Histoire de l'Église du Christ, tome VII, Le Grand siècles des âmes, Paris, Fayard, pp.55-56.
[04] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên Của Công Cuộc Truyền Giáo Hiện Đại. Pierre Lambert de la Motte- Đại Diện Tông Tòa Tiên Khởi Đàng Trong (1624-1679), bản dịch của Lucien Hoàng Gia Quảng, nxb Phương Đông, 2014, tr.48.
[05] X. H. Frondeville, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte (1624-1679), Nguyễn Xuân Hùng dịch, Tp.HCM, 2007, lưu hành nội bộ, tr.9.
[06] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.61.
[07] X. nt., tr.49.
[08] X. H. Frondeville, sđd., tr.10.
[09] X.F. F. Buzelin, Tìm Về Nguồn Gốc Hội Thừa Sai Hải Ngoại, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, 1624-1679, bản dịch của Lucien Hoàng Gia Quảng, nxb Phương Đông, 2015, tr.26-27.
[10] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.71.
[11] X. J. Ch. Brisacier, Cuộc Đời Đức Cha Lambert de la Motte, Giám Mục Hiệu Tòa Béryte, lưu hành nội bộ, 2006, số 14.
[12] X. nt., số 16.
[13] X. nt., số 26.
[14] X. nt., số 43.
[15] X. nt., số 65.
[16] F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.132.
[17] J. Ch. Brisacier, sđd., số 76.
[18] X. nt., số 87.
[19] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.138-141.
[20] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 90.
[21] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.155.
[22] X. nt, tr.142.
[23] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 104.
[24] X. Nhóm NCLĐMTG, Lịch Sử Dòng Mến Thánh Giá, 2018, tr.82.
[25] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.180.
[26] X. nt., tr.180.
[27] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 150.
[28] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.152.
[29] X. nt., tr.152.
[30] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 148.
[31] X. Nhóm NCLĐMTG, Lịch Sử Dòng Mến Thánh Giá, sđd., tr.94.
[32] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.153-154.
[33] Cf. A. Launay, Histoire Générale de la société des Missions Étrangères, Paris, Téqui, 1874, p.34.
[34] Cf. A. Launay, Histoire de la Mission du Tonkin. Documents Historiques: 1657 -1717, Paris, Maisonneuve, 1927, réedité en 2000, pp.3-4.
[35] Cf. Ibib., A. Launay, Documents Historiques relatives à la Société des Missions Étrangères, Paris, 1904, pp.27-35.
[36] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.224.
[37] X. nt.
[38] X. nt., tr.281.
[39] X. Nhóm NCLĐMTG, “Động Lực Thúc Đẩy Một Thừa Sai Tông Tòa...” (Động Lực), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 24, tr.127.
[40] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.282.
[41] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 223.
[42] X. Đỗ Quang Chính, Hai Giám Mục Đầu Tiên Tại Việt Nam, Tp.HCM, lưu hành nội bộ, 2005, tr.146-150.
[43] X. J. Bourges, Ký Sự Cuộc Hành Trình Của Đức Cha Bérythe, lưu hành nội bộ, 1996, tr.202-203.
[44] X. nt., tr.215.
[45] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 233.
[46] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.370.
[47] X. Nhóm NCLĐMTG, Lịch Sử Dòng Mến Thánh Giá, sđd., tr.113.
[48] Cf. AMEP, vol. 169, pp.21-22.
[49] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.440.
[50] X. Đào Quang Toản, Giáo Hội Việt Nam năm 1659, Tp.HCM, nxb Phương Đông, 2009, tr.129.
[51] F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.512.
[52] Cf. J. Guennou, Missions Étrangères de Paris, Fayard, 1986, p.164. Nhóm NCLĐMTG gọi tắt Hiệp Hội này là Hiệp Hội Mến Thánh Giá Tại Thế.
