MỘT YẾU TỐ GÂY KINH NGẠC
“Xưa nay chưa hề có ai đã nói năng như người ấy!”.
David H. Johnson nói, “Tình yêu và sự thật như Natri và Clo. Tình yêu không có sự thật là mơ hồ, đôi khi mù quáng; sự thật, tự nó, có thể gây khó chịu, đôi khi, là độc hại. Nói mà không có tình yêu, khiến mọi người xa lạ với Phúc Âm. Tuy nhiên, khi sự thật và tình yêu tích hợp nơi bản thân, chúng ta trở nên “muối của đất”, và là ‘một yếu tố gây kinh ngạc’ cho thế giới!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Với ý tưởng “muối của đất” như David H. Johnson nêu lên, Tin Mừng hôm nay cho thấy, sống trong sự thật là cách chuẩn bị tốt nhất để truyền đạt nó một cách hấp dẫn! Chúa Giêsu đã sống trong sự thật và truyền đạt sự thật một cách tuyệt vời. Ngài đã trở nên “muối của đất”, và là ‘một yếu tố gây kinh ngạc’, đến nỗi “dân chúng bất đồng ý kiến về Ngài”.
‘Không ai có thể thờ ơ quá lâu’ với Chúa Giêsu, nhất là khi nhờ Ngài, họ biết được những sự thật về Chúa Cha, công việc của Chúa Cha; và quan trọng hơn, Ngài đến từ Chúa Cha! Cuộc sống của Chúa Giêsu là một sự thật về Chúa Cha; sứ điệp của Ngài, lòng thương xót của Ngài, và các dấu lạ Ngài làm trong quyền năng và sức mạnh của Cha. Tất cả nói lên sự thật đó! Như một hậu quả, nó thật hấp dẫn! Tuy nhiên, nó cũng gây chia rẽ! Một số tin Ngài là tiên tri, số khác, Đấng Kitô; và số khác nữa, không tin. Phản ứng của các vệ binh là hoang mang, họ đến bắt Ngài và trở về tay không. Phản ứng của giới lãnh đạo là khinh thị; của Nicôđêmô là rụt rè; trái tim ông bảo ông phải bênh vực Chúa Giêsu, nhưng cái đầu ông bảo ông, đừng mạo hiểm!
Vậy thì điều gì nơi Chúa Giêsu khiến cho người đương thời phải phân hoá đến thế? Sở dĩ họ phân hoá, chỉ vì Ngài đã trở nên ‘một yếu tố gây kinh ngạc!’. Khi Ngài giảng dạy, “Người ta bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài, vì lời giảng dạy của Ngài có uy quyền!”; chỉ một lời, quỷ xuất ra, và “Mọi người kinh hãi, lời gì mà lạ lùng thế?”. Đúng! Lời Ngài có sức mạnh biến đổi! Thật khó để giải thích, nhưng rõ ràng là khi nói, Chúa Giêsu truyền đạt một sức mạnh, sự bình tĩnh, niềm tin và sự hiện diện đầy quyền năng mà chỉ một mình Thiên Chúa có. Và điều đó không thể nhầm lẫn! Mọi người chỉ biết, người này là Giêsu, khác với những người còn lại, và họ trông cậy vào lời Ngài. Và đó là sự thật khiến Ngài trở nên ‘một yếu tố gây kinh ngạc’ vì lời Ngài quá hấp dẫn!
Một điều thú vị là, một con người gây kinh ngạc thường kéo theo những phê phán! Trước Chúa Giêsu, ai có đức tin giản dị và trung thực, họ sẽ tích cực đáp lại; đang khi những người tự cao tự đại thì lên án và giận dữ. Rõ ràng, họ ghen tị; thậm chí, họ miệt thị những ai có ấn tượng tốt với Ngài. Bài đọc thứ nhất cho thấy Giêrêmia cũng đã trải qua những gì Chúa Giêsu đã trải nghiệm. Người đương thời chống ông, nhưng trong sự thật, Giêrêmia vẫn nói; ông phó mọi sự cho Chúa, “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con ẩn náu bên Ngài!” như tâm tình Thánh Vịnh đáp ca. Cuối cùng, sự thật và công lý sẽ thắng. Giêrêmia cũng là ‘một yếu tố gây kinh ngạc!’.
Anh Chị em,
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu phải là ‘một yếu tố gây kinh ngạc’ cho chúng ta trong những ngày Hội Thánh sắp bước vào những TuầnThương Khó của Ngài! Tình yêu hy tế của Ngài phải là ‘một yếu tố gây kinh ngạc’ đối với chúng ta, vốn là những người không thể thờ ơ quá lâu trước cảnh Ngài “như con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt” vì tội lỗi nhân loại; trong đó, có tội lỗi của mỗi người chúng ta! Thế nhưng, qua mầu nhiệm sự dữ và sự chết, chúng ta cũng hiểu được thế nào là tình yêu và sự tha thứ đầy xót thương của Thiên Chúa, Đấng đã cho Ngài phục sinh vinh hiển! Để từ đó, “Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài”. Nhờ mầu nhiệm Phục Sinh, Ngài trở nên “muối của đất”, ‘một yếu tố gây kinh ngạc’ cho thế giới! Cũng thế, Thiên Chúa đang ước mong làm những điều vĩ đại qua cuộc sống đời thường với những việc nhỏ bé nhưng chất chứa tình yêu của chúng ta. Sống được như thế, như Chúa Giêsu, chúng ta thật sự là “muối của đất”, ‘một yếu tố gây kinh ngạc’ cho thế giới!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin cho con biết ngạc nhiên trước tình yêu hiến tế của Chúa. Đến lượt con, cho con trở nên ‘một yếu tố gây kinh ngạc’; đừng là ‘một yếu tố gây kinh hoàng’ cho bất cứ ai!”, Amen.
(Tgp. Huế)
NHÌN MÌNH, ĐỪNG LÊN ÁN NGƯỜI
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY NĂM C
Nhìn vào bản thân, để nhận ra mình tốt hay xấu. Tốt đến mức nào, và xấu ra làm sao? Can đảm tự nhận ra mình, nhận ra nội tâm của mình, đó chính là sự can đảm của nghị lực, của ý chí mà Thiên Chúa ban cho.
Hãy nhớ, dù ta có trở về, có ý chí, có nghị lực hoán cải đời sống, thì tất cả những điều đó đều do ơn Chúa ban. Ta là người cộng tác với ơn Chúa bằng chính nghị lực của bản thân khi quyết tâm trở về cùng Chúa.
Hôm nay, chúng ta hãy dựa vào lời Chúa Giêsu nói với những người lên án chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: “Trong các ngươi, ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”, để thấy trách nhiệm của từng người. Trách nhiệm đo là: Can đảm nhìn vào chính bản thân, chứ đừng lên án anh chị em.
Người ta mang đến trước Chúa một phụ nữ ngoại tình. Chiếu theo luật, họ cứ việc ném đá, không cần Chúa làm trọnh tài. Nhưng thật nham hiểm! Họ lại dẫn chị đến với Chúa không phải vì tôn trọng, kính nể, hay biết Chúa là Chúa nên nhường quyền xét xử cho Chúa, mà chỉ vì muốn thử Chúa, muốn gài bẫy Chúa, muốn xem Chúa xử lý ra sao để bắt bí Chúa.
Độc ác hơn, họ muốn tìm chứng cớ, để nhân cơ hội này, hãm hại Chúa. Vì nếu Chúa tuyên bố tha thứ cho chị, Chúa sẽ bị kết tội là vi phạm lề luật, đi ngược lại, thậm chí chống lại lề luật tôn giáo.
Nhưng nếu chiếu theo luật mà xét xử, Chúa sẽ phải ra lệnh ném đá chị. Như thế, Chúa chẳng hơn gì lề luật, xem ra Chúa cũng độc ác như những gì luật đã quy định.
Mặt khác, họ sẽ có cớ để cho rằng Chúa mâu thuẫn với chính giáo huấn của Chúa. Vì trong suốt thời gian giảng dạy, Chúa không ngừng đòi mọi người phải yêu thương nhau, tha thứ cho nhau, thăng tiến đời sống của nhau, cùng nhau nên thánh thiện như chính Thiên Chúa...
Mọi trường hợp, Chúa đều rơi vào bẫy của họ.
Nhưng sự khôn ngoan của Thiên Chúa không chỉ đánh gục cái mà con người gọi là khôn ngoan của mình, mà còn đánh gục cả lòng kiêu ngạo, chất chứa toàn hận thù, ganh ghét và độc ác của con người.
“Ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Có ai sạch tội đâu, nên có ai dám cầm cục đá nào mà ném vào chị đâu, dù là một cục đá nhỏ nhất.
Không những không dám ném mà còn bẻ mặt. Bẻ mặt đến mức phải rút lui từng người một, bắt đầu từ những người, không phải trẻ, nhưng là những cụ ông, cụ bà, những người già nhất, có bề dày của thời gian phạm tội, rồi mới đến trẻ dần.
Sau cùng chẳng còn ai, dù trẻ hay già. Rõ ràng, chỉ một lời nói nhẹ nhàng, Chúa Giêsu đánh gục lòng kiêu ngạo của con người.
Chính lòng đầy kiêu ngạo, những người Dothái xúm nhau kết án chị phụ nữ kia.
Bởi kiêu ngạo, họ cũng chẳng thấy mình, chẳng biết nhìn vào bản thân, vì thế chẳng bao giờ nhận ra con người thật của họ.
Ai biết được trong đám người hùa nhau đòi kết án chị, có bao nhiêu kẻ phạm cái tội giống như chị, có khi còn nặng hơn, nhưng khéo che đậy, không ai phát hiện, vì thế, tỉnh bơ lên án chị, y như mình vô tội lắm?
Còn bạn và tôi thì sao? chắc cũng không khác những người Dothái xưa. Nhiều lần ta xét đoán, lên án anh chị em xung quanh, trong khi bản thân chẳng tốt lành gì. Lắm lúc còn lỗi nặng hơn anh chị em.
Hãy nhìn vào chính bản thân trước và đừng kết án anh chị em. Nhìn vào mình để hối cải, để khám phá lỗi lầm mà chừa bỏ và trở về với Chúa.
Nhìn nhận mình tội lỗi, thấp hèn để cải hóa chính cuộc đời mình, là can đảm, là nghị lực, là ý chí của những người thành tâm trở về với Chúa. Chúng ta hãy luôn luôn đinh ninh trong lòng điều này: Hãy xé lòng, đừng xé áo. Hãy xét mình, đừng nhìn anh em!
Chúa nhật tuần sau sẽ là lễ Lá, bắt đầu tuần Thánh. Tin rằng, suốt mùa Chay, đã cùng nhau ăn năn tội lỗi, thì tuần Thánh sẽ là cơ hội để chúng ta chấp nhận đi vào mầu nhiệm thánh giá của Chúa cách sốt sắng hơn, thấm thía hơn.
Nhận ra Chúa chết cho mình, ta càng phải khẳng định rằng, tội lỗi là kẻ thù số một của cuộc đời mà ta phải cố sức từng giây phút để tránh né, để chiến đấu chống trả, để chữa trị và để không bao giờ tái phạm.
BÀI ĐỌC 1 Is 43:16-21
Bài trích sách Isaia.
Đây là lời Đức Chúa, Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương, một lối đi giữa sóng nước oai hùng, Đấng đã cho xuất trận nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng: – tất cả đã nằm xuống, và không còn trỗi dậy, đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn. Người phán như sau:
“Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa,
chớ quan tâm về những việc thuở trước.
Này Ta sắp làm một việc mới,
việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?
Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc,
khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn.
Loài dã thú, chó rừng và đà điểu, đều sẽ tôn vinh Ta;
vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc,
khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn,
cho dân Ta tuyển chọn được giải khát.
Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta.”
Đó là Lời Chúa.
BÀI ĐỌC 2 Pl 3:8-14
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Phi-líp-phê.
Thưa anh em, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người.
Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin.
Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.
Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Ki-tô Giê-su chiếm đoạt.
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Ki-tô Giê-su.
Đó là Lời Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG Ge 2:12-13
Đức Chúa phán: Ngay lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, bởi vì Ta từ bi nhân hậu.
TIN MỪNG Ga 8:1-11
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gioan.
Khi ấy, Đức Giê-su đến núi Ô-liu.
Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.”
Đức Giê-su nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Đó là Lời Chúa.
LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là vị thẩm phán công minh nhưng đầy lòng từ bi nhân hậu, hết mực yêu thương những kẻ khốn cùng và sẵn sàng tha thứ cho các tội nhân. Tin tưởng vào lòng Chúa thương xót, cộng đoàn chúng ta hãy chân thành dâng lời khẩn cầu:
1. Hội Thánh có sứ mạng loan báo ơn tha thứ cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và các vị mục tử trong Hội Thánh luôn mặc lấy tấm lòng thương xót của Thiên Chúa, hết tình yêu thương chăm sóc những người tội lỗi. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
2. Đời sống gia đình trong xã hội hôm nay đang gặp nhiều khủng hoảng. Chúng ta cùng cầu xin cho những ai đã chọn bậc sống hôn nhân, luôn trung thành với cam kết của bí tích hôn phối, biết ý thức chu toàn bổn phận vợ chồng và trách nhiệm làm cha mẹ trong gia đình. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
3. “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá trước đi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Kitô hữu biết ý thức mọi lỗi lầm và thành tâm sám hối qua việc lãnh nhận bí tích Hòa Giải trong mùa Chay thánh này, để được hiệp thông với Thiên Chúa và làm hòa với mọi người. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
4. Chúa nói với người phụ nữ: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.” Chúng ta cùng cầu xin cho tư tưởng, lời nói và việc làm của từng người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta luôn thấm nhuần tinh thần bao dung rộng lượng theo gương Chúa Giêsu. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, xin nhận lời chúng con tha thiết cầu nguyện, và giúp mỗi người chúng con biết rộng lòng trước lỗi lầm của anh chị em, để xứng đáng được Chúa yêu thương tha thứ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen
11. Sự thắng lợi toàn vẹn đối với cơn giận dữ chính là: khi trong cơn cuồng sóng giận mà tâm bình khí hòa, bình chân như vại.
(Thánh John Climacus)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Hoàng hậu của Tấn Nguyên đế sinh một thái tử, Nguyên đế bày yến tiệc bánh canh chiêu đãi các quan. Các đại thần ì ùng dâng lời:
- “Chúc mừng bệ hạ được thái tử, nghiệp đế có người kế tục, chỉ có thần tử chúng tôi đây thật xấu hổ vì không công mà được thưởng”.
Nguyên đế cười nói:
- “Nói cái gì vậy? Lẽ nào việc sinh thái tử phải có công lao của các ông sao?”
(Khiển Sầu tập)
Suy tư 38:
Việc làm vớ vẩn là làm những chuyện vô ích, có khi hại người hại mình; lời nói vớ vẩn là nói không đầu không đuôi, nói lời không có ý nghĩa; lời nói để nịnh mà không có ý nghĩa thì gọi là lời nịnh hót vớ vẩn...
Hoàng hậu sinh thái tử thì mắc mớ gì đến công lao của các đại thần, đúng là lời nói nịnh hót vớ vẩn.
Lời nói vớ vẩn mà ma quỷ thường nói với người Ki-tô hữu là: “Chúa không phạt đâu, cứ ăn chơi xã láng đi”, hoặc là “công lao khó nhọc mình làm ra thì hưởng thụ cho sướng cái đã, Chúa không trách đâu”....
Và có rất nhiều người Ki-tô hữu, cũng như có những người dâng mình làm tôi tớ của Chúa đã “chết” vì lời nói vớ vẩn ấy của ma quỷ, bởi vì họ nghĩ rằng, lời nói vớ vẩn ấy không mắc mớ gì đến đời sống thiêng liêng của mình cả.
Ôi thương hại thay !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin mừng: Ga 8, 1-11
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”
Bạn thân mến,
Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
“Mọi người nhao nhao chế nhạo con giun đất:
- Mày không có mắt, không thể thấy.
- Mày không có tai, không thể nghe.
- Mày không có chân, không thể đi.
- Mày không có cánh, không thể bay.
- Mày là một phế vật cái gì cũng không có...!
Giun đất khóc lớn tố khổ với Đấng Tạo Hóa:
- “Tại sao Ngài dựng nên con thấp kém hèn mọn không có gì là có lợi...”
- “Này con, bản thân của sinh mệnh là không phân biệt cao thấp quý tiện”- Đấng Tạo Hóa buồn thương nói tiếp: “Ta không coi thường con, tại sao con lại tự coi thường mình chứ?...” (1)
Trong cuộc sống hàng ngày,
- Có những lúc chúng ta chế nhạo người tội lỗi: Mày là đứa tội lỗi không xứng đáng đến nhà thờ.
- Có những lúc chúng ta cười nhạo người mới theo đạo: Mày là đứa đạo theo, biết gì giáo lý mà nói.
- Có những lúc chúng ta cười nhạo người anh em nghèo khó: Mày là đứa nghèo mạt rệp không xứng đáng làm bạn với tao.
- Có những lúc chúng ta cười chế nhạo người dốt nát: Mày một chữ cắn đôi cũng không biết, thì không được tham gia vào công tác nhà xứ.
- Có những lúc chúng ta cười chế nhạo người tàn tật: Mày là thứ đui què không làm được gì cho ai.
- Có những lúc chúng ta cười khinh chê cô gái đứng đường: Đồ thứ đĩ điếm dơ bẩn...
Bạn thân mến,
Chúng ta kết án tha nhân như những người Pha-ri-siêu và biệt phái kết án người phụ nữ ngoại tình, trong khi đó chúng ta là những tội nhân trước mặt Thiên Chúa, những điều xấu mà chunvg1 ta chế nhạo anh em chị em đó, có khi chúng ta càng xấu hơn họ. Mỗi một người là một tạo vật có giá trị như nhau trước mặt Thiên Chúa, cho nên dù họ có xấu xí, thất học, nghèo nàn hay tội lỗi hoặc là người mới theo đạo, thì thái độ mà chúng ta nên có đối với họ chính là tôn trọng, cảm thông và cầu nguyện...
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Vâng, nếu ai trong chúng ta tự cho mình là vô tội thì hãy lên án tha nhân trước đi !
Đúng là lời cảnh cáo nghiêm khắc của Thiên Chúa đối với chúng ta, là những người thích lên án tha nhân và anh chị em mình.
Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.
