BÀI ĐỌC 1 Xh 12:1-8,11-14
Bài trích sách Xuất hành.
Ngày ấy, Đức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất Ai-cập:
“Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en:
Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người.
Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được.
Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng.
Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã: đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa.
Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Đức Chúa. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó.
Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập.
Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời.”
Đó là Lời Chúa.
BÀI ĐỌC 2 1Cr 11:23-26
Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
Thưa anh em, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em; anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.”
Cũng thế, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng Máu Thầy; mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.”
Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.
Đó là Lời Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG Ga 13:34
Chúa nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới,
là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.
TIN MỪNG Ga 13:1-15
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.
Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su. Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng.
Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” Đức Giê-su trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.”
Ông Phê-rô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!”
Đức Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.”
Ông Si-môn Phê-rô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.”
Đức Giê-su bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!”
Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch.”
Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”
Đó là Lời Chúa.
8. Cầu nguyện đối với linh mục thì giống như nước với cá, không khí với chim, suối nước với nai rừng.
(Thánh Gioan Bosco)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một người đi mua ngỗng, bởi vì mắc đi đại tiện nên bỏ con ngỗng trên đất để đi cầu.
Người qua đường thấy vậy thì lấy con vịt nhỏ đổi con ngỗng lớn và đi, người mua ngỗng từ trong nhà xí đi ra nhìn thấy con vịt thì kinh ngạc kêu lên:
- “Kỳ thật, mới chút xíu mà con ngỗng này đói hay sao mà đến nỗi thành gầy đen như thế này chứ?”
(Tiếu lâm quảng ký)
Suy tư 50:
Người mua ngỗng kinh ngạc cũng phải, vì không ai ngờ chỉ mới mấy phút mà con ngỗng thành con vịt nhỏ xíu, đúng là tên trộm nhanh tay lẹ mắt.
Có những người được mọi người cho là đạo đức thánh thiện, nhưng “đùng” một cái không thấy đi lễ đi lạt gì cả, hỏi ra mới biết là hôn phối bị rối; lại có những người siêng năng đọc kinh lần hạt, nhưng một thời gian sau thì thấy rượu chè be bét, bỏ bê bổn phận trong gia đình và bổn phận làm người Ki-tô hữu…
Ma quỷ là ông tổ của kẻ trộm, cho nên nó có cách cướp mất linh hồn của chúng ta trong nháy mắt, nếu chúng ta không biết đề phòng; nó có thể làm cho chúng ta chán ghét việc đi xưng tội, chán ghét việc đi dự lễ ngày chủ nhật, chán ghét làm việc bác ái, và như thế nó từ từ cướp mất linh hồn chúng ta, khi chúng ta vẫn còn sống ở thế gian này.
Đừng đem linh hồn mình bỏ khơi khơi ngoài đường để đi tìm thú vui thế gian, bởi “vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”.
Hãy coi chừng, cẩn thận mà đề phòng…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Bạn thân mến,
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta giữ chay kiêng thịt, để chia sẻ những khổ hình mà Đức Chúa Giê-su Ki-tô đã chịu vì tội chúng ta, cao điểm của ngày hôm nay chính là giây phút này đây: suy tôn Thánh Giá Đức Chúa Giê-su Ki-tô.
Trong niềm hiệp thông này, tôi xin chia sẻ với anh chị em hai vấn đề chính trong nghi lễ hôm nay:
1-Thánh giá là Tin, Yêu và Hy Vọng.
Trong suốt bốn mươi ngày của mùa chay, chúng ta đã thống hối, ăn năn các tội phạm làm Chúa buồn, giờ đây chúng ta đang đi vào đỉnh cao của ý nghĩa thống hối và ăn năn ấy, đó chính là suy tôn Thánh Giá của Đức Chúa Ki-tô.
Với người không có đức tin thì Thánh Giá là khổ đau là nhục hình và là dấu hiệu của thất vọng, nhân loại lại luôn sợ cây Thánh Giá vì họ đã không tìm thấy nơi thánh giá có gì lạ, nhưng với những người có đức tin như chúng ta thì Thánh Giá là niềm vui, niềm tin yêu và hi vọng, nó được biểu hiện qua việc hiệp thông với Đấng đã dùng nó để cứu chuộc loài người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Mỗi một việc làm hi sinh là một Thánh Giá đem lại niềm tin cứu độ, mỗi một đau khổ là một Thánh Giá đem lại yêu thương từ sự cứu độ, mỗi một tâm tình thống hối là một Thánh Giá đem lại hi vọng cho nhân loại vào sự cứu độ. Cho nên người Ki-tô hữu chúng ta thật sự là những người hạnh phúc nhất trong tủi nhục, những người lạc quan nhất trong đau khổ, bởi vì chúng ta tin và chia sẻ cùng Thánh Giá với Chúa Kitô khổ nạn và Phục Sinh...
2. Thánh Giá là Phục Sinh.
Thánh Giá Đức Chúa Ki-tô hai ngàn năm trước và Thánh Giá Ki-tô hữu hai ngàn năm sau vẫn chỉ là một Thánh Giá, bởi vì nó đã trở thành biểu tượng phục sinh không những của người Ki-tô hữu mà là của cả nhân loại.
Hôm nay Thứ Sáu Tuần Thánh, cây Thánh Giá sần sùi năm xưa trên đồi Gol-go-tha đã trở nên cây trường sinh và biểu tượng của Phục Sinh, trong mùa chay và nhất là trong ngày hôm nay, người Ki-tô hữu tay ôm Thánh Giá đấm ngực ăn năn với một niềm tin tưởng sâu xa, chính nó là nơi đã treo Đấng cứu độ trần gian –Đức Chúa Ki-tô, thì nay cũng sẽ trở thành cái thang đưa họ lên trời phục sinh vinh quang với Ngài.
Hôm nay, mỗi người chúng ta ngắm đàng Thánh Giá với hết cả tâm tình chia sẻ đau khổ tột cùng của Đức Chúa Ki-tô, chính Ngài đã gánh vác cây thánh giá là tội lỗi của tôi, của anh, của chị và của cả nhân loại trên đôi vai của mình, Ngài đã mệt nhọc vác đi trên quảng đường dốc đá để nơi chịu đóng đinh để nhân loại có đường sống, Ngài đã chịu đóng đinh trên Thánh Gía để cho nhân loại khỏi bị quăng vào lửa thiêu đốt đời đời.
Bạn thân mến,
Suy tôn Thánh Giá Đức Chúa Ki-tô là làm vinh quang Đấng cứu độ nhân loại, bái lạy Thánh Giá Đức Chúa Ki-tô là tung hô Đấng Thiên Chúa làm người, hôn kính Thánh Giá là yêu thương Đấng đã vì yêu mà chết trên Thánh Giá...
Cầu xin Đức Chúa Ki-tô, Đấng đã bị đóng đinh trên Thánh Giá ban ơn sức mạnh cho chúng ta, để mỗi người luôn biết yêu mến vác thánh giá của mình cùng đi lên Núi Sọ với Ngài, đó chính là ý nghĩa sâu xa nhất trong ngày hôm nay vậy.
Xin Đức Mẹ Ma-ri-a luôn đồng hành với chúng ta trên đường khổ nạn.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Là Kitô hữu trưởng thành, hẳn nhiên chúng ta không chỉ xác tín mà còn tuyên xưng mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô chính là nền tảng của đời sống đức tin. Mầu nhiệm Phục sinh là yếu tố căn bản khẳng định thần tính của Đấng đã chịu tử nạn trên cây thập tự ở đồi Gôngôta. Vì xác tín Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa nên chúng ta dù không được như thánh Phaolô là chấp nhận mọi thua thiệt nhưng cũng sẵn sàng chịu một vài thua thiệt khi đón nhận Người làm lẽ sống và lời của Người làm ánh sáng chân lý dẫn soi đời mình. Quả thật như thánh tông đồ dân ngoại nói nếu Chúa Kitô không phục sinh (Người không phải là Thiên Chúa) thì đức tin chúng ta thật hảo huyền và Kitô hữu chúng ta là những người bất hạnh nhất trần đời (x.1Cr 15,17-19).
Biết bao giấy mực xưa nay đã luận bàn và diễn suy về mầu nhiệm Phục Sinh của Đấng Cứu Độ. Để minh chứng về việc Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại như lời Người tiên báo trước đó, chúng ta vốn rất quen thuộc với bằng chứng được trưng dẫn là “ngôi mộ trống” và những lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ. Những dẫn chứng này đáng trân trọng, tuy nhiên xem ra vẫn còn vài hạn chế. Chúa Giêsu đã phục sinh thì dĩ nhiên trong ngôi mộ không còn xác của Người. Thế nhưng đã có đó lời phao đồn xuyên tạc từ các binh lính nhận tiền hối lộ rằng: “các môn đồ Đức Giêsu ban đêm đến lấy trộm xác Người” và tin ấy được loan truyền thời gian khá dài (x.Mt 28,11-15). Những lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ thì số lượng người được nhìn thấy như thánh Phaolô nói là khoảng trên 500 người thì vẫn còn hạn chế (1Cr 15,5-6). Hơn nữa Tin Mừng tường thuật dù cho đã gặp gỡ Đấng Phục Sinh thì các tông đồ vẫn còn hoang mang nghi ngờ cách nào đó (x.Mc 16,9-14). Sự nghi ngờ hoang mang này bớt dần và biến mất khi Thánh Thần được ban tặng và phát huy hiệu quả đặc biệt qua biến cố ngày Lễ Ngũ Tuần (x.Cv 2,1-13). Xin có cái nhìn vào chính cuộc đời, lời giảng dạy của Chúa Giêsu và sự thay đổi triệt để nơi các tông đồ để thêm phần xác tín vào mầu nhiệm Chúa đã sống lại.
Người Do Thái vốn xem trọng lề luật, cách riêng luật của Môsê vì họ tin nhận đó là luật Thiên Chúa trực tiếp ban cho dân Người, dân được tuyển chọn. Thế mà khi đi rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu thường dùng công thức mở đầu: “các ngươi đã từng nghe luật dạy… còn Ta, Ta bảo các ngươi…” (x.Mt 5). Như thế một cách nào đó Chúa Giêsu tự khẳng định mình cao trọng hơn Môsê. Chính Người cũng đã khẳng định mình có trước cả tổ phụ Abraham và chính tổ phụ vui mừng mong được thấy ngày của mình (x.Ga 8,56-57). Giêsu Nagiarét hoặc là người mắc bệnh hoang tưởng hoặc chỉ có thể là Thiên Chúa thật. Người hoang tưởng không khi nào nói: nếu không tin lời tôi thì hãy nhìn vào các việc tôi đã làm (x.Ga 10,25). Một người có quyền năng trên bệnh tật, trên các thần dữ, trên các quy luật tự nhiên, gió biển, trên cả sự chết thì chỉ có thể là Đấng Toàn Năng.
Một Đấng không ai có thể bắt đưa lên núi và xô xuống vực thẳm (x.Lc 4,16-30), không có viên đá nào của đám đông ném có thể chạm đến thân thể (x.Ga 8,59) thì chắc chắn thừa sức thoát khỏi tay đám quân binh đến bắt mình và cũng thừa sức “xuống khỏi thập giá. Thế mà Đức Giêsu, như Đức Phanxicô suy niệm trong thánh Lễ Lá vừa qua, Người không tìm cách tự cứu mình nhưng lại hết sức cứu tất cả mọi người, kể cả những người đang hành hạ và giết mình trên thập tự. Một Đấng mà khi uy thế và vinh quang tràn đầy sau khi hóa bánh ra nhiều cho khoảng năm ngàn người đàn ông chưa kể phụ nữ và trẻ em no nê đã thẳng thừng từ chối ngai vua cao, thế nhưng khi đôi tay bị trói trước tòa Philatô đã mạnh dạn khẳng định mình là vua của vũ hoàn vì nước mình không thuộc thế gian này (x.Ga 18,37). Trong đức tin chúng ta xác tín Đấng ấy chỉ có thể là Thiên Chúa thật.
Một vị thầy khi đã từng được các môn sinh khẳng khái tuyên bố: “bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68) thì lúc bị khổ nạn đã bị chính các học trò này bỏ rơi. Thế mà vài ngày sau vị Thầy ấy lại hiện ra chẳng hề trách mắng mà trái lại vẫn đong đầy tình yêu và sự chăm sóc các môn đồ như xưa. Người vẫn làm công việc người hầu bàn, bẻ bánh như trước đây (x.Lc 24,13-35) Người vẫn trấn an các môn sinh với những lời như xưa: “Bình an cho anh em. Thầy đây, đừng sợ”(x.Lc 24,36) Người vẫn quan tâm chuyện sinh kế các vị và giúp họ đánh được mẻ cá lạ lùng như trước đây (Ga 21,1-14). Đấng ấy đích thực là Thiên Chúa, là Tình Yêu.
Các môn sinh dần dần cảm nhận rằng Thầy dù đã tử nạn nhưng vẫn đang sống. Chắc chắn Thầy đã tử nạn nhưng đến ngày thứ ba Thầy đã chổi dậy như lời Thầy tiên báo trước đó ít là ba lần. Và các vị xác tín Thầy là Thiên Chúa thật. Với xác tín này các vị đã đổi thay cách lạ kỳ. Từ những người ắp đầy tham sân si, dân quê thất học mà cứ ôm mộng bá vương, vinh hoa phú quý, đã trở thành những người thông hiểu đạo lý nhiệm mầu, sống quảng đại hiến dâng vì hạnh phúc của tha nhân, sẵn sàng chấp nhận đổ máu đào ra vì Tin Mừng cứu độ. Hiện thực này đã xảy ra, tất thảy vì lý do này: Thầy của các vị, Giêsu Nagiarét là Thiên Chúa thật, Người đã phục sinh và mãi đồng hành với các vị mọi ngày cho đến tận thế.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
MẦU NHIỆM PHỤC SINH TRONG ĐỜI SỐNG
Chúa Nhật Phục Sinh: Ga 20, 1-9
Suy niệm
Chúng ta hân hoan mừng ngày Đức Kitô Phục Sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chịu chết trên thập tự, và mai táng trong mồ. Đó là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Đúng như thánh Phaolô đã xác tín: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.” (1Cr 15,14). Tin vào Chúa Phục Sinh là cả một chặng đường dài trong cuộc sống. Nói đến Tin là nói đến Yêu, hay trái lại cũng thế. Đó là cặp sóng đôi trong đời sống Kitô hữu.
Nhờ lòng mến sâu xa mà Madalena đã khám phá ra mồ trống trước tiên, nhưng rất tiếc điều đó lại bị đóng khung trong một tình cảm rất tự nhiên, rất “người”. Chị đã để cho nỗi buồn khổ lấn át, khiến cho tâm trí không còn tỉnh táo và sáng suốt, để nhận ra sự thật phía sau các dấu chỉ. Đối với Madalena, tất cả kể như đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa, chua chát, một thực tế phũ phàng trĩu nặng nỗi âu lo, sợ hãi và u sầu. Chị chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong ngôi mộ, nhưng sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài ngôi mộ (Ga 20, 11-17), ở ngoài sự đau xót cho một quá khứ đã qua, ở ngoài sự bám níu vào một cách thế, hay một hình thức cố định nào đó.
Gioan cũng rất yêu Thầy, nhưng tình cảm của ông được đức tin hướng dẫn, nên ông khám phá ra ý nghĩa của ngôi mộ trống, và các tấm khăn đã được xếp gọn gàng như dấu chỉ của một trật tự mới (x. Mt 9, 17). Ông đã thấy và đã tin.” (Ga 20, 8). Ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết ngoài ngôi mộ trống. Nhưng đối với Gioan, ngôi mộ không trống, không vương mùi chết chóc, không im lìm. Ngôi mộ đang nói, khăn liệm đang nói, nó đang mở ra một ký ức sống và giúp Gioan nhận được chân dung thực sự của Đức Giêsu – Thầy mình. Khi quan sát kỹ những dấu vết để lại, ông nhận ra cách thức hành động của Chúa Giêsu, đồng thời nhớ lại những lần Thầy đã tiên báo về sự phục sinh.
Đức tin là sự phối hợp nhịp nhàng của con tim và lý trí, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, nhờ vậy mà qua dấu chỉ hữu hình, người ta nhận ra một thực tại vô hình. Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự hoảng hốt hay thất vọng trước những thất bại và đổ vỡ trong cuộc đời. Là Kitô hữu, chúng ta cần tu tập cho mình có cái nhìn đức tin, để luôn sống bình an và lạc quan trong mọi tình cảnh. Cứ phải ra khỏi tình cảm bi lụy, ra khỏi tâm trạng buồn thương do tác động của hoàn cảnh bên ngoài, phải vượt trên cái “nhìn” một cách vật chất, để “thấy” trong đức tin nhờ sự trầm tĩnh và sâu lắng hơn trước mọi biến cố.
Tuy nhiên, chính tình yêu mến Chúa mới dạy cho người ta có cái nhìn đức tin. Vì yêu nên tin, chính tình yêu mới làm cho ta thấy những điều mà người khác không thấy, hiểu được điều mà người khác không hiểu. Cùng đọc kinh, cùng tham dự thánh lễ, nhưng sự thấu hiểu và cảm nhận về Chúa có nhiều mức độ khác nhau. Có những người cũng chẳng cảm thấy gì cho dù đi bao nhiêu lễ, đọc bao nhiêu kinh. Thiếu sống thân tình với Chúa và không quen với cách hành động của Chúa, ta sẽ chẳng bao giờ nhận ra Ngài, dù Ngài vẫn hiển hiện trong từng biến cố.
Tình yêu là động lực giúp khám phá hoặc tiến mau hơn, sâu hơn và xa hơn trong mọi biến động cuộc sống. Chính tình yêu làm cho người ta thực sự biết được chiều sâu của các biến cố. Bản thân ta chỉ nhận ra bóng dáng Chúa Giêsu Phục Sinh, và trở nên nhân chứng của Chúa khi nào trái tim ta biết rung động sâu xa trước tình yêu Chúa trong cuộc đời mình. Yêu mến Chúa là một ân ban, nhưng phải bắt đầu từ sự khao khát mãnh liệt nơi lòng mình.
Sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh luôn bao trùm mọi ngõ ngách cuộc đời chúng ta, biểu hiện ở những cuộc vượt qua nho nhỏ như:
- Khi chúng ta biết hàn gắn những đổ vỡ bằng tình yêu thương.
- Khi chúng ta biết khoan dung tha thứ, dẹp tan hận thù, chia rẽ, oán hờn.
- Khi chúng ta từ bỏ những ích kỷ để quảng đại hiến thân cho Nước Trời.
- Khi chúng ta đoàn kết yêu thương, mở lòng ra với mọi người.
Chính trong những nỗ lực vượt qua đó trong đời sống hằng ngày, mà chúng ta mới hân hoan ca vang khúc hát khải hoàn, vì Chúa đã sống lại thật trong chính đời sống mình. Alleluia! Alleluia! Alleluia!
Cầu nguyện
Lạy Cha!
Mọi đau khổ sẽ trở nên vô ích,
mọi hy sinh sẽ trở thành vô dụng
nếu đau khổ không đưa tới vinh quang,
và hy sinh không đem về vinh thắng.