[53] Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá (Nhóm NCLĐMTG), “Luật Tu Hội Các Trinh Nữ và Phụ Nữ Đạo Đức” (Luật Tiên Khởi), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert la Motte..., sđd., II,1-2, tr.88.
[54] Cf. A. Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, tome I, Paris, Téqui, 1923, p.62.
[55] X. Đào Quang Toản, Đức Cha Lambert de la Motte, 2016, tr.28.
[56] X. Nhóm NCLĐMTG, Tiểu Sử - Bút Tích Đức Cha Phêrô-Maria Lambert de la Motte, 1998, số 15, tr.26.
[57] Cf. AMEP, vol. 677, p.196.
[58] Cf. Ibib., vol. 121, p.757.
[59] X. Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Ở Việt Nam, quyển I, Calgary, Canada, 2002, tr.260.
[60] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 253.
[61] Cf. A. Launay, Histoire de la Mission du Tonkin, tome I, op.cit., pp.104-105.
[62] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.510.
[63] X. nt., sđd., tr.513.
[64] Cf. Journal de la Mission, p.132.
[65] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 260.
[66] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.514-515.
[67] X. nt., tr.523.
[68] X. B. Vachet, Chuyện Đức Cha Lambert, Cao Kỳ Hương dịch, 2005, tr.48-50.
[69] Cf. A. Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, tome I, op.cit., p.96.
[70] X. Đào Quang Toản, Đức Cha Lambert de la Motte, sđd., tr.32.
[71] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 269.
[72] Cf. Relation des Missions et des Voyages des Évesques Vicaires Apostoliques, et de leurs Ecclesiastiques des années 1672, 1673, 1674 et 1675, Paris, Charles Angot, 1680, pp.33-34.
[73] X. Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Ở Việt Nam, sđd., tr.289.
[74] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 270.
[75] X. nt., số 271.
[76] X. nt., số 289.
[77] X. Đào Quang Toản, Tìm Hiểu Lịch Sử Dòng Mến Thánh Giá, lưu hành nội bộ, 2013, tr.254.
[78] Cf. H.Chappoulie, Aux Origines d'Une Église: Rome et les Missions d'Indochine, Paris, 1943, pp.276-341.
[79] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.610.
[80] X. Nguyễn Văn Trinh, Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam, tập III, 1994, tr.258.
[81] Cf. AMEP, Vol 877, pp.575-576.
[82] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 294-295.
[83] f. AMEP, vol 877, pp.581-582.
[84] Nhóm NCLĐMTG, “Di Chúc Của Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., 1675” (Di Chúc), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., tr.192-195.
[85] X. Đào Quang Toản, Đức Cha Lambert de la Motte, sđd., tr.42.
[86] Cf. Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, op.cit., pp.87-88.
[87] Ibib., p.237.
[88] A. Launay, Histoire de la Mission de Siam: Documents historiques: 1662-1696, Paris, Téqui, 1920, p.36.
[89] Lettre de Laneau aux Directeurs du Séminaire, Siam, 02/11/1679, AMEP, vol. 860, p.25.
[90] A. Launay, Histoire générale de la société des Missions Étrangères, op.cit., pp.253-254.
[91] L. E. Louvet, La Cochinchine religieuse, tome I, Paris, Ernest Leroux, 1883, pp.305-307.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hoa Đã Nở
Tấn Đạt
22:13 11/05/2020
HOA ĐÃ NỞ
Ảnh của Tấn Đạt
Xuân đã về
Hoa đã nở
Đại dịch sẽ qua
(bt)
Ảnh của Tấn Đạt
Xuân đã về
Hoa đã nở
Đại dịch sẽ qua
(bt)
VietCatholic TV
Cảm động: Thị trưởng Ý tin Tổng Lãnh Thiên Thần Micae đã cứu dân Gargano bình an vượt qua dịch bệnh
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:58 11/05/2020
1. Thị trưởng thành phố Ý tin rằng Tổng Lãnh Thiên Thần Micae đã bảo vệ cho thành phố Gargano
Thành phố Gargano, cách Rôma 389km về phía Đông, là một thành phố có lịch sử lâu đời tại tỉnh Foggia, trong miền Puglia, đông nam nước Ý, và là một phần của Vườn quốc gia Gargano, được thành lập vào năm 1991.