(1) Trích trong “Truyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”, bản dịch Việt ngữ của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
(Chúa nhật V Mùa Chay năm C 2022)
Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, có thể nói được, là biểu hiện cao nhất của Lòng Thương Xót nơi Thiên Chúa; phải chăng để nối kết hai mầu nhiệm “Chịu Nạn” và “Lòng Thương xót” mà Hội Thánh, với CN V MC, hay còn được gọi là Chúa Nhật Chịu Nạn (Dominica Passionis), đã chọn đọc bài Tin Mừng Thánh Gioan với câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình bị bắt tại trận” đã nhận được lòng thương xót của chính Chúa Giêsu.
Vâng, càng gần đến ngày tưởng- niệm- tái- diễn mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh, phụng vụ càng muốn chúng ta cảm nhận sâu sắc “Lòng thương xót” của Thiên Chúa qua việc Đức Kitô sẵn sang lấy “Máu châu báu để rửa sạch tội khiên” chúng ta, những kẻ, có thể nói được, đều là “những tội nhân may mắn chưa bị bắt tại trận” !
Và chúng ta có thể bắt đầu câu chuyện hôm nay qua chuyện kể Tin Mừng về “vụ án người phụ nữ đáng thương nầy”…
Trước hết, thánh sử Goan đã dành cho câu chuyện “vụ án người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình” một cái kết bất ngờ, rất “có hậu”. Chỉ cần đọc lại vài câu cuối, chúng ta có thể thấy hết nội dung phong phú và đầy tế nhị của tác giả Tin Mừng thứ Tư: còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai”. Chúa Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Quả thật, với cái nhìn của một nhà thần học chiêm niệm và cái tâm của một Tông đồ truyền giáo, Thánh Gioan gần như đã “vẽ” nên một bức tranh Tin mừng sinh động tuyệt vời, khi xua đi mọi nhân vật trơ trẻn hạ tiện, mọi ồn ào khích động bất công, mọi mọi âm mưu đố ky đen tối… để chỉ còn rực sáng lên hai con người, hai nhân vật: Đức Giêsu hiện thân của tình thương cứu độ, khoan dung, tha thứ của Thiên Chúa, và người phụ nữ phạm tội ngoại tình, hiện thân của của một nhân loại bẽ bàng, tội lỗi, đáng thương… Thánh Giáo phụ Augustinô đã kết luận chí lý: Chỉ còn lại hai người: lòng thương xót và kẻ đáng thương (Misericordia et Misera - Mercy with Misery).
Phải chăng, đó cũng chính là nội dung cốt lõi của toàn bộ chân lý đức tin Kitô giáo, của kho tàng mặc khải của Thánh kinh? Bởi chưng, chân lý cuối cùng về Thiên Chúa, đó chính là nhìn nhận và tuyên xưng “Thiên Chúa là tình yêu” hay “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”, và sự thật tối hậu dành cho thân phận của mỗi con người đó chính là: “chúng ta cần ơn cứu độ bởi vì chúng ta là tội nhân”. Một tôn giáo, một niềm tin đúng nghĩa, đích thực khi lôi kéo con người đạt tới hay sống tích cực hai “sự thật căn bản” đó.
Thật vậy, một khi con người đánh mất niềm tin vào một Thiên Chúa “giàu lòng thương xót”; hay chỉ đặt niềm tin vào một “ông Trời xa xôi”, một “Thượng Đế lạnh lùng khắc nghiệt” nào đó…, thì chắc chắn con người sẽ biến mình thành những tên quan án kiêu căng hợm hĩnh, tự cho mình cái quyền để kết án, bắt nạt, xem thường anh chị em. Chắc chắn, không phải chỉ vào thời Chúa Giêsu mới có hiện trạng niềm tin tha hóa, xuống cấp nầy, mà có lẽ mọi nơi mọi thời đều có những hạng “kinh sư, biệt phái” sẵn sàng quên mất những lời dạy của sách Lêvi “yêu thương anh em như chính mình” (Lv 19,18), để chỉ nhớ một điều “phải giết chết kẻ nào phạm tội ngoại tình” (Đnl 22,22); những kẻ mang tâm địa đen tối gian manh khi “cố rình bắt cho được một người chị em đồng bào lỡ lầm yếu đuối” để đem làm mồi nhữ cho một âm mưu đen tối của chính mình mà không đoái hoài gì đến nhân phẩm, danh dự của một con người “mang ảnh hình Thiên Chúa”. Vâng, mỗi người chúng ta, một cách nào đó, đều là những tên “ngoại tình chưa bị bắt tại trận” ! Cho nên điều quan trọng, đó là hãy im lặng, bỏ viên đá xuống và thành tâm đấm ngực ra đi, như câu chuyện cách đây 2000 năm: Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất…
Mùa Chay Kitô giáo trong những ngày cuối cùng này mời gọi chúng ta, đặc biệt, các anh chị em Dự tòng, hãy “đặt mình” trước Thiên Chúa, không phải như một cuộc đối diện trước pháp đình để run sợ trước một Thiên Chúa chỉ là một quan án lạnh lùng, tàn nhẫn, mà là một cuộc trở về” gặp gỡ một “Người Cha đang rộng vòng tay đón đợi”; là tìm lại đôi tay của “Người mục tử bỏ lại 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc”; là đón nhận ánh mắt dịu dàng thân thương của một Thiên Chúa chưa bao giờ nở lòng “dập tắt tim đèn còn ngút khói, bẽ gãy cây lau bị nát dập”...
Sứ điệp “vụ án người nữ ngoại tình” còn muốn nói với chúng ta rằng: lòng thương xót chính là một “ân ban miễn phí” của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta; (giống như câu chuyện người mẹ xin vua Napoléon tha tội tử hình cho người con…: Một người đàn bà đến với Vua Napoléon để cầu xin cho đứa con trai của bà khỏi bị xử tử. Nhà vua dựa vào Luật pháp và cho biết rằng theo công lý thì con trai bà phải chết. Bà nói:
- Muôn tâu Bệ Hạ, tôi đến đây không phải để xin công lý mà xin lòng thương xót.
- Nhưng con bà không đáng hưởng lòng thương xót. Vua trả lời.
Nhưng bà lập luận:
- Nếu nó đáng thì đâu phải là lòng thương xót nữa.
Cuối cùng nhà vua phải chấp thuận:
- Được rồi. Ta sẽ tỏ lòng thương xót đối với nó.
Người con trai ấy đã được tha chết.
Vâng, Lòng thương xót không phải là tiền công trả cho một điều gì xứng đáng, mà là một ơn ban miễn phí).
Và với “ân ban miễn phí” nầy, một vũ trụ mới, một con người mới lại bắt đầu, đầy sức sống, tươi vui, như cách “dụ ngôn” của tiên tri Isaia khi loan báo cho dân Israel: sau thuở lưu đày Babylon sẽ có ngày được hồi hương giải thoát: “Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta” (Bđ 1); và đây cũng là điều mà tác giả Thánh vịnh 125 đã cảm nhận để tưng bừng hát lên ca ngợi “lòng đại lượng khoan nhân của Thiên Chúa”:
Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan… (Đvc).
Quả thật, sau khi đã mặc lại “bộ cánh của tình yêu và ân sủng”, thì con người sẽ có được một “sức mạnh để lao mình về phía trước”. Nếu ngày xưa, chỉ cần một ánh mắt yêu thương với một lời khoan dung “ta cũng không kết án chị đâu. Chị hãy đi đi và đừng phạm tội nữa”, người phụ nữ đáng thương, tưởng đâu khi “thân đã nhúng chàm” thì sẽ chẳng bao giờ ngóc đầu lên nổi, thì chị đã chỗi dậy và làm lại cuộc đời trong đầy ắp tin yêu và hy vọng. Phải chăng đó cũng chính là kinh nghiệm của một Phaolô ngã ngựa, khi đã chạm mặt Thầy chí thánh, thì chỉ còn “coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi.” (BĐ 2)…; và cũng từ đó, chàng “Saolô biệt phái” cực đoan, nhiệt thành với luật Môsê, sẵn sàng “ném đá những tên Kitô phản động”, thì đã trở thành một “Phaolô Tông đồ” hân hoan, can đảm “quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Đức Giêsu Kitô” (BĐ 2), trở thành người loan báo Tin vui về ơn tha thứ và tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Ước gì đó cũng là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, khi từ tòa Giải tội nầy, từ bàn Tiệc Thánh Thể nầy ra đi, chúng ta mạnh mẽ “lao mình về phía trước” để làm chứng về một Thiên Chúa yêu thương và một thân phận tội lỗi được phục hồi. Bởi vì, đâu phải ai xa lạ, chính tôi, chính mọi người đang hiện diện nơi đây, chúng ta đều là những kẻ đã, đang và mãi mãi được lãnh nhận một “ân ban miễn phí” chính là lòng xót thương của Thiên Chúa. Amen.
GiuseTrương Đình Hiền
QUÊN HẾT DĨ VÃNG, ĐỂ CHỈ NHỚ ĐẾN TƯƠNG LAI
“Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng!”; “Thôi chị cứ về đi; và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
Một nhà tu đức nói, “Những người sống trong quá khứ làm tôi nhớ lại một món đồ chơi từ thuở ấu thơ. Đó là một con chim nhỏ bằng gỗ, được gọi là “Floogie Bird”. Quanh cổ nó là dòng chữ, “Tôi bay ngược, tôi không quan tâm mình bay đi đâu. Tôi chỉ muốn xem, tôi đã ở đâu!”. Đang khi với Thiên Chúa, điều quan trọng là, hãy ‘quên hết dĩ vãng, để chỉ nhớ đến tương lai!’”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay cho thấy tấm lòng xót thương của Thiên Chúa, Đấng chỉ muốn chúng ta hướng về phía trước, ‘quên hết dĩ vãng, để chỉ nhớ đến tương lai!’. Đó là một Thiên Chúa đã nói với Israel cứng đầu, “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng!”; cũng là Đấng, trong Chúa Giêsu, đã nói với người nữ phạm tội ngoại tình, “Thôi chị cứ về đi; từ nay đừng phạm tội nữa!”.
Có đến hai hạng người phạm tội trong câu chuyện Tin Mừng! Người phụ nữ tội lỗi vốn không lẻ loi chút nào; cô ấy đại diện cho tất cả chúng ta, những người đã phạm tội. Đúng thế! Cô ấy đại diện cho bạn và tôi! Các kinh sư và biệt phái, cũng là những tội nhân, họ đại diện cho bạn và tôi! Chúng ta phạm tội theo cả hai cách! Một, chúng ta làm tổn thương người khác bằng việc thoả mãn dục vọng của mình với cái giá mà người khác phải trả; chồng, vợ, con cái hoặc Hội Thánh! Hai, chúng ta làm tổn thương người khác bằng cách tự cho mình đứng trên họ, tốt hơn họ, để xét đoán họ! Chúng ta có tội, nhưng khi hành xử với anh chị em, chúng ta xem mình là quan toà vô tội, nên sẵn sàng ném đá mà không thương xót. Đó là cách con người hành xử!
Giờ đây, hãy xem cách Chúa Giêsu đối xử với tội nhân! Trước hết, Ngài không phủ nhận tội lỗi của người phụ nữ. Cô ấy đã phạm tội, một tội rất nghiêm trọng. Mức độ nghiêm trọng nằm ở sự vi phạm lòng tin và bất công đối với người phối ngẫu hơn cả hoạt động tình dục, trong trường hợp này, vốn chỉ là thứ yếu. Câu chuyện không cho biết người phụ nữ đã kết hôn hay chưa; nhưng điều mà tất cả mọi người, kể cả Chúa Giêsu, thừa nhận là, cô ấy đã phạm tội. Tuy nhiên, có một yếu tố không được đề cập rõ, nhưng ẩn ý lại rất sâu sắc. Người phụ nữ bị kéo đến trước Chúa Giêsu như một con tốt trong một trò chơi mê cung, “Ông Môisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó, còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”. Thoạt tiên, Chúa Giêsu phớt lờ, Ngài cúi xuống, lấy tay viết trên đất như để từ chối bước vào cái bẫy của cuộc chơi. Nhưng họ cứ nằn nì, Ngài ngẩng lên, “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”. Ngài lại viết.
Anh Chị em,
Sách Isaia hôm nay viết, “Đây Ta sẽ làm những cái mới!”. Quả thật, đây là điều Chúa Giêsu đã nói với cô ấy, khi chỉ còn hai người, ‘Hãy quên đi tủi nhục của tội lỗi con, hãy bắt đầu cuộc sống mới và đừng phạm tội nữa!’. Ngài làm tươi mới trái tim cô khi nhìn cô với đôi mắt yêu thương nhân từ. Thật tuyệt vời! Trải nghiệm điều đó, Phaolô hôm nay quả quyết, “Tôi coi mọi sự như thua lỗ, trước mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu, Chúa tôi”. Bước vào Tuần Thương, Giáo Hội mời gọi chúng ta đăm đăm nhìn vào đôi mắt Chúa Giêsu. Ngài nhìn chúng ta không để trách móc; nhưng nhìn với trái tim đầy xót thương. Hãy nhìn Ngài và quên đi những gì đã làm cho Chúa và anh em buồn lòng, hầu cố gắng tạo nên một tương quan mới thân tình với Chúa và anh em. Thánh Vịnh đáp ca hôm nay reo lên, “Ôi vĩ đại thay, việc Chúa làm cho ta; ta thấy mình chan chứa một niềm vui!”. Việc vĩ đại là việc Chúa đã tha thứ cho chúng ta, những tội nhân!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin dạy con nhìn lên ánh mắt nhân từ của Chúa; Đấng muốn con ‘quên hết dĩ vãng, để chỉ nhớ đến tương lai’, một tương lai thoát ách tội lỗi, để bước đi trên con đường mới!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Người đứng đầu Văn phòng Tổng thống Ukraine, Andriy Yermak, đã phản ứng như trên sau khi Đức Thánh Cha cho biết trên chuyến bay từ Rôma đến Malta rằng ngài dự định sẽ đến thăm Kiev, thủ đô của Ukraine, bất kể chiến tranh đang diễn ra.
Yermak nhắc nhớ rằng trước đây Đức Giáo Hoàng đã gửi tới các nhà lãnh đạo thế giới một thông điệp “hãy chấm dứt chiến tranh trước khi nó hủy diệt nhân loại.”
“Trong khi đó, Mạc Tư Khoa chứng tỏ rằng không có gì là thánh thiêng đối với họ trong cuộc chiến chống lại Ukraine. Chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng tới Kiev có thể ảnh hưởng đến diễn biến của các sự kiện. Chuyến tông du của ngài sẽ nhấn mạnh thêm bên nào là văn minh, và bên nào ai đại diện cho ánh sáng trong cuộc chiến này”, ông nói.
Ông nói thêm rằng ánh sáng luôn vượt qua bóng tối. “Và ánh sáng là Ukraine, những người lính của chúng tôi và người dân của chúng tôi,” Yermak nói.
Source:UKRInform
“Nơi tưởng như đã mất và ngày nay tái tạo niềm tin và hy vọng của dân Chúa.” - Với những lời này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giới thiệu đền thánh Ta 'Pinu nơi ngài đọc bài diễn từ công khai lần thứ hai trong ngày đầu tiên của ngài ở Malta, ngày 2 tháng 4 năm 2022. Đức Giáo Hoàng hướng việc suy niệm của ngài theo hướng lòng an ủi, cho thấy tính đáng tin cậy của đức tin Kitô hữu hệ ở việc họ cụ thể chú ý đến những người bé nhỏ nhất.
Đức Giáo Hoàng đã tới đền thờ Ta ’Pinu trễ gần 1 tiếng đồng hồ; đền thờ này được xây dựng trên khuôn viên của một nhà thờ nhỏ, nơi một phụ nữ nông dân đã nghe thấy tiếng nói của Đức Trinh nữ Maria vào năm 1883. Được chào đón bởi 3,000 người, hầu hết là những người trẻ tuổi, Đức Giáo Hoàng đã lắng nghe ba chứng từ, trong số đó có chứng từ của một cặp vợ chồng mà người vợ được chẩn đoán mắc bệnh đa xơ cứng lúc mới 23 tuổi.
Trong cuộc Khổ nạn của Người, “Con Thiên Chúa than khóc cái chết của Người trong khi bóng tối bao trùm thế giới,” Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc lại như thế trong bài giảng của ngài. Tuy nhiên, nghịch lý thay, Kitô giáo đã ra đời từ sự thất bại biểu kiến này. Ngài giải thích: “Từ giờ chết này, một giờ khác đã xuất hiện, tràn đầy sức sống: đó là giờ Giáo hội được khai sinh”.
Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng sứ mệnh của các Kitô hữu là mang trong lòng mình “sự an ủi của Chúa Thánh Thần để lau nước mắt nhân loại”.
Cũng vậy, tại thánh địa Ta ’Pinu này,“ nhiều người đã giao phó những đau khổ và niềm vui của họ cho Đức Trinh Nữ, và tất cả đều cảm thấy được chào đón ”, Vị Giáo Hoàng người Argentina, người thích nêu bật lòng sùng kính Đức Mẹ trong các chuyến công du quốc tế, đã nhấn mạnh như thế.
Một hòn đảo nhỏ với một trái tim lớn
Đức Giáo Hoàng bày tỏ lòng biết ơn đối với “nhiều nhà truyền giáo người Malta, những người đã truyền bá niềm vui của Tin Mừng trên khắp thế giới” và đối với nhiều ơn gọi địa phương.
“Đất nước của anh chị em là một hòn đảo nhỏ, nhưng có một trái tim lớn. Anh chị em là một kho báu trong Giáo hội và cho Giáo hội”, Đức Phanxicô nhấn mạnh như thế và lưu ý rằng“ tình yêu của Thiên Chúa ”và“ việc “chấp nhận người lân cận của mình” là hai ưu tiên cho phép chúng ta “trở lại yếu tính của Kitô giáo”.
Đức Giáo Hoàng khuyến khích người Malta sống Thượng Hội Đồng trong một năng động tính huynh đệ và cả việc chào đón những người khách lạ. Ngài kêu gọi họ "thắp lên ngọn lửa của sự dịu dàng khi cái lạnh của cuộc sống đè nặng lên những người đau khổ".
Không hài lòng với phong tục và truyền thống
Lưu ý rằng “mối quan tâm chính của các môn đệ Chúa Giêsu không phải là uy tín của cộng đồng và các thừa tác viên, ảnh hưởng xã hội, sự tinh chỉnh việc thờ phượng”, Đức Giáo Hoàng cảnh cáo như thế chống lại sự gắn bó quá mức vào các truyền thống, đặc biệt là các truyền thống phụng vụ.
