Phụng Vụ - Mục Vụ
Một suy nghĩ đáng sợ
Lm. Minh Anh
04:17 13/04/2022
MỘT SUY NGHĨ ĐÁNG SỢ
“Thưa Thầy, có phải con không?”, Chúa đáp, “Đúng như con nói!”.
Blaise Pascal nhận định, “Quả là một sự dữ khi mắc đầy lầm lỗi, nhưng sẽ là một sự dữ lớn hơn khi đầy lầm lỗi mà không nhận ra chúng!”. Như vậy, tệ hơn biết mấy, khi biết đó là lầm lỗi nhưng từ chối nhìn nhận nó và vờ nghĩ rằng, nó không phải là tội. Đó là ‘một suy nghĩ đáng sợ!’.
Kính thưa Anh Chị em,
Phủ nhận, nếu được viết ra dưới dạng viết tắt, cách nào đó, nó có nghĩa là, “Tôi thậm chí không biết mình đang nói dối!”. Phải chăng Giuđa vì đã đắm chìm trong tội lỗi của ông, ông sa lầy đến nỗi không thể thừa nhận với chính mình, chứ đừng nói thừa nhận với người khác; rằng, ông đang nói dối và chuẩn bị phản bội Thầy mình vì tiền. Đúng là ‘một suy nghĩ đáng sợ!’.
Nó đáng sợ vì nó tiết lộ một trong những hậu quả của tội lỗi là ‘sự dai dẳng’. Tội lỗi dai dẳng đeo bám làm cho việc phạm tội trở nên dễ dàng hơn! Và cuối cùng, khi cố chấp trong cùng một tội, tội đó dễ dàng được hợp lý hoá, biện minh và ‘được’ phủ nhận hoàn toàn là tội. Một khi mắc kẹt trong vòng xoáy tội lỗi dai dẳng này, một vòng xoáy luôn đi xuống, thật khó để người ta có thể thoát ra! Và thường, cách duy nhất để tồn tại trong tâm lý là tiếp tục phủ nhận, và phủ nhận!
Đây là một bài học quan trọng cho chúng ta trong Tuần Thánh này. Tội lỗi không bao giờ là điều thú vị khi nhìn vào nó; phải hết sức can đảm mới có thể đối diện nó! Nhưng chúng ta thử tưởng tượng, nếu Giuđa thực sự thú nhận những gì ông sắp làm; hoặc nếu Giuđa sấp mình dưới chân Chúa Giêsu, trước các đồng môn, nói cho Thầy và anh em biết toàn bộ sự thật… thì có lẽ, hành động lương thiện này đã cứu được linh hồn vĩnh cửu và mạng sống của ông. Điều này rất đau đớn và nhục nhã, nhưng nếu vượt qua được, thì đó là một việc làm không thể đúng đắn hơn!
Điều này cũng đúng với chúng ta! Có lẽ chúng ta không ở vào thời điểm mà tội có thể dẫn chúng ta đến sự phản bội Chúa Giêsu hoàn toàn như Giuđa; nhưng mỗi người đều có thể tìm thấy một số loại hình tội lỗi của mình trong Tuần Thánh này. Bạn và tôi, chúng ta hãy tìm cách khám phá, với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, một số ‘nếp tội’ hoặc thói quen xấu vốn đã hình thành. Đây sẽ là một khám phá tuyệt vời nếu chúng ta có thể đối mặt tội lỗi ‘đầu nậu’ này với lòng trung thực và sự dũng cảm. Điều này cho phép bạn bóc trần mọi tội lỗi của mình, và cho phép bạn chiến thắng nó, để khám phá sự tự do mà Chúa Kitô Phục Sinh muốn bạn trải nghiệm!
Anh Chị em,
“Thưa Thầy, có phải con không?”, câu nói buồn nhất này hẳn đã làm trái tim Chúa Giêsu tổn thương sâu sắc khi chứng kiến việc phủ nhận tội mình nơi Giuđa. Cũng thế, nhiều lần phủ nhận tội mình, nên chúng ta không thành tâm thống hối. Hãy biến Tuần Thánh này thành thời gian cho sự trung thực và chính trực. Lòng thương xót Chúa sâu sắc và thuần khiết đến nỗi, nếu hiểu được nó, không ai cần phải tiếp tục phủ nhận tội mình dưới bất cứ hình thức nào, ‘một suy nghĩ đáng mừng!’. Chúa Giêsu sẵn sàng ‘nâng đỡ sự nhọc nhằn’ của chúng ta, Ngài là vị Thiên Sai nhân ái; Isaia hôm nay cho biết, “Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn”. Từ đó, mỗi người có thể thưa lên, “Lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân, xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày!” như tâm tình tạ ơn của Thánh Vịnh đáp ca.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, vẫn còn kịp! Xin giúp con dám sấp mình trước toà Cáo Giải ngay hôm nay; ở đó, Chúa Xót Thương đang đợi để ôm lấy con; và con sẽ trải nghiệm thế nào là tự do!”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Thưa Thầy, có phải con không?”, Chúa đáp, “Đúng như con nói!”.
Blaise Pascal nhận định, “Quả là một sự dữ khi mắc đầy lầm lỗi, nhưng sẽ là một sự dữ lớn hơn khi đầy lầm lỗi mà không nhận ra chúng!”. Như vậy, tệ hơn biết mấy, khi biết đó là lầm lỗi nhưng từ chối nhìn nhận nó và vờ nghĩ rằng, nó không phải là tội. Đó là ‘một suy nghĩ đáng sợ!’.
Kính thưa Anh Chị em,
Ý tưởng của Pascal lộ nguyên hình nơi con người Giuđa qua Tin Mừng hôm nay, “Thưa Thầy, có phải con không?”. Giuđa có phủ nhận không? Giuđa có thực sự nghĩ rằng, ông không phản bội? Chúng ta không biết chắc chắn điều đang diễn ra trong tâm trí Giuđa; nhưng rõ ràng là, Giuđa đã phản bội! Thế nhưng, ông không thừa nhận điều đó với chính mình! Giuđa phủ nhận!
Phủ nhận, nếu được viết ra dưới dạng viết tắt, cách nào đó, nó có nghĩa là, “Tôi thậm chí không biết mình đang nói dối!”. Phải chăng Giuđa vì đã đắm chìm trong tội lỗi của ông, ông sa lầy đến nỗi không thể thừa nhận với chính mình, chứ đừng nói thừa nhận với người khác; rằng, ông đang nói dối và chuẩn bị phản bội Thầy mình vì tiền. Đúng là ‘một suy nghĩ đáng sợ!’.
Nó đáng sợ vì nó tiết lộ một trong những hậu quả của tội lỗi là ‘sự dai dẳng’. Tội lỗi dai dẳng đeo bám làm cho việc phạm tội trở nên dễ dàng hơn! Và cuối cùng, khi cố chấp trong cùng một tội, tội đó dễ dàng được hợp lý hoá, biện minh và ‘được’ phủ nhận hoàn toàn là tội. Một khi mắc kẹt trong vòng xoáy tội lỗi dai dẳng này, một vòng xoáy luôn đi xuống, thật khó để người ta có thể thoát ra! Và thường, cách duy nhất để tồn tại trong tâm lý là tiếp tục phủ nhận, và phủ nhận!
Đây là một bài học quan trọng cho chúng ta trong Tuần Thánh này. Tội lỗi không bao giờ là điều thú vị khi nhìn vào nó; phải hết sức can đảm mới có thể đối diện nó! Nhưng chúng ta thử tưởng tượng, nếu Giuđa thực sự thú nhận những gì ông sắp làm; hoặc nếu Giuđa sấp mình dưới chân Chúa Giêsu, trước các đồng môn, nói cho Thầy và anh em biết toàn bộ sự thật… thì có lẽ, hành động lương thiện này đã cứu được linh hồn vĩnh cửu và mạng sống của ông. Điều này rất đau đớn và nhục nhã, nhưng nếu vượt qua được, thì đó là một việc làm không thể đúng đắn hơn!
Điều này cũng đúng với chúng ta! Có lẽ chúng ta không ở vào thời điểm mà tội có thể dẫn chúng ta đến sự phản bội Chúa Giêsu hoàn toàn như Giuđa; nhưng mỗi người đều có thể tìm thấy một số loại hình tội lỗi của mình trong Tuần Thánh này. Bạn và tôi, chúng ta hãy tìm cách khám phá, với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, một số ‘nếp tội’ hoặc thói quen xấu vốn đã hình thành. Đây sẽ là một khám phá tuyệt vời nếu chúng ta có thể đối mặt tội lỗi ‘đầu nậu’ này với lòng trung thực và sự dũng cảm. Điều này cho phép bạn bóc trần mọi tội lỗi của mình, và cho phép bạn chiến thắng nó, để khám phá sự tự do mà Chúa Kitô Phục Sinh muốn bạn trải nghiệm!
Anh Chị em,
“Thưa Thầy, có phải con không?”, câu nói buồn nhất này hẳn đã làm trái tim Chúa Giêsu tổn thương sâu sắc khi chứng kiến việc phủ nhận tội mình nơi Giuđa. Cũng thế, nhiều lần phủ nhận tội mình, nên chúng ta không thành tâm thống hối. Hãy biến Tuần Thánh này thành thời gian cho sự trung thực và chính trực. Lòng thương xót Chúa sâu sắc và thuần khiết đến nỗi, nếu hiểu được nó, không ai cần phải tiếp tục phủ nhận tội mình dưới bất cứ hình thức nào, ‘một suy nghĩ đáng mừng!’. Chúa Giêsu sẵn sàng ‘nâng đỡ sự nhọc nhằn’ của chúng ta, Ngài là vị Thiên Sai nhân ái; Isaia hôm nay cho biết, “Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn”. Từ đó, mỗi người có thể thưa lên, “Lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân, xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày!” như tâm tình tạ ơn của Thánh Vịnh đáp ca.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, vẫn còn kịp! Xin giúp con dám sấp mình trước toà Cáo Giải ngay hôm nay; ở đó, Chúa Xót Thương đang đợi để ôm lấy con; và con sẽ trải nghiệm thế nào là tự do!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Người đã yêu thương họ đến cùng
Lm. Đan Vinh
04:21 13/04/2022
THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Xh 12, 1-8. 11-14.- 1 Cr 11, 23-26.- Ga 13,1-15
NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG HỌ ĐẾN CÙNG
1. LỜI CHÚA : “Đức Giê-su biết giờ của người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 12, 1).
2. CÂU CHUYỆN : TRUYỀN THUYẾT VỀ NGÀY LỄ TÌNH YÊU.
Hằng năm cứ đến ngày 14 tháng 2, các bạn trẻ lại hân hoan mừng lễ thánh VA-LEN-TINE, cũng gọi là lễ Tình Yêu. Valentine là một linh mục sống dưới thời Hoàng đế La Mã Claudiô II. Vào thế kỷ thứ III, Đế quốc La Mã phải lâm vào nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu khi đế chế bị phân chia thành 3 bang chém giết lẫn nhau., nhưng hoàng đế lại không được dân chúng ủng hộ. Do gặp nhiều khó khăntrong việc động viên các chàng trai trẻ nhập ngũ ra chiến đấu ngoài mặt trận, hoàng đế Claudiô II cho rằng nguyên nhân là do đàn ông La Mã quyến luyến và không muốn rời xa người yêu và gia đình, như vậy theo ông : hôn nhân làm cho đàn ông hoá ra hèn yếu. Vì thế Claudiô II đã ra sắc lệnh trong thời gian này cấm tổ chức các đám cưới hoặc lễ đính hôn.
Mọi người trong đế quốc đều tuân hành, nhưng chỉ có linh mục Valentine đã âm thầm chống lại sắc lệnh của vị hoàng đế hùng mạnh này và vẫn bí mật cử hành lễ cưới cho các đôi tình nhân. Khi công việc bại lộ, linh mục Valentine đã bị bắt và bị kết án tử hình bằng hình thức bị kéo lê trên mặt đường đến pháp trường và bị ném đá đến chết. Vào chiều ngày 14 tháng 2 năm 273, trước khi chịu khổ hình, ngài đã gửi tấm "thiệp Valentine" đầu tiên cho cô con gái của viên cai tù Asteriô. Cô gái này trước đó đã được ngài xin Chúa làm phép lạ chữa lành cho cô khỏi bệnh mù bẩm sinh. Tấm thiệp Valentine đầu tiên này được ký tên bằng cụm từ như sau : “from your Valentine” (Từ Valentine). Dần dần, ngày 14 tháng 2 hàng năm trở thành ngày lễ Tình Nhân và thánh Valentine trở thành vị thánh bảo trợ cho những đôi lứa yêu nhau. Trong ngày này, các đôi tình nhân sẽ gửi cho nhau tấm thiệp ký tên “From your Valentine” thay vì tên người gửi, kèm theo quà tặng truyền thống là bó hoa hồng và các món ăn khác trong đó có sô-cô-la.
3. SUY NIỆM :
- Ngày Valentine hằng năm được mọi người trên thế giới trân trọng như là lễ của tình yêu, đề cao tình yêu của một linh mục đã hy sinh chịu chết để bảo vệ cho tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, ngày Thứ Năm Tuần Thánh mới chính là ngày lễ của tình yêu tột đỉnh, để tôn vinh Chúa Giê-su – Con Thiên Chúa làm người, đã hy sinh chịu chết để ban hạnh phúc và niềm vui ơn cứu độ cho nhân loại.
- Tin Mừng Gio-an tường thuật câu chuyện tình yêu tột đỉnh của Chúa Giê-su như sau : Khi Giờ đã đến, Giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Chúa Giê-su vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. Sau đó Tin Mừng đã ghi lại ba việc biểu lộ tình yêu tột cùng của Người : Một là hiến thân mình làm của ăn trong bí tích Thánh Thể; Hai là trao cho các môn đệ chức linh mục để tiếp tục công việc tế lễ trường tồn; Ba là thể hiện tình thương cụ thể bằng cách rửa chân cho các ông như một người tôi tớ.
1) Lập phép Thánh Thể : Khi cùng môn đệ dự bữa tiệc Vượt qua theo truyền thống Do Thái, để tưởng niệm việc Đức Chúa đã giải thoát con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa Giê-su đã biến bánh không men và ly rượu nho dùng trong bữa tiệc trở nên Thịt Máu của Ngài hầu ban sự sống đời đời cho ãnh nhận.
Ngài đã lập bí tích Thánh Thể bằng cách : “Cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói : Hãy cầm lấy mà ăn. Này là Mình Thầy, sắp bị nộp vì anh em”. Rồi Người cầm chén rượu nho trao cho các ông mà nói : Hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, sắp đổ ra để cho muôn người được ơn tha tội” (Lc 22,19-20).
2) Truyền chức linh mục : Để hiện diện mãi với những kẻ mình yêu thương, Chúa Giê-su đã trao quyền cử hành bí tích Thánh Thể cho các môn đệ : “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Với mệnh lệnh lênh này, Chúa Giê-su đã thiết lập chức Linh Mục và trao quyền cử hành mầu nhiệm tình yêu tự hiến đến khi Chúa lại đến. Chúa Giê-su thừa biết rằng : Các môn đệ cũng chỉ là những con người bất toàn : yếu đuối, hèn nhát, phản bội… Nhưng Người vẫn tín nhiệm các ông. Ngày nay, các giám mục, linh mục cũng chỉ là những người yếu đuối bất toàn, giống như các môn đệ ngày xưa. Và Chúa vẫn muốn sử dụng những con người bất toàn này, để cử hành mầu nhiệm tình yêu và nhận quyền chăm sóc yêu thương và phục vụ đoàn chiên của Chúa (x. Ga 21,15-17).
3) Rửa chân phục vụ : Để cụ thể bài học yêu cho đến cùng, Chúa Giê-su đã làm một việc lạ thường là rửa chân cho các môn đệ. Thánh Gio-an thuật lại : Chúa Giê-su trỗi dậy, rời khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài không chỉ rời khỏi bàn ăn, mà còn quên đi địa vị là Thầy, là Chúa, để phục vụ các môn đệ thấp hèn bất xứng. Ngài cởi áo choàng ra, lấy khăn thắt lưng… tượng trưng cho sự cởi bỏ tính tự ái, cái tôi ích kỷ tự mãn, để thắt giây lưng, trở thành tôi tớ rửa chân cho các môn đồ.
Sau đó, Người mặc áo lại, trở về chỗ và giải thích : “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12-15).
- Ngày nay, để phục vụ tha nhân giống như Chúa Giê-su, mỗi tín hữu chúng ta cũng phải từ bỏ địa vị là ông nọ bà kia của mình, để cúi xuống rửa chân cho anh chị em; Chấp nhận loại bỏ cái tôi và tự ái cao… để sẵn sàng phục vụ mà không so đo tính toán, và không nhằm mục đích nào khác ngoài việc thực thi yêu thương và chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho mọi người.
Hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để sống tình yêu thương phục vụ cho các thành viên trong gia đình, cộng đoàn, khu phố, lớp học, nhà máy và sở làm… của mình?
4. LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể. Đứng trước tình yêu hiến mình, tình yêu trao ban và tình yêu phục vụ của Chúa, chúng con cũng muốn hy sinh hiến thân, quảng đại chia sẻ và khiêm tốn phục vụ mọi người là hiện thân của Chúa. Xin cho chúng con biết lấy tình yêu xóa bỏ hận thù và làm cho tình mến Chúa bùng cháy lên trong lòng chúng con và lan toả sang mọi người chúng con tiếp xúc.- AMEN.
Tôn Vinh Thánh Giá Chúa Giêsu
Lm. Đan Vinh
04:24 13/04/2022
THỨ SÁU TUẦN THÁNH - SUY TÔN THÁNH GIÁ
Is 52,13-53,12; Dt 4,14-16; 5,7-9; Ga 18,1–19,42
TÔN VINH THÁNH GIÁ CHÚA GIÊ-SU
Trong bầu khí thánh thiêng của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, chúng ta họp nhau trong thánh đường để suy tôn Thánh Giá Chúa Giê-su. Trong nghi thức suy tôn, sau khi nghe Bài Thương Khó, cộng đoàn sẽ long trọng tôn vinh Thập Giá Chúa.
1) Khổ hình Thập Giá và cái chết đau thương của Chúa :
- Ngày xưa thập giá chỉ đơn giản là một dụng cụ hành hình ghê sợ mà con người nghĩ ra để hành hạ các tội nhân. Vì thế cái chết thập giá là một bản án khủng khiếp nhất mà người Rô-ma đã dùng để trừng trị những kẻ trộm cướp, bạo loạn và răn đe những tên nô lệ bỏ trốn. Hình phạt thập giá đáng ghê sợ đến độ người Rô-ma cấm áp dụng cho các tội nhân mang quốc tịch Rô-ma.
- Do thù ghét Đức Giê-su tột cùng, nên các đầu mục dân Do thái đã xúi dân chúng làm áp lực để đòi Tổng Trấn Phi-la-tô kết án tử hình thập giá cho Đức Giê-su khi họ đồng thanh la to : “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá !” (Ga 19,6). Qua đòi hỏi này, không những họ muốn giết Đức Giê-su vì tội lộng ngôn phạm thượng, như họ đã trả lời quan Phi-la-tô : “Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga 19,7). Hơn nữa khi đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá giữa hai tên cướp (x. Ga 19,18) các đầu mục Do thái cũng muốn nhục mạ Người, xếp Người ngang hàng với bọn đầu trộm đuôi cướp.
2) Đức Giê-su : người Tôi Tớ Đau Khổ của Đức Chúa :
- Trong ‘bài ca thứ ba” của I-sai-a (50,4-11), có ghi lại những khó khăn, đau khổ, bị chống đối mà người Tôi Tớ của Đức Chúa phải chịu như sau : “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng “ (Is 50,6-7).
- Đức Giêsu đã thi hành sứ mạng của người tôi tớ đau khổ của Đức Chúa : Người là mục tử tốt lành, là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x. Mt 11,29), được trao sứ mạng đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo (x. Lc 4,18). Người cũng là người phục vụ (x. Lc 22,27), sẵn sàng hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x. Mc 10,43), Người đã bị đối xử như một tội phạm (x. Lc 22,37), bị chết treo trên thập giá (x. Mc 14,24), nhưng đã sống lại vinh quang như lời Thánh Kinh (x..Ga 20, 9). Bên cạnh đó, danh hiệu người “Tôi Tớ” sau này đã được các Tông đồ ứng dụng để diễn tả về mầu nhiệm tử nạn của Chúa Giêsu (x. Cv 3,13), Đấng là ánh sáng muôn dân (x. Cv 3,25), là Con Chiên bị sát tế (x. Cv 8,32), các vết thương của Người có sức chữa lành tội nhân (x. 1 Pr 2,21-25).
3) Nơi Đức Giê-su : Thập giá đau khổ trở thành Thánh giá vinh quang :
Đức Giê-su không mãi chịu chết treo trên thập giá, nhưng đã được môn đệ mai táng trong mồ và đến ngày thứ ba đã từ cõi chết sống lại. Từ nay Người đã biến khổ hình Thập Giá phải chịu trở thành Thánh Giá cứu độ vinh quang. Người đã tiêu diệt tử thần và trả lại sư sống đời đời cho nhân loại. Vì thế, cái chết thập giá của Chúa Giê-su không phải là sự thất bại, nhưng là sự chiến thắng của quyền năng Thiên Chúa trên ma quỷ tội lỗi và sự chết; Là sự chiến thắng của Tình Thương tha thứ trên sự thù hận chiến tranh.
4) Cùng Chúa trải qua đau khổ Thập Giá để vào vinh quang Phục Sinh :
- Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta : Đừng sợ hãi, đừng tránh né đau khổ thập giá nhưng hãy đón nhận và tôn vinh thập giá của Chúa Giê-su. Vì chính nhờ Người đã chịu chết trên thập giá mà loài người chúng ta được ơn giao hoà và trở nên con Thiên Chúa, đồng thời được hưởng ơn cứu độ là hạnh phúc Nước Trời đời đời.
- Vì thế, chúng ta hãy năng quỳ dưới chân thánh giá của Chúa Giê-su để suy niệm, lắng nghe lời dạy yêu thương và tha thứ của Người, và xin ơn luôn phó thác và vững lòng cậy trông vào tình thương cứu độ của Người.
- Ngày nay một số bạn trẻ Công Giáo do không có kiến thức giáo lý, và yếu đức tin nên đã có thái độ coi thường cây Thánh giá của Chúa, coi Thánh Giá chỉ như món đồ trang sức để làm đẹp cho mình; Về phần chúng ta : hãy biết trân trọng Thánh Giá Chúa. Quan tâm đặt Thánh Giá Chúa trên bàn thờ tại nhà thờ hay tư gia để dâng lễ và cầu nguyện. Mỗi lần làm dấu Thánh Giá trước khi cầu nguyện, dùng bữa… là chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin vào ba mầu nhiệm chính : Một là Một Chúa Ba Ngôi; Hai là Ngôi Hai xuống thế làm người và ba là Ngôi Hai cứu chuộc loài người.
- Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy vui vẻ đón nhận những khó khăn trở ngại, các bệnh tật và sự thất bại… như những thập giá Chúa để xảy ra, để biến chúng trở thành Thánh Giá bằng cách cầu nguyện như Chúa Giê-su khi xưa : “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Hãy quyết tâm chu toàn các việc bổn phận trong gia đình và ngoài xã hội… Chấp nhận đi con đường hẹp để vào Nước Trời như lời Chúa phán : “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”. (Mt 7,13-14).
5) LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Xin ban cho mỗi tín hữu chúng con biết yêu mến Thánh giá Chúa bằng thái độ vui vẻ chấp nhận các rủi ro trái ý gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
Xin cho chúng con biết bỏ đi cái tôi kiêu ngạo ích kỷ và tội lỗi, sẵn sàng vác thập giá mình hằng ngày, bằng sự chu toàn bổn phận phục vụ Chúa, đang hiện thân nơi những người nghèo đói, bệnh tật và đau khổ bất hạnh…, để chia sẻ tình thương cứu độ của Chúa cho họ.- Amen.
Cùng chết để cùng sống lại với Chúa Giêsu
Lm. Đan Vinh
05:53 13/04/2022
LỄ VỌNG PHỤC SINH C
St 1,1-2,2; Xh 14,15-15,1a; Is 54,5-14
Ed 36,16-17a.18-28; Rm 6,3-11; Lc 24,1-12
CÙNG CHẾT ĐỂ CÙNG SỐNG LẠI VỚI CHÚA GIÊ-SU
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 24,1-12
(1) Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. (2) Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. (3) Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. (4) Họ còn đang phân vân, thì kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. (5) Đang lúc các bà sợ hãi cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói : “Sao các bà lại tìm Người sống ở giữa kẻ chết? (6) Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, (7) là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại. (8) Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. (9) Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. (10) Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mácđala, và bà Ma-ri-a mẹ ông Giacôbê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông đồ như vậy. (11) Nhưng các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin. (12) Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về những sự việc đã xảy ra.
2. Ý CHÍNH :
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su theo thứ tự như sau:
- Sự kiện mồ trống : Ngày từ sáng sớm ngày thứ nhất, mấy người phụ nữ đã đi ra mộ để xức dầu thơm cho Đức Giê-su. Tới nơi, họ thấy tảng đá che ngoài cửa mộ đã được lăn sang một bên, nhưng không thấy xác Thầy trong mộ.
- Sứ điệp Phục sinh : Họ đang thắc mắc thì có hai thiên sứ hiện ra cho biết Đức Giê-su không còn ở trong mộ của kẻ chết nữa, nhưng đã sống lại, đúng như Người đã nói tại Ga-li-lê.
- Tông đồ cứng tin : Các bà vội trở về báo tin cho Nhóm Mười Một những điều mới xảy ra. Nhưng các ông không tin và coi là chuyện lẩn thẩn.
- Phê-rô kiểm chứng : Tuy vậy, để biết rõ thực hư, Phê-rô cũng chạy ra mộ và đã thấy những khăn liệm còn để lại. Ông trở về nhà và rất ngạc nhiên về những sự việc vừa xảy ra.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1-3 : + Ngày thứ Nhất trong tuần : Từ ngày Đức Giê-su phục sinh, ngày thứ Nhất hôm nay sẽ trở thành ngày Hưu lễ của Ki-tô giáo, thay cho ngày thứ Bảy (Sabát) của Do Thái giáo, và gọi là Chúa nhật nghĩa là Ngày của Chúa. + Các bà đi ra mộ : Các bà này gồm bà Ma-ri-a Mácđala, bà Gio-anna, và bà Ma-ri-a mẹ ông Giacôbê và mấy bà khác nữa (x. Lc 24,10). + Mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn : Khi ra thăm mộ, các bà đem theo dầu thơm để hoàn tất việc mai táng Chúa Giê-su, đã được ông Giôsép Arimathê vội vã thực hiện vào chiều thứ Sáu trước ngày Sa-bát (x. Mc 15,42.47). + Họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả : Đây là lần thứ nhất Tin mừng Lu-ca dùng từ “Chúa Giê-su” để nhấn mạnh tước hiệu mới của Người là “Chúa”. Về sau sách Công vụ sẽ nhiều lần dùng từ này để gọi Đức Giê-su (x. Cv 1,21; 8,16; 15,11).
- C 4-5 : + Phân vân : Vì không thấy thi hài Đức Giê-su trong mộ nên các bà phân vân lo lắng không biết người ta đã đem xác Thầy đi đâu (x. Ga 20,2). + Hai người đàn ông y phục sáng chói đứng bên họ : Sau này các bà khẳng định đó là hai vị thiên thần (x. Lc 24,23). + “Người sống” : Giờ đây Đức Giê-su trở thành “Người sống”, đúng như Lời Người đã nói (Ga 11,25).
- C 6-7 : + Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi : Thiên thần bảo cho các bà biết về mầu nhiệm Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại (x. Rm 6,9). Từ đây Người mở ra một con đường sống cho những kẻ đã an giấc ngàn thu (x.1 Cr 15,20-26). + Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê : Đối với Lu-ca, toàn bộ mầu nhiệm Vượt qua phải được hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 9,51), để Giê-ru-sa-lem trở thành nơi xuất phát thông điệp ban ơn cứu độ (x. Lc 24,49). Do đó, trong sách Công Vụ Tông Đồ của Lu-ca, các Tông đồ đã được Đức Giê-su Phục Sinh trao cho sứ vụ làm chứng nhân cho Người bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem (x. Cv 1,8).
- C 12 : + Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ : Dù không tin Thầy sống lại, nhưng Phê-rô cũng đi kiểm chứng thực hư. Kết quả ông chỉ nhìn thấy khăn liệm (x. Lc 24,12a). Còn Tin mừng Gio-an thì thuật lại cuộc chạy đua ra mộ giữa hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,3-4).
4. HỎI ĐÁP
:
HỎI 1 : Đức Giê-su được môn đệ liệm xác theo phong tục Do thái ra sao?
ĐÁP : Việc liệm xác Đức Giê-su được thực hiện theo phong tục Do thái gồm các công đoạn như sau : Trước hết là tắm xác, nghĩa là lau chùi các vết máu cùng các vết nhơ khác trên cơ thể Người. Sau đó Đức Giê-su được đặt trên một tấm khăn vải trắng, rồi được bôi một loại dầu thơm đắt tiền (x Ga 12,3-7), được chế biến từ nhựa cây cam tùng và được gọi là mộc dược. Dầu thơm được bôi trên toàn thân Người nhiều lần cho ngấm dần vào da thịt để bảo quản xác khỏi bị hư hoại trong một thời gian dài. Rồi xác Người được quấn lại bằng băng vải từ đầu đến chân (x. Ga 19,40). Cuối cùng xác Người được môn đệ an táng trong một ngôi mộ mới đục sâu trong đá và các ông làm một phiến đá lớn làm của che kín phía ngoài mộ (x. Ga 19,41-42).
HỎI 2 : Tại sao các môn đệ lại phải vội vã an táng Đức Giê-su?
ĐÁP : Sở dĩ có việc mai táng vội vã là do Luật Mô-sê qui định: cấm mai táng vào ngày Sabát, và xác tử tội đang bị treo trên thập giá phải được hạ xuống trước khi mặt trời lặn (x. Đnl 21,22-23). Đức Giê-su chết lúc 3 giờ chiều áp ngày Sabát, nên thời gian còn lại từ 3 đến 6 giờ là quá ngắn, không đủ để làm đủ các công đọan của việc mai táng, nên các môn đệ phải làm cách vội vã cho kịp thời gian Luật cho phép.
HỎI 3 : Sự phục sinh của Chúa Giê-su có giống sự phục sinh của các người đã chết và được Người cho sống lại không?
ĐÁP :
Sự Phục sinh của Đức Giê-su không phải là được hồi sinh trở về với cuộc sống trước khi chết, giống như các trường hợp của chàng thanh niên con trai bà goá thành Naim, bé gái 12 tuổi mới chết đang nằm trên giường, hay như ông La-da-rô bạn thân của đức Giê-su đã chết chôn trong mồ 4 ngày được Người cho sống lại. Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng sự sống lại này chỉ là trở lại với đời sống cũ trước khi chết. Nghĩa là họ vẫn còn nằm dưới quyền lực của sự chết, và đến một ngày nào đó họ vẫn phải chịu chung số phận của mọi người “là cát bụi sẽ về với cát bụi”.