Gargano là nơi có ngôi đền cổ nhất ở Tây Âu dành để kính Tổng lãnh thiên thần Micae, gọi là đền Monte Sant'Angelo sul Gargano.
Tính đến thứ Hai 11 tháng Năm, tử vong toàn thế giới đã lên đến 283,859 người, trong số 4,180,303 trường hợp nhiễm coronavirus. Tử vong tại Ý là 30,560 người, trong số 219,070 trường hợp nhiễm coronavirus.
Tờ Il Timone cho biết tính đến này toàn tỉnh Foggia chỉ có 1,111 trường hợp nhiễm bệnh được xác nhận trong đó số người chết là 93 người. Riêng tại thành phố Gargano, dân chúng không ai bị nhiễm bệnh. Thị trưởng Gargano nói với tờ Il Timone ông tin rằng Tổng Lãnh Thiên Thần Micae đã bảo vệ cho thành phố của ông trong đại dịch coronavirus kinh hoàng này.
Theo truyền thống của thành phố, bức tượng Tổng Lãnh Thiên Thần Micae chỉ được đưa ra khỏi đền thờ mỗi năm một lần vào ngày 29 tháng 9. Tuy nhiên, trước đại dịch coronavirus kinh hoàng này, ông đã xin cha Giám Đốc Đền Thờ cung nghinh thanh kiếm của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae đi quanh thành phố để che chở cho dân chúng.
Vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá, 5 tháng Tư vừa qua, ông thị trưởng đã hiện diện trong Đền Thờ cùng 3 linh mục cử hành nghi thức long trọng này.
Trong buổi lễ, cha Giám Đốc Đền Thờ, Ladislao Sucky, cầu khẩn Tổng Lãnh Thiên Thần Micae.
Hôm nay chúng con cầu khẩn Thánh Thiên Thần vì như trong quá khứ, trong những thời khắc thử thách khác nhau, trước những thảm họa thiên nhiên, hay là dịch bệnh, tiền nhân của chúng con ở nơi này đã cầu khẩn Thánh Thiên Thần và luôn tìm thấy sự giúp đỡ của Ngài. Sự can thiệp của Thánh Thiên Thần đã mang lại một sự giải thoát phi thường cho Monte Sant'Angelo trong thời kỳ bệnh dịch năm 1656. Hôm nay chúng con cầu xin Chúa can thiệp để cứu không chỉ Monte Sant'Angelo, mà cả nước Ý, tất cả cư dân Gargano, và tất cả thế giới khỏi dịch bệnh này.
Chính ông thị trưởng Gargano cũng kêu cầu sự can thiệp của Thánh Thiên Thần.
“Lạy Thánh Thiên Thần, con xin thay mặt cho thành phố Gargano quỳ trước Thánh Thiên Thần; đó là một thành phố đang trông lên Thánh Thiên Thần qua mắt con; đó là một thành phố cầu nguyện cùng Thánh Thiên Thần ngày hôm nay thông qua giọng nói của con.
Xin Thánh Thiên Thần chấp nhận lời cầu nguyện này của chúng con, xin bảo vệ chúng con với thanh kiếm của Ngài, xin cho đất nước của chúng con khỏi đại dịch này. Xin bảo vệ những người ngày nay như năm 1656 Ngài đã bảo vệ những người thời đó. Xin Thánh Thiên Thần ban cho chúng con sức mạnh để đoàn kết khi đối mặt với tình huống khẩn cấp khủng khiếp này. Xin Thánh Thiên Thần cầu bầu để lời cầu nguyện này của chúng con là một bài hát đi thẳng đến Thiên Chúa.”