Đức Giáo Hoàng cảnh cáo: “Thực tế, một tủ quần áo trang nhã với các đồ trang trí tôn giáo không phải lúc nào cũng tương ứng với một đức tin sống động được thúc đẩy bởi sự năng động của việc truyền bá Tin Mừng". Ngài nói: “Cần phải bảo đảm để các hoạt động tôn giáo không bị giản lược vào việc lặp đi lặp lại một danh mục của quá khứ, nhưng phải nói lên một đức tin sống động, cởi mở, truyền bá niềm vui của Tin Mừng".
Vào cuối ngày đầu tiên của ngài tại Malta, Đức Giáo Hoàng sẽ lên thuyền trở lại Tòa Khâm sứ để nghỉ đêm.
Dưới đây là toàn văn diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô do Tòa Thánh cung cấp;
Dưới chân Thánh giá Chúa Giêsu, có Đức Đức Maria và Thánh Gioan. Người Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa khóc thương cái chết của Người, trong khi bóng tối bao trùm thế giới. Người đệ tử yêu quý, người đã bỏ tất cả để đi theo Người, giờ đây đứng lặng dưới chân Thầy bị đóng đinh của mình. Mọi thứ dường như đã mất, đã kết thúc, mãi mãi. Mang trên mình thương tích của nhân loại, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Lạy Chúa, lạy Chúa của con, tại sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46; Mc 15:34). Đây cũng là lời cầu nguyện của chúng ta trong những lúc đau khổ. Sandi và Domenico ạ, đó là lời cầu nguyện chân thành, mà các con dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày. Cảm ơn tình yêu bền bỉ và chứng tá đức tin của các con!
Tuy nhiên, “giờ” của Chúa Giêsu, mà trong Tin Mừng Gioan là giờ của cái chết của Người trên thập giá, không biểu thị sự kết thúc của lịch sử. Đúng hơn, nó báo hiệu sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Đứng trước thập giá, chúng ta chiêm ngắm tình yêu nhân hậu của Chúa Kitô, Đấng đã mở rộng vòng tay đón nhận chúng ta và nhờ cái chết của Người mời gọi chúng ta đến với niềm vui của sự sống vĩnh cửu. Vào giờ cuối cùng đó, cuộc sống mới mở ra trước mắt chúng ta; từ giờ chết đó, một giờ khác, tràn đầy sức sống, được phát sinh. Đó là thời của Giáo hội. Bắt đầu từ việc hai người đứng dưới chân thập giá, Chúa đã tập hợp một dân tộc tiếp tục đi trên những chặng đường quanh co của lịch sử, mang trong lòng họ sự an ủi của Chúa Thánh Thần, để lau khô nước mắt của nhân loại.
Thưa các anh chị em, từ đền thánh Ta ’Pinu này, chúng ta có thể cùng nhau chiêm ngắm sự khởi đầu mới đã diễn ra trong “giờ” của Chúa Giêsu. Ở đây, thay vì dinh thự lộng lẫy mà chúng ta thấy ngày nay, trước đây chỉ là một nhà nguyện nhỏ trong tình trạng hư hỏng. Việc phá hủy nó đã được quyết định: nó dường như là dấu chấm hết. Tuy nhiên, một loạt các sự kiện sẽ xoay chuyển tình thế, như thể Chúa muốn nói với dân tộc này: “Chẳng ai còn réo tên ngươi: Đồ bị ruồng bỏ! Xứ sở ngươi hết bị tiếng là Phận bạc duyên đơn. Nhưng ngươi được gọi: Ái khanh lòng Ta hỡi ! Xứ sở ngươi nức tiếng là Duyên thắm chỉ hồng” (Is 62: 4). Ngôi nhà thờ nhỏ bé ấy đã trở thành đền thánh quốc gia, là điểm đến của những người hành hương và là nguồn sống mới. Jennifer ạ, con đã nhắc nhở chúng ta điều này: ở đây, nhiều người giao phó những đau khổ và niềm vui của họ cho Đức Mẹ và tất cả đều cảm thấy như ở nhà. Thánh Gioan Phaolô II - hôm nay là ngày giỗ của ngài - cũng đến đây như một người hành hương. Một nơi từng tưởng như bị bỏ rơi giờ đây đã hồi sinh niềm tin và hy vọng trong dân Chúa.
Vì vậy, chúng ta hãy cố gắng đánh giá cao ý nghĩa của “giờ” của Chúa Giêsu đối với cuộc sống của chúng ta. Giờ cứu độ đó cho chúng ta biết rằng, để đổi mới đức tin và sứ mệnh chung của chúng ta, chúng ta được mời gọi trở về nguồn cội, trở về với Giáo hội sơ khai mà chúng ta thấy dưới thánh giá nơi con người của Mẹ Maria và Thánh Gioan. Quay trở lại những nguồn gốc đó có ý nghĩa gì? Quay lại từ đầu có ý nghĩa chi?
Khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta
Đầu tiên, nó có nghĩa là khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta. Quay trở lại Giáo hội sơ khai không có nghĩa là nhìn lại và cố gắng tái tạo mô hình giáo hội của cộng đồng Kitô hữu đầu tiên. Chúng ta không thể “nhẩy qua lịch sử”, như thể Chúa không bao giờ nói hoặc hoàn thành những điều vĩ đại trong đời sống của Giáo hội trong những thế kỷ sau đó. Nó cũng không có nghĩa là duy lý tưởng thái quá, nghĩ rằng không có khó khăn trong cộng đồng đó; trái lại, chúng ta đọc thấy rằng các môn đệ đã tranh luận và thậm chí cãi nhau giữa họ, và họ không phải lúc nào cũng hiểu được những lời dạy của Chúa. Thay vào đó, quay trở lại nguồn cội có nghĩa là phục hồi tinh thần của cộng đồng Kitô hữu đầu tiên, trở về với tâm điểm và khám phá lại cốt lõi của đức tin: mối liên hệ của chúng ta với Chúa Giêsu và việc rao giảng Tin Mừng của Người cho toàn thế giới. Đó là những điều cốt yếu!
Thật vậy, sau “giờ” Chúa Giêsu chịu chết, các môn đệ đầu tiên, như Maria Mađalena và Gioan sau khi nhìn thấy ngôi mộ trống, với sự phấn khích tột độ đã vội vã trở về loan báo tin mừng về sự Phục sinh. Sự đau buồn của họ trước thập giá đã biến thành niềm vui sướng khi họ rao truyền Chúa Kitô sống lại. Tôi cũng nghĩ đến các Tông đồ, mà về các ngài đã có lời chép: “Mỗi ngày trong đền thờ và tại nhà, họ không ngừng giảng dạy và rao giảng Chúa Giêsu như Đức Kitô” (Công vụ 5:42). Mối quan tâm chính nơi các môn đệ của Chúa Giêsu không phải là uy tín của cộng đồng hoặc các thừa tác viên của cộng đồng, địa vị xã hội hoặc những điểm nổi bật trong việc thờ phượng của cộng đồng. Không. Họ được thúc đẩy để rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Kitô (xem Rm 1: 1).
Anh chị em thân mến, Giáo Hội Malta có thể tự hào về một lịch sử phong phú mà từ đó có thể rút ra các kho tàng mục vụ và tâm linh tuyệt vời. Tuy nhiên, đời sống của Giáo Hội - chúng ta hãy luôn ghi nhớ điều này - không bao giờ chỉ là “quá khứ để tưởng nhớ”, mà là “tương lai vĩ đại để xây dựng”, luôn tuân theo các kế hoạch của Thiên Chúa. Một đức tin được tạo thành từ những truyền thống đã được tiếp nhận, những cử hành long trọng, những lễ hội phổ biến và những khoảnh khắc mạnh mẽ và đầy cảm xúc vốn không thể đủ; chúng ta cần một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới trong cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Kitô, trong việc lắng nghe lời Người hằng ngày, trong việc tham gia tích cực vào đời sống của Giáo hội và trong lòng đạo đức bình dân chân chính.
Cuộc khủng hoảng đức tin, sự thờ ơ trong thực hành tôn giáo, đặc biệt sau cơn đại dịch, và sự thờ ơ của nhiều người trẻ đối với sự hiện diện của Thiên Chúa: đây không phải là những vấn đề mà chúng ta nên “bọc đường”, vì nghĩ rằng, sau khi mọi điều được xem xét, một tinh thần tôn giáo nào đó vẫn còn tồn tại. Đôi khi, các công trình kiến trúc có thể mang tính tôn giáo, nhưng bên dưới những hình dáng bên ngoài, niềm tin đang mờ dần. Không phải lúc nào một bản sắc trang nhã của các truyền thống tôn giáo cũng tương ứng với một đức tin sôi nổi được đánh dấu bằng lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Chúng ta cần bảo đảm để các hoạt động tôn giáo không bị giản lược vào các di tích quá khứ, nhưng vẫn là biểu hiện của một đức tin sống động, cởi mở, truyền bá niềm vui của Tin Mừng.
Tôi biết rằng, với Thượng Hội đồng, anh chị em đã thực hiện một quá trình đổi mới và tôi cảm ơn anh chị em vì điều này. Anh chị em thân mến, bây giờ là lúc phải quay trở lại thuở ban đầu, đứng dưới chân thập giá và nhìn vào cộng đồng Kitô hữu sơ khai. Là lúc làm một Giáo Hội biết quan tâm đến tình bạn với Chúa Giêsu và việc rao giảng Tin Mừng của Người, chứ không phải về tầm quan trọng và hình ảnh. Làm một Giáo hội xoay quanh việc làm nhân chứng, chứ không phải một số phong tục tôn giáo nào đó. Làm một Giáo Hội tìm cách ra ngoài để gặp gỡ mọi người với ngọn đèn Tin Mừng cháy sáng, chứ không phải một vòng tròn khép kín. Anh chị em đừng ngại lên đường trên những con đường mới, như anh chị em từng làm, thậm chí có thể là những con đường đầy rủi ro, của việc truyền giảng Tin Mừng và rao giảng nhằm thay đổi cuộc sống.
Phát triển nghệ thuật chào đón
Vì vậy, chúng ta hãy một lần nữa nhìn về nguồn gốc, về Đức Maria và Thánh Gioan dưới chân thập giá. Tận cùng cội nguồn của Giáo hội là hành động giao phó của họ cho nhau. Chúa giao cho mỗi người trong số họ sự chăm sóc người khác: giao Gioan cho Đức Maria và giao Đức Maria cho Gioan, kết quả là “từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà riêng của mình” (Ga 19:27). Quay trở lại thuở ban đầu cũng có nghĩa là phát triển nghệ thuật chào đón. Những lời của Chúa Giêsu từ thập giá, nói với Mẹ Người và với Gioan, mời gọi chúng ta biến chào đón thành đặc điểm của tư cách môn đệ của chúng ta. Thật vậy, đây không phải là một hành động hiếu thuận đơn giản, theo đó Chúa Giêsu đã giao Mẹ của Người cho Gioan để Mẹ không ở lại một mình sau khi Người qua đời. Thay vào đó, việc Thánh Gioan chào đón Đức Maria vào nhà của mình là một dấu hiệu cụ thể cho thấy chúng ta nên sống điều răn tối cao về tình yêu như thế nào. Sự thờ phượng Thiên Chúa diễn ra qua sự gần gũi với anh chị em của chúng ta.
Trong Giáo hội, tình yêu huynh đệ và sự chào đón mà chúng ta bày tỏ với người lân cận quan trọng biết bao! Chúa nhắc nhở chúng ta về điều này vào “giờ” của thập giá, khi giao phó Đức Maria và Thánh Gioan cho nhau chăm sóc. Người kêu gọi cộng đồng Kitô hữu mọi thời đại đừng quên ưu tiên này: “Này là con trai của bà”, “Này là Mẹ của con” (câu 26,27). Như thể Người muốn nói: “Các con đã được cứu bởi cùng một dòng máu, các con là một gia đình, vì vậy hãy chào đón nhau, yêu thương nhau, chữa lành vết thương cho nhau”. Bỏ lại đàng sau những nghi ngờ, chia rẽ, đồn thổi, đàm tiếu và ngờ vực. Anh chị em hãy trở thành một “thượng hội đồng”, nói cách khác, là “hành trình cùng nhau”. Vì Chúa hiện diện ở bất cứ nơi nào tình yêu ngự trị!
Anh chị em thân mến, sự chào đón lẫn nhau, không phải vì hình thức thuần túy nhưng nhân danh Chúa Kitô, mãi là một thách thức vĩnh viễn. Một thách thức, trước hết đối với các mối liên hệ trong giáo hội của chúng ta, vì sứ mệnh của chúng ta sẽ sinh hoa kết trái nếu chúng ta làm việc cùng nhau trong tình bạn và tình hiệp thông huynh đệ. Anh chị em là hai cộng đồng xinh đẹp, Malta và Gozo, cũng như Đức Maria và Thánh Gioan là hai người! Vậy thì, ước gì lời lẽ của Chúa Giêsu trên thập giá trở thành ngôi sao bắc cực hướng dẫn anh chị em đón nhận nhau, nuôi dưỡng sự thân thuộc và hiệp thông! Tiến về phía trước, luôn bên nhau!
Chào đón cũng là một phép thử để đánh giá xem Giáo Hội thực sự có tinh thần Tin Mừng hay chưa. Đức Maria và Thánh Gioan chấp nhận nhau không phải trong nơi trú ẩn thoải mái của Phòng Tiệc Ly, mà ở dưới chân thập giá, nơi nghiệt ngã, nơi người ta bị kết án và đóng đinh như tội phạm. Chúng ta cũng không thể chấp nhận nhau chỉ trong mái ấm của những ngôi nhà thờ đẹp đẽ của chúng ta, trong khi bên ngoài rất nhiều anh chị em của chúng ta đang đau khổ, bị đóng đinh bởi đau đớn, nghèo đói và bạo lực. Vị trí của anh chị em là vị trí địa dư trọng yếu, nhìn ra Địa Trung Hải; anh chị em giống như một nam châm và là cánh cổng cứu rỗi cho những người bị áp đặt bởi những thử thách của cuộc sống, những người, vì nhiều lý do, đổ bộ vào bờ biển của anh chị em. Chính Chúa Kitô, Đấng hiện ra với anh chị em trong khuôn mặt của những người đàn ông và đàn bà đáng thương này. Đó là kinh nghiệm của Tông đồ Phaolô, người sau một vụ đắm tàu khủng khiếp, đã được tổ tiên của anh chị em vui lòng chào đón. Như chúng ta đọc trong Tông đồ Công vụ, “dân bản xứ… đốt lửa và chào đón tất cả chúng tôi, vì trời bắt đầu mưa và lạnh” (Công vụ 28: 2).
Đây là Tin Mừng mà chúng ta được mời gọi thực hiện: chào đón người khác, trở thành “chuyên gia về tình nhân đạo” và đốt lên ngọn lửa tình yêu dịu dàng cho những ai từng biết đến đau đớn và khắc nghiệt của cuộc sống. Trong trường hợp của Thánh Phaolô cũng vậy, một điều gì đó quan trọng đã được sinh ra từ kinh nghiệm bi đát đó, vì tại đây Thánh Phaolô đã rao giảng Tin Mừng và sau đó nhiều nhà giảng thuyết, linh mục, nhà truyền giáo và nhân chứng đã theo bước chân ngài. Tôi muốn thêm một lời tri ân đặc biệt đến họ: đến nhiều nhà truyền giáo người Malta, những người đã truyền bá niềm vui của Tin Mừng trên khắp thế giới, đến nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ, và tất cả anh chị em. Như Đức Cha Teuma đã nói, anh chị em là một hòn đảo nhỏ, nhưng là một hòn đảo có trái tim vĩ đại. Anh chị em là một kho báu trong Giáo hội và cho Giáo hội. Để bảo tồn kho tàng đó, anh chị em phải trở về với yếu tính của Kitô giáo: tình yêu của Thiên Chúa, động lực của niềm vui của chúng ta, là Đấng sai chúng ta vào thế giới; và tình yêu của người lân cận, là bằng chứng đơn giản nhất và hấp dẫn nhất mà chúng ta có thể đưa ra trước thế giới.
Xin Chúa đồng hành với anh chị em trên con đường này và Trinh Nữ rất thánh hướng dẫn những bước đi của anh chị em. Xin Đức Mẹ, Đấng đã yêu cầu chúng ta cầu nguyện ba kinh “Kính Mừng” để nhắc nhở chúng ta về tấm lòng mẫu tử của Mẹ, nhen nhóm trong chúng ta, những đứa con của Mẹ, ngọn lửa truyền giáo và ước muốn chăm sóc lẫn nhau. Xin Đức Mẹ chúc lành cho anh chị em
Lúc 08:30 sáng thứ Bẩy 2 tháng Tư, Đức Thánh Cha đã khởi hành bằng máy bay từ phi trường quốc tế Fiumicino của Rôma để đến Sân bay quốc tế Malta
Lúc 10:00 ngài đã đến sân bay quốc tế Malta. Chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Malta diễn ra trong bối cảnh đảo quốc này đang kỷ niệm một ngày lễ đặc biệt, đó là vụ đắm tàu của Thánh Phaolô.
Sau các nghi thức tại sân bay quốc tế, Đức Thánh Cha đã đến thăm xã giao tổng thống Cộng Hòa Malta là Ông George Vella trong Phòng Đại sứ của dinh tổng thống được gọi là Dinh Đại Hiệp Sĩ – Grand Master. Dinh này được xây dựng giữa thế kỷ 16 và 18 tại thủ đô Valletta của Malta để làm dinh thự cho vị Đại Hiệp Sĩ dòng Thánh Gioan cai quản Malta.
Sau đó, Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Robert Abela tại Thư Phòng của dinh tổng thống.