Trường hợp phục sinh của Chúa Giê-su lại hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Người đã chết, nhưng Ngài đã phục sinh, nghĩa là Người hoàn toàn chiến thắng sự chết, Người không sống lại để sống thêm một thời gian rồi chết lại. Sống lại đối với Chúa Giê-su nghĩa là từ đây Người đón nhận sự sống mới sung mãn đến độ sự chết không thể chi phối được Người nữa; cũng như không một định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Người nữa. Cụ thể là vào buổi chiều ngày Thứ Nhất trong tuần sau khi từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su đã đến với các môn đệ trong khi cửa phòng đóng kín vì sợ người Do thái. Đức Giê-su đã nói chuyện với họ, ăn uống trước mặt họ. Một vài người trong bọn còn được sờ vào vết đinh ở bàn tay bàn chân và vết đâm ở cạnh sườn Người, giống như sờ một người đang sống chứ không phải một bóng ma người chết. Đó chính là sự sống lại mà các môn đệ Đức Giê-su đều cảm nghiệm được mỗi lần Người hiện ra với họ.
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24,5-6).
2. CÂU CHUYỆN :
1) PHIM “CHIẾC CẦU SÔNG QUAI” : SỰ HỒI SINH TINH THẦN
Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” kể về một câu chuyện đã xảy ra trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Trong khi giao chiến, một số quân nhân đồng minh đã bị quân Nhật bắt làm tù binh, và được mang tới vùng biên giới giữa Miến Điện và Thái Lan, để làm công việc lao động khổ sai: xây một tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí chiến tranh cho quân Nhật. Cuộc sống ở trại tù này rất khắc nghiệt: Mỗi ngày tù binh phải làm công việc xẻ đá để làm đường trên cầu sông Quai, dưới cái nắng nóng giống như bên lò lửa. Họ bị bọn cai tù Nhật đối xử tàn tệ và đến lượt họ lại biến thành những kẻ độc ác, đối xử với bạn tù bằng luật rừng, trộm cắp đồ ăn, nghi kỵ đánh lộn và chém giết nhau, nhất là sẵn sàng chỉ điểm cho bọn cai tù khi có ai muốn vượt ngục
Nhưng rồi trong số tù nhân trên có hai người là bạn thân đã hình thành một nhóm người thay vì dùng thời gian nghỉ để bài bạc thì đã họp nhau chia sẻ Lời Chúa. Nhờ nhóm học hỏi Kinh Thánh này, mà các bạn tù đã dần dần khám phá ra có Đức Ki-tô đang hiện diện giữa họ. Người luôn thấu hiểu và sẵn sàng cảm thông với nỗi đau của họ, bởi vì xưa Người cũng đã từng trải qua những nỗi đau khổ, từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, bị môn đồ phản bội, bị kẻ thù đánh đòn và sau cùng chịu chết cách nhục nhã trên cây thập tự. Từ đó, các tù nhân không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man tàn khốc, không còn làm tay sai chỉ điểm cho kẻ thù, không còn trộm cắp lẫn nhau… thay vào đó đối xử với nhau bằng tình huynh đệ, thể hiện qua việc cầu nguyện và quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Từ đó trong trai tù, bầu khí vui tươi đã dần dần thay thế bầu khí ngột ngạt căng thẳng. Sự biến đổi trong trại tù “cầu sông Quai” chính là một phép lạ, khiến các tù nhân tin tưởng đoàn kết giúp đỡ nhau thay vì nghi kỵ thù ghét làm hại lẫn nhau. Sự biến đổi này là sự sống lại, giống như mầu nhiệm Đức Giê-su từ cõi chết trỗi dậy.
2) NIỀM TIN VỀ SỰ SỐNG ĐỜI SAU CỦA MỘT SỐ LÃNH TỤ NỔI TIẾNG :
Hầu như mọi người, mọi dân tộc trên thế giới đều tin có sự sống vĩnh hằng sau cái chết, ngay cả những người đã từng khẳng định mình không theo một tôn giáo nào cũng tin như thế.
Ngày 19 tháng 9 năm 1987, nhân khi tiễn Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II khi kết thúc chuyến viếng thăm Hoa kỳ, Phó Tổng thống Bush đã kể lại câu chuyện về Chủ tịch Trung Quốc là Mao Trạch Đông mà ông Bush đã có dịp gặp gỡ trước khi ông này chết. Trong lần ấy, Chủ tịch Mao đã tâm sự với ông Bush như sau : “Tôi sắp sửa về Trời. Tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”. Còn Tổng thống Míttơrăng (F. Mitterand) của nước Pháp thì trong mấy ngày cuối đời đã trả lời về cái chết với phóng viên của một tờ báo như sau: “Nếu có Chúa, thì tôi tin rằng Người sẽ nói với tôi: Cuối cùng thì anh cũng đã đến đích. Thôi mau vào đi !”. Ngoài ra, Chủ tịch HCM cũng đã gián tiếp bày tỏ niềm tin vào một cuộc sống trong thế giới khác bên kia cái chết, khi trong chúc thư có đoạn viết như sau: “Tôi sắp về với cụ tổ Mác Lê”...
3) TẦM QUAN TRỌNG CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH :
Một cuốn phim tựa đề “Thế giới chìm trong bóng tối” trình bày câu chuyện về một nhà khảo cổ danh tiếng đứng đầu một cuộc khai quật khoa học tại Mồ Thánh Chúa ở Giê-ru-sa-lem.
Ngọn đồi Golgotha đã được các nhà khảo cổ cẩn thận đào bới, vì Tin Mừng Gio-an thuật lại thân xác Đức Giê-su đã được an táng trong một ngôi mộ, cạnh nơi Người bị hành hình thập giá. Sau nhiều ngày đào bới cẩn thận, ngày nọ nhà khảo cổ chủ nhiệm công trình tuyên bố: “Chúng tôi đã tìm thấy xác ông Giê-su”. Sau đó ông ta tổ chức một cuộc họp báo quy tụ hàng trăm ký giả các nơi để trình bày kết quả cuộc đào bới của đoàn khảo cổ do ông lãnh đạo. Ông đã đưa ra trước mặt mọi người một cái xác người đã bị khô đét, tay chân người này có dấu đinh bị đâm thủng, cạnh sườn có vết lưỡi đòng đâm thâu và những vết máu còn in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh nhiều người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ hét to: “Đây đúng là một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi: Ông Giê-su thực sự đã bị đóng đinh, đã chết và được mai táng trong mồ như lời thánh kinh đã ghi nhận”. Nhà khảo cổ liền xác nhận: “Vâng đúng thế. Ông Giê-su đã bị đóng đinh, đã chết và được môn đệ an táng trong mồ. Nhưng làm gì có chuyện sống lại, bởi vì xác của ông ta vẫn còn nằm đây mà chúng tôi đã tìm thấy được”.
Sau đó cuốn phim mô tả về hậu quả của cuộc tìm thấy xác Đức Giê-su :
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục đã tắt đèn cạnh Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa đi và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường đều im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi đã bị hạ xuống.
- Các ngọn nến Phục Sinh tại các nhà thờ bị tắt ngủm.
- Thế giới chìm trong một màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh nhà khảo cổ đang hấp hối trên giường bệnh. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã phải thú nhận: “Tôi đã đánh lừa cả thế giới. Chính tôi đã làm giả xác Đức Giê-su và bí mật đặt xác khác vào trong mộ một vài năm trước khi khởi sự công cuộc đào bới này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người đã tuôn đến viếng Mồ Thánh ở Giê-ru-sa-lem như vẫn xảy ra hàng năm vào Tuần Thánh. Những ngọn nến Phục Sinh lại được thắp sáng và các tín hữu lũ lượt đốt những ngọn nến cháy sáng niềm hy vọng đi đến khắp hang cùng ngõ hẻm để soi sáng những con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ lại tiếp tục ngân vang báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh và mọi người đều vui mừng ca hát : “Sự sống đã chiến thắng thần chết. Thập giá đã chiến thắng địa nguc. Allêluia!”.
3. THẢO LUẬN :
Khi tuyên xưng đức tin : “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”, các tín hữu phải sống thế nào trong xã hội hôm nay, để chứng tỏ niềm tin về một thế giới mới và một cuộc sống vĩnh hằng đời sau?
4. SUY NIỆM :
1) ĐỨC TIN VỀ MỘT CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG ĐỜI SAU :
Hầu như mọi người, mọi dân tộc đều tin còn có một thế giới khác vĩnh hằng sau cuộc sống đời tạm này : Người ta tin rằng sau khi chết, con người vẫn còn sống một cách nào đó : “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Cái chết chỉ ở thể xác bề ngoài, còn linh hồn vẫn tồn tại mãi mãi). Người ta cũng tin rằng trần gian chỉ là nơi ở tạm thời, còn chết mới là về với nguồn cội : “Sinh ký, tử quy” (Sống gửi thác về).
Nhưng cuộc sống ấy như thế nào thì có nhiều niềm tin khác nhau :
- Đức Phật thì chủ trương có sự luân hồi : Người ta sẽ lần lượt trải qua nhiều kiếp sống khác nhau. Hồn người chết sẽ được đầu thai vào kiếp khác để trở thành một người hay một loài vật khác tùy theo kiếp trước họ đã sống như thế nào, là người tốt hay kẻ xấu. Chỉ những bậc tu hành đắc đạo, diệt dục, loại trừ được các “tham, sân, si” và có lối sống đại từ đại bi... mới được siêu thoát thành Tiên thành Phật trong cõi Niết bàn cực lạc.
- Còn Đức Khổng Tử thì không khẳng định gì về cuộc sống sau khi chết, vì ngài không được biết thực hư ra sao. Do đó khi Tử Cống hỏi : “Người chết rồi có biết gì nữa không?” thì Khổng Tử đã trả lời nước đôi như sau : “Nếu ta nói người chết rồi vẫn còn biết, thì sợ các con cháu hiếu thảo sẽ liều mình chết theo ông cha. Nếu ta nói người chết không còn biết gì nữa, thì sợ con cháu bất hiếu sẽ không thèm chôn cất cha mẹ nữa” (Khổng Tử gia ngữ số 8).
- Riêng Đức Giê-su : Vốn là Con Thiên Chúa từ trời mà đến, nên Người đã dạy cho loài người biết rõ ràng về một đời sống vĩnh hằng sau khi chết. Trong bài giảng về Bánh Hằng Sống, Người đã khẳng định về hiệu quả của bí tích Thánh Thể : “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Khi nói chuyện với cô Mác-ta trước khi làm cho La-da-rô đã chết chôn trong mồ 4 ngày được sống lại, Đức Giê-su nói : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25). Rồi trong Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay, thiên thần đã nói với mấy người phụ nữ : “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi!” (Lc 24,5-6).
2) VỀ SỰ CỨNG TIN CỦA CÁC MÔN ĐỆ VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH :
- Các môn đệ không phải là những người dễ tin : Tin mừng Mát-thêu thuật lại lời tiên báo của Đức Giê-su với các môn đệ ít ngày trước cuộc khổ nạn như sau : “Con người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mt 16,21). Ông Phê-rô chỉ quan tâm đến cuộc thương khó mà ông cho là sự thất bại, nên yêu cầu Thầy đừng chấp nhận như vậy. Ông không chú ý đến lời Thầy : “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Các tông đồ khác tuy có nghe Thầy nói sẽ từ cõi chết sống lại, nhưng cũng không muốn tin. Do đó, khi vừa thấy Thầy bị bắt, các ông kẻ thì bỏ Thầy chạy trốn, kẻ chối không biết Thầy, kẻ trở về làng cũ và không muốn theo Thầy nữa...
-Còn các đầu mục Do thái thì cẩn trọng hơn : Họ đã nghe Đức Giê-su nói đến việc đến ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại, nên sau khi Người đã chết và được các môn đệ mai táng trong mồ, họ đã yêu cầu Phi-la-tô cho lính canh mồ để tránh việc Người sống lại. Nhưng dù họ có canh gác cẩn thận, Đức Giê-su vẫn từ cõi chết trỗi dậy đúng như Người đã báo trước.
-Về phần các môn đệ : do không tin Thầy sẽ từ cõi chết sống lại, nên khi nghe bà Mađalena báo tin xác Thầy không còn trong mộ, hai môn đệ Phê-rô và Gio-an bán tín bán nghi đã chạy đua ra mồ kiểm tra thực hư. Hai ông đều quan sát thấy các khăn liệm còn đó nhưng xác Thầy biến mất! Riêng Gio-an thì liên kết sự kiện khăn liệm kèm theo mồ trống đã đạt đến đức tin. Các môm đẹ khác thì sau khi được Chúa Phục Sinh hiện ra nhiều lần để trấn an, để chứng minh Người đã sống lại bằng việc ăn uống, cho xem và sờ vào các vết thương ở tay chân và cạnh sườn, rồi được nghe Người giảng mầu nhiệm phục sinh phù hợp với lời Kinh Thánh đã chép, liên kết với cử chỉ bẻ bánh… thì các ông mới tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Nhất là sau khi đón nhận được Ơn Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần, các ông mới thực sự xác tín để hăng say đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng vào mầu nhiệm “Đức Giê-su đã sống lại từ cõi chết” và sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho lời rao giảng ấy.
3) NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊ-SU :
- Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su không giống như sự sống lại của những kẻ chết được Người cho hồi phục sự sống, vì sau khi sống được một thời gian, họ đã chết lại như bao người khác (x. Mc 5,41-42; Lc 7,14-15; Ga 11,39-44). Mầu nhiệm Phục Sinh cũng không có nghĩa là Chúa Giê-su sẽ sống mãi trong thành quả sự nghiệp của Người như người ta thường nói : “Trâu chết để da, người chết để tiếng”. Nhưng Người đã thực sự sống lại cả về sự sống thể xác cũng như tinh thần.
-Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su nghĩa là Người đã được biến đổi trở thành một “Người Sống” (x. Lc 24,5), giống như “Thiên Chúa hằng sống !” : Thánh Phao-lô đã diễn tả sự sống siêu việt ấy như sau : “Chúng ta biết rằng: Một khi Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, thì không bao giờ chết nữa. Cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống là sống cho Thiên Chúa” (Rm 6,9b-10).
-Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su nhằm mục đích ban ơn cứu độ là sự sống vĩnh hằng cho loài người : Đức Ki-tô đã sống lại vinh quang ra khỏi mồ, để xuống nơi trú ngụ của các vong linh, gọi là Âm phủ (Shéol) hay ngục Tổ tông, hoàn tất việc loan báo Tin mừng cứu độ cho người sống kẻ chết. Người đã mở ra một con đường sống cho nhân lọai chúng ta, là con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” (x Lc 24,26; Mt 16,21), để chúng ta “Cùng chết với Đức Giê-su thì sẽ cùng được sống lại với Người” (x. 1 Pr 3,18). Đó là con đường của đạo Công Giáo (Xem sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 632, 633, 634, 635).
4) MẦU NHIỆM PHỤC SINH LÀ CUỘC VƯỢT QUA CỦA THỜI TÂN ƯỚC :
-Lễ “Vượt qua”: nhắc lại công cuộc ngày xưa Đức Chúa đã giải phóng con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ cho dân Ai-cập: Kể từ khi đại gia đình của tổ phụ Gia-cóp di cư sang bên Ai-cập, con cháu Gia-cóp đã hiện diện suốt 430 năm tại đây. Sau những năm tháng hạnh phúc khi tổ phụ Giu-se làm quan đệ nhị còn sống, là đến những năm tháng đau khổ khi họ bị làm nô dịch cho dân Ai Cập, bị khinh dể ngược đãi và giết hại... Con cháu Gia-cóp cuối cùng đã được Đức Chúa sai Mô-sê đến giải thoát khỏi ách nô lệ cho dân Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ cách lạ lùng và cuối cùng vượt qua sa mạc trong thời gian 40 năm. Trong thời gian này, con cháu Gia-cóp được Đức Chúa bang trợ bằng quyền năng và tình thương, được ký kết giao ước với Đức Chúa để trở thành dân riêng của Ngài, được lãnh nhận thập giới, ghi khắc trên hai tấm bia đá, được nuôi dưỡng hằng ngày bằng man-na, thịt chim cút, nước tinh khiết chảy ra thành dòng suối từ tảng đá… được Đức Chúa bảo vệ khỏi bị chư dân tiêu diệt… và cuối cùng đã về đến Miền Đất được Đức Chúa hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời. Sự giải thoát nói trên được gọi là mầu nhiệm Vượt Qua, và lễ Vượt Qua luôn được cử hành trong bữa tiệc chiên tại tư gia vào ngày 14 tháng Nisan hằng năm.
-Ngày nay : các tín hữu được Hội Thánh mời gọi vượt qua bản thân để sống hướng thượng nhân ái qua việc chay tịnh, lãnh nhận các phép bí tích, cầu nguyện và làm việc bác ái cụ thể, chia sẻ cơm áo vật chất cho tha nhân. Quả vậy, trong Mùa Chay Chúa muốn chúng ta “vượt qua” những ham muốn, những toan tính đời thường để đón nhận tha nhân và sống hòa hợp với mọi người. Lễ Phục sinh nhắc nhở chúng ta về cuộc “vượt qua đó”. Thánh Phao-lô dạy phải mừng lễ Vượt qua này như sau : “Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên vượt qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5,7a-8). Hôm nay, Hội Thánh mời gọi chúng ta phải chết đi cho con người cũ, cùng với những thói hư tật xấu như : ích kỷ, ganh ghét, gian tham, hướng chiều theo các đam mê bất chính… để nhờ ơn Thánh Thần tái tạo, trở thành một người mới luôn biết quên mình nghĩ đến người khác, sống bao dung nhân hậu, công chính và khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi… Có như vậy, việc mừng lễ Phục Sinh mới thực sự mang lại niềm vui và hy vọng được phục sinh với Chúa Giê-su trong cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau.
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin giúp chúng con biết tôn trọng tha nhân, hợp tác với nhau và với mọi người thiện chí để tiêu diệt các sự gian ác tội lỗi, đẩy lùi văn hóa sự chết là những tệ nạn xã hội như sì-ke, ma tuý, mại dâm, cờ bạc, say sỉn, cướp bóc, lừa đảo, thù hận làm hại kẻ khác... Xin cho chúng con quyết tâm xóa sạch những điều bất chính ra khỏi con người chúng con, khỏi gia đình và khu xóm chúng con. Nhờ đó, mọi người sẽ được sống chan hòa yêu thương nhau, cùng nhau kiến tạo một “Trời Mới Đất Mới”, nơi không còn nước mắt, không còn khổ đau và chết chóc... nhưng là một Thiên đàng đầy tình yêu thương và hạnh phúc viên mãn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Ông đã thấy và đã tin
Lm. Đan Vinh
05:57 13/04/2022
CN LỄ NGÀY PHỤC SINH ABC
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH :
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1 : + Ngày Thứ Nhất trong tuần : Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối : Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết : “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết : “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô : “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2); Riêng Lu-ca lại viết : “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la : Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2 : + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô : Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến : Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết : Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4 : + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ : Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước : Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6 : + Băng vải còn ở đó : Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào : Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ : Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
- C 7-9 : + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi : Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin : Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết : Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI :
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật?
2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào?
3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la?
4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai? Tại sao?
5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không?
6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào?
7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô?
8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay?
9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN :
1) MỘT CUỘC CHẠY MA-RA-THON :
Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc chạy ma-ra-thon. Vậy chạy ma-ra-thon là gì? Tôi xin thưa đó là chạy đua đường dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của việc chạy là thế này : Vào năm 490 trước Công nguyên, tướng Mil-ti-a-de, người Hy Lạp, đã chiến thắng quân Ba Tư tại Ma-ra-thon, một ngôi làng cách thủ đô A-thène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng Mil-ti-a-de đã phái một người chạy bộ, vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng thủ đô Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường trường trên thế giới.
Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay cũng tường thuật hai cuộc chạy ma-ra-thon : Cuộc chạy thứ nhất là của cô Ma-ri-a Ma-đa-le-na báo tin cho các môn đệ xác Thầy đã biến mất. Cuộc chạy thứ hai là của hai môn đệ Phê-rô và Gio-an đi ra mộ để kiểm tra thực hư. Những người này đã đi tìm Chúa và sau đó đã đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
2) ĐẰNG SAU SỰ KIỆN NGÔI MỘ TRỐNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU :
Đầu tháng 3/2007, kênh truyền hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang tựa đề “Ngôi Mộ Thất Lạc của Chúa Giê-su”. Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980 ở khu Tal-pi-ot, phía đông Giê-ru-sa-lem. Mười hộp đựng cốt đã đưọc khai quật, trong đó có một hộp khắc tên Giê-su con ông Giu-se. Phải chăng đoàn làm phim đã kiếm được bằng chứng khảo cổ về con người Giê-su thành Na-da-rét? Phải chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm tin vào Đấng Phục Sinh?
Các chuyên gia khảo cổ Do thái đã không cho là như thế. Vì chín phần trăm đàn ông Do thái ở thế kỷ thứ nhất mang tên Giê-su; mười bốn phần trăm mang tên Giu-se. Đây không phải là lần đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng những hộp đựng cốt như thế này xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên Giê-su con ông Giu-se được khai quật từ năm 1930. Câu chuyện tìm được hài cốt của Chúa Giê-su chỉ là giả tưởng.
Như vậy chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng tuy chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống để quả quyết một cách chính xác rằng Chúa đã sống lại thật, nhưng chúng ta phải nhận rằng sự kiện ngôi mộ trống là một sự kiện có thực. Sự thật này có thể được coi là một đóng góp quan trọng vào những sự kiện khác để chứng minh cho việc phục sinh của Chúa. Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng rằng : đằng sau câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện đích thực của một “Đấng Phục Sinh”, của một quyền năng có sức mạnh biến cải những trái tim đang đau buồn thất vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con người yếu đuối nhát sợ nên mạnh mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái chết mà “làm chứng” Thầy mình đã sống lại và vẫn đang sống.
3) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH :
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng : “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra?” Người đáp : “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp : “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời : “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói : “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa đáp : “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp : “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi?” Chúa Giê-su trả lời : “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
4) MẦU NHIỆM PHỤC SINH DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA :
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi : “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây diễn tả tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết để mở ra cho con người lối đi vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ tình thương của Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế khôn lường, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng qua một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là cho con người được sống đời đời. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, Ngài vẫn luôn theo duổi và chờ đợi con người đáp lại tình thương của Ngài để được sống mãi với Ngài.
5) GƯƠNG CAN ĐẢM TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN :
Một câu chuyện rất cảm động đã xảy ra hồi thế chiến thứ hai tại Liên xô.
Một người đàn bà bị bắt làm tù nhân trong một trại giam tại Liên xô cũ. Chính bà kể lại câu chuyện mà bà đã mắt thấy tai nghe, để mọi người tin vào sức mạnh của mầu nhiệm phục sinh của Chúa.
“Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi đã kề miệng vào tai tôi hỏi khẽ :
- Chị biết hôm nay là ngày gì không?
Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp :
- Hôm nay là ngày lễ Phục sinh.
Nghe thế tôi tự hỏi :
- Lễ Phục sinh đã đến rồi sao? Tuy là lễ của niềm vui và hy vọng, nhưng trong tù niềm vui của chúng tôi đã bị héo úa, khô cằn. Còn niềm hy vọng thì tôi đành để trong lòng chứ không dám nghĩ tiếp.
Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề :
- Đức Ki-tô đã sống lại !
Tôi quay lại nhìn mặt cô gái vừa cất tiếng tuyên xưng đức tin và bắt gặp đôi mắt cô ánh lên sự lung linh huyền diệu. Cùng lúc ấy, từ mọi phía của các phòng giam khác vang lên câu trả lời :
- Ngài đã sống lại thật.
Quá sửng sốt, các nhân viên trại giam đứng bất động như tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí họ đang giận dữ lên án một việc chưa bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến phòng giam của chúng tôi, rồi phòng bị mở tung cửa ra, hai nhân viên hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan đó, và hùng hổ túm lấy cô gái lôi sền sệt ra khỏi phòng.
Qua tuần lễ Phục sinh, họ giam riêng cô vào phòng không lò sưởi để nhờ cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ, thì con người cuồng tín này sẽ phải gục ngã.
Một tuần sau, cô gái được trả lại phòng giam với chúng tôi như trước. Mặt cô xanh xao, người cô gầy đi thấy rõ. Sau khi nằm yên tại một góc phòng, cô gái khều bọn tôi lại, và thều thào :
- Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh trong trại giam. Còn những điều khác không quan trọng !
Nói xong, cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy trong mắt cô vẫn sáng lên như trước”.
3. SUY NIỆM :
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau :
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÔI THÚC MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA :
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng sớm tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến mà bà đã thêm can đảm để đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì sáng sớm hôm nay lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp thêm thuốc thơm cho xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống không, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà thì ai đó đã đến lấy trộm xác Thầy và bà không biết họ đã để xác Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn vào trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a quay lại mồ để tiếp tục than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người trao cho bà sứ mệnh như sau : “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng : Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN RA CHÚA TRƯỚC ANH EM :
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc, làm cho ông trở thành người can đảm hơn các anh em như sau : Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ mình và đón Mẹ về nhà mình mà phụng dưỡng thay Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước ông này (x Ga 20,8). Sau cùng chính lòng mến đã khiến Gio-an viết Tin Mừng Thứ Tư, trong đó đề cao giới răn yêu thương. Tương truyền khi về già, mỗi lần rao giảng Tông đồ Gio-an đều giảng về đề tài yêu thương. Khi có người thắc mắc lý do thì Gio-an đã trả lời rằng : Chỉ việc tuân giữ giới răn yêu thương là đủ. Vì “yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10b).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN :
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chiêm ngưỡng Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1); Được chứng kiến phép lạ Người phục sinh bé gái mới chết (x Lc 8,51); Được ở gần Đức Giê-su khi Người lo buồn trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm như : bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận đường thập giá (x Mt 16,22-23); Hoặc có lúc bị Thầy trách là kém lòng tin (x Mt 14,31) hoặc trách khi không muốn Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8); trách khi quá tự tin vào sức mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới bắt các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như : Có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17,24-27). Số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không bị lấy trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô đã vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi nhanh vào bờ để gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng ba lần tuyên xưng yêu mến Thầy và đã được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên là Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến đích thật khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN :
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ trước tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các môn đệ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh trở thành Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và sứ mệnh chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống của chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng : khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn. Bấy giờ chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN :
1) Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không?
2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được mau trỗi dậy?
5. LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Sự phục sinh của Chúa vừa mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh : sẵn sàng hy sinh tất cả vì yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu, để dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng : “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
06:10 13/04/2022
7. Linh mục lơ là không muốn cử hành thánh lễ thì ngài đã đánh mất quang vinh Thiên Chúa Ba Ngôi trên trời, đánh mất sự vui vẻ của các thiên thần, tội nhân mất đi sự tha thứ, người công chính mất đi sự trợ giúp của ơn thánh, các linh hồn trong luyện ngục mất đi sự giảm hình phạt, giáo hội mất đi sự thần thiêng.
(Thánh Bonaventura)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
06:17 13/04/2022
49. BÁNH “NGÀY” TRUNG THU
Có ông chủ tiệm ăn, trên bảng hiệu của tiệm đáng lẽ phải viết là “bánh trung thu中秋月餅”, nhưng ông ta viết sai là “bánh ngày trung thu中秋日餅”.
Một khách hàng nói với ông:
- Chữ “nguyệt月” của bánh trung thu ông viết thành chữ “bạch白”.
Ông chủ tiệm rất trịnh trọng nói:
- “Làm gì có chữ “bạch白” mà trên đầu còn có một phẩy?”
(Tiếu lâm quảng ký)
Suy tư 49:
Bảng hiệu là cái mặt của cửa tiệm và cũng là cái bụng của cửa tiệm, nhìn cái bảng hiệu thì ai cũng biết cái tiệm đó mua bán những gì, cho nên không ai lơ là cẩu thả trong việc viết tên cho bảng hiệu của tiệm mình, ngoại trừ những tên ma giáo treo đầu dê bán thịt chó mà thôi.
Có một vài người mang danh là Ki-tô hữu nhưng không tham dự thánh lễ, không lãnh nhận các bí tích, cuộc sống thì bê tha hình như chối đạo công khai, nhưng họ đi đến đâu là vỗ ngực xưng mình là người Ki-tô hữu, và có khi sợ người khác không tin lời mình nói, nên họ cũng biểu diễn làm Dấu Thánh Giá, đọc vài kinh Lạy Cha hoặc kinh Kính Mừng để người khác tin...
Họ treo đầu dê bán thịt chó, vì họ là người Ki-tô hữu nhưng không sống như người Ki-tô hữu; họ vẽ bảng hiệu sai nhiều lỗi vì đời sống của họ đi ngược lại với lời dạy của Đức Chúa Giê-su và Giáo Hội của Ngài, cho nên dù họ đọc thuộc nhiều kinh, biết làm Dấu Thánh Giá thì người ta cũng không tin họ là người Ki-tô hữu chân chính.
Có thể lừa dối che mắt được con người, nhưng không thể nào lừa dối và che mắt Thiên Chúa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có ông chủ tiệm ăn, trên bảng hiệu của tiệm đáng lẽ phải viết là “bánh trung thu中秋月餅”, nhưng ông ta viết sai là “bánh ngày trung thu中秋日餅”.
Một khách hàng nói với ông:
- Chữ “nguyệt月” của bánh trung thu ông viết thành chữ “bạch白”.
Ông chủ tiệm rất trịnh trọng nói:
- “Làm gì có chữ “bạch白” mà trên đầu còn có một phẩy?”
(Tiếu lâm quảng ký)
Suy tư 49:
Bảng hiệu là cái mặt của cửa tiệm và cũng là cái bụng của cửa tiệm, nhìn cái bảng hiệu thì ai cũng biết cái tiệm đó mua bán những gì, cho nên không ai lơ là cẩu thả trong việc viết tên cho bảng hiệu của tiệm mình, ngoại trừ những tên ma giáo treo đầu dê bán thịt chó mà thôi.
Có một vài người mang danh là Ki-tô hữu nhưng không tham dự thánh lễ, không lãnh nhận các bí tích, cuộc sống thì bê tha hình như chối đạo công khai, nhưng họ đi đến đâu là vỗ ngực xưng mình là người Ki-tô hữu, và có khi sợ người khác không tin lời mình nói, nên họ cũng biểu diễn làm Dấu Thánh Giá, đọc vài kinh Lạy Cha hoặc kinh Kính Mừng để người khác tin...
Họ treo đầu dê bán thịt chó, vì họ là người Ki-tô hữu nhưng không sống như người Ki-tô hữu; họ vẽ bảng hiệu sai nhiều lỗi vì đời sống của họ đi ngược lại với lời dạy của Đức Chúa Giê-su và Giáo Hội của Ngài, cho nên dù họ đọc thuộc nhiều kinh, biết làm Dấu Thánh Giá thì người ta cũng không tin họ là người Ki-tô hữu chân chính.
Có thể lừa dối che mắt được con người, nhưng không thể nào lừa dối và che mắt Thiên Chúa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Thứ Năm Tuần Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
06:20 13/04/2022
THỨ NĂM TUẦN THÁNH
(Có nghi thức Rửa Chân)
Bạn thân mến,
Hôm nay Thứ Năm Tuần Thánh, theo truyền thống của Giáo Hội, chiều hôm nay Đức Chúa Giê-su đã làm ba công việc vừa vĩ đại vừa mầu nhiệm, để lưu truyền cho Giáo Hội tiếp tục công trình cứu chuộc nhân loại của Ngài cho đến tận thế, đó là:
1- Ban giới răn mới là luật Yêu thương.
2- Lập bí tích Thánh Thể.
3- Lập bí tích Truyền chức thánh.
Trong khung cảnh của phụng vụ này, tôi chia sẻ với bạn mấy điều sau đây:
1- Ban giới răn mới là luật Yêu thương.