Thanh kiếm được mang theo trong cuộc rước kiệu cùng với Bí Tích Thánh Thể và một thánh tích Thánh giá, là một món quà được một Thập tự quân tặng cho thành phố vào năm 1228.
Đức Tổng Giám Mục Viganò, khi kêu gọi các giám mục và linh mục trên toàn thế giới, chống lại đại dịch coronavirus như một kẻ thù chung của toàn thể loài người, cũng kêu gọi các tín hữu cầu xin sự can thiệp của Thánh Thiên Thần Micae.
“Ngay từ những ngày đầu của Giáo hội, Tổng Lãnh Thiên Thần Micae đã được tôn sùng là người bảo vệ Dân Chúa, giúp các Kitô hữu kiên định trong sự trung tín với Thiên Chúa, đặc biệt là trong những thời gian thử thách,” Đức Tổng Giám Mục Viganò nói.
Trong thời kỳ đại dịch coronavirus kinh hoàng - khi “kẻ thù chung của nhân loại dường như đã chiến thắng nhiều trận chiến - các tín hữu hãy hướng đến Tổng Lãnh Thiên Thần Micae để xin Ngài bảo vệ, khi họ mừng chiến thắng của Lễ Phục sinh và suy ngẫm những lời này từ Sách Khải Huyền:
“Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Micae và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thủ hạ của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa.”
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với Tổng Lãnh Thiên Thần Micae:
Lạy ơn Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, xin giúp chúng con trong cơn giao chiến, đánh phá sự hiểm ác mưu sâu quỉ dữ. Chúng con sấp mình nguyện xin Chúa chế trị nó cùng xin nguyên soái cơ bình trên trời lấy quyền phép Chúa mà hạ Satan cùng các quỉ dữ đang rong ruổi khắp thế làm hại các linh hồn. Xin bắt chúng giam cầm trong hỏa ngục. Amen
Source:Aleteia
Thánh lễ tại Santa Marta 11 tháng Năm: Đức Thánh Cha cầu nguyện cho những người mất công ăn việc làm
Lúc 7 sáng thứ Hai 11 tháng Năm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại nhà nguyện Santa Marta để cầu nguyện cho những bệnh nhân nhiễm coronavirus, các nhân viên y tế, và những ai đang phải đau khổ vì trận dịch kinh hoàng này.
Trong thánh lễ, ngài cầu nguyện cách riêng cho những người thất nghiệp vì COVID-19. Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm 75 năm phát hiện thi hài Thánh Timôthêô trong hầm mộ của Nhà thờ Termoli, khi phục hồi nhà thờ này vào năm 1945.
Mở đầu thánh lễ Đức Thánh Cha nói:
Hôm nay, chúng ta tham gia cùng các tín hữu thành phố Termoli, trong ngày lễ tìm thấy thi hài Thánh Timôthêô. Trong những ngày này, nhiều người đã mất việc làm; nhiều người đã không được trợ cấp, đặc biệt là những làm việc bất hợp pháp. Chúng ta cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta, những người phải chịu đựng tình trạng thiếu công ăn việc làm đầy thử thách này.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã trình bày các suy tư của ngài về bài Tin mừng trong ngày trích từ Phúc Âm theo Thánh Gioan (Ga 14, 21-26), trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy.”
Phúc Âm: Ga 14, 21-26
“Ðấng Phù Trợ mà Cha sẽ sai đến, Người sẽ dạy các con mọi điều”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy”.
Ông Giuđa, không phải Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?” Chúa Giêsu trả lời: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Mở đầu bài giảng Đức Thánh Cha nói:
Những lời Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay là lời hứa gởi Thánh Thần đến sống cùng chúng ta. Chúa Cha và Chúa Con gửi Ngài đến để đồng hành cùng chúng ta trong cuộc sống. Chúa Thánh Thần là “Paraclito” – Đấng Bảo Trợ, bởi vì Ngài nâng đỡ chúng ta, giữ cho chúng ta đứng thẳng để không bị ngã. Trước đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay, Chúa đã hứa ban cho chúng ta sự hỗ trợ của Chúa Thánh Linh khi Ngài nói: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” (Ga 14:16).