Lúc 11:50 Đức Thánh Cha đã có một bài diễn văn trong cuộc gặp gỡ với chính quyền dân sự và ngoại giao đoàn. Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:
Các thành viên của Chính phủ và ngoại giao đoàn,
Quý vị hữu trách tôn giáo và dân sự,
Đại diện Đời sống Văn hóa Xã hội,
Kính thưa quý vị,
Tôi chào thân ái và tôi cám ơn ngài, thưa Tổng thống, vì những lời chào mừng ân cần thay mặt cho đồng bào của ngài. Tổ tiên của các bạn đã thể hiện lòng hiếu khách đối với Tông đồ Phaolô trong hành trình đến Rôma của ngài, đối xử với ngài và những người các bạn đồng hành “với lòng tốt khác thường” (Công vụ 28: 2). Đến từ Rôma, giờ đây tôi cũng đang trải nghiệm sự hiếu khách nồng hậu đó, một kho báu mà người Malta đã truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nhờ vị trí địa lý, Malta có thể được gọi là trái tim của Địa Trung Hải. Không chỉ bởi địa lý của nó: vì trong hàng nghìn năm, sự giao thoa của các sự kiện lịch sử và sự gặp gỡ của các dân tộc khác nhau đã khiến hòn đảo này trở thành một trung tâm của sức sống và văn hóa, tâm linh và thẩm mỹ, một ngã tư tiếp nhận và hài hòa ảnh hưởng từ nhiều nơi của thế giới. Những ảnh hưởng đa dạng này khiến chúng ta liên tưởng đến những cơn gió khác nhau quét qua đất nước này. Không phải ngẫu nhiên, trong các bản đồ cổ của Địa Trung Hải, cánh hoa hồng la bàn, hay "bông hồng của gió" thường được vẽ gần đảo Malta. Tôi muốn mượn hình ảnh bông hồng của gió, mô tả gió theo bốn điểm chính của la bàn, để mô tả bốn ảnh hưởng cơ bản đối với đời sống xã hội và chính trị của đất nước này.
Gió thổi trên các đảo của Malta phổ biến là từ phía tây bắc. Phía bắc gợi nhớ đến Âu Châu, đặc biệt là ngôi nhà do Liên minh Âu Châu đại diện, được xây dựng như một nơi ở cho một đại gia đình duy nhất đoàn kết trong việc duy trì hòa bình. Sự đoàn kết và hòa bình là những món quà mà người Malta cầu xin từ Chúa mỗi khi quốc ca của các bạn được cất lên. Lời cầu nguyện được viết bởi Dun Karm Psaila có nội dung: “Lạy Chúa toàn năng, xin ban sự khôn ngoan cho những người cai trị, sức mạnh cho những người làm việc, khẳng định sự hiệp nhất giữa người dân Malta và hòa bình”. Hòa bình đến sau sự hiệp nhất và nổi lên từ sự hiệp nhất. Điều này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của làm việc cùng nhau, thích sự gắn kết hơn là chia rẽ, và về tầm quan trọng của việc củng cố nguồn gốc và giá trị chung đã tạo nên tính độc đáo của xã hội Malta.
Tuy nhiên, để bảo đảm một sự chung sống xã hội lành mạnh, củng cố cảm giác thân thuộc mà thôi thì không đủ; cần phải xây dựng nền tảng của cuộc sống trong xã hội, dựa trên luật pháp và tính hợp pháp. Trung thực, công bằng, tinh thần trách nhiệm và minh bạch là những trụ cột thiết yếu của một xã hội dân sự trưởng thành. Cầu mong cho cam kết xóa bỏ những điều bất hợp pháp và tham nhũng của các bạn sẽ mạnh mẽ, như gió bắc quét qua các bờ biển của đất nước này. Cầu mong các bạn luôn trau dồi tính hợp pháp và minh bạch, điều này sẽ giúp xóa bỏ tham nhũng và tội phạm, cả hai đều không hoạt động công khai và ban ngày.
Ngôi nhà Âu Châu, cam kết thúc đẩy các giá trị của công lý và bình đẳng xã hội, cũng đi đầu trong nỗ lực bảo vệ ngôi nhà lớn hơn là sự sáng tạo của Thiên Chúa. Môi trường mà chúng ta đang sống là một món quà từ thiên đường, như bài quốc ca của các các bạn cũng công nhận, khi cầu xin Chúa gìn giữ vẻ đẹp của vùng đất này, như một người mẹ đã khoác lên mình ánh sáng rực rỡ nhất. Ở Malta, nơi vẻ đẹp rực rỡ của cảnh quan làm giảm bớt khó khăn, tạo hóa xuất hiện như một món quà mà, giữa những thử thách của lịch sử và cuộc sống, nhắc nhở chúng ta về vẻ đẹp của cuộc sống chúng ta trên trái đất. Do đó, nó phải được giữ an toàn khỏi lòng tham tàn bạo, khỏi sự hám lợi và khỏi đầu cơ xây dựng, là những thứ ảnh hưởng không chỉ đến cảnh quan mà còn cả tương lai. Thay vào đó, việc bảo vệ môi trường và thúc đẩy công bằng xã hội chuẩn bị cho tương lai, và là những cách tối ưu để khơi dậy trong những người trẻ tuổi niềm đam mê đối với một nền chính trị lành mạnh và bảo vệ họ khỏi sự cám dỗ của sự thờ ơ và thiếu cam kết.
Gió bắc thường kết hợp với gió thổi từ hướng tây. Quốc gia Âu Châu này, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi, có chung lối sống và suy nghĩ phương Tây. Điều này mang lại những lợi ích to lớn - tôi nghĩ, chẳng hạn, về các giá trị của tự do và dân chủ - nhưng cũng có những rủi ro, đòi hỏi sự cảnh giác vì mong muốn tiến bộ đi kèm với sự tách rời khỏi cội nguồn của chính các bạn. Malta là một “phòng thí nghiệm phát triển hữu cơ” lộng lẫy, nơi mà sự tiến bộ không có nghĩa là cắt đứt gốc rễ của một người với quá khứ nhân danh sự thịnh vượng giả tạo ra bởi lợi nhuận, bởi những nhu cầu do chủ nghĩa tiêu dùng tạo ra, chưa kể đến quyền đòi có bất kỳ và mọi “quyền”. Một sự phát triển lành mạnh cần phải bảo tồn ký ức của quá khứ và thúc đẩy sự tôn trọng và hòa hợp giữa các thế hệ, không dẫn đến sự đồng nhất nhạt nhẽo và các hình thức thực dân hóa ý thức hệ, diễn ra, chẳng hạn như trong lĩnh vực và nguyên tắc của cuộc sống. Đó là tư tưởng thực dân đi ngược lại quyền sống ngay từ khi nó được hình thành.
Cơ sở của mọi sự phát triển vững chắc là tôn trọng con người, tôn trọng cuộc sống và phẩm giá của mọi người nam nữ. Tôi nhận thức được cam kết của người Malta trong việc đón nhận và bảo vệ sự sống. Trong Sách Tông Đồ Công Vụ, người dân trên hòn đảo này đã được biết đến việc cứu sống nhiều người. Tôi khuyến khích các bạn tiếp tục bảo vệ sự sống từ đầu đến kết thúc tự nhiên của nó, nhưng cũng bảo vệ nó mọi lúc mọi nơi khỏi bị gạt sang một bên và bị tước đoạt sự chăm sóc và quan tâm. Tôi đặc biệt nghĩ đến phẩm giá chính đáng của người lao động, người già và bệnh tật. Và trong số những người trẻ tuổi có nguy cơ phung phí tất cả những gì tốt đẹp có bên trong họ bằng cách làm theo những ảo ảnh chỉ để lại sự trống rỗng khi họ thức dậy. Đây là thành quả của chủ nghĩa tiêu dùng triệt để, sự thờ ơ với nhu cầu của người khác và tai họa của ma túy, thứ kìm hãm sự tự do và tạo ra sự phụ thuộc. Chúng ta hãy bảo vệ vẻ đẹp của cuộc sống!
Tiếp tục xuôi cánh hồng la bàn, giờ đây chúng ta hướng về phương nam, nơi mà bao anh em chúng ta đã tìm đến để tìm kiếm hy vọng. Tôi muốn cảm ơn chính quyền dân sự và người dân Malta vì sự chào đón mà họ đã dành cho những người di cư nhân danh Phúc âm, tình nhân loại chung của chúng ta và lòng hiếu khách của quê hương Malta. Theo nguyên nghĩa tiếng Phoenicia, Malta có nghĩa là “bến cảng an toàn”. Tuy nhiên, với sự gia tăng làn sóng người di cư ngày càng nhiều trong những năm gần đây, nỗi sợ hãi và bất an đã nuôi dưỡng một sự chán nản và thất vọng nhất định. Nếu sự phức tạp của vấn đề di cư cần được giải quyết đúng cách, thì vấn đề này cần được đặt trong bối cảnh thời gian và không gian rộng hơn. Thời gian, theo nghĩa hiện tượng di cư không phải là tình trạng nhất thời, mà là dấu chỉ của thời đại chúng ta. Nó mang theo gánh nặng của quá khứ bất công, bóc lột, những thay đổi khí hậu và những xung đột bi thảm, những tác động mà giờ đây chính họ đang cảm nhận được. Từ miền nam nghèo và đông dân cư, rất nhiều người đang di chuyển đến miền bắc giàu có: đây là một thực tế, và không thể bỏ qua việc áp dụng chủ nghĩa biệt lập lạc hậu, điều này không tạo ra sự thịnh vượng và hội nhập. Từ quan điểm về không gian, tình trạng khẩn cấp di cư ngày càng tăng - ở đây chúng ta có thể nghĩ đến những người tị nạn từ Ukraine bị chiến tranh tàn phá - đòi hỏi một phản ứng chung và trên diện rộng. Một số quốc gia không thể ứng phó với toàn bộ vấn đề, trong khi những quốc gia khác vẫn thờ ơ như những khán giả! Các quốc gia văn minh không thể chấp thuận các thỏa thuận bẩn thỉu vì lợi ích của họ với những tên tội phạm nô dịch người khác. Thật không may điều này xảy ra. Địa Trung Hải cần có sự đồng trách nhiệm từ phía Âu Châu, để trở thành một nhà hát mới của sự đoàn kết chứ không phải là điềm báo của một vụ đắm tàu bi thảm của nền văn minh. Địa Trung Hải không nên trở thành nghĩa trang lớn nhất của châu Âu.
Khi đề cập đến vụ đắm tàu này, suy nghĩ của tôi hướng đến Thánh Phaolô. Trong chuyến hành trình cuối cùng của mình qua Địa Trung Hải, thánh nhân đã bất ngờ đến những bờ biển này và tìm thấy sự trợ giúp sẵn sàng. Sau đó, bị một con rắn cắn, ngài bị cho là phường gian ác, nhưng sau đó lại được coi là một vị thần vì ngài không bị con rắn gây hại (xem Công vụ 28: 3-6). Giữa hai thái cực này, điều thực sự quan trọng đã bị bỏ qua: Thánh Phaolô là một người đàn ông, một người cần được hỗ trợ. Nhân văn là trên hết: đó là bài học được dạy bởi đất nước này mà lịch sử đã chúc phúc bởi sự xuất hiện của một Tông đồ bị đắm tàu. Nhân danh Tin Mừng mà Phaolô đã sống và rao giảng, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn và khám phá lại vẻ đẹp của việc phục vụ những người lân cận đang gặp khó khăn. Chúng ta hãy tiếp tục trên con đường này. Ngày nay, khi những người băng qua Địa Trung Hải để tìm kiếm sự cứu rỗi đang gặp phải nỗi sợ hãi và câu chuyện về một “cuộc xâm lược”, và việc bảo vệ an ninh của chính mình bằng bất cứ giá nào dường như là mục tiêu chính, chúng ta hãy giúp nhau không coi người di cư là một mối đe dọa và đừng khuất phục trước cám dỗ của việc chặt đứt các nhịp cầu và dựng nên các bức tường. Người khác không phải là vi-rút mà chúng ta cần được bảo vệ, mà là những người được chấp nhận. Vì vấn đề đó, “lý tưởng Kitô luôn là lời kêu gọi vượt qua sự nghi ngờ, vượt qua sự ngờ vực đã ăn sâu, vượt qua nỗi sợ mất quyền riêng tư của chúng ta, vượt qua tất cả những thái độ phòng thủ mà thế giới ngày nay áp đặt lên chúng ta” (Evangelii Gaudium, 88). Mong chúng ta đừng để sự thờ ơ bóp nghẹt ước mơ được sống nên một! Chắc chắn, sự chấp nhận đòi hỏi nỗ lực và đòi hỏi sự từ bỏ. Vì vậy, theo kinh nghiệm của Thánh Phaolô: để cứu con tàu, cần phải hy sinh hàng hóa mà nó đang chở (xem Cv 27:38). Tuy nhiên, mọi hy sinh, mọi từ bỏ được thực hiện vì một điều tốt đẹp hơn, cho sự sống của con người là kho tàng của Thiên Chúa, là thánh thiêng!
Cuối cùng, có gió đến từ phía đông, thường thổi vào lúc bình minh, đó là lý do tại sao Homer gọi nó là “Eurus” (Odyssey, V, 349.423). Tuy nhiên, từ phía đông của Âu Châu, từ đất nước mặt trời mọc, những bóng đen của chiến tranh giờ đã lan rộng. Chúng ta đã từng nghĩ rằng những cuộc xâm lược của các quốc gia khác, những cuộc giao tranh dã man trên đường phố và những mối đe dọa về nguyên tử là những ký ức nghiệt ngã của một quá khứ xa xôi. Tuy nhiên, những cơn gió băng giá của chiến tranh, vốn chỉ mang đến chết chóc, hủy diệt và hận thù, đã ập xuống mạnh mẽ cuộc sống của nhiều người và ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Một lần nữa, một số người có tiềm lực, đáng buồn là bị cuốn vào những tuyên bố lạc hậu về lợi ích dân tộc chủ nghĩa, đang kích động và thúc đẩy xung đột, trong khi những người bình thường cảm thấy cần phải xây dựng một tương lai, có thể được chia sẻ hoặc hoàn toàn không. Bây giờ trong đêm chiến tranh đang đổ xuống nhân gian, cầu xin cho chúng ta đừng để giấc mơ hòa bình tàn lụi!
Malta, nơi tỏa sáng rực rỡ ở trung tâm Địa Trung Hải, có thể là nguồn cảm hứng cho chúng ta, vì việc khôi phục vẻ đẹp cho bộ mặt của một nhân loại bị tàn phá bởi chiến tranh là điều cấp thiết. Một bức tượng Địa Trung Hải tuyệt đẹp có niên đại từ nhiều thế kỷ trước Chúa Kitô miêu tả hòa bình như một người phụ nữ, Eirene, ôm trong tay Ploutus, sự giàu có. Bức tượng đó nhắc nhở chúng ta rằng hòa bình tạo ra thịnh vượng, và chiến tranh chỉ tạo ra đói nghèo. Đặc biệt, trong bức tượng đó, hòa bình và thịnh vượng được miêu tả như một người mẹ đang ôm đứa con của mình trên tay. Tình yêu dịu dàng của những người mẹ, những người mang lại sự sống cho thế giới, và sự hiện diện của phụ nữ là sự thay thế thực sự cho logic tồi tệ về quyền lực dẫn đến chiến tranh. Chúng ta cần lòng trắc ẩn và sự quan tâm, chứ không phải những tầm nhìn ý thức hệ và dân túy được thúc đẩy bởi những lời lẽ thù hận và không quan tâm đến cuộc sống cụ thể của người dân, những người bình thường.
Hơn sáu mươi năm trước, trong một thế giới bị đe dọa bởi sự hủy diệt, nơi luật pháp bị quy định bởi những xung đột ý thức hệ và logic nghiệt ngã của các khối xung đột, một tiếng nói khác đã được cất lên từ lưu vực Địa Trung Hải, chống lại sự đề cao tư lợi bằng lời kêu gọi một bước nhảy tiên tri, nhân danh tình huynh đệ phổ quát. Đó là tiếng nói của Georgio La Pira, người đã phát biểu rằng “khoảng thời gian lịch sử mà chúng ta đang sống, cuộc xung đột lợi ích và ý thức hệ đã làm lung lay nhân loại trước sự trẻ con đáng kinh ngạc, khôi phục cho Địa Trung Hải một trách nhiệm nghiêm trọng. Đó là việc xác định một lần nữa quy tắc của một sự điều độ, trong đó con người, bị bỏ mặc cho sự điên cuồng và thiếu điều độ, có thể nhận ra chính mình ”(Diễn từ tại Đại hội Văn hóa Địa Trung Hải, ngày 19 tháng 2 năm 1960). Đó là những lời nói đúng lúc; chúng ta có thể lặp lại chúng vì chúng có mức độ liên quan lớn. Chúng ta cần một “sự tiết chế của con người” biết bao trước sự xâm lược trẻ con và sự phá hoại đang đe dọa chúng ta, trước nguy cơ “Chiến tranh Lạnh mở rộng” có thể bóp nghẹt cuộc sống của toàn thể các dân tộc và các thế hệ. Điều đáng buồn là “tính trẻ con” đó vẫn chưa biến mất. Nó đã trở lại mạnh mẽ trong sự dụ dỗ của chế độ chuyên quyền, các hình thức mới của chủ nghĩa đế quốc, sự hiếu chiến lan rộng, và việc không có khả năng xây dựng những cây cầu và bắt đầu từ những người nghèo nhất ở giữa chúng ta. Ngày nay, thật khó để suy nghĩ với logic của hòa bình. Chúng ta đã quen với việc suy nghĩ theo logic của chiến tranh. Chính từ đó, gió lạnh chiến tranh bắt đầu thổi qua, và lần này nó đã được khuyến khích qua nhiều năm. Trên thực tế, chiến tranh đã được chuẩn bị trong một thời gian bằng những khoản đầu tư lớn vào vũ khí và buôn bán vũ khí lớn. Thật đáng buồn khi thấy lòng nhiệt thành đối với hòa bình, vốn nổi lên sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã phai nhạt như thế nào trong những thập kỷ gần đây. Sự tiến bộ của cộng đồng quốc tế cũng thật đáng buồn, vì một số cường quốc tiến lên trước theo cách của họ, tìm kiếm không gian và vùng ảnh hưởng. Như thế, không chỉ hòa bình, mà còn rất nhiều vấn nạn lớn khác, như cuộc chiến chống nạn đói và bất bình đẳng bị gạt ra khỏi danh sách các chương trình nghị sự chính trị chính yếu.
Nhưng giải pháp cho cuộc khủng hoảng của mỗi bên là quan tâm đến tất cả, vì các vấn đề toàn cầu đòi hỏi các giải pháp toàn cầu. Chúng ta hãy giúp nhau cảm nhận được khao khát hòa bình của mọi người. Chúng ta hãy làm việc để đặt nền móng cho một cuộc đối thoại ngày càng mở rộng. Chúng ta hãy quay trở lại tập hợp trong các hội nghị hòa bình quốc tế, nơi mà chủ đề giải trừ quân bị sẽ có một vị trí trung tâm, nơi mà những suy nghĩ của chúng ta sẽ hướng đến các thế hệ tương lai! Và nơi những khoản tiền khổng lồ tiếp tục được dành cho vũ khí có thể được chuyển hướng sang phát triển, chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng.