Cái chết sẽ là một xúc phạm to,
khi mất đi những gì con từ bỏ
đời người cũng sẽ là một vô nghĩa,
nếu nỗ lực vượt qua phải chia lìa.
Thế nên con không hề lo liệu,
trước mọi đau thương mình phải chịu,
vì là chết đi con người cũ,
để được sống lại mãi thiên thu.
Lạy Đức Kitô, Đấng Phục Sinh!
Ngài là Đường cho đời con dấn bước,
là Sự Thật con ao ước dấn thân,
là Sự Sống con quyết chí gieo trồng,
là Điểm Hẹn con khát mong hạnh ngộ.
Xin cho con cảm nghiệm ơn phục sinh,
đang thấm nhập tâm hồn thân xác con,
đang luân chuyển qua từng biến cố,
đang sinh động trong từng liên hệ,
đang lan tỏa vào mọi hoạt động,
đang biến đổi đời sống con người.
Lòng con hân hoan dâng lời cảm tạ,
trước mầu nhiệm phục sinh thật cao cả,
đã trở thành một khúc khải hoàn ca,
cho nhân loại nguồn sống mới chan hòa,
và đời con hôm nay được thánh hóa,
trong vui mừng tiến bước về nhà Cha. Amen.
Lúc 9h30 sáng thứ Năm 14 tháng Tư, Đức Thánh Cha đã cử hành Lễ Dầu tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Một số đông đảo các vị Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục thuộc giáo triều Rôma và khoảng 1,600 linh mục thuộc giáo phận Rôma đã tham dự thánh lễ.
Trong thánh lễ dầu các linh mục lặp lại những lời hứa các ngài đã tuyên thệ khi thụ phong linh mục. Sau đó, các loại dầu được làm phép để dùng trong suốt năm khi thực hiện các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức, Phong Chức Linh Mục, và Bí tích Xức Dầu.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:
Bài đọc trong Sách Khải Huyền cho chúng ta biết sự đền đáp của Chúa là gì. Đó là tình yêu của Người và sự tha thứ vô điều kiện cho tội lỗi của chúng ta với giá máu của Người đã đổ trên Thánh Giá: “Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời.” ( Kh 1: 5-6). Không có sự đền đáp nào lớn hơn tình bạn với Chúa Giêsu, đừng quên điều này. Không có hòa bình nào lớn hơn sự tha thứ của Người, và tất cả chúng ta đều biết điều đó. Không có giá nào cao hơn giá Máu châu báu của Ngài, và chúng ta không được phép làm giảm giá trị của điều đó bởi những hành vi bất xứng.
Anh em linh mục thân mến, nếu chúng ta nghĩ về điều đó, Chúa đang mời gọi chúng ta trung thành với Người, trung thành với giao ước của Người, và để mình được Người yêu thương và tha thứ. Đó là những lời mời gọi gửi đến chúng ta, để chúng ta có thể phục vụ theo cách này với một lương tâm trong sáng cho dân thánh thiện và trung thành của Thiên Chúa. Dân của chúng ta xứng đáng nhận được điều này và họ cần điều đó. Phúc âm Luca cho chúng ta biết rằng, sau khi Chúa Giêsu đọc đoạn văn của tiên tri Isaia trước sự chứng kiến của những người dân trong thị trấn và ngồi xuống, “ánh mắt của tất cả mọi người trong hội đường đều dán chặt vào Ngài” (4:20). Ngày nay, Sách Khải Huyền cũng nói với chúng ta về đôi mắt nhìn chằm chằm vào Chúa Giêsu. Nó nói lên sức hấp dẫn không thể cưỡng lại của Chúa bị đóng đinh và phục sinh, khiến chúng ta nhìn nhận và tôn thờ Người: “Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! Amen!”(1: 7). Ân sủng tối thượng, khi Chúa Phục sinh trở lại, sẽ là ân sủng có được nhận thức tức khắc. Chúng ta sẽ nhìn thấy Người và những vết thương của Người. Chúng ta sẽ nhận ra Người là ai, và chúng ta là ai, là những kẻ tội lỗi đáng thương.
“Dán mắt vào Chúa Giêsu” là một ân sủng mà chúng ta, với tư cách là các linh mục, cần phải trau dồi. Vào cuối ngày, chúng ta nên làm tốt việc nhìn lên Chúa, và để Ngài nhìn vào trái tim của chúng ta và trái tim của tất cả những người chúng ta đã gặp. Không phải để kể tội chúng ta, nhưng là một hành động chiêm niệm đầy yêu thương, trong đó chúng ta nhìn lại ngày của mình với con mắt của Chúa Giêsu, nhìn thấy những ân sủng và quà tặng, và cảm tạ tất cả những gì Người đã làm cho chúng ta. Nhưng cũng phải đặt trước mặt Người những cám dỗ của chúng ta, để thừa nhận chúng và bác bỏ chúng. Như chúng ta có thể thấy, điều này đòi hỏi phải biết điều gì đẹp lòng Chúa và điều gì Ngài đang yêu cầu chúng ta ở đây và bây giờ, vào thời điểm này trong cuộc sống của chúng ta.
Và có lẽ, nếu chúng ta bắt gặp ánh mắt ân cần của Người, Chúa cũng sẽ giúp chúng ta chỉ cho Ngài thấy đâu là những ngẫu tượng của chúng ta. Những ngẫu tượng, mà giống như Rachel, chúng ta đã giấu dưới những nếp gấp của chiếc áo choàng của chúng ta (xem St 31: 34-35). Hãy để Chúa nhìn thấy những ngẫu tượng ẩn giấu đó - tất cả chúng ta đều có những ngẫu tượng; tất cả chúng ta! - và xin Chúa củng cố chúng ta chống lại những ngẫu tượng ấy và lấy đi sức mạnh của chúng.
Cái nhìn của Chúa khiến chúng ta thấy rằng, qua những ngẫu tượng ấy, chúng ta đang thực sự tự tôn vinh chính mình [2], vì ở đó, trong những không gian mà chúng ta coi là được dành độc quyền cho chúng ta, ma quỷ luồn lách vào bằng các chất độc của nó. Ma quỷ không chỉ khiến chúng ta tự mãn, buông thả theo đam mê hoặc nuôi dưỡng các đam mê, mà còn dẫn dắt chúng ta đến việc thay thế sự hiện diện của các Ngôi Chí Thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta bằng các ngẫu tượng. Điều này xảy ra. Mặc dù chúng ta có thể tự nhủ rằng chúng ta hoàn toàn biết rõ sự khác biệt giữa Thiên Chúa và các ngẫu tượng, nhưng trên thực tế, chúng ta lấy đi không gian của Chúa Ba Ngôi để trao cho ma quỷ, theo một kiểu thờ phượng biến thái. Sự thờ phượng của một người lặng lẽ nhưng không ngừng lắng nghe lời anh ta nói và tiêu thụ sản phẩm của anh ta, để cuối cùng không còn một góc nhỏ nào dành cho Thiên Chúa. Ma quỷ là như thế, nó làm việc nhẹ nhàng và chậm rãi. Trong một bối cảnh khác, tôi đã nói về những con quỷ “được giáo dục”, những con quỷ mà Chúa Giêsu đã cảnh báo rằng chúng còn tệ hơn quỷ đã bị Ngài đuổi đi. Chúng “lịch sự”, chúng bấm chuông, chúng bước vào và dần dần chiếm lấy ngôi nhà. Chúng ta phải cẩn thận, đây là những ngẫu tượng của chúng ta.
Có những điều mang tính cá vị liên quan đến các ngẫu tượng. Khi chúng ta không vạch mặt chúng, khi chúng ta không để Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng chúng ta đang tìm kiếm chính mình một cách sai trái và không cần thiết, chúng ta nhường chỗ cho Ma Quỷ. Chúng ta cần nhớ rằng ma quỷ đòi hỏi chúng ta phải làm theo ý muốn của nó và chúng ta phải phục vụ nó, nhưng không phải lúc nào nó cũng yêu cầu chúng ta phục vụ nó và thờ phượng nó liên tục; nhưng hãy cẩn thận, ma quỷ là một nhà ngoại giao tuyệt vời. Thỉnh thoảng nhận được sự thờ phượng của chúng ta là đủ để nó chứng minh rằng nó mới là chủ nhân thực sự của chúng ta và rằng nó có thể được cảm nhận như một vị thần trong cuộc sống và trong trái tim của chúng ta.
Để tiếp tục, trong Thánh lễ Truyền Dầu này, tôi muốn chia sẻ với anh em ba không gian của việc thờ ngẫu tượng tiềm ẩn, trong đó ma quỷ sử dụng các ngẫu tượng của chúng ta để làm suy yếu chúng ta trong ơn gọi mục tử và từng chút một, tách chúng ta khỏi sự hiện diện nhân từ và yêu thương của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần và Chúa Cha.
Một không gian của việc lặng lẽ thờ ngẫu tượng mở ra ở bất cứ nơi nào có tinh thần thế gian, đó là “một đề xuất của cuộc sống, của một nền văn hóa, một nền văn hóa phù du, của vẻ bề ngoài, của tô son trát phấn”. [3] Tiêu chí của nó là chủ nghĩa chiến thắng, một chủ nghĩa chiến thắng không có thập tự giá. Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha bảo vệ chúng ta chống lại nền văn hóa trần tục này. Sự cám dỗ về vinh quang không có thập tự giá này trái ngược với chính con người của Chúa, nó trái ngược với Chúa Giêsu, Đấng đã hạ mình xuống khi nhập thể và, như một dấu hiệu của sự mâu thuẫn, là phương dược duy nhất của chúng ta chống lại mọi ngẫu tượng. Hãy cùng nghèo với Chúa Kitô, Đấng nghèo khó và “đã chọn nghèo”: đây là tư duy của Tình yêu; không có gì khác. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đã chọn một hội đường đơn sơ trong ngôi làng nhỏ, nơi Người đã dành phần lớn cuộc đời mình, để loan báo cùng một sứ điệp mà Người sẽ loan báo vào cuối thời, khi Người sẽ đến trong vinh quang, với các thiên thần vây quanh. Đôi mắt của chúng ta phải dán chặt vào Chúa Kitô, vào thực tế cụ thể trong lịch sử của Ngài với tôi, bây giờ, cho dù chúng sẽ thành quá khứ. Thái độ trần tục tìm kiếm vinh quang của chính chúng ta cướp đi sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng khiêm nhường và bị sỉ nhục, Đấng đến gần mọi người, Đấng chịu đau khổ với tất cả những người đau khổ, Đấng được dân chúng ta tôn thờ, Đấng biết ai là bạn hữu đích thật của Người. Một linh mục trần tục không hơn gì một kẻ ngoại giáo được giáo sĩ hóa.
Một không gian thứ hai của sự lặng lẽ sùng bái ngẫu tượng mở ra với chủ nghĩa thực dụng, nơi những con số trở thành điều quan trọng nhất. Những người yêu mến thứ ngẫu tượng ẩn giấu này có thể được nhận ra qua tình yêu của họ đối với các số liệu thống kê, những con số có thể phi nhân hóa (depersonalize) mọi cuộc thảo luận và thu hút số đông như là tiêu chí cuối cùng để phân định; điều này không tốt. Đây không thể là phương pháp hoặc tiêu chí duy nhất cho Giáo hội của Chúa Kitô. Ba Ngôi không thể được “đánh số”, và Thiên Chúa không “đo lường” món quà Thần Khí của Người (x. Ga 3:34). Trong niềm đam mê và tình yêu với những con số, chúng ta thực sự đang tìm kiếm chính mình, hài lòng với sự kiểm soát được cung cấp bởi lối suy nghĩ này, không quan tâm đến những khuôn mặt cá nhân và xa rời tình yêu. Một đặc điểm của các vị thánh vĩ đại là các ngài biết lùi lại để dành chỗ hoàn toàn cho Thiên Chúa. Bước lùi này, sự lãng quên bản thân và muốn được mọi người khác quên mình đi, là dấu ấn của Chúa Thánh Linh, Đấng, theo một nghĩa nào đó, là “vô diện”, - Thánh Linh là “vô diện” - đơn giản bởi vì Người hoàn toàn là Tình yêu, chiếu sáng hình ảnh của Chúa Con và hình ảnh của Chúa Cha trong Người. Việc thờ ngẫu tượng các con số cố gắng thay thế Chúa Thánh Thần, Đấng thích những gì là kín nhiệm - bởi vì Ngài “vô diện” - nó cố gắng làm cho mọi thứ trở nên “rõ ràng”, mặc dù theo cách trừu tượng và giản lược mọi thứ thành các con số, không còn hiện thân thực sự.
Không gian thứ ba của việc thờ ngẫu tượng ẩn giấu, liên quan đến không gian thứ hai, xuất phát từ chủ nghĩa chức năng. Điều này có thể hấp dẫn; nhiều người “nhiệt tình về lộ trình hơn là chính con đường”. Tư duy của người theo chủ nghĩa chức năng không đánh giá cao mầu nhiệm; nhưng hướng tới hiệu quả. Từng chút một, ngẫu tượng này thay thế sự hiện diện của Chúa Cha trong chúng ta. Thần tượng thứ nhất thay thế sự hiện diện của Chúa Con, thần tượng thứ hai thay thế Chúa Thánh Thần, và thần tượng thứ ba này thay thế Chúa Cha. Cha chúng ta là Đấng sáng tạo, nhưng không chỉ đơn giản là Đấng sáng tạo làm cho mọi thứ “hoạt động”. Ngài “tạo ra” chúng ta, với tư cách là Cha của chúng ta, bằng tình yêu thương dịu dàng, chăm sóc các tạo vật của Ngài và làm việc để làm cho con người tự do hơn bao giờ hết. “Những người theo chủ nghĩa chức năng” không vui mừng trước những ân sủng mà Thánh Linh dành cho dân Ngài, mà từ đó họ cũng có thể “được nuôi dưỡng” như người lao động làm công ăn lương. Linh mục với tư duy theo chủ nghĩa chức năng có của ăn riêng của mình, đó là bản ngã của người đó. Theo chủ nghĩa chức năng, chúng ta bỏ việc thờ phượng Chúa Cha trong những việc lớn nhỏ của cuộc đời mình và vui thích với hiệu quả của các chương trình của riêng chúng ta. Như Đavít đã làm khi bị Satan cám dỗ, ông nhất quyết thực hiện cuộc điều tra dân số (xem 1 Sbn 21: 1). Đây là những người yêu thích các kế hoạch liên quan đến lộ trình và thời gian hành trình, chứ không phải bản thân cuộc hành trình.
Trong hai không gian cuối cùng của việc lặng lẽ thờ ngẫu tượng (chủ nghĩa thực dụng của số lượng và chủ nghĩa chức năng), chúng ta thay thế hy vọng, là không gian của cuộc gặp gỡ với Chúa, bằng các kết quả thực nghiệm. Điều này cho thấy một thái độ khác thường của người mục tử, một thái độ làm suy yếu sự kết hợp của dân mình với Thiên Chúa và tạo ra một ngẫu tượng mới dựa trên số lượng và chương trình: ngẫu tượng ấy là “quyền năng của tôi, quyền năng của chúng tôi”, [4] các chương trình, số lượng và kế hoạch mục vụ của chúng tôi. Việc che giấu những thần tượng này (như Rachel đã làm), và không biết cách vạch mặt chúng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, làm giảm lòng trung thành của chúng ta với giao ước linh mục và làm cho mối quan hệ cá vị của chúng ta với Chúa trở nên lạnh nhạt. Nhưng vị Giám mục này muốn gì? Thay vì nói về Chúa Giêsu, ông đang nói về các ngẫu tượng ngày nay. Ai đó có thể sẽ nghĩ như thế…
Anh em thân mến, Chúa Giêsu là “con đường” duy nhất để tránh bị nhầm lẫn trong việc nhận biết chúng ta cảm thấy gì và trái tim chúng ta đang dẫn chúng ta đi về đâu. Chúa Giêsu là thông lộ duy nhất dẫn đến sự phân định đúng đắn, khi chúng ta xét mình với Chúa mỗi ngày. Như thể, ngay cả bây giờ, Chúa Giêsu đang ngồi trong nhà thờ giáo xứ của chúng ta và nói với chúng ta rằng ngày hôm nay tất cả những gì chúng ta nghe được giờ đã thành hiện thực. Chúa Giêsu Kitô, như một dấu chỉ của sự mâu thuẫn - không phải lúc nào cũng là điều gì đó khắc nghiệt và đau đớn, vì lòng thương xót và hơn thế nữa, tình yêu dịu dàng, chính những điều đó lại là dấu chỉ của sự mâu thuẫn - Tôi nhắc lại, hãy buộc những ngẫu tượng này phải lộ diện, để chúng ta có thể nhìn thấy sự hiện diện của chúng, nguồn gốc và cách thức chúng hoạt động, và cho phép Chúa tiêu diệt chúng. Đây là đề nghị: hãy để Chúa phá hủy những thần tượng ẩn giấu đó. Chúng ta nên ghi nhớ và chú ý những điều này, kẻo cỏ lùng của những ngẫu tượng mà chúng ta đã giấu kín trong lòng lại có thể mọc lên một lần nữa.
Tôi muốn kết thúc bằng việc cầu xin Thánh Cả Giuse, với tư cách là người cha khiết tịnh, không có những ngẫu tượng ẩn giấu, giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức chiếm hữu, vì chiếm hữu là mảnh đất màu mỡ để những ngẫu tượng này phát triển. Xin Ngài cũng ban cho chúng ta ân sủng để kiên trì trong nhiệm vụ gian khổ là làm sáng tỏ những ngẫu tượng mà tất cả chúng ta thường che giấu hoặc chính những ngẫu tượng ấy che giấu. Chúng ta cũng hãy hỏi, bất cứ khi nào chúng ta băn khoăn, xem liệu chúng ta có thể làm mọi việc tốt hơn hay không, và xin Ngài cầu bầu cho chúng ta, để Thánh Linh soi sáng sự phán xét của chúng ta, như Thánh Linh đã làm khi Thánh Giuse bị cám dỗ để gạt Đức Maria sang một bên một cách “lặng lẽ” (lathra). Bằng cách này, với tâm hồn cao thượng, chúng ta có thể phục tùng với lòng bác ái những gì chúng ta đã học từ lề luật. [5]
[1] Vì chức tư tế thừa tác là phục vụ chức tư tế thông thường. Chúa đã chọn một số người đàn ông “để họ có thể thi hành chức vụ linh mục một cách công khai nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (Công Đồng Chung Vatican, Sắc lệnh về Đời sống và thừa tác vụ linh mục Presbyterorum Ordinis, 2; x. Hiến chế tín lý về Giáo hội Lumen Gentium, 10). “Các thừa tác viên, được trao quyền lực thiêng liêng, là để phục vụ anh chị em của họ” (Lumen Gentium, 18).
[2] Xem Buổi tiếp kiến chung, ngày 1 tháng 8 năm 2018.
[3] Bài giảng, Thánh lễ tại Nhà Nguyện Santa Marta, ngày 16 tháng 5 năm 2020.