Chút nữa đây cha linh mục chủ tế sẽ rửa chân cho mười hai vị giáo dân được chọn ở trong giáo xứ để tưởng nhớ và kỷ niệm Đức Chúa Giê-su đã rửa chân cho các Tông Đồ năm xưa trong bữa ăn cuối cùng của Ngài.
Rửa chân là công việc của đầy tớ làm để phục vụ cho chủ nhân, là một hành động bày tỏ sự phục tùng của người tôi tớ, Đức Chúa Giê-su đã dùng phương thức này để dạy cho các tông đồ một bài học mới, bài học yêu thương và phục vụ, Ngài nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rữa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rữa chân cho nhau...”.
Yêu thương và phục vụ tuy là hai nhưng chỉ là một, hay nói cách khác phục vụ là hoa quả của yêu thương, bởi vì không ai yêu thương mà không phục vụ, nhưng nếu phục vụ mà không yêu thương thì chỉ là giả dối và đáng bị lên án. Đức Chúa Giê-su đã làm gương cho chúng ta khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của mình, thì chúng ta cũng nên cúi xuống mà rửa chân cho anh em và cho tha nhân như Đức Chúa Giê-su đã làm, rửa chân cho nhau chính là phục vụ nhau, yêu thương nhau và giúp nhau thăng tiến trong tình yêu của Chúa qua cuộc sống của mình.
Người thời nay lấy làm lạ khi chúng ta yêu thương và phục vụ họ, họ sẽ thắc mắc đâu là động cơ thúc giục chúng ta làm điều ấy, khi mà cả nhân loại đang đắm chìm trong hưởng thụ và sống trong ích kỉ của mình.
2- Lập bí tích Thánh Thể.
Cao điểm của bữa tiệc ly chính là lúc Đức Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thể, là bí tích làm nên Hội Thánh và cũng là nguồn ân sủng hiện diện cách thực tại cho chúng ta được hưởng dùng, đây là một mầu nhiệm mà Giáo Hội qua mọi thời đại đều tuyên xưng: mầu nhiệm tình yêu.
Với khung cảnh đầm ấm trong căn phòng trên gác, với tình cảm chan hoà của tình thầy trò, Đức Chúa Giê-su đã thố lộ tâm tình với các Tông Đồ: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” . Sự mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với các môn đệ đã thành hiện thực và đây là bữa ăn cuối cùng của đời Ngài, vì thế, lễ Vượt Qua này sẽ không còn hiệu lực nữa khi Ngài cầm bánh không men đưa cho các môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”. Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội...” , bởi vì từ nay chính Ngài vừa là lễ Vượt Qua vừa là Bánh tinh tuyền không men, nuôi sống nhân loại trên đường lữ thứ trần gian.
Bí tích Thánh Thể nguồn mạch của mọi ân sủng, hàng ngày hàng giờ vẫn diễn ra trong các thánh lễ trên khắp mặt đất nơi các nhà thờ nhà nguyện, đó chính là nguồn ơn vô tận mà Đức Chúa Giê-su đã vì yêu thương mà ban cho chúng ta. Đây là một sáng kiến độc đáo của Thiên Chúa, một chứng tích của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại mà các thánh -qua mọi thời đại- đã hưởng dùng, cảm nghiệm và hết lòng ca tụng tình yêu ấy của Thiên Chúa.
Có nhiều người trong chúng ta coi việc rước Mình Thánh Chúa như là đồ trang sức cho đẹp khi tham dự thánh lễ, cho nên họ không chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng, họ không tha thiết việc rước Chúa là bảo đảm cho phần rỗi đời đời của mình, nên đối với họ rước lễ hay không cũng chẳng nhằm nhò gì, đó chính là lí do khiến họ ngày càng xa rời ân sủng của Chúa hơn. Thánh Phao-lô tông đồ đã nghiêm khắc cảnh cáo chúng ta về việc rước lễ khi còn trong tình trạng tội trọng như sau: “Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh và uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa..., Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình...”.
Bí tích Thánh Thể làm cho chúng ta trở nên một trong Chúa Ki-tô, trở nên một chính là không của tôi không của anh nhưng là thuộc về Chúa Ki-tô và Hội Thánh của Ngài, do đó mà mỗi người trong chúng ta khi ăn Mình và uống Máu Chúa, thì chúng ta cũng phải trở nên bánh và nước cho anh chị em và tha nhân hưởng dùng, đó chính là yêu thương và phục vụ vậy.
3- Lập bí tích Truyền chức thánh.
Bí tích truyền chức thánh tức là bí tích Thừa tác Linh Mục, đây chính là một hồng ân to lớn của Thiên Chúa ban tặng cho loài người.
Đức Chúa Giê-su khi thiết lập bí tích Thánh Thể thì đồng thời Ngài cũng thiết lập bí tích truyền chức linh mục cho các môn đệ khi nói: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” , để các môn đệ của mình, và những người kế tục các ngài trong chức giám mục và linh mục thực hiện mọi ngày cho đến tận thế.
Linh mục là người được thông phần vào sự sáng tạo của Thiên Chúa, chính các ngài đã được Thánh Thần thánh hoá để trở nên công cụ thánh, để làm cho có Đức Chúa Giê-su trên bàn thờ trong thánh lễ, đây cũng chính là mầu nhiệm tình yêu mà Đức Chúa Giê-su đã thực hiện giữa nhân loại: Ngài chọn những con người bất toàn để làm cho họ trở nên hoàn hảo trong bí tích truyền chức thánh -linh mục- để chính các ngài hằng ngày nhân danh Thiên Chúa, nhân danh Hội Thánh, nhân danh cộng đoàn và cá nhân mình, để dâng lời chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa qua Đức Giê-su Ki-tô đang hiện diện trên bàn thờ.
Linh mục chính là người phục vụ và mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, nhất là những nơi mà các ngài được sai đến với tư cách là mục tử, chính nhờ bí tích Thánh Thể và chức thánh mà các ngài quy tụ chung quanh mình những kẻ tin vào Chúa Ki-tô, và làm cho họ trở nên một đàn chiên duy nhất trong Hội Thánh của Chúa, do đó, linh mục luôn ý thức rằng: mình vừa là thầy vừa là anh em của mọi người, cho nên các ngài không những sống sao cho tốt đẹp, để đàn chiên mà mình đang coi sóc được hưởng nhờ những ơn thánh qua sự thánh hiến của mình, và giáo dân sẽ an tâm vui vẻ sống trong tình yêu Thiên Chúa dưới sự chăm sóc của các ngài.
Bạn thân mến,
Hôm nay cũng là ngày của linh mục, chúng ta nhớ luôn cầu nguyện cho các ngài được dồi dào ơn Chúa, để các ngài trước hết là thánh hoá bản thân mình, sau nữa là thánh hoá các linh hồn trong thiên chức linh mục mà các ngài đã lãnh nhận.
Chúng ta vẫn thấy có những linh mục chưa làm tròn trách nhiệm mà Thiên Chúa và Giáo Hội đã trao cho các ngài, chúng ta cũng thấy có vài linh mục trở nên gương xấu cho giáo hữu, nhưng đồng thời chúng ta cũng nhìn thấy rất nhiều linh mục tận tuỵ yêu mến và chăm sóc đàn chiên của Chúa qua cuộc sống của các ngài.
Thứ Năm Tuần Thánh này sẽ qua đi và chúng ta sẽ không còn nhớ đến những nghi thức đầy ý nghĩa trong thánh lễ này nữa, nhưng bí tích Thánh Thể, bí tích Truyền Chức Thánh và giới luật Yêu Thương của Đức Chúa Giê-su vẫn tồn tại mãi mãi cho đến tận thế, không phải tồn tại trong viện bảo tàng, nhưng tồn tại và sống động trong cuộc sống của Giáo Hội và của mỗi người trong chúng ta, bởi vì các bí tích và giới luật này không phải do con người lập ra nhưng là do chính Đức Chúa Giê-su –Thiên Chúa làm người- lập ra và được bảo chứng bởi cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
(Có nghi thức Rửa Chân)
Bạn thân mến,
Hôm nay Thứ Năm Tuần Thánh, theo truyền thống của Giáo Hội, chiều hôm nay Đức Chúa Giê-su đã làm ba công việc vừa vĩ đại vừa mầu nhiệm, để lưu truyền cho Giáo Hội tiếp tục công trình cứu chuộc nhân loại của Ngài cho đến tận thế, đó là:
1- Ban giới răn mới là luật Yêu thương.
2- Lập bí tích Thánh Thể.
3- Lập bí tích Truyền chức thánh.
Trong khung cảnh của phụng vụ này, tôi chia sẻ với bạn mấy điều sau đây:
1- Ban giới răn mới là luật Yêu thương.
Chút nữa đây cha linh mục chủ tế sẽ rửa chân cho mười hai vị giáo dân được chọn ở trong giáo xứ để tưởng nhớ và kỷ niệm Đức Chúa Giê-su đã rửa chân cho các Tông Đồ năm xưa trong bữa ăn cuối cùng của Ngài.
Rửa chân là công việc của đầy tớ làm để phục vụ cho chủ nhân, là một hành động bày tỏ sự phục tùng của người tôi tớ, Đức Chúa Giê-su đã dùng phương thức này để dạy cho các tông đồ một bài học mới, bài học yêu thương và phục vụ, Ngài nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rữa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rữa chân cho nhau...”.
Yêu thương và phục vụ tuy là hai nhưng chỉ là một, hay nói cách khác phục vụ là hoa quả của yêu thương, bởi vì không ai yêu thương mà không phục vụ, nhưng nếu phục vụ mà không yêu thương thì chỉ là giả dối và đáng bị lên án. Đức Chúa Giê-su đã làm gương cho chúng ta khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của mình, thì chúng ta cũng nên cúi xuống mà rửa chân cho anh em và cho tha nhân như Đức Chúa Giê-su đã làm, rửa chân cho nhau chính là phục vụ nhau, yêu thương nhau và giúp nhau thăng tiến trong tình yêu của Chúa qua cuộc sống của mình.
Người thời nay lấy làm lạ khi chúng ta yêu thương và phục vụ họ, họ sẽ thắc mắc đâu là động cơ thúc giục chúng ta làm điều ấy, khi mà cả nhân loại đang đắm chìm trong hưởng thụ và sống trong ích kỉ của mình.
2- Lập bí tích Thánh Thể.
Cao điểm của bữa tiệc ly chính là lúc Đức Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thể, là bí tích làm nên Hội Thánh và cũng là nguồn ân sủng hiện diện cách thực tại cho chúng ta được hưởng dùng, đây là một mầu nhiệm mà Giáo Hội qua mọi thời đại đều tuyên xưng: mầu nhiệm tình yêu.
Với khung cảnh đầm ấm trong căn phòng trên gác, với tình cảm chan hoà của tình thầy trò, Đức Chúa Giê-su đã thố lộ tâm tình với các Tông Đồ: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” . Sự mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với các môn đệ đã thành hiện thực và đây là bữa ăn cuối cùng của đời Ngài, vì thế, lễ Vượt Qua này sẽ không còn hiệu lực nữa khi Ngài cầm bánh không men đưa cho các môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”. Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội...” , bởi vì từ nay chính Ngài vừa là lễ Vượt Qua vừa là Bánh tinh tuyền không men, nuôi sống nhân loại trên đường lữ thứ trần gian.
Bí tích Thánh Thể nguồn mạch của mọi ân sủng, hàng ngày hàng giờ vẫn diễn ra trong các thánh lễ trên khắp mặt đất nơi các nhà thờ nhà nguyện, đó chính là nguồn ơn vô tận mà Đức Chúa Giê-su đã vì yêu thương mà ban cho chúng ta. Đây là một sáng kiến độc đáo của Thiên Chúa, một chứng tích của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại mà các thánh -qua mọi thời đại- đã hưởng dùng, cảm nghiệm và hết lòng ca tụng tình yêu ấy của Thiên Chúa.
Có nhiều người trong chúng ta coi việc rước Mình Thánh Chúa như là đồ trang sức cho đẹp khi tham dự thánh lễ, cho nên họ không chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng, họ không tha thiết việc rước Chúa là bảo đảm cho phần rỗi đời đời của mình, nên đối với họ rước lễ hay không cũng chẳng nhằm nhò gì, đó chính là lí do khiến họ ngày càng xa rời ân sủng của Chúa hơn. Thánh Phao-lô tông đồ đã nghiêm khắc cảnh cáo chúng ta về việc rước lễ khi còn trong tình trạng tội trọng như sau: “Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh và uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa..., Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình...”.
Bí tích Thánh Thể làm cho chúng ta trở nên một trong Chúa Ki-tô, trở nên một chính là không của tôi không của anh nhưng là thuộc về Chúa Ki-tô và Hội Thánh của Ngài, do đó mà mỗi người trong chúng ta khi ăn Mình và uống Máu Chúa, thì chúng ta cũng phải trở nên bánh và nước cho anh chị em và tha nhân hưởng dùng, đó chính là yêu thương và phục vụ vậy.
3- Lập bí tích Truyền chức thánh.
Bí tích truyền chức thánh tức là bí tích Thừa tác Linh Mục, đây chính là một hồng ân to lớn của Thiên Chúa ban tặng cho loài người.
Đức Chúa Giê-su khi thiết lập bí tích Thánh Thể thì đồng thời Ngài cũng thiết lập bí tích truyền chức linh mục cho các môn đệ khi nói: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” , để các môn đệ của mình, và những người kế tục các ngài trong chức giám mục và linh mục thực hiện mọi ngày cho đến tận thế.
Linh mục là người được thông phần vào sự sáng tạo của Thiên Chúa, chính các ngài đã được Thánh Thần thánh hoá để trở nên công cụ thánh, để làm cho có Đức Chúa Giê-su trên bàn thờ trong thánh lễ, đây cũng chính là mầu nhiệm tình yêu mà Đức Chúa Giê-su đã thực hiện giữa nhân loại: Ngài chọn những con người bất toàn để làm cho họ trở nên hoàn hảo trong bí tích truyền chức thánh -linh mục- để chính các ngài hằng ngày nhân danh Thiên Chúa, nhân danh Hội Thánh, nhân danh cộng đoàn và cá nhân mình, để dâng lời chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa qua Đức Giê-su Ki-tô đang hiện diện trên bàn thờ.
Linh mục chính là người phục vụ và mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, nhất là những nơi mà các ngài được sai đến với tư cách là mục tử, chính nhờ bí tích Thánh Thể và chức thánh mà các ngài quy tụ chung quanh mình những kẻ tin vào Chúa Ki-tô, và làm cho họ trở nên một đàn chiên duy nhất trong Hội Thánh của Chúa, do đó, linh mục luôn ý thức rằng: mình vừa là thầy vừa là anh em của mọi người, cho nên các ngài không những sống sao cho tốt đẹp, để đàn chiên mà mình đang coi sóc được hưởng nhờ những ơn thánh qua sự thánh hiến của mình, và giáo dân sẽ an tâm vui vẻ sống trong tình yêu Thiên Chúa dưới sự chăm sóc của các ngài.
Bạn thân mến,
Hôm nay cũng là ngày của linh mục, chúng ta nhớ luôn cầu nguyện cho các ngài được dồi dào ơn Chúa, để các ngài trước hết là thánh hoá bản thân mình, sau nữa là thánh hoá các linh hồn trong thiên chức linh mục mà các ngài đã lãnh nhận.
Chúng ta vẫn thấy có những linh mục chưa làm tròn trách nhiệm mà Thiên Chúa và Giáo Hội đã trao cho các ngài, chúng ta cũng thấy có vài linh mục trở nên gương xấu cho giáo hữu, nhưng đồng thời chúng ta cũng nhìn thấy rất nhiều linh mục tận tuỵ yêu mến và chăm sóc đàn chiên của Chúa qua cuộc sống của các ngài.
Thứ Năm Tuần Thánh này sẽ qua đi và chúng ta sẽ không còn nhớ đến những nghi thức đầy ý nghĩa trong thánh lễ này nữa, nhưng bí tích Thánh Thể, bí tích Truyền Chức Thánh và giới luật Yêu Thương của Đức Chúa Giê-su vẫn tồn tại mãi mãi cho đến tận thế, không phải tồn tại trong viện bảo tàng, nhưng tồn tại và sống động trong cuộc sống của Giáo Hội và của mỗi người trong chúng ta, bởi vì các bí tích và giới luật này không phải do con người lập ra nhưng là do chính Đức Chúa Giê-su –Thiên Chúa làm người- lập ra và được bảo chứng bởi cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Dạ, Muốn Lắm Nhưng Không Dám
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
08:38 13/04/2022
Dạ, Muốn Lắm Nhưng Không Dám
Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật dữ kiện Chúa Giêsu lần thứ nhất tiên báo cuộc khổ nạn của Người và đưa ra những điều kiện để theo Người. Không thấy Tin Mừng tường thuật tiếp thái độ của đám đông là dừng lại hay tiếp tục đi theo, tuy nhiên các tông đồ thì vẫn còn theo Thầy (x.Mt 16,21-26; Mc 8,31-38; Lc 9,22-26 ). Đặt mình vào hoàn cảnh đám đông đang theo Chúa Giêsu năm xưa, nghe Người nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34) chắc hẳn rất nhiều Kitô hữu nhiệt thành và đạo đức sẽ nói rằng “con muốn”. Tuy nhiên nếu chịu khó tìm hiểu khúc gỗ hình chữ thập trên vai Chúa Giêsu là gì, thì có đó không ít người khiêm nhu và trung thực thân thưa: “Dạ con muốn lắm nhưng không dám”.
Khúc gỗ hình chữ thập trên vai Chúa Giêsu là gì? Thập giá là án phạt tử hình độc ác, rùng rợn, dã man mà đế quốc Rôma đặt ra để trừng trị các phạm nhân mắc trọng tội. Cách riêng thời Chúa Giêsu thì nó được dùng làm vũ khí đàn áp những chí sĩ Do Thái muốn giải phóng quê hương khỏi ách nô lệ đế quốc Rôma, dành lại độc lập tự do cho dân tộc mình. Quan Philatô lúc bấy giờ rất thích dùng án hình này. Chắc chắn khi Chúa Giêsu tiên báo án hình khổ giá mình sẽ phải chịu thì có thể nhiều môn đệ hiểu lý do về mặt chính trị, vì đây như là mục đích chính mà các vị “từ bỏ mọi sự” mà đi theo Người.
Cùng xét xem bối cảnh mà Chúa Giêsu nói lời tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá. Sau khi rao giảng chân lý về nước Thiên Chúa và miệt mài giáng phúc thi ân bất chấp một vài luật lệ của Do Thái giáo, cách riêng là luật ngày lễ nghỉ thì Chúa Giêsu đã bị nhiều lãnh đạo Do Thái giáo, nhiều người biệt phái và kinh sư ganh ghét, tìm cách hãm hại. Hai trong ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá của mình Chúa Giêsu đã nói rõ chính các Thượng tế, kỳ lão và kinh sư ở Giêrusalem là những người trực tiếp áp đặt khúc gỗ chữ thập trên vai của Người (x.Mt 16,21-23; Mc 8,31-33; Lc 9,22; Mt 20,17-19; Mc 10,32-34; Lc 18,31-34).
Theo bối cảnh này chúng ta thoáng nhận ra lý do Chúa Giêsu phải đón chịu khúc gỗ hình chữ thập đó là vì Người muốn dùng ánh sáng chân lý qua lời giảng dạy và việc làm để giải thoát nhân loại ra khỏi ách kìm hãm của thần dữ, ra khỏi cung cách sống đạo như là người nô lệ mà nhiều lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ đang áp đặt trên dân. Trước tòa Philatô, chính Người đã khẳng định: “Phải, tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Trước đó Người đã từng nói với những người Do Thái: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ của tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông:” (Ga 8,31-32).
Là loài có sự sống, con người chúng ta bị chi phối bởi ba bản năng là sinh – tồn và thống trị. Bên cạnh hai bản năng sống, tồn tại và lưu truyền nòi giống thì bản năng thống trị luôn chi phối các hoạt động của chúng ta. Đặc biệt khi có chút quyền lực về mặt xã hội hay tôn giáo thì bản năng này có dịp nổi lên dưới nhiều hình thức mà mục đích đến là kiểm soát, nô lệ hóa tha nhân để bảo vệ vị thế và quyền lực của mình. Đã và đang có đó nhiều vị lãnh đạo ngoài xã hội nơi này, nơi kia dù rằng vẫn tuyên bố là tôn trọng sự tự do của người dân nhưng lại bắt dân phải sử dụng “tự do trong khuôn khổ”. Sự xảo quyệt ở đây nằm ở phạm trù “khuôn khổ”. Thực chất đó chính là những cơ chế, luật lệ do chính những người lãnh đạo đặt ra mà nhiều khi rất bất minh và thiếu công bình. Và thế là người dân, nhất là dân nghèo được “tự do sống đời nô lệ”. Đã và đang có đó nhiều lãnh đạo các tôn giáo nô lệ hóa các tín hữu bằng những lời giảng dạy một chiều, bằng tập tục và truyền thống của mình, nhất là bằng việc thần thánh hóa cách tuyệt đối quyền bính mình đang đảm nhận. Và thế là nhiều tính hữu cách vô tri sống đạo cách thiếu trưởng thành, chỉ biết “xưa bày nay làm”, “trên bảo sao thì dưới nghe vậy”.
Chúa Giêsu cam chịu vác thập giá là để giải thoát nhân loại chúng ta khỏi kiếp nô lệ, đưa chúng ta về với cảnh đời con cái tự do của cùng một Cha trên trời. Thiết nghĩ rằng vì lý do nào đó mà chúng ta cam chịu cảnh sống vong thân, quá lệ thuộc thì có lẽ thập giá của Chúa Kitô đã ra vô ích với chúng ta. Cũng xin hãy cẩn trọng với nhiều hình thức nô lệ hóa tha nhân bằng thần quyền qua những truyền thống do chính bàn tay chúng ta làm ra. Dù rằng rất nhiều trường hợp chúng ta vẫn được Chúa Giêsu xin Chúa Cha tha thứ vì chúng ta “lầm, không biết việc mình làm là sai trái” (x.Lc 23,34), nhưng chính chúng ta đang góp phần đặt lên vai Người khúc gỗ hình chữ thập.
Vác thập giá mình mà đi theo Chúa Giêsu là không chỉ muốn sống đời tự do như là con cái Nước Trời mà còn phải nỗ lực giúp tha nhân thoát khỏi vòng nô lệ dưới mọi chiều kích và hình thức. Chắc chắn có đó nhiều gian truân, cách riêng sự phản kháng và đàn áp của những người quyền cao chức trọng đang nô lệ hóa tha nhân để bảo vệ quyền uy của mình. Sự khốn khó mỗi người mỗi khác nhưng đó là thập giá. Lạy Chúa, chúng con muốn theo Chúa nhưng vác thập giá thì lại không dám. Ước gì chúng con cảm nhận được lời của Chúa xưa ngõ với các tông đồ: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33), và với vị tông đồ dân ngoại, Phaolô: “Ơn ta đủ cho con” (2Cr 12,9).
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật dữ kiện Chúa Giêsu lần thứ nhất tiên báo cuộc khổ nạn của Người và đưa ra những điều kiện để theo Người. Không thấy Tin Mừng tường thuật tiếp thái độ của đám đông là dừng lại hay tiếp tục đi theo, tuy nhiên các tông đồ thì vẫn còn theo Thầy (x.Mt 16,21-26; Mc 8,31-38; Lc 9,22-26 ). Đặt mình vào hoàn cảnh đám đông đang theo Chúa Giêsu năm xưa, nghe Người nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34) chắc hẳn rất nhiều Kitô hữu nhiệt thành và đạo đức sẽ nói rằng “con muốn”. Tuy nhiên nếu chịu khó tìm hiểu khúc gỗ hình chữ thập trên vai Chúa Giêsu là gì, thì có đó không ít người khiêm nhu và trung thực thân thưa: “Dạ con muốn lắm nhưng không dám”.
Khúc gỗ hình chữ thập trên vai Chúa Giêsu là gì? Thập giá là án phạt tử hình độc ác, rùng rợn, dã man mà đế quốc Rôma đặt ra để trừng trị các phạm nhân mắc trọng tội. Cách riêng thời Chúa Giêsu thì nó được dùng làm vũ khí đàn áp những chí sĩ Do Thái muốn giải phóng quê hương khỏi ách nô lệ đế quốc Rôma, dành lại độc lập tự do cho dân tộc mình. Quan Philatô lúc bấy giờ rất thích dùng án hình này. Chắc chắn khi Chúa Giêsu tiên báo án hình khổ giá mình sẽ phải chịu thì có thể nhiều môn đệ hiểu lý do về mặt chính trị, vì đây như là mục đích chính mà các vị “từ bỏ mọi sự” mà đi theo Người.
Cùng xét xem bối cảnh mà Chúa Giêsu nói lời tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá. Sau khi rao giảng chân lý về nước Thiên Chúa và miệt mài giáng phúc thi ân bất chấp một vài luật lệ của Do Thái giáo, cách riêng là luật ngày lễ nghỉ thì Chúa Giêsu đã bị nhiều lãnh đạo Do Thái giáo, nhiều người biệt phái và kinh sư ganh ghét, tìm cách hãm hại. Hai trong ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá của mình Chúa Giêsu đã nói rõ chính các Thượng tế, kỳ lão và kinh sư ở Giêrusalem là những người trực tiếp áp đặt khúc gỗ chữ thập trên vai của Người (x.Mt 16,21-23; Mc 8,31-33; Lc 9,22; Mt 20,17-19; Mc 10,32-34; Lc 18,31-34).
Theo bối cảnh này chúng ta thoáng nhận ra lý do Chúa Giêsu phải đón chịu khúc gỗ hình chữ thập đó là vì Người muốn dùng ánh sáng chân lý qua lời giảng dạy và việc làm để giải thoát nhân loại ra khỏi ách kìm hãm của thần dữ, ra khỏi cung cách sống đạo như là người nô lệ mà nhiều lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ đang áp đặt trên dân. Trước tòa Philatô, chính Người đã khẳng định: “Phải, tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Trước đó Người đã từng nói với những người Do Thái: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ của tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông:” (Ga 8,31-32).
Là loài có sự sống, con người chúng ta bị chi phối bởi ba bản năng là sinh – tồn và thống trị. Bên cạnh hai bản năng sống, tồn tại và lưu truyền nòi giống thì bản năng thống trị luôn chi phối các hoạt động của chúng ta. Đặc biệt khi có chút quyền lực về mặt xã hội hay tôn giáo thì bản năng này có dịp nổi lên dưới nhiều hình thức mà mục đích đến là kiểm soát, nô lệ hóa tha nhân để bảo vệ vị thế và quyền lực của mình. Đã và đang có đó nhiều vị lãnh đạo ngoài xã hội nơi này, nơi kia dù rằng vẫn tuyên bố là tôn trọng sự tự do của người dân nhưng lại bắt dân phải sử dụng “tự do trong khuôn khổ”. Sự xảo quyệt ở đây nằm ở phạm trù “khuôn khổ”. Thực chất đó chính là những cơ chế, luật lệ do chính những người lãnh đạo đặt ra mà nhiều khi rất bất minh và thiếu công bình. Và thế là người dân, nhất là dân nghèo được “tự do sống đời nô lệ”. Đã và đang có đó nhiều lãnh đạo các tôn giáo nô lệ hóa các tín hữu bằng những lời giảng dạy một chiều, bằng tập tục và truyền thống của mình, nhất là bằng việc thần thánh hóa cách tuyệt đối quyền bính mình đang đảm nhận. Và thế là nhiều tính hữu cách vô tri sống đạo cách thiếu trưởng thành, chỉ biết “xưa bày nay làm”, “trên bảo sao thì dưới nghe vậy”.
Chúa Giêsu cam chịu vác thập giá là để giải thoát nhân loại chúng ta khỏi kiếp nô lệ, đưa chúng ta về với cảnh đời con cái tự do của cùng một Cha trên trời. Thiết nghĩ rằng vì lý do nào đó mà chúng ta cam chịu cảnh sống vong thân, quá lệ thuộc thì có lẽ thập giá của Chúa Kitô đã ra vô ích với chúng ta. Cũng xin hãy cẩn trọng với nhiều hình thức nô lệ hóa tha nhân bằng thần quyền qua những truyền thống do chính bàn tay chúng ta làm ra. Dù rằng rất nhiều trường hợp chúng ta vẫn được Chúa Giêsu xin Chúa Cha tha thứ vì chúng ta “lầm, không biết việc mình làm là sai trái” (x.Lc 23,34), nhưng chính chúng ta đang góp phần đặt lên vai Người khúc gỗ hình chữ thập.
Vác thập giá mình mà đi theo Chúa Giêsu là không chỉ muốn sống đời tự do như là con cái Nước Trời mà còn phải nỗ lực giúp tha nhân thoát khỏi vòng nô lệ dưới mọi chiều kích và hình thức. Chắc chắn có đó nhiều gian truân, cách riêng sự phản kháng và đàn áp của những người quyền cao chức trọng đang nô lệ hóa tha nhân để bảo vệ quyền uy của mình. Sự khốn khó mỗi người mỗi khác nhưng đó là thập giá. Lạy Chúa, chúng con muốn theo Chúa nhưng vác thập giá thì lại không dám. Ước gì chúng con cảm nhận được lời của Chúa xưa ngõ với các tông đồ: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33), và với vị tông đồ dân ngoại, Phaolô: “Ơn ta đủ cho con” (2Cr 12,9).
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Câu Chuyện Tình Yêu: Suy niệm thứ Sáu Tuần Thánh
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:19 13/04/2022
Câu Chuyện Tình Yêu: Suy niệm thứ Sáu Tuần Thánh
(Ga 18,1-19,42)
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Câu chuyện tình yêu
Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : "Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết".
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : "Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta" (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết "Thiên Chúa là Tình Yêu ", thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : "Thiên Chúa là Tình Yêu".
Thờ lạy Thánh Giá Chúa
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy?
Thưa, Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả làm một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.
Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, "sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?" (1Cr 15, 54-55).
Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(Ga 18,1-19,42)
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Câu chuyện tình yêu
Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : "Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết".
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : "Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta" (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết "Thiên Chúa là Tình Yêu ", thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : "Thiên Chúa là Tình Yêu".
Thờ lạy Thánh Giá Chúa
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy?
Thưa, Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả làm một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.
Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, "sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?" (1Cr 15, 54-55).
Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa Giê-su có thật sự sống lại không?
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
22:55 13/04/2022
Có dư luận cho rằng Chúa Giê-su không sống lại, chẳng qua là các môn đệ đánh cắp xác Ngài ra khỏi mồ rồi đem đi nơi khác, sau đó, họ toa rập với nhau, phao tin Chúa đã sống lại, xác Ngài không còn nằm trong mồ nữa.
Thực hư thế nào? Có bằng chứng nào chứng tỏ Chúa Giê-su đã sống lại không?
Có nhiều bằng chứng khác nhau, ở đây chúng ta chỉ nêu lên bằng chứng thuyết phục nhất.
Đó là các Tông đồ sẵn sàng chịu chết để làm chứng Chúa Giêsu sống lại.
Nếu Chúa Giêsu chết mà không sống lại như lời Ngài báo trước, thì các Tông đồ sẽ có những phản ứng như sau:
Thứ nhất: Các ông sẽ ngộ ra rằng Thầy Giêsu mà họ đem lòng tin tưởng, yêu mến và ngưỡng mộ bấy lâu không phải là Con Thiên Chúa như lời Ngài nói mà chỉ là người phàm tự xưng mình là con Thiên Chúa. Như thế, Ngài đã lừa dối họ và các ông sẽ thất vọng về Ngài, sẽ oán ghét và phế bỏ Ngài vì Ngài đã lừa dối các ông, đã làm cho cuộc đời các ông dang dở: bỏ công theo Ngài ba năm, giờ chẳng được tích sự gì!