Nhìn về phía đông một lần nữa, tôi muốn dành một suy nghĩ cuối cùng cho Trung Đông gần đó, nơi mà các ngôn ngữ, hài hòa với những người khác, được phản ánh bằng ngôn ngữ bản địa của quốc gia này, như thể để nhớ lại khả năng của người Malta trong việc hình thành các hình thức chung sống có lợi trong bối cảnh có những khác biệt. Đây là những gì Trung Đông cần: Li Băng, Syria, Yemen, và các bối cảnh khác bị xâu xé bởi các vấn đề và bạo lực. Cầu mong Malta, trái tim của Địa Trung Hải, tiếp tục nuôi dưỡng nhịp đập của hy vọng, quan tâm đến cuộc sống, chấp nhận người khác, khao khát hòa bình, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, Đấng mà danh Ngài là hòa bình.
Xin Chúa phù hộ cho Malta và Gozo!
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
Đức Giáo Hoàng đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi hòa bình ở Ukraine trong các buổi tiếp kiến nói chung và các bài diễn văn sau khi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật kể từ khi bạo lực bắt đầu. Trên chuyến bay của Đức Giáo Hoàng trên đường tới Malta, khi được hỏi liệu ngài có đang cân nhắc việc chấp nhận lời mời từ chính quyền ở Kiev để thăm thủ đô Ukraine bị bao vây hay không, một chuyến đi mà Sứ thần Tòa thánh tại Ukraine đã nói là có thể thực hiện được về mặt hậu cần, nếu không có nguy cơ liên kết với bất kỳ cuộc tụ tập công cộng nào trong thành phố.
“Có, nó ở trên bàn,” Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời, theo phóng viên của NBC News, Claudio Lavanga.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã chào một nhóm người tị nạn chiến tranh Ukraine vào sáng thứ Bảy trước khi ra sân bay quốc tế Fiumicino của Rôma để đáp chuyến bay đến Malta, trong chuyến tông du đầu tiên của ngài trong năm 2022, cũng là chuyến tông du thứ 36 bên ngoài Italia.
Nhóm 15 người tị nạn bao gồm các bà mẹ và trẻ em đã tị nạn ở Ý sau cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào đất nước của họ.
Trong số những người tị nạn có một bà mẹ có hai đứa con, năm và bảy tuổi. Bà đến Ý để phẫu thuật tim cho con gái mình.
Đức Giáo Hoàng đã gặp nhóm những người tị nạn Ukraine tại Casa Santa Marta, nơi ở của ngài ở Thành phố Vatican, cùng với Đức Hồng Y Konrad Krajewski, quan phát chẩn của Đức Giáo Hoàng, và từng là đặc sứ của Đức Giáo Hoàng tại Ukraine.
Trong bài phát biểu của mình trước các nhà chức trách dân sự ở Malta hôm thứ Bảy, Đức Thánh Cha tiếp tục lên án bạo lực ở Ukraine.
Đức Thánh Cha nói: “Những bóng đen của chiến tranh giờ đã lan rộng. Chúng ta đã từng nghĩ rằng những cuộc xâm lược của các quốc gia khác, những cuộc giao tranh dã man trên đường phố và những mối đe dọa về nguyên tử là những ký ức nghiệt ngã của một quá khứ xa xôi. Tuy nhiên, những cơn gió băng giá của chiến tranh, vốn chỉ mang đến chết chóc, hủy diệt và hận thù, đã ập xuống mạnh mẽ cuộc sống của nhiều người và ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Một lần nữa, một số người có tiềm lực, đáng buồn là bị cuốn vào những tuyên bố lạc hậu về lợi ích dân tộc chủ nghĩa, đang kích động và thúc đẩy xung đột, trong khi những người bình thường cảm thấy cần phải xây dựng một tương lai, có thể được chia sẻ hoặc hoàn toàn không. Bây giờ trong đêm chiến tranh đang đổ xuống nhân gian, cầu xin cho chúng ta đừng để giấc mơ hòa bình tàn lụi!”
Source:Catholic News Agency
1. Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho rằng chính trực thăng Nga đánh vào kho dầu của Nga
Hãng tin AP cho biết các trực thăng đã tấn công một kho chứa dầu ở Belgorod, trong nội địa của Nga, cách biên giới đối diện với Kharkiv của Ukraine khoảng 16 km. Lửa sáng rực bầu trời trong suốt ngày thứ Sáu 1 tháng Tư cùng với những tiếng nổ rất lớn.
Nga cáo buộc Ukraine đứng sau cuộc tấn công này cũng như vụ hỏa hoạn lớn mà cuộc tấn công đã gây ra, nhưng trong cuộc họp báo hôm 1 tháng Tư, các sĩ quan trong Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine đã phủ nhận cáo buộc của Nga và khẳng định Ukraine không có liên quan.
Video được đăng tải trên mạng xã hội hôm thứ Sáu cho thấy một cuộc tấn công bằng trực thăng và sau đó là một đám cháy lớn tại một cơ sở lưu trữ dầu được cho là ở Belgorod, Nga.
Các báo cáo cho thấy cơ sở tiếp tục cháy trong ngày thứ Sáu. Hàng trăm lính cứu hỏa đã được điều động để chiến đấu với địa ngục kinh hoàng này, trong khi ngọn lửa bốc cao hàng chục mét trong không khí.
Các video khác cho thấy các máy bay trực thăng, được cả Ukraine và Nga sử dụng, đang bay trong khu vực.
Thống đốc khu vực Vyacheslav Gladkov cho biết hai máy bay trực thăng của Ukraine đã bay ở độ cao thấp và tấn công cơ sở ở thành phố Belgorod ở phía bắc biên giới, gây ra vụ nổ và cháy.
Hai công nhân tại kho hàng đã bị thương, ông nói. Tuy nhiên, truyền thông Nga trích dẫn một tuyên bố của công ty dầu khí nhà nước Rosneft phủ nhận không có ai bị thương.
Văn phòng thị trưởng Belgorod cho biết, hơn 300 nhân viên cứu hỏa đã chiến đấu với ngọn lửa, sử dụng trực thăng và tàu chữa cháy đặc biệt. Gladkov cho biết ngài đã gặp gỡ những cư dân được di tản từ nhà của họ đến một cơ sở thể thao gần đó. Ông cũng đăng ảnh về miệng núi lửa và các mảnh vỡ kim loại ở một vùng nông thôn, nơi ông cho biết các vụ nổ đã làm hỏng đường dây điện và làm vỡ cửa sổ.
Theo thông tấn xã AP, đây không phải là cuộc tấn công đầu tiên được báo cáo là đã xảy ra bên trong biên giới nước Nga kể từ khi cuộc chiến bắt đầu vào ngày 24 tháng 2, mặc dù không có gì ngoạn mục cho bằng cuộc tấn công này.
AP ghi nhận rằng những người sử dụng mạng xã hội Nga đã bày tỏ sự ngạc nhiên khi Ukraine có thể vượt qua các hệ thống phòng không của Nga, vì các báo cáo hàng ngày của Nga đều nhấn mạnh đến số lượng máy bay và trực thăng Ukraine bị bắn hạ. Họ cảm thấy kinh ngạc khi nhận ra Ukraine có nhiều máy bay và trực thăng đến mức bắn hoài vẫn còn hoài.
2. Úc viện trợ khẩn cấp cho Ukraine thiết giáp tối tân nhất
Thủ tướng Scott Morrison cho biết Australia sẽ điều một số thiết giáp Bushmaster do Úc Đại Lợi sản xuất tới Ukraine, sau lời kêu gọi công khai từ Tổng thống thời chiến của quốc gia này.
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã trực tiếp kêu gọi Úc Đại Lợi trợ giúp thiết giáp tối tân nhất của Úc trong khi phát biểu trước quốc hội Úc thông qua liên kết video hôm thứ Năm, nói rằng những người “chiến đấu chống lại cái ác” phải được trang bị vũ khí.
Ông Morrison sáng nay cho biết Úc Đại Lợi sẽ đáp ứng yêu cầu của ông Zelenskiy.
Thủ tướng nói: “Chúng ta không chỉ gửi lời cầu nguyện, chúng ta đang gửi súng, đạn dược, viện trợ nhân đạo, tất cả những thứ này, cả áo giáp của chúng ta”.
“Chúng ta sẽ gửi xe bọc thép của chúng ta, cả những chiếc Bushmasters của chúng ta nữa, và chúng ta sẽ chuyên chở chúng tới đó trên những chiếc C-17 của chúng ta.”
Nhưng ông không cho biết bao nhiêu xe thiết giáp sẽ được gửi đi hoặc khi nào chúng sẽ được chuyên chở đến Âu Châu.
Xác nhận của ông Morrison được đưa ra sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Peter Dutton cho biết Bộ Quốc Phòng vẫn đang thảo luận về cách đưa những chiếc Bushmasters đến Ukraine càng sớm càng tốt.
“Chúng ta rất cởi mở với yêu cầu của Ukraine và tôi nghĩ về nguồn cảm hứng mà Tổng thống Zelenskiy đã cung cấp cho người dân của ông ấy và thế giới - ông ấy đã đưa Âu Châu xích lại gần nhau theo cách mà trước chiến tranh không thể thực hiện được”, Ông Dutton nói vào sáng thứ Sáu.
Phát biểu qua phiên dịch, ông Zelenskiy cho biết Ukraine cần vũ khí cũng như các biện pháp trừng phạt chống lại Nga và những người ủng hộ nước này.
“Trên hết chúng ta phải giữ cho những người đang chiến đấu chống lại cái ác này được trang bị vũ khí,” ông nói.
“Ví dụ, các bạn có các thiết giáp rất tốt, Bushmasters, có thể giúp Ukraine về cơ bản, và các thiết bị khác có thể củng cố vị trí của chúng tôi về mặt vũ khí”.
“Nếu các bạn có cơ hội chia sẻ điều này với chúng tôi, chúng tôi sẽ rất biết ơn.”
Một số tàu sân bay quân nhân xếp hàng trên sa mạc.
Bushmaster được sử dụng như một thiết giáp chở quân, phương tiện tuần tra, bệ triển khai vũ khí và xe cứu thương.
Bushmaster là một thiết giáp tối tân do Úc chế tạo đã được ca ngợi trên toàn cầu vì đã bảo vệ an toàn cho binh lính.
Công ty Thales của Pháp sản xuất các thiết giáp này ở vùng Victoria.
Ông Dutton nói: “Chúng tôi đang thực hiện công việc hậu cần về cách chúng tôi có thể đưa các Bushmasters đến đó với số lượng mà họ cần,” ông Dutton nói.
“Ngay cả trên một trong những chiếc máy bay khổng lồ này, bạn có thể chỉ đặt ba, có thể bốn, vì vậy chúng tôi đang xem xét những gì khác có sẵn ở Âu Châu.”
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy y nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ các chính trị gia Australia sau bài phát biểu của ông trước quốc hội.
Thủ tướng Scott Morrison và Thủ lĩnh đối lập Anthony Albanese từng phát biểu với ông Zelenskiy, trong đó ông Morrison tuyên bố hỗ trợ thêm 25 triệu đô la cho Ukraine.
Ông Morrison nói với ông Zelenskiy: “Chúng tôi đứng về phía ông, thưa Tổng thống, và chúng tôi không đứng về phía tên tội phạm chiến tranh ở Mạc Tư Khoa.
“Khi bạn đứng lên chống lại tên bạo chúa mới nhất này, bạn đang cho chúng tôi thấy lòng dũng cảm thực sự là gì, sự xuất chúng của bạn, đó là sự can đảm được thể hiện bởi bạn,” ông Albanese nói.
3. Vua dầu mỏ Nga Khodorkovsky nói Putin là tên côn đồ
Vua dầu mỏ Nga Khodorkovsky nói Putin đã nhận thức được rằng 'giải pháp quân sự' không đi đến đâu
Ông trùm dầu mỏ Nga đang lưu vong Mikhail Khodorkovsky nói rằng Tổng thống Nga Vladimir Putin “đang mắc kẹt” ở Ukraine và chỉ có hai lựa chọn trong tương lai.
Khodorkovsky nói: “Để Putin trở nên nghiêm túc về những cuộc đàm phán này, ông ấy phải nhận ra rằng ông ấy đang mắc kẹt ở Ukraine”.
Hơn một tháng sau khi Mạc Tư Khoa tiến hành cuộc xâm lược Ukraine, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã hiểu rằng “không thể có giải pháp quân sự ở đây”, ông trùm dầu mỏ Nga lưu vong Mikhail Khodorkovsky nói với DW.
Khodorkovsky, một nhà phê bình nổi tiếng về nhà lãnh đạo Nga, trước đó đã phải ngồi tù một thập kỷ ở Nga với cáo buộc được nhiều người coi là trả thù vì đã thách thức sự cai trị của Putin.
Quân đội Nga bắt đầu cuộc xâm lược Ukraine vào ngày 24 tháng 2. Putin tuyên bố rằng hoạt động này nhằm “phi quân sự hóa” và “phi Quốc Xã hóa” Ukraine và bảo vệ những người nói tiếng Nga trong nước.
Nhưng với việc Nga không thể nhanh chóng chiếm đóng đất nước này do sự kháng cự mạnh mẽ của Ukraine và quân đội của họ đang sa lầy, Mạc Tư Khoa gần đây đã tuyên bố thay đổi mục tiêu chiến tranh của mình, nói rằng họ sẽ tập trung vào việc “giải phóng” khu vực Donbas ở miền đông Ukraine.
Khodorkovsky nói: “Putin gặp khó khăn khi nói đến hoạt động quân sự,” và nói thêm, “Putin hiện có hai lựa chọn: Hoặc là ông ấy leo thang mọi thứ, có nghĩa là huy động hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật, hoặc ông ấy có thể ổn định tình hình và bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình một cách nghiêm túc. “
'Lập trường của phương Tây cần phải rõ ràng'
Trong cuộc phỏng vấn với DW, Khodorkovsky cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của vị thế thống nhất của phương Tây. Ông nhấn mạnh: “Lập trường của phương Tây cần phải rõ ràng, nghĩa là hỗ trợ toàn diện cho Ukraine nếu cuộc chiến tiếp diễn và trong trường hợp Putin sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật hoặc các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác”.
“Lập trường rõ ràng của phương Tây sẽ giúp Putin đưa ra quyết định đúng đắn.”
Kể từ khi Mạc Tư Khoa bắt đầu gây hấn quân sự, phương Tây đã áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế chưa từng có đối với Nga và bắt đầu cung cấp viện trợ quân sự cho Ukraine.
Trong khi Mỹ và Anh cấm nhập khẩu dầu và khí đốt của Nga, một số ngân hàng của Nga đã bị trục xuất khỏi hệ thống liên ngân hàng SWIFT.
Tuy nhiên, nhiều nước Âu Châu như Đức phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung cấp năng lượng của Nga để cung cấp năng lượng cho các gia cư và ngành công nghiệp của họ, vì vậy chưa có bất kỳ lệnh trừng phạt quốc tế nào đối với hoạt động buôn bán nhiên liệu hóa thạch với Nga. Tuy nhiên, một số chính phủ hiện đang tìm cách giảm sự phụ thuộc vào năng lượng của Nga.
Về cuộc đàm phán hòa bình giữa Nga và Ukraine, Khodorkovsky nói: “Để Putin trở nên nghiêm túc với các cuộc đàm phán này, ông ấy phải nhận ra rằng ông ấy đang mắc kẹt ở Ukraine… Sau một tháng chiến tranh, ông ấy đã hiểu rằng không thể có giải pháp quân sự ở đây và cần có một nỗ lực để chuyển sang một quá trình đàm phán thực sự “.
Khodorkovsky gọi Putin là 'một tên côn đồ'
Các quan chức Mỹ và Âu Châu hôm thứ Tư cho biết họ tin rằng ông Putin đã bị lừa bởi các cố vấn, những người quá sợ hãi khi nói với ông rằng cuộc xung đột ở Ukraine đang diễn ra tồi tệ như thế nào.
Kate Bedingfield, Giám đốc truyền thông Nhà Trắng, nói với các phóng viên trong một cuộc họp báo: “Chúng tôi có thông tin rằng Putin cảm thấy bị quân đội Nga đánh lừa, điều này đã dẫn đến căng thẳng dai dẳng giữa Putin và giới lãnh đạo quân sự của ông ấy”.
“Chúng tôi tin rằng Putin đang bị các cố vấn của ông ấy thông tin sai về hoạt động của quân đội Nga tồi tệ như thế nào và nền kinh tế Nga đang bị tê liệt ra sao bởi các lệnh trừng phạt, bởi vì các cố vấn cấp cao của ông ấy quá sợ hãi khi nói với ông ấy sự thật.”
Điện Cẩm Linh hôm thứ Năm đã bác bỏ những tuyên bố này, nói rằng chúng là bằng chứng cho thấy Bộ Ngoại giao và Ngũ Giác Đài không “có thông tin thực sự về những gì đang xảy ra ở Điện Cẩm Linh”.
Phát ngôn nhân của Putin, Dmitry Peskov nói với các nhà báo: “Họ không hiểu Tổng thống Putin, họ không hiểu cơ chế đưa ra quyết định và họ không hiểu phong cách làm việc của chúng tôi”.
Khi được hỏi liệu Putin có phát động cuộc chiến này dựa trên những giả định sai lầm về khả năng quân sự của Nga và xã hội Ukraine hay không, Khodorkovsky nói: “Tôi hoàn toàn tin rằng lần này Vladimir Putin đã dưạ trên một lượng lớn thông tin sai lệch cả về tình hình Ukraine cũng như điều kiện của lực lượng vũ trang của riêng mình. “
Gọi Putin là “côn đồ”, Khodorkovsky nói: “Bất kỳ nỗ lực nào để đạt được thỏa hiệp với loại đàn ông đó mà không cho ông ta thấy sức mạnh trước, đều là một sai lầm lớn. Nó chỉ kích động ông ta tiến thêm một bước về phía một cuộc tấn công “.
4. Bộ trưởng Quốc phòng Anh tuyên bố gởi thêm viện trợ quân sự cho Ukraine
Bộ trưởng Quốc phòng Anh, Ben Wallace, cho biết Anh và các đồng minh đã đồng ý gửi thêm viện trợ quân sự cho Ukraine để giúp bảo vệ Ukraine trước sự xâm lược của người Nga. Bộ trưởng Ben Wallace cho biết như trên sau khi tiếp đón hàng chục đối tác quốc tế tại Hội nghị các nhà tài trợ quốc phòng thế giới lần thứ hai cho Ukraine.