[4] JM BERGOGLIO, Meditaciones para powersiosos, Bilbao, Mensajero, 2014, 145.
[5] Xem Tông thư Patris Corde, 4, chú thích 18.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
Hôm thứ Ba, Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle đã than khóc về vụ giết chết bảy người tại một trung tâm Caritas ở thành phố Mariupol bị bao vây của Ukraine.
Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle là Chủ tịch Caritas Internationalis, một cơ quan bảo trợ cho các nhóm cứu trợ Công Giáo trên khắp thế giới có trụ sở tại Vatican. Đức Hồng Y cho biết vào ngày 12 tháng 4 rằng ngài cảm thấy “buồn và sốc sâu sắc”.
“Caritas Internationalis bày tỏ sự cảm thông sâu sắc và gần gũi với gia đình của những người mất mạng và bị thương”, vị Hồng Y người Phi Luật Tân nói với Vatican News, cổng tin tức trực tuyến của Tòa Thánh.
“Nỗi buồn của chúng tôi biến thành lời kêu gọi cộng đồng quốc tế nỗ lực hết sức để chấm dứt bạo lực này, quay trở lại đối thoại và nhìn thấy tình anh chị em trong mỗi người”.
Hôm thứ Hai, có thông tin cho biết một chiếc xe tăng của Nga đã bắn vào trung tâm Caritas ở Mariupol, giết chết hai nhân viên và năm thành viên gia đình đang tìm kiếm nơi ẩn náu trong tòa nhà. Vụ việc được tường trình diễn ra vào ngày 15 tháng 3.
Văn phòng được điều hành bởi Caritas Ukraine, một tổ chức bác ái do Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương điều hành.
Hôm 11 tháng 4, Caritas Ukraine cho biết, hai công nhân Caritas thiệt mạng là hai nhân viên kế toán.
Tetiana Stawnychy, chủ tịch Caritas Ukraine, cho biết: “Chúng tôi cần sự đoàn kết và lời cầu nguyện của các bạn cho gia đình các nạn nhân, cho cộng đồng Caritas Mariupol và cộng đồng Caritas Ukraine.”
Aloysius John, tổng thư ký của Caritas Internationalis, bày tỏ sự thất vọng trước những cái chết.
Ông nói: “Tin tức bi thảm này khiến gia đình Caritas của chúng tôi vô cùng kinh hoàng và sốc. Chúng tôi đau buồn và hiệp nhất trong nỗi đau khổ của các gia đình và các đồng nghiệp Caritas Ukraine, những người đang phải sống trong một thảm kịch.”
Mariupol, một thành phố cảng ở đông nam Ukraine, đã bị lực lượng Nga tấn công vào ngày 24 tháng 2, ngày đầu tiên của cuộc xâm lược toàn diện vào đất nước này.
Binh sĩ Ukraine đã tiếp tục chống lại sự tiến công của Nga vào thành phố bất chấp các cuộc ném bom không ngừng phá hủy nhiều tòa nhà và giết chết hàng nghìn người.
Đức Hồng Y Tagle, người cũng là Tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, cho biết: “Chúng tôi tôn vinh sự hy sinh của những người làm công tác nhân đạo bằng cách cầu nguyện cho họ và gia đình của họ. Chúng tôi tin rằng Chúa nghe thấy tiếng kêu của người nghèo và người công chính”.
“Chúng tôi tôn vinh họ bằng cách khẳng định giá trị của dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức nhân đạo phải được tôn trọng.”
“Chúng tôi tôn vinh họ bằng cách cầu nguyện với Chúa và kêu gọi những người có thiện chí hãy nghĩ đến và làm việc vì hòa bình.”
Source:Catholic News Agency
Chiều Thứ Năm Tuần Thánh 14/4, Đức Thánh Cha Phanxicô đã rửa chân cho các tù nhân khi ngài cử hành Thánh lễ Tiệc ly tại một nhà tù bên ngoài Rôma.
Năm nay, Đức Giáo Hoàng đã dâng Thánh lễ Tiệc ly tại Civitavecchia, một thành phố cảng cách Rôma khoảng 80km về phía tây bắc. Truyền thông địa phương đưa tin rằng Đức Thánh Cha đến nhà tù vào khoảng 4 giờ chiều theo giờ Rôma trên một chiếc Fiat 500L màu trắng.
Văn phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh Cha đã giảng trong nhà nguyện trong tù về bài Tin Mừng trong ngày (Ga 13: 1-15), trong đó mô tả cách Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ.
Trong một bài giảng ngắn gọn, ứng khẩu Đức Thánh Cha Phanxicô đã mô tả hành động của Chúa Giêsu là “một điều kỳ lạ” trên thế giới này: “Chúa Giêsu rửa chân cho kẻ phản bội, kẻ bán ngài”.
Ngài nói: “Chúa Giêsu dạy chúng ta điều này, đơn giản là: giữa anh em, anh em phải rửa chân cho nhau người này phục vụ người kia, đừng quan tâm đến hồi đáp: thật đẹp biết bao nếu điều này có thể được thực hiện mỗi ngày và cho tất cả mọi người. ”
Đức Giáo Hoàng nói rằng Chúa Giêsu đã gọi kẻ phản bội là “bạn”, chờ đợi anh ta cho đến cùng, tha thứ mọi thứ.
“Chúa tha thứ mọi thứ và Chúa luôn tha thứ! Chính chúng ta mới là người cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ”
Đức Giáo Hoàng nói thêm, mỗi người chúng ta đều có một điều gì đó mà chúng ta đã mang trong lòng từ lâu, “nhưng hãy cầu xin Chúa Giêsu tha thứ”.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Có một Thiên Chúa phán xét, nhưng đó là một sự phán xét kỳ lạ: Chúa phán xét và tha thứ”. Đức Thánh Cha thúc giục những người có mặt theo gương Chúa với “ý chí phục vụ và tha thứ cho nhau.”
Sau bài giảng, Đức Thánh Cha rửa chân cho 12 tù nhân, đại diện cho các môn đệ. Ông Matteo Bruni, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, lưu ý rằng họ là “nam giới và phụ nữ, bao gồm những người ở các độ tuổi và quốc tịch khác nhau”.
Thánh lễ, không được truyền trực tiếp, tiếp tục một phong tục mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra vào năm 2013, ngay sau khi được bầu vào ngôi Giáo Hoàng, theo đó ngài cử hành phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh trong một nhà tù hoặc trại giam giữ trẻ vị thành niên.
Sau khi đến thăm trung tâm giam giữ thanh thiếu niên Casal del Marmo vào năm 2013, ngài đã chủ sự các Thánh lễ Thứ Năm Tuần Thánh tại một trung tâm dành cho người khuyết tật vào năm 2014, Nhà tù Rebibbia vào năm 2015, một trung tâm dành cho những người xin tị nạn vào năm 2016, nhà tù Paliano vào năm 2017, nhà tù lịch sử Regina Coeli của Rome vào năm 2018 và nhà tù nam Velletri vào năm 2019.
Vào năm 2020, trong bối cảnh đại dịch coronavirus bùng phát, Đức Giáo Hoàng đã dâng Thánh lễ Tiệc ly Đền Thờ Thánh Phêrô gần như trống không. Việc rửa chân đã được bỏ qua như một biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ Thứ Năm Tuần Thánh một cách riêng tư trong nhà nguyện của căn hộ riêng của Đức Hồng Y Angelo Becciu vào năm 2021, vài tháng sau khi Đức Hồng Y người Ý từ chức Tổng trưởng Bộ Phong Thánh Vatican và từ bỏ các quyền được mở rộng cho các thành viên của Hồng Y Đoàn.
Vị Giáo Hoàng cuối cùng đến thăm chính thức Civitavecchia, nơi có dân số khoảng 53,000 người, là Đức Gioan Phaolô II. Vị thánh Giáo Hoàng Ba Lan đã đi thăm cảng và nhà máy nhiệt điện than Torrevaldaliga Nord địa phương vào năm 1987.
Trong một bài diễn văn với các tù nhân ở Civitavecchia, vị Giáo Hoàng Ba Lan lưu ý rằng thành phố đã không nhận được chuyến thăm của vị giáo hoàng nào kể từ năm 1868, khi Đức Piô IX tông du tới đó.
Văn phòng báo chí Tòa thánh cho biết vào cuối thánh lễ ở Civitavecchia, giám đốc nhà tù cảm ơn sự viếng thăm của Đức Giáo Hoàng và tặng ngài một bản in về hải cảng cổ xưa, các sản phẩm từ khu vườn do các tù nhân trồng, và các tác phẩm làm ra bởi nhân viên và tù nhân.
Văn phòng báo chí cho biết Đức Giáo Hoàng sau đó đã đến một phòng tiếp tân, nơi ngài chào đón khoảng 50 người đại diện cho các tù nhân, các viên chức và nhân viên của nhà tù. Sau đó, ngài trở về dinh thự ở Vatican.
Source:Catholic News Agency
Theo tin Tòa Thánh, buổi yết kiến chung sáng nay đã diễn ra tại Hội trường Phaolô VI, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ các nhóm khách hành hương và tín hữu từ Ý cũng như khắp nơi trên thế giới. Trong diễn từ bằng tiếng Ý, vào trước Tam nhật Phục sinh, Đức Giáo Hoàng đã tập trung vào chủ đề: “Bình an của Lễ Phục sinh” (Bài đọc Kinh thánh: Ga 14:27). Sau khi tóm tắt bài giáo lý của mình bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, Đức Thánh Cha ngỏ lời chào đặc biệt đến các nhóm tín hữu tham dự.
Sau đây là nguyên văn bài giáo lý của Đức Giáo Hoàng, dựa vào bản tiếng Anh của Tòa Thánh
Anh chị em thân mến, chào anh chị em buổi sáng!
Chúng ta đang ở giữa Tuần Thánh, kéo dài từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Chúa Nhật Phục Sinh. Cả hai Chúa nhật này đều được đặc trưng bởi ngày lễ diễn ra xung quanh Chúa Giêsu. Nhưng chúng là hai lễ khác nhau.
Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy Chúa Kitô long trọng tiến vào Giêrusalem, như để dự một ngày lễ, được chào đón như Đấng Mêsia: áo choàng (x. Lc 19,36) và cành lá chặt từ cây cối (x. Mt 21: 8) được trải trước mặt Người trên mặt đất. Đám đông vui mừng lớn tiếng chúc tụng "Đức Vua đang ngự đến", và tung hô "Hòa bình trên trời và vinh quang ở nơi cao nhất!" (Lc 19: 38). Những người ở đó mừng vui vì họ coi việc Chúa Giêsu vào thành như việc xuất hiện của một vị vua mới, người sẽ mang lại hòa bình và vinh quang. Đó là nền hòa bình mà mọi người đang chờ đợi: một nền hòa bình huy hoàng, thành quả của sự can thiệp của vương đế, của một đấng cứu thế đầy quyền năng, người sẽ giải phóng Giêrusalem khỏi sự chiếm đóng của La Mã. Những người khác có lẽ mơ ước về việc tái lập một nền hòa bình xã hội và coi Chúa Giêsu như vị vua lý tưởng, người sẽ cho đám đông ăn bánh mì như Người đã làm, và sẽ làm những phép lạ vĩ đại, nhờ đó mang lại nhiều công lý hơn cho thế giới.
Nhưng Chúa Giêsu không bao giờ nói về điều đó. Người có một Lễ Vượt Qua khác ở phía trước Người, không phải là một Lễ Vượt Qua khải hoàn. Điều duy nhất mà Người quan tâm khi chuẩn bị vào thành Giêrusalem là cưỡi “một con ngựa con bị trói, trên đó chưa có ai cưỡi” (câu 30). Đây là cách Chúa Kitô mang lại hòa bình cho thế giới: qua sự hiền lành và dịu dàng, được tượng trưng bằng con ngựa con bị cột dây mà chưa ai từng cưỡi trên đó. Không ai cả, vì cách làm việc của Thiên Chúa khác với cách làm việc của thế gian. Thật vậy, ngay trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đã giải thích cho các môn đệ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con; bình an của Thầy, Thầy ban cho các con; Thầy ban cho các con không như thế gian ban”(Ga 14:27). Đó là hai phương thức khác nhau: cách thế giới mang lại hòa bình cho chúng ta và cách Thiên Chúa ban cho chúng ta hòa bình. Chúng khác nhau.
Hòa bình mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta vào ngày Lễ Phục sinh không phải là nền hòa bình theo các chiến lược của thế gian, một chiến lược vốn tin rằng nó có thể có được bằng vũ lực, bằng cách chinh phục và bằng nhiều hình thức áp đặt. Trên thực tế, hòa bình này chỉ là khoảng thời gian giữa các cuộc chiến tranh: tất cả chúng ta đều nhận thức rõ điều này. Sự bình an của Chúa theo đường lối hiền lành và thập giá: đó là gánh vác trách nhiệm cho người khác. Thật vậy, Chúa Kitô đã tự nhận lấy sự xấu xa, tội lỗi và sự chết của chúng ta. Người đã tự mình gánh lấy tất cả những điều này. Bằng cách này, Người đã giải phóng chúng ta. Người đã trả giá cho chúng ta. Sự bình an của Người không phải là kết quả của một sự thỏa hiệp nào đó, mà đúng hơn được phát sinh từ sự tự hiến. Tuy nhiên, hòa bình hiền lành và can đảm này, thật khó chấp nhận. Thực thế, đám đông tôn vinh Chúa Giêsu cũng chính là đám đông, một vài ngày sau đó, sẽ hét lên, "Hãy đóng đinh nó!" và, vì sợ hãi và thất vọng, sẽ không nhấc một ngón tay nào bênh vực Người.
Về mặt này, câu chuyện tuyệt vời của Dostoevsky, gọi là Truyền thuyết Quan Tòa Ly Giáo Vĩ Đại, luôn có liên quan. Nó kể về Chúa Giêsu, Đấng, sau vài thế kỷ, trở lại Trái đất. Ngay lập tức, Người được chào đón bởi đám đông vui mừng, họ nhận ra và tung hô Người. “A, Ngài đã trở về! Hãy đến, đi với chúng con!”. Nhưng rồi Người bị Quan Tòa Ly Giáo, người đại diện cho luận lý học thế gian bắt giữ. Ông ta tra hỏi Người và chỉ trích Người dữ dội. Lý do cuối cùng của sự khiển trách là Chúa Kitô, mặc dù có thể, nhưng không bao giờ muốn trở thành Caesar, vị vua vĩ đại nhất của thế giới này, thích để nhân loại tự do hơn là khuất phục họ và giải quyết các vấn đề của họ bằng vũ lực. Người có thể đã thiết lập hòa bình trên thế giới, bằng cách bẻ cong trái tim tự do nhưng bấp bênh của con người bằng sức mạnh của một quyền lực cao hơn, nhưng Người đã chọn không làm như thế: Người tôn trọng tự do của chúng ta. “Nếu ông chịu chiếm lấy thế giới và áo màu tím của Caesar, thì ông đã thành lập một nhà nước hoàn cầu và mang lại hòa bình hoàn cầu rồi” (The Brothers Karamazov, Milan 2012, 345); và với một câu đả kích, ông kết luận, "Vì thế, nếu có bất cứ ai đáng bị chúng tôi thiêu sống, chính là ông" (348). Đây là sự lừa dối lặp đi lặp lại trong suốt lịch sử, sự cám dỗ của một nền hòa bình giả tạo, dựa trên quyền lực, do đó, dẫn đến hận thù và phản bội Thiên Chúa, và nhiều cay đắng trong tâm hồn.
Cuối cùng, theo câu chuyện, Người bị Quan tòa Dị giáo “rất mong [Chúa Giêsu] nói điều gì đó, bất chấp cay đắng và khủng khiếp đến đâu”. Nhưng Chúa Giêsu đã phản ứng bằng một cử chỉ nhẹ nhàng và cụ thể: “Người bất ngờ tiến lại gần người đàn ông già trong im lặng và khẽ hôn lên đôi môi già nua không chút máu của ông ta” (352). Sự bình an của Chúa Giêsu không chế ngự người khác; nó không phải là một nền hòa bình có vũ trang, không bao giờ! Các vũ khí của Tin Mừng là lời cầu nguyện, sự dịu dàng, sự tha thứ và tình yêu tự do đối với người lân cận của mình, tình yêu thương dành cho mọi người lân cận. Đó là cách nền hòa bình của Thiên Chúa đã được mang vào thế giới. Đó là lý do tại sao cuộc xâm lược vũ trang ngày nay, giống như mọi cuộc chiến tranh, nói lên sự phẫn nộ chống lại Thiên Chúa, sự phản bội phạm thượng đối với Chúa của Lễ Vượt Qua, sự ưa thích khuôn mặt của thần giả trá của thế giới này hơn vị Thiên Chúa hiền lành của họ. Chiến tranh luôn là một hành vi của con người, nhằm tạo ra sự sùng bái ngẫu thần quyền lực.
Trước Lễ Vượt Qua cuối cùng của Người, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng các con đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga 14:27). Vâng, bởi vì trong khi quyền lực thế gian chỉ để lại sự hủy diệt và chết chóc - chúng ta đã thấy điều này trong những ngày gần đây - sự hòa bình của Người tạo dựng nên lịch sử, bắt đầu từ trái tim của mỗi người chào đón chúng ta. Do đó, lễ Phục sinh là lễ đích thực của Thiên Chúa và nhân loại, bởi vì sự bình an mà Chúa Kitô đã đạt được trên thập giá khi hiến mình được phân phát cho chúng ta. Vì vậy, Chúa Kitô Phục Sinh, trong Ngày Lễ Phục Sinh, hiện ra với các môn đệ, và Người chào đón họ như thế nào? "Bình yên cho các con!" (Ga 20: 19-21). Đây là lời chào của Chúa Kitô chiến thắng, Chúa Kitô Phục sinh.
Anh chị em thân mến, Lễ Phục sinh có nghĩa là “vượt qua”. Năm nay, trước hết, là một dịp may mắn để chuyển từ một thiên chúa của thế gian sang Thiên Chúa của Kitô hữu, từ lòng tham mà chúng ta mang trong mình sang lòng bác ái giải thoát chúng ta, từ kỳ vọng về một nền hòa bình do vũ lực sang cam kết làm chứng thực sự cho nền hòa bình của Chúa Giêsu. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy đặt mình trước Đấng bị đóng đinh, là nguồn bình an của chúng ta, và cầu xin Người ban cho sự bình an linh hồn và cho sự bình an trên thế giới.
Đức Cha Robert Brennan của Brooklyn đã kêu gọi cầu nguyện cho những người bị thương trong vụ xả súng tại ga tàu điện ngầm ở thành phố New York hôm thứ Ba, và cho những người phản ứng đầu tiên và các công nhân vận chuyển.
“Vào ngày thứ Ba Tuần Thánh này, thành phố của chúng ta đã phải hứng chịu một cuộc tấn công khủng khiếp nhằm vào những người dân New York đang cố gắng đi làm. Chúng ta hãy nhiệt thành cầu nguyện cho nhiều người bị bắn và bị thương trong ga tàu điện ngầm Sunset Park”, Đức Cha Brennan nói hôm 12 tháng Tư.