Thứ hai: Các ông sẽ không bịa đặt chuyện Chúa Giêsu sống lại rồi đi rao truyền khắp nơi lừa bịp người khác; vì khi làm như thế, các ông chẳng những chẳng được lợi lộc gì mà còn mất tất cả, kể cả mạng sống mình.
Thứ ba: Các ông sẽ không điên rồ đến nỗi tiếp tục từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, lại phải chịu đòn vọt, xiềng xích, tù đày và chịu chết để đi loan truyền một điều láo khoét là Chúa Giêsu sống lại.
Trong thực tế, các phản ứng kể trên không hề xảy ra.
Trái lại, các Tông đồ tiếp tục hy sinh tất cả, từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, chấp nhận đòn vọt, tù đày và chấp nhận chết để làm chứng cho mọi người biết Chúa Giêsu đã thực sự sống lại từ cõi chết, vì chính các Ngài đã tận mắt chứng kiến Chúa sống lại thật.
Có ai trên đời điên rồ đến nỗi chịu đánh mất tất cả những gì trân quý nhất trong cuộc sống như các Tông đồ đã làm và đặc biệt là chấp nhận đòn vọt, tù đày và nhận lấy cái chết để lừa dối người khác tin vào điều bịa đặt của mình không? Chắc chắn là không!
Trong khi đó, tất cả các Tông đồ, ngoại trừ Gioan bị lưu đày ra đảo Patmos, đã từ bỏ tất cả mọi thứ nêu trên và vui lòng lãnh lấy án chết… để minh chứng rằng Chúa Giêsu thực sự sống lại.
Khi người làm chứng sẵn sàng chịu mất tất cả và chịu chết để minh chứng mình nói thật, thì lời chứng của người đó là chân thật. Vậy, sự kiện Đức Giêsu sống lại là hoàn toàn chắc chắn!
Sự việc Chúa Giêsu sống lại chứng tỏ cho chúng ta thấy Ngài không phải là người phàm (vì người phàm thì không thể sống lại) nhưng đích thực là Con Thiên Chúa như lời Ngài đã nói.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con vô cùng diễm phúc vì Chúa chịu khổ nạn và chịu chết để đền tội thay cho chúng con; nhờ đó, chúng con thoát khỏi gông cùm sự chết, thoát ngục tử thần; và Chúa đã sống lại để dẫn đưa chúng con vào đời sống mới bất diệt trên thiên quốc.
Chúng con hân hoan cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con hồng phúc vô giá nầy và xin cho chúng con sống xứng đáng với ân huệ Chúa trao ban. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Một quà tặng, muôn lần trao
Lm. Minh Anh
23:49 13/04/2022
MỘT QUÀ TẶNG, MUÔN LẦN TRAO
“Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình, và Ngài yêu thương họ đến cùng!”.
Một nhà thần học nói, “Người khôn ngoan không coi trọng món quà của người yêu bằng tình cảm của người tặng. Đức Giêsu, vừa là người yêu, vừa là người tặng! Quà Ngài tặng là chính Ngài. Không chỉ trao một lần, Ngài trao chính mình Ngài như ‘một Quà Tặng, muôn lần trao!’”.
Kính thưa Anh Chị em,
Ý nghĩa Thánh Lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh có thể được tóm gọn trong hai từ, “Quà Tặng!”. Đó là một “Quà Tặng” mà vì “yêu đến cùng”, nó có tới ba lần trao! Lần thứ nhất, Chúa Giêsu cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; lần thứ hai, khi Ngài hiến mình trong phép Thánh Thể; và lần thứ ba, khi Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí!”. Và không chỉ ba lần, mỗi ngày, trong mọi Thánh Lễ, Ngài tiếp tục trao chính mình; và như thế, Ngài là ‘một Quà Tặng, muôn lần trao!’.
Tin Mừng nói, “Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết giờ của Ngài đã đến… Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình, và Ngài yêu thương họ đến cùng!”. Chính trong bữa ăn yêu thương mà mọi người Do Thái phải cử hành, như bài đọc Xuất Hành hôm nay cho biết; lần thứ nhất, Chúa Giêsu trao chính mình trong sự phục vụ yêu thương khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ! Lần trao thứ hai, cũng trong bữa tối đó, Ngài hiến mình dưới hình thức của ăn và của uống, “Hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Thầy!”; “Hãy nhận lấy mà uống, này là Máu Thầy!” được thánh Phaolô nhắc lại qua thư Côrintô hôm nay; qua đó, Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể!
Như vậy, khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, cũng như khi cầm lấy bánh rượu trao cho họ, Chúa Giêsu đã tiên liệu một “Quà Tặng” thiết thực hơn, lớn lao hơn mà Ngài sẽ trao vào ngày hôm sau; và đó là lần trao thứ ba! Một thân xác nát tan, đỏ một màu máu, Ngài phó dâng linh hồn cho Chúa Cha và hiến mình qua cái chết trên thập giá để chuộc lấy một nhân loại đã hư mất! Như vậy, chỉ với Thứ Năm và Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên, Chúa Giêsu đã tặng trao chính mình đến ba lần. Và còn hơn thế, Ngài nói, “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy!”, cũng như, “Hãy làm như Thầy đã làm cho các con!”. Để từ đó, mầu nhiệm đức tin này liên lỉ được cử hành trên các bàn thờ; và như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục trao tặng chính mình cho chúng ta, phục vụ chúng ta liên lỉ. Qua Bí tích Thánh Thể, Ngài kêu gọi chúng ta phục vụ lẫn nhau; và khi phục vụ lẫn nhau, Ngài tiếp tục phục vụ chúng ta ‘trong nhau và qua nhau!’. Bởi đó, “Quà Tặng” Giêsu không chỉ được trao một lần, ba lần, nhưng ‘n’ lần, muôn lần!
Anh Chị em,
Những gì xảy ra trong bữa Tiệc Ly sẽ là khuôn mẫu của đời sống Hội Thánh, cũng là khuôn mẫu của cuộc sống của những ai theo Ngài. Thật ý nghĩa với Thánh Vịnh đáp ca, “Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô!”. Thông hiệp với Chúa Kitô trong Thánh Thể, chúng ta nhận lại món quà Ngài đã ban trên thập giá, và khi nhận được món quà đó, chúng ta tìm thấy sức mạnh để sống lời kêu gọi “yêu đến cùng” như Ngài đã “yêu đến cùng!”. Như thế, Thánh Thể nuôi dưỡng sự khiêm nhường phục vụ; và khiêm nhường phục vụ, hiện thực hoá Thánh Thể. Khi lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta được sống sự sống thần linh của Ba Ngôi Chí Thánh, nên một với Thiên Chúa và được ban cho của ăn đời đời; từ đó, Thánh Thể biến chúng ta thành những người phục vụ đích thực, vốn là một biểu hiện đẹp đẽ của sự kết hợp mật thiết của chính chúng ta với Chúa Giêsu, Đấng đã “yêu cho đến cùng”. Thánh Thể cho thấy sự vĩ đại thực sự được tìm thấy trong phục vụ khiêm nhường. Hãy để Thứ Năm Tuần Thánh biến đổi bạn trở nên quà tặng như Ngài; noi gương tình yêu vĩ đại Ngài đã dâng hiến, cả chúng ta, hãy hiến dâng!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Chúa là ‘một Quà Tặng, muôn lần trao’, xin Mình Máu Chúa biến đổi con thành một quà tặng yêu thương, hiến mình phục vụ anh em con như Chúa đã hiến mình!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Hiệp hành cùng Chúa bước qua
Lm. Nguyễn Xuân Trường
23:53 13/04/2022
TAM NHẬT VƯỢT QUA: HIỆP HÀNH CÙNG CHÚA BƯỚC QUA
Thứ Năm Tiệc Ly, chúng ta cùng Chúa bước qua việc chăm lo cho bản thân, để bước ra phục vụ và chăm lo cho tha nhân.
Thứ Sáu Thương Đau, chúng ta cùng Chúa bước qua cả mạng sống mình để hy sinh vì yêu thương cứu người khác.
Thứ Bảy Vọng Phục Sinh, chúng ta cùng Chúa bước qua biên giới của sự chết để tiến vào sự sống mới đời đời. Alleluia!
Thế nên, Tam Nhật Vượt Qua, chúng ta hiệp hành bước vào trong tình thương cứu độ của Chúa, cùng Chúa chúng ta bước ra chăm lo cho tha nhân, nhờ Chúa chúng ta bước tới hưởng sự sống mới đời đời. Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha Phanxicô và sự cần thiết của một Liên Hiệp Quốc hiệu quả hơn
Đặng Tự Do
05:26 13/04/2022
Trong các bài phát biểu của mình trước Liên Hiệp Quốc, cũng như trong “Fratelli tutti,” Đức Thánh Cha Phanxicô luôn khuyến khích cải cách Liên Hiệp Quốc để mang lại tính hiệu quả cụ thể thực sự cho khái niệm “một gia đình các quốc gia”, đồng thời thúc giục những nỗ lực lớn hơn hướng tới chủ nghĩa đa phương.
“Trong cuộc chiến hiện nay ở Ukraine, chúng ta đang chứng kiến sự bất lực của các Tổ chức của Liên Hiệp Quốc.” Những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô tại buổi Tiếp kiến chung hôm thứ Tư 6 tháng Tư đã vang vọng rộng rãi. Tuy nhiên, không kém phần liên quan là những từ ngay trước câu nói này. Thật vậy, chúng là tiền đề của nhận xét cay đắng: “Sau Thế chiến II, các nỗ lực được thực hiện để đặt nền móng cho một kỷ nguyên hòa bình mới. Nhưng, thật không may - chúng ta không bao giờ học được, phải không? Câu chuyện cũ về sự cạnh tranh giữa các cường quốc vẫn tiếp diễn”.
Đức Thánh Cha Phanxicô tin tưởng mạnh mẽ vào vai trò của Liên Hiệp Quốc và giá trị của chủ nghĩa đa phương. Niềm tin rằng ngày nay thậm chí còn mạnh mẽ hơn trong “thời đại thay đổi” mà chúng ta đang sống trong quá trình gian khổ tìm kiếm một chân trời mới để cùng tồn tại cho nhân loại. Theo bước chân của những người tiền nhiệm - và đặc biệt là Đức Thánh Phaolô Đệ Lục, Đức Thánh Gioan Phaolô II, và Đức Bênêđíctô XVI - Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần có những cử chỉ và lời nói ủng hộ Liên Hiệp Quốc, khuyến khích một quá trình cải cách được yêu cầu đặc biệt bởi những quốc gia, bởi những dân tộc, là những người chịu nhiều hậu quả nhất của sự bất lực mà Đức Giáo Hoàng đã đề cập đến.
Phát biểu ngày 25 tháng 9 năm 2015, tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng “cải cách và thích ứng với thời đại luôn cần thiết để theo đuổi mục tiêu cuối cùng là cho tất cả các quốc gia, không có ngoại lệ, được chia sẻ và có một tầm ảnh hưởng công bằng trong quá trình ra quyết định”. Do đó, ngay từ những năm đầu tiên của triều đại giáo hoàng, ngài đã nhấn mạnh chủ đề “nhu cầu công bằng hơn”, đặc biệt là trong trường hợp của những cơ quan có “năng lực điều hành hiệu quả, chẳng hạn như Hội đồng Bảo an, Cơ quan Tài chính và các nhóm hoặc các cơ chế được tạo ra đặc biệt để đối phó với các cuộc khủng hoảng kinh tế “. Và ngài kết thúc bài phát biểu của mình tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York bằng cách nhắc lại sự cần thiết của một Liên Hiệp Quốc được củng cố. Đức Thánh Cha nhận xét “Khuôn khổ luật pháp quốc tế đáng khen ngợi của Tổ chức Liên Hiệp Quốc”, “có thể là cam kết về một tương lai an toàn và hạnh phúc cho các thế hệ tương lai. Và điều đó sẽ xảy ra, nếu đại diện của các Quốc gia có thể gác lại các lợi ích đảng phái và ý thức hệ, và chân thành nỗ lực phục vụ lợi ích chung.” Đức Thánh Cha cũng nhắc lại những khái niệm này vào tháng 11 cùng năm trong chuyến thăm đến trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nairobi.
Trên cam kết chăm lo cho ngôi nhà chung của chúng ta, giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp quốc tế và phát triển kinh tế lấy con người và các dân tộc làm trung tâm, Đức Giáo Hoàng và Tòa thánh coi Liên Hiệp Quốc là diễn đàn quốc tế phù hợp nhất để tìm ra điểm hội tụ giữa các vấn đề khác nhau và các sở thích đa dạng.
Vào tháng 12 năm 2019, trong một thông điệp video chung, Đức Giáo Hoàng và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres nhắc lại rằng “sự tin tưởng vào đối thoại giữa các cá nhân và giữa các quốc gia, trong chủ nghĩa đa phương, vai trò của các tổ chức quốc tế và ngoại giao như một công cụ để đánh giá cao và sự hiểu biết, là điều không thể thiếu cho việc xây dựng một thế giới hòa bình. “
Vài tháng sau, đại dịch Covid-19 bùng phát, khiến việc đầu tư vào chủ nghĩa đa phương càng trở nên không thể thiếu, với nhận thức rằng tất cả nhân loại đều ở chung một con thuyền, Đức Thánh Cha nhận xét trong một thông điệp video vào ngày 25 tháng 9 năm 2020 tại Cuộc họp lần thứ 75 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, “đại dịch đã cho chúng ta thấy rằng chúng ta không thể sống thiếu nhau, hoặc tệ hơn là vẫn đọ sức với nhau. Liên Hiệp Quốc được thành lập để gắn kết các quốc gia lại với nhau, là cầu nối giữa các dân tộc “. Và trong những từ phù hợp với những gì ngài đã nói trong cuộc tiếp kiến chung hôm thứ Tư, ngài nói thêm rằng “thế giới đầy xung đột của chúng ta cần Liên Hiệp Quốc trở thành một hội thảo quốc tế hiệu quả hơn bao giờ hết vì hòa bình. Điều này có nghĩa là các thành viên của Hội đồng Bảo an, đặc biệt là các Thành viên Thường trực, phải hành động với sự thống nhất và quyết tâm cao hơn”.
Hơn thế nữa, việc cải tổ Liên Hiệp Quốc cũng tìm thấy một vị trí trong thông điệp Fratelli tutti. Đức Thánh Cha Phanxicô dành hẳn một đoạn văn, là đoạn 173, cho chủ đề này. Trước đó, Đức Gioan XXIII đã dành đoạn 75 của thông điệp Pacem in terris, nghĩa là Hòa bình Tại thế, cho Liên Hiệp Quốc. Đối với Đức Giáo Hoàng, một cuộc cải cách như vậy là cần thiết “để khái niệm gia đình các quốc gia có thể có được những chiếc răng thật.” Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng cần phải bảo đảm “nguyên tắc pháp luật không bị kiểm soát và không mệt mỏi nhờ đến thương lượng, hòa giải và trọng tài.”
Với tình cảm tương tự, Đức Thánh Cha đã phát biểu những lời hôm thứ Tư, ngài cũng cảnh báo rằng “cần phải ngăn Tổ chức này bị đặt ra ngoài pháp luật, vì các vấn đề và thiếu sót của Tổ chức có khả năng được giải quyết và phải được giải quyết chung.” Như vậy, Đức Giáo Hoàng dường như cho rằng Liên Hiệp Quốc không tồn tại, nếu các quốc gia không đoàn kết, thống nhất trong việc can đảm tìm kiếm con đường hiểu biết lẫn nhau. Cho dù đó là sự kết thúc của chiến tranh, bằng sáng chế về vắc-xin hay cuộc chiến chống lại sự nóng lên toàn cầu, mỗi người phải sẵn sàng “mất mát” một chút để tất cả cùng có lợi. Thách thức quan trọng nhất đang bị đe dọa là tương lai của nhân loại.
Source:Vatican News
Đức Giáo Hoàng có thể sẽ gặp gỡ Kirill tại Giêrusalem
Đặng Tự Do
17:19 13/04/2022
Vatican đang nghiên cứu khả năng kéo dài chuyến đi của Đức Thánh Cha Phanxicô tới Li Băng vào tháng 6 để ngài có thể bay đến Giêrusalem để gặp Thượng phụ Chính thống giáo Nga Kirill, người đã ủng hộ cuộc chiến của Nga ở Ukraine.
Nếu điều đó đó xảy ra, đây sẽ là cuộc gặp thứ hai của hai vị. Cuộc gặp gỡ đầu tiên tại Cuba vào năm 2016, là lần đầu tiên giữa một giáo hoàng và một nhà lãnh đạo của Giáo Hội Chính thống giáo Nga kể từ khi cuộc đại ly giáo chia rẽ Kitô giáo thành các nhánh Đông phương và Tây phương vào năm 1054.
Kirill, 75 tuổi, đã chúc lành cho cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine, một quan điểm đã chia rẽ Giáo hội Chính thống giáo trên toàn thế giới và gây ra một cuộc nổi loạn nội bộ mà các nhà thần học và học giả cho là chưa từng có.
Các nguồn tin giấu cho biết kế hoạch là vị giáo hoàng 85 tuổi, sẽ đến Li Băng trong hai ngày 12 và 13 tháng 6, trước khi bay đến Amman, Jordan vào sáng ngày 14 tháng 6.
Từ đó, Đức Thánh Cha sẽ đáp trực thăng đến Giêrusalem vào cùng ngày cho cuộc gặp với Kirill và sau đó quay trở lại Rôma từ Giêrusalem.
Một nguồn tin cho biết chuyến đi dường như là chắc chắn, trong khi nguồn tin khác nói rằng đó vẫn còn là một khả năng, tùy theo từ đây đến đó Kirill sẽ nói những gì và cuộc chiến tại Ukraine sẽ diễn tiến ra sao.
Trở về sau chuyến đi đến Malta vào tuần trước, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng ngài hy vọng sẽ gặp Kirill ở đâu đó trong vùng Trung Đông trong năm nay nhưng không nói ở đâu.
Hôm Chúa Nhật, Ông Kirill đã kêu gọi người Nga tập hợp xung quanh nhà độc tài Putin khi Mạc Tư Khoa theo đuổi cái mà họ gọi là “cuộc hành quân đặc biệt” ở Ukraine.
Giáo chủ Kirill trước đây đã đưa ra những tuyên bố bảo vệ các hành động của Mạc Tư Khoa ở Ukraine và coi cuộc chiến như một bức tường thành chống lại một nền văn hóa phương Tây tự do mà ông cho là suy đồi.
Hãng thông tấn Interfax dẫn lời ông Kirill nói trong một bài giảng ở Mạc Tư Khoa: “Xin Chúa giúp chúng ta đoàn kết trong thời điểm khó khăn này đối với Tổ quốc của chúng ta, và tập hợp xung quanh các nhà chức trách”.
Nga đã gửi hàng trăm nghìn quân vào Ukraine vào ngày 24 tháng 2 để làm suy giảm khả năng quân sự của nước láng giềng phía nam và loại bỏ những người mà nước này gọi là những người theo chủ nghĩa dân tộc nguy hiểm.
Đức Phanxicô đã bác bỏ thuật ngữ đó, gọi nó là một cuộc chiến.
Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, Đức Phanxicô chỉ đề cập đến Nga một cách rõ ràng trong các buổi cầu nguyện, chẳng hạn như trong một sự kiện toàn cầu đặc biệt vì hòa bình vào ngày 25 tháng 3. Nhưng ngài đã thể hiện rõ sự phản đối của mình đối với các hành động của Nga, sử dụng các từ ngữ xâm lược, gây hấn và tàn bạo.
Hôm Chúa Nhật, Đức Giáo Hoàng kêu gọi đình chiến trong lễ Phục sinh ở Ukraine, và trong một liên hệ rõ ràng với Nga, đã đặt câu hỏi về giá trị của việc cắm một lá cờ chiến thắng “trên một đống đổ nát”.
Trong một diễn biến gây sửng sốt cho nhiều người, Kirill đã gọi cuộc xâm lược của Nga tại Ukraine là một cuộc thánh thiện nhằm kìm hãm những kẻ chống Chúa.
Trước đó, Kirill đã cử hành một buổi lễ cầu nguyện cho binh lính Nga vào hôm Chúa Nhật 3 tháng Tư, trong đó ông kêu gọi họ bảo vệ đất nước của mình “vì chỉ có người Nga mới có thể” bảo vệ được nước Nga.
Tại Nhà thờ Chính của Lực lượng Vũ trang được trang hoàng lộng lẫy được khai trương cách đây hai năm ở Kubinka, ngoại ô Mạc Tư Khoa, Thượng phụ Kirill nói với một nhóm quân nhân và nữ quân nhân rằng Nga là một quốc gia “yêu chuộng hòa bình” và đã phải hứng chịu nhiều thiệt hại do chiến tranh.
“Chúng tôi tuyệt đối không gây chiến hay làm bất cứ điều gì có thể gây tổn hại cho người khác”, Thượng Phụ Kirill, một đồng minh thân cận của Tổng thống Vladimir Putin nói.
“Nhưng chúng ta đã được nuôi dưỡng trong suốt lịch sử của mình để yêu quê hương đất nước. Và chúng ta sẽ sẵn sàng bảo vệ nó, vì chỉ có người Nga mới có thể bảo vệ đất nước của mình”.
Sự ủng hộ của ông đối với cuộc can thiệp quân sự, trong đó hàng nghìn binh sĩ và dân thường Ukraine đã thiệt mạng, đã khiến một số người trong Giáo Hội Chính thống giáo trong nước cũng như các nhà thờ ở nước ngoài có liên hệ với Tòa Thượng phụ Moscow tức giận.
Lời tuyên bố của Thượng Phụ Kirill cho rằng Nga là quốc gia “yêu chuộng hòa bình” diễn ra trong bối cảnh thế giới bàng hoàng trước vụ thảm sát kinh hoàng ở thị trấn Bucha do quân Nga gây ra. Xác người nằm la liệt trên đường phố, tay bị trói giật ra sau và họ bị bắn đằng sau ót. Ít nhất 410 thi thể đã được tìm thấy. Nhiều người bị xô xuống hố chôn tập thể. Nhiều phụ nữ chết trần truồng chứng tỏ họ đã bị hiếp dâm trước khi bị giết chết.
Source:Reuters
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh Lễ Truyền Dầu tại Nhà Thờ Chính Tòa Phan Thiết
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
08:42 13/04/2022
Năm nay, Lễ Truyền Dầu được tổ chức vào ngày thứ Tư Tuần Thánh (13.4.2022) tại Nhà Thờ Chính Tòa. Đức Cha Giuse cùng Linh mục đoàn Giáo phận cử hành Thánh lễ làm phép dầu: Thánh hiến, Dự tòng và Bệnh nhân. Các phó tế, chủng sinh, tu sĩ nam nữ nhiều cộng đoàn, đại diện các giới đoàn và bà con giáo dân tham dự sốt sắng.
Khởi đầu Thánh lễ, Đức Cha Giuse ngỏ lời với cộng đoàn Phụng vụ:
Kính chào cha Tổng Đại diện, Đức Ông Phêrô, Viện phụ Gioan Boscô, Quí cha quản hạt và quí cha và các thầy phó tế.
Kính chào quý nam nữ tu sĩ, chủng sinh, quý ông bà anh chị em.
Xem Hình
Trong bầu khí hiệp thông của Tuần Thánh, chúng ta họp nhau tại nhà thờ Chính tòa này, để cử hành thánh lễ Truyền dầu. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng nhau khám phá và sống lại hồng ân: Hồng ân ơn gọi làm con Chúa và hồng ân chức linh mục. Cả 2 hồng ân ơn gọi làm con Chúa và hồng ân chức linh mục được diễn tả qua hình ảnh của Dầu Thánh.
Kitô có nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Người Kitô hữu là người có Chúa Kitô, người được xức dầu để thuộc về Chúa Kitô, thuộc về Giáo Hội, nhiệm thể Chúa Kitô.
Linh mục là người được xức dầu, để có thể đại diện Chúa Kitô, chăm lo cho cộng đoàn dân Chúa.
Ý nghĩa thứ hai: Thánh lễ Truyền Dầu hôm nay còn là Thánh lễ hiệp thông của linh mục trong giáo phận với giám mục. Trong thánh lễ này, các Linh mục lặp lại lời tuyên hứa khi chịu chức thánh trước mặt Giám mục về trách nhiệm phục vụ cộng đoàn, về việc từ bỏ bản thân để nên giống Chúa Kitô và về tư cách của người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Đồng thời, xin anh chị em tu sĩ và giáo dân cầu nguyện đặc biệt cho các giám mục và linh mục chúng tôi, được luôn trung thành trong ơn gọi của mình.
Chúng ta cũng cầu xin cho mỗi người chúng ta, là Kitô hữu được luôn gìn giữ Dầu thánh trong mình, nghĩa là luôn có Chúa Giêsu, luôn thuộc về Chúa Giêsu.
Đặc biệt chúng ta cầu nguyện cho các nạn nhân của đại dịch Covid-19 và các nạn nhân của cuộc chiến tại Ukraina. Và giờ đây để lời cầu nguyện của chúng ta được Chúa thương chấp nhận, chúng ta cùng thành tâm thống hối.
Đức cha Giuse giảng lễ.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Đặc biệt kính thưa anh em linh mục,
Lễ truyền dầu hôm nay còn được gọi là lễ của các linh mục. Hôm nay, chúng ta cùng kỷ niệm lại hồng ân thánh chức linh mục mà Thiên Chúa đã trao tặng cho mỗi anh em chúng ta.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia diễn tả: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Ngài đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó”… Và trong bài Phúc âm, đoạn Kinh Thánh từ sách Isaia này đã được chính Chúa Giêsu đọc lại, tại hội đường Nazareth, và đã giải thích với lời khẳng định: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.
Dưới ánh sáng Lời Chúa từ những đoạn Kinh Thánh trên đây, có thể nhận ra ý nghĩa đích thực hay căn tính của người linh mục: “Linh mục là người được thánh hiến và được sai đi”
Người linh mục được xức dầu thánh hiến để sai đi thi hành nhiệm vụ loan báo tin mừng.
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Ngài đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó”…
Một cách cụ thể, linh mục là người đại diện cho giám mục, để trực tiếp chăm sóc đoàn chiên Chúa trong tư cách mục tử tại các giáo xứ.
Trong kỳ tĩnh tâm mùa chay năm nay, khi giảng cho Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma, Đức Hồng Y Cantalamessa đã gợi lên ý tưởng: Một điều mà đại dịch Covid đã làm cho toàn thể Giáo hội trong hai năm vừa qua, đó là làm cho chúng ta ý thức và cảm nghiệm được nhu cầu của chúng ta đối với Bí tích Thánh Thể và sự trống rỗng do thiếu vắng Thánh lễ. Trong thời gian cách ly nghiêm ngặt, không có thánh lễ, không có Thánh Thể, một sự trống vắng trong Giáo hội, trong giáo xứ.
Và Đức Hồng Y nhấn mạnh: Bí tích Thánh Thể bảo đảm với chúng ta rằng, Chúa Giêsu ở với chúng ta, với sự hiện diện đích thực trong Thánh Thể.
Trọng tâm của Thánh lễ là lời truyền phép của linh mục “Hãy nhận lấy mà ăn: Vì này là Mình Thầy, bị nộp vì các con… Hãy nhận lấy mà uống, này là chén Máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đỗ ra cho các con và nhiều người được tha tội”.
Lời truyền phép trong thánh lễ đang nói lên hy tế thập giá của Chúa Giêsu, hy tế đó giờ đây được hiện tại hóa nơi bí tích Thánh Thể đang được Giáo hội cử hành qua vị linh mục, đại diện Chúa Kitô “in persona Christi”.
Trên thập giá, Chúa Kitô đã tự biến mình thành của lễ. Trong Chúa Kitô, chính Thiên Chúa trở thành của lễ hiến tế. Chính Thiên Chúa đã hy sinh Con Một của Người cho đến chết vì chúng ta (x. Ga 3, 16).
Và hy tế thập giá giờ đây đang được hiện tại hóa nơi bí tích Thánh Thể trên bàn thờ. Và nơi Thánh Thể, đây là “Chúa Kitô toàn diện”, Đầu và Thân hợp nhất không tách rời.
Nơi Thánh Thể, Chúa Kitô toàn diện, Đầu và Nhiệm thể là Giáo hội, đang là của lễ tiến dâng lên Thiên Chúa Cha.
Trước hết, Chúa Kitô là Đầu, vị linh mục đại diện Chúa Kitô, đang hướng về cộng đoàn dân Chúa, và nói bằng ngôi thứ nhất: “Này là Mình ta, này là Máu ta, sẽ đỗ ra vì anh em…”
Chân phước Concepcion de Armida, người Mexicô, mới được phong chân phước vào năm 2015 đã viết cho người con trai dòng Tên của bà, sắp được thụ phong linh mục, bà viết: “Hãy nhớ rằng, con trai của mẹ, khi con cầm trong tay Mình Thánh Chúa, con đừng nói: ‘Này là Mình Chúa Giêsu và này là Máu Người,’ nhưng con sẽ nói: ‘Này là Mình Ta, này là Máu Ta’, nghĩa là, trong con phải có một sự biến đổi hoàn toàn, con phải đánh mất chính mình trong Chúa Giêsu, để trở thành ‘một Chúa Giêsu khác’, để trở thành hiến lễ với Chúa Giêsu”.
Hơn thế nữa, điều này không chỉ áp dụng cho các linh mục được thụ phong, nhưng cho tất cả những người đã được rửa tội. Tất cả giáo dân và linh mục đều được tham dự vào chức tư tế của Chúa Giêsu, với điểm khác là:
Cộng đoàn dân Chúa là thân thể mầu nhiệm được gắn bó với Chúa Kitô là đầu qua “chức tư tế cộng đồng” do bí tích rửa tội;
Con người linh mục, do bí tích truyền chức, được biến đổi để được “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là đầu” với “chức tư tế thừa tác”.
Trong hiến chế phụng vụ số 83, Công đồng Vatican 2 đã xác tín: “Thật vậy, Chúa Kitô tiếp tục thực thi chức vụ tư tế qua chính Giáo hội của Người, bằng việc cử hành lễ tạ ơn”.
Như vậy, trong bí tích Thánh Thể, các tín hữu, nhờ chức tư tế cộng đồng của mình, đang tham gia vào việc dâng lễ… đang cùng với Chúa Giêsu, hiến dâng chính bản thân mình là của lễ dâng lên cho Thiên Chúa.
Đây là cách Thánh Thể làm nên Giáo hội: làm cho Giáo hội trở nên thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Cả Chúa Kitô là đầu và Giáo hội là nhiệm thể của Ngài, trong Thánh Thể, đang trở nên của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa Cha. Như thế, mỗi người, cả linh mục và giáo dân, khi cử hành bí tích Thánh Thể, mỗi người đang trở nên của lễ với Chúa Giêsu, để dâng lên Thiên Chúa Cha, trong quyền năng của Thánh Thần.