“Sẽ có nhiều viện trợ quân sự hơn cho Ukraine do kết quả của ngày hôm nay. Một số quốc gia đã đưa ra những ý tưởng mới hoặc thực sự là có nhiều cam kết về tài chính hơn”.
Khoản viện trợ sẽ bao gồm việc cung cấp các hệ thống phòng thủ bờ biển và trên không, pháo tầm xa và các lực lượng pháo phản lực, xe bọc thép cũng như hỗ trợ đào tạo và hậu cần rộng rãi hơn. Ông Wallace nói thêm:
“Hội nghị các nhà tài trợ hôm nay thể hiện quyết tâm của cộng đồng quốc tế trong việc hỗ trợ Ukraine trước hành động xâm lược bất hợp pháp và vô cớ của Tổng thống Putin bằng vũ lực của Nga.
Chúng tôi đang tăng cường phối hợp để tăng cường hỗ trợ quân sự và bảo đảm các lực lượng vũ trang của Ukraine phát triển mạnh mẽ hơn khi họ tiếp tục đẩy lùi các lực lượng Nga.”
Mạc Tư Khoa gọi cuộc xâm lược mà nước này phát động vào ngày 24 tháng 2 là một “cuộc hành quân đặc biệt” nhằm phi Quốc Xã hóa và “phi quân sự hóa” nước láng giềng. Ukraine và phương Tây đã bác bỏ như một lý do vô căn cứ cho chiến tranh.
5. Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Tiệp phản ứng trước yêu cầu của Putin bắt thanh toán khí đốt bằng đồng rúp Nga
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Tiệp Jozef Síkela cho biết Âu Châu không thể để mình bị tống tiền bởi các điều kiện của Tổng thống Nga về thanh toán khí đốt.
Vladimir Putin đã quyết định leo thang hơn nữa cuộc chiến kinh tế với Âu Châu... chúng ta không thể giúp ông ấy né tránh các biện pháp trừng phạt chống Nga theo cách này. Ngược lại, chúng ta phải yêu cầu các hợp đồng hợp lệ phải được duy trì.
Ông cũng cho biết các chuyến hàng khí đốt từ Nga đến Cộng hòa Tiệp vẫn ổn định.
Lúc 08:30 Đức Thánh Cha đã khởi hành bằng máy bay từ phi trường quốc tế Fiumicino của Rôma để đến Sân bay quốc tế Malta
Lúc 10:00 ngài đã đến sân bay quốc tế Malta. Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là nghi thức chào mừng Đức Thánh Cha.
Chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Malta diễn ra trong bối cảnh đảo quốc này đang kỷ niệm một ngày lễ đặc biệt, đó là vụ đắm tàu của Thánh Phaolô.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Malta là một đảo quốc Nam Âu, gồm một quần đảo ở Địa Trung Hải. Nó tọa lạc ở vị trí 80 km về phía nam của Ý. Diện tích quốc gia này chỉ có 316 km vuông, với dân số khoảng 450,000 người, khiến nó trở thành một trong những quốc gia nhỏ nhất, nhưng với mật độ dân cư dày đặc. Thủ đô của Malta, là Valletta, với diện tích 0.8 km vuông, là thủ đô nhỏ nhất trong Liên minh Âu Châu. Để so sánh, Sàigòn có diện tích là 2,061 km vuông, tức là 2,500 lần lớn hơn. Nói cách khác, thủ đô của Malta chỉ bằng một phường của thành phố Sàigòn.
Malta có hai ngôn ngữ chính thức: tiếng Malta và tiếng Anh.
Chúng tôi xin gởi đến quý vị và anh chị em một vài nhận xét trước chuyến tông du của Đức Thánh Cha
Malta và Địa Trung Hải đang trải qua một cuộc khủng hoảng về tình đoàn kết. Đây là những lời mạnh mẽ của Đức Tổng Giám Mục Scicluna của Malta trong một cuộc phỏng vấn với Vatican News, trong đó ngài kêu gọi sự hợp tác nhiều hơn từ Âu Châu để Biển này, nơi thường xuyên trở thành nghĩa địa, có thể trở thành một khu vực đồng trách nhiệm cụ thể.
Những lời này được đưa ra vài ngày trước hội nghị thượng đỉnh Florence, nơi đã quy tụ các thị trưởng và giám mục của khoảng 60 thành phố Địa Trung Hải, và một tháng trước chuyến tông du Malta của Đức Thánh Cha Phan xi cô.
Đối với Đức Tổng Giám Mục Scicluna, “cam kết đối thoại là con đường dẫn chúng ta đến một vùng biển chung, hòa hợp và công lý,” đồng thời đòi hỏi “sự đồng trách nhiệm của mỗi người”.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
10 câu đầu tiên của Chương 28 sách Tông Đồ Công Vụ kể lại câu chuyện đắm tàu của Thánh Phao lô như sau:
Được cứu rồi, chúng tôi mới biết đảo ấy gọi là Malta. Dân địa phương đối xử với chúng tôi một cách nhân đạo hiếm có. Họ đốt một đống lửa to và tiếp đón tất cả chúng tôi, vì trời đã bắt đầu mưa và lạnh. Ông Phao lô vơ được một mớ cành khô và đang bỏ vào lửa, thì một con rắn độc bị nóng bò ra, cuốn vào tay ông. Người địa phương thấy con vật lủng lẳng ở tay ông thì bảo nhau: “Chắc chắn người này là một tên sát nhân: hắn vừa được cứu khỏi chết dưới biển, nhưng Thần Công Lý đã không để cho sống.” Nhưng ông giũ con vật vào lửa mà không hề hấn gì. Họ cứ đợi ông sẽ sưng phù lên hoặc lăn ra chết; nhưng đợi lâu mà không thấy có gì khác thường xảy đến cho ông, thì đổi ý và bảo ông là một vị thần.
Gần nơi ấy, có đồn điền của viên quan lớn nhất đảo, tên là Púpliô. Ông tiếp đón chúng tôi và niềm nở cho chúng tôi trú ngụ trong ba ngày. Có ông thân sinh ông Púpliô đang liệt giường vì bị sốt và kiết lỵ. Ông Phaolô vào thăm, cầu nguyện, đặt tay trên ông và chữa khỏi. Thấy thế, các bệnh nhân khác trên đảo cũng đến với ông và được chữa lành. Họ trọng đãi chúng tôi, và khi chúng tôi xuống tàu, họ đã đem tới những gì chúng tôi cần dùng.
Đến thăm Malta, Đức Thánh Cha Phan xi cô sẽ thực hiện chuyến tông du đầu tiên trong năm 2022 bên ngoài nước Ý. Đức Phanxicô sẽ là vị giáo hoàng thứ ba đến thăm Malta sau hai chuyến thăm của Đức Gioan Phaolô II vào năm 1990 và 2001, và Đức Bênêđíctô XVI vào năm 2010.
Trong buổi yết kiến chung thứ tư vừa qua, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng ngài mong thực hiện chuyến viếng thăm “lãnh thổ sáng láng”, theo bước chân Thánh Phaolô, đấng đã được chào đón tại đó khi đắm tầu. Ngài nói thêm rằng chuyến viếng thăm cũng là dịp may độc đáo “trở về nguồn suối việc rao giảng Tin Mừng” tự trải nghiệm một cộng đồng Kitô hữu có lịch sử đã mấy ngàn năm nay.
Vì địa điểm địa dư và vị trí chiến lược của nó ở Địa Trung Hải, Malta là điểm dừng chân chính của nhiều người, đặc biệt từ Phi Châu, trên đường di dân, tìm một tương lai tốt đẹp hơn cho họ và gia đình họ.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhìn nhận các cố gắng của đảo quốc này trong việc nghinh đón và cam kết đối với “nhiều anh chị em tầm trú của chúng ta”.
Chính vì thế, trong ngày thứ hai của chuyến đi ngài sẽ gặp gỡ khoảng 200 di dân tại Trung tâm Di dân “Phòng Thí nghiệm Hòa bình Gioan 23” ở Hal Far.
Với Kitô hữu Malta, chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô khuyến khích họ mở lòng ra nghinh đón những người ở bên lề xã hội. Đó là nhận định của Cha Joseph Mizzi, chánh xứ Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô ở Rabat. Nhưng nó cũng sẽ nhắc nhớ họ đến gốc rễ xưa của đức tin họ.
Cha nhắc lại biến cố Thánh Phaolô bị đắm tầu ở đây và do đó đã lưu lại đảo trong 3 tháng tại nơi nay là Hang Thánh Phaolô. Trong thời gian này, Thánh Phaolô đã chữa bệnh cho cha của Publius, thống đống của Đảo. Ông này sau đó đã trở lại đạo và trở thành giám mục và vị thánh tiên khởi của Đảo.
Cha Mizzi vừa là chánh xứ Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vừa trông coi cả Hang Thánh Phaolô nữa, nên ngài nhấn mạnh hang này là đền thánh rất đặc biệt đối với người Malta vì nó nối kết họ với thời Kitô giáo tiên khởi: chính tại đây, Thánh Phaolô chữa bệnh cho cha của thống đốc Publius, đầu tầu đem cả đảo về cùng Chúa. Cả hai vị tiền nhiệm của Đức Phanxicô đều tới thăm hang này. Đức Phanxicô cũng sẽ viếng hang.
Cha Mizzi nhấn mạnh rằng Giáo hội ở Malta phải tiếp tục sứ mệnh do Thánh Phaolô để lại, nghĩa là “trở thành các môn đệ trung thành của Chúa Kitô và những nhà truyền giáo tốt lành của Dân Người”.
Sau các nghi thức tại đây, Đức Thánh Cha sẽ đến thăm xã giao tổng thống Cộng Hòa Malta là Ông George Vella trong Phòng Đại sứ của dinh tổng thống được gọi là Dinh Đại Hiệp Sĩ – Grand Master. Dinh này được xây dựng giữa thế kỷ 16 và 18 tại thủ đô Valletta của Malta để làm dinh thự cho vị Đại Hiệp Sĩ dòng Thánh Gioan cai quản Malta.
1. Trung đoàn Azov: Quân Nga mất nhiều xe tăng, mất cả đại đội lính hàng ngày ở Mariupol
“Mariupol đã bị bao vây từ ngày 1 tháng 3. Hiện tại, quân đội của chúng ta vẫn giữ được một phần của thành phố. Quân Nga đã cố thủ một phần trong thị xã. Khi chúng tôi thống kê lực lượng của họ cách đây khoảng một tuần, có khoảng 14,000 lính Nga của cái gọi là 'LPR / DPR' và lính đánh thuê người Chechnya đang chiến đấu và các tiểu đoàn của các công ty quân sự tư nhân. Hiện quân ta tiếp tục tiêu diệt địch. Mỗi ngày, kẻ thù mất tới 4 xe tăng, hoặc đôi khi nhiều hơn, và một trung đội hoặc một đại đội binh lính”, Tham mưu trưởng Trung đoàn Azov, Đại Tá Bohdan Krotevych, cho biết trên kênh truyền hình Belsat TV.
Ông nhắc nhở rằng quân đội Ukraine đã bảo vệ thị trấn được một tháng nay, và tinh thần chiến đấu của các binh sĩ vẫn rất cao.
Krotevych lưu ý rằng ông đã chứng kiến rất nhiều các tội ác trong cuộc chiến với tư cách là một người lính, nhưng những tội ác mà quân xâm lược Nga gây ra là hoàn toàn khủng khiếp.
Như đã đưa tin, Tư lệnh Trung đoàn Azov Denys Prokopenko đã không di tản đi đâu và tiếp tục bảo vệ Mariupol, nơi đã bị quân xâm lược Nga phong tỏa.
Mariupol phải gánh chịu một trong những thảm họa nhân đạo lớn nhất do sự xâm lược của Nga. Những kẻ xâm lược ném bom những cư dân không có vũ khí và chặn việc cung cấp viện trợ nhân đạo. Theo Thị trưởng Mariupol Vadym Boychenko, số dân thường thương vong ở Mariupol là khoảng 5,000 người, trong đó có khoảng 210 trẻ em, tính đến ngày 27 tháng 3. Khoảng 160,000 thường dân hiện ở lại Mariupol, đang bị quân xâm lược Nga phong tỏa.
Quân đội Nga đã biến Mariupol thành một đống đổ nát. Cư dân ngất xỉu vì đói trên đường phố, và bom đạn kẻ thù đang chôn sống họ trong các hầm tránh bom.
Phó Thủ tướng Ukraine Iryna Vereshchuk cho biết, quân đội Nga đã phá hủy gần hết thành phố, vì vậy cần phải di tản toàn bộ dân thường.
Source:UKRInform
2. Tổn thất của Nga ở miền đông Ukraine trong ngày 1 tháng Tư
Hôm 1 tháng Tư, các lực lượng phòng thủ Ukraine đã đẩy lùi 6 cuộc tấn công của lực lượng xâm lược Nga, phá hủy 6 xe tăng, 22 xe thiết giáp và các thiết bị, vũ khí khác ở miền đông Ukraine.
Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết:
“Hôm nay, ngày 1 tháng 4, giao tranh ác liệt đã diễn ra trong khu vực trách nhiệm của nhóm tác chiến và chiến thuật miền Đông kể từ đêm 31 tháng Ba. Quân Nga dùng hỏa lực mạnh phá vỡ tuyến phòng thủ của ta ở một số hướng, trong sáu đợt tấn công. Tất cả các cuộc tấn công của lực lượng phát xít Nga đều bị đẩy lùi”
Theo ghi nhận, 280 quân nhân Nga đã phải hy sinh cho tham vọng điên cuồng của Putin, cùng với 6 xe tăng, 22 xe thiết giáp chở quân, 19 xe chiến đấu bộ binh, 6 hệ thống pháo và súng cối, 2 hệ thống phóng hỏa tiễn đồng loạt, 3 máy bay không người lái.
Tính đến ngày 1 tháng Tư, Bộ Quốc phòng Ukraine Ukraine ước tính Nga đã mất hơn 10 tỷ Mỹ Kim trang thiết bị quân sự ở Ukraine.
Bộ Quốc phòng Ukraine nói:
“Do sự tương tác phối hợp của quân đội và các lực lượng tình nguyện, một lượng lớn thiết bị của Nga đang bị phá hủy. Kẻ thù đã mất các thiết bị quân sự trị giá hơn 10 tỷ đô la”
Bảy thiết bị quân sự đắt tiền nhất mà Nga mất ở Ukraine bao gồm xe tăng T-90M trị giá 3 triệu Mỹ Kim một chiếc, hệ thống pháo-hỏa tiễn phòng không Pantsir-S1 trị giá 15 triệu Mỹ Kim một chiếc, máy bay trực thăng Ka-52 trị giá tới 16 triệu Mỹ Kim một chiếc, máy bay vận tải quân sự Il-76 trị giá 27 triệu Mỹ Kim một chiếc, và máy bay chiến đấu hiện đại Su-35S trị giá 65 triệu Mỹ Kim một chiếc, các hệ thống hỏa tiễn đạn đạo tầm ngắn di động Iskander-M trị giá 100 triệu Mỹ Kim, và tàu Saratov trị giá hơn 100 triệu Mỹ Kim đã chìm sâu dưới lòng Hắc hải.
Từ ngày 24 tháng 2 đến ngày 1 tháng 4, Nga đã mất khoảng 17,700 quân ở Ukraine.
Nga cũng mất 625 xe tăng, 1,751 xe thiết giáp chiến đấu, 316 hệ thống pháo, 96 hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt, 54 hệ thống phòng không, 143 máy bay, 131 trực thăng, 1,220 xe và 7 tàu thuyền.
Source:UKRInform
3. Sĩ quan quân đội Đức làm gián điệp cho Nga
Hôm thứ Tư 1 tháng Tư, Cơ quan Công tố Liên bang Đức, gọi tắt là GBA, cho biết Đức đã truy tố một cựu sĩ quan trong lực lượng dự bị của nước này với tội danh làm gián điệp cho Nga.
Công tố viên Đức Ines Peterson cho biết trong một tuyên bố rằng Ralph G đã cung cấp cho các đặc vụ Nga “nhiều tài liệu và thông tin” về quân đội Đức từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 3 năm 2020. Ông Ines Peterson cho biết trong một tuyên bố rằng họ của người bị truy tố chỉ được nêu vắn tắt là G theo luật bảo vệ quyền riêng tư của các bị can cho đến khi có phán quyết chung cuộc của tòa án.
GBA cũng cáo buộc nghi phạm, người từng là phó chỉ huy của một đội đồng thời là thành viên của một số ủy ban kinh tế, đã cung cấp cho các đặc vụ Nga thông tin về tác động đối với các công ty Đức đối với các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Âu Châu sau khi Nga sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine vào Nga.
Nghi phạm cũng cung cấp thông tin về Nord Stream 2, là đường ống thuộc sở hữu của công ty khí đốt Nga Gazprom đã bị Đức ngừng hoạt động vào tháng 2 sau khi Nga xâm lược Ukraine.
Công tố viên cho biết Ralph G đã cung cấp cho các điệp viên Nga thông tin về lực lượng dự bị và phòng thủ dân sự của Đức. Thông qua ông ta, cơ quan mật vụ của Nga cũng có được thông tin chi tiết cá nhân và liên lạc của các sĩ quan cấp cao trong quân đội và các nhà quản lý doanh nghiệp nổi tiếng.
GBA nhấn mạnh rằng nghi phạm đã giúp những người Nga hiểu các chính sách quốc phòng của Mỹ với các đối tác của họ trong liên minh quân sự Nato.
4. Bucha được giải phóng khỏi quân xâm lược Nga
Thị trưởng của Bucha ở vùng Kiev, Anatoliy Fedoruk, tuyên bố rằng thị trấn này đã được giải phóng khỏi quân đội Nga.
Ông Fedoruk nói:
“Ngày 31 tháng 3 sẽ đi vào lịch sử của cộng đồng Bucha của chúng tôi với tư cách là Ngày Giải phóng. Sự giải phóng của Lực lượng vũ trang Ukraine khỏi bọn Orc của Nga, khỏi quân xâm lược Nga. Vì vậy, hôm nay, tôi tuyên bố rằng đây là ngày vui. Vui mừng và đây là một thắng lợi lớn của vùng Kiev! Và chúng tôi chắc chắn đang chờ đợi để có một chiến thắng đậm đà của Ukraine.”