“Lạy Chúa, xin hãy giúp đỡ những bàn tay chữa lành đang chăm sóc các nạn nhân và bảo vệ các nhân viên thực thi pháp luật đang cố gắng xác định vị trí của nghi phạm trong vụ xả súng này. Chúng con biết ơn vì lòng dũng cảm và sự phục vụ của họ đã bảo vệ chúng con. Và xin Chúa hãy giữ cho tất cả chúng con được an toàn trong vòng tay của Ngài”.
Trước đó, Đức Cha đã tweet rằng “Tôi rất kinh hoàng trước vụ nổ súng tấn công vào sân ga tàu điện ngầm ở Công viên Sunset vào sáng nay. Chúng ta hãy nhiệt thành cầu nguyện cho những người bị thương và với lòng biết ơn, chúng ta hãy cầu nguyện cho sự an toàn của những người ứng cứu đầu tiên và các nhân viên vận chuyển”.
Ít nhất 16 người bị thương trong một vụ nổ súng trên một chuyến tàu tại ga đường số 36 vào khoảng 8:30 sáng Thứ Ba. Mười trong số những người bị thương đã bị bắn. Những người khác bị thương do xô đẩy trong lúc náo loạn.
Kẻ bắn súng bừa bãi, đã ném một quả bom khói để đánh lạc hướng đám đông tại tàu điện ngầm. Hung thủ là một người đàn ông mặc áo công sở và đeo mặt nạ phòng độc.
Đức Cha Brennan đã đến thăm Công viên Sunset, khu phố Brooklyn, nơi xảy ra vụ xả súng, vào chiều nay. Ngài cũng đến Quận 72 của Sở Cảnh sát Thành phố New York, và đến giáo xứ Thánh Michael.
Đức Hồng Y Timothy Dolan của tổng giáo phận New York, bao gồm các quận Manhattan, Bronx, và Đảo Staten của Thành phố New York, đã tweet: “Lời cầu nguyện của tôi cho tất cả những người bị thương trong vụ tấn công kinh hoàng hôm nay trên tàu điện ngầm ở Brooklyn, và cho Sở Cảnh Sát New York, các nhân viên cấp cứu và những người phản ứng đầu tiên khác. Giáo hội sẵn sàng hỗ trợ bằng mọi cách có thể.”
Source:Catholic News Agency
Hôm thứ Ba, nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương đã bày tỏ lo ngại về kế hoạch cho các gia đình Ukraine và Nga cùng nhau vác thánh giá tại các các chặng Đàng Thánh Giá do Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự tại Đấu trường La Mã vào Thứ Sáu Tuần Thánh.
Theo một tuyên bố báo chí ngày 12 tháng 4 từ Văn phòng Thư ký ở Rôma của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk cho biết: “Tôi coi một ý tưởng như vậy là không đúng lúc, mơ hồ và nó không tính đến bối cảnh Nga đang xâm lược quân sự chống lại Ukraine.”
“Đối với những người Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, các văn bản và cử chỉ của chặng thứ 13 trong Đàng Thánh Giá này là không mạch lạc và thậm chí gây khó chịu, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc tấn công thứ hai, thậm chí đẫm máu hơn của quân đội Nga vào các thành phố và làng mạc của chúng tôi. Tôi biết rằng những người anh em Công Giáo Rôma của chúng tôi chia sẻ những suy nghĩ và mối quan tâm này”.
Sự can thiệp của Đức Tổng Giám Mục Shevchuk xảy ra sau phản kháng của Andrii Yurash, tân đại sứ Ukraine cạnh Tòa thánh. Vị tân Đại Sứ bày tỏ lo ngại về Đàng Thánh Giá này trong một bài đăng trên mạng xã hội hôm thứ Ba. Ông Andrii viết rằng “chúng tôi đang giải quyết vấn đề này, cố gắng giải thích những khó khăn trong việc tiếp nhận nó và những hậu quả có thể xảy ra.”
Hôm thứ Hai, Vatican đã công bố các bài suy niệm và cầu nguyện cho Via Crucis, hay Đàng Thánh Giá của Đức Giáo Hoàng, trong đó tập trung vào nhiều “thập giá” trong cuộc sống gia đình.
Ở thứ 13, “Chúa Giêsu chết trên Thánh giá”, một gia đình Ukraine và một gia đình Nga đã đọc một bài suy niệm mà họ đã viết cùng nhau về cuộc sống của họ đã bị tàn phá bởi nỗi đau chiến tranh như thế nào.
“Chết chóc ở khắp mọi nơi. Cuộc sống dường như mất đi giá trị của nó. Mọi thứ thay đổi trong vài giây. Cuộc sống của chúng con, những ngày của chúng con, tuyết mùa đông vô tư, đưa lũ trẻ đến trường, đi làm, những cái ôm, tình bạn... mọi thứ. Mọi thứ bỗng nhiên mất đi ý nghĩa và giá trị. “Ngài đang ở đâu? Chúa đang trốn ở đâu? Chúng con muốn cuộc sống của chúng con trở lại như trước. Tại sao tất cả những điều này xảy ra? Chúng con đã làm gì sai? Tại sao Chúa từ bỏ chúng con? Tại sao Chúa từ bỏ dân tộc của chúng con? Tại sao Chúa lại phân rẽ gia đình của chúng con như thế này? Tại sao chúng con không còn khao khát ước mơ và tiếp tục sống? Tại sao vùng đất của con lại trở nên tối tăm như Golgotha?” Chúng con không còn nước mắt. Sự tức giận đã nhường chỗ cho sự cam chịu. Lạy Chúa, chúng con biết rằng Chúa yêu thương chúng con, nhưng chúng con không cảm nhận được tình yêu này và nó đẩy chúng con đến chỗ tuyệt vọng. Chúng con thức dậy vào buổi sáng và cảm thấy hạnh phúc trong một vài khoảnh khắc, nhưng sau đó chúng con đột nhiên nghĩ rằng sẽ khó khăn như thế nào để bản thân có thể chấp nhận tất cả những hiện thực này. Chúa ơi, Chúa đang ở đâu? Xin hãy nói chuyện với chúng con giữa sự im lặng của chết chóc và chia rẽ, và dạy chúng con trở thành những người kiến tạo hòa bình, những người anh chị em và xây dựng lại những gì bom đạn đã cố gắng phá hủy.”
Lời cầu nguyện sau bài suy niệm gọi cạnh sườn Chúa bị lưỡi đòng đâm thâu qua là nguồn hòa giải cho tất cả các dân tộc; và cầu xin cho “các gia đình bị tàn phá bởi nước mắt và máu có thể tin vào sức mạnh của sự tha thứ và làm cho tất cả chúng con trở thành những người kiến tạo hòa bình và hòa hợp.”
Hai gia đình dự kiến sẽ cùng nhau vác một cây thánh giá bằng gỗ ở chặng thứ 13 ở Đấu trường La Mã trước khi chuyển nó cho một gia đình người di cư, những người sẽ vác cây thánh giá đến chặng cuối cùng.
Ban thư ký của Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương ở Rôma cho biết Đức Tổng Giám Mục Shevchuk đã thúc giục Vatican xem xét lại kế hoạch sau khi ngài “nhận được nhiều lời kêu gọi từ các tín hữu của Giáo hội và xã hội dân sự, cả từ Ukraine và nước ngoài,” yêu cầu ngài “chuyển tới Đức Thánh Cha sự phẫn nộ và bác bỏ kế hoạch này của người Ukraine trên khắp thế giới”.
“Người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương nói rằng ngài đã truyền đạt cho Vatican vô số phản ứng tiêu cực của nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân, những người tin chắc rằng các cử chỉ hòa giải giữa các dân tộc của chúng ta sẽ chỉ có thể thực hiện được khi chiến tranh kết thúc và những kẻ phạm tội chống lại loài người phải bị lên án một cách chính đáng.”
Source:Catholic News Agency
Xem Hình
Thánh lễ hôm nay mời gọi dân Chúa qui tụ quanh Mục Tử Tối Cao là Đức ki-tô. Cộng đoàn tín hữu tham dự với Đức Giám Mục Giáo phận, Hình ảnh cuộc tụ họp mang đầy tính Thần học, mục vụ, Bí tích và hiệp thông, Chính Chúa Ki-tô hiện diện để giáo huấn, nuôi dưỡng và kết nối mọi người nên một.
Sau bài giảng, các Linh mục lặp lại lời hứa: gắn bó với Chúa Ki-tô, trở nên người quản lý trung thành đối với các Mầu nhiêm của Thiên Chúa khi thi hành sứ vụ, nhiệt thành và vô vị lợi… là những lời hứa khi các Ngài nhận tác vụ linh mục. Đức Cha mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho Đức Cha và các linh mục, cùng đồng hành, đỡ nâng để các ngài trở nên hình ảnh Chúa Ki-tô, là tư tế, mục tử, tôn sư và tôi tớ của mọi người, là mục tử như lòng Chúa mong ước.
Sau lời nguyện hiệp lễ, cha Phanxicô xavie Lê Đông Nhật- Phó Chánh Văn phòng Tòa Giám mục, đã đọc chứng thư của Đức Giám Mục trao ban “Thừa tác vụ ngoại thường (cho rước lễ)” cho hơn 300 Tu sĩ nam nữ và Giáo Dân thuộc các giáo xứ, giáo họ biệt lập và Dòng tu trong toàn giáo phận. Trong phần huấn dụ trước nghi thức, Đức Giám Mục chủ lễ mời gọi những Tu sĩ
Tôma Trương Văn Ân
Xem Hình
Sau bài giảng có phần rửa chân. Thánh lễ tiếp tục như thường lệ, nhưng rất long trọng linh thiêng với phần cử hành.
Kết thúc Thánh lễ Tiệc Ly có phần kiệu Mình Thánh Chúa sang nhà Tạm để cộng đoàn dân Chúa thay nhau chầu cho đến 24 giờ 00.
BTTGx. Tụy Hiền
Lễ Đồng tế do hai cha tuyên úy Giuse Phạm Minh Ước SJ và Phê Rô Phạm Văn Ái SJ cử hành.
Chia sẻ về giới răn yêu thương mà Chúa để lại "chết vì yêu.
Hình ảnh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh: Lễ Tiệc Ly.
“ Trong bầu khí thiêng liêng của ngày thứ năm Tuần Thánh, giáo xứ Tân Việt đã cử hành nghi thức rửa chân vào lúc 17g thứ Năm 14/04/2022.
Xem Hình
Trong Thánh lễ, Linh mục Đa minh chia sẻ: Ngày nay, chúng ta tin rằng nếu chúng ta cũng có mặt trong bữa tiệc ly ấy thì Chúa cũng sẽ rửa chân cho mỗi người chúng ta, hình ảnh ầy sẽ được Linh mục chánh xứ thực hiện lại thông qua việc ngài rửa chân cho 12 vị đại diện cho cộng đoàn đang hiện diện nơi đây. Ngày hôm nay, khi tham dự Thánh lễ Tiệc ly, chúng ta hãy mạnh dạn đưa bàn chân của chúng ta, bàn chân có những vết sẹo của cuộc đời, bàn chân của những vết nhơ tội lỗi, ngày hôm nay Thầy chí Thánh muốn đón nhận những bàn chân ấy, muốn rửa chân những bàn chân ấy để thể hiện tình yêu vô bờ bến đối với con người yếu đuối của chúng ta.
Sau khi chia sẻ Tin mừng Linh mục chánh xứ Đa minh, cởi áo ngoài, cúi xuống rửa và lau chân cho 12 vị đại diện tượng trưng cho 12 môn đệ của Chúa. Hình ảnh vị chủ chăn quỳ trước mặt con chiên của mình, đã đủ đánh động tâm hồn mỗi người chúng ta.
Thánh lễ kết thức lúc 18g. Cộng đoàn rước Thánh Thể qua nhà tạm, để các đoàn thể luôn phiên thờ lạy, tôn vinh và cầu nguyện.
Xin cho mỗi gia đình chúng con biết tận dụng những giờ phút sum họp trong gia đình, để biến gia đình thành nhà Tiệc ly mỗi ngày, để bẩu khí yêu thương, mọi thành viên biết tìm mọi cách để phục vụ trong tình yêu, đem niềm vui và hạnh phúc cho gia đình
Vinh sơn Trần văn Đẩu
Những điều bí ẩn và những điều mầu nhiệm
Điều có ích giáo huấn là khảo sát về phương diện lịch sử các do dự khác nhau dần dần được khai triển và chống lại điều người ta có thể gọi là Thiên Chúa của triết học phê phán và Thiên Chúa của các Kitô hữu. Một đàng, người ta không thể hiểu lầm việc thanh lọc do các tâm trí vĩ đại và các linh hồn tôn giáo ở cả bên ngoài bất cứ Mạc Khải nào thực hiện đối với các niềm tin thô thiển, tự phát. Nhưng theo mức độ các đòi hỏi của lý trí tiếp tục tiến hành chống lại điều xem ra đã dứt khoát thâu đạt sự khôn ngoan triết lý, một giai đoạn mới, một giai đoạn mà chúng ta trợ giúp, đã bắt đầu và tự khai triển ngay nơi nhiều nhà tư tưởng hiện thời. Chính như thế, chủ nghĩa duy thần tự nhiên (déisme), một chủ nghĩa xem ra đã lành mạnh hóa ý niệm Thiên Chúa, đã dần dần lấn tới để tránh bất cứ thứ nhân hình thuyết (anthropomorphisme) nào, đến độ đã giản lược, một số người cho là để cổ vũ, Thiên Chúa đích thực duy nhất thành một “phạm trù lý tưởng”, một thể thuần túy đang trở thành (un pur devenir), một Thiên Chúa tự làm cho mình từ từ trở thành trong lịch sử và nhờ một siêu nhân tính [surhumanité] trong biến hóa muôn thuở. Người ta đi xa đến chỗ chủ trương rằng Thiên Chúa duy nhất đích thực là Đấng không hiện hữu và việc “hoán cải” triết lý tối cao là thứ đạo tiến bộ của chủ nghĩa duy tương đối khoa học, xa lạ đối với bất cứ điều gì không hề là phát minh liên tục, là các phương pháp và khám phá của kỹ thuật, là sự vô tổ chức độc quyền của bất cứ luật lệ cố định nào thuộc bất cứ trật tự nào.
Chống lại lối siêu phê phán này của các hậu duệ truyền thống tư tưởng từ lâu vốn chiến đấu cho một chủ nghĩa duy linh (spiritualisme) được coi như đã thoát khỏi mọi ràng buộc tuyên tín và mọi tín điều khác ngoài thứ “tôn giáo tự nhiên”, lương tâm quần chúng, bất chấp nhiều khiếm khuyết, vẫn duy trì được một lòng trung thành, ít nhiều có tính bản năng, ít nhiều có tính di truyền, đối với sự tiến bộ có tính lịch sử này, một tiến bộ luôn hệ ở việc thanh tẩy, thăng hoa ý niệm về Đấng người ta gọi là Thiên Chúa tốt lành. Do đó, nếu không có cao vọng tín lý, đâu là các ý niệm, các đòi hỏi, mà cả người dân thường cũng vốn gọi là ý niệm Thiên Chúa? Thành thử ở đây, ta nên xác định các nghĩa mở rộng tự phát do danh từ riêng này gợi ý, mà không nhận định việc tới mức nào danh từ này, dùng ở số ít và kết hợp nhiều thuộc tính xem ra nhất quán, nêu lên những mâu thuẫn không tài nào giải quyết đối với một suy tư thực sự có tính phê phán.
Trước nhất ta thấy có các ý niệm tầm thường, các thuộc tính liên hệ mà thoạt nhìn, người ta không thấy sự bất nhất sâu xa; sau đó, cần phải làm xuất hiện các trở ngại khó tháo gỡ do việc trình bầy xem ra tự nhiên và hoàn toàn khách quan.
Một Thiên Chúa duy nhất? Đúng, chủ nghĩa đa thần (polythéisme) không còn khách hàng được thừa nhận nào trong nền văn minh của chúng ta. Sự hợp nhất thần linh? Đó là điều nhất thiết. Một Thiên Chúa có bản vị? Không có vậy, sẽ không phải là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa khôn ngoan và công chính? Không còn điều gì tối thiết hơn đối với ý thức ta. Một Thiên Chúa vô cùng đáng yêu? Đúng, chính ở đây sự do dự gia tăng và việc khẳng định về một sự tốt lành hoàn toàn, liên quan tới con người, và trong cả Thiên Chúa nữa, nêu lên một nghi vấn xem ra có cơ sở kép; vì tính duy nhất [unicité] của Thiên Chúa gợi lên ý niệm một đấng cô độc, một đấng vị kỷ không tìm được người giống như mình để yêu thương và dường như tự gạt bỏ mình trong cảnh bất di bất dịch tự ngắm nghía chính sự hoàn hảo của mình. Một Thiên Chúa vô cùng tốt lành? Đúng, nhưng làm thế nào Người có thể như thế nếu Người là một Đấng độc nhất, một Đấng cô lập, trên mọi loài không hoàn thiện đến nỗi chúng không hề xứng đáng được Người đoái nhìn và thương yêu và do đó, Người tự thu mình vào tính vị kỷ? Hơn nữa, như thế phải coi là quá đáng, và chính ý niệm một ý thức về mình trong cảnh tự ngắm mình một cách bất di bất dịch và đơn độc há không phải là một mâu thuẫn, chỉ tự giải quyết nhờ một thứ niết bàn trong đó mọi nhận thức tách biệt về một hiện hữu riêng biến mất hay sao? Vậy phải chăng đó là điều phải gọi là Thiên Chúa tốt lành?
Nhưng có nhiều điều cần phải làm nổi bật chống lại vị Thiên Chúa cô độc của chủ nghĩa độc thần khô khan này. Và lý trí của chúng ta, một khi bị sự nghi ngờ này làm cho lạnh giá, há không buộc phải thâm hậu hóa sự phê phán của nó và nêu lên những khó khăn mới còn triệt để hơn nữa, mà vẫn không thành công trong việc hiểu các khó khăn này và giải quyết chúng một cách đỡ đần và soi sáng? Quả thực, nếu chúng ta biết lưu ý tới chính nhân cách riêng của chúng ta để soi sáng các thuộc tính chúng ta vừa qui cho Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy bị bó buộc phải trở lại với những nhượng bộ quá dễ hiểu của lương tri. Vì tính duy nhất (unicité) hữu vị thậm chí không thể nào quan niệm được nếu ý thức không phải là ý thức về phi bản vị [impersonnel](6). Theo kiểu nói của Leibniz, nếu Thiên Chúa chỉ là một “solipse” nghĩa là một thể đơn độc tuyệt đối và như thể kín cổng cao tường trong chính mình, thì Người không xứng đáng với tước hiệu Tốt Lành tối cao đối với các hữu thể khác. Để vượt qua thế bí này, há không phải thừa nhận rằng Thiên Chúa đã hình thành thế giới để có ý thức về mình và có những hữu thể khác để yêu thương đó sao? Nhưng một giải đáp như thế ghê tởm đối với lý trí ta, còn hơn cả các cố gắng khác nhằm gán cho Thiên Chúa khả thể biết mình và các giá trị luân lý. Vì như thế là nô dịch Đấng người ta đã đặt lên trên mọi tạo vật, những tạo vật không bao giờ ngang bằng với Người hay chỉ phản chiếu các hoàn thiện của Người bằng một hình ảnh méo mó và luôn luôn bất cập so với vẻ đẹp riêng của Người như thể Người phải tùy thuộc việc cần được nhìn thấy trong một hình ảnh nhất định thiếu sót. Một trốn tránh như thế, thay vì giải quyết vấn đề Thiên Chúa, đã làm mất bản tính của Người một cách tuyệt đối; và qua những cách trốn tránh như thế, người ta không hề làm cho việc dùng tới một chiếc gương luôn ít nhiều méo mó như thế có thể chấp nhận được, cũng như không hề đem lại cho thế giới tạo vật một sự biện minh xứng với lòng tốt của Thiên Chúa; vì làm thế nào biện minh được kế sách của một sự Quan Phòng khi sự Quan Phòng này chỉ có thể kích thích các hữu thể khác bằng một nhu cầu vị kỷ của Đấng Tạo Dựng và vì sự đau khổ của các tạo vật bị giản lược vào việc phục vụ một Thiên Chúa tự ý thức mình vị kỷ? Như thế, xem ra há các đòi hỏi của tư tưởng phê phán không nhất thiết dẫn nó tới việc tự nuốt chửng lấy mình và làm cho Thiên Chúa trở thành không thể suy tưởng được đó sao? Và do đó, há chúng ta không sẵn sàng tìm thấy trong mạc khải Kitô giáo phương thế duy nhất để cứu Thiên Chúa khỏi bất cứ bất khả siêu hình học và luân lý học nào hay sao?
Vậy chúng ta hãy kết luận: đối với ý thức và lý trí, điều hợp lý và thậm chí thuần lý đối với nhà triết học đòi hỏi nhất, há không phải là bác bỏ Thiên Chúa hay sao? Không. Phải chăng đó là một hoài nghi tiên quyết, duy tín, bất khả tri? Không. Phải chăng là việc tìm kiếm các phương thức phi lý để đạt tới “một nhận thức cấm đoán” và bằng sự lôi kéo của các giác quan và kinh nghiệm khai tâm huyền bí (mystagogiques)? Không. Và, trong thất bại, phải chăng là làm thất vọng mọi cố gắng của con người, khả thể ân cần và mạc khải Thiên Chúa kích thích và tưởng thưởng việc tìm kiếm và tiếp nhận của các tinh thần biết tìm kiếm ánh sáng mà chính họ không phải là nguồn gốc? Không. Điều mà nay ta phải chứng minh, đó là một giáo huấn đồng thời cũng là một ơn gọi phải đáp ứng ra sao đối với lời kêu gọi trọn linh hồn phải hướng về một số phận cao hơn số phận của một bản tính hợp lý. Như thế, do đà đưa đẩy của lý trí sinh ra cho vô hạn và nghèo khó trong cảnh khốn quẫn bẩm sinh và khiếm khuyết, đặc tính của bản tính thiêng liêng của chúng ta là vượt quá con người họ được tạo ra trong thực tế. Đó chính là điều sẽ chỉ cho chúng ta thấy diễn tiến của lịch sử này, luôn đồng thời có tính siêu hình lẫn tôn giáo trong đó các mầu nhiệm mang lại cho những điều khó hiểu do lý trí gợi lên các nghĩa vụ, các giải pháp và nguồn lực dẫn con người tới cùng đích tối hậu của họ (La Philosophie et l’Esprit chrétien, t. I, p. 8-12, p. 30-31).
Cám dỗ dạy dỗ, chứ không phải tội lỗi
Quả thực, nếu việc tiết lộ các điều bí mật mà trái tim con người vốn chất chứa trong những điều thấp hèn và cao cả của họ được coi là tốt, thì đừng quên qui luật của Scupoli trong cuốn Cuộc chiến Tâm linh của ngài, qui luật không những là một giới huấn khôn ngoan mà còn là một định luật của chân lý: có một cách để mô tả, để thách thức đặc biệt, để “thanh tẩy”, theo nghĩa Aristốt của từ ngữ, mọi đam mê, trừ một đam mê mà người ta chỉ thực sự biết bằng cách tránh không đối đầu với nó, kể cả trong trí tưởng tượng, cái rắc rối của xác thịt, một rắc rối làm đui mù tinh thần và khép lại mọi chân trời cao cả. Người ta chẳng làm gì được: họ không thể sống cùng một lúc mọi cuộc sống; theo nghĩa người ta thường hiểu, “sống cuộc sống mình”, nghĩa là tự khép mình khỏi đời sống của các người khác, sự sống phổ quát và sáng láng. Từ trên cao, người ta thấy bên dưới; từ bên dưới, người ta thực sự không thấy trên cao. Đến nỗi, dưới danh nghĩa chân lý và “chủ nghĩa toàn bộ” (totalisme), mô tả các kinh nghiệm tồi tệ và thực hành các phóng đãng tồi tệ, thực ra là sai lầm và xuyên tạc cũng như suy sụp và đồi bại. Cả trong “việc thưởng ngoạn tội lỗi” lẫn trong cái dung nham (lave) hắc ám và trí chí của ngọn lửa xác thịt, người ta không tìm được khoa học nào về con người kể cả con người xác thịt. “Chủ nghĩa toàn bộ” thực sự, không, nó không nằm trong chủ nghĩa tiểu luận (essayisme) sa đoạ; nó nằm trong kinh nghiệm của linh hồn lành mạnh biết định phẩm trật và khai triển nhịp nhàng mọi khả năng của mình và nhờ cám dỗ biết đủ đâu là bùn nhơ và cũng biết rõ như thế chân lý sâu xa về con người mà từ trên cao cái nhìn xuống sâu vực thẳm hơn. Mundi vident [thế giới nhìn rõ]. Nghịch lý của tôi, có tính truyền thống nhất, là chủ nghĩa duy thực chân chính không có kẻ thù nham hiểm nào hơn tính tò mò vô độ: khoa học của hiền nhân, về cả tội lỗi, thì vô cùng chính xác và trọn vẹn hơn khoa học của kẻ tội lỗi; và nơi nào cơn rắc rối thú vật khuấy động đều không có cả nghệ thuật lẫn chân lý. Vì “chân lý” luôn thuộc tinh thần (Itinéraire philosophique, p. 24).
Ghi chú:
{1} Giám đốc Cao đẳng Sư phạm đã liên tục khuyến cáo Blondel kể từ khi lấy bằng tiến sĩ - trái với các ý kiến khác – đừng yêu cầu một chức vụ trong ngành giáo dục trung học, ông này đã yêu cầu ông gửi cho ông ta một bản tóm tắt về "ý nghĩa và tầm quan trọng của luận án của ông" để chính ông ta thông tri cho Giám đốc Giáo dục Cao đẳng, Louis Liard.
{2} Đây là cách sự sống động vật và bản năng của con người không phải là sự sống của động vật. Trí hiểu tự nó biểu lộ, không phải ở nơi tính tự động được kéo dài bởi bản năng, mà là ở nơi có sự lựa chọn các phương tiện và sự biện phân môi trường thuận lợi. Sự chắc chắn mà với nó bản năng giải quyết các vấn đề khó giải quyết đối với lý luận cho thấy, nếu những thể hiện vô thức là một hình ảnh trung thực của thế giới, thì các thể hiện hữu thức là một hình ảnh bị biến dạng bởi các đòi hỏi của tương phản. Ý thức phản tỉnh là trạng thái tương phản tối đa của các thể hiện vô thức.
{3} Như trước đây, tôi đã nói về các hiện tượng khách quan hoặc đời sống chủ quan mà không dành cho những từ ngữ này một tầm duy tâm, duy thực hay duy hiện tượng nào, tôi sẽ đề cập tới tự do, mà không lo lắng để biết liệu tôi đang nói về một thực tại, một ý tưởng hay một ảo tưởng. Ở đây, vẫn chưa phải là giải quyết vấn đề, như thế là đi quá xa hơn cả những nhà duy tiền định (deterministes) hoặc địch thủ của họ thường thấy.
{4} Tôi đã mô tả tính năng động tâm lý này ở trang 103 tới trang 149 của cuốn L’Action.
{5} “Luận lý học thiếu các phương tiện trực tiếp để đưa vào lý luận các tiền đề mà việc khẳng định chúng bàn đến tương lai. Tất cả các lý thuyết khẳng định và diễn dịch đều diễn tiến bằng việc phân tích sau cùng các phán đoán được nêu ra như đã có một ứng dụng thực sự hoặc thực sự đúng.»
RENOUVIER, Essais de critique générale. Traité de logique générale, II, 390, 2e éd. Há điều người ta gọi là "thực sự đúng" không phải là điều trừu tượng đơn giản, ở trong không khí và bên ngoài các điều kiện của thực tại hay sao?
{6} Để tránh mọi hiểu lầm và mọi lời chỉ trích vô cớ, ta nên nhớ rằng chữ tính ngôi vị (personalité) không có cùng một ý nghĩa khi áp dụng vào Thiên Chúa hay vào con người. Chính vì thế một trong các bản văn của tôi đã tạo cơ hội cho một lời trách móc có lệ hơn là có cơ sở. Để làm nổi bật theo nghĩa đen chân lý thiết yếu của tín điều Ba Ngôi, tôi đã khơi mào cuộc tranh luận bằng cách nói:
Thiên Chúa không phải là một ngôi vị... Người là ba Ngôi. Do đó có lời phàn nàn đã thành công thức: tác giả phủ nhận tính ngôi vị thần linh, để người ta không tính đến những khẳng định sau đây của tôi liên quan đến Thiên Chúa ba ngôi trong sự thống nhất bản thể của sự Hoàn thiện tối cao. Ngôi vị, trong chúng ta, không hoàn toàn biệt lập khỏi nhận thức về những ngôi vị khác và sự lập lờ nguy hiểm do các công thức đề cao tính ngôi vị của con người tạo ra, như thể nó là trung tâm của chính nó, đòi phải được xa tránh bằng việc không ngừng nhắc nhớ sự thật cấp thiết này: tính ngôi vị, một tính phải được hình thành và phong phú hóa trong chúng ta, chỉ có thể tồn tại và được biện minh nhờ sự phụ thuộc vào Thiên Chúa, và nhờ sự tận tâm và tôn trọng mọi ngôi vị khác, bằng cách ngày một nhận thức rõ hơn về lỗi lầm
ích kỷ và bổn phận đối với người khác. Do đó, có ý nghĩa chính xác của công thức sau đây của Paul Janet: ý thức bản vị là ý thức phi bản vị. Ý niệm về ngôi vị này đã được đào sâu và làm cho sinh động bởi sự thật của Kitô giáo này là triết học đã không thể dò xét một cách đầy đủ nếu không có một giáo huấn minh nhiên. Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô là một ngôi vị duy nhất, dù có hai bản tính, và hai bản tính mà Người mang trong mình, không thể lẫn lộn được (confusible) về phương diện bản thể - điều này cũng cho phép nhìn nhận trong Người một ý chí kép và công phúc, như chúng ta sẽ thấy sau đây, mang lại cho vai trò làm trung gian và lễ vật của Người một hiệu quả vô cùng phong phú và cảm động.
Trong tay Đức Mẹ, Mẹ hiền ơi.
Ngỡ như năm ấy, đêm giá lạnh,
Ẵm Chúa Hài Nhi xuống từ trời.
Máu đọng khắp người, vết đanh thâu,
Vòng gai sỉ nhục cắm trên đầu,
Trái tim đâm thủng trào máu nước,
Mẹ vẫn niệm suy phút ban đầu.
Hai mắt nhắm nghiền, khép đôi môi,
Vầng trán thanh quang máu phủ rồi.
Còn đâu đêm thánh Thiên Thần hát
Giá lạnh trong hang, lạnh đỉnh đồi !
Thịt nát thân tàn gục tắt hơi,
Xuôi tay từng chúc phúc Nước trời.
Mẹ như thấy lại trong đêm ấy
Một kiếp cô đơn thấu lòng người!
Vọng tiếng lên Cha, phó linh hồn,
Tông đồ trốn hết, bóng chiều buông.
Mẹ ôm Con Mẹ trong nước mắt
Hiện cảnh đuổi xua quán trọ buồn.
Hang đá mượn nhờ vội táng an,
Đêm đen chìm đắm, dạ tan hoang.
Mẹ bừng đứng dậy hiên ngang quá
Hai tiếng XIN VÂNG máu ứ tràn./.
LM. Nguyễn Hồng Phúc
1. Trung Quốc khủng bố Giáo Hội Công Giáo thầm lặng
Trước lễ Phục sinh, bọn cầm quyền Trung Quốc lại siết chặt các biện pháp chống Giáo Hội Công Giáo hầm trú, được Tòa Thánh nhìn nhận nhưng không được cộng sản Bắc Kinh công nhận.
Hôm 11 tháng Tư vừa qua, hãng Asia News đưa tin: hôm 07 tháng Tư trước đó, công an Nhà nước Trung Quốc lại bắt và đưa Đức Cha Phêrô Thiệu Chúc Mẫn, (Shao Zhu-min - 邵祝敏) Giám Mục Ôn Châu, thuộc tỉnh Chiết Giang đến một nơi bí mật. Các tín hữu địa phương không biết Đức Cha đang ở đâu. Công an đã tịch thu điện thoại di động của Đức Cha. Người ta ngờ rằng Nhà nước muốn cấm cản không cho ngài cử hành các lễ nghi Tuần thánh và nhất là Lễ Truyền Dầu.
Đức Cha Thiệu Chúc Mẫn đã được trả tự do hồi tháng Mười Một năm ngoái, sau khi bị bắt trước đó. Đây không phải là lần đầu tiên Đức Cha bị bắt. Ngài thường bị bắt đi nhiều tháng và thường phải chịu các cuộc tẩy não để buộc gia nhập Giáo Hội Công Giáo quốc doanh do đảng cộng sản Trung Quốc kiểm soát, qua trung gian của Hội Công Giáo yêu nước.
Cách đây ít lâu, công an cũng đã bắt giữ cha Khương Tố Niệm (Jiang Sunian, 蒋苏年), Chưởng ấn của Giáo phận Ôn Châu, nhưng rồi sau đó đã trả tự do cho cha.
Đức Cha Augustinô Thôi Thái (Cui Tai - 崔泰), Giám mục phó giáo phận Tuyên Hóa (Xuanhua - 宣化), tỉnh Hà Bắc, cũng bị bắt đi mất tích. Ngài đã bị quản thúc tại gia hơn mười năm trời. Có những vết tích trên người cho thấy ngài thường bị tra tấn.
Các biện pháp siết chặt trên đây chống lại Giáo phận Tuyên Hóa vì những căng thẳng chưa từng có ở vùng Trương Gia Khẩu (Zhangjiakou), là nơi đã đón tiếp Thế vận Olympic mùa đông hồi tháng Hai năm nay. Nhà nước Bắc Kinh muốn mọi sự xuôi chảy và Giáo Hội Công Giáo bị coi là một nhân tố gây bất ổn.
Việc Tòa Thánh ký hiệp định tạm thời với nhà nước Bắc Kinh hồi năm 2018 vẫn không chấm dứt các cuộc bách hại đối với các vị lãnh Công Giáo địa phương, nhất là các vị thuộc Giáo hội thầm lặng.
2. Đức Hồng Y Tagle than khóc khi các nhân viên Caritas ở Mariupol bị Nga bắn chết
Hôm thứ Ba, Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle đã than khóc về vụ giết chết bảy người tại một trung tâm Caritas ở thành phố Mariupol bị bao vây của Ukraine.
Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle là Chủ tịch Caritas Internationalis, một cơ quan bảo trợ cho các nhóm cứu trợ Công Giáo trên khắp thế giới có trụ sở tại Vatican. Đức Hồng Y cho biết vào ngày 12 tháng 4 rằng ngài cảm thấy “buồn và sốc sâu sắc”.
“Caritas Internationalis bày tỏ sự cảm thông sâu sắc và gần gũi với gia đình của những người mất mạng và bị thương”, vị Hồng Y người Phi Luật Tân nói với Vatican News, cổng tin tức trực tuyến của Tòa Thánh.
“Nỗi buồn của chúng tôi biến thành lời kêu gọi cộng đồng quốc tế nỗ lực hết sức để chấm dứt bạo lực này, quay trở lại đối thoại và nhìn thấy tình anh chị em trong mỗi người”.
Hôm thứ Hai, có thông tin cho biết một chiếc xe tăng của Nga đã bắn vào trung tâm Caritas ở Mariupol, giết chết hai nhân viên và năm thành viên gia đình đang tìm kiếm nơi ẩn náu trong tòa nhà. Vụ việc được tường trình diễn ra vào ngày 15 tháng 3.
Văn phòng được điều hành bởi Caritas Ukraine, một tổ chức bác ái do Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương điều hành.
Hôm 11 tháng 4, Caritas Ukraine cho biết, hai công nhân Caritas thiệt mạng là hai nhân viên kế toán.
Tetiana Stawnychy, chủ tịch Caritas Ukraine, cho biết: “Chúng tôi cần sự đoàn kết và lời cầu nguyện của các bạn cho gia đình các nạn nhân, cho cộng đồng Caritas Mariupol và cộng đồng Caritas Ukraine.”
Aloysius John, tổng thư ký của Caritas Internationalis, bày tỏ sự thất vọng trước những cái chết.
Ông nói: “Tin tức bi thảm này khiến gia đình Caritas của chúng tôi vô cùng kinh hoàng và sốc. Chúng tôi đau buồn và hiệp nhất trong nỗi đau khổ của các gia đình và các đồng nghiệp Caritas Ukraine, những người đang phải sống trong một thảm kịch.”
Mariupol, một thành phố cảng ở đông nam Ukraine, đã bị lực lượng Nga tấn công vào ngày 24 tháng 2, ngày đầu tiên của cuộc xâm lược toàn diện vào đất nước này.
Binh sĩ Ukraine đã tiếp tục chống lại sự tiến công của Nga vào thành phố bất chấp các cuộc ném bom không ngừng phá hủy nhiều tòa nhà và giết chết hàng nghìn người.
Đức Hồng Y Tagle, người cũng là Tổng trưởng Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, cho biết: “Chúng tôi tôn vinh sự hy sinh của những người làm công tác nhân đạo bằng cách cầu nguyện cho họ và gia đình của họ. Chúng tôi tin rằng Chúa nghe thấy tiếng kêu của người nghèo và người công chính”.
“Chúng tôi tôn vinh họ bằng cách khẳng định giá trị của dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức nhân đạo phải được tôn trọng.”
“Chúng tôi tôn vinh họ bằng cách cầu nguyện với Chúa và kêu gọi những người có thiện chí hãy nghĩ đến và làm việc vì hòa bình.”
Source:Catholic News Agency
3. Đức Hồng Y Krajewski sẽ trải qua Tam Nhật Thánh tại Ukraine
Hôm 11 tháng Tư năm 2022, Đức Hồng Y Konrad Krajewski, quan phát chẩn của Đức Thánh Cha Phanxicô đã rời Rôma lên đường sang Ukraine lần thứ ba để viếng thăm các tín hữu tại nước này nhân danh Đức Thánh Cha.
Đức Hồng Y Krajewski người Ba Lan, năm nay 59 tuổi, từ ngày 05 tháng Sáu tới đây sẽ trở thành Bộ trưởng Bộ Bác ái, ma Đức Thánh Cha mới thành lập. Lần này sang Ukraine, ngài lái xe cứu thương thứ hai đã được Đức Thánh Cha làm phép và sẽ tặng cho thành phố Kiev cùng với các thiết bị y khoa tối tân, như các máy khử rung tim do Bệnh viện Chúa Hài Đồng Giêsu tặng để chữa trị cho các em bệnh nhân. Từ Roma đến thủ đô Kiev bằng đường bộ dài 2,000 cây số. Hồi đầu tháng Ba vừa qua, Đức Hồng Y Krajewski đến Ukraine lần đầu tiên qua ngả Ba Lan để chở đồ cứu trợ cho dân chúng.
Đặc biệt, Đức Hồng Y sẽ ở lại thủ đô Kiev và cử hành Tam nhật Vượt qua với các tín hữu Công Giáo địa phương.
Đức Tổng Giám Mục Visvaldas Kulbokas, Sứ thần Tòa Thánh tại thủ đô Ukraine cho biết qua cuộc viếng thăm và những cử chỉ này, Đức Thánh Cha muốn tiếp tục ở cạnh những người đau khổ, nhưng người đang khóc thương người thân yêu và cả những người đang đứng trước lựa chọn khó khăn: ở lại hay ra đi khỏi Ukraine.
Lúc 9h30 sáng thứ Năm 14 tháng Tư, Đức Thánh Cha đã cử hành Lễ Dầu tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Một số đông đảo các vị Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục thuộc giáo triều Rôma và khoảng 1,600 linh mục thuộc giáo phận Rôma đã tham dự thánh lễ.
Trong thánh lễ dầu các linh mục lặp lại những lời hứa các ngài đã tuyên thệ khi thụ phong linh mục. Sau đó, các loại dầu được làm phép để dùng trong suốt năm khi thực hiện các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức, Phong Chức Linh Mục, và Bí tích Xức Dầu.
Tài liệu chính về việc cử hành các ngày lễ trong Tuần Thánh và lễ Phục sinh, có tên là Paschales Solemnitatis, cho biết như sau:
Trong thánh lễ dầu vị giám mục bản quyền đồng tế với các linh mục của mình và trong thánh lễ đó các loại dầu được thánh hiến và làm phép, biểu lộ sự hiệp thông của các linh mục với giám mục của mình trong cùng chức tư tế và thừa tác của Chúa Kitô.
Các linh mục đồng tế với giám mục của mình đến từ các phần khác nhau của giáo phận, thể hiện trong thánh lễ làm phép dầu chứng tá và sự cộng tác của các ngài, cũng như trong thừa tác vụ hàng ngày rằng các ngài là những người giúp đỡ và cố vấn cho vị giám mục trong việc chăm sóc đoàn chiên Chúa.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:
Bài đọc trong Sách Khải Huyền cho chúng ta biết sự đền đáp của Chúa là gì. Đó là tình yêu của Người và sự tha thứ vô điều kiện cho tội lỗi của chúng ta với giá máu của Người đã đổ trên Thánh Giá: “Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời.” ( Kh 1: 5-6). Không có sự đền đáp nào lớn hơn tình bạn với Chúa Giêsu, đừng quên điều này. Không có hòa bình nào lớn hơn sự tha thứ của Người, và tất cả chúng ta đều biết điều đó. Không có giá nào cao hơn giá Máu châu báu của Ngài, và chúng ta không được phép làm giảm giá trị của điều đó bởi những hành vi bất xứng.
Anh em linh mục thân mến, nếu chúng ta nghĩ về điều đó, Chúa đang mời gọi chúng ta trung thành với Người, trung thành với giao ước của Người, và để mình được Người yêu thương và tha thứ. Đó là những lời mời gọi gửi đến chúng ta, để chúng ta có thể phục vụ theo cách này với một lương tâm trong sáng cho dân thánh thiện và trung thành của Thiên Chúa. Dân của chúng ta xứng đáng nhận được điều này và họ cần điều đó. Phúc âm Luca cho chúng ta biết rằng, sau khi Chúa Giêsu đọc đoạn văn của tiên tri Isaia trước sự chứng kiến của những người dân trong thị trấn và ngồi xuống, “ánh mắt của tất cả mọi người trong hội đường đều dán chặt vào Ngài” (4:20). Ngày nay, Sách Khải Huyền cũng nói với chúng ta về đôi mắt nhìn chằm chằm vào Chúa Giêsu. Nó nói lên sức hấp dẫn không thể cưỡng lại của Chúa bị đóng đinh và phục sinh, khiến chúng ta nhìn nhận và tôn thờ Người: “Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! Amen!”(1: 7). Ân sủng tối thượng, khi Chúa Phục sinh trở lại, sẽ là ân sủng có được nhận thức tức khắc. Chúng ta sẽ nhìn thấy Người và những vết thương của Người. Chúng ta sẽ nhận ra Người là ai, và chúng ta là ai, là những kẻ tội lỗi đáng thương.
“Dán mắt vào Chúa Giêsu” là một ân sủng mà chúng ta, với tư cách là các linh mục, cần phải trau dồi. Vào cuối ngày, chúng ta nên làm tốt việc nhìn lên Chúa, và để Ngài nhìn vào trái tim của chúng ta và trái tim của tất cả những người chúng ta đã gặp. Không phải để kể tội chúng ta, nhưng là một hành động chiêm niệm đầy yêu thương, trong đó chúng ta nhìn lại ngày của mình với con mắt của Chúa Giêsu, nhìn thấy những ân sủng và quà tặng, và cảm tạ tất cả những gì Người đã làm cho chúng ta. Nhưng cũng phải đặt trước mặt Người những cám dỗ của chúng ta, để thừa nhận chúng và bác bỏ chúng. Như chúng ta có thể thấy, điều này đòi hỏi phải biết điều gì đẹp lòng Chúa và điều gì Ngài đang yêu cầu chúng ta ở đây và bây giờ, vào thời điểm này trong cuộc sống của chúng ta.
Và có lẽ, nếu chúng ta bắt gặp ánh mắt ân cần của Người, Chúa cũng sẽ giúp chúng ta chỉ cho Ngài thấy đâu là những ngẫu tượng của chúng ta. Những ngẫu tượng, mà giống như Rachel, chúng ta đã giấu dưới những nếp gấp của chiếc áo choàng của chúng ta (xem St 31: 34-35). Hãy để Chúa nhìn thấy những ngẫu tượng ẩn giấu đó - tất cả chúng ta đều có những ngẫu tượng; tất cả chúng ta! - và xin Chúa củng cố chúng ta chống lại những ngẫu tượng ấy và lấy đi sức mạnh của chúng.
Cái nhìn của Chúa khiến chúng ta thấy rằng, qua những ngẫu tượng ấy, chúng ta đang thực sự tự tôn vinh chính mình [2], vì ở đó, trong những không gian mà chúng ta coi là được dành độc quyền cho chúng ta, ma quỷ luồn lách vào bằng các chất độc của nó. Ma quỷ không chỉ khiến chúng ta tự mãn, buông thả theo đam mê hoặc nuôi dưỡng các đam mê, mà còn dẫn dắt chúng ta đến việc thay thế sự hiện diện của các Ngôi Chí Thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta bằng các ngẫu tượng. Điều này xảy ra. Mặc dù chúng ta có thể tự nhủ rằng chúng ta hoàn toàn biết rõ sự khác biệt giữa Thiên Chúa và các ngẫu tượng, nhưng trên thực tế, chúng ta lấy đi không gian của Chúa Ba Ngôi để trao cho ma quỷ, theo một kiểu thờ phượng biến thái. Sự thờ phượng của một người lặng lẽ nhưng không ngừng lắng nghe lời anh ta nói và tiêu thụ sản phẩm của anh ta, để cuối cùng không còn một góc nhỏ nào dành cho Thiên Chúa. Ma quỷ là như thế, nó làm việc nhẹ nhàng và chậm rãi. Trong một bối cảnh khác, tôi đã nói về những con quỷ “được giáo dục”, những con quỷ mà Chúa Giêsu đã cảnh báo rằng chúng còn tệ hơn quỷ đã bị Ngài đuổi đi. Chúng “lịch sự”, chúng bấm chuông, chúng bước vào và dần dần chiếm lấy ngôi nhà. Chúng ta phải cẩn thận, đây là những ngẫu tượng của chúng ta.
Có những điều mang tính cá vị liên quan đến các ngẫu tượng. Khi chúng ta không vạch mặt chúng, khi chúng ta không để Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng chúng ta đang tìm kiếm chính mình một cách sai trái và không cần thiết, chúng ta nhường chỗ cho Ma Quỷ. Chúng ta cần nhớ rằng ma quỷ đòi hỏi chúng ta phải làm theo ý muốn của nó và chúng ta phải phục vụ nó, nhưng không phải lúc nào nó cũng yêu cầu chúng ta phục vụ nó và thờ phượng nó liên tục; nhưng hãy cẩn thận, ma quỷ là một nhà ngoại giao tuyệt vời. Thỉnh thoảng nhận được sự thờ phượng của chúng ta là đủ để nó chứng minh rằng nó mới là chủ nhân thực sự của chúng ta và rằng nó có thể được cảm nhận như một vị thần trong cuộc sống và trong trái tim của chúng ta.
Để tiếp tục, trong Thánh lễ Truyền Dầu này, tôi muốn chia sẻ với anh em ba không gian của việc thờ ngẫu tượng tiềm ẩn, trong đó ma quỷ sử dụng các ngẫu tượng của chúng ta để làm suy yếu chúng ta trong ơn gọi mục tử và từng chút một, tách chúng ta khỏi sự hiện diện nhân từ và yêu thương của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần và Chúa Cha.
Một không gian của việc lặng lẽ thờ ngẫu tượng mở ra ở bất cứ nơi nào có tinh thần thế gian, đó là “một đề xuất của cuộc sống, của một nền văn hóa, một nền văn hóa phù du, của vẻ bề ngoài, của tô son trát phấn”. [3] Tiêu chí của nó là chủ nghĩa chiến thắng, một chủ nghĩa chiến thắng không có thập tự giá. Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha bảo vệ chúng ta chống lại nền văn hóa trần tục này. Sự cám dỗ về vinh quang không có thập tự giá này trái ngược với chính con người của Chúa, nó trái ngược với Chúa Giêsu, Đấng đã hạ mình xuống khi nhập thể và, như một dấu hiệu của sự mâu thuẫn, là phương dược duy nhất của chúng ta chống lại mọi ngẫu tượng. Hãy cùng nghèo với Chúa Kitô, Đấng nghèo khó và “đã chọn nghèo”: đây là tư duy của Tình yêu; không có gì khác. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đã chọn một hội đường đơn sơ trong ngôi làng nhỏ, nơi Người đã dành phần lớn cuộc đời mình, để loan báo cùng một sứ điệp mà Người sẽ loan báo vào cuối thời, khi Người sẽ đến trong vinh quang, với các thiên thần vây quanh. Đôi mắt của chúng ta phải dán chặt vào Chúa Kitô, vào thực tế cụ thể trong lịch sử của Ngài với tôi, bây giờ, cho dù chúng sẽ thành quá khứ. Thái độ trần tục tìm kiếm vinh quang của chính chúng ta cướp đi sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng khiêm nhường và bị sỉ nhục, Đấng đến gần mọi người, Đấng chịu đau khổ với tất cả những người đau khổ, Đấng được dân chúng ta tôn thờ, Đấng biết ai là bạn hữu đích thật của Người. Một linh mục trần tục không hơn gì một kẻ ngoại giáo được giáo sĩ hóa.
Một không gian thứ hai của sự lặng lẽ sùng bái ngẫu tượng mở ra với chủ nghĩa thực dụng, nơi những con số trở thành điều quan trọng nhất. Những người yêu mến thứ ngẫu tượng ẩn giấu này có thể được nhận ra qua tình yêu của họ đối với các số liệu thống kê, những con số có thể phi nhân hóa (depersonalize) mọi cuộc thảo luận và thu hút số đông như là tiêu chí cuối cùng để phân định; điều này không tốt. Đây không thể là phương pháp hoặc tiêu chí duy nhất cho Giáo hội của Chúa Kitô. Ba Ngôi không thể được “đánh số”, và Thiên Chúa không “đo lường” món quà Thần Khí của Người (x. Ga 3:34). Trong niềm đam mê và tình yêu với những con số, chúng ta thực sự đang tìm kiếm chính mình, hài lòng với sự kiểm soát được cung cấp bởi lối suy nghĩ này, không quan tâm đến những khuôn mặt cá nhân và xa rời tình yêu. Một đặc điểm của các vị thánh vĩ đại là các ngài biết lùi lại để dành chỗ hoàn toàn cho Thiên Chúa. Bước lùi này, sự lãng quên bản thân và muốn được mọi người khác quên mình đi, là dấu ấn của Chúa Thánh Linh, Đấng, theo một nghĩa nào đó, là “vô diện”, - Thánh Linh là “vô diện” - đơn giản bởi vì Người hoàn toàn là Tình yêu, chiếu sáng hình ảnh của Chúa Con và hình ảnh của Chúa Cha trong Người. Việc thờ ngẫu tượng các con số cố gắng thay thế Chúa Thánh Thần, Đấng thích những gì là kín nhiệm - bởi vì Ngài “vô diện” - nó cố gắng làm cho mọi thứ trở nên “rõ ràng”, mặc dù theo cách trừu tượng và giản lược mọi thứ thành các con số, không còn hiện thân thực sự.
Không gian thứ ba của việc thờ ngẫu tượng ẩn giấu, liên quan đến không gian thứ hai, xuất phát từ chủ nghĩa chức năng. Điều này có thể hấp dẫn; nhiều người “nhiệt tình về lộ trình hơn là chính con đường”. Tư duy của người theo chủ nghĩa chức năng không đánh giá cao mầu nhiệm; nhưng hướng tới hiệu quả. Từng chút một, ngẫu tượng này thay thế sự hiện diện của Chúa Cha trong chúng ta. Thần tượng thứ nhất thay thế sự hiện diện của Chúa Con, thần tượng thứ hai thay thế Chúa Thánh Thần, và thần tượng thứ ba này thay thế Chúa Cha. Cha chúng ta là Đấng sáng tạo, nhưng không chỉ đơn giản là Đấng sáng tạo làm cho mọi thứ “hoạt động”. Ngài “tạo ra” chúng ta, với tư cách là Cha của chúng ta, bằng tình yêu thương dịu dàng, chăm sóc các tạo vật của Ngài và làm việc để làm cho con người tự do hơn bao giờ hết. “Những người theo chủ nghĩa chức năng” không vui mừng trước những ân sủng mà Thánh Linh dành cho dân Ngài, mà từ đó họ cũng có thể “được nuôi dưỡng” như người lao động làm công ăn lương. Linh mục với tư duy theo chủ nghĩa chức năng có của ăn riêng của mình, đó là bản ngã của người đó. Theo chủ nghĩa chức năng, chúng ta bỏ việc thờ phượng Chúa Cha trong những việc lớn nhỏ của cuộc đời mình và vui thích với hiệu quả của các chương trình của riêng chúng ta. Như Đavít đã làm khi bị Satan cám dỗ, ông nhất quyết thực hiện cuộc điều tra dân số (xem 1 Sbn 21: 1). Đây là những người yêu thích các kế hoạch liên quan đến lộ trình và thời gian hành trình, chứ không phải bản thân cuộc hành trình.
Trong hai không gian cuối cùng của việc lặng lẽ thờ ngẫu tượng (chủ nghĩa thực dụng của số lượng và chủ nghĩa chức năng), chúng ta thay thế hy vọng, là không gian của cuộc gặp gỡ với Chúa, bằng các kết quả thực nghiệm. Điều này cho thấy một thái độ khác thường của người mục tử, một thái độ làm suy yếu sự kết hợp của dân mình với Thiên Chúa và tạo ra một ngẫu tượng mới dựa trên số lượng và chương trình: ngẫu tượng ấy là “quyền năng của tôi, quyền năng của chúng tôi”, [4] các chương trình, số lượng và kế hoạch mục vụ của chúng tôi. Việc che giấu những thần tượng này (như Rachel đã làm), và không biết cách vạch mặt chúng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, làm giảm lòng trung thành của chúng ta với giao ước linh mục và làm cho mối quan hệ cá vị của chúng ta với Chúa trở nên lạnh nhạt. Nhưng vị Giám mục này muốn gì? Thay vì nói về Chúa Giêsu, ông đang nói về các ngẫu tượng ngày nay. Ai đó có thể sẽ nghĩ như thế…
Anh em thân mến, Chúa Giêsu là “con đường” duy nhất để tránh bị nhầm lẫn trong việc nhận biết chúng ta cảm thấy gì và trái tim chúng ta đang dẫn chúng ta đi về đâu. Chúa Giêsu là thông lộ duy nhất dẫn đến sự phân định đúng đắn, khi chúng ta xét mình với Chúa mỗi ngày. Như thể, ngay cả bây giờ, Chúa Giêsu đang ngồi trong nhà thờ giáo xứ của chúng ta và nói với chúng ta rằng ngày hôm nay tất cả những gì chúng ta nghe được giờ đã thành hiện thực. Chúa Giêsu Kitô, như một dấu chỉ của sự mâu thuẫn - không phải lúc nào cũng là điều gì đó khắc nghiệt và đau đớn, vì lòng thương xót và hơn thế nữa, tình yêu dịu dàng, chính những điều đó lại là dấu chỉ của sự mâu thuẫn - Tôi nhắc lại, hãy buộc những ngẫu tượng này phải lộ diện, để chúng ta có thể nhìn thấy sự hiện diện của chúng, nguồn gốc và cách thức chúng hoạt động, và cho phép Chúa tiêu diệt chúng. Đây là đề nghị: hãy để Chúa phá hủy những thần tượng ẩn giấu đó. Chúng ta nên ghi nhớ và chú ý những điều này, kẻo cỏ lùng của những ngẫu tượng mà chúng ta đã giấu kín trong lòng lại có thể mọc lên một lần nữa.
Tôi muốn kết thúc bằng việc cầu xin Thánh Cả Giuse, với tư cách là người cha khiết tịnh, không có những ngẫu tượng ẩn giấu, giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức chiếm hữu, vì chiếm hữu là mảnh đất màu mỡ để những ngẫu tượng này phát triển. Xin Ngài cũng ban cho chúng ta ân sủng để kiên trì trong nhiệm vụ gian khổ là làm sáng tỏ những ngẫu tượng mà tất cả chúng ta thường che giấu hoặc chính những ngẫu tượng ấy che giấu. Chúng ta cũng hãy hỏi, bất cứ khi nào chúng ta băn khoăn, xem liệu chúng ta có thể làm mọi việc tốt hơn hay không, và xin Ngài cầu bầu cho chúng ta, để Thánh Linh soi sáng sự phán xét của chúng ta, như Thánh Linh đã làm khi Thánh Giuse bị cám dỗ để gạt Đức Maria sang một bên một cách “lặng lẽ” (lathra). Bằng cách này, với tâm hồn cao thượng, chúng ta có thể phục tùng với lòng bác ái những gì chúng ta đã học từ lề luật. [5]
[1] Vì chức tư tế thừa tác là phục vụ chức tư tế thông thường. Chúa đã chọn một số người đàn ông “để họ có thể thi hành chức vụ linh mục một cách công khai nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (Công Đồng Chung Vatican, Sắc lệnh về Đời sống và thừa tác vụ linh mục Presbyterorum Ordinis, 2; x. Hiến chế tín lý về Giáo hội Lumen Gentium, 10). “Các thừa tác viên, được trao quyền lực thiêng liêng, là để phục vụ anh chị em của họ” (Lumen Gentium, 18).
[2] Xem Buổi tiếp kiến chung, ngày 1 tháng 8 năm 2018.
[3] Bài giảng, Thánh lễ tại Nhà Nguyện Santa Marta, ngày 16 tháng 5 năm 2020.
[4] JM BERGOGLIO, Meditaciones para powersiosos, Bilbao, Mensajero, 2014, 145.
[5] Xem Tông thư Patris Corde, 4, chú thích 18.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
1. Cầu đường sắt quan trọng của Nga bị phá hủy ở Belgorod gần biên giới với Ukraine
Một cây cầu đường sắt quan trọng của Nga đã bị hư hại ở khu vực biên giới với Ukraine trong một hành động phá hoại. Nga dựa vào các tuyến đường sắt của mình để chuyển binh lính và quân trang chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn vào miền đông Ukraine.
Các bức ảnh chụp từ cây cầu ở vùng Belgorod của Nga cho thấy một đoạn đường sắt đã bị cong lên phía trên, có thể do một vụ nổ. Các bức ảnh, cũng như tin tức về vụ việc, lần đầu tiên được công bố vào hôm thứ Ba bởi thống đốc địa phương của Nga và các phương tiện truyền thông địa phương.
“Không có thương vong”, thống đốc Vyacheslav Gladkov viết trong một tuyên bố trực tuyến. “Chỉ có đường ray xe lửa bị phá hủy... Tôi sẽ thông báo cho các bạn về lý do sau.”
Vụ việc xảy ra khi Nga bắt đầu quân sự hóa các khu vực biên giới gần Ukraine bằng cách nâng cao cảnh báo về các mối đe dọa, dựng các trạm kiểm soát quân sự và huy động người dân địa phương trong một dấu hiệu cho thấy nỗ lực chiến tranh của Nga đang chuyển sang phía đông Ukraine.
Ukraine chưa xác nhận liệu nước này có đứng sau vụ tấn công cầu đường sắt hay không.Các nhà bình luận cho rằng có thể đã có một cuộc không kích xuyên biên giới nhằm làm chậm việc Nga chuyển pháo hạng nặng và các phương tiện quân sự khác cần thiết để chuẩn bị cho một cuộc tấn công ở khu vực Donbas của Ukraine.
Nga chủ yếu dựa vào đường sắt để di chuyển các thiết bị quân sự của mình. Cây cầu nằm cách biên giới chỉ 4 km trên một tuyến đường sắt đi về phía nam vào Ukraine và nằm trên đường cung cấp giữa Nga và thành phố Izyum gần Donbas, nơi Nga vừa chiếm được.
Tình báo Ukraine đã cảnh báo rằng Nga có thể đang chuẩn bị các cuộc tấn công “giả” để có thể biện minh cho một cuộc tấn công mới trong những tuần tới.
Hôm thứ Ba Vladimir Putin cho biết cuộc chiến sẽ tiếp tục “cho đến khi hoàn thành hoàn toàn các mục tiêu”, đồng thời đổ lỗi cho phương Tây đã buộc Nga tấn công Ukraine. Ông cũng bác bỏ bằng chứng cho thấy binh lính Nga phạm tội ác chiến tranh ở thị trấn Bucha của Ukraine.
Các quan chức Ukraine nói rằng Nga có thể tìm cách thúc đẩy dư luận ủng hộ cuộc chiến bằng cách dàn dựng các cuộc tấn công mà sau đó có thể đổ lỗi cho Ukraine.
Thiếu tướng Kyrylo Budanov, người đứng đầu cơ quan tình báo Ukraine, cho biết: “Các cơ quan tình báo Nga đang lên kế hoạch cho một loạt các cuộc tấn công khủng bố bằng việc đánh bom và xâm phạm các tòa nhà dân cư, bệnh viện và trường học tại các khu định cư của Nga”.
Ông nói thêm rằng Belgorod, cùng với các thành phố ở Crimea, có thể nằm trong số các thành phố bị nhắm mục tiêu. Ông nói: “Các đường hào đang được đào tích cực ở các khu vực Belgorod và Kursk, có sự hoảng loạn về một cuộc tấn công tưởng tượng của các tiểu đoàn quân tình nguyện Ukraine,” ông nói.
Trước đó, Nga tuyên bố rằng Ukraine đã nhắm mục tiêu vào một kho chứa nhiên liệu trong một cuộc không kích bằng trực thăng hồi đầu tháng. Ukraine phủ nhận trách nhiệm về cuộc tấn công đó. Một quan chức cấp cao nói rằng “bất cứ điều gì xảy ra trên lãnh thổ của Nga là trách nhiệm của Nga”.
Khi Nga chuyển quân sang phía đông, có những dấu hiệu cho thấy quân đội nước này đang tăng cường kiểm soát ở các khu vực biên giới của mình.
Sáu khu vực của Nga ở biên giới với Ukraine đã nâng mức độ đe dọa khủng bố của họ vào hôm thứ Hai, với lý do lo ngại về “các cuộc khiêu khích”. Các bức ảnh cho thấy các trạm kiểm soát phương tiện mới đã được dựng lên ở khu vực Kursk và Belgorod, trong đó cảnh sát dừng các tài xế và thực hiện khám xét xe.
Hôm thứ Ba, tại Belgorod, một thành phố của Nga nằm cách biên giới chỉ 18 dặm, thị trưởng đã kêu gọi người dân địa phương tham gia các nhóm canh gác khu phố. “Các nhiệm vụ… bao gồm tuần tra đường phố vào buổi tối và ban đêm, cũng như giúp cảnh sát bảo đảm luật pháp và trật tự”.
Khu vực Belgorod cũng đã cấm sử dụng pháo và pháo hoa “để không làm mọi người sợ hãi với những âm thanh lớn không cần thiết”.
Riêng tại Belarus, nhóm “phiến quân đường sắt” đã thực hiện hơn chục hành động phá hoại trong những tuần đầu của cuộc chiến, trong nỗ lực làm gián đoạn các chuyến tàu tiếp tế đi từ Belarus tới các đơn vị của Nga đóng quân ở miền bắc Ukraine.
Các cuộc tấn công vào các nhà ga trung chuyển và các cơ sở hạ tầng khác đã nhanh chóng đóng cửa các tuyến đường chính, bao gồm tuyến từ Minsk đến thành phố Chernihiv bị bao vây của Ukraine.
Vào tháng Giêng, các đảng đối lập Belarus phản đối Alexander Lukashenko nói với Guardian rằng họ đã hack hệ thống đường sắt của nước này trong nỗ lực phá vỡ sự tích lũy quân sự của Nga trước cuộc xâm lược Ukraine.
Tổng thống Belarus, Alexander Lukashenko, đã bảo vệ cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine, cho rằng đây là một cuộc tấn công phủ đầu nhằm ngăn chặn mưu toan của phương Tây.
2. Ngũ Giác Đài lo ngại về khả năng Nga sử dụng vũ khí hóa học ở Ukraine
Ngũ Giác Đài không thể xác nhận các báo cáo rằng lực lượng Nga đã sử dụng vũ khí hóa học ở Mariupol, nhưng các quan chức vẫn lo ngại về khả năng Nga sử dụng một cuộc tấn công có thể có liên quan đến các chất hóa học.
Thiếu tướng John Kirby, phát ngôn nhân Ngũ Giác Đài, cho biết như trên.
Tướng Kirby nói: “Những báo cáo này, nếu là sự thật, thể hiện sự quan tâm sâu sắc và phản ánh những lo ngại mà chúng tôi có về khả năng Nga sử dụng nhiều loại chất kiểm soát bạo loạn, bao gồm cả hơi cay trộn với các chất hóa học”.
Theo Kirby, Ngũ Giác Đài sẽ theo dõi tình hình chặt chẽ.
Andriy Biletsky, chỉ huy Lữ đoàn Azov cho biết, quân đội Nga ở Mariupol đã sử dụng một loại chất kịch độc không rõ nguồn gốc, được thả từ một chiếc máy bay không người lái.
3. Lực lượng Ukraine 'chiến đấu dưới bom từng mét thành phố' ở Mariupol
Quân đội do Nga hậu thuẫn đang chuẩn bị tiến vào khu công nghiệp Azovstal, khu vực duy nhất ở cảng Mariupol bị bao vây vẫn do lực lượng Ukraine kiểm soát.
Trận chiến giành Mariupol dường như đang đi đến giai đoạn quyết định, với việc thủy quân lục chiến Ukraine tập trung tại quận Azovstal.
Nếu người Nga chiếm được Azovstal, họ sẽ có toàn quyền kiểm soát Mariupol, là vùng đệm giữa các khu vực do Nga nắm giữ ở phía tây và phía đông.
Các nhà báo của Reuters đi cùng phe ly khai do Nga hậu thuẫn đã nhìn thấy ngọn lửa bốc lên từ quận Azovstal, khi các binh sĩ đang chất đạn vào xe thiết giáp trước khi tiến ra chiến tuyến.
Thành phố đã trở nên hoang phế sau nhiều tuần hứng chịu các cuộc oanh tạc của Nga khiến hàng nghìn dân thường thiệt mạng.
Trong khi đó, một cố vấn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy đã bày tỏ lòng biết ơn đối với quân đội Ukraine đang bảo vệ Mariupol nhưng thừa nhận rằng họ đang cạn kiệt nguồn cung ứng.
Ông Alexei Arestovich cho biết:
“Trong hơn 1 tháng rưỡi, quân phòng thủ của chúng ta đã bảo vệ thành phố khỏi quân đội Nga, đông gấp 10 lần. Họ đang chiến đấu dưới bom cho từng mét của thành phố. Họ khiến Nga phải trả một cái giá cắt cổ”.
“Các binh sĩ của chúng ta vẫn bị phong tỏa và gặp vấn đề với nguồn cung cấp, đồng thời cho biết thêm rằng tổng thống Zelenskyy và bộ tổng tham mưu Ukraine đang làm việc” để tìm ra giải pháp và giúp đỡ những người của chúng ta”.
4. Thủ tướng Anh hội đàm với tổng thống Mỹ
Thủ tướng Anh, Boris Johnson, đã nói chuyện với Tổng thống Mỹ, Joe Biden, hôm nay để thảo luận về việc tăng cường hỗ trợ quân sự và kinh tế cho Ukraine cũng như sự cần thiết phải chấm dứt sự phụ thuộc của phương Tây vào dầu khí của Nga.
Trong một tuyên bố, văn phòng Thủ tướng cho biết:
“Các nhà lãnh đạo đã thảo luận về sự cần thiết phải tăng tốc hỗ trợ cho Ukraine, bao gồm tăng cường hỗ trợ quân sự và kinh tế, khi các lực lượng Ukraine chuẩn bị cho một cuộc tấn công tấn công khác của Nga ở phía đông đất nước.”
Hai bên cũng đồng ý tiếp tục các nỗ lực chung để tăng các áp lực kinh tế đối với Vladimir Putin và dứt khoát chấm dứt sự phụ thuộc của phương Tây vào dầu khí của Nga.
5. Lực lượng biên phòng Ukraine cho biết hơn 870,000 tị nạn quay lại Ukraine
Lực lượng biên phòng Ukraine cho biết hơn 870.000 người chạy ra nước ngoài kể từ khi Nga xâm lược đã trở về nước, bao gồm một số lượng ngày càng tăng phụ nữ và trẻ em.
Phát ngôn nhân của lực lượng biên phòng Andriy Demchenko cho biết hiện có khoảng 25,000 đến 30,000 người Ukraine đang trở về mỗi ngày.
Demchenko nói:
Họ nói rằng họ thấy rằng tình hình đã an toàn hơn, đặc biệt là ở các khu vực phía Tây và họ không thể ở lại nước ngoài được nữa.
Họ đã sẵn sàng trở về nước và ở lại đây.
Sự thay đổi này diễn ra sau khi các lực lượng Nga rút lui khỏi khu vực Kiev của Ukraine để chuẩn bị cho việc tăng cường tấn công ở phía đông đất nước.
Bộ Nội vụ Ukraine hồi đầu tháng cho biết 537,000 người đã trở về Ukraine sau khi chạy ra nước ngoài.
6. Xe tăng Nga bắn thẳng vào trụ sở Caritas, hai nhân viên và 5 người thân của họ đã thiệt mạng tại thành phố Mariupol của Ukraine.
Agence France-Presse đưa tin Caritas cho biết trong một tuyên bố: “Vụ tấn công bi thảm có thể đã xảy ra vào ngày 15 tháng 3, khi một chiếc xe tăng của Nga bắn vào tòa nhà của trung tâm Caritas ở Mariupol.”
Một báo cáo trên cổng thông tin của Vatican, Vatican News, cho biết chiếc xe tăng này là của Nga, trích dẫn “các nguồn Caritas địa phương”.
Khó khăn trong việc giao tiếp với những người bên trong thành phố bị bao vây khiến cho thông tin chi tiết về thương vong của dân thường rất khan hiếm và khó xác minh. Thị trưởng Mariupol đã đưa ra con số thiệt mạng lên tới hơn 10,000 người.
Caritas International cho biết họ không thể nói chắc chắn điều gì đã xảy ra, nhưng họ tin rằng hai nữ nhân viên “và gia đình của họ đã trú ẩn trong trung tâm khi cuộc tấn công xảy ra”.
Ông Aloysius John, tổng thư ký Caritas Internationalis, cho biết: “Tin tức bi thảm này khiến gia đình Caritas kinh hoàng và sốc nặng.” Ông mạnh mẽ chỉ trích “cuộc tàn sát bừa bãi thường dân vô tội” của Nga.
1. Giám Mục Brooklyn kinh hoàng trước vụ xả súng ngày Thứ Ba Tuần Thánh
Đức Cha Robert Brennan của Brooklyn đã kêu gọi cầu nguyện cho những người bị thương trong vụ xả súng tại ga tàu điện ngầm ở thành phố New York hôm thứ Ba, và cho những người phản ứng đầu tiên và các công nhân vận chuyển.
“Vào ngày thứ Ba Tuần Thánh này, thành phố của chúng ta đã phải hứng chịu một cuộc tấn công khủng khiếp nhằm vào những người dân New York đang cố gắng đi làm. Chúng ta hãy nhiệt thành cầu nguyện cho nhiều người bị bắn và bị thương trong ga tàu điện ngầm Sunset Park”, Đức Cha Brennan nói hôm 12 tháng Tư.
“Lạy Chúa, xin hãy giúp đỡ những bàn tay chữa lành đang chăm sóc các nạn nhân và bảo vệ các nhân viên thực thi pháp luật đang cố gắng xác định vị trí của nghi phạm trong vụ xả súng này. Chúng con biết ơn vì lòng dũng cảm và sự phục vụ của họ đã bảo vệ chúng con. Và xin Chúa hãy giữ cho tất cả chúng con được an toàn trong vòng tay của Ngài”.
Trước đó, Đức Cha đã tweet rằng “Tôi rất kinh hoàng trước vụ nổ súng tấn công vào sân ga tàu điện ngầm ở Công viên Sunset vào sáng nay. Chúng ta hãy nhiệt thành cầu nguyện cho những người bị thương và với lòng biết ơn, chúng ta hãy cầu nguyện cho sự an toàn của những người ứng cứu đầu tiên và các nhân viên vận chuyển”.
Ít nhất 16 người bị thương trong một vụ nổ súng trên một chuyến tàu tại ga đường số 36 vào khoảng 8:30 sáng Thứ Ba. Mười trong số những người bị thương đã bị bắn. Những người khác bị thương do xô đẩy trong lúc náo loạn.
Kẻ bắn súng bừa bãi, đã ném một quả bom khói để đánh lạc hướng đám đông tại tàu điện ngầm. Hung thủ là một người đàn ông mặc áo công sở và đeo mặt nạ phòng độc.
Đức Cha Brennan đã đến thăm Công viên Sunset, khu phố Brooklyn, nơi xảy ra vụ xả súng, vào chiều nay. Ngài cũng đến Quận 72 của Sở Cảnh sát Thành phố New York, và đến giáo xứ Thánh Michael.
Đức Hồng Y Timothy Dolan của tổng giáo phận New York, bao gồm các quận Manhattan, Bronx, và Đảo Staten của Thành phố New York, đã tweet: “Lời cầu nguyện của tôi cho tất cả những người bị thương trong vụ tấn công kinh hoàng hôm nay trên tàu điện ngầm ở Brooklyn, và cho Sở Cảnh Sát New York, các nhân viên cấp cứu và những người phản ứng đầu tiên khác. Giáo hội sẵn sàng hỗ trợ bằng mọi cách có thể.”
Source:Catholic News Agency
2. Thư các Giám Mục thế giới khẳng định: 'Tiến Trình Công Nghị' Đức đã lầm đường lạc lối
Hơn 70 giám mục từ khắp nơi trên thế giới đã công bố một “bức thư ngỏ trong tình huynh đệ” cho các giám mục của Đức cảnh báo rằng những thay đổi sâu rộng và liên tục đối với giáo huấn của Giáo hội được ủng hộ bởi cái được gọi là “Tiến Trình Công Nghị” có thể dẫn đến ly giáo.
Bức thư bày tỏ “mối quan tâm ngày càng tăng của chúng tôi về bản chất của toàn bộ Tiến Trình Công Nghị của Đức,” mà những người ký tên cho rằng đã dẫn đến sự lầm lạc và hoang mang về giáo huấn của Giáo hội và dường như tập trung nhiều hơn vào ý muốn của con người hơn là thánh ý của Thiên Chúa.
“Không lắng nghe Chúa Thánh Thần và Tin Mừng, các hành động của Tiến Trình Công Nghị làm suy yếu uy tín của thẩm quyền Giáo Hội, bao gồm cả quyền lực của Đức Giáo Hoàng Phanxicô; Nhân học Kitô giáo và luân lý tình dục; và độ tin cậy của Kinh thánh,” lá thư viết.
“Trong khi trình bày một lượng lớn các ý tưởng và từ vựng tôn giáo, các tài liệu về Tiến Trình Công Nghị Đức dường như phần lớn không được lấy cảm hứng từ Kinh thánh và Truyền thống - mà đối với Công đồng Vatican II, là 'một kho tàng thiêng liêng duy nhất của Lời Chúa' – nhưng được lấy từ các phân tích xã hội học và chính trị đương đại, bao gồm cả ý thức hệ giới tính.”
“Họ nhìn Giáo hội và sứ mệnh của Giáo hội qua lăng kính của thế giới hơn là qua lăng kính của những chân lý được mạc khải trong Kinh thánh và Truyền thống có thẩm quyền của Giáo hội.”
Bức thư đã được công bố hôm thứ Ba 12 tháng Tư. Những người ký ban đầu bao gồm 49 giám mục Hoa Kỳ. 19 vị khác đến từ Phi Châu, trong đó có đến 14 vị từ Tanzania. Những người tổ chức bức thư đã cung cấp một địa chỉ email - Epcopimundi2022@gmail.com - mà các giám mục khác có thể sử dụng để thêm tên của các ngài vào tài liệu.
Những người ký tên ban đầu trong tài liệu bao gồm các giám mục nổi tiếng như Đức Hồng Y Raymond Burke, Đức Hồng Y George Pell, Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của San Francisco, và Đức Tổng Giám Mục Samuel Aquila của Denver.
Tháng 5 vừa qua, Đức Giám Mục Aquila đã công bố một bài bình luận dài 15 trang của riêng mình về văn bản đầu tiên của Tiến Trình Công Nghị, trong đó ngài nói rằng Tiến Trình Công Nghị Đức đưa ra những đề xuất “không thể chấp nhận được” về những thay đổi đối với giáo huấn của Giáo hội. “Các giám mục Đức đang gieo rắc sự bối rối cho toàn thể Giáo hội và điều này sẽ khiến mọi giám mục lo lắng,” ngài nói trong một tuyên bố liên quan đến lá thư vừa được công bố của các giám mục thế giới.
Một giám mục khác đã ký vào bức thư, Đức Cha Thomas Paprocki của Springfield, Illinois, đã đưa ra tuyên bố sau: “Tiến Trình Công Nghị Đức đã đi xa khỏi con đường của tính đồng nghị đích thực và đã tự đối lập với các chân lý đức tin Công Giáo của chúng ta như đã dạy qua các thế kỷ từ Kinh thánh và Truyền thống. Với tinh thần sửa sai huynh đệ và sự hợp nhất với các giám mục từ khắp nơi trên thế giới, tôi khuyến khích các Giám mục Đức quay trở lại với niềm tin đích thực như Chúa Giêsu Kitô đã trao cho chúng ta”.
Chủ tịch hội đồng giám mục Công Giáo Ba Lan và các giám mục Bắc Âu cũng bày tỏ quan ngại tương tự. Nhóm thứ hai đã đưa ra một bức thư ngỏ cảnh báo chống lại điều mà các ngài gọi là “đầu hàng theo tinh thần thời đại” và “làm nghèo đi nội dung đức tin của chúng ta”.
Chân lý được Thiên Chúa mạc khải không thể thay đổi
Phương thức Tiến Trình Công Nghị Đức là một quá trình kéo dài nhiều năm gây tranh cãi, quy tụ các giám mục và giáo dân của Đức để thảo luận về cách thức thực thi quyền lực trong Giáo hội, luân lý tình dục, chức tư tế và vai trò của phụ nữ.
Tiến Trình Công Nghị này bao gồm các giám mục Đức, 69 thành viên của Ủy ban Trung ương Giáo dân rất có quyền lực của người Công Giáo Đức, gọi tắt là ZdK, và đại diện của các bộ phận khác trong Giáo hội Đức.
Vào tháng Hai, Tiến Trình Công Nghị đã bỏ phiếu ủng hộ các dự thảo văn bản kêu gọi chúc lành cho các kết hiệp đồng tính và thay đổi Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo về đồng tính luyến ái.
Gần đây hơn, trong một cuộc phỏng vấn được công bố vào ngày 31 tháng 3, Đức Hồng Y Reinhard Marx đã khẳng định rằng giáo lý của Giáo lý về đồng tính luyến ái là “không có cơ sở” và “người ta được phép nghi ngờ những gì sách giáo lý nói”.
Bức thư dài 859 không sa đà vào chi tiết những thay đổi cụ thể đối với giáo huấn của Giáo hội mà Tiến Trình Công Nghị Đức đòi hỏi. Thay vào đó, bức thư chỉ trích rộng rãi đường lối của Tiến Trình Công Nghị và nội dung của các tài liệu dự thảo của nó. Bức thư lập luận rằng “Một sai lầm đáng kể”, trong những văn bản này, là thay vì thể hiện “niềm vui của Tin Mừng,” chúng mang dấu hiệu “chỉ trích một cách ám ảnh và có cái nhìn hướng nội” trong một quá trình quan liêu chủ yếu tập trung vào một cái gì đó khác hơn là phần rỗi của các linh hồn.
Bức thư nhận xét rằng, “Về mặt tác dụng Tiến Trình Công Nghị thể hiện sự phục tùng và vâng lời đối với thế giới và các ý thức hệ hơn là đối với Chúa Giêsu Kitô với tư cách là Chúa và là Đấng Cứu thế.”
Lưu ý rằng tự do đích thực không giống như “quyền tự chủ”, và lương tâm của một người không xác định sự thật, bức thư lập luận rằng Tiến Trình Công Nghị đã lạc xa thực tế rằng một “lương tâm Kitô được hình thành đúng đắn vẫn phải tuân theo sự thật về bản chất con người và các chuẩn mực của lối sống công chính do Thiên Chúa mạc khải và được Giáo hội của Chúa Kitô dạy bảo. “
Bức thư viết, “Chúa Giêsu là sự thật, là Đấng giải thoát chúng ta (Ga 9).”
Tương tự như vậy, liên quan đến các câu hỏi về việc điều hành của Giáo hội thể chế, lá thư kêu gọi các giám mục Đức nhớ rằng “việc cải cách các cấu trúc hoàn toàn không giống như việc hoán cải trái tim.”
Trong khi thừa nhận rằng “sự thúc đẩy” để cải cách và đổi mới Giáo hội “là điều đáng ngưỡng mộ và không bao giờ nên sợ hãi”, bức thư lưu ý rằng “Lịch sử Kitô Giáo chứa đầy những nỗ lực có thiện ý nhưng đã đánh mất nền tảng của chúng nơi Lời Chúa, nơi một cuộc gặp gỡ trung thành với Chúa Giêsu Kitô, nơi sự lắng nghe thực sự Chúa Thánh Thần, và nơi sự phục tùng ý chí của chúng ta theo thánh ý Chúa Cha. “
“Vì họ không để ý đến những lời của Chúa Giêsu,” Ngoài Thầy ra, anh em không thể làm gì được “(Ga 15: 5), nên chúng đã ra vô hiệu và làm hỏng cả sự hiệp nhất và sức sống Tin Mừng của Giáo Hội”
“Con đường Tiến Trình Công Nghị của Đức có nguy cơ dẫn đến chính xác một con đường bế tắc như thế.”
Source:Catholic News Agency
3. 'Một ý tưởng không đúng lúc': Nhà lãnh đạo Công Giáo Ukraine lo ngại về Đàng Thánh Giá Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh của Đức Giáo Hoàng tại Côlôsêô
Hôm thứ Ba, nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương đã bày tỏ lo ngại về kế hoạch cho các gia đình Ukraine và Nga cùng nhau vác thánh giá tại các các chặng Đàng Thánh Giá do Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự tại Đấu trường La Mã vào Thứ Sáu Tuần Thánh.
Theo một tuyên bố báo chí ngày 12 tháng 4 từ Văn phòng Thư ký ở Rôma của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk cho biết: “Tôi coi một ý tưởng như vậy là không đúng lúc, mơ hồ và nó không tính đến bối cảnh Nga đang xâm lược quân sự chống lại Ukraine.”
“Đối với những người Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, các văn bản và cử chỉ của chặng thứ 13 trong Đàng Thánh Giá này là không mạch lạc và thậm chí gây khó chịu, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc tấn công thứ hai, thậm chí đẫm máu hơn của quân đội Nga vào các thành phố và làng mạc của chúng tôi. Tôi biết rằng những người anh em Công Giáo Rôma của chúng tôi chia sẻ những suy nghĩ và mối quan tâm này”.
Sự can thiệp của Đức Tổng Giám Mục Shevchuk xảy ra sau phản kháng của Andrii Yurash, tân đại sứ Ukraine cạnh Tòa thánh. Vị tân Đại Sứ bày tỏ lo ngại về Đàng Thánh Giá này trong một bài đăng trên mạng xã hội hôm thứ Ba. Ông Andrii viết rằng “chúng tôi đang giải quyết vấn đề này, cố gắng giải thích những khó khăn trong việc tiếp nhận nó và những hậu quả có thể xảy ra.”
Hôm thứ Hai, Vatican đã công bố các bài suy niệm và cầu nguyện cho Via Crucis, hay Đàng Thánh Giá của Đức Giáo Hoàng, trong đó tập trung vào nhiều “thập giá” trong cuộc sống gia đình.
Ở thứ 13, “Chúa Giêsu chết trên Thánh giá”, một gia đình Ukraine và một gia đình Nga đã đọc một bài suy niệm mà họ đã viết cùng nhau về cuộc sống của họ đã bị tàn phá bởi nỗi đau chiến tranh như thế nào.
“Chết chóc ở khắp mọi nơi. Cuộc sống dường như mất đi giá trị của nó. Mọi thứ thay đổi trong vài giây. Cuộc sống của chúng con, những ngày của chúng con, tuyết mùa đông vô tư, đưa lũ trẻ đến trường, đi làm, những cái ôm, tình bạn... mọi thứ. Mọi thứ bỗng nhiên mất đi ý nghĩa và giá trị. “Ngài đang ở đâu? Chúa đang trốn ở đâu? Chúng con muốn cuộc sống của chúng con trở lại như trước. Tại sao tất cả những điều này xảy ra? Chúng con đã làm gì sai? Tại sao Chúa từ bỏ chúng con? Tại sao Chúa từ bỏ dân tộc của chúng con? Tại sao Chúa lại phân rẽ gia đình của chúng con như thế này? Tại sao chúng con không còn khao khát ước mơ và tiếp tục sống? Tại sao vùng đất của con lại trở nên tối tăm như Golgotha?” Chúng con không còn nước mắt. Sự tức giận đã nhường chỗ cho sự cam chịu. Lạy Chúa, chúng con biết rằng Chúa yêu thương chúng con, nhưng chúng con không cảm nhận được tình yêu này và nó đẩy chúng con đến chỗ tuyệt vọng. Chúng con thức dậy vào buổi sáng và cảm thấy hạnh phúc trong một vài khoảnh khắc, nhưng sau đó chúng con đột nhiên nghĩ rằng sẽ khó khăn như thế nào để bản thân có thể chấp nhận tất cả những hiện thực này. Chúa ơi, Chúa đang ở đâu? Xin hãy nói chuyện với chúng con giữa sự im lặng của chết chóc và chia rẽ, và dạy chúng con trở thành những người kiến tạo hòa bình, những người anh chị em và xây dựng lại những gì bom đạn đã cố gắng phá hủy.”
Lời cầu nguyện sau bài suy niệm gọi cạnh sườn Chúa bị lưỡi đòng đâm thâu qua là nguồn hòa giải cho tất cả các dân tộc; và cầu xin cho “các gia đình bị tàn phá bởi nước mắt và máu có thể tin vào sức mạnh của sự tha thứ và làm cho tất cả chúng con trở thành những người kiến tạo hòa bình và hòa hợp.”
Hai gia đình dự kiến sẽ cùng nhau vác một cây thánh giá bằng gỗ ở chặng thứ 13 ở Đấu trường La Mã trước khi chuyển nó cho một gia đình người di cư, những người sẽ vác cây thánh giá đến chặng cuối cùng.
Ban thư ký của Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương ở Rôma cho biết Đức Tổng Giám Mục Shevchuk đã thúc giục Vatican xem xét lại kế hoạch sau khi ngài “nhận được nhiều lời kêu gọi từ các tín hữu của Giáo hội và xã hội dân sự, cả từ Ukraine và nước ngoài,” yêu cầu ngài “chuyển tới Đức Thánh Cha sự phẫn nộ và bác bỏ kế hoạch này của người Ukraine trên khắp thế giới”.
“Người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương nói rằng ngài đã truyền đạt cho Vatican vô số phản ứng tiêu cực của nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân, những người tin chắc rằng các cử chỉ hòa giải giữa các dân tộc của chúng ta sẽ chỉ có thể thực hiện được khi chiến tranh kết thúc và những kẻ phạm tội chống lại loài người phải bị lên án một cách chính đáng.”
Source:Catholic News Agency
Được đi lại trên chính con đường thương khó Chúa đã đi qua là một kinh nghiệm sâu sắc thay đổi cuộc đời biết bao người hành hương đến Giêrusalem. Còn đặc biệt hơn nếu cuộc hành hương ấy được diễn ra ngay trong Tuần Thánh, là cao điểm của Phụng Vụ Kitô Giáo trong đó chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó, cái chết và sự Phục sinh của Chúa Kitô. Chính vì thế hàng năm từ hàng chục đến hàng trăm ngàn người đổ xô về Thánh Địa Giêrusalem để tham dự các nghi lễ tại đây bất chấp tình hình an ninh bấp bênh và những căng thẳng trong khu vực giữa người Do Thái và người Palestine vẫn rất cao.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Lúc 8h sáng thứ Năm 14 tháng Tư, tại nhà thờ Mộ Thánh, Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa cử hành thánh lễ Tiệc Ly ngày thứ Năm Tuần Thánh. Trong Thánh Lễ, Đức Thượng Phụ cũng lặp lại nghi thức rửa chân. Sau đó, ngài làm phép các loại dầu thánh cho các bệnh nhân và cho các tân tòng, và dầu thánh hiến.
Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là cảnh Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa chủ sự buổi rước kiệu Mình Thánh Chúa chung quanh Edicule, tức là phòng nhỏ bao quanh mộ Chúa.
Không phải người hành hương nào đến Giêrusalem cũng có may mắn bước vào trong Mộ Thánh.
Thật vậy, theo thỏa ước Nguyên Trạng do Hoàng Đế Thổ Nhĩ Kỳ Osamn Đệ Tam đưa ra vào năm 1853, Công Giáo nghi lễ La Tinh, Chính Thống Giáo Hy Lạp, Chính Thống Giáo Coptic, Chính Thống Giáo Syria và Giáo Hội Armenia Tông Truyền đều có quyền ngang nhau trong việc coi sóc và cử hành các lễ nghi Phụng Vụ tại đây.
May mắn là năm nay Tuần Thánh của Chính Thống Giáo theo lịch Julian diễn ra một tuần sau Tuần Thánh của Công Giáo theo lịch Gregorian. Cho nên, các Giáo Hội Chính Thống và Armenia Tông Truyền không sử dụng đền thờ trong những ngày này.
Nhân đây chúng tôi cũng xin trình bày một vài nét về Nhà thờ Thánh Mộ.
Nhà thờ Thánh Mộ - Holy Church of the Holy Sepulchre là danh từ của Công Giáo, người Chính Thống Giáo Hy Lạp và Giáo Hội Armenia Tông Truyền gọi là nhà thờ Phục sinh – Holy Church of Resurrection - nằm phía bên trong bức tường than khóc trong khu vực cổ thành Giêrusalem, kế cận với đồi Golgotha (hay còn gọi là đồi Can Vê nơi Chúa Giêsu đã bị đóng đinh vào thập giá). Theo truyền thống, nhà thờ đã được xây dựng trên khu mộ Chúa Giêsu đã được táng xác.
Trong những thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, đây được xem là nơi thánh thiêng bậc nhất của Kitô Giáo. Thế nhưng đến thế kỷ thứ hai, hoàng đế Hadrianus đã cố ý cho đổ đất lấp hết những dấu tích của Kitô giáo, rồi xây đền thờ nữ thần Aphrodite, là một thứ nữ thần sắc đẹp như kiểu thần Vệ Nữ.
Sau khi đón nhận đức tin Công Giáo, năm 325, Đại Đế Constantine đã truyền phá hủy đền thờ nữ thần Aphrodite và cho đào bới khu vực này để tìm lại các dấu tích thánh thiêng của Kitô Giáo. Mẹ nhà vua là nữ hoàng Helena đã hiện diện từ năm 326 tại địa điểm này để đích thân giám sát các cuộc khai quật và xây dựng nhà thờ mới.
Theo dòng lịch sử, Giêrusalem đã bị phá hủy ít nhất hai lần, bị bao vây 23 lần, bị tấn công 52 lần, và bị chiếm và tái chiếm lại 44 lần. Số phận của ngôi nhà thờ này cũng trôi nổi theo những thăng trầm của thành Thánh Giêrusalem.
Ngôi nhà thờ mà chúng ta thấy hiện nay đã được tái thiết từ đống tro tàn vào thế kỷ thứ 12.
Thỏa ước Nguyên Trạng do Hoàng Đế Thổ Nhĩ Kỳ Osamn Đệ Tam đưa ra vào năm 1853, quy định rằng Công Giáo nghi lễ La Tinh, Chính Thống Giáo Hy Lạp, Chính Thống Giáo Coptic, Chính Thống Giáo Syria và Giáo Hội Armenia Tông Truyền đều có quyền ngang nhau trong việc coi sóc và cử hành các lễ nghi Phụng Vụ tại đây.
Thỏa ước cũng quy định một điều trái khoáy là việc giữ chìa khoá nhà thờ được trao cho 2 gia đình Hồi Giáo.
Ngày nay, nhà thờ này cũng được dùng làm trụ sở Tòa Thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp ở Giêrusalem.
Một phần quan trọng nhất trong nhà thờ này là 5 chặng cuối trong 14 chặng Đàng Thánh Giá, và Bàn Thờ Thánh Nữ Maria Mađalêna theo truyền thống là nơi Chúa Giêsu đã gặp thánh nữ sau khi Người từ cõi chết sống lại.
Trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, cuộc đi đàng Thánh Giá do các Hiệp Sĩ Thánh Mộ, tức là các linh mục tu sĩ dòng Phanxicô tại Giêrusalem, chủ sự diễn ra lúc 11 giờ sáng sẽ kết thúc với 5 chặng bên trong nhà thờ này.
Trở lại với các nghi thức ngày thứ Năm Tuần Thánh.
Lễ kỷ niệm kết thúc với một cuộc rước dài với tất cả các vị đồng tế đi quanh mộ Chúa trong tiếng nhạc kawas và âm thanh trầm buồn của bình ca.
Theo thỏa ước Nguyên Trạng, hôm nay là ngày các linh mục tu sĩ dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa được giữ chìa khóa để mở cửa đền thờ Mộ Thánh cho buổi chầu Thánh Thể tổ chức lúc 2:45 chiều.
Lúc 9 giờ tối, cha Francesco Patton là Custos tức là trưởng đoàn hiệp sĩ Thánh Mộ đã chủ sự đêm canh thức cùng với Chúa Giêsu tại vườn Giệtsimani.