Trong thánh lễ hôm nay, Giáo hội đang nhắc cho chúng ta, việc tham dự thánh lễ, không phải như việc chúng ta đến tham dự một vở kịch như một khán giả. Nhưng tham dự thánh lễ đích thực là mỗi người chúng ta, linh mục và giáo dân, cùng với Chúa Kitô, dâng của lễ lên Thiên Chúa Cha. Của lễ chính là bản thân chúng ta, cuộc sống của chúng ta với những niềm vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại, những đau khổ và bệnh tật.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cử hành thánh lễ với niềm tin như thế. Nếu tất cả chúng ta thực sự nói, vào lúc truyền phép, vị linh mục nói to và còn giáo dân trong im lặng hiệp thông với linh mục là đại diện Chúa Kitô, trong lời phát biểu: “Này là Mình Ta, này là Máu Ta”.
Khi một linh mục quản xứ cử hành thánh lễ của mình theo cách này, thì tiếp đó, trong ngày sống ngài: khi ngài tiếp dân, làm việc, lắng nghe, giảng dạy… ngài cũng đang tiếp tục sống bí tích Thánh Thể. Một linh mục thần học gia dòng Tên người Pháp, cha Pierre Olivaint, TK 19 (1816-1871), từng nói: “Vào buổi sáng, trong thánh lễ, tôi là tư tế và Chúa Giêsu là của lễ; suốt ngày, Chúa Giêsu là tư tế và tôi là của lễ”. Và trong tác động của Thánh Thể như vậy, vị linh mục đang trở nên “Người mục tử nhân lành”, bởi vì như Chúa Giêsu, ngài đang hiến dâng của lễ, đang hiến dâng cuộc sống của mình cho đàn chiên.
5.Kính thưa cộng đoàn,
Tóm lại, sự hiệp thông sâu đậm thứ nhất giữa linh mục và Chúa Giêsu nơi thánh lễ mỗi ngày: nhờ bí tích truyền chức, người linh mục “được đồng hóa” với Chúa Giêsu để dâng hiến lễ là chính mình, cuộc đời mình, cho Thiên Chúa Cha.
Và nét thứ hai về sự hiệp thông là sự hiệp thông của các linh mục với giám mục giáo phận. Trong thánh lễ Truyền dầu này, các linh mục lặp lại lời tuyên hứa khi chịu chức thánh trước mặt giám mục về trách nhiệm phục vụ cộng đoàn, về việc từ bỏ bản thân để nên giống Chúa Kitô và về tư cách của người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đây là lời hứa mà tất cá các linh mục hằng năm đều lập lại, đều làm mới lại, đều ý thức lại, nhưng để thực hiện những lời hứa này là vô cùng khó khăn.
Vì thế, kính thưa tất cả các tu sĩ nam nữ và toàn thể anh chị em giáo dân,
Xin mọi người cầu nguyện cho giám mục và anh em linh mục chúng tôi, được luôn trung thành với lời cam kết của mình ngày chịu chức, được nên giống Chúa Giêsu Mục tử mỗi ngày một tốt hơn, hầu có thể chuyển thông ân sủng và bình an của Thiên Chúa đến cho đoàn chiên, mà Chúa và Giáo hội đã trao phó cho chúng tôi chăm sóc. Amen.
***
Linh mục đoàn lập lại lời hứa vâng phục, thánh hóa và giảng dạy theo tinh thần Phúc m, nhất là noi gương vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu. Được làm môn đệ Chúa Kitô là một thiên chức cao quý. Đức Giám Mục xin cho đời sống các linh mục:
- Tuyên hứa linh mục là lời tuyên hứa trước giám mục và cộng đoàn.
- Chấp nhận trách nhiệm phụng vụ cộng đoàn được giao phó, trung thành với lời hứa.
- Quản lý trung thành đối với các mầu nhiệm của Thiên Chúa khi rao giảng Lời Chúa.
- Thi hành chức vụ của mình một cách nhiệt thành và vô vị lợi.
- Trở nên những tôi tớ trung thành của Đức Kitô Thượng Tế.
- Dẫn đưa người trao được trao phó đến với Chúa Kitô là nguồn mạch duy nhất của ơn cứu độ.
Tiếp theo, cộng đoàn dân Chúa cũng nói lên sự quyết tâm cộng tác của mình với hàng Giáo sĩ và hiệp lời cầu nguyện cho các ngài.
Sau đó là nghi thức làm phép Dầu. Ba bình dầu được các Phó tế rước lên cung thánh và trao cho Đức Giám Mục chủ sự. Ngài lần lượt làm phép Dầu Bệnh Nhân, Dầu Dự Tòng và thánh hiến Dầu Thánh.
Dầu Thánh được dành một nghi thức Thánh hiến long trọng: Đức Giám Mục pha thuốc thơm vào dầu, biểu tượng cho những nhân đức mà Thánh Thần tuôn đổ trong người được xức Dầu Thánh này. Đức Giám Mục im lặng thổi hơi trên dầu là biểu tượng việc thông ban Thánh Thần. Chỉ với Thánh Thần mà Dầu Thánh mới có sức thánh hóa và biến đổi người lãnh nhận nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thông phần chức Tư Tế, Tiên Tri và Vương Đế của Ngài.
Mỗi tín hữu trở thành con cái Thiên Chúa, trở thành chi thể trong thân thể Chúa Kitô, trở nên những viên đá sống động của Đền Thờ Chúa Thánh Thần thông qua việc lãnh nhận các loại dầu thánh trong các cử hành. Nếu dầu tăng lực dành cho các tân tòng chống lại ma quỷ và được bước vào gia đình Giáo hội; dầu gia tăng sức mạnh chống lại bệnh tật trong Bí tích Xức dầu, giúp duy trì sức khỏe; thì cách riêng, dầu Thánh qua 3 bí tích Rửa tội, Thêm sức, Truyền chức đã để lại những dấu ấn không phai nhòa trong đời sống.
Sau nghi thức, cộng đoàn bước vào phụng vụ Thánh Thể.
Sau lời nguyện hiệp lễ, Đức cha chia sẻ về Hiệp Hành và tiến trình Hiệp Hành của Giáo phận.
Thánh lễ kết thúc lúc 10g15, trong thánh thiện và bình an. Kính chúc mọi thành phần dân Chúa bước vào Tam Nhật Thánh với nhiều Ơn Thánh Chúa ban.
***
Mỗi năm chỉ một lần, lễ truyền dầu được cử hành vào giữa Tuần Thánh, cộng đoàn gồm mọi thành phần dân Chúa bày tỏ tình hiệp thông và hiệp nhất trong thánh lễ này. Hôm nay là ngày sinh nhật của chức linh mục. Niềm vui ngày sinh nhật chính là sức mạnh của các linh mục sẽ thể hiện qua đời sống phục vụ cộng đoàn.Thánh lễ truyền dầu ghi đậm nét hình ảnh sống động của giáo hội địa phương. Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh “Christus Dominus” đã xác định: “Giáo phận là một phần Dân Thiên Chúa được giao phó cho một Giám mục chăm sóc, với sự cộng tác của linh mục đoàn, để nhờ liên kết với vị chủ chăn của mình và qua ngài, Giáo phận được tập trung trong Chúa Thánh Thần nhờ Phúc âm và Thánh Thể, làm thành một Giáo hội riêng biệt, trong đó Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công Giáo và Tông truyền của Chúa Kitô hiện diện và hành động thực sự.” (CD 11).
Giáo hội là một nhiệm thể bao gồm các thành phần qui tụ xung quanh Đức Kitô là đầu và là thủ lãnh. Sáng nay các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo dân qui tụ xung quanh vị chủ chăn của giáo phận trong thánh lễ làm phép dầu tại nhà thờ Chính tòa.Thánh lễ làm phép dầu giúp mọi thành phần dân Chúa khám phá ý nghĩa của việc xức dầu trong đời sống ơn gọi của mình. Và đặc biệt, trước mặt Đức Giám Mục, các linh mục lặp lại lời tuyên hứa khi chịu chức về trách nhiệm phục vụ cộng đoàn, việc từ bỏ bản thân để nên giống Chúa Kitô và về việc quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa cách trung thành và vô vị lợi.
Hôm nay là ngày sinh nhật của chức linh mục, ngày sinh nhật từng linh mục. Mỗi linh mục cảm nhận niềm vui này qua lời đáp ca: “Con xin ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời”. Mỗi linh mục cảm nhận về hồng ân Thánh Thần hiện diện, cảm nhận được Chúa xức dầu, được Chúa sai trên bước đường sứ vụ.
Xin cầu nguyện cho các linh mục để các ngài được trưởng thành trong Đức Kitô, trung thành với lời cam kết và nhiệt thành với sứ vụ của mình. Xin cầu nguyện cho các linh mục say mê Đức Kitô, như Thánh Phaolô: “Đối với tôi sự sống là Đức Kitô” (x. Pl 1,21).
Người giáo dân yêu mến và luôn cầu nguyện cho các linh mục hàng ngày. Để thực sự trở thành bạn hữu của Chúa, linh mục phải hiểu biết Chúa, phải kết hợp mật thiết với Chúa qua đời sống cầu nguyện và phải kết hợp mật thiết với anh em.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Khởi đầu Thánh lễ, Đức Cha Giuse ngỏ lời với cộng đoàn Phụng vụ:
Kính chào cha Tổng Đại diện, Đức Ông Phêrô, Viện phụ Gioan Boscô, Quí cha quản hạt và quí cha và các thầy phó tế.
Kính chào quý nam nữ tu sĩ, chủng sinh, quý ông bà anh chị em.
Xem Hình
Trong bầu khí hiệp thông của Tuần Thánh, chúng ta họp nhau tại nhà thờ Chính tòa này, để cử hành thánh lễ Truyền dầu. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng nhau khám phá và sống lại hồng ân: Hồng ân ơn gọi làm con Chúa và hồng ân chức linh mục. Cả 2 hồng ân ơn gọi làm con Chúa và hồng ân chức linh mục được diễn tả qua hình ảnh của Dầu Thánh.
Kitô có nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Người Kitô hữu là người có Chúa Kitô, người được xức dầu để thuộc về Chúa Kitô, thuộc về Giáo Hội, nhiệm thể Chúa Kitô.
Linh mục là người được xức dầu, để có thể đại diện Chúa Kitô, chăm lo cho cộng đoàn dân Chúa.
Ý nghĩa thứ hai: Thánh lễ Truyền Dầu hôm nay còn là Thánh lễ hiệp thông của linh mục trong giáo phận với giám mục. Trong thánh lễ này, các Linh mục lặp lại lời tuyên hứa khi chịu chức thánh trước mặt Giám mục về trách nhiệm phục vụ cộng đoàn, về việc từ bỏ bản thân để nên giống Chúa Kitô và về tư cách của người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng cầu nguyện cho sự hiệp thông trong Giáo phận của chúng ta, giữa các thành phần dân Chúa trong Giáo phận, giữa giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân.
Đồng thời, xin anh chị em tu sĩ và giáo dân cầu nguyện đặc biệt cho các giám mục và linh mục chúng tôi, được luôn trung thành trong ơn gọi của mình.
Chúng ta cũng cầu xin cho mỗi người chúng ta, là Kitô hữu được luôn gìn giữ Dầu thánh trong mình, nghĩa là luôn có Chúa Giêsu, luôn thuộc về Chúa Giêsu.
Đặc biệt chúng ta cầu nguyện cho các nạn nhân của đại dịch Covid-19 và các nạn nhân của cuộc chiến tại Ukraina. Và giờ đây để lời cầu nguyện của chúng ta được Chúa thương chấp nhận, chúng ta cùng thành tâm thống hối.
Đức cha Giuse giảng lễ.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Đặc biệt kính thưa anh em linh mục,
Lễ truyền dầu hôm nay còn được gọi là lễ của các linh mục. Hôm nay, chúng ta cùng kỷ niệm lại hồng ân thánh chức linh mục mà Thiên Chúa đã trao tặng cho mỗi anh em chúng ta.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia diễn tả: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Ngài đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó”… Và trong bài Phúc âm, đoạn Kinh Thánh từ sách Isaia này đã được chính Chúa Giêsu đọc lại, tại hội đường Nazareth, và đã giải thích với lời khẳng định: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.
Dưới ánh sáng Lời Chúa từ những đoạn Kinh Thánh trên đây, có thể nhận ra ý nghĩa đích thực hay căn tính của người linh mục: “Linh mục là người được thánh hiến và được sai đi”
Người linh mục được xức dầu thánh hiến để sai đi thi hành nhiệm vụ loan báo tin mừng.
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Ngài đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó”…
Một cách cụ thể, linh mục là người đại diện cho giám mục, để trực tiếp chăm sóc đoàn chiên Chúa trong tư cách mục tử tại các giáo xứ.
Trong bối cảnh của mùa dịch Covid, xin được chia sẻ vài suy niệm về thuật ngữ linh mục là người đại diện Chúa chăm sóc cho đoàn chiên với nhiệm vụ “quản lý các mầu nhiệm thánh” và cao điểm là mầu nhiệm Thánh Thể.
Trong kỳ tĩnh tâm mùa chay năm nay, khi giảng cho Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma, Đức Hồng Y Cantalamessa đã gợi lên ý tưởng: Một điều mà đại dịch Covid đã làm cho toàn thể Giáo hội trong hai năm vừa qua, đó là làm cho chúng ta ý thức và cảm nghiệm được nhu cầu của chúng ta đối với Bí tích Thánh Thể và sự trống rỗng do thiếu vắng Thánh lễ. Trong thời gian cách ly nghiêm ngặt, không có thánh lễ, không có Thánh Thể, một sự trống vắng trong Giáo hội, trong giáo xứ.
Và Đức Hồng Y nhấn mạnh: Bí tích Thánh Thể bảo đảm với chúng ta rằng, Chúa Giêsu ở với chúng ta, với sự hiện diện đích thực trong Thánh Thể.
Trọng tâm của Thánh lễ là lời truyền phép của linh mục “Hãy nhận lấy mà ăn: Vì này là Mình Thầy, bị nộp vì các con… Hãy nhận lấy mà uống, này là chén Máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đỗ ra cho các con và nhiều người được tha tội”.
Lời truyền phép trong thánh lễ đang nói lên hy tế thập giá của Chúa Giêsu, hy tế đó giờ đây được hiện tại hóa nơi bí tích Thánh Thể đang được Giáo hội cử hành qua vị linh mục, đại diện Chúa Kitô “in persona Christi”.
Trên thập giá, Chúa Kitô đã tự biến mình thành của lễ. Trong Chúa Kitô, chính Thiên Chúa trở thành của lễ hiến tế. Chính Thiên Chúa đã hy sinh Con Một của Người cho đến chết vì chúng ta (x. Ga 3, 16).
Và hy tế thập giá giờ đây đang được hiện tại hóa nơi bí tích Thánh Thể trên bàn thờ. Và nơi Thánh Thể, đây là “Chúa Kitô toàn diện”, Đầu và Thân hợp nhất không tách rời.
Nơi Thánh Thể, Chúa Kitô toàn diện, Đầu và Nhiệm thể là Giáo hội, đang là của lễ tiến dâng lên Thiên Chúa Cha.
Trước hết, Chúa Kitô là Đầu, vị linh mục đại diện Chúa Kitô, đang hướng về cộng đoàn dân Chúa, và nói bằng ngôi thứ nhất: “Này là Mình ta, này là Máu ta, sẽ đỗ ra vì anh em…”
Chân phước Concepcion de Armida, người Mexicô, mới được phong chân phước vào năm 2015 đã viết cho người con trai dòng Tên của bà, sắp được thụ phong linh mục, bà viết: “Hãy nhớ rằng, con trai của mẹ, khi con cầm trong tay Mình Thánh Chúa, con đừng nói: ‘Này là Mình Chúa Giêsu và này là Máu Người,’ nhưng con sẽ nói: ‘Này là Mình Ta, này là Máu Ta’, nghĩa là, trong con phải có một sự biến đổi hoàn toàn, con phải đánh mất chính mình trong Chúa Giêsu, để trở thành ‘một Chúa Giêsu khác’, để trở thành hiến lễ với Chúa Giêsu”.
Hơn thế nữa, điều này không chỉ áp dụng cho các linh mục được thụ phong, nhưng cho tất cả những người đã được rửa tội. Tất cả giáo dân và linh mục đều được tham dự vào chức tư tế của Chúa Giêsu, với điểm khác là:
Cộng đoàn dân Chúa là thân thể mầu nhiệm được gắn bó với Chúa Kitô là đầu qua “chức tư tế cộng đồng” do bí tích rửa tội;
Con người linh mục, do bí tích truyền chức, được biến đổi để được “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là đầu” với “chức tư tế thừa tác”.
Trong hiến chế phụng vụ số 83, Công đồng Vatican 2 đã xác tín: “Thật vậy, Chúa Kitô tiếp tục thực thi chức vụ tư tế qua chính Giáo hội của Người, bằng việc cử hành lễ tạ ơn”.
Như vậy, trong bí tích Thánh Thể, các tín hữu, nhờ chức tư tế cộng đồng của mình, đang tham gia vào việc dâng lễ… đang cùng với Chúa Giêsu, hiến dâng chính bản thân mình là của lễ dâng lên cho Thiên Chúa.
Đây là cách Thánh Thể làm nên Giáo hội: làm cho Giáo hội trở nên thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Cả Chúa Kitô là đầu và Giáo hội là nhiệm thể của Ngài, trong Thánh Thể, đang trở nên của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa Cha. Như thế, mỗi người, cả linh mục và giáo dân, khi cử hành bí tích Thánh Thể, mỗi người đang trở nên của lễ với Chúa Giêsu, để dâng lên Thiên Chúa Cha, trong quyền năng của Thánh Thần.
Trong thánh lễ hôm nay, Giáo hội đang nhắc cho chúng ta, việc tham dự thánh lễ, không phải như việc chúng ta đến tham dự một vở kịch như một khán giả. Nhưng tham dự thánh lễ đích thực là mỗi người chúng ta, linh mục và giáo dân, cùng với Chúa Kitô, dâng của lễ lên Thiên Chúa Cha. Của lễ chính là bản thân chúng ta, cuộc sống của chúng ta với những niềm vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại, những đau khổ và bệnh tật.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cử hành thánh lễ với niềm tin như thế. Nếu tất cả chúng ta thực sự nói, vào lúc truyền phép, vị linh mục nói to và còn giáo dân trong im lặng hiệp thông với linh mục là đại diện Chúa Kitô, trong lời phát biểu: “Này là Mình Ta, này là Máu Ta”.
Khi một linh mục quản xứ cử hành thánh lễ của mình theo cách này, thì tiếp đó, trong ngày sống ngài: khi ngài tiếp dân, làm việc, lắng nghe, giảng dạy… ngài cũng đang tiếp tục sống bí tích Thánh Thể. Một linh mục thần học gia dòng Tên người Pháp, cha Pierre Olivaint, TK 19 (1816-1871), từng nói: “Vào buổi sáng, trong thánh lễ, tôi là tư tế và Chúa Giêsu là của lễ; suốt ngày, Chúa Giêsu là tư tế và tôi là của lễ”. Và trong tác động của Thánh Thể như vậy, vị linh mục đang trở nên “Người mục tử nhân lành”, bởi vì như Chúa Giêsu, ngài đang hiến dâng của lễ, đang hiến dâng cuộc sống của mình cho đàn chiên.
5.Kính thưa cộng đoàn,
Tóm lại, sự hiệp thông sâu đậm thứ nhất giữa linh mục và Chúa Giêsu nơi thánh lễ mỗi ngày: nhờ bí tích truyền chức, người linh mục “được đồng hóa” với Chúa Giêsu để dâng hiến lễ là chính mình, cuộc đời mình, cho Thiên Chúa Cha.
Và nét thứ hai về sự hiệp thông là sự hiệp thông của các linh mục với giám mục giáo phận. Trong thánh lễ Truyền dầu này, các linh mục lặp lại lời tuyên hứa khi chịu chức thánh trước mặt giám mục về trách nhiệm phục vụ cộng đoàn, về việc từ bỏ bản thân để nên giống Chúa Kitô và về tư cách của người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đây là lời hứa mà tất cá các linh mục hằng năm đều lập lại, đều làm mới lại, đều ý thức lại, nhưng để thực hiện những lời hứa này là vô cùng khó khăn.
Vì thế, kính thưa tất cả các tu sĩ nam nữ và toàn thể anh chị em giáo dân,
Xin mọi người cầu nguyện cho giám mục và anh em linh mục chúng tôi, được luôn trung thành với lời cam kết của mình ngày chịu chức, được nên giống Chúa Giêsu Mục tử mỗi ngày một tốt hơn, hầu có thể chuyển thông ân sủng và bình an của Thiên Chúa đến cho đoàn chiên, mà Chúa và Giáo hội đã trao phó cho chúng tôi chăm sóc. Amen.
***
Sau bài giảng, các linh mục lập lại lời tuyên hứa. Việc lập lại các lời tuyên hứa nầy phải là một dấn thân mới, một cuộc xuất hành mới đầy nhiệt huyết và đạo đức của đời sống và tác vụ linh mục. Xin Chúa Giêsu Linh mục thượng phẩm và Mục tử nhân lành phù trợ chúng ta. Giờ đây, trước sự hiện diện và cùng với cộng đoàn dân Chúa, chúng ta cùng nhau cùng lập lại các lời tuyên hứa của ngày thụ phong linh mục.
Linh mục đoàn lập lại lời hứa vâng phục, thánh hóa và giảng dạy theo tinh thần Phúc m, nhất là noi gương vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu. Được làm môn đệ Chúa Kitô là một thiên chức cao quý. Đức Giám Mục xin cho đời sống các linh mục:
- Tuyên hứa linh mục là lời tuyên hứa trước giám mục và cộng đoàn.
- Chấp nhận trách nhiệm phụng vụ cộng đoàn được giao phó, trung thành với lời hứa.
- Quản lý trung thành đối với các mầu nhiệm của Thiên Chúa khi rao giảng Lời Chúa.
- Thi hành chức vụ của mình một cách nhiệt thành và vô vị lợi.
- Trở nên những tôi tớ trung thành của Đức Kitô Thượng Tế.
- Dẫn đưa người trao được trao phó đến với Chúa Kitô là nguồn mạch duy nhất của ơn cứu độ.
Tiếp theo, cộng đoàn dân Chúa cũng nói lên sự quyết tâm cộng tác của mình với hàng Giáo sĩ và hiệp lời cầu nguyện cho các ngài.
Sau đó là nghi thức làm phép Dầu. Ba bình dầu được các Phó tế rước lên cung thánh và trao cho Đức Giám Mục chủ sự. Ngài lần lượt làm phép Dầu Bệnh Nhân, Dầu Dự Tòng và thánh hiến Dầu Thánh.
Dầu Thánh được dành một nghi thức Thánh hiến long trọng: Đức Giám Mục pha thuốc thơm vào dầu, biểu tượng cho những nhân đức mà Thánh Thần tuôn đổ trong người được xức Dầu Thánh này. Đức Giám Mục im lặng thổi hơi trên dầu là biểu tượng việc thông ban Thánh Thần. Chỉ với Thánh Thần mà Dầu Thánh mới có sức thánh hóa và biến đổi người lãnh nhận nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thông phần chức Tư Tế, Tiên Tri và Vương Đế của Ngài.
Mỗi tín hữu trở thành con cái Thiên Chúa, trở thành chi thể trong thân thể Chúa Kitô, trở nên những viên đá sống động của Đền Thờ Chúa Thánh Thần thông qua việc lãnh nhận các loại dầu thánh trong các cử hành. Nếu dầu tăng lực dành cho các tân tòng chống lại ma quỷ và được bước vào gia đình Giáo hội; dầu gia tăng sức mạnh chống lại bệnh tật trong Bí tích Xức dầu, giúp duy trì sức khỏe; thì cách riêng, dầu Thánh qua 3 bí tích Rửa tội, Thêm sức, Truyền chức đã để lại những dấu ấn không phai nhòa trong đời sống.
Sau nghi thức, cộng đoàn bước vào phụng vụ Thánh Thể.
Sau lời nguyện hiệp lễ, Đức cha chia sẻ về Hiệp Hành và tiến trình Hiệp Hành của Giáo phận.
Thánh lễ kết thúc lúc 10g15, trong thánh thiện và bình an. Kính chúc mọi thành phần dân Chúa bước vào Tam Nhật Thánh với nhiều Ơn Thánh Chúa ban.
***
Mỗi năm chỉ một lần, lễ truyền dầu được cử hành vào giữa Tuần Thánh, cộng đoàn gồm mọi thành phần dân Chúa bày tỏ tình hiệp thông và hiệp nhất trong thánh lễ này. Hôm nay là ngày sinh nhật của chức linh mục. Niềm vui ngày sinh nhật chính là sức mạnh của các linh mục sẽ thể hiện qua đời sống phục vụ cộng đoàn.Thánh lễ truyền dầu ghi đậm nét hình ảnh sống động của giáo hội địa phương. Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh “Christus Dominus” đã xác định: “Giáo phận là một phần Dân Thiên Chúa được giao phó cho một Giám mục chăm sóc, với sự cộng tác của linh mục đoàn, để nhờ liên kết với vị chủ chăn của mình và qua ngài, Giáo phận được tập trung trong Chúa Thánh Thần nhờ Phúc âm và Thánh Thể, làm thành một Giáo hội riêng biệt, trong đó Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công Giáo và Tông truyền của Chúa Kitô hiện diện và hành động thực sự.” (CD 11).
Giáo hội là một nhiệm thể bao gồm các thành phần qui tụ xung quanh Đức Kitô là đầu và là thủ lãnh. Sáng nay các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo dân qui tụ xung quanh vị chủ chăn của giáo phận trong thánh lễ làm phép dầu tại nhà thờ Chính tòa.Thánh lễ làm phép dầu giúp mọi thành phần dân Chúa khám phá ý nghĩa của việc xức dầu trong đời sống ơn gọi của mình. Và đặc biệt, trước mặt Đức Giám Mục, các linh mục lặp lại lời tuyên hứa khi chịu chức về trách nhiệm phục vụ cộng đoàn, việc từ bỏ bản thân để nên giống Chúa Kitô và về việc quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa cách trung thành và vô vị lợi.
Hôm nay là ngày sinh nhật của chức linh mục, ngày sinh nhật từng linh mục. Mỗi linh mục cảm nhận niềm vui này qua lời đáp ca: “Con xin ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời”. Mỗi linh mục cảm nhận về hồng ân Thánh Thần hiện diện, cảm nhận được Chúa xức dầu, được Chúa sai trên bước đường sứ vụ.
Xin cầu nguyện cho các linh mục để các ngài được trưởng thành trong Đức Kitô, trung thành với lời cam kết và nhiệt thành với sứ vụ của mình. Xin cầu nguyện cho các linh mục say mê Đức Kitô, như Thánh Phaolô: “Đối với tôi sự sống là Đức Kitô” (x. Pl 1,21).
Người giáo dân yêu mến và luôn cầu nguyện cho các linh mục hàng ngày. Để thực sự trở thành bạn hữu của Chúa, linh mục phải hiểu biết Chúa, phải kết hợp mật thiết với Chúa qua đời sống cầu nguyện và phải kết hợp mật thiết với anh em.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Văn Hóa
Đá Tảng Phêrô, Đá Mòn Giuđa
Lm Nguyễn Trung Tây
14:50 13/04/2022
□ LM Nguyễn Trung Tây
Đá Tảng Phêrô, Đá Mòn Giuđa
Phêrô và Giuđa thật sự ra có một điểm giống nhau, và một điểm khác nhau. Điểm khác nhau giữa Simon Phêrô và Giuđa Iscariốt, liên quan đến Khái Niệm Chấp Nhận, đã dẫn cuộc đời của hai người sang hai nhánh rẽ hoàn toàn khác nhau.
I. Simon Phêrô
Phêrô hay Đá là tên của Đức Giêsu đặt cho Simon (Gioan 1:42). Nguyên thủy Phêrô tên thật là Simon, anh của Anrê. Hai anh em là con của ông Gioan (Gioan 1:42) hay Jonah (Mátthêu 16:17). Hai người làm nghề đánh cá (Máccô 1:16 -20, Luca 5:1-11). Phêrô có lẽ sinh ra và lớn lên tại Galilê, do đó, Simon Phêrô nói tiếng Do Thái (Aramaic) giọng Bắc (Máccô 14:70, Mátthêu 26:73). Ông có nhà ở thành phố Capernaum, thành phố lớn của xứ Galilê (Máccô 1:29).
Trong nhóm Mười Hai người môn đệ của Đức Giêsu, không ai có thể từ chối được một sự thật là Phêrô là nhân vật nổi bật sáng chói. Người Kitô hữu ai cũng biết ít nhiều những câu chuyện liên quan đến Simon Phêrô. Thí dụ, chuyện Đức Giêsu truyền ông thả lưới chỗ nước sâu, và ông nói, “Vâng lời Thầy con xin thả lưới” (Luca 5:5). Chuyện ông muốn dựng ba căn lều trên núi Hermon, một cho Đức Giêsu, một cho Môisen, một cho tiên tri Êlia (Matt 17:4). Chuyện ông được trao chìa khóa Nước Trời bởi vì trong khi các người môn đệ khác còn đang lúng túng với câu hỏi về nguồn gốc của Đức Giêsu, Phêrô nhanh miệng trả lời, “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Matt 16:16). Chuyện ông ba lần khẳng định với Đức Giêsu Phục Sinh về lòng mến yêu sắt son của ông đối với Ngài vào một buổi sáng bên bờ biển Tiberius (21:15-18). Nhưng có lẽ Phêrô nổi tiếng nhất với câu chuyện chối Chúa, bởi thế “Chối như Phêrô chối Chúa” đã trở thành một câu thành ngữ phổ thông của người Công Giáo Việt Nam, thường được dùng để ám chỉ một người nói dối, khăng khăng chối từ, không chấp nhận những hành động mình đã từng làm trong quá khứ.
Qua bốn bản Tin Mừng, Phêrô xuất hiện với một cá tính mạnh. Yêu rất nhiều, nhưng cũng khá nóng tính. Sau Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã báo trước với Phêrô,
— [Phêrô] đêm nay trước khi gà gáy hai lần, con sẽ chối ta ba lần (Máccô 14:30).
Với một người có lòng mến Thầy sắt son nhưng nóng tính như Phêrô, chuyện chối Chúa là một câu chuyện hoang đường, không thể nào xảy ra được. Bởi thế Phêrô phản ứng ngay,
— Dù có phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy (Máccô 14:31).
Nhưng cuối cùng ngay trong Vườn Cây Dầu, tất cả các môn đệ kể cả Phêrô đều bỏ chạy khi Đức Giêsu bị bắt. Nhưng Phêrô không bỏ chạy luôn. Trong khi Đức Giêsu đang bị luận án trước Tòa Công Nghị của người Do Thái, Phêrô quay lại (Máccô 14:54). Theo như thánh sử Máccô, một người đầy tớ của thầy Thượng Phẩm thấy Phêrô đang sưởi ấm trong sân của tòa án. Cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói,
— Cả ông nữa, ông cũng [đã từng] ở với Giêsu thành Nazareth.
Phêrô chối ngay,
— Tôi không biết, tôi không hiểu cô đang nói điều gì.
Biết tình thế nguy hiểm, Phêrô nhanh chân bỏ ra ngoài. Ngay lúc đó gà gáy lần thứ nhất. Một lần nữa, thấy Phêrô lảng vảng bên ngoài sân tòa án, người đầy tớ gái cất giọng tố Phêrô, tố cạn láng. Cô oang oang nói với những người đang hiện diện,
— Tên này cũng thuộc về bọn chúng.
Một lần nữa Phêrô lại chối. Một khoảng thời gian nặng nề chậm chạp trôi qua, một người khác trong đám đông lại cất tiếng,
— Đúng là ông thuộc về bọn chúng rồi, bởi vì ông là người xứ Galilê.
Lần này, Phêrô thề khá độc địa,
— Tôi thề là tôi không biết chi về người mà các ông đang nói (Máccô 14:71).
Ngay lúc đó gà gáy lần thứ hai. Phêrô òa lên khóc, khóc nức nở!
II. Phêrô, Giuđa, và Mô Hình Chấp Nhận
Phêrô và Giuđa có một điểm rất giống nhau, và một điểm rất khác nhau. Điểm giống nhau là cả hai đã bán đứng Thầy của mình. Giuđa bán Thầy với giá ba mươi đồng tiền bằng bạc cho các thầy Thượng Tế. Phêrô không ngượng miệng chối Thầy mình trước mặt những kẻ xa lạ, chẳng có quyền thế gì trong xã hội. Điểm khác nhau giữa hai người liên quan đến Khái Niệm Chấp Nhận. Mô hình của Khái Niệm CHẤP NHẬN này gồm bốn giai đoạn khác nhau.
(1). CHẤP NHẬN mình đã lầm lỗi,
(2). CHẤP NHẬN tha thứ/hòa giải với chính mình,
(3). CHẤP NHẬN Thiên Chúa đã tha thứ cho những lỗi lầm, và Ngài cũng đã hòa giải với mình,
(4). CHẤP NHẬN đóng lại một trang sách cũ, mở ra một trang sách mới.
A. Giuđa
Theo như Mátthêu 25:14-16, vào một ngày kia, người môn đệ đứng cuối cùng trong danh sách của nhóm Mười Hai đến gặp các thầy Thượng Tế thương lượng về giá bán thầy của mình, là Đức Giêsu. Giuđa được trao cho ba mươi đồng tiền bằng bạc. Cuối cùng trong Vườn Cây Dầu, Đức Giêsu bị bắt. Ngài bị mang ra trước Tòa Công Nghị của người Do Thái luận tội. Sáng sớm hôm sau họ mang Ngài ra gặp Quan Tổng Trấn Philatô.
Biết Thầy của mình sẽ bị kết án, Giuđa hối hận (Mátthêu 27:3-10). Anh ta quay lại gặp các thầy Thượng Tế và Kỳ Mục, trả lại ba mươi đồng tiền bạc. Người tông đồ thứ mười hai thú nhận,
— Tôi đã phạm tội nộp người vô tội.
Nhưng chuyện mua bán đã xong, Đức Giêsu đã bị bắt, các thầy Thượng Tế và Kỳ Mục quyết định không nhận lại số tiền. Giuđa quẳng trả lại ba mươi đồng tiền bạc vào Đền Thờ, rồi bỏ đi.
Qua câu nói, “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội”, Giuđa nói lên được một điều, đó là anh ta chấp nhận mình đã lỗi lầm. Trong Mô Hình Chấp Nhận, Giuđa đã vượt qua được giai đoạn thứ nhất, chấp nhận lỗi lầm của mình. Nhưng rất tiếc, anh ta lại không vượt qua được giai đoạn thứ hai cũng là giai đoạn quan trọng nhất của Mô Hình Chấp Nhận, đó là tha thứ cho chính mình. Nói một cách khác, người tông đồ thứ mười hai của Ðức Kitô không hòa giải nổi với chính mình. Bởi không tha thứ được cho mình, bởi không hòa giải được với chính mình, anh ta thất vọng. Cuối cùng anh ta tuyệt vọng. Cành cây bên lề đường là nơi người tuyệt vọng tìm tới. Một sợi dây treo lên. Một mạng người rớt xuống.
B. Phêrô
Phêrô thì ngược lại. Theo như thánh sử Máccô sau ba lần chối Thầy, Phêrô vỡ òa ra trong tiếng khóc. Những giọt nước mắt thống hối của Phêrô cũng chính là những giọt nước mắt của hòa giải của tha thứ cho lỗi lầm của mình. Mặc dầu trong cả bốn bản Tin Mừng, chúng ta không nghe thấy những lời nói xin lỗi của Phêrô với Thầy của mình, nhưng câu chuyện Phục Sinh là một bằng chứng cụ thể về tâm tình hòa giải của Phêrô với Ðức Kitô.
Theo như Luca 24:1-12, sáng hôm đó sau khi những người phụ nữ chạy về báo cho nhóm Mười Một và các môn đệ của Đức Giêsu biết tin về ngôi mộ trống, xác Ngài đã biến mất, mọi người không ai tin tưởng vào bản tin bất ngờ họ vừa được thông báo ngoại trừ Phêrô. Lập tức Phêrô chạy tới ngôi mộ. Nhưng rất tiếc Phêrô cũng không thấy gì khác hơn ngoài khăn tẩm liệm xác của Đức Giêsu. Một trong những lý do để giải thích tại sao Phêrô lại can đảm, một mình chạy ra ngoài ngôi mộ trống vào một buổi sáng sớm tinh sương của ngày hôm đó là vì Phêrô muốn gặp Đức Giêsu để xin lỗi. Trước bản tin bất ngờ được thông báo bởi những người phụ nữ, Phêrô tự dưng trở nên can đảm. Không sợ ai, không ngại phải đụng độ với quân lính La Mã đang canh gác ngôi mộ, Phêrô một mình chạy thẳng tới ngôi mộ, bởi Phêrô hy vọng sẽ gặp lại được Thầy của mình để mở miệng nói lời xin lỗi.
Theo như Gioan 21:1-14 vào một buổi sáng bên bờ biển Tiberius của Biển Hồ Galilê, trong khi các môn đệ của Đức Kitô Phục Sinh đang lênh đênh thả trôi thuyền đánh cá. Sau một đêm vất vả, một lần nữa họ lại không bắt được chú cá nào. Thật là bất ngờ Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra bên bờ biển, nhưng không ai trong nhóm các môn đệ nhận ra Ngài. Ðức Kitô truyền các ông thả lưới bên mạn phải của thuyền đánh cá. Và thế là cá lại ngập tràn tung tăng lưới. Cá ngập khoang thuyền. Cá vươn vẩy bạc óng ánh tia nắng mặt trời bình minh. Khắp nơi là cá. Mọi nơi là cá. Thấy vậy, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến nói với Phêrô,
— Thầy đó (Gioan 21:7).
Nghe chữ “Thầy đó”, Phêrô khoác vội vào người mảnh áo, nhảy xuống biển bơi vào bờ để gặp Đức Kitô Phục Sinh. Tương tự như câu chuyện được trình bày trong Luca 24:1-12, Phêrô lại có những hành động rất là vội vàng khi nghe người khác nói với ông về sự xuất hiện của Đức Giêsu Phục Sinh. Lần trước trong Luca 24:1-12 ông vội vàng chạy ra ngôi mộ trống một mình. Lần này ông vội vàng bơi vào bờ để gặp Đức Kitô Phục Sinh, trong khi đó các người môn đệ khác từ từ chèo thuyền vào bờ vì các ông không xa bờ biển lắm. Một trong những lý do để giải thích hiện tượng vội vàng này là bởi vì Phêrô muốn gặp Thầy để xin lỗi Ngài.
Sau khi gà gáy lần thứ hai, vào đêm hôm đó, trên sân Tòa Công Nghị của người Do Thái, Phêrô đã khóc. Đây là một trong những hành động chứng tỏ cho chúng ta biết người ngư phủ của thành phố Capernaum chấp nhận mình đã có những hành động lỗi lầm. Những hạt nước mắt đã rớt xuống ngay trên sân của tòa án, có lẽ, trước mặt người đầy tớ gái của Thầy Thượng Tế và người khách qua đường vừa mới chỉ mặt tố cáo Phêrô. Phêrô bỏ đi, có lẽ vẫn còn khóc. Nhưng Phêrô không bắt chước Giuđa. Người ngư phủ của Biển Hồ không đi kiếm một cành cây bên vệ đường, bởi ông tha thứ được cho chính mình; nói một cách khác, bởi vì người ngư phủ hòa giải được với mình. Bởi hòa giải được với mình, Phêrô quay về lại căn nhà, nơi các môn đệ của Đức Giêsu đang tụ họp trong lo sợ, và ông kiên nhẫn hy vọng đợi chờ ngày được gặp lại Đức Giêsu. Cuối cùng đúng như ông hy vọng, ông gặp, và ông nói ba lần với Đức Kitô Phục Sinh,
— Thầy biết con yêu mến Thầy (Gioan 21:15 -18).
III. Giống Nhau, Khác Nhau
Phêrô đã nhẹ nhàng vượt qua cả bốn giai đoạn của khái niệm chấp nhận. Ông chấp nhận mình lỗi lầm, bởi ông khóc. Ông hòa giải được với mình, bởi ông không đi tìm một sợi dây. Ông chấp nhận hòa giải với Đức Kitô Phục Sinh. Làm được ba điều trên, ông đã chấp nhận đóng lại một trang sách cũ, mở ra một trang sách mới. Trong những trang sách mới này, ông biến thành vị Giáo Hoàng đầu tiên của giáo hội.
Giuđa thì ngược lại. Tên của nhân vật này được người đời nhắc nhở tới với hàm ý mỉa mai. Trong những giáo xứ Việt Nam, sau thánh lễ Rửa Chân của ngày thứ Năm Tuần Thánh, bất hạnh cho người giáo dân nào trong số mười hai người đóng vai mười hai tông đồ bị chụp mũ Giuđa. Giuđa sẽ trở thành tên đệm của nhân vật này mỗi khi tên ông ta được người trong giáo xứ nhắc tới. Trong tất cả các nhân vật xuất hiện trong Kinh Thánh, tên của Giuđa được nhiều người nhắc nhở, nhưng rất tiếc không phải với hàm ý đẹp mà là chê bai, khinh rẻ, và coi thường. Ông bà có câu,
Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Trong trường hợp của Giuđa, câu ca dao này hoàn toàn đúng, bởi vì,
Trăm năm bia đá thì mòn,
“Hai ngàn năm” bia miệng vẫn còn trơ trơ.
□ LM Nguyễn Trung Tây
Đá Tảng Phêrô, Đá Mòn Giuđa
Phêrô và Giuđa thật sự ra có một điểm giống nhau, và một điểm khác nhau. Điểm khác nhau giữa Simon Phêrô và Giuđa Iscariốt, liên quan đến Khái Niệm Chấp Nhận, đã dẫn cuộc đời của hai người sang hai nhánh rẽ hoàn toàn khác nhau.
I. Simon Phêrô
Phêrô hay Đá là tên của Đức Giêsu đặt cho Simon (Gioan 1:42). Nguyên thủy Phêrô tên thật là Simon, anh của Anrê. Hai anh em là con của ông Gioan (Gioan 1:42) hay Jonah (Mátthêu 16:17). Hai người làm nghề đánh cá (Máccô 1:16 -20, Luca 5:1-11). Phêrô có lẽ sinh ra và lớn lên tại Galilê, do đó, Simon Phêrô nói tiếng Do Thái (Aramaic) giọng Bắc (Máccô 14:70, Mátthêu 26:73). Ông có nhà ở thành phố Capernaum, thành phố lớn của xứ Galilê (Máccô 1:29).
Trong nhóm Mười Hai người môn đệ của Đức Giêsu, không ai có thể từ chối được một sự thật là Phêrô là nhân vật nổi bật sáng chói. Người Kitô hữu ai cũng biết ít nhiều những câu chuyện liên quan đến Simon Phêrô. Thí dụ, chuyện Đức Giêsu truyền ông thả lưới chỗ nước sâu, và ông nói, “Vâng lời Thầy con xin thả lưới” (Luca 5:5). Chuyện ông muốn dựng ba căn lều trên núi Hermon, một cho Đức Giêsu, một cho Môisen, một cho tiên tri Êlia (Matt 17:4). Chuyện ông được trao chìa khóa Nước Trời bởi vì trong khi các người môn đệ khác còn đang lúng túng với câu hỏi về nguồn gốc của Đức Giêsu, Phêrô nhanh miệng trả lời, “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Matt 16:16). Chuyện ông ba lần khẳng định với Đức Giêsu Phục Sinh về lòng mến yêu sắt son của ông đối với Ngài vào một buổi sáng bên bờ biển Tiberius (21:15-18). Nhưng có lẽ Phêrô nổi tiếng nhất với câu chuyện chối Chúa, bởi thế “Chối như Phêrô chối Chúa” đã trở thành một câu thành ngữ phổ thông của người Công Giáo Việt Nam, thường được dùng để ám chỉ một người nói dối, khăng khăng chối từ, không chấp nhận những hành động mình đã từng làm trong quá khứ.
Qua bốn bản Tin Mừng, Phêrô xuất hiện với một cá tính mạnh. Yêu rất nhiều, nhưng cũng khá nóng tính. Sau Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã báo trước với Phêrô,
— [Phêrô] đêm nay trước khi gà gáy hai lần, con sẽ chối ta ba lần (Máccô 14:30).
Với một người có lòng mến Thầy sắt son nhưng nóng tính như Phêrô, chuyện chối Chúa là một câu chuyện hoang đường, không thể nào xảy ra được. Bởi thế Phêrô phản ứng ngay,
— Dù có phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy (Máccô 14:31).
Nhưng cuối cùng ngay trong Vườn Cây Dầu, tất cả các môn đệ kể cả Phêrô đều bỏ chạy khi Đức Giêsu bị bắt. Nhưng Phêrô không bỏ chạy luôn. Trong khi Đức Giêsu đang bị luận án trước Tòa Công Nghị của người Do Thái, Phêrô quay lại (Máccô 14:54). Theo như thánh sử Máccô, một người đầy tớ của thầy Thượng Phẩm thấy Phêrô đang sưởi ấm trong sân của tòa án. Cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói,
— Cả ông nữa, ông cũng [đã từng] ở với Giêsu thành Nazareth.
Phêrô chối ngay,
— Tôi không biết, tôi không hiểu cô đang nói điều gì.
Biết tình thế nguy hiểm, Phêrô nhanh chân bỏ ra ngoài. Ngay lúc đó gà gáy lần thứ nhất. Một lần nữa, thấy Phêrô lảng vảng bên ngoài sân tòa án, người đầy tớ gái cất giọng tố Phêrô, tố cạn láng. Cô oang oang nói với những người đang hiện diện,
— Tên này cũng thuộc về bọn chúng.
Một lần nữa Phêrô lại chối. Một khoảng thời gian nặng nề chậm chạp trôi qua, một người khác trong đám đông lại cất tiếng,
— Đúng là ông thuộc về bọn chúng rồi, bởi vì ông là người xứ Galilê.
Lần này, Phêrô thề khá độc địa,
— Tôi thề là tôi không biết chi về người mà các ông đang nói (Máccô 14:71).
Ngay lúc đó gà gáy lần thứ hai. Phêrô òa lên khóc, khóc nức nở!
II. Phêrô, Giuđa, và Mô Hình Chấp Nhận
Phêrô và Giuđa có một điểm rất giống nhau, và một điểm rất khác nhau. Điểm giống nhau là cả hai đã bán đứng Thầy của mình. Giuđa bán Thầy với giá ba mươi đồng tiền bằng bạc cho các thầy Thượng Tế. Phêrô không ngượng miệng chối Thầy mình trước mặt những kẻ xa lạ, chẳng có quyền thế gì trong xã hội. Điểm khác nhau giữa hai người liên quan đến Khái Niệm Chấp Nhận. Mô hình của Khái Niệm CHẤP NHẬN này gồm bốn giai đoạn khác nhau.
(1). CHẤP NHẬN mình đã lầm lỗi,
(2). CHẤP NHẬN tha thứ/hòa giải với chính mình,
(3). CHẤP NHẬN Thiên Chúa đã tha thứ cho những lỗi lầm, và Ngài cũng đã hòa giải với mình,
(4). CHẤP NHẬN đóng lại một trang sách cũ, mở ra một trang sách mới.
A. Giuđa
Theo như Mátthêu 25:14-16, vào một ngày kia, người môn đệ đứng cuối cùng trong danh sách của nhóm Mười Hai đến gặp các thầy Thượng Tế thương lượng về giá bán thầy của mình, là Đức Giêsu. Giuđa được trao cho ba mươi đồng tiền bằng bạc. Cuối cùng trong Vườn Cây Dầu, Đức Giêsu bị bắt. Ngài bị mang ra trước Tòa Công Nghị của người Do Thái luận tội. Sáng sớm hôm sau họ mang Ngài ra gặp Quan Tổng Trấn Philatô.
Biết Thầy của mình sẽ bị kết án, Giuđa hối hận (Mátthêu 27:3-10). Anh ta quay lại gặp các thầy Thượng Tế và Kỳ Mục, trả lại ba mươi đồng tiền bạc. Người tông đồ thứ mười hai thú nhận,
— Tôi đã phạm tội nộp người vô tội.
Nhưng chuyện mua bán đã xong, Đức Giêsu đã bị bắt, các thầy Thượng Tế và Kỳ Mục quyết định không nhận lại số tiền. Giuđa quẳng trả lại ba mươi đồng tiền bạc vào Đền Thờ, rồi bỏ đi.
Qua câu nói, “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội”, Giuđa nói lên được một điều, đó là anh ta chấp nhận mình đã lỗi lầm. Trong Mô Hình Chấp Nhận, Giuđa đã vượt qua được giai đoạn thứ nhất, chấp nhận lỗi lầm của mình. Nhưng rất tiếc, anh ta lại không vượt qua được giai đoạn thứ hai cũng là giai đoạn quan trọng nhất của Mô Hình Chấp Nhận, đó là tha thứ cho chính mình. Nói một cách khác, người tông đồ thứ mười hai của Ðức Kitô không hòa giải nổi với chính mình. Bởi không tha thứ được cho mình, bởi không hòa giải được với chính mình, anh ta thất vọng. Cuối cùng anh ta tuyệt vọng. Cành cây bên lề đường là nơi người tuyệt vọng tìm tới. Một sợi dây treo lên. Một mạng người rớt xuống.
B. Phêrô
Phêrô thì ngược lại. Theo như thánh sử Máccô sau ba lần chối Thầy, Phêrô vỡ òa ra trong tiếng khóc. Những giọt nước mắt thống hối của Phêrô cũng chính là những giọt nước mắt của hòa giải của tha thứ cho lỗi lầm của mình. Mặc dầu trong cả bốn bản Tin Mừng, chúng ta không nghe thấy những lời nói xin lỗi của Phêrô với Thầy của mình, nhưng câu chuyện Phục Sinh là một bằng chứng cụ thể về tâm tình hòa giải của Phêrô với Ðức Kitô.
Theo như Luca 24:1-12, sáng hôm đó sau khi những người phụ nữ chạy về báo cho nhóm Mười Một và các môn đệ của Đức Giêsu biết tin về ngôi mộ trống, xác Ngài đã biến mất, mọi người không ai tin tưởng vào bản tin bất ngờ họ vừa được thông báo ngoại trừ Phêrô. Lập tức Phêrô chạy tới ngôi mộ. Nhưng rất tiếc Phêrô cũng không thấy gì khác hơn ngoài khăn tẩm liệm xác của Đức Giêsu. Một trong những lý do để giải thích tại sao Phêrô lại can đảm, một mình chạy ra ngoài ngôi mộ trống vào một buổi sáng sớm tinh sương của ngày hôm đó là vì Phêrô muốn gặp Đức Giêsu để xin lỗi. Trước bản tin bất ngờ được thông báo bởi những người phụ nữ, Phêrô tự dưng trở nên can đảm. Không sợ ai, không ngại phải đụng độ với quân lính La Mã đang canh gác ngôi mộ, Phêrô một mình chạy thẳng tới ngôi mộ, bởi Phêrô hy vọng sẽ gặp lại được Thầy của mình để mở miệng nói lời xin lỗi.
Theo như Gioan 21:1-14 vào một buổi sáng bên bờ biển Tiberius của Biển Hồ Galilê, trong khi các môn đệ của Đức Kitô Phục Sinh đang lênh đênh thả trôi thuyền đánh cá. Sau một đêm vất vả, một lần nữa họ lại không bắt được chú cá nào. Thật là bất ngờ Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra bên bờ biển, nhưng không ai trong nhóm các môn đệ nhận ra Ngài. Ðức Kitô truyền các ông thả lưới bên mạn phải của thuyền đánh cá. Và thế là cá lại ngập tràn tung tăng lưới. Cá ngập khoang thuyền. Cá vươn vẩy bạc óng ánh tia nắng mặt trời bình minh. Khắp nơi là cá. Mọi nơi là cá. Thấy vậy, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến nói với Phêrô,
— Thầy đó (Gioan 21:7).
Nghe chữ “Thầy đó”, Phêrô khoác vội vào người mảnh áo, nhảy xuống biển bơi vào bờ để gặp Đức Kitô Phục Sinh. Tương tự như câu chuyện được trình bày trong Luca 24:1-12, Phêrô lại có những hành động rất là vội vàng khi nghe người khác nói với ông về sự xuất hiện của Đức Giêsu Phục Sinh. Lần trước trong Luca 24:1-12 ông vội vàng chạy ra ngôi mộ trống một mình. Lần này ông vội vàng bơi vào bờ để gặp Đức Kitô Phục Sinh, trong khi đó các người môn đệ khác từ từ chèo thuyền vào bờ vì các ông không xa bờ biển lắm. Một trong những lý do để giải thích hiện tượng vội vàng này là bởi vì Phêrô muốn gặp Thầy để xin lỗi Ngài.
Sau khi gà gáy lần thứ hai, vào đêm hôm đó, trên sân Tòa Công Nghị của người Do Thái, Phêrô đã khóc. Đây là một trong những hành động chứng tỏ cho chúng ta biết người ngư phủ của thành phố Capernaum chấp nhận mình đã có những hành động lỗi lầm. Những hạt nước mắt đã rớt xuống ngay trên sân của tòa án, có lẽ, trước mặt người đầy tớ gái của Thầy Thượng Tế và người khách qua đường vừa mới chỉ mặt tố cáo Phêrô. Phêrô bỏ đi, có lẽ vẫn còn khóc. Nhưng Phêrô không bắt chước Giuđa. Người ngư phủ của Biển Hồ không đi kiếm một cành cây bên vệ đường, bởi ông tha thứ được cho chính mình; nói một cách khác, bởi vì người ngư phủ hòa giải được với mình. Bởi hòa giải được với mình, Phêrô quay về lại căn nhà, nơi các môn đệ của Đức Giêsu đang tụ họp trong lo sợ, và ông kiên nhẫn hy vọng đợi chờ ngày được gặp lại Đức Giêsu. Cuối cùng đúng như ông hy vọng, ông gặp, và ông nói ba lần với Đức Kitô Phục Sinh,
— Thầy biết con yêu mến Thầy (Gioan 21:15 -18).
III. Giống Nhau, Khác Nhau
Phêrô đã nhẹ nhàng vượt qua cả bốn giai đoạn của khái niệm chấp nhận. Ông chấp nhận mình lỗi lầm, bởi ông khóc. Ông hòa giải được với mình, bởi ông không đi tìm một sợi dây. Ông chấp nhận hòa giải với Đức Kitô Phục Sinh. Làm được ba điều trên, ông đã chấp nhận đóng lại một trang sách cũ, mở ra một trang sách mới. Trong những trang sách mới này, ông biến thành vị Giáo Hoàng đầu tiên của giáo hội.
Giuđa thì ngược lại. Tên của nhân vật này được người đời nhắc nhở tới với hàm ý mỉa mai. Trong những giáo xứ Việt Nam, sau thánh lễ Rửa Chân của ngày thứ Năm Tuần Thánh, bất hạnh cho người giáo dân nào trong số mười hai người đóng vai mười hai tông đồ bị chụp mũ Giuđa. Giuđa sẽ trở thành tên đệm của nhân vật này mỗi khi tên ông ta được người trong giáo xứ nhắc tới. Trong tất cả các nhân vật xuất hiện trong Kinh Thánh, tên của Giuđa được nhiều người nhắc nhở, nhưng rất tiếc không phải với hàm ý đẹp mà là chê bai, khinh rẻ, và coi thường. Ông bà có câu,
Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Trong trường hợp của Giuđa, câu ca dao này hoàn toàn đúng, bởi vì,
Trăm năm bia đá thì mòn,
“Hai ngàn năm” bia miệng vẫn còn trơ trơ.
□ LM Nguyễn Trung Tây
Bỗng Dưng Trời Tối Lại !
Sơn Ca Linh
20:53 13/04/2022
Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối. (Ga 13,30)
Cứ tưởng hôm qua,
Không, đã hai ngàn năm lịch sử,
Chuyện Giuđa, anh môn đệ bán Thầy !
“Khôn ba năm, dại một giờ”, chính là đây,
Chắc không phải, vì “ba mươi đồng bạc” !
Được gọi, được chọn...
Và được yêu như những chàng trai khác,
Sau một đêm Thầy canh thức nguyện cầu.
Rồi suốt ba năm, đường vinh nhục có nhau,
Ra bắc, về nam, lên non, xuống biển...
Nghe rõ lời Thầy từng câu từng tiếng,
Bài “Tuyên ngôn trên núi”, bài “thuyết pháp dưới thuyền”...
Rồi những dụ ngôn: “con chiên lạc”, “người con hoang”...
Chưa đủ sao chuyện tình yêu con người và Thiên Chúa !
Rồi lại nữa, những dấu lạ nghìn năm một thuở,
Cuồng phong khuất phục, kẻ chết hoàn sinh,
Câm, điếc, què, mù, phong hủi, động kinh...
Một lời uy linh quỷ ma trốn chạy...
Mà không chỉ nói suông toàn những lời răn dạy,
Cùng dãi dầu mưa nắng, cùng chịu khó chịu thương,
Cùng đói mệt lang thang những lúc dài đường,
Tìm một chút bình yên trên thuyền để ngủ gà ngủ gật...
Nào chẳng vui,
Khi phân phát bánh thơm giữa chiều hoang mạc,
Hay sau những ngày “công tác” lần lượt trở về...
Làm sao quên,
Đêm bão bùng giông tố giữa biển Galilê,
Và những bữa no nê khi trở về Bêtania thôn dã...
Chuyện trần gian, lỡ quên đi, không lạ !
Ghét hay yêu, quyền tự quyết của mỗi con người.
Ngạc nhiên thay, cả những chuyện trên trời,
Tiếng vọng bên bờ Giođan,
Hay thần hiển trên núi Tabo... cũng đều xóa hết !
Phải chăng, khi Đức tin và Tình yêu đã chết,
Niềm Hy vọng trở về con đường sáng cũng tiêu vong !
Ngập tràn lối đi hay bao phủ cõi lòng,
Chỉ còn lại cô đơn và mênh mông bóng tối !
Nên chỉ thấy anh chị em mình là “quân tội lỗi”,
Thấy lãng phí khi “Maria đổ dầu xức chân Thầy”...
Thấy “đau thương thập giá” là ngõ cụt trắng tay,
Đường theo Thầy về Salem bây giờ sao đen tối !
Thôi đã quyết “sang ngang” thì phải vội,
Nệ hà chi “ba năm trọn nghĩa tình”,
“Duyên thầy trò, tình huynh đệ chi binh”,
Từ giã nhé, Bữa Tiệc Ly dẫu ấm tình duyên nợ !
Từ độ ấy, “bỗng dưng trời tối lại” !
Tối trong tim và tối mọi con đường !
Dấu tình yêu say đắm “một nụ hôn”…,
Xưa thắm thiết gần nhau,
Giờ lạnh ngắt nghìn sâu đêm vực thẳm !
“Đường Giuđa” xưa vẫn nối dài muôn dặm,
Giăng mắc chập chùng, trên vạn nẻo hôm nay !
Không chỉ ở Salem,
Mà những Bình Nhưỡng, Bắc Kinh, hay Mạc Tư Khoa…
Những nẻo đi mang tên “tình yêu phản bội” !
Vâng, khi con người mang trái tim lạc lối,
Khinh dể tình yêu, tham vọng điên cuồng …
“Chối Thầy phản bạn” quyết chọn “ba mươi đồng”,
Lập tức thôi: “bỗng dưng trời tối lại” !
Sơn Ca Linh (Thứ Tư Tuần Thánh 2022)
VietCatholic TV
Hồi kết thúc của câu chuyện đại nghịch bất đạo tại Ấn liên quan đến Phụng Vụ
VietCatholic Media
05:24 13/04/2022
1. Đức Thánh Cha sẽ là nhân vật chính trong chương trình truyền hình Ý ngày lễ Phục Sinh
Trong chương trình “Những khuôn mặt của Tin Mừng” được phát sóng trên kênh Rai 1 của Ý vào Chúa nhật Phục sinh 17 tháng Tư, Đức Thánh Cha sẽ là nhân vật chính, điểm lại 9 năm Giáo Hoàng của ngài.
Chương trình được hợp tác thực hiện bởi Bộ Truyền Thông của Toà Thánh, Đài Truyền hình Ý và Thư viện Vatican. Nội dung bao gồm những thu thập một số suy tư trong 9 năm làm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô, các bài giảng Thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta, các bài giáo lý trong buổi đọc kinh Truyền Tin, và trong các dịp khác. Ở các bài suy niệm này, những người làm chương trình chọn những suy tư của Đức Thánh Cha về một số khuôn mặt nổi bật của Tin Mừng, như người thu thuế Matthêu, người trộm lành, Mađalêna, người phụ nữ ngoại tình bị kết án ném đá…
Giọng kể của Đức Thánh Cha sẽ đồng hành với khán giả truyền hình bằng các khung cảnh Tin Mừng, được thể hiện bởi các nghệ sĩ vĩ đại trong các bức tranh, các tác phẩm điêu khắc, đa số trong đó thuộc về kho tàng vẻ đẹp đang được bảo tồn ở Vatican. Mỗi nhân vật gặp Chúa Giêsu sẽ được Đức Thánh Cha kể lại và được minh hoạ bằng những hình ảnh nổi tiếng. Sau đó, chương trình sẽ được tiếp tục với phần phỏng vấn dài Đức Thánh Cha dành cho các nhà làm chương trình, như là phần tóm của câu chuyện.
Trong phần giới thiệu chương trình “Những khuôn mặt của Tin Mừng”, Đức Thánh Cha nói: “Tôi tiếp tục khuyên bạn tiếp xúc hàng ngày với Tin Mừng, bởi vì nếu bạn không tiếp xúc thường xuyên với người thân yêu, bạn sẽ rất khó yêu thương họ… Tình yêu là sự gặp gỡ liên tục, nói chuyện thường xuyên, là lắng nghe và nhìn vào người mình yêu thương. Tình yêu là sự sẻ chia. Và còn một điều rất khó: nếu bạn không tiếp xúc với Tin Mừng, chắc chắc bạn sẽ chỉ tiếp xúc với các ý tưởng hoặc hệ tư tưởng về Tin Mừng”.
Nói về chương trình này, Ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Truyền thông của Toà Thánh giải thích: “Chương trình này như là một cơ hội gặp gỡ, suy tư và tái khám phá vẻ đẹp Tin Mừng trong một thời điểm bị đánh dấu bởi nhiều cái xấu. Kết quả là một sản phẩm độc nhất, một câu trả lời trước sự chuyên chế của thời gian, sự vội vàng, mau quên, văn hoá dửng dưng đang chi phối cuộc sống chúng ta và làm xói mòn sự thật”.
Theo Bộ trưởng Truyền thông, qua chương trình, khán giả truyền hình sẽ cảm nhận như được chính Đức Thánh Cha nắm lấy tay mỗi người và cùng bước đi trong một hành trình hướng tới sự thật của cuộc gặp gỡ.