Khi rời thành phố Bucha ở vùng Kiev, quân đội Nga đã gài mìn ở các công trình dân dụng và cơ sở hạ tầng.
Source:UKRInform
5. Ukraine trao đổi tù binh với Nga
Ukraine đã trao đổi 86 thành viên trong lực lượng vũ trang của họ với Nga hôm 01 tháng Tư, theo các quan chức cấp cao của Ukraine.
Ông Kyrylo Tymoshenko, phó chánh văn phòng của tổng thống Ukraine, cho biết”
“Cuộc trao đổi vừa diễn ra, 86 quân nhân Ukraine, trong đó có 15 nữ quân nhân, đã được an toàn.”
Phó thủ tướng Ukraine, Iryna Vereshchuk, cho biết các binh sĩ “đã được đưa về nhà.”
“Tôi muốn nói với tất cả những người của chúng tôi, những người vẫn đang bị giam giữ: Chúng tôi sẽ chiến đấu cho mỗi người trong số các bạn! Và sẽ mang các bạn về nhà. Hãy mạnh mẽ lên.”
Văn phòng Tổng thống cũng nhắc lại một tuyên bố trước đó rằng tổn thất của Lực lượng vũ trang Ukraine trong cuộc chiến Nga-Ukraine được coi là “đáng kể”, nhưng không có con số cụ thể nào được nêu lên cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Ông Oleksiy Arestovych, cố vấn của Văn phòng Tổng thống nói:
“Tất nhiên, chúng tôi có những con số này. Tôi biết gần như chính xác, nhưng tôi sẽ không nêu lên, cho đến khi chiến tranh kết thúc… Chúng tôi đang chịu tổn thất, và con số là rất đáng kể. Tổn thất của chúng tôi nhỏ hơn nhiều so với những tổn thất của Nga, nhưng tổn thất của chúng tôi không hề nhỏ. Và mỗi quân nhân sẽ được ghi nhận, mỗi người trong số họ sẽ vẫn còn trong ký ức của chúng tôi, và mỗi gia đình sẽ được bảo đảm cả về danh dự và sự giúp đỡ”, Ông Arestovych lưu ý.
Cố vấn Văn phòng Tổng thống giải thích rằng không có quân đội nào nêu rõ tổn thất của mình trong bối cảnh chiến tranh đang diễn ra bởi vì, thứ nhất, đó là bí mật quân sự và thứ hai, nó có thể giúp kẻ thù đánh giá mức độ hiệu quả của các hành động của họ.
6. Tình trạng của thành phố Mariupol
Sergei Orlov, Phó thị trưởng Mariupol, vừa nói chuyện với CNN về những gì đang xảy ra trong thành phố.
“Thành phố bị phá hủy hoàn toàn, giống như đống đổ nát,” anh nói. “Chúng tôi khó chịu, không phải vì cơ sở hạ tầng mà vì con người. Giờ đây, chúng tôi không còn biết cách làm sao giúp đỡ những công dân của chúng tôi, những người đang đau khổ trong thành phố”.
Orlov nói rằng Nga không cho phép bất kỳ hỗ trợ nhân đạo nào vào thành phố. Tổ chức Hồng Thập Tự Quốc tế nói rằng họ đã cố gắng nhưng không vào được thành phố, và sẽ thử lại vào ngày thứ Bẩy 2 tháng Tư.
Orlov cho biết, vì thiếu lương thực và nguồn cung cấp, người ta thường ăn ba bữa một tuần, thay vì ba bữa một ngày.
Ukraine đã báo cáo rằng thành phố Mariupol vẫn đang bị bao vây, bất chấp lời hứa ngừng bắn.
Nga đã cam kết ngừng các cuộc tấn công và cho phép người dân di tản khỏi thành phố bị bao vây, nhưng Phó thủ tướng Ukraine Iryna Vereshchuk hôm thứ Năm cho biết “không có lệnh ngừng bắn nào cả”.
“Kẻ thù tiếp tục phá hủy, bằng các cuộc không kích, tàn tích của cơ sở hạ tầng còn lại ở Mariupol, cố gắng tiêu diệt tất cả các sinh vật”, cô nói
Cô Vereshchuk nói thêm rằng các lực lượng Nga đã không mở hoàn toàn tuyến đường di tản khỏi thành phố, nơi hơn 5,000 người đã chết vì họ vẫn không có thức ăn, nước uống hoặc giá lạnh và bị đe dọa đánh bom liên tục.
Theo báo cáo, 75,000 người Ukraine đã được di tản và Hội Chữ thập đỏ đang làm việc để di tản 100,000 người nữa nhưng đang chờ lời hứa ngừng bắn đáng tin cậy từ Nga để vận chuyển người tị nạn một cách an toàn.
Về phía Nga, thông tấn xã TASS của Nga cho biết họ sẽ mở các hành lang nhân đạo từ thành phố Mariupol bị bao vây vào ngày thứ Sáu 1 tháng 4.
Theo thông tấn xã Tass, Bộ Quốc phòng Nga hôm thứ Năm cho biết họ sẽ mở một hành lang nhân đạo từ thành phố Mariupol bị bao vây đến Zaporizhzhia.
Dẫn lời Thượng Tướng Mikhail Mizintsev, Giám đốc Trung tâm Quản lý Quốc phòng Quốc gia Nga, Tass cho biết Mạc Tư Khoa đang thực hiện theo yêu cầu mà Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Thủ tướng Đức Olaf Scholz đã đưa ra với Tổng thống Nga Vladimir Putin.
1. Chuông ủng hộ sự sống được rèn ở Ba Lan và được Đức Thánh Cha Phanxicô làm phép được đưa sang giáo xứ Công Giáo ở Ukraine
Một quả chuông ủng hộ sự sống do Đức Thánh Cha Phanxicô làm phép đã đến Lviv, Ukraine, trong bối cảnh Nga xâm lược đất nước.
“Quả chuông nhắc nhở chúng ta rằng mọi người đều có quyền được sinh ra và được sống”, Cha Tomasz Kancelarczyk, người giao chiếc chuông vào ngày 24 tháng 3, cho biết. “Đó cũng là một tiếng nói cảnh báo.”
Cha Kancelarczyk thuộc Tổ chức Bàn chân nhỏ ở Szczecin, Ba Lan, đã mang chuông “Tiếng nói của đứa trẻ chưa sinh” đến Đền thờ Đức Gioan Phaolô II ở Lviv. Cuộc hành trình của chiếc chuông không kết thúc ở đó: Nó sẽ tiếp tục di chuyển giữa các giáo xứ ở Ukraine để quảng bá - hoặc rung lên - một nền văn hóa của cuộc sống.
“Tiếng nói của Chuông Bất Tử một mặt là tiếng nói cảnh báo, nhưng cũng là lời kêu gọi sự thánh thiện của cuộc sống,” vị linh mục nói trong buổi lễ giao chuông. “Nó phải kích thích chúng ta yêu mến cuộc sống và giá trị to lớn của nó phải luôn ở trong trái tim không chỉ của Giáo hội, mà còn của mỗi con người”.
Ngài nhấn mạnh: “Bạn không thể yêu cầu hòa bình trong khi tiến hành cuộc chiến chống lại những kẻ yếu nhất”.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã đánh vào chiếc chuông vừa được tặng cho Ukraine, cùng với một quả chuông cho Ecuador, tại quảng trường Thánh Phêrô ở Vatican vào tháng 10 năm ngoái. Chuông Tiếng Nói của Thai Nhi là một phần trong sáng kiến của tổ chức Nói Vâng Với Cuộc Sống của Ba Lan, là tổ chức ủng hộ sự sống của con người từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên.
“Cầu mong âm thanh của các chuông này loan báo 'Phúc âm của sự sống' cho thế giới, đánh thức lương tâm của con người, và là một lời nhắc nhở về những thai nhi chưa sinh,” Đức Giáo Hoàng nói như trên vào thời điểm đó. “Tôi giao phó cho lời cầu nguyện của anh chị em mọi đứa trẻ được thụ thai có sự sống thiêng liêng và bất khả xâm phạm.”
Những chiếc chuông khổng lồ, giống như bản gốc ở Ba Lan, đến từ xưởng đúc chuông của Jan Felczyński, nằm ở Przemyśl. Mỗi chiếc nặng hơn một tấn và có đường kính gần 4 feet.
Trang trí của chuông nói lên mục đích của chúng. Trong số các hình ảnh khác, chúng minh họa một chuỗi DNA, siêu âm của một đứa trẻ chưa sinh và 10 điều răn. Chuông có khắc dòng chữ của điều răn thứ năm - “Ngươi chớ giết người.”
Những chiếc chuông cũng trích dẫn đoạn Kinh Thánh từ tiên tri Giêrêmia 1: 5 “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi,Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.”
Trước khi khởi hành đến Lviv, Cha Kancelarczyk đã nhận xét rằng chuông này đến Lviv một ngày trước lễ Truyền tin vào ngày 25 tháng 3 không phải là một sự tình cờ.
Source:Catholic News Agency
2. Linh mục ở lại Ukraine với giáo dân của mình: 'Chúa ban cho tôi sức mạnh'
Cha Pedro Zafra là một linh mục 31 tuổi từ Córdoba, Tây Ban Nha, đến Kiev vào năm 2011 để được đào tạo thành một linh mục. Ngài đã được thụ phong vào tháng 6 năm ngoái và là một thành viên của Con đường Tân Dự Tòng. Vị Linh mục hiện phục vụ giáo xứ Đức Mẹ Đồng Trinh ở thủ đô Ukraine.
Bất kể chiến tranh bùng nổ kinh hoàng, vị linh mục này vẫn quyết định ở lại với giáo dân của mình và không rời bỏ Ukraine. “Đó là một cuộc chiến nội tâm,” ngài nói và nhấn mạnh rằng ngài đã tìm thấy câu trả lời trong lời cầu nguyện với một đoạn từ Phúc âm “nói về sứ mệnh và sự hỗ trợ từ ân sủng Thiên Chúa để thực hiện nó”, và đó là lý do tại sao ngài quyết định ở lại.
Cho đến ngày 24 tháng 2, khi cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine nổ ra, cuộc sống trong giáo xứ êm đềm giống như bất kỳ nơi nào khác. Nhưng kể từ khi chiến tranh bắt đầu, giáo xứ đã trở thành một trung tâm tiếp nhận, nơi hơn 20 giáo dân phải trú ẩn dưới tầng hầm vì nhà của họ không đủ an toàn.
“Chúng tôi có một số người già ngồi trên xe lăn, các gia đình có con nhỏ và vị thành niên, và một số nhà truyền giáo trẻ tuổi,” Cha Zafra nói với nhật báo ABC của Tây Ban Nha, và nhấn mạnh rằng sống qua hoàn cảnh này trong cộng đồng giúp chúng tôi rất nhiều để đối phó với nó.”
“Tôi không phải là một anh hùng. Tôi không thể tự mình xử lý tình huống này. Chính Chúa là Đấng ban cho tôi sức mạnh qua lời cầu nguyện và các bí tích”
“Có những lúc tôi trở nên hơi lo lắng trong sự vô nghĩa khi không hiểu lý do về những gì đang xảy ra, nhưng bây giờ tôi đã tìm thấy nhiều ý nghĩa hơn trong lời cầu nguyện và các bí tích, những điều ban cho tôi ân sủng để không bỏ trốn và kiên trì với những người đang đau khổ.”
Cha Zafra cho biết cộng đồng của ngài thức dậy lúc 7:30 sáng, cùng nhau cầu nguyện, ăn sáng và sau đó dành cả buổi sáng để làm các công việc khác nhau. Ngài thường đến thăm những người bệnh và người già không thể rời khỏi nhà của họ, để cho họ Rước lễ và bất cứ thứ gì họ có thể cần.
Ngoài ra, theo ABC, giáo xứ còn có chức năng như một trung tâm phân phối viện trợ nhân đạo vì nhiều người, kể cả những người ngoại đạo, đến đây mỗi ngày để xin giúp đỡ về vật chất và tài chính.
Phần lớn các dịch vụ cơ bản như trạm xăng, siêu thị và nhà thuốc vẫn mở cửa và Cha Zafra nói rằng họ đi lại bình thường, mặc dù đôi khi họ đã nghe thấy tiếng nổ ở xa.
Giáo xứ cũng tiếp tục các hoạt động tương đối bình thường, mặc dù họ đã dời thánh lễ sớm hơn để các tín hữu có thể trở về nhà trước giờ giới nghiêm, và đôi khi có nguy cơ bị đánh bom, họ đã chuyển các cử hành xuống tầng hầm. Trong những tuần gần đây, họ đã cử hành hai cuộc Rước Lễ Lần Đầu và ba lễ cưới.
Cha xứ cũng lưu ý rằng vào tháng trước, số người tham dự thánh lễ đã tăng lên. “Mọi người đến tìm kiếm câu trả lời cho sự đau khổ. Trước đây họ có công việc, dự án cuộc đời của họ và bây giờ tất cả những điều đó đã biến mất, họ không còn bất kỳ sự an toàn nào nữa và họ đang tìm kiếm câu trả lời từ Chúa”.
Cha Zafra nhấn mạnh đến nỗi đau khổ to lớn của người dân Ukraine: “Có rất nhiều căng thẳng, lo lắng cho an ninh, cho chính cuộc sống của mình. Sự không chắc chắn được tạo ra khi người ta không biết điều gì sẽ xảy ra, sống từ ngày này sang ngày khác. Chúng tôi không biết liệu mình có còn sống vào ngày mai hay không”.
Source:Catholic News Agency
3. Mỗi ngày có hai nhà thờ hoặc gia sản tôn giáo bị hư hại tại Ukraine
Trong chiến tranh tại Ukraine hiện nay, mỗi ngày có hai nhà thờ hoặc gia sản tôn giáo bị hư hại vì bom đạn.
Phó Thủ tướng Ukraine Iryna Vereshchuk cho biết các thánh đường của Chính Thống giáo bị thiệt hại nhiều nhất, nhưng cũng có các nhà thờ Công Giáo, Hội đường Do thái và Đền thờ Hồi giáo. Thậm chí người ta cũng lo sợ cho Nhà thờ chính tòa Santa Sofia ở thủ đô Kiev.
Tin về những thiệt hại được cung cấp hằng ngày do cơ quan nhà nước Ukraine về chính trị chủng tộc và tự do lương tâm. Cho đến ngày 25 tháng Ba vừa qua, cơ quan này cho biết có ít nhất 59 nhà thờ, đền đài quan trọng về tinh thần tại các vùng Kiev, Donetsk, Kharkiv và nhiều nơi khác, bình quân mỗi ngày có hai trường hợp. Thành phố Mariupol là một trong những điểm nóng bị Nga tấn công, pháo kích và dội bom. Ngày 12 tháng Ba vừa qua, quân Nga đã bắn vào đền thờ Hồi giáo Đại Solimano, nơi có 90 người ẩn náu. Cả nhà thờ Chúa Kitô Cứu Thế của Tin lành Baptist cũng bị phá hủy hôm 15 tháng Ba vừa qua. Quân đội Nga tàn phá trụ sở hành chánh của giáo phận Donetsk, thuộc Chính thống Ukraine.
Tại thành phố Kharkiv ở miền đông Ukraine, có nhiều nhà thờ bị hư hại. Cho đến nay các cuộc tấn công vào thành phố Lvov ở miền Tây Ukraine chưa gây thiệt hại cho cơ sở tôn giáo nào, nhưng đạn pháo đã rơi không xa nhà của các cha dòng Orione. Vì thế chiến tranh tại Ukraine cũng có nguy cơ trở thành chiến tranh chống gia sản tôn giáo
Lúc 08:30 sáng thứ Bẩy 2 tháng Tư, Đức Thánh Cha đã khởi hành bằng máy bay từ phi trường quốc tế Fiumicino của Rôma để đến Sân bay quốc tế Malta
Lúc 10:00 ngài đã đến sân bay quốc tế Malta. Chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Malta diễn ra trong bối cảnh đảo quốc này đang kỷ niệm một ngày lễ đặc biệt, đó là vụ đắm tàu của Thánh Phaolô.
Sau các nghi thức tại sân bay quốc tế, Đức Thánh Cha đã đến thăm xã giao tổng thống Cộng Hòa Malta là Ông George Vella trong Phòng Đại sứ của dinh tổng thống được gọi là Dinh Đại Hiệp Sĩ – Grand Master. Dinh này được xây dựng giữa thế kỷ 16 và 18 tại thủ đô Valletta của Malta để làm dinh thự cho vị Đại Hiệp Sĩ dòng Thánh Gioan cai quản Malta.
Sau đó, Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Robert Abela tại Thư Phòng của dinh tổng thống.
Lúc 11:50 Đức Thánh Cha đã có một bài diễn văn trong cuộc gặp gỡ với chính quyền dân sự và ngoại giao đoàn. Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:
Các thành viên của Chính phủ và ngoại giao đoàn,
Quý vị hữu trách tôn giáo và dân sự,
Đại diện Đời sống Văn hóa Xã hội,
Kính thưa quý vị,
Tôi chào thân ái và tôi cám ơn ngài, thưa Tổng thống, vì những lời chào mừng ân cần thay mặt cho đồng bào của ngài. Tổ tiên của các bạn đã thể hiện lòng hiếu khách đối với Tông đồ Phaolô trong hành trình đến Rôma của ngài, đối xử với ngài và những người các bạn đồng hành “với lòng tốt khác thường” (Công vụ 28: 2). Đến từ Rôma, giờ đây tôi cũng đang trải nghiệm sự hiếu khách nồng hậu đó, một kho báu mà người Malta đã truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nhờ vị trí địa lý, Malta có thể được gọi là trái tim của Địa Trung Hải. Không chỉ bởi địa lý của nó: vì trong hàng nghìn năm, sự giao thoa của các sự kiện lịch sử và sự gặp gỡ của các dân tộc khác nhau đã khiến hòn đảo này trở thành một trung tâm của sức sống và văn hóa, tâm linh và thẩm mỹ, một ngã tư tiếp nhận và hài hòa ảnh hưởng từ nhiều nơi của thế giới. Những ảnh hưởng đa dạng này khiến chúng ta liên tưởng đến những cơn gió khác nhau quét qua đất nước này. Không phải ngẫu nhiên, trong các bản đồ cổ của Địa Trung Hải, cánh hoa hồng la bàn, hay "bông hồng của gió" thường được vẽ gần đảo Malta. Tôi muốn mượn hình ảnh bông hồng của gió, mô tả gió theo bốn điểm chính của la bàn, để mô tả bốn ảnh hưởng cơ bản đối với đời sống xã hội và chính trị của đất nước này.