Thánh Linh dạy chúng ta đi vào mầu nhiệm đức tin, giúp chúng ta hiểu được các mầu nhiệm, và giáo lý của Chúa Giêsu, cũng như phát triển đức tin của chúng ta mà không phạm sai lầm, bởi vì giáo lý phát triển theo sự hiểu biết nhưng luôn theo cùng một hướng. Thánh Thần giúp chúng ta hiểu thêm và nhiều hơn những gì Chúa Giêsu đã nói.
Tín lý không dừng lại nhưng phát triển. Thánh Linh ngăn cản không để cho đức tin bị dậm chân tại chỗ, và không phát triển trong chúng ta. Thánh Linh phát triển trong chúng ta một sự hiểu biết về những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Ngài nhắc nhở chúng ta về những gì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta, như ký ức, đánh thức chúng ta, làm cho chúng ta thức tỉnh trước những điều Chúa dạy, khiến chúng ta nhớ đến cuộc sống của chúng ta, khi chúng ta gặp gỡ Chúa và ngay cả khi chúng ta lìa xa Chúa.
Thánh Linh dẫn đưa chúng ta đến ký ức về ơn cứu rỗi, ký ức về hành trình của cuộc đời, hướng dẫn chúng ta nhận ra những gì chúng ta phải làm bây giờ, đâu là đường ngay nẻo chính, và đâu là những nẻo đường lầm lạc, sai trái.
Thánh Linh giúp chúng ta đưa ra các quyết định lớn nhỏ mỗi ngày. Ngài dạy chúng ta mọi thứ, giới thiệu cho chúng ta những mầu nhiệm, khiến chúng ta nhớ và khiến chúng ta có khả năng phân định. Chúa Thánh Thần là món quà của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16)
Để kết luận, Đức Thánh Cha xin Chúa giúp chúng ta trân quý món quà này mà chúng ta đã nhận được trong bí tích rửa tội và năng cầu khẩn cùng Chúa Thánh Thần giúp ta phân định trong các quyết định lớn nhỏ mỗi ngày.
Source:Vatican News
Trung Quốc thâm nhập, thao túng các Đại Học Mỹ như thế nào? Nhận định của hai giáo sư Hoa Kỳ
Giáo Hội Năm Châu
15:47 11/05/2020
Trên tờ National Review số ra ngày 6 tháng Năm, hai giáo sư R. Richard Geddes và Barry Strauss có bài nhận định về sự thâm nhập và tầm ảnh hưởng của Trung Quốc trong các đại học Mỹ.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
American Universities Must Stop Covering for the Chinese Communist Party
R. Richard Geddes và Barry Strauss
Các Đại Học Mỹ phải chấm dứt bao che cho đảng cộng sản Trung Quốc
Trước mức độ đánh lạc hướng và thụ động của nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc mà nhiều người đã bàn luận trong đại dịch này, câu hỏi đáng được nêu ra là cuộc khủng hoảng COVID-19 có liên quan như thế nào với chủ nghĩa cộng sản và ý thức hệ Mác – Lênin, là nền tảng của nó.
Phần lớn nền giáo dục đại học Hoa Kỳ ngày nay, hoàn toàn chẳng đề cập đến một chút nào trong các tường thuật chính mạch. Một thành kiến cánh tả được ghi nhận rõ ràng trong các trường đại học và cao đẳng, đặc biệt là ở những người tự coi mình là thành phần tinh anh của xã hội, đang đào tạo ra những sinh viên được trang bị một cách nghèo nàn trong việc nhận biết những hành vi như thế của cộng sản. Để thấy vấn đề bao quát hơn, cần lưu ý rằng môn lịch sử đóng một vai trò nhỏ hơn trong hệ thống giáo dục trung học so với trước đây, và môn công dân giáo dục đã biến mất.
Ngày nay trong giới hàn lâm, người ta có nhiều khả năng được nghe về sự cướp đoạt của chủ nghĩa tư bản hơn là sự tàn phá của chủ nghĩa cộng sản. Việc tự hào xưng mình là người Marxist đã trở thành xu hướng từ lâu. Một cuộc thăm dò gần đây kết luận rằng mười người Mỹ thì có 4 người ủng hộ một thứ xã hội chủ nghĩa hay các chính sách xã hội nào đó. Một cuộc thăm dò khác kết luận rằng 1/3 thiếu niên thiên niên kỷ mới này ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Một cuộc thăm dò ý kiến năm 2016 cho thấy Karl Marx rất có khả năng được đưa vào sách giáo khoa trong các lớp học của những trường đại học Hoa Kỳ hơn là Adam Smith.
Dường như không có lịch sử về thất bại kinh tế, không có nhà tù và trại lao động cưỡng bức, chiến tranh xâm lược, không có sự lật đổ nào có thể xâm nhập vào cơ cấu đang thịnh hành của hệ thống giáo dục Đại Học Hoa Kỳ. Dường như không có gì có thể làm lung lay một niềm tin cứng cỏi hoặc một sự mù quáng vô tâm như vậy. Ngày nay, quang cảnh bao quát trong các trường đại học là sự lan rộng toàn cầu của COVID-19 không gì khác hơn là một sự kiện tự nhiên đáng tiếc, chứ không phải do sự đàn áp, tham nhũng, và nói dối thẳng thừng của chế độ Trung Quốc. Không ai bị đổ lỗi, và chắc chắn cũng không đổ lỗi được bất kỳ hệ tư tưởng chính trị cụ thể nào. Hoặc nếu có một ý thức hệ nào bị đổ lỗi, thì đó không phải là chủ nghĩa cộng sản. Giáo sư đã về hưu của MIT là Noam Chomsky đã đổ lỗi cho đại dịch về sự thất bại của chủ nghĩa tư bản.
Hành vi gần đây của Trung Quốc thật đáng ghê tởm. Các bác sĩ Trung Quốc đã xác định việc lây lan từ người sang người sớm nhất là vào giữa tháng 12 năm 2019. Tuy nhiên, chính quyền Trung Quốc cứ tiếp tục phủ nhận không hề có sự truyền bệnh như vậy trong nhiều tuần lễ. Tình báo Hoa Kỳ cho rằng Trung Quốc che giấu mức độ bùng phát và không thông báo đầy đủ số lượng các trường hợp lây nhiễm và số thương vong. Họ đã không cách ly Vũ Hán cho đến tận 23 tháng Giêng, sau khi hàng triệu người đã đến Trung Quốc để dự lễ đón Tết Nguyên đán và toả đi khắp nơi trên toàn cầu.
Theo tờ New York Times, kể từ ngày 1 tháng Giêng, đã có 430,000 người vào Hoa Kỳ thông qua các chuyến bay trực tiếp từ Trung Quốc,. Đó chỉ là nước Mỹ. Ảnh hưởng trên toàn cầu thật thảm khốc: Các khoa học gia trong một nghiên cứu gần đây đã khám phá ra rằng các trường hợp coronavirus có thể đã giảm 95% nếu Trung Quốc đã có phản ứng sớm hơn ba tuần.
Làm thế nào nhà chức trách Trung Quốc có thể hành động vô trách nhiệm, và khinh thường sự an khang của kẻ khác đến như vậy? Câu trả lời là Trung Quốc vẫn còn là một chế độ cộng sản chuyên chế, nơi người dân Trung Quốc cũng nằm trong số những nạn nhân khốn khổ nhất của họ. Toàn nhân loại hiện đang phải trả giá. Một số chính phủ dân chủ có thể đã bị che mắt và xử sự sai lầm trong phản ứng ban đầu của mình đối với virus. Đúng vậy, nhiều chính phủ dân chủ quả thật có làm điều đó. Tuy nhiên, những người tố giác, trình báo chính xác và gây xôn xao dư luận đã nhanh chóng buộc phải có sự thay đổi. Nó lại không được như vậy dưới chế độ Cộng sản, nơi những người tố giác biến mất một cách bí ẩn.
Trung Quốc rất tàn nhẫn trong nhiệm vụ đánh cắp nghiên cứu, kiểm soát thông tin và giành được sự chấp thuận. họ đã phân phối các ngân quỹ có mục tiêu cho các học giả được lựa chọn một cách có chiến lược trong các trường đại học Mỹ (như đã thấy trong các cáo buộc năm nay tại Đại học Harvard và Đại học Florida), đã thành lập Viện Khổng Tử trong các khuôn viên đại học để truyền bá tư tưởng Marxist, và tham gia vào một chiến dịch tuyên truyền toàn cầu - một cách tinh vi, với nỗ lực dựa trên dữ liệu, được hỗ trợ bởi một cuộc tấn công bằng truyền thông xã hội khổng lồ - để thể hiện mình là một đấng cứu tinh trên toàn thế giới, chứ không phải là một nhà nước có rất nhiều điều phải giải thích.
Việc tố cáo chủ nghĩa cộng sản được nhường cho những người bị giới tinh hoa và hàn lâm xem là không khôn khéo, lạc hậu hoặc thậm chí là phân biệt chủng tộc. Việc chỉ trích chế độ cộng sản Trung Quốc không nên bị xem là sự chỉ trích người dân, và chủ nghĩa cộng sản không nên được quyền làm tới chỉ vì mọi người sợ bị gọi là kẻ phân biệt chủng tộc.
Mặc dù chế độ Trung Quốc đã được một số người tín nhiệm vì đã đưa hàng trăm triệu người thoát khỏi đói nghèo, uy tín ấy thuộc về chính người dân Trung Quốc, những người đã dám nghĩ dám làm và siêng năng. Chế độ này chỉ đơn thuần thoát ra khỏi mấy thập niên của các kế hoạch kinh tế xã hội đầy thảm hại. Sự áp bức vẫn còn tồn tại, đặc biệt đối với những người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng, những người đấu tranh bảo vệ quyền tự do dân sự ở Hồng Kông và những người trung ngôn khắp nơi ở Trung Quốc.
Mặc dù những hành động ác độc của chế độ Trung Quốc đôi khi bị các giáo sư và ban giám đốc các đại học lên án, nhưng thường thì những đường giây liên kết đến hệ tư tưởng hỗ trợ những hành động này lại bị bỏ qua. Nhiều học giả vẫn bỏ qua mối liên hệ này.
Đã đến lúc các nhà giáo dục đại học và sinh viên của họ phải thảo luận một cách cởi mở về những sai lầm của chủ nghĩa Marx trong thực tiễn và những thiệt hại to lớn mà nó đã gây ra. Chúng ta cần một cuộc tranh luận không có giới hạn, tự do và cởi mở về những giá trị so sánh của chủ nghĩa cộng sản đối với chủ nghĩa tư bản. Nếu không là bây giờ thì đến khi nào?
Nếu sau một cuộc tranh luận như vậy mà sinh viên Mỹ sau khi rời bỏ trường đại học trở nên đối nghịch với chủ nghĩa tư bản, thì cứ cho là như vậy. Nhưng đừng bao giờ để họ đạt đến kết luận đó mà không nghiên cứu trước về thực tế chết người của những gì cộng sản đã tạo ra cho toàn nhân loại.
R. Richard Geddes là giáo sư thỉnh giảng tại Viện American Enterprise Ins. Ông cũng là giáo sư môn phân tích chính sách và quản lý tại Đại học Cornell, nơi Barry Strauss là giáo sư Lịch sử và Edith M. Bowmar là giáo sư môn Khoa học Nhân Văn
Source:National Review