Ở điểm này, ông Paolo Ruffini bày tỏ lòng biết ơn những lời giảng dạy của Đức Thánh Cha, Bảo tàng và Thư viện Vatican vì đã chia sẻ những hình ảnh và những kiệt tác vượt thời gian cho các tác giả, đạo diễn và các nhà làm chương trình. Đây thực sự sẽ là một món quà dành cho mọi người trong lễ Phục sinh.
2. Tổng giáo phận Ernakulam đồng nhất nghi thức cử hành thánh lễ
Các linh mục thuộc Tổng giáo phận Ernakulam-Angamaly bên Ấn Độ chấp nhận quyết định của bề trên về việc cử hành thánh lễ theo nghi thức đồng nhất, kể từ ngày 25 tháng Mười Hai năm nay.
Giáo phận Ernakulam thuộc Giáo Hội Công Giáo Syro-Malabar, nghi lễ Đông phương. Trong lãnh thổ giáo phận có Tòa Tổng giám mục Trưởng do Đức Hồng Y George Alencherry, nhưng việc cai quản giáo phận được ủy cho vị Đại diện là Đức Tổng Giám Mục Antony Kariyil.
Thượng Hội đồng của Giáo hội này đã quyết định thống nhất việc cử hành thánh lễ, gọi là Qurbana, theo đó trong phần thứ nhất của buổi lễ và phụng vụ lời Chúa, thì linh mục đối diện với giáo dân, rồi sau đó, trong phần chính của thánh lễ, với việc truyền phép và nghi thức Thánh Thể thì linh mục quay lên, theo cùng hướng nhìn của các tín hữu.
34 giáo phận khác trong Giáo hội Syro-Malabar đã tuân hành quyết định của Thượng đồng Giáo hội, nhưng 300 linh mục trong Giáo phận Ernakulam không muốn. Đức Tổng Giám Mục Đại diện Kariyil đã chuẩn chước cho các linh mục vấn đề này và tiếp tục cử hành thánh lễ hoàn toàn quay xuống giáo dân.
Ngày 11 tháng Ba vừa qua, đã xảy ra xìcăngđan lớn biểu tình phản đối hàng giáo phẩm khiến Đức Thánh Cha đã viết thư, ngày 25 tháng Ba vừa qua, kêu gọi các linh mục trong giáo phận này tuân hành các quyết định của bề trên.
Hôm mùng 06 tháng Tư vừa qua, Đức Tổng Giám Mục Kariyil thông báo chấm dứt việc chuẩn chước cho các linh mục trong giáo phận về việc cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ, kể từ ngày 25 tháng Mười Hai năm nay, tức là lễ Giáng Sinh.
Các linh mục trong giáo phận đã chấp nhận quyết định trên đây của bề trên và chấm dứt tình trạng bế tắc từ lâu nay tại Ernakulam, giáo phận lớn nhất của Giáo hội Syro-Malabar.
Tổng giáo phận Ernakulam đồng nhất nghi thức cử hành thánh lễ
3. Đức Thánh Cha Phanxicô và sự cần thiết của một Liên Hiệp Quốc hiệu quả hơn
Trong các bài phát biểu của mình trước Liên Hiệp Quốc, cũng như trong “Fratelli tutti,” Đức Thánh Cha Phanxicô luôn khuyến khích cải cách Liên Hiệp Quốc để mang lại tính hiệu quả cụ thể thực sự cho khái niệm “một gia đình các quốc gia”, đồng thời thúc giục những nỗ lực lớn hơn hướng tới chủ nghĩa đa phương.
“Trong cuộc chiến hiện nay ở Ukraine, chúng ta đang chứng kiến sự bất lực của các Tổ chức của Liên Hiệp Quốc.” Những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô tại buổi Tiếp kiến chung hôm thứ Tư 6 tháng Tư đã vang vọng rộng rãi. Tuy nhiên, không kém phần liên quan là những từ ngay trước câu nói này. Thật vậy, chúng là tiền đề của nhận xét cay đắng: “Sau Thế chiến II, các nỗ lực được thực hiện để đặt nền móng cho một kỷ nguyên hòa bình mới. Nhưng, thật không may - chúng ta không bao giờ học được, phải không? Câu chuyện cũ về sự cạnh tranh giữa các cường quốc vẫn tiếp diễn”.
Đức Thánh Cha Phanxicô tin tưởng mạnh mẽ vào vai trò của Liên Hiệp Quốc và giá trị của chủ nghĩa đa phương. Niềm tin rằng ngày nay thậm chí còn mạnh mẽ hơn trong “thời đại thay đổi” mà chúng ta đang sống trong quá trình gian khổ tìm kiếm một chân trời mới để cùng tồn tại cho nhân loại. Theo bước chân của những người tiền nhiệm - và đặc biệt là Đức Thánh Phaolô Đệ Lục, Đức Thánh Gioan Phaolô II, và Đức Bênêđíctô XVI - Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần có những cử chỉ và lời nói ủng hộ Liên Hiệp Quốc, khuyến khích một quá trình cải cách được yêu cầu đặc biệt bởi những quốc gia, bởi những dân tộc, là những người chịu nhiều hậu quả nhất của sự bất lực mà Đức Giáo Hoàng đã đề cập đến.
Phát biểu ngày 25 tháng 9 năm 2015, tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng “cải cách và thích ứng với thời đại luôn cần thiết để theo đuổi mục tiêu cuối cùng là cho tất cả các quốc gia, không có ngoại lệ, được chia sẻ và có một tầm ảnh hưởng công bằng trong quá trình ra quyết định”. Do đó, ngay từ những năm đầu tiên của triều đại giáo hoàng, ngài đã nhấn mạnh chủ đề “nhu cầu công bằng hơn”, đặc biệt là trong trường hợp của những cơ quan có “năng lực điều hành hiệu quả, chẳng hạn như Hội đồng Bảo an, Cơ quan Tài chính và các nhóm hoặc các cơ chế được tạo ra đặc biệt để đối phó với các cuộc khủng hoảng kinh tế “. Và ngài kết thúc bài phát biểu của mình tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York bằng cách nhắc lại sự cần thiết của một Liên Hiệp Quốc được củng cố. Đức Thánh Cha nhận xét “Khuôn khổ luật pháp quốc tế đáng khen ngợi của Tổ chức Liên Hiệp Quốc”, “có thể là cam kết về một tương lai an toàn và hạnh phúc cho các thế hệ tương lai. Và điều đó sẽ xảy ra, nếu đại diện của các Quốc gia có thể gác lại các lợi ích đảng phái và ý thức hệ, và chân thành nỗ lực phục vụ lợi ích chung.” Đức Thánh Cha cũng nhắc lại những khái niệm này vào tháng 11 cùng năm trong chuyến thăm đến trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nairobi.
Trên cam kết chăm lo cho ngôi nhà chung của chúng ta, giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp quốc tế và phát triển kinh tế lấy con người và các dân tộc làm trung tâm, Đức Giáo Hoàng và Tòa thánh coi Liên Hiệp Quốc là diễn đàn quốc tế phù hợp nhất để tìm ra điểm hội tụ giữa các vấn đề khác nhau và các sở thích đa dạng.
Vào tháng 12 năm 2019, trong một thông điệp video chung, Đức Giáo Hoàng và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres nhắc lại rằng “sự tin tưởng vào đối thoại giữa các cá nhân và giữa các quốc gia, trong chủ nghĩa đa phương, vai trò của các tổ chức quốc tế và ngoại giao như một công cụ để đánh giá cao và sự hiểu biết, là điều không thể thiếu cho việc xây dựng một thế giới hòa bình. “
Vài tháng sau, đại dịch Covid-19 bùng phát, khiến việc đầu tư vào chủ nghĩa đa phương càng trở nên không thể thiếu, với nhận thức rằng tất cả nhân loại đều ở chung một con thuyền, Đức Thánh Cha nhận xét trong một thông điệp video vào ngày 25 tháng 9 năm 2020 tại Cuộc họp lần thứ 75 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, “đại dịch đã cho chúng ta thấy rằng chúng ta không thể sống thiếu nhau, hoặc tệ hơn là vẫn đọ sức với nhau. Liên Hiệp Quốc được thành lập để gắn kết các quốc gia lại với nhau, là cầu nối giữa các dân tộc “. Và trong những từ phù hợp với những gì ngài đã nói trong cuộc tiếp kiến chung hôm thứ Tư, ngài nói thêm rằng “thế giới đầy xung đột của chúng ta cần Liên Hiệp Quốc trở thành một hội thảo quốc tế hiệu quả hơn bao giờ hết vì hòa bình. Điều này có nghĩa là các thành viên của Hội đồng Bảo an, đặc biệt là các Thành viên Thường trực, phải hành động với sự thống nhất và quyết tâm cao hơn”.
Hơn thế nữa, việc cải tổ Liên Hiệp Quốc cũng tìm thấy một vị trí trong thông điệp Fratelli tutti. Đức Thánh Cha Phanxicô dành hẳn một đoạn văn, là đoạn 173, cho chủ đề này. Trước đó, Đức Gioan XXIII đã dành đoạn 75 của thông điệp Pacem in terris, nghĩa là Hòa bình Tại thế, cho Liên Hiệp Quốc. Đối với Đức Giáo Hoàng, một cuộc cải cách như vậy là cần thiết “để khái niệm gia đình các quốc gia có thể có được những chiếc răng thật.” Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng cần phải bảo đảm “nguyên tắc pháp luật không bị kiểm soát và không mệt mỏi nhờ đến thương lượng, hòa giải và trọng tài.”
Với tình cảm tương tự, Đức Thánh Cha đã phát biểu những lời hôm thứ Tư, ngài cũng cảnh báo rằng “cần phải ngăn Tổ chức này bị đặt ra ngoài pháp luật, vì các vấn đề và thiếu sót của Tổ chức có khả năng được giải quyết và phải được giải quyết chung.” Như vậy, Đức Giáo Hoàng dường như cho rằng Liên Hiệp Quốc không tồn tại, nếu các quốc gia không đoàn kết, thống nhất trong việc can đảm tìm kiếm con đường hiểu biết lẫn nhau. Cho dù đó là sự kết thúc của chiến tranh, bằng sáng chế về vắc-xin hay cuộc chiến chống lại sự nóng lên toàn cầu, mỗi người phải sẵn sàng “mất mát” một chút để tất cả cùng có lợi. Thách thức quan trọng nhất đang bị đe dọa là tương lai của nhân loại.
Source:Vatican News
Giao tranh với đặc vụ Nga, Ukraine tóm được bạn thân Putin. Belarus phơi bày tính cách của quân Nga
VietCatholic Media
06:35 13/04/2022
1. Bạn thân của Putin, người sẽ làm tổng thống Ukraine nếu Nga chiếm Kiev, đã bị bắt sau một cuộc giao tranh.
Cục trưởng Cục An ninh Ukraine, gọi tắt là SSU, Ivan Bakanov, đã thông báo về việc bắt giữ Viktor Medvedchuk, là người được tường trình rằng sẽ được Putin chỉ định làm tổng thống Ukraine nếu Nga chiếm được Kiev trong cuộc xâm lược vào ngày 24 tháng Hai vừa qua.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã lên tiếng hoan nghênh diễn biến này.
Viktor Volodymyrovych Medvedchuk, sinh ngày 7 tháng 8 năm 1954, là một luật sư, nhà tài phiệt kinh doanh và chính trị gia người Ukraine. Ông là chủ tịch của tổ chức chính trị thân Nga Ukraine Choice và là người phản đối mạnh nhất việc Ukraine gia nhập Liên minh Âu Châu.
Từ năm 1997 đến năm 2002 Medvedchuk là thành viên của quốc hội Ukraine. Medvedchuk phục vụ từ năm 2002 đến 2005 với tư cách là chánh văn phòng cho cựu tổng thống Ukraine Leonid Kuchma. Sau đó, ông vắng mặt trên chính trường quốc gia cho đến năm 2018 khi được bầu làm chủ tịch đảng đối lãp thân Nga. Trong cuộc bầu cử quốc hội Ukraine năm 2019, đảng này đã giành được 37 ghế.
Ngày 19 tháng 2 năm 2021, Hội đồng Quốc phòng và An ninh Quốc gia Ukraine đã cáo buộc Medvedchuk và vợ ông, Oksana Marchenko, tài trợ cho phiến quân ly khai trong vùng Donabs.
Ngày 11 tháng 5 năm 2021, Tổng Công tố Ukraine đã cáo buộc Medvedchuk tội phản quốc và mưu toan cướp bóc tài nguyên quốc gia ở Crimea. Việc quản thúc tại gia của Medvedchuk bắt đầu vào ngày 13 tháng 5 năm 2021. Cụ thể, tòa án đã quản thúc Medvedchuk trong hai vụ án hình sự - vì sản xuất dầu và khí đốt ở Biển Đen, cũng như hỗ trợ và tiếp tay cho các hoạt động của một tổ chức khủng bố thông qua việc mua bán than từ các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng tạm thời của Donbas.
Bốn ngày sau khi Nga xâm lược Ukraine, đặc vụ Nga giải thoát Medvedchuk vào ngày 28 tháng 2. Ông ta mặc quân phục Ukraine để ngụy trang và lẩn trốn tại Ukraine. Các nhà điều tra tin rằng Medvedchuk không có kế hoạch đào tẩu sang Nga vì vẫn vững tin rằng Nga cuối cùng sẽ chiếm được Kiev, và ông ta cần phải có sẵn ở đó để thành lập chính phủ chuyển tiếp. Ông ta bị bắt vào ngày thứ Ba 12 tháng Tư sau một cuộc giao tranh giữa các lực lượng an ninh Ukraine với đặc vụ Nga đang bảo vệ cho ông ta. Vẫn chưa rõ là các đặc vụ Nga có ai sống sót, có ai bị bắt hay, đã chạy thoát, hay đã chết hết trong cuộc giao tranh này.
Ở Ukraine, Medvedchuk được coi là đồng minh của Tổng thống Nga Vladimir Putin, người mà chính Medvedchuk gọi là “một người bạn thân thiết”. Một số nhà bình luận nước ngoài cũng gọi ông là đồng minh thân cận nhất của Putin ở Ukraine. Putin là cha đỡ đầu của con gái út của Medvedchuk.
Tạp chí Time xuất bản vào tháng 2 vừa qua, ngay trước cuộc xâm lược của Nga cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình bạn giữa Vladmir Putin và Viktor Medvedchuk, lãnh đạo của đảng Cương lĩnh đối lập Ukraine, một đảng chính trị thân Nga lớn nhất ở Ukraine.
Vladmir Putin và Viktor Medvedchuk cùng nhau đi nghỉ trên Biển Đen. Họ tiến hành kinh doanh với nhau.
“Mối quan hệ của chúng tôi đã phát triển hơn 20 năm,” Medvedchuk nói với tờ Time trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi vào mùa xuân năm ngoái ở Kiev.
Putin cũng nói như vậy về Medvedchuk. Là tiếng nói hàng đầu cho lợi ích của Nga ở Ukraine, đảng chính trị của Medvedchuk là lực lượng đối lập lớn nhất trong quốc hội, với hàng triệu người ủng hộ.
Cục trưởng Cục An ninh Ukraine Ivan Bakanov, đã cảm ơn các viên chức SSU đã tiến hành chiến dịch đặc biệt nhanh như chớp và nguy hiểm để bắt giữ Viktor Medvedchuk.
“Ông có thể là một chính trị gia thân Nga và làm việc cho quân xâm lược trong nhiều năm. Ông có thể trốn tránh công lý gần đây. Ông thậm chí có thể mặc quân phục Ukraine để ngụy trang... Nhưng liệu nó có giúp ông tránh bị trừng phạt không? Không có gì bảo vệ được ông! Những chiếc còng tay đang đợi ông. Và những kẻ phản bội Ukraine như ông!”
Ông Ivan Bakanov nhấn mạnh rằng những kẻ phản bội thân Nga và đặc vụ của cơ quan mật vụ Nga phải nhớ: “Tội ác của các ông không có thời hiệu. Và không có nơi nào khi chúng tôi không thể tìm thấy các ông!”
Bakanov cảm ơn các viên chức SSU, bao gồm các nhân viên phản gián và điều tra viên, những người đã chứng minh tính chuyên nghiệp của họ và tiến hành hoạt động đặc biệt phối hợp nhiều cơ quan, nguy hiểm và nhanh như chớp này để bắt giữ Medvedchuk theo chỉ thị của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky.
“Không một kẻ phản bội nào tránh được sự trừng phạt. Mọi kẻ phản bội sẽ bị truy tố theo mức độ đầy đủ của luật pháp Ukraine, đối với tất cả các tội ác hiện nay đã xảy ra, bao gồm cả các tội ác do các hành động cá nhân của họ gây ra”
“Một hoạt động đặc biệt đã được tiến hành nhờ Cơ quan An ninh Ukraine. Làm rất tốt! Thông tin chi tiết sẽ được công bố sau. Niềm tự hào cho Ukraine!” Tổng thống Volodymyr Zelensky nói.
2. Sự bần tiện của quân Nga: Lấy cắp cả quần áo của người Ukraine
Các báo cáo về hành vi trộm cắp tràn lan của binh lính Nga được hỗ trợ bởi việc phát hành các băng ghi hình và ghi âm
Tờ The Guardian số ra ngày thứ Hai 11 tháng Tư có bài nhan đề “‘They took our clothes’: Ukrainians returning to looted homes”, nghĩa là “Người Ukraine quay trở lại những ngôi nhà bị cướp phá của họ cho biết ‘Họ lấy quần áo của chúng tôi’”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh
Khi những người lính Nga rời làng Novyi Bykiv sau một tháng chiếm đóng, Natalia Samson trở về nhà và phát hiện ra chúng đã đánh cắp nước hoa, đồ trang sức, một số rượu, một chiếc xe scooter, một chiếc đệm mới và một bộ sưu tập tiền xu cũ của cô.
Vài ngày sau, cô mạo hiểm đến trường làng, nơi cô làm hiệu phó, và phát hiện ra người Nga đã lấy đi hầu hết các máy tính, máy chiếu và các thiết bị điện tử khác.
Trong văn phòng của hiệu trưởng, một chiếc kéo đã mở được phóng vào màn hình plasma đã bị bỏ lại, dường như nhằm bảo đảm rằng những gì không thể lấy trộm được sẽ bị phá hủy.
“Mọi người thấy họ đơn giản là chất tất cả mọi thứ lên xe tải Ural, mọi thứ họ có thể tó được,” Samson nói, lắc đầu không thể tin nổi. Hàng chục ngôi nhà trên đường phố chính của làng đã bị cướp phá, cũng như tất cả các cửa hàng. Những người dân làng khác cho biết bị mất máy giặt, thức ăn, máy tính xách tay và thậm chí cả ghế sofa.
Trong tuần qua, khi đưa tin từ nhiều nơi mà quân đội Nga đã chiếm đóng lãnh thổ Ukraine, tờ Guardian đã thu thập bằng chứng cho thấy hành vi cướp bóc của các lực lượng Nga không chỉ là trường hợp của một vài binh sĩ ngổ ngáo, mà là một phần có hệ thống trong hành vi quân sự của Nga xuyên suốt nhiều thị trấn và làng mạc.
Các báo cáo về nạn cướp bóc đã gây ra sự phẫn nộ lan rộng trong người dân Ukraine, cũng như nơi những người Nga phản đối chiến tranh.
“Những người chiến đấu như thế này không phải là quân đội chính quy, mà là những tên du đãng,” Vladimir Pastukhov, một nhà khoa học chính trị tự do người Nga, người phụ trách chuyên mục của Novaya Gazeta, viết. “Ngay cả trong quân đội Liên Xô và Đức Quốc xã, nạn cướp bóc vẫn bị chống lại nhiều nhất có thể, mặc dù không phải lúc nào cũng thành công. Trong quân đội Nga… đó là một hình thức lên giây cót tinh thần cho thuộc hạ”
Tại một căn hộ ở Irpin, một thị trấn bên ngoài Kiev từng bị quân Nga kiểm soát trong một phần hồi tháng trước, một gia đình trở về nhà và phát hiện ra rằng những người lính Nga đã từng sống ở đó.
Họ tìm thấy những chai rượu bỏ đi, giấy gói thức ăn và tàn thuốc nằm rải rác xung quanh căn hộ, những đống phân lớn chắn ngang nhà vệ sinh và những bức ảnh gia đình bị xé nát và vứt khắp nhà. Họ cũng thấy rằng rất nhiều thứ đã bị mất tích.
“Họ lấy đi tất cả quần áo - theo đúng nghĩa đen là tất cả mọi thứ, áo khoác nam và nữ, ủng, áo sơ mi, áo khoác, thậm chí cả váy và quần áo lót của tôi,” một người dân cho biết, người yêu cầu không sử dụng tên của gia đình, nhưng cung cấp các bức ảnh về thiệt hại.
Theo Hajun, một chương trình phóng sự điều tra của Belarus, chỉ từ thị trấn biên giới Mazyr của Belarus mà thôi đã có hơn 128 kiện hàng, nặng gần 3 tấn hàng hóa, đã được gửi đến Rubtsovsk trong đoạn video được quay vào ngày 2 tháng 4 vừa qua.
Rubtsovsk, nằm ở vùng Altai Krai phía nam nước Nga, là một thị trấn nghèo khét tiếng có tới 4 cơ sở giam giữ.
Dữ liệu về các bưu kiện được thu thập trong một đoạn video giám sát kéo dài 3 giờ cho thấy các binh sĩ Nga gói và nhét quần áo, TV, dụng cụ, thiết bị đánh cá, pin ô tô và các vật dụng gia đình khác vào các kiện hàng trước khi chúng được gửi đến tận Siberia hoặc thậm chí là tới tận các thị trấn của Nga sát Thái Bình Dương.
Trong đoạn video giám sát, những người lính mệt mỏi đùa giỡn với những khách hàng khác khi họ lê la trong văn phòng chật chội trong nhiều giờ, cười khi một người lính bước vào với chiếc xe điện tử cướp được để được đưa về Nga.
Hajun đã công bố dữ liệu của 16 binh sĩ Nga đã gửi bưu kiện về Nga vào ngày 2 tháng 4 từ các văn phòng của CDEK, một công ty chuyển phát nhanh của Nga hoạt động trên khắp Liên Xô cũ. Dòng chảy của hàng hóa bị cướp bóc, cũng như sự chú ý ngày càng tăng đến hoạt động cướp bóc của Nga ở Ukraine, đã khiến công ty bắt đầu yêu cầu hóa đơn bán hàng hoặc chi phiếu trả tiền từ một cửa hàng mới cho gửi hàng hóa ra nước ngoài.
Hajun xác định Evgeny Kovalenko là lính Nga vận chuyển hàng hóa nhiều nhất trong ngày hôm đó: 17 kiện hàng với tổng trọng lượng 440kg. Theo Hajun, trong đó bao gồm các dụng cụ, loa, bàn và lều.
Guardian đã cố gắng liên lạc với một số binh lính bị buộc tội cướp bóc, nhưng không thành công.
Nhà xã hội học người Nga Alexandra Arkhipova cho biết không chỉ tình trạng nghèo đói và thiếu thốn vật chất trong các binh lính Nga đã dẫn đến nạn cướp bóc lan rộng.
“Rất nhiều binh sĩ Nga cảm thấy cuộc chiến này hoàn toàn vô ích và vô nghĩa. Đó là một cuộc chiến phi lý và họ đang ở lại Ukraine với nguy cơ bị giết ngay lập tức… Vì vậy, họ nghĩ: 'Tôi sẽ lấy chiếc máy tính này vì con tôi cần một chiếc máy tính ở nhà.' Nó làm cho một tình huống vô nghĩa trở nên ít vô lý hơn và thực tế hơn,” cô nói.
Tuy nhiên, điều này không giải thích được sự tàn phá đã đi kèm với cướp bóc. Nhiều người đã tìm thấy nhà cửa hoặc cơ sở kinh doanh của họ bị vẽ bậy với những khẩu hiệu thân Nga. Tại thị trấn Trostianets, binh lính bôi phân lên tường của một cửa hàng thịt mà họ đã cướp phá. Nhiều ngôi nhà dường như đã bị cố ý đập phá.
Thông thường, nạn nhân là những người có cuộc sống khiêm tốn, những người giờ thấy mình chẳng còn gì.
Tại làng Staryi Bykiv, phía đông Kiev, gia đình Andrusha chủ yếu lo lắng về tung tích của con gái họ, Viktoria, người đã bị lính Nga bắt cóc vào ngày 26 tháng 3 vì tình nghi cung cấp cho chính quyền Ukraine tọa độ vị trí của Nga. Cô đã bị giam giữ trong một ngày với các tù nhân khác trước khi biến mất, và đã không được nhìn thấy kể từ đó.
Nhưng trong một sự xúc phạm khác, cha của cô, Mykola Andrusha, báo cáo rằng những người lính đã cướp của gia đình trong khi khám xét nhà của họ, lấy đi đồ điện tử và tiền mặt.
“Tôi không phải là người giàu có. Chúng tôi có khoảng 3,000 đô la và khoảng 60,000 hryvnia khoảng 1,600 bảng Anh. Nhưng đối với tôi, đó là một số tiền lớn. Chúng tôi muốn sửa nhà - tôi, vợ tôi và con gái tôi,” anh nói. Các binh sĩ cũng lấy máy tính xách tay và điện thoại di động của gia đình.
Xác nhận về nạn cướp bóc trên diện rộng được đưa ra trước đó qua âm thanh điện thoại, do tình báo Ukraine tiết lộ, trong đó cho thấy các binh sĩ Nga đang thảo luận với vợ của họ về những gì muốn ăn cắp trong khi làm nhiệm vụ. Tính xác thực của các vụ nghe lén không thể được xác nhận, nhưng các báo cáo từ các khu vực vừa d4 giải phóng đã mang đến sự tin cậy.
Một người vợ Nga nói với chồng mình trong một trong những cuộc điện thoại bị rò rỉ “Em cá với anh rằng tất cả mấy anh kia đều đã lấy thứ gì ở đó. Không phải chỉ có một mình anh làm chuyện này đâu.”
Người lính trả lời “Ừ. Ai cũng đều kè kè một chiếc túi bên mình”.
https://www.theguardian.com/world/2022/apr/11/ukrainian-homes-looted-by-russian-soldiers
3. Các lực lượng Nga đang tập trung vào khu vực Donbas, nhưng vẫn chưa thực hiện một cuộc tấn công nào.
Các quan chức Ngũ Giác Đài cho biết các lực lượng Nga đang tăng cường xung quanh Donbas, đặc biệt là gần thị trấn Izyum, nhưng vẫn chưa tiến hành một cuộc tấn công để giành quyền kiểm soát khu vực tranh chấp ở miền đông Ukraine.
Người phát ngôn Ngũ Giác Đài John Kirby nói với các phóng viên: “Họ đang định vị lại, họ đang tái tập trung vào Donbas”.
Kirby cho biết người ta đã quan sát thấy một đoàn xe đang tiến tới Izyum nhưng “chúng tôi không rõ có bao nhiêu xe trong đoàn xe này và chính xác là họ đang mang theo những gì”.
Ông nói: “Nó dường như là sự kết hợp giữa các phương tiện chở người cũng như xe thiết giáp và có thể là một số loại pháo”.
Người phát ngôn Ngũ Giác Đài nhấn mạnh rằng quân đội Ukraine đã chiến đấu chống lại phe ly khai do Mạc Tư Khoa hậu thuẫn ở khu vực Donbas kể từ năm 2014.
“Người Ukraine đã 8 năm - và vẫn đang - chiến đấu vì điều đó,” ông nói. “Và họ không có dấu hiệu sẵn sàng từ bỏ lãnh thổ đó.”
Trước đó, một quan chức quốc phòng cấp cao của Hoa Kỳ cho biết hôm thứ Hai rằng Hoa Kỳ không tin rằng một “cuộc tấn công mới” ở khu vực Donbas đã bắt đầu.
“Chúng tôi vẫn đánh giá rằng trong khi chiến sự đang diễn ra, người Nga đang làm việc để củng cố khả năng của mình và bổ sung cho nó”.
4. Nga sẽ tấn công như thế nào ở đông Ukraine?
Xung đột ở Ukraine đã chuyển sang phía đông của đất nước, nơi các lực lượng Ukraine đang sẵn sàng chiến đấu và chuẩn bị tốt.
Các nhà phân tích tin rằng các đơn vị tốt nhất của Ukraine đang ở phía đông, và họ dựa vào các hệ thống chiến hào và các vị trí kiên cố khác.
Cho đến nay, quân đội Ukraine đã mạnh mẽ chống lại bước tiến của Nga, nhưng họ có thể bị áp đảo một một số quân Nga đông hơn rất nhiều đang tập kết ở một số khu vực.
Các trận chiến then chốt sẽ diễn ra ở đâu?
Các quan chức Nga nói rằng trọng tâm lực lượng của họ hiện là “giải phóng hoàn toàn” Donbas, nói chung là các khu vực phía đông Luhansk và Donetsk của Ukraine.
Địa hình ở phía đông sẽ đặt ra thách thức lớn cho quân Nga khi họ tấn công.
Với diện tích đất ít cây cối hơn phía bắc đất nước, các nhà phân tích cho rằng các khu vực rộng mở có thể có lợi cho quân phòng thủ Ukraine.
Theo Viện Nghiên cứu Chiến tranh (ISW), trận chiến ở Slovyansk có thể sẽ là trận đánh then chốt tiếp theo của cuộc chiến.
Nếu quân đội Nga tiến từ Izyum có thể chiếm thị trấn, thì họ có thể tiến về phía đông theo hướng Severodonetsk để bao vây một nhóm tương đối nhỏ các lực lượng Ukraine, hoặc tiến xa hơn về phía nam để bao vây một đội quân Ukraine lớn hơn.
Nếu Mariupol rơi vào tay người Nga, nhiều quân hơn cũng có thể sẵn sàng để tiến về phía bắc vào khu vực phía tây Donetsk.
Người Ukraine đang chuẩn bị như thế nào?
Chuẩn tướng Ben Barry, thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, cho biết các lực lượng Ukraine đã có nhiều năm để chuẩn bị phòng thủ và quân đội Nga có thể phải vật lộn vất vả mới có thể loại bỏ họ.
Ông nói: “Đó không chỉ là chiến hào kiểu Chiến tranh Thế giới thứ nhất ở phía Ukraine, họ cũng sẽ củng cố các thị trấn và làng mạc quan trọng mà họ muốn bảo vệ.”
“Các xe bọc thép và các thiết bị khác của Ukraine được bố trí trong các kè hoặc bờ đất để bảo vệ.”
Nhiều quân đội Ukraine ở phía đông có kinh nghiệm dày dặn - họ đã kìm chân quân ly khai Nga kể từ cuộc xung đột năm 2014.
Số lượng của họ cũng có thể được tăng cường, nếu các chỉ huy quân sự của Ukraine tái triển khai các đơn vị không còn cần thiết để bảo vệ Kiev sau khi Nga rút khỏi miền bắc.
Nga sẽ tấn công như thế nào?
Chuẩn tướng Barry cho biết Nga có khả năng sử dụng nhiều pháo để phá vỡ các tuyến phòng thủ kiên cố của Ukraine từ trên không trước khi đẩy mạnh tiến công trên bộ.
Pháo binh là loại vũ khí hạng nặng được thiết kế để bắn đạn xa hơn nhiều so với vũ khí nhỏ,
Tấn công quân đội Ukraine bằng bộ binh mà không có pháo hạng nặng bắn trước, có nguy cơ gây thương vong rất lớn cho Nga và làm tăng nguy cơ thất bại.
Nga có nhiều loại vũ khí để sử dụng. Đặc biệt, pháo tự hành mà Nga chiếm ưu thế sẽ là “một nhân tố rất quan trọng”, Chuẩn tướng Barry nói.
Pháo tự hành có hình dáng giống xe tăng, nhưng bắn đạn lên trên để rơi xuống mục tiêu chứ không bắn trực tiếp vào mục tiêu.
Nó được bảo vệ nghiêm ngặt hơn so với pháo kéo, và có thể tiến nhanh khi hệ thống phòng thủ của đối phương bị phá vỡ.
Tuy nhiên, những cơ hội để tiến lên phía trước có thể rất hiếm trước một đối thủ can đảm như Ukraine.
“Nó có thể là một chiến trường khá đẫm máu và tiêu hao”
Để tấn công các vị trí của Ukraine từ khoảng cách xa hơn, Nga đã trang bị nhiều hệ thống phóng hỏa tiễn và có khả năng sẽ sử dụng chúng rất nhiều.
Grads có 40 hỏa tiễn có thể bắn trong vòng 20 giây và đã gây ra thiệt hại thảm khốc cho dân thường ở một số khu vực, khiến các quận dân cư như Kharkiv, Mariupol và các thành phố khác trở thành đống đổ nát.
Các báo cáo cho thấy vũ khí nhiệt áp cũng đã được lực lượng Nga sử dụng ở nhiều vùng của Ukraine, bao gồm Mariupol ở Donetsk và Izyum ở Kharkiv.
Chúng có sức tàn phá khủng khiếp hơn nhiều so với các chất nổ thông thường có kích thước tương tự, làm phân tán hỗn hợp nhiên liệu như một đám mây, sau đó phát nổ, tạo ra một quả cầu lửa khổng lồ và làn sóng xung kích lớn.
Samuel Cranny-Evans, thuộc RSIU, cho biết chúng “được thiết kế chủ yếu cho chiến tranh đô thị” vì đám mây hỗn hợp nhiên liệu phân tán sau tác động ban đầu có thể xuyên qua các khoảng trống trong các tòa nhà trước khi phát nổ.
Nếu pháo binh Nga thành công trong việc phá hủy các tuyến phòng thủ chủ chốt của Ukraine, Nga có khả năng sẽ sử dụng bộ binh với vũ khí nhỏ và nhiều loại xe bánh xích, cùng với xe tăng có hỏa lực hạng nặng, để dẫn đầu các cuộc tiến công vượt địa hình.
Lực lượng không quân hỗ trợ có thể bao gồm máy bay ném bom chiến đấu và máy bay trực thăng tấn công.
Bộ trưởng Ngoại giao Ukraine, Dmytro Kuleba, nói rằng cuộc giao tranh “sẽ nhắc nhở bạn về Chiến tranh thế giới thứ hai”.
Ham tuyên truyền, Nga lộ bí mật, Ukraine phá hủy cả đoàn xe tăng. Trời giúp Ukraine tại Odessa
VietCatholic Media
15:46 13/04/2022
1. Ham tuyên truyền, người Nga chỉ chỗ cho Ukraine phá hủy một đoàn xe tăng
Tại khu vực Kharkiv, quân đội Ukraine đã phá hủy một đoàn xe tăng của Nga. Thông tấn xã Ukraine UkrInform cho rằng chiến công này xuất phát từ ‘chỉ dẫn’ của nhà báo tuyên truyền Nga Alexander Kots.
Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết hôm thứ Ba 12 tháng Tư, tại khu vực Kharkiv, trên hướng Izium, Lực lượng vũ trang Ukraine đã phá hủy một đoàn xe tăng của sư đoàn Kantemirov.
UkrInform cho biết đó là đoàn xe được ca ngợi trong một đoạn video do nhà tuyên truyền Nga Alexander Kots chia sẻ trên YouTube. Alexander Kots cao rao rằng đoàn xe tăng này sẽ thực hiện một bước quyết định.
Yuriy Butusov, Tổng biên tập của ấn phẩm trực tuyến Censor.Net của Ukraine, người hiện đang ở vùng Kharkiv, xác nhận điều này trên kênh YouTube của mình, khi anh đứng trên một chiếc xe tăng T-80 của Nga bị tịch thu.
Butusov nói:
“Ngày 12 tháng 4. Một đoàn xe tăng mới tinh của Sư đoàn xe tăng cận vệ 4 của Kantemirov, sư đoàn thường thấy trong các cuộc diễn binh của lực lượng vũ trang Nga, đã tiến vào miền đông Ukraine... Đoàn xe này đã bị phá hủy hoàn toàn, và chiếc T-80 này đã trở thành một chiến tích”.
Butusov lưu ý rằng gần đây đoàn xe tăng này, đã vượt qua sông Siverskyy Donets ở khu vực Izium “cho một bước đột phá quyết định,” được trình chiếu bởi nhà tuyên truyền Aleksandr Kots.
2. Quân phòng thủ Ukraine đẩy lùi sáu cuộc tấn công của kẻ thù ở khu vực miền Đông Ukraine
Hôm thứ Ba 12 tháng Tư, quân đội Ukraine đã đẩy lùi thành công sáu cuộc tấn công của kẻ thù trong khu vực Chiến dịch Lực lượng chung ở miền đông Ukraine.
Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết:
“Nhờ những hành động khéo léo và sự thuần thục của các quân nhân, đến nay đã có 6 đợt tấn công của địch bị đẩy lui thành công. Lực lượng phòng thủ của chúng ta đã gây tổn thất cho quân chiếm đóng của Nga”
Theo ghi nhận, hai xe và ba hệ thống pháo của địch đã bị phá hủy.
Ngoài ra, các đơn vị phòng không đã bắn rơi một máy bay trực thăng và hai máy bay không người lái của Nga.
Tính chung từ đầu cuộc xâm lược của Nga vào ngày 24 tháng Hai, cho đến ngày 12 tháng 4, Nga thiệt mất 19,600 quân nhân, 157 máy bay, 732 xe tăng, 1,946 thiết giáp.
3. Tổng thống Mỹ Joe Biden lần đầu tiên đề cập đến cuộc xâm lược của Nga ở Ukraine là 'tội ác diệt chủng'
Phát biểu tại Iowa trong một sự kiện về các bước mà chính quyền của ông đang thực hiện để kiềm chế giá nhiên liệu tăng cao do chiến tranh, ông Biden gọi cuộc xung đột, trong đó đã cho thấy Nga thực hiện các hành động tàn bạo đối với dân thường Ukraine, là một “tội ác diệt chủng”.
Ông Biden nói: “Ngân sách gia đình của các bạn, khả năng đổ đầy bình xăng của bạn, không có vấn đề nào như thế lại phải phụ thuộc vào việc liệu một nhà độc tài có tuyên chiến và thực hiện tội ác diệt chủng cách xa nửa vòng trái đất hay không”.
Ông Biden trước đây đã tuyên bố rằng ông không tin rằng các hành động của Nga là hành động diệt chủng, như các quan chức chính phủ Ukraine đã lập luận, mà chỉ giới hạn trong phạm vi “tội ác chiến tranh”.
4. Denisova kêu gọi Hồng Thập Tự quốc tế giúp thiết lập hành lang nhân đạo từ Izium
Ủy viên Nhân quyền của Quốc Hội Liudmyla Denisova đã kêu gọi Ủy ban Hồng Thập Tự Quốc tế thực hiện mọi biện pháp để giúp mở ra một hành lang nhân đạo cho việc di tản dân thường khỏi thành phố Izium.
Cô Denisova nói:
“Thành phố Izium, vùng Kharkiv, đang trên bờ vực sinh tồn. Theo các quan chức thành phố, hiện có khoảng 15,000 thường dân ở Izium. Do các hoạt động thù địch và chiếm đóng lãnh thổ, không có ánh sáng, không có nước, không có nhiệt, và không có thông tin liên lạc. Các cơ sở y tế không hoạt động, không có thuốc. Mọi người đang chết đói, bởi vì hiện tại không thể cung cấp thực phẩm cho họ và cũng không thể di tản họ ra khỏi thành phố,” Denisova nói.
Theo bà, Izium đã trở thành một trung tâm hậu cần cho quân đội Nga: quân đội đang được tích lũy ở đó để tiếp tục cuộc tấn công ở vùng Donetsk.
“Tôi kêu gọi Ủy ban Hồng Thập Tự Quốc tế thực hiện mọi biện pháp có thể để mở ra một hành lang nhân đạo an toàn cho việc di tản dân thường khỏi thành phố Izium,” Denisova nói.
5. Tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelenskiy, đã từ chối yêu cầu của Tổng thống Đức, Frank-Walter Steinmeier, đến thăm Kiev cùng với các chính trị gia Âu Châu khác vào hôm thứ Tư.
Tổng thống Steinmeier, cựu ngoại trưởng và là đồng minh của cựu thủ tướng Gerhard Schröder, đang có chuyến thăm cấp nhà nước tới Ba Lan, nơi ông đang thảo luận về tác động của cuộc chiến Nga ở Ukraine với tổng thống Ba Lan, Andrzej Duda.
Theo một báo cáo trên tờ Bild của Đức, Steinmeier đã lên kế hoạch đến Kiev với các tổng thống của Estonia, Latvia, Lithuania và Ba Lan vào hôm thứ Tư. Tuy nhiên, yêu cầu tổ chức cuộc gặp gỡ này của ông đã bị tổng thống Zelenskiy từ chối. Tờ Bild nêu lý do là đảng Dân chủ Xã hội Đức trước đây có mối quan hệ chặt chẽ với ngoại trưởng Nga, Sergei Lavrov, và Ông Steinmeier có một lịch sử dài ủng hộ việc tăng cường quan hệ kinh tế Nga-Đức.
“Tất cả chúng tôi ở đây đều biết mối quan hệ chặt chẽ của Steinmeier với Nga, được người ta gọi là công thức Steinmeier,” một nhà ngoại giao Ukraine nói với Bild.
Ông ấy hiện không được chào đón ở Kiev. Chúng ta sẽ xem liệu điều đó có thay đổi vào một ngày nào đó hay không.
“Công thức Steinmeier” là một đề xuất được đưa ra bởi Steinmeier, lúc bấy giờ là ngoại trưởng Đức vào năm 2016 với mục đích phá vỡ các bế tắc trong các cuộc đàm phán giữa Ukraine và Nga về hòa bình ở miền đông Ukraine. Ukraine xem “Công thức Steinmeier” là một sự bán đứng quốc gia này vì các lợi ích trong giao dịch giữa Đức và Nga.
Chiều thứ Ba, tổng thống Steinmeier dường như xác nhận rằng yêu cầu của ông về một cuộc gặp với Zelenskiy ở Kiev đã bị Ukraine từ chối. Tổng thống Đức cho biết ông muốn đến Kiev để “gửi đi một thông điệp mạnh mẽ về tình đoàn kết của Âu Châu với Ukraine”.
Steinmeier nói:
Tôi đã được chuẩn bị. Nhưng dường như - và tôi phải thừa nhận điều này - nó không được mong muốn ở Kiev.
6. Nhà hỏa táng di động của Nga thiêu xác hàng nghìn thường dân ở Mariupol
Ở Mariupol, các lò hỏa táng di động của Nga đang thiêu rụi thi thể của hàng nghìn thường dân nhằm phi tang tội ác chiến tranh.
Alexei Arestovich, một cố vấn Văn phòng Tổng thống Ukraine, cho biết
“Nga tuyên bố mục tiêu của họ ở Ukraine là 'bảo vệ người dân ở Donbas'. Hiện các nhà hỏa táng di động của Nga đang thiêu xác người dân ở Mariupol, thành phố lớn thứ hai trong khu vực. Những người sống sót đang chết vì đói. Bạn đang 'bảo vệ' họ khỏi điều gì? Phải chăng là khỏi cuộc sống?”
Hôm 12 tháng Tư, Vadym Boychenko, Thị trưởng Mariupol cho biết hơn 10,000 dân thường đã thiệt mạng tại thành phố kể từ khi bị Nga xâm lược.
7. Đoàn xe Nga đang di chuyển qua khu vực Rostov về phía Donbas của Ukraine
Một đoạn video, được chia sẻ trên mạng xã hội cho thấy một đoàn xe đông đảo các phương tiện quân sự của Nga, được định vị gần Matveev Kurgan, một khu định cư ở vùng Rostov của Nga.
“Các phương tiện được nhìn thấy quay mặt về phía Tây Bắc, theo hướng của vùng Donbas”
Vadym Denysenko, cố vấn của Bộ trưởng Nội vụ, hôm thứ Hai cũng cho biết một cuộc tấn công của Nga ở khu vực Donbas của Ukraine “đã bắt đầu”, và cảnh báo rằng Nga tiếp tục tăng cường lực lượng trong khu vực.
Tuần trước, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg cho biết, dựa trên dữ liệu tình báo, Nga đang tập hợp lại và bổ sung lực lượng, dự trữ nhân lực và thiết bị để thiết lập một cuộc tấn công mới rất lớn vào phía đông Ukraine, dự kiến sẽ được tung ra trong vòng vài tuần tới.
8. Trời giúp Ukraine: Bão biển cản trở cuộc tấn công của Nga vào Odesa từ phía biển Hắc Hải
Theo Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine, các tàu chiến của Nga không dám tiếp cận bờ biển Odesa vì họ nhận thức được sự sẵn sàng của các đơn vị phòng thủ ven biển của Lực lượng vũ trang, cũng như do thời tiết bão tố ở khu vực tây bắc của Biển Đen.
Do đó, rủi ro có thể xảy ra duy nhất là các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn từ khu vực Crimea bị Nga tạm thời chiếm đóng.
“Những kẻ xâm lược tiếp tục tìm cách cải thiện vị trí của chúng trên hướng Mykolayiv, nhưng quân đội của chúng ta đã ngăn chặn thành công các cuộc tấn công này.”
Tuy nhiên, Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cảnh báo rằng nguy cơ tấn công hỏa tiễn cả từ biển và từ Crimea vẫn còn nguyên.
Đại tá Nazarov lưu ý rằng người Nga coi thường các quy tắc của Luật Nhân đạo Quốc tế và tiếp tục sử dụng thường dân ở miền nam Ukraine làm lá chắn con người, cũng như đặt thiết bị ở sân sau và chiếm đóng các hộ gia đình một cách trắng trợn. Hơn nữa, họ sử dụng phương pháp thay trang phục dân sự để ngụy trang.
ĐHY Parolin nói về quan hệ Vatican - VN, TQ. Các Giám Mục thế giới cảnh báo tình trạng lầm lạc ở Đức
VietCatholic Media
17:18 13/04/2022
1. Đức Hồng Y Parolin hy vọng có thể thay đổi hiệp định với Trung Quốc
Ngày 01 tháng Mười năm nay là hết hạn hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Trung Quốc về việc bổ nhiệm giám mục và Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh hy vọng có thể thay đổi hiệp định này.
Hiệp định đã được gia hạn một lần thử nghiệm và cho đến nay đã có 6 giám mục được bổ nhiệm với sự thỏa thuận giữa Tòa Thánh và Nhà Nước Trung Quốc. Năm nay sẽ quyết định có gia hạn thêm hay không.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công Giáo Acistampa ở Ý, Đức Hồng Y Parolin cho biết nội dung hiệp định được bảo mật, và ngài không giải thích thêm, đồng thời nói rằng đại dịch đã làm cho cuộc đối thoại giữa Tòa Thánh và Trung Quốc bị gián đoàn và giờ đây, hai bên tìm cách mở lại các cuộc đối thoại một cách cụ thể, với những cuộc gặp gỡ mà Đức Hồng Y hy vọng sớm diễn ra, trong đó hai bên suy tư về những kết quả của hiệp định và nếu phải xác định rõ hơn, duyệt lại một số điểm.
Về tương quan với Việt Nam, Đức Hồng Y Parolin cho biết vẫn có những tiếp xúc và phái đoàn Tòa Thánh sắp đi Việt Nam, đồng thời nói thêm rằng: “Chúng tôi đang làm việc theo phương pháp đã được củng cố về những tương quan và đối thoại. Sau khi bổ nhiệm một đại diện Tòa Thánh không thường trú ở Việt Nam, nay phải tiến tới một bước tiến nữa, đó là có một vị đại diện Tòa Thánh thường trú tại Việt Nam.
Ký giả Andrea Gargliarducci, người phỏng vấn Đức Hồng Y Parolin, nhận xét rằng một trong các đặc điểm của chính sách ngoại giao của Tòa Thánh là không theo một phe chính trị nào, nhưng cổ võ đối thoại và dành ưu tiên cho thiện ích của dân chúng, hơn là những lợi lộc về địa lý chính trị.
Source:National Catholic Register
2. Đức Giáo Hoàng có thể sẽ gặp gỡ Kirill tại Giêrusalem
Vatican đang nghiên cứu khả năng kéo dài chuyến đi của Đức Thánh Cha Phanxicô tới Li Băng vào tháng 6 để ngài có thể bay đến Giêrusalem để gặp Thượng phụ Chính thống giáo Nga Kirill, người đã ủng hộ cuộc chiến của Nga ở Ukraine.
Nếu điều đó đó xảy ra, đây sẽ là cuộc gặp thứ hai của hai vị. Cuộc gặp gỡ đầu tiên tại Cuba vào năm 2016, là lần đầu tiên giữa một giáo hoàng và một nhà lãnh đạo của Giáo Hội Chính thống giáo Nga kể từ khi cuộc đại ly giáo chia rẽ Kitô giáo thành các nhánh Đông phương và Tây phương vào năm 1054.
Kirill, 75 tuổi, đã chúc lành cho cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine, một quan điểm đã chia rẽ Giáo hội Chính thống giáo trên toàn thế giới và gây ra một cuộc nổi loạn nội bộ mà các nhà thần học và học giả cho là chưa từng có.
Các nguồn tin giấu cho biết kế hoạch là vị giáo hoàng 85 tuổi, sẽ đến Li Băng trong hai ngày 12 và 13 tháng 6, trước khi bay đến Amman, Jordan vào sáng ngày 14 tháng 6.
Từ đó, Đức Thánh Cha sẽ đáp trực thăng đến Giêrusalem vào cùng ngày cho cuộc gặp với Kirill và sau đó quay trở lại Rôma từ Giêrusalem.
Một nguồn tin cho biết chuyến đi dường như là chắc chắn, trong khi nguồn tin khác nói rằng đó vẫn còn là một khả năng, tùy theo từ đây đến đó Kirill sẽ nói những gì và cuộc chiến tại Ukraine sẽ diễn tiến ra sao.
Trở về sau chuyến đi đến Malta vào tuần trước, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng ngài hy vọng sẽ gặp Kirill ở đâu đó trong vùng Trung Đông trong năm nay nhưng không nói ở đâu.
Hôm Chúa Nhật, Ông Kirill đã kêu gọi người Nga tập hợp xung quanh nhà độc tài Putin khi Mạc Tư Khoa theo đuổi cái mà họ gọi là “cuộc hành quân đặc biệt” ở Ukraine.
Giáo chủ Kirill trước đây đã đưa ra những tuyên bố bảo vệ các hành động của Mạc Tư Khoa ở Ukraine và coi cuộc chiến như một bức tường thành chống lại một nền văn hóa phương Tây tự do mà ông cho là suy đồi.
Hãng thông tấn Interfax dẫn lời ông Kirill nói trong một bài giảng ở Mạc Tư Khoa: “Xin Chúa giúp chúng ta đoàn kết trong thời điểm khó khăn này đối với Tổ quốc của chúng ta, và tập hợp xung quanh các nhà chức trách”.
Nga đã gửi hàng trăm nghìn quân vào Ukraine vào ngày 24 tháng 2 để làm suy giảm khả năng quân sự của nước láng giềng phía nam và loại bỏ những người mà nước này gọi là những người theo chủ nghĩa dân tộc nguy hiểm.
Đức Phanxicô đã bác bỏ thuật ngữ đó, gọi nó là một cuộc chiến.
Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, Đức Phanxicô chỉ đề cập đến Nga một cách rõ ràng trong các buổi cầu nguyện, chẳng hạn như trong một sự kiện toàn cầu đặc biệt vì hòa bình vào ngày 25 tháng 3. Nhưng ngài đã thể hiện rõ sự phản đối của mình đối với các hành động của Nga, sử dụng các từ ngữ xâm lược, gây hấn và tàn bạo.
Hôm Chúa Nhật, Đức Giáo Hoàng kêu gọi đình chiến trong lễ Phục sinh ở Ukraine, và trong một liên hệ rõ ràng với Nga, đã đặt câu hỏi về giá trị của việc cắm một lá cờ chiến thắng “trên một đống đổ nát”.
Trong một diễn biến gây sửng sốt cho nhiều người, Kirill đã gọi cuộc xâm lược của Nga tại Ukraine là một cuộc thánh thiện nhằm kìm hãm những kẻ chống Chúa.
Trước đó, Kirill đã cử hành một buổi lễ cầu nguyện cho binh lính Nga vào hôm Chúa Nhật 3 tháng Tư, trong đó ông kêu gọi họ bảo vệ đất nước của mình “vì chỉ có người Nga mới có thể” bảo vệ được nước Nga.
Tại Nhà thờ Chính của Lực lượng Vũ trang được trang hoàng lộng lẫy được khai trương cách đây hai năm ở Kubinka, ngoại ô Mạc Tư Khoa, Thượng phụ Kirill nói với một nhóm quân nhân và nữ quân nhân rằng Nga là một quốc gia “yêu chuộng hòa bình” và đã phải hứng chịu nhiều thiệt hại do chiến tranh.
“Chúng tôi tuyệt đối không gây chiến hay làm bất cứ điều gì có thể gây tổn hại cho người khác”, Thượng Phụ Kirill, một đồng minh thân cận của Tổng thống Vladimir Putin nói.
“Nhưng chúng ta đã được nuôi dưỡng trong suốt lịch sử của mình để yêu quê hương đất nước. Và chúng ta sẽ sẵn sàng bảo vệ nó, vì chỉ có người Nga mới có thể bảo vệ đất nước của mình”.
Sự ủng hộ của ông đối với cuộc can thiệp quân sự, trong đó hàng nghìn binh sĩ và dân thường Ukraine đã thiệt mạng, đã khiến một số người trong Giáo Hội Chính thống giáo trong nước cũng như các nhà thờ ở nước ngoài có liên hệ với Tòa Thượng phụ Moscow tức giận.
Lời tuyên bố của Thượng Phụ Kirill cho rằng Nga là quốc gia “yêu chuộng hòa bình” diễn ra trong bối cảnh thế giới bàng hoàng trước vụ thảm sát kinh hoàng ở thị trấn Bucha do quân Nga gây ra. Xác người nằm la liệt trên đường phố, tay bị trói giật ra sau và họ bị bắn đằng sau ót. Ít nhất 410 thi thể đã được tìm thấy. Nhiều người bị xô xuống hố chôn tập thể. Nhiều phụ nữ chết trần truồng chứng tỏ họ đã bị hiếp dâm trước khi bị giết chết.
Source:Reuters
3. Thư ngỏ Huynh đệ gửi Các Giám mục Anh em ở Đức
Hơn 70 giám mục từ khắp nơi trên thế giới đã công bố một “bức thư ngỏ trong tình huynh đệ” cho các giám mục của Đức cảnh báo rằng những thay đổi sâu rộng và liên tục đối với giáo huấn của Giáo hội được ủng hộ bởi cái được gọi là “Tiến Trình Công Nghị” có thể dẫn đến ly giáo.
Bức thư bày tỏ “mối quan tâm ngày càng tăng của chúng tôi về bản chất của toàn bộ Tiến Trình Công Nghị của Đức,” mà những người ký tên cho rằng đã dẫn đến sự lầm lạc và hoang mang về giáo huấn của Giáo hội và dường như tập trung nhiều hơn vào ý muốn của con người hơn là thánh ý của Thiên Chúa.
Trong thời đại truyền thông hoàn cầu nhanh chóng, các biến cố ở một quốc gia chắc chắn sẽ tác động đến đời sống giáo hội ở các nơi khác. Do đó, tiến trình “Con đường Thượng hội đồng”, hiện đang được người Công Giáo ở Đức theo đuổi, có ý nghĩa đối với Giáo hội trên toàn thế giới. Điều này bao gồm các Giáo hội địa phương mà chúng tôi chăn dắt và nhiều tín hữu Công Giáo mà chúng tôi chịu trách nhiệm.
Trong bối cảnh trên, các biến cố ở Đức buộc chúng tôi phải bày tỏ mối quan tâm ngày càng tăng của chúng tôi về bản chất của toàn bộ diễn trình “Con đường Thượng hội đồng” của Đức và nội dung của các tài liệu khác nhau của nó. Các nhận định của chúng tôi ở đây cố ý ngắn gọn. Chúng là lý do xác đáng, và chúng tôi đặc biệt khuyến khích, cho việc khai triển chi tiết hơn (chẳng hạn Thư ngỏ gửi các Giám mục Công Giáo trên thế giới của Đức Tổng Giám Mục Samuel Aquila) từ các giám mục riêng lẻ. Tuy nhiên, tính cấp thiết của những nhận xét chung của chúng tôi bắt nguồn từ thư gửi tín hữu Rôma 12, và đặc biệt là lời cảnh cáo của Thánh Phaolô: Đừng tuân theo thế gian này. Và sự nghiêm trọng của các nhận xét này bắt nguồn từ sự mơ hồ mà Con đường Thượng hội đồng đã và tiếp tục gây ra, và tiềm năng dẫn đến ly giáo trong đời sống Giáo hội chắc chắn sẽ xẩy ra.
Nhu cầu cải cách và đổi mới cũng lâu đời như chính Giáo hội. Ở gốc rễ của nó, sự thôi thúc này là đáng ngưỡng mộ và không bao giờ nên sợ hãi. Nhiều người trong số những người tham gia vào tiến trình Con đường Thượng hội đồng chắc chắn là những người có nhân cách trổi vượt. Tuy nhiên, lịch sử Kitô giáo luôn rải rác đó đây những cố gắng có chủ đích tốt nhưng đánh mất nền tảng của chúng trong Lời Chúa, trong cuộc gặp gỡ trung thành với Chúa Giêsu Kitô, trong sự lắng nghe Chúa Thánh Thần thực sự, và trong việc bắt ý chí ta phục tùng thánh ý Chúa Cha. Những cố gắng thất bại này đã làm ngơ sự hợp nhất, kinh nghiệm và sự khôn ngoan tích lũy của Tin mừng và của Giáo hội. Vì chúng không lưu ý đến lời của Chúa Giêsu, “Ngoài Thầy ra, các con chẳng làm được gì” (Ga 15: 5), nên chúng đã vô hiệu và làm hư hại cả sự hiệp nhất và sức sống Tin Mừng của Giáo Hội. Con đường Thượng hội đồng của Đức có nguy cơ dẫn đến chính ngõ cụt như thế.
Với tư cách là giám mục anh em của anh em, mối quan tâm của chúng tôi bao gồm nhưng không giới hạn ở những điều sau:
1. Không lắng nghe Chúa Thánh Thần và Tin mừng, các hành động của Con đường Thượng hội đồng làm suy yếu tính khả tín của thẩm quyền Giáo hội, bao gồm cả thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng Phanxicô; nhân học và luân lý tình dục Kitô giáo; và tính đáng tin cậy của Kinh thánh.
2. Trong khi chúng biểu lộ một lớp gỉ các ý tưởng và từ vựng tôn giáo, các tài liệu về Con đường Thượng hội đồng Đức dường như phần lớn được truyền cảm hứng không phải từ Kinh thánh và Truyền thống – những nguồn, đối với Công đồng Vatican II, là “một kho tàng thiêng liêng duy nhất của Lời Chúa” - nhưng từ việc phân tích xã hội học và chính trị đương thời, bao gồm cả phái tính, các ý thức hệ. Chúng nhìn Giáo hội và sứ mệnh của Giáo hội qua lăng kính thế gian hơn là qua lăng kính những sự thật được mạc khải trong Kinh thánh và Truyền thống có thẩm quyền của Giáo hội.
3. Nội dung của Con đường Thượng hội đồng dường như cũng diễn giải lại, và do đó làm giảm đi, ý nghĩa của tự do Kitô giáo. Đối với Kitô hữu, tự do là kiến thức, sự sẵn lòng và khả năng làm điều đúng đắn. Tự do không phải là “quyền tự chủ”. Tự do chân chính, như Giáo hội dạy, gắn liền với chân lý và được sắp xếp cho sự tốt lành và cuối cùng là hạnh phước. Lương tâm không tạo ra sự thật, lương tâm cũng không phải là vấn đề của sở thích cá nhân hay sự tự khẳng định. Lương tâm được đào tạo đúng đắn của Kitô hữu luôn tuân theo sự thật về bản tính con người và các qui tắc sống công chính do Thiên Chúa mạc khải và được Giáo hội của Chúa Kitô dạy dỗ. Chúa Giêsu là sự thật, Đấng giải thoát chúng ta (Ga 8).
4. Niềm vui Tin Mừng - điều thiết yếu đối với đời sống Kitô hữu, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nhấn mạnh - dường như hoàn toàn vắng bóng trong các cuộc thảo luận và văn bản của Con đường Thượng hội đồng, một thiếu sót đáng kể đối với nỗ lực tìm kiếm sự canh tân bản thân và giáo hội.
5. Diễn trình Con đường Thượng hội đồng, ở hầu hết mọi bước, là công việc của các chuyên gia và ủy ban: nặng tính bàn giấy, phê phán một cách đầy ám ảnh, và hướng nội. Do đó, bản thân nó phản ảnh một hình thức xơ cứng rộng rãi của Giáo hội và oái oăm thay, trở thành phản Tin mừng trong âm điệu. Trong hiệu quả của nó, Con đường Thượng hội đồng cho thấy sự phục tùng và vâng lời đối với thế gian và các ý thức hệ hơn là đối với Chúa Giêsu Kitô trong tư cách Chúa và là Đấng cứu thế.
6. Sự tập trung của Con đường Thượng hội đồng vào “quyền lực” trong Giáo hội gợi ý một tinh thần, trong căn bản, đi ngược lại bản chất thực sự của đời sống Kitô giáo. Cuối cùng, Giáo hội không chỉ đơn thuần là một “thể chế” mà là một cộng đồng hữu cơ; không bình đẳng nhưng có tính gia đình, bổ sung, và phẩm trật - một dân tộc được niêm phong với nhau bởi tình yêu của Chúa Giêsu Kitô và tình yêu dành cho nhau nhân danh Người. Việc cải cách các cơ cấu hoàn toàn không giống như việc cải tạo tâm hồn. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, như thấy trong Tin Mừng và trong cuộc đời của các thánh trong suốt lịch sử, đã thay đổi tâm hồn và trí óc, mang lại sự chữa lành, quay lưng lại với cuộc sống tội lỗi và bất hạnh, và chứng tỏ sức mạnh của Tin Mừng.
7. Vấn đề cuối cùng và cũng là vấn đề đau đầu nhất ngay lúc này với Con đường Thượng hội đồng Đức là một điều hết sức mỉa mai. Qua điển hình phá hoại của nó, nó có thể dẫn một số giám mục, và sẽ dẫn nhiều tín hữu giáo dân không tin tưởng vào chính ý niệm “tính thượng hội đồng”, do đó càng gây cản trở cho cuộc đối thoại cần thiết của Giáo Hội về việc hoàn thành sứ mệnh hoán cải và thánh hóa thế giới.
Trong thời kỳ mơ hồ hỗn độn này, điều cuối cùng mà cộng đồng đức tin của chúng ta cần cũng vẫn y nguyên. Khi anh em biện phân thánh ý của Chúa đối với Giáo hội ở Đức, anh em hãy yên tâm chúng tôi sẽ cầu nguyện cho anh em.