Gió thổi trên các đảo của Malta phổ biến là từ phía tây bắc. Phía bắc gợi nhớ đến Âu Châu, đặc biệt là ngôi nhà do Liên minh Âu Châu đại diện, được xây dựng như một nơi ở cho một đại gia đình duy nhất đoàn kết trong việc duy trì hòa bình. Sự đoàn kết và hòa bình là những món quà mà người Malta cầu xin từ Chúa mỗi khi quốc ca của các bạn được cất lên. Lời cầu nguyện được viết bởi Dun Karm Psaila có nội dung: “Lạy Chúa toàn năng, xin ban sự khôn ngoan cho những người cai trị, sức mạnh cho những người làm việc, khẳng định sự hiệp nhất giữa người dân Malta và hòa bình”. Hòa bình đến sau sự hiệp nhất và nổi lên từ sự hiệp nhất. Điều này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của làm việc cùng nhau, thích sự gắn kết hơn là chia rẽ, và về tầm quan trọng của việc củng cố nguồn gốc và giá trị chung đã tạo nên tính độc đáo của xã hội Malta.
Tuy nhiên, để bảo đảm một sự chung sống xã hội lành mạnh, củng cố cảm giác thân thuộc mà thôi thì không đủ; cần phải xây dựng nền tảng của cuộc sống trong xã hội, dựa trên luật pháp và tính hợp pháp. Trung thực, công bằng, tinh thần trách nhiệm và minh bạch là những trụ cột thiết yếu của một xã hội dân sự trưởng thành. Cầu mong cho cam kết xóa bỏ những điều bất hợp pháp và tham nhũng của các bạn sẽ mạnh mẽ, như gió bắc quét qua các bờ biển của đất nước này. Cầu mong các bạn luôn trau dồi tính hợp pháp và minh bạch, điều này sẽ giúp xóa bỏ tham nhũng và tội phạm, cả hai đều không hoạt động công khai và ban ngày.
Ngôi nhà Âu Châu, cam kết thúc đẩy các giá trị của công lý và bình đẳng xã hội, cũng đi đầu trong nỗ lực bảo vệ ngôi nhà lớn hơn là sự sáng tạo của Thiên Chúa. Môi trường mà chúng ta đang sống là một món quà từ thiên đường, như bài quốc ca của các các bạn cũng công nhận, khi cầu xin Chúa gìn giữ vẻ đẹp của vùng đất này, như một người mẹ đã khoác lên mình ánh sáng rực rỡ nhất. Ở Malta, nơi vẻ đẹp rực rỡ của cảnh quan làm giảm bớt khó khăn, tạo hóa xuất hiện như một món quà mà, giữa những thử thách của lịch sử và cuộc sống, nhắc nhở chúng ta về vẻ đẹp của cuộc sống chúng ta trên trái đất. Do đó, nó phải được giữ an toàn khỏi lòng tham tàn bạo, khỏi sự hám lợi và khỏi đầu cơ xây dựng, là những thứ ảnh hưởng không chỉ đến cảnh quan mà còn cả tương lai. Thay vào đó, việc bảo vệ môi trường và thúc đẩy công bằng xã hội chuẩn bị cho tương lai, và là những cách tối ưu để khơi dậy trong những người trẻ tuổi niềm đam mê đối với một nền chính trị lành mạnh và bảo vệ họ khỏi sự cám dỗ của sự thờ ơ và thiếu cam kết.
Gió bắc thường kết hợp với gió thổi từ hướng tây. Quốc gia Âu Châu này, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi, có chung lối sống và suy nghĩ phương Tây. Điều này mang lại những lợi ích to lớn - tôi nghĩ, chẳng hạn, về các giá trị của tự do và dân chủ - nhưng cũng có những rủi ro, đòi hỏi sự cảnh giác vì mong muốn tiến bộ đi kèm với sự tách rời khỏi cội nguồn của chính các bạn. Malta là một “phòng thí nghiệm phát triển hữu cơ” lộng lẫy, nơi mà sự tiến bộ không có nghĩa là cắt đứt gốc rễ của một người với quá khứ nhân danh sự thịnh vượng giả tạo ra bởi lợi nhuận, bởi những nhu cầu do chủ nghĩa tiêu dùng tạo ra, chưa kể đến quyền đòi có bất kỳ và mọi “quyền”. Một sự phát triển lành mạnh cần phải bảo tồn ký ức của quá khứ và thúc đẩy sự tôn trọng và hòa hợp giữa các thế hệ, không dẫn đến sự đồng nhất nhạt nhẽo và các hình thức thực dân hóa ý thức hệ, diễn ra, chẳng hạn như trong lĩnh vực và nguyên tắc của cuộc sống. Đó là tư tưởng thực dân đi ngược lại quyền sống ngay từ khi nó được hình thành.
Cơ sở của mọi sự phát triển vững chắc là tôn trọng con người, tôn trọng cuộc sống và phẩm giá của mọi người nam nữ. Tôi nhận thức được cam kết của người Malta trong việc đón nhận và bảo vệ sự sống. Trong Sách Tông Đồ Công Vụ, người dân trên hòn đảo này đã được biết đến việc cứu sống nhiều người. Tôi khuyến khích các bạn tiếp tục bảo vệ sự sống từ đầu đến kết thúc tự nhiên của nó, nhưng cũng bảo vệ nó mọi lúc mọi nơi khỏi bị gạt sang một bên và bị tước đoạt sự chăm sóc và quan tâm. Tôi đặc biệt nghĩ đến phẩm giá chính đáng của người lao động, người già và bệnh tật. Và trong số những người trẻ tuổi có nguy cơ phung phí tất cả những gì tốt đẹp có bên trong họ bằng cách làm theo những ảo ảnh chỉ để lại sự trống rỗng khi họ thức dậy. Đây là thành quả của chủ nghĩa tiêu dùng triệt để, sự thờ ơ với nhu cầu của người khác và tai họa của ma túy, thứ kìm hãm sự tự do và tạo ra sự phụ thuộc. Chúng ta hãy bảo vệ vẻ đẹp của cuộc sống!
Tiếp tục xuôi cánh hồng la bàn, giờ đây chúng ta hướng về phương nam, nơi mà bao anh em chúng ta đã tìm đến để tìm kiếm hy vọng. Tôi muốn cảm ơn chính quyền dân sự và người dân Malta vì sự chào đón mà họ đã dành cho những người di cư nhân danh Phúc âm, tình nhân loại chung của chúng ta và lòng hiếu khách của quê hương Malta. Theo nguyên nghĩa tiếng Phoenicia, Malta có nghĩa là “bến cảng an toàn”. Tuy nhiên, với sự gia tăng làn sóng người di cư ngày càng nhiều trong những năm gần đây, nỗi sợ hãi và bất an đã nuôi dưỡng một sự chán nản và thất vọng nhất định. Nếu sự phức tạp của vấn đề di cư cần được giải quyết đúng cách, thì vấn đề này cần được đặt trong bối cảnh thời gian và không gian rộng hơn. Thời gian, theo nghĩa hiện tượng di cư không phải là tình trạng nhất thời, mà là dấu chỉ của thời đại chúng ta. Nó mang theo gánh nặng của quá khứ bất công, bóc lột, những thay đổi khí hậu và những xung đột bi thảm, những tác động mà giờ đây chính họ đang cảm nhận được. Từ miền nam nghèo và đông dân cư, rất nhiều người đang di chuyển đến miền bắc giàu có: đây là một thực tế, và không thể bỏ qua việc áp dụng chủ nghĩa biệt lập lạc hậu, điều này không tạo ra sự thịnh vượng và hội nhập. Từ quan điểm về không gian, tình trạng khẩn cấp di cư ngày càng tăng - ở đây chúng ta có thể nghĩ đến những người tị nạn từ Ukraine bị chiến tranh tàn phá - đòi hỏi một phản ứng chung và trên diện rộng. Một số quốc gia không thể ứng phó với toàn bộ vấn đề, trong khi những quốc gia khác vẫn thờ ơ như những khán giả! Các quốc gia văn minh không thể chấp thuận các thỏa thuận bẩn thỉu vì lợi ích của họ với những tên tội phạm nô dịch người khác. Thật không may điều này xảy ra. Địa Trung Hải cần có sự đồng trách nhiệm từ phía Âu Châu, để trở thành một nhà hát mới của sự đoàn kết chứ không phải là điềm báo của một vụ đắm tàu bi thảm của nền văn minh. Địa Trung Hải không nên trở thành nghĩa trang lớn nhất của châu Âu.
Khi đề cập đến vụ đắm tàu này, suy nghĩ của tôi hướng đến Thánh Phaolô. Trong chuyến hành trình cuối cùng của mình qua Địa Trung Hải, thánh nhân đã bất ngờ đến những bờ biển này và tìm thấy sự trợ giúp sẵn sàng. Sau đó, bị một con rắn cắn, ngài bị cho là phường gian ác, nhưng sau đó lại được coi là một vị thần vì ngài không bị con rắn gây hại (xem Công vụ 28: 3-6). Giữa hai thái cực này, điều thực sự quan trọng đã bị bỏ qua: Thánh Phaolô là một người đàn ông, một người cần được hỗ trợ. Nhân văn là trên hết: đó là bài học được dạy bởi đất nước này mà lịch sử đã chúc phúc bởi sự xuất hiện của một Tông đồ bị đắm tàu. Nhân danh Tin Mừng mà Phaolô đã sống và rao giảng, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn và khám phá lại vẻ đẹp của việc phục vụ những người lân cận đang gặp khó khăn. Chúng ta hãy tiếp tục trên con đường này. Ngày nay, khi những người băng qua Địa Trung Hải để tìm kiếm sự cứu rỗi đang gặp phải nỗi sợ hãi và câu chuyện về một “cuộc xâm lược”, và việc bảo vệ an ninh của chính mình bằng bất cứ giá nào dường như là mục tiêu chính, chúng ta hãy giúp nhau không coi người di cư là một mối đe dọa và đừng khuất phục trước cám dỗ của việc chặt đứt các nhịp cầu và dựng nên các bức tường. Người khác không phải là vi-rút mà chúng ta cần được bảo vệ, mà là những người được chấp nhận. Vì vấn đề đó, “lý tưởng Kitô luôn là lời kêu gọi vượt qua sự nghi ngờ, vượt qua sự ngờ vực đã ăn sâu, vượt qua nỗi sợ mất quyền riêng tư của chúng ta, vượt qua tất cả những thái độ phòng thủ mà thế giới ngày nay áp đặt lên chúng ta” (Evangelii Gaudium, 88). Mong chúng ta đừng để sự thờ ơ bóp nghẹt ước mơ được sống nên một! Chắc chắn, sự chấp nhận đòi hỏi nỗ lực và đòi hỏi sự từ bỏ. Vì vậy, theo kinh nghiệm của Thánh Phaolô: để cứu con tàu, cần phải hy sinh hàng hóa mà nó đang chở (xem Cv 27:38). Tuy nhiên, mọi hy sinh, mọi từ bỏ được thực hiện vì một điều tốt đẹp hơn, cho sự sống của con người là kho tàng của Thiên Chúa, là thánh thiêng!
Cuối cùng, có gió đến từ phía đông, thường thổi vào lúc bình minh, đó là lý do tại sao Homer gọi nó là “Eurus” (Odyssey, V, 349.423). Tuy nhiên, từ phía đông của Âu Châu, từ đất nước mặt trời mọc, những bóng đen của chiến tranh giờ đã lan rộng. Chúng ta đã từng nghĩ rằng những cuộc xâm lược của các quốc gia khác, những cuộc giao tranh dã man trên đường phố và những mối đe dọa về nguyên tử là những ký ức nghiệt ngã của một quá khứ xa xôi. Tuy nhiên, những cơn gió băng giá của chiến tranh, vốn chỉ mang đến chết chóc, hủy diệt và hận thù, đã ập xuống mạnh mẽ cuộc sống của nhiều người và ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Một lần nữa, một số người có tiềm lực, đáng buồn là bị cuốn vào những tuyên bố lạc hậu về lợi ích dân tộc chủ nghĩa, đang kích động và thúc đẩy xung đột, trong khi những người bình thường cảm thấy cần phải xây dựng một tương lai, có thể được chia sẻ hoặc hoàn toàn không. Bây giờ trong đêm chiến tranh đang đổ xuống nhân gian, cầu xin cho chúng ta đừng để giấc mơ hòa bình tàn lụi!
Malta, nơi tỏa sáng rực rỡ ở trung tâm Địa Trung Hải, có thể là nguồn cảm hứng cho chúng ta, vì việc khôi phục vẻ đẹp cho bộ mặt của một nhân loại bị tàn phá bởi chiến tranh là điều cấp thiết. Một bức tượng Địa Trung Hải tuyệt đẹp có niên đại từ nhiều thế kỷ trước Chúa Kitô miêu tả hòa bình như một người phụ nữ, Eirene, ôm trong tay Ploutus, sự giàu có. Bức tượng đó nhắc nhở chúng ta rằng hòa bình tạo ra thịnh vượng, và chiến tranh chỉ tạo ra đói nghèo. Đặc biệt, trong bức tượng đó, hòa bình và thịnh vượng được miêu tả như một người mẹ đang ôm đứa con của mình trên tay. Tình yêu dịu dàng của những người mẹ, những người mang lại sự sống cho thế giới, và sự hiện diện của phụ nữ là sự thay thế thực sự cho logic tồi tệ về quyền lực dẫn đến chiến tranh. Chúng ta cần lòng trắc ẩn và sự quan tâm, chứ không phải những tầm nhìn ý thức hệ và dân túy được thúc đẩy bởi những lời lẽ thù hận và không quan tâm đến cuộc sống cụ thể của người dân, những người bình thường.
Hơn sáu mươi năm trước, trong một thế giới bị đe dọa bởi sự hủy diệt, nơi luật pháp bị quy định bởi những xung đột ý thức hệ và logic nghiệt ngã của các khối xung đột, một tiếng nói khác đã được cất lên từ lưu vực Địa Trung Hải, chống lại sự đề cao tư lợi bằng lời kêu gọi một bước nhảy tiên tri, nhân danh tình huynh đệ phổ quát. Đó là tiếng nói của Georgio La Pira, người đã phát biểu rằng “khoảng thời gian lịch sử mà chúng ta đang sống, cuộc xung đột lợi ích và ý thức hệ đã làm lung lay nhân loại trước sự trẻ con đáng kinh ngạc, khôi phục cho Địa Trung Hải một trách nhiệm nghiêm trọng. Đó là việc xác định một lần nữa quy tắc của một sự điều độ, trong đó con người, bị bỏ mặc cho sự điên cuồng và thiếu điều độ, có thể nhận ra chính mình ”(Diễn từ tại Đại hội Văn hóa Địa Trung Hải, ngày 19 tháng 2 năm 1960). Đó là những lời nói đúng lúc; chúng ta có thể lặp lại chúng vì chúng có mức độ liên quan lớn. Chúng ta cần một “sự tiết chế của con người” biết bao trước sự xâm lược trẻ con và sự phá hoại đang đe dọa chúng ta, trước nguy cơ “Chiến tranh Lạnh mở rộng” có thể bóp nghẹt cuộc sống của toàn thể các dân tộc và các thế hệ. Điều đáng buồn là “tính trẻ con” đó vẫn chưa biến mất. Nó đã trở lại mạnh mẽ trong sự dụ dỗ của chế độ chuyên quyền, các hình thức mới của chủ nghĩa đế quốc, sự hiếu chiến lan rộng, và việc không có khả năng xây dựng những cây cầu và bắt đầu từ những người nghèo nhất ở giữa chúng ta. Ngày nay, thật khó để suy nghĩ với logic của hòa bình. Chúng ta đã quen với việc suy nghĩ theo logic của chiến tranh. Chính từ đó, gió lạnh chiến tranh bắt đầu thổi qua, và lần này nó đã được khuyến khích qua nhiều năm. Trên thực tế, chiến tranh đã được chuẩn bị trong một thời gian bằng những khoản đầu tư lớn vào vũ khí và buôn bán vũ khí lớn. Thật đáng buồn khi thấy lòng nhiệt thành đối với hòa bình, vốn nổi lên sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã phai nhạt như thế nào trong những thập kỷ gần đây. Sự tiến bộ của cộng đồng quốc tế cũng thật đáng buồn, vì một số cường quốc tiến lên trước theo cách của họ, tìm kiếm không gian và vùng ảnh hưởng. Như thế, không chỉ hòa bình, mà còn rất nhiều vấn nạn lớn khác, như cuộc chiến chống nạn đói và bất bình đẳng bị gạt ra khỏi danh sách các chương trình nghị sự chính trị chính yếu.
Nhưng giải pháp cho cuộc khủng hoảng của mỗi bên là quan tâm đến tất cả, vì các vấn đề toàn cầu đòi hỏi các giải pháp toàn cầu. Chúng ta hãy giúp nhau cảm nhận được khao khát hòa bình của mọi người. Chúng ta hãy làm việc để đặt nền móng cho một cuộc đối thoại ngày càng mở rộng. Chúng ta hãy quay trở lại tập hợp trong các hội nghị hòa bình quốc tế, nơi mà chủ đề giải trừ quân bị sẽ có một vị trí trung tâm, nơi mà những suy nghĩ của chúng ta sẽ hướng đến các thế hệ tương lai! Và nơi những khoản tiền khổng lồ tiếp tục được dành cho vũ khí có thể được chuyển hướng sang phát triển, chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng.
Nhìn về phía đông một lần nữa, tôi muốn dành một suy nghĩ cuối cùng cho Trung Đông gần đó, nơi mà các ngôn ngữ, hài hòa với những người khác, được phản ánh bằng ngôn ngữ bản địa của quốc gia này, như thể để nhớ lại khả năng của người Malta trong việc hình thành các hình thức chung sống có lợi trong bối cảnh có những khác biệt. Đây là những gì Trung Đông cần: Li Băng, Syria, Yemen, và các bối cảnh khác bị xâu xé bởi các vấn đề và bạo lực. Cầu mong Malta, trái tim của Địa Trung Hải, tiếp tục nuôi dưỡng nhịp đập của hy vọng, quan tâm đến cuộc sống, chấp nhận người khác, khao khát hòa bình, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, Đấng mà danh Ngài là hòa bình.
Xin Chúa phù hộ cho Malta và Gozo!
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana